kết quả từ 1 tới 11 trên 11

Ðề tài: Chiều bên kia cái biết - Dimensions beyond the Known - OSHO

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Chiều bên kia cái biết - Dimensions beyond the Known - OSHO

    Chương: Tại sao tôi đã tới


    Thầy đã nói rằng nếu người ta nói về thân thể, Thầy sẽ
    nói rằng thân thể hướng tới cái chết còn nếu người ta
    nói về linh hồn, Thầy sẽ nói, "Bạn chưa hề sinh chút
    nào." Phật đã nói về linh hồn, "Nó chỉ như cái bong
    bóng mà bây giờ không còn nữa. Bản thân ta không có
    đó, cho nên ta sẽ đi đâu?" Thế thì cái gì có đó mà là
    bất tử và ai không sinh?

    Có biển, trên biển sóng tới rồi đi, nhưng biển vẫn còn
    như cũ. Sóng không tách rời khỏi biển, nhưng sóng không
    phải là biển. Sóng chỉ là hình dạng sinh ra trên biển, chỉ là
    hình dáng thành hình rồi chết đi. Sóng mà vẫn còn là sóng
    mãi mãi thì không thể được gọi là sóng. Từ 'sóng' có nghĩa là
    nó chết ngay khi nó được sinh ra. Cái mà từ đó sóng dậy lên
    thì bao giờ cũng có đó, nhưng cái dậy lên thì không có đó.
    Đây là điệu vũ của phù du trên ngực của vĩnh hằng. Biển
    không sinh; sóng đang lấy việc sinh ra. Biển chưa bao giờ
    chết; sóng bao giờ cũng chết. Khoảnh khắc sóng biết rằng nó
    là biển, nó vượt ra ngoài chuỗi sống và chết. Nhưng chừng
    nào sóng còn tin rằng nó là sóng, nó vẫn còn trong khả năng
    của sinh và chết.
    Cái mà hiện hữu, là bất sinh và bất diệt. Từ đâu mà việc
    sinh sẽ tới? Chẳng cái gì sinh ra từ cái trống rỗng. Cái chết
    xảy ra ở đâu? Chẳng cái gì mất đi trong cái trống rỗng. Cái
    mà hiện hữu là vĩnh hằng. Thời gian không tạo ra phân biệt
    cho nó; thời gian không ảnh hưởng tới nó. Sự tồn tại này
    không bên trong sự hiểu của chúng ta bởi vì các giác quan
    của chúng ta chỉ có thể hiểu hình và dạng. Các giác quan của
    chúng ta không thể hiểu thấu cái ở bên ngoài tên và hình.
    Điều thú vị là lưu ý rằng bạn phải đứng trên bờ biển rất
    thường xuyên và khi quay về sẽ nói rằng bạn đã thấy biển.
    Nhưng bạn chỉ thấy sóng, không thấy biển. Biển không thể
    được thấy. Điều bạn thấy là sóng. Các giác quan chỉ có thể
    thấy cái xuất hiện trên bề mặt. Cái mà ở bên trong thì vẫn
    còn ở bên ngoài việc hiểu thấu. Các giác quan thấy hình
    dạng bề ngoài; cái vô hình bên trong vượt quá sự hiểu của
    chúng.
    Thế giới của tên gọi và hình dạng được sinh ra chỉ bởi vì
    các giác quan. Nó không phải là mang tính tồn tại. Bất kì cái
    gì có tên và dạng đều được sinh ra và sẽ chết đi còn cái vượt
    ra ngoài tên và dạng là vĩnh hằng. Nó không được sinh ra, nó
    cũng không chết đi. Cho nên khi Phật nói rằng ông ấy được
    sinh ra như cái bong bóng, thì ông ấy đang nói tới hai khía
    cạnh của bong bóng. Bong bóng chứa cái gì? Nếu chúng ta
    đi vào trong bong bóng, chúng ta sẽ thấy rằng một khối
    lượng rất nhỏ của cùng không khí tràn ngập khắp mọi nơi vô
    hạn ở bên ngoài, đang được bao bọc bên trong màng nước
    mỏng này. Màng mỏng này đã giam cầm một phần không
    khí nhỏ, và phần không khí nhỏ đó đã trở thành bong bóng.
    Một cách tự nhiên, giống như mọi thứ, bong bóng cũng
    mở rộng. Khi mở rộng ra, nó vỡ tung và nổ ra. Thế thì không
    khí ở bên trong bong bóng hợp nhất với không khí bên ngoài
    và nước với nước. Nhưng cái đã đi vào sự tồn tại đồng thời
    là sự tồn tại của cầu vồng. Chẳng cái gì thay đổi trong không
    khí hay nước; chúng vẫn còn như chúng hiện thế. Nhưng
    đồng thời, một dạng đã sinh ra thì chết đi.
    Nếu chúng ta coi bản thân mình cũng như bong bóng, thế
    thì chúng ta cũng là những dạng lấy việc sinh và chết. Cái ở
    bên trong chúng ta bao giờ cũng đấy, nhưng chúng ta đồng
    nhất bản thân mình với bong bóng. Cho nên nếu tôi nhìn vào
    bạn từ quan điểm của thân thể, tôi sẽ nói rằng bạn hướng cái
    chết và đang chết dần. Từ khoảnh khắc bạn được sinh ra, bạn
    đã bắt đầu chết, và bạn đã không làm gì khác hơn ngoại trừ
    việc chết. Bong bóng có thể lấy bẩy khoảnh khắc để nổ,
    nhưng bạn lấy bẩy mươi năm để nổ.
    Trong luồng vô tận của thời gian, không có khác biệt
    giữa bẩy khoảnh khắc và bẩy mươi năm. Mọi khác biệt đều
    do tầm nhìn hạn hẹp của chúng ta. Nếu thời gian là vô tận
    không bắt đầu và không kết thúc, thế thì có gì khác biệt giữa
    bẩy khoảnh khắc và bẩy mươi năm? Nếu thời gian là một
    lượng xác định, chẳng hạn một trăm năm, thế thì bẩy khoảnh
    khắc sẽ rất nhỏ còn bẩy mươi năm sẽ là khoảng rất dài.
    Nhưng nếu không có giới hạn về cả hai đầu, nếu không có
    bắt đầu lẫn kết thúc, thế thì không có khác biệt giữa bẩy
    khoảnh khắc và bẩy mươi năm. Bao nhiêu khoảnh khắc để
    bong bóng nổ cũng không quan trọng.
    Ngay khi nó sinh ra, nó bắt đầu nổ rồi. Đó là lí do tại sao
    tôi mô tả thân thể như hướng cái chết. Với thân thể tôi ngụ ý
    cái biểu lộ qua sinh với tên và dạng. Bởi linh hồn tôi ngụ ý
    cái vẫn còn lại cho dù cái tên và dạng đã mất đi. Khi không
    có tên và dạng như vậy, thế thì nó vẫn hiện hữu. Bởi linh hồn
    tôi ngụ ý biển cả còn bởi thân thể tôi ngụ ý sóng. Cần phải
    hiểu những điều này một cách rõ ràng.
    Cái ở bên trong chúng ta chưa bao giờ chết, cho nên ở
    bên trong chúng ta cảm thấy rằng "Mình sẽ không bao giờ
    chết." Chúng ta thấy rằng hàng trăm nghìn người đang chết
    nhưng vậy mà chúng ta vẫn không bị thuyết phục rằng chúng
    ta cũng sẽ chết. Trong chiều sâu nhất của chúng ta không có
    tiếng vọng rằng "Mình nữa sẽ chết." Mọi người chết trước
    chính mắt chúng ta và vậy mà cảm giác bên trong về tính bất
    tử vẫn cứ còn đấy. Trong những khoảnh khắc sâu sắc hơn
    chúng ta bao giờ cũng nhận biết rằng "Mình sẽ chết." Chúng
    ta biết rằng những sự kiện chỉ ra cái giả tạo của niềm tin này
    và rằng các biến cố bên ngoài chỉ ra rằng không thể nào mà
    "Mình sẽ không chết." Lí lẽ nói rằng nếu mọi thứ khác đều
    phải chết, thế thì bạn cũng sẽ chết. Nhưng một tiếng nói nào
    đó bên trong vẫn cứ phục vụ cho mọi móc nối với lí lẽ và cứ
    nói, "Mình sẽ không chết."
    Đo là lí do tại sao chúng ta không tin rằng chúng ta sẽ
    chết. Đó là lí do tại sao chúng ta có khả năng sống trong làn
    sương mờ của cái chết; nếu không, như chúng ta thường
    xuyên bị bao quanh bởi cái chết, chúng ta sẽ chết ngay tức
    thì. Tại sao chúng ta lại tin tưởng và chắc chắn về việc sống
    thế? Niềm tin đó là do cái gì đó bên trong vẫn cứ bảo chúng
    ta rằng chúng ta sẽ không chết, bất kể chúng ta có thể nói
    nhiều thế nào, hay sự xuất hiện của một cái chết thực tại có
    thể nói, rằng chúng ta sẽ chết.
    Không người nào có thể quan niệm nổi về cái chết của
    riêng mình. Người đó không thể hình dung được rằng mình
    sẽ chết. Tuy nhiên người đó càng cố gắng hình dung nhiều
    đến mức mình đang chết, người đó vẫn thấy bản thân mình
    vẫn có đó. Cho dù người đó có tưởng tượng bản thân mình
    chết, người đó vẫn thấy rằng mình có đó đang thấy, rằng
    mình có đó đang đứng bên ngoài cái chết. Chúng ta không có
    khả năng đặt bản thân mình vào bên trong hàm của cái chết
    cho dù trong tưởng tượng, bởi vì trong khi tưởng tượng thì
    chúng ta cứ quan sát từ bên ngoài. Người tưởng tượng vẫn
    đứng bên ngoài, cho nên người đó sẽ không có khả năng
    chết.
    Tiếng nói này từ bên trong là tiếng nói của biển cả. Nó
    hỏi chúng ta, "Chết ở đâu?" Chết là điều không biết; vậy mà
    chúng ta vẫn sợ chết. Nỗi sợ này tới từ tiếng nói của thân thể,
    và có lẫn lộn giữa hai tiếng nói đó. Khoảnh khắc chúng ta
    đồng nhất bản thân mình với tiếng nói của thân thể, tâm linh
    chúng ta bắt đầu run rẩy với sự kiện là thân thể nhất định
    phải chết. Dù chúng ta có thể cố gắng đến đâu để bác bỏ điều
    này hay tìm kiếm sự giúp đỡ của khoa học hay phát minh ra
    hệ thống y tế hay bao quanh chúng ta bằng các bác sĩ trị liệu
    nổi danh, thân thể vẫn không một khoảnh khắc nào xác nhận
    rằng "Mình sẽ sống." Thân thể không có cảm giác về cái bất
    tử đó; nó biết rằng hàng ngày nó đang chết.
    Thân thể biết rằng nó là bong bóng, nhưng chúng ta biết
    rằng chúng ta không phải là bong bóng. Khoảnh khắc người
    ta đồng nhất mình với bong bóng, mọi căng thẳng của cuộc
    sống bắt đầu. Không người nào mang tính bất tử làm điều đó
    bên trong chúng ta mà lại đồng nhất bản thân mình với sóng
    bởi vì điều đó đưa tới khó khăn. Đồng nhất này là dốt nát;
    việc thoát khỏi đồng nhất này là tri thức. Chẳng cái gì thay
    đổi cả; mọi thứ vẫn còn lại như nó trước đây. Thân thể vẫn
    còn ở nơi nó hiện hữu; linh hồn cũng còn ở nơi nó hiện hữu.
    Chỉ ảo tưởng là biến mất. Thế thì chúng ta biết rằng khi thân
    thể sẽ chết đi thì chúng ta không phải sợ hãi, bởi vì không có
    nhu cầu phải sợ hãi. Thân thể nhất định sẽ chết. Sợ là hữu
    dụng khi có khả năng được cứu thoát. Nhưng trong tình
    huống không có khả năng nào được cứu, thật là vô dụng để
    mà trở nên sợ hãi.

