Quan Âm Linh Cảm

Huyền Trang Pháp sư khi đi qua Ấn Độ, trải qua Lưu Sa Hà hơn tám trăm dặm, vắng tanh, trên không có bóng chim bay, dưới không có dấu thú chạy. Đây là đất ngự trị của vô số yêu tinh quỷ mị, nhưng Pháp sư không hề sợ hãi. Đi được 5 ngày 5 đêm không còn có một giọt nước, cả người lẫn ngựa khát nước mệt lả, coi chừng tưởng như không đi được nữa! Pháp sư nằm lụy giữa cát, âm thầm cầu nguyện Đức Bồ Tát Quán Âm. Ngài chú nguyện rằng: “Phen này Huyền Trang tôi đi Ấn Độ, mục đích duy nhất là chỉ cầu vô thượng chánh pháp mà thôi; Bồ Tát xưa nay lấy làm từ niệm đối với chúng sanh, lấy cứu khổ làm chức vụ, vì sao Ngài không biết nỗi khổ của tôi ư?” Nói như thế rồi Ngài nằm thiếp đi. Đến nửa đêm bỗng có gió mát chạm vào thân, lần lần hình như nước lạnh mát xối vào mặt và cả toàn thân đều như vừa tắm gội. Không những toàn thân mát mẻ, luôn cả đôi mắt sáng ra, ngựa cũng thấy khẻo mạnh đi được. Sáng ra cứ thẳng đường mà đi tới, nhưng ngựa chạy loạn qua đường khác ngăn không lại. Xa xa trông thấy cỏ xanh, lại hồ nước trong veo, ngựa và người dừng lại uống, đều thoát được nạn chết khát! Lạc lối giữa sa mạc mà tìm được cỏ xanh nước ngọt thật là một việc lạ. Ốc đảo ấy vốn có thật hay do Đức Quán Âm Bồ Tát hóa hiện ra? Giả sử nó vốn có thì sức nào sui đẩy ngựa quay hướng? (Trích Tam Tạng truyện)

Quan Âm Linh Cảm
CỨU BẢY NẠN

THỦY ÁCH

Triều nhà Thanh năm Khương Hy thứ 2, có người đánh cá đậu thuyền ở dưới bờ núi Tiểu Cô Sơn. Nửa đêm, thức giấc có nghe rằng: “Sáng sớm có chiếc thuyền chở muối đi ngang qua đây, bọn bay phải nhận chìm cho ta!” Sáng sớm quả có chiếc thuyền chở muối đi qua, gặp phải gió to sóng lớn, chiếc thuyền ấy gần như đã chìm, nhưng trong chốc lát thuyền vẫn bình an lướt sóng đi qua. Đến tối người đánh cá lại nghe tiếng trên núi trách phạt vì sao lại sai lệnh? Có tiếng đáp lại: “Khi bọn tôi đến gần thuyền, thấy có Đức Quán Âm Bồ Tát đứng ở sau thuyền, vì vậy không giám lại gần.” Đến sáng sớm người đánh cá tìm đến chiếc thuyền chở muối để dò hỏi, mới biết người cầm lái chiếc thuyền kia là một bà đã trì trai Quán Âm. Chúng ta thử xem oai lực của Bồ Tát Quán Âm vĩ đại biết chừng nào? (chép theo Vạn Thiện Tư)

Về đời nhà Đường có một người tên là Sầm Cảnh Nhơn, lúc thiếu niên, chuyên tụng Kinh Phổ Môn. Một hôm mướn thuyền đi Tô châu, rủi bị thuyền chìm anh ta rơi xuống nước! Bên tai có nghe thấy tiếng người nói: “Cho người tụng Kinh Phổ Môn thoát nạn.” Nghe như vậy ba lần, liền thấy mình nổi lên mặt nước và tấp vào bờ được sống sót. (theo Pháp Hoa Cảm Thông Lục)