  2. #2

    Mặc định

    Khi người lính bước ra chiến trường, khi người đó lần
    đầu tiên rời khỏi nhà mình, người đó tràn ngập với kinh
    hoàng. Trên chiến trường nữa người đó cũng kinh hoàng.
    Nhưng khi bom bắt đầu dội lên người đó, người đó lại trở
    nên bạo dạn, bởi vì thế thì mọi khả năng được cứu thoát đều
    đã bị phá huỷ. Một người như vậy thậm chí có thể chơi bài ở
    chỗ liên tục bị bom đạn. Và người đó là người bình thường;
    chẳng có gì đặc biệt về người đó cả. Nhưng đây là tình
    huống duy nhất. Trong tình huống này, nỗi kinh hoàng về cái
    chết là vô nghĩa. Cái chết sắp xảy ra đến mức không còn vấn
    đề về sự tồn tại.
    Trên chiến trường, có khả năng sống sót nào đó bởi vì
    một số người chết trong khi số khác lại sống sót, và do vậy
    nỗi kinh hoàng nào đó còn lại. Nhưng trên cánh đồng chết thì
    thậm chí một chút xíu khả năng đó cũng không có đó. Vào
    khoảnh khắc của cái chết, cái ảo tưởng rằng "Mình là thân
    thể" bỗng nhiên biến mất. Nỗi kinh hoàng cái chết biến mất
    bởi vì không có lối thoát. Thế thì sự kiện thân thể chết là
    điều chắc chắn, định mệnh. Đó là số mệnh của thân thể;
    không có cách nào cứu nó.
    Khoảnh khắc người ta nhận ra rằng cái chết là bản chất
    của thân thể, bỗng nhiên vấn đề trở thành rõ ràng rằng cái ở
    bên ngoài thân thể chưa bao giờ sinh và do vậy không có vấn
    đề về cái chết của nó. Vậy, cũng với linh hồn nữa, hoảng hốt
    tan biến, bởi vì không có lí do gì để mà sợ cái không thể nào
    chết được. Nỗi sợ nảy sinh là do thân thể và linh hồn trở
    thành bị đồng nhất với nhau. Nó nảy sinh bởi vì tiếng nói
    bên trong nói, "Mình sẽ không chết," còn tiếng nói bên ngoài
    lại nói, "Mình chắc chắn chết!" Những tiếng nói này trở nên
    lẫn lộn. Chúng ta không nhận biết rằng hai giai điệu khác
    nhau này quyện lẫn vào nhau, và chúng ta lắng nghe chúng
    cứ dường như chúng là giai điệu của cùng một nhạc cụ. Đó
    là sai lầm.
    Trong dốt nát của mình bao giờ cũng có nỗi hoảng sợ về
    cái chết, nhưng chúng ta cứ sống dường như không có cái
    chết. Mỗi khoảnh khắc người dốt nát lại sống cứ dường như
    không có cái chết, nhưng người đó vẫn nhận biết rằng cái
    chết có thể xảy ra vào bất kì lúc nào. Người đó sống ở hai
    mức khác nhau. Cuộc sống cho người đó đã chẻ ra thành hai
    phần: chu vi đã trở nên tách rời với trung tâm; sóng đã trở
    thành tách rời với biển; dạng đã trở thành tách rời với vô
    dạng. Tuy nhiên, người ta không thể chạy thoát khỏi cái chết.
    Điều ngạc nhiên là với việc biết của chúng ta, một thứ cứ tự
    nó xuất hiện rằng nó là ảo tưởng. Bởi việc biết của chúng ta,
    chỉ đau đớn hợp lí là dừng lại.
    Shankaracharya bao giờ cũng lấy thí dụ về chiếc dây
    thừng trông có vẻ như con rắn trong bóng tối. Nhưng thí dụ
    này là không chính xác bởi vì bằng việc tới gần bạn có thể
    biết rằng nó là dây thừng. Và một khi bạn biết rằng nó là dây
    thừng, dù bạn có ở xa nó đến bao nhiêu, nó vẫn trong không
    giống con rắn.
    Nhưng ảo giác của cuộc sống không giống thế. Ảo giác
    của cuộc sống giống như chiếc que bị dìm vào trong nước.
    Trong nước nó sẽ có vẻ như bị cong, nhưng khi bạn rút nó ra
    khỏi nước, nó lại thẳng. Nếu bạn lại dìm nó vào nước, nó lại
    trông thành cong. Thế rồi nếu bạn nhúng tay mình vào nước
    bạn sẽ thấy rằng que vẫn thẳng, nhưng nó trông vẫn có vẻ
    cong. Chỉ bởi việc biết của bạn rằng nó là thẳng, cái vẻ xiên
    của que không biến mất. Nhưng với việc biết của bạn, bạn
    không còn hành xử cứ dường như là trong ảo giác rằng nó bị
    cong nữa.
    Ảo tưởng của chúng ta về cuộc sống không giống như ảo
    tưởng về chiếc dây thừng trông giống như con rắn, nhưng
    giống như ảo tưởng về chiếc que thẳng có vẻ cong ở trong
    nước. Chúng ta biết rất rõ rằng cái que không cong, nhưng
    chỉ có vẻ thế thôi. Cái que thậm chí có vẻ cong ngay cả với
    các nhà khoa học vĩ đại nhất, người đã thực nghiệm và người
    biết rằng bằng việc nhúng cái que vào nước thì nó không trở
    thành cong. Vậy, cái dáng vẻ vặn vẹo này là do giác quan
    của chúng ta. Tri thức của chúng ta chẳng liên quan gì với nó
    cả.
    Do đó, khác biệt là thế này: rằng bạn sẽ không tin rằng
    cái que cong, mà nó chỉ có vẻ là cong thôi. Vấn đề được chia
    thành hai mức khác nhau. Tại mức của việc biết, cái que là
    thẳng. Tại mức của việc thấy, nó là cong. Không có ảo tưởng
    trên cả hai mức này.
    Tại mức độ của việc sống có thân thể là bên ngoài và tại
    mức độ sự tồn tại có atma - linh hồn. Với người biết, thì thế
    giới này không bị mất đi. Với người đó thế giới chỉ là hệt
    như nó hiện hữu cho bạn. Có lẽ, với người đó thế giới này
    còn rõ ràng hơn trong viễn cảnh và dáng vẻ của nó. Chẳng có
    gì bị mất đi cho người đó cả, và người đó không trong bất kì
    ảo tưởng nào. Người đó biết rằng hình dạng được sinh ra do
    giác quan và giống như chiếc que có vẻ cong trong nước.
    Bởi vì các tia sáng bị cong và thay đổi trong khi đi vào nước,
    nên cái que cũng có vẻ cong. Trong không trung, các tia sáng
    không bị cong, cho nên cái que có vẻ thẳng. Cái que không
    cong nhưng các tia sáng cong khi đi qua nước. Do đó, chúng
    ta thấy cái que như bị bẻ gập lại.
    Sự tồn tại vẫn như nó hiện hữu, nhưng trong khi đi qua
    các giác quan của chúng ta thì tia sáng của tri thức trở nên bị
    cong. Tia sáng của tri thức thay đổi do trung gian mà qua đó
    mọi thứ được biết. Nếu tôi đeo kính xanh, mọi thứ sẽ trông
    thành xanh. Khi tôi bỏ kính ra, tôi thấy rằng mọi thứ là trắng.
    Nếu tôi đeo kính vào, tôi thấy mọi thứ là xanh. Tôi biết rằng
    mọi thứ xuất hiện mầu xanh là do kính, cho nên tôi sẽ không
    trong ảo tưởng thêm nữa. Nhưng tôi có thể tiếp tục cứ đeo
    kính và mọi thứ sẽ tiếp tục xuất hiện là mầu xanh. Tuy nhiên,
    mặc dầu tôi sẽ biết rất rõ rằng linh hồn - bản thể - là bất tử,
    tri thức rằng thân thể là hướng cái chết cũng vẫn tiếp tục.
    Mặc cho hiểu biết của tôi rằng sự tồn tại của biển là vĩnh
    hằng, trò chơi của sóng vẫn cứ tiếp tục. Nhưng bây giờ tôi
    biết rằng nó xuất hiện như vậy là do kính. Kính là mắt của
    giác quan, còn điều bạn thấy qua chúng thì không nhất thiết
    là điều thực.
    Đó là lí do tại sao những phát biểu của những người như
    Phật, Mahavira hay Jesus được đưa ra từ hai bình diện khác
    nhau - một của linh hồn và một của thân thể. Khó khăn của
    chúng ta là ở chỗ chúng ta đang lẫn lộn cả hai bình diện bên
    trong mình, thế thì một cách tự nhiên chúng ta cũng lẫn lộn
    các phát biểu của họ. Đôi khi Phật nói cứ dường như là ông
    ấy là thân thể. Ông ấy nói, "Ananda, ta khát. Đem nước lại
    đây." Linh hồn không bao giờ khát. Chính thân thể mới cảm
    thấy khát. Bây giờ Ananda có thể nghĩ rằng thân thể không
    có đó chút nào, đấy chỉ là cái tên và hình dạng, chỉ là bong
    bóng, "Cho nên làm sao nó có thể trở nên khát được?" Một
    khi bạn đã biết rằng không có thân thể, thế thì cơn khát tới từ
    đâu?
    Thế rồi ngày hôm sau, khi Phật nói, "Ta không sinh chút
    nào cho nên ta sẽ không bao giờ chết," điều đó tạo ra khó
    khăn cho người nghe. Khó khăn của người nghe là ở chỗ
    người đó nghĩ rằng với tri thức thì sự tồn tại sẽ thay đổi.
    Thực tế, bằng việc biết, sự tồn tại không thay đổi; chỉ động
    thái của người ta mới thay đổi.
    Khi Phật nói rằng ông ấy khát, ông ấy chỉ nói rằng thân
    thể ông ấy khát - rằng thân thể này, cái là bong bóng của tên
    tuổi và hình dáng, là khát, và nếu nước không được trao thì
    nó sẽ sớm nổ tung. Nhưng khó khăn của người nghe là ở chỗ
    bởi vì người đó đang sống trong trạng thái lẫn lộn nên người
    đó không có khả năng phân biệt phát biểu nào đang tới bình
    diện nào, cho nên người đó lẫn lộn nghĩa của chúng nữa.
    Simone Wei đã viết một cuốn sách có tên Cấp bậc của ý
    nghĩa. Con người càng vĩ đại, người đó càng sống trên
    những mức độ vĩ đại khác nhau vào mỗi lúc. Người đó phải
    sống như thế bởi vì người đó phải nói từ mức độ của những
    người mà người đó gặp. Bằng không, mọi việc nói đều trở
    thành vô nghĩa. Nếu Phật nói với bạn từ mức độ cao nhất của
    ông ấy, điều đó sẽ vô dụng. Bạn sẽ coi ông ấy là điên. Điều
    thông thường xảy ra là những kiểu người này thường bị coi
    là điên. Lí do cho điều đó là ở chỗ bất kì điều gì họ nói đều
    có vẻ như đã được người điên nói ra. Do vậy, nếu họ nói từ
    mức độ của họ, họ sẽ bị qui là điên khùng.

  3. #3

    Mặc định

    Nếu họ phải nói từ mức độ của bạn, họ sẽ phải bước
    xuống. Họ sẽ phải bước xuống mức độ nơi bạn có thể hiểu
    họ. Thế thì họ sẽ không có vẻ là điên. Vậy họ sẽ phải nói từ
    nhiều mức độ hiện có trong số những người tới với họ.
    Người ta có thể nói rằng nhiều người mà Phật nói cho sẽ
    tới ông ấy dưới dạng tấm gương. Mọi tấm gương này đều tạo
    ra hình ảnh tách bạch riêng của họ về Phật, và hình ảnh là
    trung thành như bề mặt của bản thân tấm gương. Hình ảnh
    phải sánh đúng với gương. Vậy, một chiếc gương lồi sẽ mở
    rộng ảnh ra trong khi chiếc gương lõm làm ngắn nó lại. Nếu
    điều này mà không như vậy, thì gương sẽ không hài lòng, và
    thế thì gương sẽ phải bị đập ra hay thay đổi.
    Đó là lí do tại sao các phát biểu của những người như
    Phật được bắt gặp trên nhiều mức độ khác nhau. Đôi khi chỉ
    trong một phát biểu sẽ có nhiều mức. Điều này là vì khi một
    người như Phật bắt đầu nói, ông ấy làm như vậy từ mức độ
    riêng của mình và khi ông ấy dừng nói, ông ấy đã đi xuống
    mức độ nơi bạn đang hiện hữu. Nhiều lần trong một câu có
    hành trình dài - bởi vì khi ông ấy bắt đầu nói thì nó là từ mức
    nơi ông ấy đang ở. Ông ấy bắt đầu với những trông mong
    lớn lao về bạn; thế rồi dần dần ông ấy phải hạ bớt các trông
    mong của mình, và trong phát biểu cuối cùng của mình, ông
    ấy đạt tới nơi bạn đang hiện hữu.
    Mức của ông ấy và mức của bạn biểu thị cho hai phân
    chia sâu sắc, nhưng điều này không có nghĩa là hai mức này
    là rất xa nhau hay tách biệt hay khác nhau. Chúng giống như
    là mức của biển và sóng. Biển đôi khi có thể không có sóng,
    nhưng sóng không bao giờ có thể có mà không có biển. Cái
    vô hình dạng có thể có mà không có hình dạng, nhưng hình
    dạng không bao giờ có thể có mà không có cái vô hình dạng.
    Nhưng nếu chúng ta nhìn vào ngôn ngữ của mình, điều
    thú vị là thấy rằng nó đảo ngược lại. Theo ngôn ngữ chúng
    ta, trong từ nirakar, vô hình dạng, lại có từ sakar, hình dạng.
    Nhưng vô hình dạng lại không trong từ hình dạng. Trong
    ngôn ngữ, trong từ vô hình dạng, thì từ hình dạng sẽ phải có
    đó; nhưng nó sẽ có đó nếu từ hình dạng không bao hàm vô
    hình dạng. Ngôn ngữ do chúng ta tạo ra, nhưng trong sự tồn
    tại tình huống là đảo ngược lại. Trong sự tồn tại có thể có vô
    hình dạng mà không có hình dạng, nhưng không thể có hình
    dạng mà lại không có vô hình dạng.
    Tất cả các từ của chúng ta đều giống thế. Trong từ
    ahimsa, bất bạo lực, thì từ himsa, bạo lực là cần thiết. Nhưng
    trong từ bạo lực, thì bất bạo lực lại không cần thiết. Tuy
    nhiên, trong cuộc sống điều thú vị là để ý rằng để cho bạo
    lực tồn tại, thì bất bạo lực là cần thiết; nó là điều không tránh
    khỏi. Nhưng bất bạo lực có thể có đó mà không có bạo lực.
    Chúng ta tạo ra ngôn ngữ và chúng ta tạo ra nó theo nhu cầu
    của mình. Với chúng ta thì thế giới có thể hiện hữu mà
    không có Thượng đế, nhưng làm sao Thượng đế có thể hiện
    hữu mà không có thế giới?
    Đây không phải là hai điều khác nhau. Do đó, vũ trụ vĩ
    mô có thể tồn tại mà không có vũ trụ vi mô; không khó khăn
    gì cho biển tồn tại mà không có sóng. Nhưng làm sao sóng
    có thể hiện hữu mà không có biển được? Sóng là rất nhỏ, và
    nó là phụ thuộc vì chính bản thể nó lại tuỳ theo biển. Nếu
    biển bao quanh nâng nó lên, thì nó có đó. Biển chăm nom nó
    từ đủ mọi phía. Nếu biển thả nó ra, nó mất tiêu.
    Hai điều này là không tách rời, nhưng tôi phải nói rằng
    chúng là tách rời để cho sóng sẽ không bị ảo tưởng rằng nó
    là bất tử, vô hình dạng và vĩnh hằng. Nếu sóng nghĩ bản thân
    nó tách rời, thế thì có khả năng cho ảo tưởng này và các hậu
    quả của nó. Nhưng nếu sóng là một với biển, không có ảo
    tưởng. Nếu kinh nghiệm là kinh nghiệm về cái một, thế thì
    nó sẽ nói, "ta không có đó chút nào; chỉ có duy nhất biển."
    Theo cách này, Jesus cứ lặp lại mãi, "Ta không có đó, chỉ
    cha ta trên trời là hiện hữu."
    Cho nên chúng ta trong khó khăn. Hoặc là chúng ta
    muốn được chỉ cho Thượng đế ở trên thiên đường để cho
    chúng ta có thể tìm ra ngài là ai và ngài ở đâu, hay chúng ta
    sẽ bảo Jesus điên bởi vì chúng ta không hiểu điều ông ấy
    đang nói. Jesus đã nói, "Ta là biển, không phải là sóng,"
    nhưng chúng ta đã chẳng thấy gì khác ngoài sóng. Biển chỉ
    là một từ với chúng ta. Cái là sự tồn tại đích thực thì chỉ là
    một từ đối với chúng ta, còn cái chỉ là dáng vẻ chúng ta lại
    coi là chân lí.
    Linh hồn không được biết tới với chúng ta, nhưng thân
    thể thì hàng ngày được chúng ta nhìn thấy. Cái mà hàng ngày
    được thấy trở thành chân lí cho chúng ta. Đó là lí do tại sao
    tôi đã nói rằng thân thể là hướng cái chết và bản thân nó là
    cái chết. Linh hồn là bất tử, không hướng cái chết. Nhưng
    trên tính bất tử của nó lại có điệu vũ của cái chết trên thân
    thể.
    Chúng ta không có khó khăn trong việc hiểu biển và
    sóng bởi vì chúng ta đã không thấy bất kì sự thù nghịch nào
    giữa chúng. Nhưng cái bất tử và cái chết lại khó hiểu bởi vì
    chúng ta đã giả thiết chúng là kẻ thù; đó là niềm tin của
    chúng ta. Khi tôi nói về biển và sóng, sự tồn tại của chúng
    được gắn chặt chẽ với nhau, cho nên dường như không có
    đối lập nào. Nhưng cái bất tử và cái chết lại dường như là kẻ
    thù tuyệt đối - như các đối lập. Dường như chúng không bao
    giờ có thể là một. Nhưng chúng cũng là một đấy. Bạn càng
    biết về cái chết gần hơn và sâu hơn, bạn sẽ càng thấy rằng
    cái chết chẳng là gì khác hơn sự thay đổi.
    Sóng cũng thay đổi. Bạn càng tìm kiếm sâu vào trong cái
    bất tử, bạn sẽ càng thấy nó không là cái gì khác hơn cái vĩnh
    hằng. Sự tồn tại của bất kì cái gì có vẻ như trong đối lập
    trong thế giới này đều dựa trên cái đối lập của nó. Khó khăn
    của chúng ta là ở chỗ đối với chúng ta nó dường như đối lập.
    Chúng ta duy trì tách biệt giữa cái chết và cái bất tử - nhưng
    cái chết không thể tồn tại mà không có cái không chết. Để
    cái chết tồn tại, nó phải kiếm sự hỗ trợ của cái không chết.
    Chừng nào mà cái chết có đó, nó đều cần sự hỗ trợ của cái là
    bất tử.
    Ngay cả để dối trá tồn tại, nó chỉ có làm được như vậy
    với sự hỗ trợ của chân lí. Để dối trá tồn tại, nó cũng phải
    công bố rằng nó là chân lí. Chân lí không bao giờ công bố là
    chân lí, nhưng dối trá bao giờ cũng công bố rằng nó là chân
    lí. Nó không thể đi được một li mà không có công bố như
    vậy. Nó phải công bố om sòm, "Chú ý đây; ta đang tới đây.
    Ta là chân lí." Nó mang nhiều xác nhận với nó để chứng
    minh tại sao nó lại là chân lí.
    Chân lí không cần xác nhận; nó không cần sự hỗ trợ từ
    dối trá. Nếu chân lí lấy hỗ trợ của dối trá, nó sẽ gặp khó
    khăn. Nếu dối trá không lấy hỗ trợ của chân lí, thế thì dối trá
    sẽ gặp khó khăn.
    Với tính bất tử, hỗ trợ của cái chết là không cần thiết,
    nhưng chỉ trong mối quan hệ với khái niệm về bất tử mà sự
    xuất hiện của cái chết mới được hiểu. Sự tồn tại thuần khiết
    không có nhu cầu cho cái thay đổi được, nhưng cái đang thay
    đổi có thể được hiểu chỉ trong mối quan hệ với cái không
    đổi. Một điều là chắc chắn, đó là chúng ta hiểu chỉ cái thay
    đổi được - bởi vì đó là điều chúng là gì. Đó là lí do tại sao,
    bất kì khi nào chúng ta nghĩ về cái bất tử, chúng ta cố gắng
    hiểu nó chỉ thông qua cái có thể thay đổi được. Không có
    cách khác.
    Hoàn cảnh của chúng ta giống như người trong bóng tối
    cố gắng đoán ánh sáng là gì. Người đó không có cách khác.
    Bóng tối chỉ là một dạng rất lờ mờ của ánh sáng. Nó là hoàn
    cảnh của ánh sáng tối thiểu có thể có. Nơi không có ánh sáng
    chút nào, thì cũng không có điều như bóng tối. Ánh sáng có
    thể có hoặc có thể ở bên ngoài khả năng của mắt chúng ta để
    nắm bắt nó.
    Các giác quan của chúng ta nắm bắt mọi vật chỉ trong
    những giới hạn nào đó. Bằng không, các tia sáng cường độ
    cao thường xuyên qua chúng ta sẽ làm cho chúng ta mù ngay
    lập tức nếu chúng ta định nhìn vào chúng. Chừng nào mà
    chúng ta còn chưa biết tia x là gì, chúng ta cũng không biết
    rằng các tia của tia x có thể xuyên qua thân thể con người.
    Chúng ta không biết rằng bức ảnh về bộ xương bên trong
    mình có thể được chụp từ bên ngoài. Nếu không phải hôm
    nay, thì ngày mai chúng ta có thể có khả năng tìm ra một tia
    có thể xuyên thấu qua tế bào ban đầu của một đứa trẻ mới
    thụ thai trong bụng mẹ nó và có thể cho chúng ta thấy toàn
    bộ khoảng sống của đứa trẻ đó sẽ là gì sau việc sinh của nó.

  4. #4

    Mặc định

    Và có khả năng cho điều này xảy ra.
    Nhiều kiểu tia xuyên qua chúng ta, nhưng mắt chúng ta
    không thể bắt được chúng. Điều chúng ta gọi là bóng tối đơn
    giản là ánh sáng mà mắt chúng ta không có khả năng thấy.
    Bởi vì mắt chúng ta không thể thấy những tia sáng nào đó,
    nên với chúng ta chúng dường như không là gì nhiều hơn
    bóng tối. Điều chúng ta gọi là bóng tối thì chỉ là ánh sáng mà
    mắt chúng ta không thể thấy được. Do đó, bất kì suy diễn
    nào mà một người đứng trong bóng tối làm ra về ánh sáng
    đều rất có thể sai, vì bóng tối chỉ là một dạng, cái bóng của
    ánh sáng. Mặc dầu cái chết chỉ là sự thay đổi về hình dạng
    của cái bất tử, bất kì suy diễn nào được rút ra về cái bất tử từ
    một người đang quan sát cái chết thì cũng đều sai cả. Nếu
    chúng ta biết bất tử là gì, chỉ thế thì cái gì đó mới xảy ra;
    bằng không chẳng cái gì xảy ra cả.
    Mọi người bị cái chết bao quanh chỉ hiểu cái bất tử có
    nghĩa là chúng ta sẽ không chết. Nhưng họ sai. Người biết
    bất tử là gì thì biết rằng mình chưa bao giờ có đó chút nào.
    Sự khác biệt là rất sâu sắc và nền tảng. Một người đang thấy
    cái chết cứ nghĩ rằng nếu đúng là linh hồn là bất tử thì mình
    sẽ không chết. Suy nghĩ của người đó là hướng tương lai.
    Người đó đang sống trong tương lai và lo nghĩ về nó, cho
    nên hiểu biết của người đó sẽ là hướng tương lai. Nhưng
    người biết bất tử là gì thì sẽ nói, "Mình không có đó chút
    nào; mình chưa bao giờ sinh." Người đó sẽ hướng quá khứ.
    Bởi vì tất cả mọi tri thức khoa học đều bị bao quanh bởi
    cái chết, nên khoa học bao giờ cũng nói về tương lai. Và vì
    toàn bộ tôn giáo được bao quanh bởi cái bất tử, nên nó bao
    giờ cũng nói về quá khứ - về nguồn gốc, không về mục đích.
    Nó quan tâm tới cội nguồn cơ sở. Tôn giáo nói về thế giới
    này đã từ đâu tới, từ đâu chúng ta đã tới. Tôn giáo nói rằng
    nếu chúng ta biết hoàn toàn chúng ta đã tới từ đâu - cội
    nguồn của chúng ta và sự bắt đầu của chúng ta - thì chúng ta
    sẽ không lo nghĩ về nơi chúng ta sẽ đi, bởi vì chúng ta không
    thể đi bất kì đâu ngoài việc trở về cội nguồn đó. Nguồn gốc
    của chúng ta là định mệnh của chúng ta, việc tìm kiếm của
    chúng ta, mục đích của chúng ta.
    Suy nghĩ tôn giáo quan tâm tới việc tìm về nguồn gốc -
    với nguồn gốc là gì. Từ đâu mà thế giới này tới? Từ đâu mà
    sự tồn tại này, linh hồn này, thế giới này tới? Suy nghĩ tôn
    giáo là trong việc tìm về quá khứ, về nguồn gốc của chúng
    ta. Mọi khoa học đều là việc tìm hướng tương lai - về nơi
    chúng ta đi tới, chỗ chúng ta sẽ đạt tới, điều chúng ta sẽ trở
    thành, cái gì sẽ xảy ra ngày mai, mục đích là gì. Việc tìm của
    khoa học được tiến hành bởi những người hướng cái chết.
    Suy nghĩ tôn giáo được thực hiện bởi những người mà cái
    chết đã chấm dứt mang bất kì ý nghĩa gì.
    Điều thú vị là để ý rằng cái chết bao giờ cũng là trong
    tương lai. Cái chết chẳng liên quan gì tới quá khứ. Bất kì khi
    nào bạn đang nghĩ về cái chết, quá khứ cũng không có hậu
    quả gì, không quan trọng gì. Cái chết nằm ở trong ngày mai,
    nhưng nguồn gốc mà từ đó cuộc sống đã tới thì bao giờ cũng
    là hôm qua. Từ đâu cuộc sống đang tới, nơi mà dòng sông
    Hằng tuôn chảy, là ngọn nguồn, Gangtori. Nhưng nơi dòng
    sông Hằng sẽ làm trống rỗng bản thân nó là biển cả. Nó bắt
    đầu trong hôm qua và sẽ kết thúc trong ngày mai.
    Vậy một người bị bao quanh bởi cái chết bao giờ cũng
    rút ra kết luận được cái chết tô mầu. Điều là thực với bình
    diện cao hơn chỉ có thể là sự phỏng đoán theo phần của bình
    diện thấp hơn. Sự kiện của bình diện thứ hai chỉ nên được
    đánh giá bởi kinh nghiệm của bình diện thứ hai. Do đó, điều
    thú vị là để ý rằng người biết tới bình diện thứ hai thì một
    cách tự nhiên biết luôn cả bình diện thứ nhất nữa, nhưng
    người biết bình diện thứ nhất lại không nhất thiết biết tới
    bình diện thứ hai. Đó là lí do tại sao, nếu chúng ta mô tả
    Phật, Krishna và Christ như những người thông minh và trí
    huệ cao, thì đấy là do một lí do đặc biệt: họ biết tất cả các
    bình diện; chúng ta chỉ biết một bình diện. Đó là lí do tại sao
    điều họ nói nhiều nghĩa hơn. Và bất kì điều gì chúng ta biết,
    họ chắc chắn biết. Không có khó khăn trong điều này. Họ đã
    biết cái chết; họ cũng đã biết khổ, giận dữ và bạo hành. Kinh
    nghiệm của họ là kinh nghiệm về tất cả các bình diện.
    Tại các nước phương Tây mọi tri thức đều chỉ là sự tích
    luỹ trên cùng một bình diện. Bất kì điều gì Einstein có thể đã
    biết, khác biệt giữa tri thức của ông ấy và của chúng ta đơn
    giản chỉ là định lượng. Chẳng hạn, chúng ta chỉ có thể đo cái
    bàn này, nhưng ông ấy có thể đo toàn thế giới. Khác biệt này
    là ở số lượng hay mức độ. Không có khác biệt chất lượng.
    Điều này có nghĩa là ông ấy không biết cái gì đó khác với
    điều bạn có thể biết, nhưng điều ông ấy biết chỉ là sự mở
    rộng về mặt số lượng của điều có thể được biết tới đối với
    bạn. Bạn có thể biết ít, ông ấy biết nhiều hơn. Bạn chỉ có một
    đô la, ông ấy có thể có cả triệu. Nhưng một đô la của bạn và
    triệu đô la của ông ấy là không khác nhau về chất lượng. Cái
    ông ấy có không khác với cái bạn có.
    Khi chúng ta gọi Phật hay Mahavira là gyanis, người
    biết, điều chúng ta ngụ ý là khác. Có thể là trên bình diện của
    mình, chúng ta có thể biết nhiều hơn họ biết, nhưng việc
    chúng ta gọi họ là gyanis có nghĩa là họ biết cái gì đó ở bình
    diện khác mà về điều đó chúng ta không biết gì cả. Họ đã đi
    vào trong chiều hướng mới có khác biệt về chất.
    Nếu Mahavira và Einstein mà gặp nhau, thậm chí có thể
    xảy ra là Mahavira sẽ tỏ ra là người không biết về mọi thứ
    mà Einstein đã biết. Ông ấy có thể không có tích luỹ tri thức
    nhiều như Einstein. Mahavira có thể nói, "Tôi chỉ có thể đo
    được cái bàn này thôi; ông có khả năng đo cả trái đất. Ông
    thậm chí có khả năng biết khoảng cách từ trái đất tới mặt
    trăng hay các vì sao; tôi không thể làm được điều đó. Nếu tôi
    có thể đo được căn phòng này, thì thế cũng đủ cho tôi rồi.
    Những dẫu vậy, tôi vẫn nói rằng ông không hiểu biết nhiều
    hay không có tri thức nhiều bằng tôi bởi vì ông chỉ biết cái
    là lí lẽ thông thường."
    Nếu căn phòng này có thể được đo, các vì sao cũng có
    thể được đo. Không có siêu việt trong khi làm điều đó. Bên
    trong Einstein không có chuyển hoá hay thay đổi; ông ấy
    không phải là người khác. Ông ấy vẫn còn là con người cũ,
    mặc dầu ông ấy hiệu quả hơn ở nơi chúng ta không hiệu quả.
    Chỉ mỗi điều là ông ấy có tốc độ lớn hơn nhiều trên cùng
    một bình diện, trong khi chúng ta rất chậm. Einstein đã du
    hành xa trên cùng một bình diện nơi chúng ta đã du hành
    chút xíu. Einstein đã đi sâu vào chỗ người khác chỉ chạm vào
    ngoại vi, nhưng Einstein đã không di chuyển vào bình diện
    khác.
    Khi chúng ta gọi Phật hay Mahavira hay những người
    khác thuộc loại của họ là người biết, chúng ta ngụ ý rằng họ
    đã đi ra ngoài bình diện của cái chết tới chỗ họ đã biết cái bất
    tử, và điều họ nói cho chúng ta về cái này là vô giá. Chúng ta
    có thể hiểu nó theo cách này: nếu một người chưa bao giờ
    say rượu đưa ra phát biểu về say rượu, thế thì phát biểu này
    vô giá trị. Nếu một người đã uống rượu say mà đưa ra phát
    biểu về say rượu, thế thì điều đó cũng vô giá trị. Nhưng phát
    biểu của người đã say rượu nhưng lại vượt ra ngoài nó thì có
    giá trị.
    Người chưa say rượu chút nào là trẻ con. Phát biểu của
    người đó sẽ ngây thơ. Đó là lí do tại sao những người chưa
    bao giờ say bất kì rượu nào đã không có khả năng hiểu được
    những người uống rượu. Những người uống rượu nói,
    "Chúng tôi đã biết điều anh biết, nhưng bây giờ chúng tôi
    biết điều gì đó còn hơn thế." Nếu bạn uống rượu, thế thì bạn
    có thể nói điều gì đó về nó. Nhưng những người đã tự say
    hoàn toàn và rồi đã bỏ nó thì có điều gì đó hơn để nói. Người
    say rượu sẽ lắng nghe họ.
    Tại châu Âu và châu Mĩ, có những hội người nghiện
    rượu. Alcoholics Anonymous là một tổ chức lan rất rộng.
    Chỉ những người đã có lần nghiện rượu mới có thể trở thành
    thành viên của tổ chức này, và phong trào này đã bắt đầu để
    làm cho những người nghiện khác từ bỏ uống rượu. Điều
    đáng ngạc nhiên là ở chỗ những hội người nghiện rượu như
    vậy có thể làm cho người khác cũng nghiện rượu lại từ bỏ
    uống rượu rất nhanh chóng, bởi vì điều những người nghiện
    rượu đó nói là tới từ sự chín muồi của họ. Phát biểu của họ
    được những người uống rượu hiểu rõ hơn bởi vì điều họ nói
    là từ kinh nghiệm. Họ cũng đã say sưa và đi loạng choạng và
    ngã lăn ra lặp đi lặp lại, và họ đã trải qua tất cả các kinh
    nghiệm của kẻ say. Đó là lí do tại sao phát biểu của họ, tới
    từ kinh nghiệm, lại có giá trị.

  5. #5

    Mặc định

    Nhưng điều này tôi đã nói ra chỉ là cách đưa ra minh
    hoạ. Dù bạn có uống rượu hay không uống hay từ bỏ uống
    rượu, cũng chẳng có khác biệt gì trong bình diện bạn đang
    đứng. Bạn vẫn trên cùng mặt phẳng. Sự khác biệt chỉ là ở các
    bậc thang khác nhau trên cùng chiếc thang. Nhưng một khi
    bạn kinh nghiệm cái bất tử, có thay đổi về bình diện. Tác
    động lớn lao của các giáo huấn của Phật, Mahavira và Christ
    là do sự kiện là mặc dầu họ biết điều chúng ta thường biết,
    họ cũng biết cái gì đó bên ngoài cái mà chúng ta biết. Từ tri
    thức mới đó mà họ có, họ có thể nói rằng đã có sai lầm nền
    tảng trong việc biết của chúng ta.