Anh Đáo người làng An Truyền, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, năm 1953 được lệnh động viên, anh phải nhập ngũ. Năm ấy Huế gặp trận lụt to nhất, xưa nay chưa từng có. Anh Đáo với bạn đồng đội 8 người gác tại lô cốt gần cửa biển Thuận An. Đêm 24 sáng ngày 25, gió to dâng cao vùn vụt không kịp trở tay. Anh em đồng đội đều là người khác đạo kêu gào cầu cứu nhưng vô hiệu quả, giữa sóng to gió lớn không thấy tăm dạng một bóng người, một ghe thuyền nào cả, lại thêm trời tối như mực, mưa đổ như xối. Cả đội đều khoanh tay đợi chết vậy! Riêng Đáo bình tĩnh chí thành niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, chết sống phó mặc cho ba đào! Nước mỗi lúc một cao, gió mỗi lúc một lớn. Lô cốt đổ nhào theo giòng nước cuốn đi. Tự nhiên Đáo thấy mình tấp vào một gành đá cao, gió rét thấm xương, tưởng mình đã chết rồi, nhưng không dứt tiếng niệm Phật, thế rồi ngủ thiếp đi bao giờ không biết. Bỗng có người đánh vào vai bảo dậy mà về. Bừng mắt dậy thấy trời đã chiều, xa xa có chiếc đò đi vớt củi, liền kêu cứu, được đò ấy đến chở về. Còn bạn đồng đội chẳng biết trôi dạt về đâu!

Sau khi thoát hiểm, Đáo lên Báo quốc lạy Phật và kể rõ lại sự việc đã gặp. (Sự này được ghi chép lại theo đời Đáo thuật.)

Ngài Thích Đạo Hiền ở về đời nhà Đường, nhơn ông Thứ Sử nhờ vẽ giúp 7 bức tượng Quán Thế Âm, Ngài kêu thợ vẽ đến bắt phải trai giới trước đã rồi dùng Trầm nhũ làm keo, đốt hương lễ bái xong mới vẽ. Khi vẽ rất là tôn nghiêm trang trọng đầy đủ tướng hảo. Về sau nhơn qua sông chìm đò té xuống nước, vội vã niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, liền trông thấy dưới nước có hào quang, hai bên là 7 vị Tượng vẽ trước đều nói rằng: Cứ niệm Đức Phật A Di Đà đi. Đạo Hiền lật đật niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, 7 vị Bồ tát đỡ hai chân, Ngài liền nổi lên mặt nước, đi chừng 40 dặm mới đến bờ. (Trích Quản Ký)

HỎA TAI

Dân quốc năm thứ 11, nạn địa chấn ở Nhật Bổn, Đại biểu Hội Phật giáo Phổ Tế là các ông Bao Thừa Chí, Dương Thức Các v.v…đi qua Nhật điếu ủy về, báo cáo tình hình, các ông cho biết: Dân số Nhật chết trong nạn địa chấn này ước chừng 30 vạn người, thi hài chất cao như núi! Cứ riêng một địa phương mà nói thì khu vực “Thiển Thảo” ở Đông Kinh là hoàn toàn trở thành tiêu thổ! Ở trong khu vực Thiển Thảo ấy có một công viên, trong công viên có một hồ nước và một tòa Quan Âm Các ba gian, kiến trúc theo lối Nhật Bổn cũ. Khi nhân dân bị hỏa tai, bốn phía bị bao bọc lửa cháy. Không biết trốn tránh vào đâu, nhân dân nhau chạy vào công viên. Tất cả tụ tập vào tòa Quan Âm Các ước chừng hơn 3 vạn người; trong lúc tình cảnh bức thúc, mọi người đều niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, chí thành cầu nguyện may ra thoát khỏi tai nạn! Từ trong ra ngoài, dị khẩu đồng tâm, vang dội tiếng niệm: “Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát”. Lửa lan đến hồ, đốt cháy khô cả hồ nước rồi dừng lại. Thật là một công việc chưa từng có! Không những đám dân không ai bị tai nạn, mà luôn cả ba gian nhà kia hiện nay vẫn còn. Chính phủ Nhật hiện bảo tồn để làm nơi Thánh tích kỉ niệm. Ai là người đã đến Nhật Bổn chắc không khỏi tham bái ở đó. Đức từ bi cứu khổ của Bồ Tát Quan Âm thật cùng khắp đúng như lời Phật dạy trong Kinh Phổ Môn. (thuật theo thư của Ngài Ấn Quang Pháp Sư)