    Trong khi thảo luận về Mahavira, Thầy đã nói rằng
    Mahavira đã đạt tới tự hiểu hoàn toàn trong lần sinh
    trước của mình và rằng ông ấy đã lấy lần sinh nữa do
    từ bi chỉ để diễn đạt và nói cho những người khác về
    điều ông ấy đã thấy và đã biết. Tương tự, thầy đã nói
    rằng Krishna đã hoàn toàn chứng ngộ từ chính việc
    sinh của ông ấy. Trước đây, khi tôi thảo luận với Thầy
    tại Jabalpur, tôi có trực giác rằng điều Thầy đã nói về
    Mahavira và Krishna cũng áp dụng được cho Thầy. Có
    đúng là Thầy cũng lấy việc sinh từ lòng từ bi không?
    Trong hoàn cảnh này, xin Thầy chiếu sáng lên những
    lần sinh trước của Thầy và những thành tựu của Thầy
    trong chúng sao cho điều đó có thể có ích cho những
    người tìm kiếm? Xin Thầy giải thích lỗ hổng thời gian
    giữa lần sinh cuối của Thầy và lần sinh này là gì?
    Trong mối liên quan này, nhiều điều phải được nhớ trong
    tâm trí. Trước hết, liên quan tới việc sinh của những người
    như Mahavira, điều đó nên được hiểu rằng khi việc đạt tới tự
    hiểu của họ được hoàn tất trong một kiếp đặc biệt, chính sự
    tự do hoàn toàn của họ là ở việc chọn liệu có lấy lần sinh nữa
    hay không. Chính sự kiện là nếu họ lấy việc sinh thành, việc
    sinh đó được lấy với tự do chọn lựa hoàn toàn.
    Không lần sinh nào trước việc đạt tới tự hiểu lại được lấy
    từ tự do cả. Người ta không có chọn lựa trong các lần sinh
    khác. Những lần sinh khác là do cưỡng bách của định mệnh
    của chúng ta - dường như chúng ta bị đẩy tới hay bị lôi kéo
    vào việc sinh bởi những hành động quá khứ của mình và bị
    lôi kéo tới bởi ham muốn của mình về tương lai. Vậy, sinh
    thông thường là một biến cố người ta không tự tự lo liệu
    được.
    Chỉ trong ý thức đầy đủ mới có cơ hội cho việc chọn lựa
    - chỉ khi người ta đã biết đầy đủ về cái ta. Vị trí đó được đạt
    tới khi không cái gì thêm nữa còn cần được biết tới. Một
    khoảnh khắc như vậy tới khi người ta có thể nói rằng "không
    có tương lai cho tôi bởi vì với tôi không có ham muốn.
    Không cái gì sẽ tạo ra bất kì bất hạnh cho tôi nếu tôi không
    có được nó." Tình huống này, nơi lần đầu tiên bạn có chọn
    lựa, xảy ra khi người ta đã đạt tới đỉnh cao nhất.
    Mối quan tâm lớn và một trong những bí ẩn sâu sắc nhất
    của cuộc sống là ở chỗ những người ham muốn được tự do
    thì không thể được tự do còn những người không có ham
    muốn chút nào lại trở nên tự do. Những người có ham muốn
    lấy việc sinh tại một nơi đặc biệt hay trong một gia đình đặc
    biệt thì không có chọn lựa ngoài việc làm như vậy. Nhưng
    những người có tự do có thể lấy việc sinh ở bất kì đâu mà họ
    chọn, nếu họ ham muốn như vậy, cho dù họ có thể không
    thực hiện việc chọn lựa của mình.
    Tự do chọn lựa có đó để lấy chỉ một lần sinh nữa - không
    phải bởi vì sẽ không có bất kì tự do nào để lấy lần sinh khác,
    mà bởi vì sau một lần sinh nữa thì ham muốn dùng tự do như
    vậy bị mất.
    Tự do còn lại mãi mãi. Trong kiếp sống này, nếu bạn đạt
    tới kinh nghiệm tối thượng, thế thì bạn sẽ có tự do đó.
    Nhưng điều thường xảy ra là ở chỗ sau khi đạt tới tự do này,
    ham muốn dùng nó không mất đi ngay. Và tình huống này có
    thể được sử dụng.
    Nhưng những người đã nhìn sâu vào vấn đề này đều đã
    cảm thấy rằng đây cũng là một kiểu tù túng. Đây là lí do tại
    sao người Jaina, người đã tìm kiếm sâu theo hướng này - hơn
    bất kì nỗ lực tôn giáo nào khác trên thế giới này - đã mô tả tù
    túng này là teerthankara gotrabandh, ham muốn là thầy giáo
    để hướng dẫn người khác hướng tới chứng ngộ. Đây là tù
    túng cuối cùng. Nó là tù túng với tự do đầy đủ - tù túng cuối
    cùng, chỉ với một ham muốn cuối cùng để dùng nó.
    Tuy nhiên đấy vẫn là một ham muốn. Đó là lí do tại sao
    có nhiều người đã đạt tới chứng ngộ, nhưng tất cả trong họ
    không thể trở thành teerthankara. Để là một teerthankara, để
    dùng được tự do này, cần phải có một chuỗi các hành động
    kiểu quá khứ đặc biệt. Một chuỗi dài về ham muốn là thầy
    giáo là cần thiết. Nếu gắn bó này để là thầy giáo mà tồn tại,
    thì nó sẽ cho cái đẩy cuối cùng. Thế thì bất kì cái gì được
    biết sẽ được nói ra, bất kì cái gì được kinh nghiệm sẽ được
    mô tả, và bất kì cái gì thu được sẽ được phân phối.
    Sau khi hiểu biết được đạt tới, không nhất thiết là mọi
    người phải lấy lần sinh khác. Do đó trong tình huống như
    vậy, trong hàng triệu người đã tự hiểu, chỉ một người mới
    chọn lấy thêm một lần sinh nữa. Đó là lí do tại sao người
    Jaina có một số trung bình cố định ít nhiều, rằng trong một
    srishti-kalpa, một thời kì sáng tạo, chỉ có thể có hai mươi
    bốn teerthankaras.
    Điều đó có tác dụng như bất kì số trung bình nào khác.
    Chẳng hạn, chúng ta nói rằng ngày nay, về trung bình, biết
    bao nhiêu tai nạn sẽ xảy ra trên đường phố Bombay. Bản ghi
    về các tai nạn của ba mươi năm qua được tính tới, và con số
    trung bình được thảo ra. Việc dự đoán trở thành ít nhiều
    chính xác. Tương tự, việc xảy ra này của hai mươi bốn
    teerthankara cũng là con số trung bình. Chính là từ kí ức của
    nhiều thời kì sáng tạo mà con số trung bình được thảo ra.
    Có những kí ức về nhiều thế giới đã từng được sinh ra và
    triệt tiêu của chúng, và trong những thời kì đó teerthankaras
    đã được sinh ra. Về trung bình, trong mỗi thời kì như thế, chỉ
    vào khoảng hai mươi tư người mới có khả năng duy trì lời
    cam kết lấy thêm một lần sinh nữa. Trong hoàn cảnh này,
    cũng nên nhớ rằng khi chúng ta nói về số tai nạn trên đường
    phố Bombay, chúng ta không nghĩ tới tai nạn trên đường phố
    London, hay tai nạn chỉ trên đường Marine Drive hay trên
    bất kì đường phố đặc biệt nào của Bombay.
    Tính toán của người Jaina dựa trên con đường của riêng
    họ. Trong tính toán đó, con đường của Jesus, Krishna hay
    Phật không được tính tới. Nhưng điều thú vị là để ý rằng khi
    người Hindu thử tính trên con đường của mình, thì việc đếm
    của họ về những người như vậy cũng là hai mươi bốn.
    Tương tự, Phật tử cũng đếm hai mươi bốn cho con đường
    của họ. Đó là lí do tại sao ý tưởng về hai mươi bốn hoá thân
    kẹt lại cho tất cả. Người Jaina đã có ý tưởng về hai mươi bốn
    teerthankara còn Phật tử có ý tưởng về hai mươi bốn vị phật.
    Trong những điều như vậy, Ki tô giáo và Mô ha mét giáo
    đã không đi sâu. Nhưng Mô ha mét giáo có nói rằng
    Mohammed không phải là người đầu tiên như vậy và rằng đã
    có những người như ông ấy trước đó. Bản thân Mohammed
    đã chỉ ra rằng bốn người đã tới trước ông ấy, nhưng việc
    nhận diện từ những chỉ dẫn đó vẫn còn mơ hồ và không đầy
    đủ. Con đường của Mohammed trong chuỗi trước ông ấy
    không thể được tìm thấy. Con đường chỉ được biết tới bắt
    đầu từ bản thân Mohammed. Không ai khác đã có khả năng
    đếm với cùng sự sáng tỏ mà Mahavira đã có trong việc đếm
    hai mươi bốn trong tín ngưỡng của ông ấy, bởi vì với
    Mahavira con đường đó đi tới kết thúc. Dễ dàng để sáng tỏ
    về các sự kiện quá khứ, nhưng Mohammed cũng phải nghĩ
    đến tương lai, và có khó khăn để rõ ràng.
    Jesus nữa đã cố gắng đếm người trước ông ấy, nhưng
    việc tính của ông ấy lại mơ hồ bởi vì con đường của Jesus
    cũng là mới, bắt đầu từ ông ấy. Phật cũng có thể đếm không
    rõ ràng về những người trước mình; ông ấy chỉ đưa ra những
    tham khảo gián tiếp theo hướng đó.
    Đó là lí do tại sao, trong việc tính về hai mươi bốn vị
    phật, không có ai trước Phật. Theo mối quan hệ này, người
    Jaina đã nghiên cứu sâu hơn và chân thực hơn. Họ đã giữ các
    bản ghi đầy đủ về tên và địa chỉ của hai mươi bốn người đó.
    Vậy, trên mọi con đường đều có hai mươi bốn cá nhân.
    Những cá nhân như thế chỉ lấy thêm một lần sinh sau khi
    chứng ngộ. Lần sinh đó, tôi đã nói với các bạn, chỉ là do lòng
    từ bi.

  6. #6

    Mặc định

    Trong thế giới này, không cái gì xảy ra mà không có
    nguyên nhân. Lí do cho việc lấy lần sinh nữa có thể chỉ là
    một trong hai điều: hoặc có ham muốn hoặc có từ bi. Không
    có lí do thứ ba. Tôi có thể tới nhà bạn hoặc để cho cái gì đó
    hoặc để lấy cái gì đó. Không thể có lí do thứ ba. Nếu tôi tới
    nhà bạn để lấy cái gì đó, đó là ham muốn. Nếu tôi tới để cho
    cái gì đó, đấy là từ bi. Không có lí do hay mục đích thứ ba để
    tới nhà bạn.
    Mọi việc sinh bắt nguồn từ ham muốn đều sẽ là phụ
    thuộc, bởi vì bạn có thể chẳng bao giờ độc lập trong điều
    kiện thèm muốn hay cầu xin. Làm sao người ăn xin có thể là
    độc lập được?
    Người ăn xin không thể nào độc lập được, bởi vì tất cả
    mọi tự do đều nằm trong người cho. Tự do nào có thể có đó
    cho người ăn xin? Nhưng người cho có thể tự do. Cho dù
    bạn không lấy, người cho vẫn có thể cho. Nhưng nếu bạn
    không cho, người ăn xin không thể lấy. Không nhất thiết là
    chúng ta lấy tất cả những thứ mà Mahavira và Phật đã cho
    chúng ta, nhưng chắc chắn là họ đã cho. Việc lấy là không
    chắc chắn và có thể bị né tránh, nhưng việc cho là chắc chắn
    và xác định. Ham muốn phân phối cái được nhận, được hiểu
    hay được biết là tự nhiên, nhưng đấy là ham muốn cuối cùng.
    Do đó, nó cũng được gọi là tù túng. Những người đã biết đều
    mô tả điều đó là tù túng của hành động. Điều đó nữa cũng là
    tù túng - tù túng cuối cùng. Cho nên tôi sẽ phải tới nhà bạn.
    Tôi có thể tới hoặc để lấy hoặc để cho, nhưng tôi nhất định
    sẽ tới nhà bạn.
    Cho dù tôi không định tới nhà bạn, điều đó cũng không
    khác biệt gì. Tôi sẽ phải tới nhà bạn. Nhưng có khó khăn lớn:
    vì mọi người thường tới nhà bạn chỉ để lấy cái gì đó còn bạn
    cũng tới nhà người khác chỉ để yêu cầu cái gì đó, nên tự
    nhiên sẽ khó hiểu ai đó tới cho bạn cái gì đó.
    Tôi sẽ nói cho bạn một điều rất khó hiểu thường xảy ra
    bởi vì điều này. Vì bạn không có khả năng hiểu việc cho
    nghĩa là gì, nên nhiều lần những cá nhân như thế đã phải giả
    vờ lấy cái gì đó từ bạn. Điều đó sẽ vượt ra ngoài việc hiểu
    của bạn là những người từ bi thế cũng phải xem xét liệu có
    xin bạn thức ăn nào đó không. Đó là lí do tại sao mọi bài nói
    tôn giáo của Mahavira chỉ được cho sau bữa ăn. Những bài
    nói như vậy chỉ là một loại tạ ơn. Nó là việc tạ ơn về thức ăn
    bạn đã cho.
    Nếu Mahavira phải tới xin thức ăn, bạn lập tức hiểu điều
    đó. Ông ấy sẽ nói với bạn vài lời để đáp lại, theo cách cám
    ơn, và sẽ ra đi. Bạn cảm thấy vừa lòng rằng mình đã cho hai
    lát bánh mì, một công việc quả thực rất hào phóng! Bạn sẽ
    không có khả năng hiểu rằng những con người từ bi như vậy
    cũng phải xem xét xem liệu bạn có khả năng nhận điều họ
    muốn cho hay không. Và nếu không có thu xếp nào với bạn
    để cho, bản ngã bạn sẽ thấy khó mà chấp nhận.
    Đó là lí do tại sao chẳng có lí do gì để Mahavira hay
    Phật phải đi ăn xin và phải đòi hỏi thức ăn từ bạn - bởi vì bạn
    sẽ không thể nào dung thứ được cho người chỉ tới cho bạn.
    Bạn dứt khoát sẽ trở thành kẻ thù của người đó. Bạn sẽ thấy
    thật là kì cục khi nghĩ rằng bạn trở thành kẻ thù với người
    chỉ tới cho bạn và không cho bạn bất kì cơ hội nào để cho
    lại. Nếu người đó không đòi hỏi cái gì từ bạn, rào chắn sẽ
    được tạo ra giữa người đó và bạn.
    Đó là lí do tại sao người như vậy nói chung hỏi xin bạn
    những thứ nhỏ bé. Đôi khi người đó hỏi xin bữa ăn, đôi khi
    về quần áo và đôi khi người đó nói người đó không có chỗ
    nghỉ. Người đó phải lấy cái gì đó từ bạn, và bạn trở nên
    không căng thẳng. Bạn đã trở nên bình đẳng với người đó, ở
    cùng mức độ, bởi vì bạn đã cho người đó cái gì đó nhiều
    hơn, còn người đó chẳng cho bạn cái gì ngoài đôi lời. Bạn đã
    cho người đó chỗ trú ngụ, quần áo hay tiền bạc. Người đó đã
    cho cái gì? Người đó chỉ kể cho bạn vài câu chuyện hay cho
    bạn lời khuyên nào đó.
    Do đó Phật đã gọi các sannyasin của mình là bhikkhus -
    khất sĩ, và đã yêu cầu họ đi đây đó như kẻ ăn xin, bởi vì chỉ
    thế thì họ mới có thể cho. Họ sẽ phải đi đây đó trá hình làm
    kẻ ăn xin để tạo ra tình huống trong đó họ có thể dễ dàng
    cho.
    Từ bi có vấn đề của riêng nó. Một người sống trên bình
    diện như vậy đang đối diện với những khó khăn lớn. Chúng
    ta không thể hiểu được người đó. Người đó sống giữa những
    người không hiểu ngôn ngữ của mình và bao giờ cũng sẽ
    hiểu lầm người đó. Điều này là không tránh khỏi, mặc dầu
    người đó không thấy phiền phức hay lo nghĩ về nó. Khi bạn
    hiểu lầm người đó thì không có lo nghĩ, bởi vì người đó biết
    rằng điều đó là tự nhiên và rằng bạn đang nghĩ và hiểu mọi
    thứ trên bình diện của riêng mình. Do đó, những người đã
    hiểu mọi người, người còn chưa phát triển khả năng dạy
    trong các kiếp quá khứ, biến mất, ngay khi họ trở nên chứng
    ngộ; họ không lấy lần sinh khác.
    Trong mối liên hệ này, cũng đáng hiểu rằng việc lấy lần
    sinh thành của Mahavira và Phật trong hoàng gia là rất có ý
    nghĩa. Người Jaina đã quyết định một cách quả quyết rằng
    teerthankara phải lấy việc sinh thành chỉ trong hoàng gia. Có
    lần tôi đã nói rằng có câu chuyện về linh hồn của Mahavira
    đã đi vào bụng mẹ của một phụ nữ brahmin, và Thượng đế
    đã đổi cái bào thai đó để thuộc vào người phụ nữ kshatriya,
    bởi vì một teerthankara phải được sinh ra chỉ trong hoàng
    gia.
    Tại sao? Bởi vì sau khi lấy việc sinh trong hoàng gia,
    nếu người ta trở thành kẻ ăn xin theo ý chí tự do riêng của
    mình, người đó sẽ có tác động hơn và dễ chấp nhận hơn cho
    mọi người. Người đó sẽ được mọi người hiểu rõ hơn bởi vì
    họ đã có thói quen bao giờ cũng lấy và đòi hỏi cái gì đó từ
    vua của mình. Và bởi vì thói quen đó mà có lẽ bất kì điều gì
    người tới đem cho đều sẽ được mọi người nhận.
    Chính thói quen của chúng ta là bao giờ cũng nhìn lên
    vua, vì vua bao giờ cũng ngồi ở bậc cao hơn. Cho dù vua có
    chọn là kẻ ăn xin và đi ăn xin trên đường, vua vẫn còn ở bậc
    cao hơn. Thói quen cũ này mà mọi người có sẽ giúp cho vua.
    Do đó, đây là một phương cách để làm cho việc thành dễ
    dàng. Vậy, một teerthankara như vậy có thể được sinh ra chỉ
    từ hoàng gia. Nhưng điều này không khó, bởi vì người như
    vậy đã có chọn lựa trong tay mình về nơi lấy việc sinh.
    Tất cả các cá nhân như Phật và Mahavira đều đã đạt tới
    và hiểu ra trong những lần sinh trước đó của họ. Thế thì tất
    cả những điều đã được đạt tới đều được phân phối trong lần
    sinh cuối của họ. Có thể hỏi rằng nếu tất cả những tri thức và
    thành tựu này đã tới trong lần sinh trước đó, thì sao
    Mahavira và Phật lại dường như làm nhiều nỗ lực thế trong
    lần sinh gần nhất của họ để đạt tới cái gì đó?
    Với câu hỏi này không có câu trả lời. Bởi điều này, lẫn
    lộn đã được tạo ra. Sao Mahavira và Phật lại phải làm nhiều
    sadhana thế? Krishna chẳng làm điều như vậy, trong khi
    Mahavira và Phật lại làm. Nỗ lực này không phải để đạt tới
    chân lí. Chân lí đã được biết tới với họ, nhưng giải thích và
    diễn đạt nó cho người khác theo bất kì cách nào cũng không
    kém khó hơn là việc biết nó. Trong thực tế, còn khó hơn.
    Nếu người ta phải giải thích chân lí nào đó, điều đó lại còn
    khó hơn.
    Chẳng hạn, chân lí của Krishna không phải là đặc biệt
    theo bất kì cách nào. Đó là lí do tại sao Krishna có thể thành
    công trong nỗ lực của mình để đem cho nó từ nơi mình đang
    hiện hữu. Nhưng chân lí mà Mahavira và Phật dạy rất đặc
    biệt. Những con đường mà họ đã chỉ ra cũng rất đặc thù.
    Chúng là đặc thù theo khía cạnh này: chẳng hạn, nếu
    Mahavira có yêu cầu ai đó tiếp tục nhịn ăn ba mươi ngày, và
    nếu người đó biết rằng bản thân Mahavira chưa bao giờ nhịn
    ăn cả, người đó sẽ không được chuẩn bị để nghe theo
    Mahavira.
    Mahavira phải nhịn ăn trong mười hai năm chỉ vì những
    người ông ấy muốn dạy. Bằng không sẽ không thể nào nói
    cho họ về nhịn ăn được. Mahavira phải gìn giữ mouna, im
    lặng, trong mười hai năm để thuyết phục những người muốn
    trở nên im lặng trong chỉ mười hai ngày. Bằng không họ sẽ
    không nghe Mahavira.
    Đối với Phật, có một câu chuyện hay khác. Phật bắt đầu
    một hệ thống thiền mới trong khi Mahavira không bắt đầu hệ
    thống mới. Mahavira có tri thức của một khoa học đã phát
    triển đầy đủ, theo một tín ngưỡng mà ông ấy không phải là
    người đầu tiên mà là người cuối cùng. Đằng sau ông ấy là
    một chuỗi dài các thầy giáo lẫy lừng. Chuỗi đó được gìn giữ
    và bảo đảm an toàn đến mức nó không bao giờ bị mất. Tri
    thức đó đã được kí thác cho Mahavira như một loại tin cậy từ
    các thầy giáo trước đó.

  7. #7

    Mặc định

    Quả thực điều kì diệu là đến thời của Mahavira, tri thức
    đó vẫn có thể còn lại liên tục thế. Vậy Mahavira đã không
    cho bất kì chân lí mới nào. Chân lí đã được trao thì đã được
    nuôi dưỡng từ lâu, và nó có sức mạnh của sự kế thừa lâu dài.
    Nhưng Mahavira cũng đã phải tạo ra tính cá nhân riêng của
    mình để cho mọi người sẽ lắng nghe ông ấy.
    Điều thú vị là để ý rằng người Jaina đã nhớ Mahavira
    nhiều nhất và rằng hai mươi ba teerthankaras trước đó đều
    thực tế đã bị lãng quên. Đây là điều ngạc nhiên, vì Mahavira
    là người cuối cùng trong chuỗi. Ông ấy không phải là người
    tiên phong mà cũng chẳng phải là người đầu tiên, ông ấy
    cũng chẳng có chân lí mới nào được khải lộ. Ông ấy khải lộ
    chỉ những điều đã được biết và kiểm nghiệm. Dầu vậy,
    Mahavira vẫn được nhớ nhiều nhất, và hai mươi ba người
    còn lại đã trở thành huyền thoại.
    Nếu Mahavira mà không được sinh ra, chúng ta thậm chí
    chẳng biết tới tên của hai mươi ba teerthankara trước đó. Lí
    do sâu sắc hơn cho điều này là ở chỗ Mahavira đã dành mười
    hai năm xây dựng hình ảnh và cá nhân của mình trong khi
    những teerthankara khác lại không. Họ chỉ chăm nom
    sadhana của mình. Mahavira có hệ thống được tổ chức rất
    tốt. Trong sadhana không có hệ thống có tổ chức, nhưng với
    Mahavira, sadhana là một loại hành động mà ông ấy thực
    hiện rất hiệu quả.
    Đó là lí do tại sao những hình ảnh về hai mươi ba
    teerthankara khác không thể nổi lên được rõ ràng và sắc nét
    như hình ảnh của Mahavira. Tất cả họ đều mờ nhạt.
    Mahavira đã tạo ra hình ảnh của mình như một nghệ sĩ hoàn
    hảo. Tất cả đã được lập kế hoạch chu đáo. Bất kì cái gì ông
    ấy muốn làm với nhân cách của mình đều được chuẩn bị tốt.
    Ông ấy tới được chuẩn bị đầy đủ.
    Phật là người đầu tiên theo nghĩa là ông ấy phải mang
    theo mình một hệ thống sadhana mới. Do đó, Phật phải đi
    qua con đường khác. Điều thú vị là để ý rằng điều này đã tạo
    ra một ảo tưởng là tự mình Phật trải qua sadhana. Thực tế,
    Phật đã hiểu ra trong kiếp trước của mình. Trong lần sinh
    này, ông ấy chỉ phân phối mùa màng mà ông ấy đã gặt trước
    đây. Nhưng Phật đã không có tín ngưỡng có tổ chức đằng
    sau ông ấy. Việc tìm kiếm của Phật hoàn toàn là của riêng
    ông ấy. Ông ấy tạo ra một con đường mới cho bản thân
    mình. Trên cùng ngọn núi đó nơi đường cái rộng đã có, ông
    ấy tạo ra một con đường mới.
    Mahavira đã bước trên con đường hoàng gia làm sẵn,
    nhưng ông ấy phải công bố lại điều đó bởi vì mọi người rất
    thường có khuynh hướng quên đi những điều như vậy.
    Nhưng con đường đã có đó cho ông ấy. Phật phải khai phá
    đất mới, cho nên ông ấy đã làm ra một kiểu thu xếp khác
    trong cuộc sống của mình. Đầu tiên ông ấy đã trải qua đủ
    mọi loại sadhana. Và sau khi trải qua từng sadhana như vậy,
    ông ấy nói rằng nó là vô dụng và rằng không ai có thể đạt tới
    đâu cả qua nó. Đến cuối cùng ông ấy đã công bố phương
    pháp riêng của mình, bằng việc nói rằng ông ấy đã đạt tới
    con đường đó và rằng bất kì ai cũng đều có thể đạt tới con
    đưòng đó.
    Điều này, người ta có thể nói, là một chuyện đã được thu
    xếp trước rất nhiều - đã được sắp xếp rất chu đáo! Người
    muốn đưa vào một công phu mới sẽ phải công bố rằng tất cả
    các công phu cũ đều giả. Và nếu Phật gọi chúng là giả mà
    không trải qua chúng, như Krishnamurti làm, thế thì tác động
    sẽ không nhiều hơn tác động của điều Krishnamurti nói, bởi
    vì người ta không có quyền tuyên bố điều gì là giả mà không
    trong kinh nghiệm của mình.
    Gần đây, ai đó tới tôi cũng đã tới gặp Krishnamurti và đã
    hỏi ông ấy về kundalini. Krishnamurti đã nói rằng điều đó tất
    cả là vô dụng. Thế rồi, với người đã thông báo điều này tôi
    đã hỏi người đó có hỏi điều này từ kinh nghiệm hay không -
    liệu người đó có hỏi nó sau khi thực nghiệm với kundalini
    hay không - hay không làm như thế. Nếu điều đó được hỏi
    mà không thực nghiệm hay trải qua nó, thế thì điều đó là vô
    dụng. Nếu nó được hỏi sau khi thực nghiệm, thế thì câu hỏi
    Nếu người đó thành công, thế thì bảo nó vô dụng là sai.
    Nếu người đó không thành công, không cần phải theo điều
    mà người khác cũng nhất định không thành công trong thực
    nghiệm. Do đó, Phật đã phải trải qua tất cả các công phu và
    phải chỉ ra rằng công phu này là sai hay công phu kia là sai
    và rằng không công phu nào có thể đạt tới đâu cả qua nó.
    Thế thì ông ấy có thể nói, "Ta đã đạt tới bởi phương pháp
    này, và ta đang bảo các ông từ kinh nghiệm."
    Mahavira đã trải qua cùng tất cả những công phu đó,
    nhưng ông ấy đã công bố rằng chúng đã được thực hành cho
    nhiều thời đại và đều có ích. Phật đã nói rằng mọi thứ đều vô
    dụng, và ông ấy đã mở ra một chiều hướng mới. Nhưng cả
    hai trong họ đều đã chứng ngộ trong lần sinh trước.
    Krishna cũng đã chứng ngộ trong lần sinh trước đó của
    mình, nhưng Krishna không đưa ra bất kì kĩ thuật đặc biệt
    mới nào cho việc tự hiểu. Krishna đã chỉ dẫn một cách sống
    đặc biệt. Do đó, không có nhu cầu trải qua bất kì tiến trình
    thiền hay khổ hạnh nào, bởi vì bản thân điều đó sẽ là chướng
    ngại.
    Nếu Mahavira đã nói rằng có khả năng đạt tới moksha
    thậm chí trong khi ngồi trong cửa tiệm riêng của bạn, thế thì
    nỗ lực riêng của Mahavira trong việc phát triển cá nhân của
    mình sẽ dường như vô ích. Thế thì mọi người sẽ hỏi
    Mahavira, "Vậy sao thầy từ bỏ mọi thứ?" Nếu Krishna đã đi
    vào rừng để thiền và thế rồi đứng trên chiến trường và nói
    rằng ngay cả trên chiến trường người ta cũng có thể đạt tới,
    không ai sẽ nghe ông ấy. Thế thì Arjuna cũng sẽ hỏi ông ấy
    tại sao ông ấy lại muốn lừa dối anh ta. Nếu bản thân Krishna
    đi vào rừng, sao ông ấy phải ngăn cản Arjuna làm như vậy?
    Cho nên điều đó tuỳ thuộc vào mọi thầy giáo về cách
    thức và điều người đó muốn cho. Thế thì một nỗ lực thích
    hợp, một cố gắng sống, phải được thực hiện trong hoàn cảnh
    đó. Thông thường thầy sẽ phải thu xếp trong cuộc sống điều
    hoàn toàn nhân tạo. Nhưng điều này là không thể tránh khỏi
    cho điều thầy muốn trao.
    Bây giờ câu hỏi này mà bạn đã hỏi tôi có chút ít khó
    khăn để trả lời. Sẽ dễ hơn cho tôi để đáp lại nếu được hỏi về
    Mahavira hay Phật hay Krishna. Nhưng dầu vậy, hai hay ba
    điều có thể được giữ lại để xem xét. Trước hết, lần sinh trước
    đây của tôi đã xảy ra quãng bẩy trăm năm trước. Nhiều khó
    khăn có đó do sự kiện đó.
    Lần sinh trước của Mahavira vào quãng hai trăm năm
    mươi năm trước lần sinh của ông ấy là Mahavira. Lần sinh
    trước của Phật chỉ là bẩy mươi tám năm trước lần sinh của
    ông ấy là Phật. Trong trường hợp của Phật, thậm chí còn có
    những người đang sống có thể đứng ra làm nhân chứng cho
    sự kiện về kiếp sống trước của ông ấy. Thậm chí trong thời
    của Mahavira, có những người có thể nhớ đã gặp Mahavira
    trong lần sinh trước của họ. Việc sinh của Krishna làm
    Krishna vào quãng hai nghìn năm sau lần sinh cuối của ông
    ấy, và do vậy tất cả các tên của các rishi đã chứng ngộ mà
    Krishna đã cho đều rất cổ đại. Thậm chí không thể nhớ được
    chúng về mặt lịch sử.
    Bẩy trăm năm là một thời kì rất dài. Nhưng với người lấy
    lần sinh sau bẩy trăm năm thì nó lại không rất dài lắm, bởi vì
    khi người ta không trong thân thể thì không có khác biệt giữa
    một khoảnh khắc và bẩy trăm năm. Việc đo thời gian bắt đầu
    chỉ với thân thể. Bên ngoài thân thể, không có khác biệt dù
    bạn đã bẩy trăm năm hay bẩy nghìn năm. Chỉ khi thu được
    thân thể thì khác biệt mới bắt đầu.
    Điều thú vị là để ý tới phương pháp để biết khoảng thời
    gian giữa cái chết cuối cùng và lần sinh hiện tại. Nói về bản
    thân tôi, làm sao tôi đi tới biết rằng tôi đã không ở đây trong
    bẩy trăm năm? Rất khó để đoán đúng nó một cách trực tiếp.
    Tôi chỉ có thể đánh giá hay tính toán thời gian bằng việc
    quan sát những người đã lấy nhiều lần sinh trong khoảng
    thời gian này.