Về thời Mãn Thanh, ông Thái Ân Tương làm chức vận lương, có một công quán để cho nhân dân đến nạp thuế, bốn phía không có vách tường, liên tiếp với nhà của dân chúng. Một hôm nhà hàng xóm bị cháy, mọi người lo khuân vác của cải, thì Thái Ân Tương vẫn điềm nhiên bất động! Bao nhiêu người la thúc ông ta tránh thoát, ông ta vẫn bình tĩnh dường như không để ý. Lạ nhất là khi ngọn lửa cháy qua Đông, bỗng nhiên trở về Tây, tả hữu bốn mặt đều bị lửa cháy tràn lan, chỉ còn xót lại khoảng giữa một nhà ông ta là không cháy. Bao nhiêu người xúm lại hỏi ông ta có phép thuật gì, ông ta đáp: Tôi chỉ biết niệm chú Đại bi. Có người nói: vạn nhất là thần chú Đại bi không linh nghiệm, luôn cả tánh mạng ông cũng khó bảo tồn thì ông tính sao?

Đáp: Gia đình tôi đã nhiều đời trì tụng chú Đại bi, thảy đều có linh nghiệm và thảy đều thoát qua bao nhiêu tai nạn về Đao binh, Thủy hỏa không thể kể xiết! Chính bản thân tôi đã trì tụng hơn 20 năm nay, mỗi khi gặp phải tai nạn gấp rút, đều được cảm ứng che chở. Tôi còn nhớ về niên hiệu Càn Long, nhà tôi ở Bắc Bình, bên phía Nam có nhà hàng xóm bị cháy, lại gặp phải gió Nam, ngọn lửa theo gió vùn vụt táp đến cạnh nhà tôi. Bấy giờ muốn thoát thân e cũng không kịp. Tôi cứ điềm nhiên y theo thường lệ trì tụng chú Đại bi. Chưa hết một biến, rất lạ là ngọn gió thổi vật trở về. Nhà tôi thoát nạn, vì thế tôi không có gì sợ hãi cả và rất tin tưởng đức từ bi bất khả tư nghì của Bồ Tát. Có sợ chăng là sợ lòng mình không chí thành đã gây nhiều tội lỗi mà thôi. Chúng ta nên chí thành sám hối những tội lỗi đã lỡ lầm và mỗi ngày trì tụng ít biến Chú Đại bi, chắc chắn được cảm ứng không sai. (Xuất Tín Tâm Lục)

Triều nhà Minh có một người họ Uông, nhà ở gần núi Côn Sơn thuộc tỉnh Giang Tô. Anh ta phát nguyện ăn 3 năm chay và trì niệm danh hiệu Quán Âm. Sau khi hoàn nguyện lại đi chiêm bái núi Nam Phổ Đà là nơi Đức Quán Âm thị hiện. Đến ngày Nguyên đán thì xuống thuyền đi. Khi thuyền đã nhổ neo, bỗng người nhà chạy đến báo tin nhà hàng xóm bị cháy đã lan đến nhà mình, gọi anh ta trở về cứu chữa. Anh ta đáp: “Tôi chí thành đã ba năm, hôm nay đi chiêm bái, không lý vì cháy nhà mà đổi chí nguyện; dù cho có cháy hết nhà cửa, tôi quyết không trở lui”. Nói xong vẫn dong thuyền buồm thẳng tiến. Lễ bái rồi trở về, trông thấy bốn phía xóm đều thành tiêu thổ, chỉ có một mình nhà anh ta vô sự. Thật là lòng chí thành bao giờ cũng được cảm cách. (Trích Hiện Quả Tùy Lục)