  8. #8

    Mặc định

    Giả sử, chẳng hạn, một người đặc biệt được tôi biết tới
    trong thời gian sống của tôi bẩy trăm năm về trước. Trong
    khoảng giữa với tôi là lỗ hổng, nhưng người đó có thể đã lấy
    mười lần sinh. Tuy nhiên, có những kí ức về mười lần sinh
    quá khứ của người đó. Chỉ từ kí ức của người đó tôi mới có
    thể tính ra tôi đã phải còn không có thân thể trong bao lâu.
    Ngoài ra thì khó mà tính toán và xác định điều này, bởi vì
    thang thời gian của chúng ta và phương pháp đo không thuộc
    về thời gian phổ biến ở bên ngoài thân thể hay trong trạng
    thái vô thân thể. Việc đo của chúng ta về thời gian là trong
    thế giới của sự tồn tại có thân thể.
    Nếu cái gì đó giống thế này, rằng trong một khoảnh khắc
    tôi ngủ thiếp đi và thấy giấc mơ. Trong giấc mơ tôi thấy rằng
    nhiều năm đã trôi qua, và sau một vài khoảnh khắc bạn đánh
    thức tôi dậy và nói rằng tôi đã mê đi. Tôi hỏi bạn bao nhiêu
    thời gian đã trôi qua rồi trong khi mê đi, và bạn đáp, "Chưa
    được lấy một khoảnh khắc." Tôi nói, "Làm sao điều đó lại có
    thể được? Tôi đã thấy một giấc mơ kéo đến hàng vài năm."
    Trong giấc mơ, khoảng vài năm có thể được thấy trong
    một khoảnh khắc. Thang thời gian của cuộc sống mơ là khác.
    Nếu, sau khi tỉnh ra từ giấc mơ, người mơ không có cách nào
    biết được khi nào mình đi ngủ, thế thì cũng sẽ khó mà xác
    định chiều dài giấc ngủ của người đó. Điều đó có thể được
    biết chỉ bằng chiếc đồng hồ. Chẳng hạn, trước khi tôi được
    đánh thức là mười hai giờ, và bây giờ khi tôi được đánh thức
    dậy sau khi ngủ, mới chỉ mười hai giờ một phút. Bằng không
    tôi chỉ có thể biết bởi vì bạn đã ở đây nữa; không có cách
    nào khác để biết. Cho nên chỉ theo cách này mới xác định
    được rằng bẩy trăm năm đã trôi qua.
    Và một điều khác bạn đã hỏi tôi là liệu tôi có được sinh
    ra với hiểu biết đầy đủ hay không. Liên quan tới điều này, có
    vài điều cần được hiểu mà cũng quan trọng.
    Có thể nói rằng tôi đã được sinh ra với tri thức gần đầy
    đủ. Tôi nói gần đầy đủ chỉ bởi vì một vài bước đã bị bỏ lại
    một cách có cân nhắc, và việc cân nhắc đó có thể được làm.
    Trong mối liên quan này nữa, suy nghĩ của người Jaina
    là rất khoa học. Họ đã phân chia tri thức thành mười bốn
    bước. Mười ba bước là trong thế giới này còn bước thứ mười
    bốn là ở cõi bên kia. Trong số những bước này gunasthana -
    mười ba bước này - một số trong chúng là có thể được bỏ lại;
    chúng là tuỳ chọn. Không nhất thiết người ta phải trải qua
    toàn bộ chúng. Những tầng như vậy tất cả đều có thể được
    trải qua, nhưng người nhảy qua chúng có thể chẳng bao giờ
    giữ teerthakara bandh nguyên vẹn.
    Bất kì cái gì là tuỳ chọn cũng đều phải được thầy giáo
    biết tới. Các chủ đề tuỳ chọn cũng phải được thầy giáo
    nghiên cứu. Với học trò, bất kì cái gì phải được biết để vượt
    qua kì thi là đủ. Nhưng thầy giáo phải hiểu mọi thứ, kể cả
    những cái tuỳ chọn.
    Trong mười ba bước này của tự hiểu, có vài điều là tuỳ
    chọn. Có những chiều hiểu nào đó mà về nó không nhất thiết
    phải biết để trở nên chứng ngộ. Người ta có thể đi thẳng tới
    moksha. Nhưng với người định là thầy giáo, những chiều đó
    cũng phải được biết.
    Một điều quan trọng khác cần được chú ý là ở chỗ sau
    một giai đoạn phát triển nào đó, chẳng hạn, sau khi đạt tới
    mười hai bước, chiều dài thời gian cần để đạt tới các bước
    còn lại có thể bị kéo dài ra. Chúng có thể được đạt tới hoặc
    trong một lần sinh, hai lần sinh hay trong ba lần sinh. Mục
    đích lớn có thể được làm thành việc trì hoãn.
    Như tôi đã nói trước đây, sau khi đạt tới việc hiểu đầy đủ
    không có khả năng thêm nữa để lấy việc sinh nhiều hơn một
    lần nữa. Người chứng ngộ như vậy không thể góp phần hay
    có ích cho nhiều hơn một lần sinh thêm. Nhưng sau khi đạt
    tới mười hai bước, nếu hai bước có thể bị gạt sang bên, thế
    thì người như vậy có thể có ích cho nhiều lần sinh nữa. Và
    khả năng có đó để gạt chúng sang bên.
    Khi đạt tới mười hai bước, cuộc hành trình đã gần đi tới
    chỗ chấm dứt. Tôi nói gần đi tới: điều đó có nghĩa là tất cả
    mọi bức tường đã sụp đổ; chỉ một tấm màn trong suốt mà
    qua đó mọi thứ có thể được nhìn thấy. Tuy nhiên bức màn có
    đó. Sau khi nâng nó lên, không khó khăn gì đi ra bên ngoài.
    Sau khi đã vượt ra ngoài bức màn, bất kì cái gì bạn thường
    có khả năng thấy đều có thể được thấy từ phía bên kia của
    bức màn nữa. Không có khác biệt chút nào.
    Cho nên đây là lí do tại sao tôi nói là gần: bằng việc lấy
    thêm một bước nữa, người ta có thể đi ra ngoài bức màn.
    Nhưng thế thì không có khả năng nào cho chỉ một lần sinh
    nữa, trong khi nếu người ta vẫn còn ở phía bên này bức màn
    người ta có thể lấy bao nhiêu lần sinh tuỳ ý. Sau khi đi vào
    cõi bên kia, không có đường nào quay lại nhiều hơn một lần
    để sang phía bên này của bức màn.
    Người ta có thể hỏi liệu Mahavira và Phật có biết điều
    này không. Có, điều này là rõ ràng với họ, và nó có thể đã
    được họ sử dụng nữa. Nhưng có khác biệt cơ bản về hoàn
    cảnh.
    Điều đáng quan tâm là chú ý rằng sau khi đạt tới việc tự
    hiểu đầy đủ, thì việc hiểu đó chỉ có thể được dạy cho những
    học viên rất tiến bộ, không phải cho tất cả mọi người. Với
    những người mà Phật và Mahavira đã làm việc trong nhiều
    lần sinh của họ, với những người đã bước đi bên cạnh họ
    trong nhiều hình dạng, với họ, một lần sinh nữa là đủ. Đôi
    khi chuyện xảy ra đến mức thậm chí một lần sinh nữa cũng
    không cần thiết. Nếu trong cuộc sống hiện tại của mình,
    người ta đạt tới việc hiểu và độ tuổi hai mươi, và nếu người
    ta còn sống tới độ tuổi sáu mươi, nếu người đó có thể hoàn
    tất công việc trong bốn mươi năm còn lại, thì vấn đề chấm
    dứt; không cần quay lại nữa.
    Nhưng bây giờ tình huống rất kì lạ. Những người có thể
    được gọi là các sadhak đã phát triển như người tốt gần bằng
    không. Để làm việc trên những sadhak như vậy, thầy giáo
    tương lai sẽ phải làm việc trong nhiều lần sinh. Chỉ thế thì
    công việc mới có thể được hoàn tất; không có điều ngược lại.
    Với Mahavira hay Phật tình huống có khác bởi vì khi họ
    sắp rời bỏ kiếp sống cuối cùng, họ không thể tìm ra vài
    người quanh mình mà họ có thể tin cậy giao phó cho công
    việc tiếp theo. Tình huống đó bây giờ không tồn tại nữa.
    Ngày nay con người hoàn toàn là người hướng ngoại. Đó
    là lí do tại sao ngày nay thầy giáo có khó khăn mà trước đây
    còn chưa có. Không chỉ thầy phải làm việc vất vả hơn với số
    lượng lớn những người chưa phát triển lớn hơn, mà cũng còn
    có nỗi sợ rằng lao động của thầy có thể bị phí hoài. Lần nữa,
    không thể tìm ra những cá nhân thích hợp mà qua người đó
    công việc có thể được tin cậy giao phó. Điều này đã xảy ra
    trong trường hợp của Guru Nanak của tín ngưỡng Sikh.
    Mãi cho tới Gobind Singh, mãi cho tới guru Sikh thứ
    mười, vẫn có thể tìm ra người tiếp. Nhưng Gobind Singh
    phải chấm dứt việc công phu đó. Gobind Singh đã cố gắng
    rất vất vả, đến mức chưa từng ai trước ông ấy đã làm, để tìm
    ra người thứ mười một để giữ cho chuỗi được nguyên vẹn.
    Nhưng ông ấy không thể tìm ra được ai cả. Ông ấy đã phải
    kết thúc việc tìm, và chấm dứt chuỗi. Bây giờ không thể có
    người thứ mười một bởi vì điều đó chỉ có thể xảy ra trong sự
    liên tục kín. Một khi đã có một hơi chút sứt mẻ hay lỗ hổng,
    không thể nào truyền tiếp điều định được truyền tiếp.
    Bồ đề đạt ma, một đệ tử đã chứng ngộ của Phật, phải đi
    từ Ấn Độ sang Trung Quốc, bởi vì ở Trung Quốc có một
    người mà với người đó có thể truyền trao hiểu biết của ông
    ấy. Bản thân tín ngưỡng phật giáo đã đi ra khỏi Ấn Độ xem
    như hậu quả. Mọi người đã hiểu từ điều này rằng vài sư phật
    giáo đã đi sang Trung Quốc để lan truyền Phật giáo, nhưng
    khái niệm này là sai. Đây là hiểu biết của những người thấy
    các biến cố lịch sử từ bên ngoài.
    Huệ Khả là tên của người ở Trung Quốc mà có thể được
    truyền trao tri thức, và điều thú vị là để ý rằng ông ấy không
    sẵn sàng đi sang Ấn Độ. Khó khăn của thế giới này thường
    rất đáng ngạc nhiên. Huệ Khả không sẵn sàng đi bởi vì ông
    ấy còn không nhận biết về tiềm năng của mình. Do đó, Bồ đề
    đạt ma phải làm cuộc hành trình dài cả con đường tới Trung
    Quốc. Thế rồi lần nữa thời gian lại tới khi những bí mật của
    tín ngưỡng Phật giáo phải dịch chuyển sang Nhật Bản, với
    cùng việc truyền trao tri thức.
    Lỗ hổng bẩy trăm năm này là một thời kì có nhiều khó
    khăn cho tôi. Những khó khăn là thế này: Trước hết, ngày
    càng trở nên khó lấy việc sinh. Với bất kì người nào đạt tới
    một giai đoạn phát triển nào đó, khó để tìm ra bố mẹ thích
    hợp cho lần sinh nữa. Trong thời của Mahavira và Phật
    không có khó khăn như thế. Hàng ngày, bụng mẹ đều có sẵn
    qua đó những linh hồn cao cấp như vậy có thể lấy việc sinh.
    Trong thời của Mahavira, đã có tám người hoàn toàn
    chứng ngộ ở Bihar - tất cả đều cùng mức độ như Mahavira.
    Họ đã làm việc theo tám con đường khác nhau. Hàng nghìn
    người gần đạt tới tình huống này. Không phải có vài người,
    mà hàng nghìn người, với họ công việc có thể được tin cậy
    giao phó để có sự chăm nom đúng đắn và truyền trao thêm
    nữa.

  9. #9

    Mặc định

    Giả sử, chẳng hạn, một người đặc biệt được tôi biết tới
    trong thời gian sống của tôi bẩy trăm năm về trước. Trong
    khoảng giữa với tôi là lỗ hổng, nhưng người đó có thể đã lấy
    mười lần sinh. Tuy nhiên, có những kí ức về mười lần sinh
    quá khứ của người đó. Chỉ từ kí ức của người đó tôi mới có
    thể tính ra tôi đã phải còn không có thân thể trong bao lâu.
    Ngoài ra thì khó mà tính toán và xác định điều này, bởi vì
    thang thời gian của chúng ta và phương pháp đo không thuộc
    về thời gian phổ biến ở bên ngoài thân thể hay trong trạng
    thái vô thân thể. Việc đo của chúng ta về thời gian là trong
    thế giới của sự tồn tại có thân thể.
    Nếu cái gì đó giống thế này, rằng trong một khoảnh khắc
    tôi ngủ thiếp đi và thấy giấc mơ. Trong giấc mơ tôi thấy rằng
    nhiều năm đã trôi qua, và sau một vài khoảnh khắc bạn đánh
    thức tôi dậy và nói rằng tôi đã mê đi. Tôi hỏi bạn bao nhiêu
    thời gian đã trôi qua rồi trong khi mê đi, và bạn đáp, "Chưa
    được lấy một khoảnh khắc." Tôi nói, "Làm sao điều đó lại có
    thể được? Tôi đã thấy một giấc mơ kéo đến hàng vài năm."
    Trong giấc mơ, khoảng vài năm có thể được thấy trong
    một khoảnh khắc. Thang thời gian của cuộc sống mơ là khác.
    Nếu, sau khi tỉnh ra từ giấc mơ, người mơ không có cách nào
    biết được khi nào mình đi ngủ, thế thì cũng sẽ khó mà xác
    định chiều dài giấc ngủ của người đó. Điều đó có thể được
    biết chỉ bằng chiếc đồng hồ. Chẳng hạn, trước khi tôi được
    đánh thức là mười hai giờ, và bây giờ khi tôi được đánh thức
    dậy sau khi ngủ, mới chỉ mười hai giờ một phút. Bằng không
    tôi chỉ có thể biết bởi vì bạn đã ở đây nữa; không có cách
    nào khác để biết. Cho nên chỉ theo cách này mới xác định
    được rằng bẩy trăm năm đã trôi qua.
    Và một điều khác bạn đã hỏi tôi là liệu tôi có được sinh
    ra với hiểu biết đầy đủ hay không. Liên quan tới điều này, có
    vài điều cần được hiểu mà cũng quan trọng.
    Có thể nói rằng tôi đã được sinh ra với tri thức gần đầy
    đủ. Tôi nói gần đầy đủ chỉ bởi vì một vài bước đã bị bỏ lại
    một cách có cân nhắc, và việc cân nhắc đó có thể được làm.
    Trong mối liên quan này nữa, suy nghĩ của người Jaina
    là rất khoa học. Họ đã phân chia tri thức thành mười bốn
    bước. Mười ba bước là trong thế giới này còn bước thứ mười
    bốn là ở cõi bên kia. Trong số những bước này gunasthana -
    mười ba bước này - một số trong chúng là có thể được bỏ lại;
    chúng là tuỳ chọn. Không nhất thiết người ta phải trải qua
    toàn bộ chúng. Những tầng như vậy tất cả đều có thể được
    trải qua, nhưng người nhảy qua chúng có thể chẳng bao giờ
    giữ teerthakara bandh nguyên vẹn.
    Bất kì cái gì là tuỳ chọn cũng đều phải được thầy giáo
    biết tới. Các chủ đề tuỳ chọn cũng phải được thầy giáo
    nghiên cứu. Với học trò, bất kì cái gì phải được biết để vượt
    qua kì thi là đủ. Nhưng thầy giáo phải hiểu mọi thứ, kể cả
    những cái tuỳ chọn.
    Trong mười ba bước này của tự hiểu, có vài điều là tuỳ
    chọn. Có những chiều hiểu nào đó mà về nó không nhất thiết
    phải biết để trở nên chứng ngộ. Người ta có thể đi thẳng tới
    moksha. Nhưng với người định là thầy giáo, những chiều đó
    cũng phải được biết.
    Một điều quan trọng khác cần được chú ý là ở chỗ sau
    một giai đoạn phát triển nào đó, chẳng hạn, sau khi đạt tới
    mười hai bước, chiều dài thời gian cần để đạt tới các bước
    còn lại có thể bị kéo dài ra. Chúng có thể được đạt tới hoặc
    trong một lần sinh, hai lần sinh hay trong ba lần sinh. Mục
    đích lớn có thể được làm thành việc trì hoãn.
    Như tôi đã nói trước đây, sau khi đạt tới việc hiểu đầy đủ
    không có khả năng thêm nữa để lấy việc sinh nhiều hơn một
    lần nữa. Người chứng ngộ như vậy không thể góp phần hay
    có ích cho nhiều hơn một lần sinh thêm. Nhưng sau khi đạt
    tới mười hai bước, nếu hai bước có thể bị gạt sang bên, thế
    thì người như vậy có thể có ích cho nhiều lần sinh nữa. Và
    khả năng có đó để gạt chúng sang bên.
    Khi đạt tới mười hai bước, cuộc hành trình đã gần đi tới
    chỗ chấm dứt. Tôi nói gần đi tới: điều đó có nghĩa là tất cả
    mọi bức tường đã sụp đổ; chỉ một tấm màn trong suốt mà
    qua đó mọi thứ có thể được nhìn thấy. Tuy nhiên bức màn có
    đó. Sau khi nâng nó lên, không khó khăn gì đi ra bên ngoài.
    Sau khi đã vượt ra ngoài bức màn, bất kì cái gì bạn thường
    có khả năng thấy đều có thể được thấy từ phía bên kia của
    bức màn nữa. Không có khác biệt chút nào.
    Cho nên đây là lí do tại sao tôi nói là gần: bằng việc lấy
    thêm một bước nữa, người ta có thể đi ra ngoài bức màn.
    Nhưng thế thì không có khả năng nào cho chỉ một lần sinh
    nữa, trong khi nếu người ta vẫn còn ở phía bên này bức màn
    người ta có thể lấy bao nhiêu lần sinh tuỳ ý. Sau khi đi vào
    cõi bên kia, không có đường nào quay lại nhiều hơn một lần
    để sang phía bên này của bức màn.
    Người ta có thể hỏi liệu Mahavira và Phật có biết điều
    này không. Có, điều này là rõ ràng với họ, và nó có thể đã
    được họ sử dụng nữa. Nhưng có khác biệt cơ bản về hoàn
    cảnh.
    Điều đáng quan tâm là chú ý rằng sau khi đạt tới việc tự
    hiểu đầy đủ, thì việc hiểu đó chỉ có thể được dạy cho những
    học viên rất tiến bộ, không phải cho tất cả mọi người. Với
    những người mà Phật và Mahavira đã làm việc trong nhiều
    lần sinh của họ, với những người đã bước đi bên cạnh họ
    trong nhiều hình dạng, với họ, một lần sinh nữa là đủ. Đôi
    khi chuyện xảy ra đến mức thậm chí một lần sinh nữa cũng
    không cần thiết. Nếu trong cuộc sống hiện tại của mình,
    người ta đạt tới việc hiểu và độ tuổi hai mươi, và nếu người
    ta còn sống tới độ tuổi sáu mươi, nếu người đó có thể hoàn
    tất công việc trong bốn mươi năm còn lại, thì vấn đề chấm
    dứt; không cần quay lại nữa.
    Nhưng bây giờ tình huống rất kì lạ. Những người có thể
    được gọi là các sadhak đã phát triển như người tốt gần bằng
    không. Để làm việc trên những sadhak như vậy, thầy giáo
    tương lai sẽ phải làm việc trong nhiều lần sinh. Chỉ thế thì
    công việc mới có thể được hoàn tất; không có điều ngược lại.
    Với Mahavira hay Phật tình huống có khác bởi vì khi họ
    sắp rời bỏ kiếp sống cuối cùng, họ không thể tìm ra vài
    người quanh mình mà họ có thể tin cậy giao phó cho công
    việc tiếp theo. Tình huống đó bây giờ không tồn tại nữa.
    Ngày nay con người hoàn toàn là người hướng ngoại. Đó
    là lí do tại sao ngày nay thầy giáo có khó khăn mà trước đây
    còn chưa có. Không chỉ thầy phải làm việc vất vả hơn với số
    lượng lớn những người chưa phát triển lớn hơn, mà cũng còn
    có nỗi sợ rằng lao động của thầy có thể bị phí hoài. Lần nữa,
    không thể tìm ra những cá nhân thích hợp mà qua người đó
    công việc có thể được tin cậy giao phó. Điều này đã xảy ra
    trong trường hợp của Guru Nanak của tín ngưỡng Sikh.
    Mãi cho tới Gobind Singh, mãi cho tới guru Sikh thứ
    mười, vẫn có thể tìm ra người tiếp. Nhưng Gobind Singh
    phải chấm dứt việc công phu đó. Gobind Singh đã cố gắng
    rất vất vả, đến mức chưa từng ai trước ông ấy đã làm, để tìm
    ra người thứ mười một để giữ cho chuỗi được nguyên vẹn.
    Nhưng ông ấy không thể tìm ra được ai cả. Ông ấy đã phải
    kết thúc việc tìm, và chấm dứt chuỗi. Bây giờ không thể có
    người thứ mười một bởi vì điều đó chỉ có thể xảy ra trong sự
    liên tục kín. Một khi đã có một hơi chút sứt mẻ hay lỗ hổng,
    không thể nào truyền tiếp điều định được truyền tiếp.
    Bồ đề đạt ma, một đệ tử đã chứng ngộ của Phật, phải đi
    từ Ấn Độ sang Trung Quốc, bởi vì ở Trung Quốc có một
    người mà với người đó có thể truyền trao hiểu biết của ông
    ấy. Bản thân tín ngưỡng phật giáo đã đi ra khỏi Ấn Độ xem
    như hậu quả. Mọi người đã hiểu từ điều này rằng vài sư phật
    giáo đã đi sang Trung Quốc để lan truyền Phật giáo, nhưng
    khái niệm này là sai. Đây là hiểu biết của những người thấy
    các biến cố lịch sử từ bên ngoài.
    Huệ Khả là tên của người ở Trung Quốc mà có thể được
    truyền trao tri thức, và điều thú vị là để ý rằng ông ấy không
    sẵn sàng đi sang Ấn Độ. Khó khăn của thế giới này thường
    rất đáng ngạc nhiên. Huệ Khả không sẵn sàng đi bởi vì ông
    ấy còn không nhận biết về tiềm năng của mình. Do đó, Bồ đề
    đạt ma phải làm cuộc hành trình dài cả con đường tới Trung
    Quốc. Thế rồi lần nữa thời gian lại tới khi những bí mật của
    tín ngưỡng Phật giáo phải dịch chuyển sang Nhật Bản, với
    cùng việc truyền trao tri thức.
    Lỗ hổng bẩy trăm năm này là một thời kì có nhiều khó
    khăn cho tôi. Những khó khăn là thế này: Trước hết, ngày
    càng trở nên khó lấy việc sinh. Với bất kì người nào đạt tới
    một giai đoạn phát triển nào đó, khó để tìm ra bố mẹ thích
    hợp cho lần sinh nữa. Trong thời của Mahavira và Phật
    không có khó khăn như thế. Hàng ngày, bụng mẹ đều có sẵn
    qua đó những linh hồn cao cấp như vậy có thể lấy việc sinh.
    Trong thời của Mahavira, đã có tám người hoàn toàn
    chứng ngộ ở Bihar - tất cả đều cùng mức độ như Mahavira.
    Họ đã làm việc theo tám con đường khác nhau. Hàng nghìn
    người gần đạt tới tình huống này. Không phải có vài người,
    mà hàng nghìn người, với họ công việc có thể được tin cậy
    giao phó để có sự chăm nom đúng đắn và truyền trao thêm
    nữa.

  10. #10

    Mặc định

    Ngày nay, nếu ai đó ở mức độ cao đó mà muốn lấy việc
    sinh, người đó có thể phải đợi vài nghìn năm. Khó khăn khác
    là ở chỗ trong khoảng thời gian này công việc mà người đó
    có thể đã làm có thể bị mất đi. Tại khoảng giữa, các cá nhân,
    mà người đó có thể đã làm những việc nào đó, đã lấy thêm
    mười lần sinh nữa, và sẽ khó mà cắt qua hết tầng nọ tới tầng
    kia của mười lần sinh ấy.
    Ngày nay, bất kì bậc thầy nào cũng sẽ phải trải qua thời
    gian chuẩn bị dài hơn nhiều trước khi cuối cùng nâng tấm
    màn lên và đi ra ngoài. Người đó sẽ phải tự đẩy mình lại.
    Một khi người đó đã vượt ra ngoài tấm màn rồi, người đó sẽ
    không sẵn sàng hay không sẵn ý định lấy lần sinh nữa.
    Người đó sẽ có chọn lựa liệu có lấy hay không một lần sinh
    nữa, nhưng người đó sẽ nghĩ điều đó là vô ích. Có lí do cho
    điều này. Người đó có thể lấy một lần sinh nữa, nhưng để
    cho ai? Trong một lần sinh, không thể đạt được nhiều lắm.
    Nếu tôi biết rằng bởi việc tới trong phòng này tôi có thể
    hoàn thành công việc của mình trong một giờ, thế thì đáng
    đến lắm. Nếu công việc không thể được thực hiện, chẳng ích
    gì mà đến. Theo khía cạnh này, từ bi có mục đích kép. Thứ
    nhất, nó muốn cho bạn cái gì đó; thứ hai, nó cũng biết rằng
    nếu nó chỉ lấy cái gì đó khỏi bạn và không thể cho bạn được,
    thế thì bạn sẽ trong nguy hiểm lớn. Khó khăn của bạn sẽ
    không giảm mà sẽ tăng lên. Nếu tôi có khả năng chỉ ra cho
    bạn cái gì đó, điều đó là tốt và nên. Nhưng nếu tôi không có
    khả năng chỉ cho bạn và bạn trở nên mù với bất kì cái gì tôi
    trước đây đã có thể thấy, thế thì tình huống còn tồi tệ hơn.
    Liên quan tới bẩy trăm năm này, vài điều khác có thể
    cũng được lưu ý. Thứ nhất, tôi đã không có bất kì ý tưởng
    nào rằng việc nói chuyện như vậy sẽ phát sinh. Đôi lúc quay
    lại thời gian, bỗng nhiên ở Poona vấn đề này nảy sinh ra. Mẹ
    tôi đã tới. Mẹ tôi đã được Ramlal Pungalia hỏi liệu bà ấy có
    nhớ vài sự kiện đặc biệt thời kì đầu về tôi không và liệu bà
    ấy có sẵn lòng kể lại điều đó cho anh ta không.
    Tôi đã bị ấn tượng rằng không có khả năng nào cho vấn
    đề như vậy tới. Tôi cũng đã không biết khi nào họ nói với
    nhau. Gần đây, anh ta đã công bố điều này trong một cuộc
    họp, rằng mẹ tôi đã nói với anh ta rằng tôi đã không khóc
    trong ba ngày sau khi sinh, và tôi đã không bú sữa trong ba
    ngày đó. Đây là việc nhớ lại đầu tiên của mẹ tôi về tôi.
    Điều này là đúng. Bẩy trăm năm trước, trong kiếp trước
    của tôi, đã có một công phu tâm linh trong hai mươi mốt
    ngày, phải được thực hiện trước khi chết. Tôi đã định từ bỏ
    thân thể mình sau việc nhịn ăn toàn bộ hai mươi mốt ngày.
    Có những lí do cho điều này, nhưng tôi đã không thể nào
    hoàn tất hai mươi mốt ngày đó. Ba ngày vẫn còn lại. Ba ngày
    này tôi đã phải hoàn tất trong cuộc sống này. Cuộc sống này
    là sự liên tục từ đó. Thời kì chen giữa không có ý nghĩa gì
    trong khía cạnh này. Khi chỉ còn ba ngày trong kiếp sống đó,
    tôi đã bị giết. Hai mươi mốt ngày đã không thể được hoàn tất
    bởi vì tôi đã bị giết chỉ ba ngày trước đó, và ba ngày này đã
    bị bỏ mất.
    Trong kiếp sống này, ba ngày đó đã được hoàn tất. Nếu
    hai mươi mốt ngày đó mà có thể đã được hoàn tất trong kiếp
    đó, thế thì có lẽ đã không có khả năng để lấy thêm một lần
    sinh nữa. Bây giờ trong hoàn cảnh này, nhiều điều đáng chú
    ý.
    Đứng trước tấm màn đó và không đi qua nó là rất khó.
    Thấy tấm màn đó và vẫn không nâng nó lên là rất khó. Thật
    là khó để thường vẫn còn nhận biết về vấn đề khi nào tấm
    màn sẽ được nâng lên. Gần như một nhiệm vụ không thể
    được là đứng ngay trước tấm màn đó và vẫn không nâng nó
    lên. Nhưng điều này có thể xảy ra chỉ bởi vì ba ngày trước
    khi hoàn tất việc nhịn ăn đó, tôi đã bị giết.
    Do đó, tôi đã nói nhiều lần trong những việc thảo luận
    khác nhau rằng cũng hệt như Judas đã thử trong một thời
    gian dài để giết Jesus, mặc dầu Judas không có thù hận với
    Jesus, người giết tôi đã không có thù hận gì với tôi, mặc dầu
    người đó đã bị coi là, và đã bị xử lí như, một kẻ thù.
    Việc giết người đó lại trở thành có giá trị. Vào lúc chết,
    ba ngày đó bị bỏ lại. Sau tất cả những cố gắng hăm hở của
    tôi về chứng ngộ trong kiếp đó, tôi đã có khả năng đạt tới
    trong cuộc sống này, sau một thời kì hai mươi mốt năm, điều
    đáng đã có thể đạt được trong ba ngày đó. Với mỗi ngày
    trong ba ngày trong kiếp sống đó, tôi đã phải mất bẩy năm
    trong kiếp sống này. Đó là lí do tại sao tôi nói từ kiếp sống
    trước của mình, một mình tôi đã không đi tới việc hiểu đầy
    đủ. Tôi nói thay vì thế tôi đã tới với việc hiểu gần hoàn
    chỉnh. Bức màn có thể đã được nâng lên, nhưng thế rồi lại có
    thể có chỉ một lần sinh nữa.
    Bây giờ tôi vẫn có thể lấy lần sinh nữa. Bây giờ có khả
    năng thêm một lần sinh nữa. Trong toàn bộ cuộc sống này tôi
    sẽ cứ cố gắng để xem liệu một lần sinh nữa sẽ cần dùng hay
    không. Thế thì cũng đáng nói về việc sinh; bằng không vấn
    đề qua rồi và chẳng ích gì mà làm thêm bất kì nỗ lực nào.
    Cho nên việc giết người đó cũng có giá trị và hữu dụng.
    Như tôi đã kể cho các bạn, việc đo thời gian trong khi
    trong thân thể là khác với việc tính thời gian trong các trạng
    thái khác của tâm thức. Vào lúc sinh, thời gian trôi rất chậm.
    Vào lúc chết, thời gian đi rất nhanh. Chúng ta đã không hiểu
    tốc độ của thời gian bởi vì trong hiểu biết của chúng ta thời
    gian không có tốc độ. Chúng ta chỉ hiểu rằng theo thời gian
    mọi thứ đều chuyển động.
    Mãi cho tới giờ, ngay cả những nhà khoa học lỗi lạc nhất
    cũng không có ý tưởng gì rằng thời gian cũng có vận tốc. Lí
    do cho điều này là ở chỗ nếu chúng ta ấn định hay quyết định
    vận tốc của thời gian, thế thì sẽ khó để đo tất cả các vận tốc
    khác. Do đó, chúng ta đã giữ cho thời gian đều đặn. Chúng ta
    nói rằng trong một giờ ai đó đã bước ba dặm. Nhưng nếu
    trong ba dặm mà giờ cũng bước đi bằng cách nào đó, điều đó
    sẽ tạo ra nhiều khó khăn. Do đó chúng ta đã làm cho giờ
    thành đều đặn và tĩnh tại; bằng không mọi thứ sẽ thành lẫn
    lộn. Vậy, chúng ta đã làm cho thời gian thành tĩnh tại. Nhưng
    sự kiện thú vị nhất là ở chỗ thời gian không tĩnh tại, và nó lại
    còn hay thay đổi và chuyển động hơn bất kì cái gì khác. Thời
    gian có nghĩa là thay đổi. Chúng ta đã giữ nó cố định, chốt
    lại như cái cọc lều. Điều đó được làm một cách chính xác với
    lí do là không giữ cho nó cố định, việc đo về tất cả các
    chuyển động khác sẽ thành không thể được. Tốc độ thời gian
    này cũng chạy ít nhiều tương ứng với trạng thái tâm trí của
    người ta.
    Tốc độ thời gian của trẻ con là chậm, nhưng tốc độ thời
    gian của ông già lại rất nhanh, gọn và cô đọng. Trong một
    khoảng ngắn, thời gian đi rất nhanh cho người già, trong khi
    với đứa trẻ thời gian lại chuyển động rất chậm, trong một
    khoảng lớn. Với mọi con vật cũng vậy, thời gian đi khác
    nhau. Trẻ con loài người cần mười bốn năm để lớn lên chỉ
    như con chó lớn trong vài tháng. Con cái của một số con vật
    lớn lên còn nhanh hơn.
    Một số con vật được sinh ra đã gần đủ kích cỡ. Khoảnh
    khắc chúng đặt chân lên mặt đất thì đã không có gì khác biệt
    giữa chúng và con lớn thuộc loài chúng. Chúng đã hoàn
    chỉnh. Đó là lí do tại sao con vật không có nhiều cảm giác về
    thời gian. Chuyển động là rất nhanh với chúng. Nó cũng
    nhanh đến mức ngay khi con ngựa non đặt chân lên mặt đất
    nó đã bước được rồi. Nó không thể quan niệm được rằng có
    lỗ hổng thời gian giữa việc được sinh ra và việc có khả năng
    bước.
    Con cái con người có thể quan niệm được lỗ hổng thời
    gian đó, và do vậy con người là con vật bị thời gian gây rắc
    rối. Con người, nói đại loại, bao giờ cũng trong căng thẳng,
    chạy đua với thời gian cứ dường như nó liên tục chạy qua và
    chạy tiếp, bỏ lại con người chạy lê đằng sau.
    Trong những khoảnh khắc cuối của kiếp sống trước của
    tôi, công việc còn lại có thể đã được làm chỉ trong ba ngày
    bởi vì thời gian là rất sít sao. Tuổi tôi đã là một trăm linh sáu.
    Thời gian đi rất nhanh. Câu chuyện về ba ngày đã tiếp tục
    trong thời trẻ con của tôi vào lúc sinh này. Trong kiếp trước
    của tôi nó đã là lúc cuối, nhưng để kết thúc công việc đó ở
    đây trong kiếp sống này phải mất hai mươi mốt năm.
    Nhiều thời gian, nếu cơ hội bị bỏ lỡ, có thể cần phải mất
    đến bẩy năm cho mỗi ngày. Cho nên trong cuộc sống này tôi
    đã không đi tới hiểu biết hoàn toàn, nhưng đã tới với gần
    hiểu biết hoàn toàn. Nhưng bây giờ tôi sẽ phải làm việc thu
    xếp của mình khác đi.