GIÓ BÃO

Đời Tống Thần Tông niên hiệu Nguyên Phong năm thứ 3. Chức Hàn Lâm Vương Thần Phong, vâng chỉ đi xứ Tam Hàng, khi đi ngang qua biển gặp phải gió to sóng lớn, lại thêm có một con rùa lớn ép vào thuyền, vô cùng nguy hiểm! Thần Phong rất sợ hãi liền vội vã hướng về núi Phổ Đà trong động Triều Âm cầu đảo. Bỗng trông thấy hào quang chói lọi; thân tướng đẹp đẽ của Bồ Tát hiện ra, ngọc báu lung linh, mây năm sắc lóng lánh, con rùa lớn liền bỏ đi, cả thuyền đều vô sự! Sau về tâu lai triều đình, sắc phong “Bửu Đà Quan Âm tự”. (Trích Phổ Đà Sơn Chí)

GƯƠM ĐAO

Thời gian đầu tiên nhà Thanh, có một người tên là Trình Bá Lân. Trước là một nhà buôn các tỉnh Giang Tô, Dương Châu, v.v… thờ Đức Quán Âm rất chí thành! Đến năm Ất Dậu, bị giặc đánh phá Dương Châu. Trình Bá Lân cầu đảo Ngài cứu hộ! Đêm nằm mộng thấy Đức Quán Âm dạy rằng: Nhà ngươi 17 người, 16 người khỏi chết, chỉ có một mình ngươi là không thể trốn được; vì kiếp trước nhà ngươi đã giết chết tướng giặc tên là Vương Ma Tử 26 nhát dao, nay thì phải đền trả mạng trước! 16 người nhà thì nên đi đánh chỗ khác ắt khỏi bị chết, còn ngươi nên sắm sửa đồ ăn uống đợi đó, tối nay đúng hai canh, có người đến kêu cửa, chính là Vương Ma Tử vậy. Ông Trình rất tin nên làm y như lời Bồ Tát dạy. Đến canh hai quả có người đến la to gọi cửa. Ông Trình thung dung mở cửa nói rằng: Ông chính là Vương Ma Tử phải không? Tôi đã sắm đồ ăn uống đợi ông từ lâu, vậy xin mời ông vào. Vương Ma Tử thấy trong nhà đèn sáng như ban ngày, đồ ăn uống linh đình đang đợi, cho là lạ hỏi rằng: Vì sao anh biết tôi họ Vương? Ông Trình trình bày đầu đuôi sự chỉ giáo của Đức Quán Âm Bồ Tát trong mộng. Vương nói: “Nếu quả như vậy, kiếp trước anh giết tôi, kiếp này tôi giết anh, kiếp sau anh lại giết tôi, thế thì không biết tới lúc nào mới đình chỉ? Chi bằng hai ta hòa hảo cùng nhau, may ra giải thoát được oan khiên. Thôi anh đưa lưng lại đây tôi làm phép giả chặt anh 26 nhát để gọi là đền nợ xưa, và xin bảo hộ toàn gia vô sự, nguyện suốt đời ăn ở tốt với nhau”.

Xem thế ta biết sự cứu độ chúng sang của Bồ Tát ứng hiện đủ mọi cách không thể nghĩ bàn được. (Trích Dĩ Cầu Thơ)

Đời nhà Tống tại Lâm An, có một vị tên là Trương Công Tử, một hôm đến xem một ngôi Chùa đã gần sụp, trong ấy có một vị tượng Quán Âm, tay chân bị sứt xẻ, ông ta xin với vị Sư ở đó đem về tu bổ để thờ. Về sau gặp giặc ông ta nhảy xuống giếng để trốn, thấy Đức Quán Âm hiện hình nói với ông ta: Ngươi hiện nay phải bị chết, ta không thể cứu ngươi được, vì rằng kiếp trước ngươi đã giết một tên là Đinh Tiểu Đại; nay y tới sẽ giết ngươi để báo thù. Nói chưa dứt lời thì liền có một người tay cầm xà mâu đến trên giếng kêu Trương Công Tử lên. Trương Công Tử liền hỏi: Ông có phải là Đinh Tiểu Đại không? Ông ngạc nhiên hỏi Trương Công Tử: vì sao anh lại biết được tên họ của ta? Trương đáp: chính do Đức Quán Âm Bồ Tát chỉ thị cho tôi, tôi sẽ đền mạng cho ông. Đinh nói: thế thì anh và tôi nên giải oan thù, không nên kết oán nghiệp lại đời sau làm gì nữa. Hai người vui vẻ chia tay nhau, mỗi người đi một ngả. Đây cũng là một phương thiện xảo do lòng từ bi phổ độ của Bồ Tát bất khả tư nghi vậy.

ÁC QUỶ

Triều nhà Tùy niên hiệu Nhơn Tho, núi Chung Nam Sơn ở Tây An gọi là Nam Ngũ Đài, trên núi có một con độc long hay biến hình, thường thường hiện thân đạo sĩ đến Tây Kinh bán thuốc. Tuyên bố rằng: “Hễ ai uống thuốc này có thể lên trời được”. Không ngờ nó dùng phép yêu thuật bắt bao nhiêu người đem bỏ vào trong núi để ăn thịt, thật là nguy hiểm. Bỗng có một Tăng sĩ không biết từ đâu đến, dựng am tranh ở trên chót núi, yêu thuật của Độc long từ đó không còn lộng hành nữa. Dân chúng gần xa sùng bái rất đông! Đến năm thứ 2 ngày 19 tháng 6 âm lịch, vị Tăng sĩ không bệnh mà tịch (chết). Sau khi hỏa táng tự nhiên về hướng Đông hiện ra một Kim Kiều, thiên nhơn sắp hàng hai bên đánh nhạc rải rác thứ hoa thơm ngát. Mọi người trông thấy ở trong mây hiện ra trăm đạo hào quang rực rỡ phi thường! Trên hào quang có Bồ Tát hiện thân, hình tướng trang nghiêm, diện mạo hiền từ vô cùng đẹp đẽ, đầu đội mão anh lạc, mình bận áo kim cương, mỗi mỗi đều trông thấy rõ ràng. Giờ lâu mới ẩn vào trong mây bạc. Ai cũng cho đó là hóa thân của Đức Quán Âm Bồ Tát. Từ đó người ta ấy ngày 19 tháng 6 âm lịch làm ngày vía của Ngài. (Trích Nam Ngũ Đài Sơn Thị Tích Ký)

Ngài Huyền Trang pháp sư trong thời gian còn ở Tứ Xuyên trông thấy một người bệnh, thân mình đầy cả ghẻ chốc, hôi thối không chịu nổi. Động mối từ tâm, Ngài đã trao cho một ít tiền, áo quần và đồ ăn. Rất lạ là người bệnh ấy đọc thuộc lòng bài Bát Nhã Tâm Kinh, truyền dạy cho pháp sư và dạy rằng: Nếu đi đâu găp hoạn nạn nên đọc bài Kinh ấy thì khỏi. Về sau Ngài đi Ấn Độ cầu pháp, trải qua tám trăm dặm Lưu sa hà, gặp không biết bao nhiêu gian nan hiểm trở và vô số ma quỷ yêu quái đoanh vây, Ngài chỉ niệm Tâm Kinh ấy mà đều thoát nạn. Nhờ thế Ngài đạt được mục đích, đến Ấn Độ bình an vô sự. (Trích Tây Du Ký)

Tại Giang Hạ có nhà làm chay. Một em bé gái tới xem, bỗng có một con quỷ hình thù to lớn bắt em ấy bỏ vào trong một căn phòng tối đóng cửa lại. Em la hét rầm lên mà người hai bên đều không nghe thấy. Chốc lát con quỷ ấy dắt em bé chạy! Chạy độ một quãng đường, thoạt thấy ánh sáng hồng chiếu đến, con quỷ rất sợ hãi, bỏ em bé trốn mất. Ánh sáng càng lại gần, em trông thấy, một đoàn người hộ vệ một vị cao lớn mình đeo toàn ngọc anh lạc, cất tiếng hỏi em muốn đi về đâu và tự giới thiệu: “Ta là Nam Hải đại sĩ, nên đi theo ta”. Chốc lát, em thấy đi đến một chỗ đền đài lầu các lung linh, tráng lệ, không phải cảnh giới phàm trần sánh kịp. Đại sĩ cùng nhiều thị giả nói chuyện. Trong số đó có một thị giả dắt đến một con quỷ. Đại sĩ bảo một người bận kim giáp đuổi đi! Lại trông thấy một người đội mão vàng, cúi đầu đảnh lễ đại sĩ và thưa: “Người mẹ em bé này ăn trường trai và thờ Phật rất thành kính”. Đại sĩ nói với em bé: “Mẹ con làm lành rất đáng khen, con nên theo người đội mão vàng này mà trở về, khi đi nên nhắm mắt lại”. Em bé vâng lời nhắm mắt đi theo người đội mão vàng, trong nháy mắt đã đến nhà, thấy mẹ ngồi đầu giương tay bồng một em bé giống hệt như mình. Nó bỗng mê đi rồi tỉnh lại liền ngồi dạy bên giương mở miệng kêu: “mẹ! mẹ!” Hỏi ra mới biết từ khi em bé đương xem đám chay thì bị xâm ngạt nằm thiêm thiếp đã hơn một tháng nay, bây giờ mới tỉnh lại, cả nhà rất mừng rỡ. Về sau em bé ấy lớn lên phát nguyện ăn trường trai và thọ trì Kinh Quán Âm rất chuyên cần. (Trích Dạ Đàm Tùy Lục)

LAO TÙ

Đời nhà Đường có một người tên Đổng Hùng, ông ta làm chức Đại lý quan về triều Đường Thái Tôn, lúc nhỏ đã ăn chay thờ Phật rất thành kính. Nhơn vì có hiềm khích với bạn đồng liêu, bị vu cáo, phải tống giam vào ngục. Không biết kêu cứu vào đâu, chỉ nhất tâm đọc tụng “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ môn phẩm” và niệm danh hiệu Ngài. Rất lạ là gông xiềng tự nhiên được cởi mở mà khóa xiềng vẫn y nguyên. Giám ngục bẩm lên, ngự sử Trương Thủ Nhất thân hành đến khám nghiệm, cho là kỳ quái, và cho xiềng khóa lại rất kỹ lưỡng. Đổng Hùng chiếu thường lệ chí thành tụng Kinh, khóa xiềng laị tự nhiên rớt xuống đất mà niêm phong vẫn như cũ. Nhờ thế được xét lại mới biết là oan, liền được trả lại tự do. (Trích Pháp Uyển Châu Lâm)

Triều nhà Trần có một người tên là Đậu Truyền, khi làm chức bộ binh ở Cao Xương, bị Lữ Hộ bắt làm tù binh, đồng đội 7 người đều bị giam vào ngục thất, định đến vài ngày sau sẽ đem đi giết. Đậu Truyền chuyên tâm niệm danh hiệu Quán âm Thế Bồ Tát 3 ngày đêm, xiềng xích tự nhiên được cởi mở. Đậu thuyền nói: Cá nhơn tôi tuy được thờ Đức Từ bi Bồ Tát cứu độ, nhưng bạn đồng đội còn bị bắt, nỡ nào một mình thoát nạn! Cầu mong Đại sĩ rủ lòng phổ độ. Nói xong đoạn đồng đội tự nhiên cũng được tháo mở xiềng xích. Thừa trong lúc đêm tối mở cửa trốn thoát. (Trích Pháp Uyển Châu Lâm)

GIẶC CƯỚP

Đời nhà Ngụy có một người xuất gia tên là Lãng Đại Sư bị giặc bắt đem đi, giam tại trong vòng vây. Đại Sư cùng bạn đồng học muốn trốn thoát, nhưng bốn mặt bị canh phòng nghiêm mật, vô lộ khả đào, hai bên đều vách đá lởm chởm không biết mấy tầng lớp! Có một cây đại thọ nằm sát bên góc thành, liền leo lên cây dòng dây trụt xuống, đêm đã tối dưới hố lại toàn là gai góc chẳng biết sâu cạn! Không biết để chân vào đâu mà xuống, níu dây thầm nghĩ: nguy rồi đây! Thế rồi mặc niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát! Giây lát thấy hào quang chiếu sáng. Lần trụt xuống đến đất lại thấy một con cọp to lớn, đồng bọn hết sức sợ hãi, không sao thóat khỏi miệng cọp. Đại Sư nói: Chúng ta được cứu, nhất định là nhờ oai lực của Bồ Tát, cọp này chắc chắn không ăn người, phải chăng là Bồ Tát thị hiển để đem đường cho chúng ta, chúng ta cứ theo cọp mà đi, chắc thoát được tai nạn. Lạ thay! Hễ người đi chậm thì cọp cũng đứng đợi. Trời sáng thấy được đường về thì cọp cũng biến đâu mất! (Xuất Cao Tăng Truyện)

Đời nhà Minh, liên hiệu Gia tịnh, có người tên Hoàng Ngạn Sĩ, cùng vợ tên Nhan Thị, gặp thời loạn ly, mỗi người chạy một ngả. Nhan Thị trốn ẩn vào Chùa các Ni cô. Ngạn Sĩ tìm đã 3 năm không dò ra tông tích. Một hôm đi lang thang bên cạnh một ngôi Chùa, trông thấy một cây dương khô. Trong cây có một cái bộng. Ông ta thò tay vào trong bộng lôi ra được một cái gói vàng và một bổn phổ khuyến, tự suy nghĩ: Đây không phải là vàng rơi mà lại là của mười phương Tam Bảo. Ông ta đợi ở đó xem thử có người nào đến nhìn không. Cách một vài hôm thấy có một Ni cô già đến khóc lóc van: “Ta phát nguyện đúc một vị tượng Quan Âm, nên đã khuyền giáo được 3 ngàn vàng, vì sợ gian đạo dòm thấy, nên dấu vào trong mộng cây khô này, không ngờ ai đã lấy mất, bây giờ chỉ có nước chết để đi đền tội mà thôi!” Hoàng Ngạn Sĩ nói: “Tôi ở đây đã 2 ngày đợi người đến nhìn, nay xin y số trả lại bà”. Ni cô già bái tạ và xin mời ghé lại Chùa xơi nước. Ông Hoàng theo Ni cô vào Chùa, đi đến cửa thì nhìn thấy vợ là Nhan Thị ra đón, hai người nhìn nhau chảy nước mắt, kể lại sự tình ly biệt! Kế đó có nhà buôn nọ mời ông ta về kèm trẻ trong gia đình. Về sau ông thi đậu làm quan lên đến chức nhị phẩm, sanh 2 con, vợ chồng đều lên thượng thọ! (Trích Hàng Trung Phàm)