  11. #11

    Mặc định

    Như tôi đã nói với các bạn, Mahavira phải trù liệu một
    tapascharya, một hệ thống các cách khổ hạnh, qua chúng ông
    ấy có thể cho. Phật phải trù liệu các phương pháp khác để
    làm cho mọi cách khổ hạnh thành sai - hết cách nọ tới cách
    kia. Đây cũng là một kiểu khổ hạnh. Điều Mahavira và Phật
    đã không phải làm, tôi phải làm. Chẳng vì cái gì, thế mà tôi
    phải đọc đủ mọi thứ có đó trong thế giới này. Nó tất cả đều
    vô dụng; tôi chẳng dùng gì nó. Nhưng với thế giới hiện đại
    này, cái thế giới chẳng bận tâm gì về người cứ nhịn ăn hay
    người ngồi với mắt nhắm nghiền, không thông điệp nào có
    thể được trao qua việc thực hành khổ hạnh cả. Nếu bất kì ai
    có thể đạt tới bởi bất kì việc khổ hạnh nào, đấy chỉ là qua cái
    mà tôi đã lĩnh hội về sự tích luỹ lớn lao tri thức trí tuệ cứ mỗi
    ngày một lớn lên mãi.
    Đó là lí do tại sao tôi đã dành cả đời mình với sách vở.
    Tôi nói rằng Mahavira đã không bị rắc rối nhiều bởi vẫn còn
    nhịn ăn, nhưng tôi đã phải nhận rắc rối của việc đọc nhiều
    đến mức chẳng có ích gì cho tôi cả. Tuy nhiên, chỉ sau khi
    nhận rắc rối đó, tôi mới có thể trao đổi và làm cho thông điệp
    của tôi thành hiểu được cho thế giới này; bằng không, không
    làm được. Thời đại khoa học hiện đại chỉ có thể hiểu ngôn
    ngữ của riêng nó.
    Nếu những điều này trở nên rõ ràng cho bạn, nó không
    khó với bạn thì bạn cũng bắt đầu có ý tưởng nào đó về các
    lần sinh trước của mình. Tôi mong rằng tôi có thể sớm làm
    cho các bạn nhớ lại những điều như vậy, bởi vì nếu bạn có
    thể nhớ nó thì sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và năng
    lượng. Thông thường, điều rất thường xảy ra là bạn bắt đầu
    cuộc sống của mình không phải từ nơi bạn đã bỏ lại trong
    kiếp sống trước, mà trong mọi lần sinh bạn đều bắt đầu lại
    gần như từ ABC. Nếu bạn có thể nhớ quá khứ của mình, thế
    thì bạn không phải bắt đầu từ ABC, bạn có thể bắt đầu từ chỗ
    bạn đã bỏ lại. Và chỉ thế thì mới có khả năng tạo ra tiến bộ,
    không có cách khác.
    Bây giờ điều này đáng để hiểu: Con vật đã không có tiến
    bộ chút nào. Các nhà khoa học đều phân vân rằng con vật cứ
    tái tạo lại bản thân chúng mà không có tiến hoá thêm. Khỉ
    chỉ có bộ não hơi không phát triển bằng con người, nhưng
    khác biệt tiến hoá lại lớn hơn là khác biệt trong bộ não. Vấn
    đề là gì? Khó khăn có thể là cái gì? Tại sao khỉ không thoát
    ra khỏi cái vòng lặp lại của chúng? Chúng ở đúng chỗ chúng
    đã ở từ hàng triệu năm trước đây.
    Chúng ta đang nghĩ rằng tiến trình tiến hoá diễn ra khắp
    mọi nơi, nhưng tất cả đều rất không chắc chắn. Giả thuyết
    của Darwin là rất lẫn lộn bởi vì trong hàng trăm và hàng
    nghìn năm khỉ vẫn ở chỗ chúng bao giờ cũng ở; chúng không
    phát triển. Sóc vẫn còn là sóc và không phát triển. Bò vẫn
    còn là bò chẳng phát triển thêm gì. Cho nên phát triển không
    phải là tự động; có cái gì đó khác đang tạo ra khác biệt.
    Mọi con khỉ đều phải bắt đầu từ nơi bố nó bắt đầu. Con
    không thể bắt đầu từ nơi bố kết thúc. Bố không có khả năng
    trao đổi; nó không có khả năng làm cho con nó bắt đầu từ
    nơi nó bỏ lại trong kiếp sống của nó. Làm sao có thể có bất
    kì tiến bộ nào được? Mỗi lần con lại bắt đầu từ cùng một
    điểm.
    Tương tự thế là tình huống liên quan tới việc phát triển
    của linh hồn. Nếu bạn bắt đầu cuộc sống này từ nơi bạn đã
    bắt đầu trong kiếp sống trước, bạn không thể phát triển được.
    Theo nghĩa tâm linh, sẽ không có tiến hoá cho bạn. Trong
    mọi lần sinh bạn sẽ bắt đầu từ cùng một điểm nơi bạn đã bắt
    đầu trước đó. Nếu điểm bắt đầu vẫn còn như cũ, thế thì
    không có tiến hoá.
    Tiến hoá hay phát triển có nghĩa là điểm kết thúc trước
    đây nên là điểm bắt đầu; bằng không sẽ không có tiến hoá.
    Con người có thể tạo ra tiến bộ bởi vì con người đã phát
    minh ra ngôn ngữ cho trao đổi. Điều bố biết thì bố có thể dạy
    cho con mình. Giáo dục có nghĩa là điều này, rằng cái mà thế
    hệ của bố đã đi tới biết ra thì có thể được trao cho thế hệ con.
    Nhưng con sẽ không phải bắt đầu từ nơi bố đã bắt đầu.
    Nếu con có thể bắt đầu từ nơi bố đã bỏ lại, thế thì sẽ có tiến
    bộ. Thế thì chuyển động sẽ không dưới dạng hình tròn, mà
    dưới dạng xoắn ốc. Thế thì con sẽ không đi theo vòng tròn,
    mà sẽ bắt đầu leo lên. Nó sẽ bắt đầu leo lên dường như nó
    đang trên đồi. Điều là đúng cho tiến hoá con người nói chung
    thì cũng đúng cho tiến hoá tâm linh của mỗi cá nhân.
    Nếu bạn không có bất kì trao đổi nào giữa kiếp sống này
    và kiếp sống trước, thế thì bạn đã không tìm hiểu chút nào
    vào kiếp sống trước đây của mình. Bạn đã không tìm hiểu
    vào nơi bạn đã bỏ lại để cho bạn có thể bắt đầu từ đó. Bởi vì
    điều này có thể là bạn sẽ lại dựng lên cùng dinh thự từ móng
    của nó, mà bạn đã xây dựng trong kiếp trước. Lần nữa bạn sẽ
    đặt móng. Nếu bạn cứ đặt móng mãi, thế thì khi nào bạn sẽ
    hoàn thành việc xây dựng toà nhà?
    Do đó, chút điều nhỏ bé tôi đã kể cho các bạn về kiếp
    sống trước của mình không phải bởi vì nó có giá trị gì hay để
    bạn có thể biết điều gì đó về tôi. Tôi đã kể cho bạn điều này
    chỉ bởi vì nó có thể làm cho bạn suy nghĩ về bản thân mình
    và đặt bạn vào việc tìm kiếm các kiếp sống quá khứ của bạn.
    Khoảnh khắc bạn biết kiếp sống quá khứ của mình, sẽ có
    cách mạng và tiến hoá tâm linh. Thế thì bạn sẽ bắt đầu từ nơi
    bạn đã bỏ lại trong kiếp sống trước của mình; bằng không
    bạn sẽ bị lạc trong vô hạn kiếp sống mà chẳng đạt tới đâu cả.
    Phải có móc nối, truyền trao, giữa cuộc sống này và kiếp
    sống trước. Bất kì cái gì bạn đã đạt được trong kiếp sống
    trước của bạn đền nên đi tới được biết, và bạn nên có khả
    năng lấy bước tiếp tiến lên. Đó là lí do tại sao Phật và
    Mahavira đã thảo luận về vấn đề các kiếp trước rất chi tiết.
    Điều này đã không được thực hiện bởi các thầy giáo sớm
    hơn.
    Các thầy giáo của Veda và Upanishad đã nói mọi điều về
    tri thức tối thượng, nhưng họ đã không gắn nó với khoa học
    về việc biết về các lần sinh trước. Vào thời Mahavira lấy
    việc sinh thành, nhu cầu cho điều này đã trở thành rõ ràng.
    Rõ ràng là chỉ nói điều bạn có thể trở thành là không đủ.
    Cũng cần phải nói bạn đã là gì, bởi vì không có hỗ trợ và
    giúp đỡ của điều bạn đã là gì, tiềm năng của bạn không thể
    nở hoa, bạn không thể trở thành cái mà bạn có thể trở thành.
    Đây là lí do tại sao toàn bộ bốn mươi năm trong kiếp
    sống của Mahavira và Phật đã được dành cho việc cố gắng
    làm cho mọi người nhớ lại kiếp sống trước của mình. Chừng
    nào mà một người còn không nhớ kiếp sống trước của mình,
    người đó được bảo rằng người đó không cần bận tâm tới tiến
    bộ thêm của mình. Người đó trước hết nên thấy rõ ràng con
    đường của mình và điểm mà tại đó người đó đã đạt tới, thế
    rồi tiến thêm bước nữa. Bằng không sẽ chỉ có chạy ngược
    xuôi trên cùng con đường cứ đi đi lại lại mà chẳng ích lợi gì.
    Đó là lí do tại sao việc nhớ lại các kiếp sống trước trở thành
    bước đầu tiên tuyệt đối không thể nào tránh khỏi.
    Ngày nay khó khăn là thế này: không khó lắm để làm
    cho bạn nhớ các lần sinh trước của mình, nhưng điều đó cần
    dũng cảm đã bị mất. Có thể làm cho bạn nhớ lại các lần sinh
    trước của bạn chỉ nếu bạn đã đạt tới khả năng vẫn còn không
    bị rối loạn trong đám sương mờ của chính những kí ức rất
    khó khăn của cuộc sống này. Bằng không điều đó là không
    thể được.
    Kí ức về lần sinh này không thật là khó lắm để vượt qua,
    nhưng khi kí ức về kiếp sống trước quật vào bạn, nó sẽ rất
    khó khăn. Trong khi kí ức về kiếp sống này tới trong sự lần
    lượt, thì kí ức về các kiếp sống trước quật vào bạn trong sự
    toàn bộ của chúng.
    Trong cuộc sống này, điều chúng ta chịu đựng hôm nay
    sẽ bị quên đi vào ngày mai và điều chúng ta chịu đựng ngày
    mai sẽ bị quên đi vào ngày kia. Nhưng kí ức về các kiếp
    trước của bạn sẽ quật vào bạn trong tính toàn bộ của chúng,
    không trong từng mẩu mảnh. Bạn liệu có khả năng chịu đựng
    nổi nó không? Bạn thu được khả năng chịu đựng kí ức về các
    kiếp quá khứ chỉ khi bạn có khả năng chịu đựng những điều
    kiện tồi tệ nhất của cuộc sống. Bất kì cái gì xảy ra cũng vậy,
    không cái gì tạo ra khác biệt cho bạn.
    Khi không kí ức nào của cuộc sống này có thể gây cho
    bạn lo âu, chỉ thế thì bạn mới có thể được đưa vào trong kí
    ức của các kiếp quá khứ. Bằng không những kí ức này có thể
    trở thành chấn thương lớn cho bạn, và cánh cửa tới những
    chấn thương đó không thể được mở ra chừng nào bạn chưa
    có khả năng và xứng đáng để đối diện với chúng.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thượng đế là ai ?
    By kiennguyen in forum Đạo Cao Đài
    Trả lời: 371
    Bài mới gởi: 09-01-2012, 09:31 PM
  2. TẤM GƯƠNG !
    By thần lô thánh chủ in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 19-03-2011, 01:48 AM
  3. truyện ma sưu tầm
    By nghichngom85 in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 18-03-2011, 01:38 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •