Trang 1 trong 5 12345 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 96

Ðề tài: Truyện cổ

  1. #1
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Truyện cổ

    Truyện cổ

    Mình sẽ post các câu truyện cổ của nước ta vào phần này cho mọi người xem . Mong rằng mod sẽ dành cho một hộp về phần này .

    Hai cô gái và hai cục bứu

    Xưa có một cô gái con nhà nghèo khó, không may cho cô là khi sinh ra đã mang một cục bướu ở mặt. Người càng lớn, cục bướu càng to, vì vậy nhan sắc của cô thua em kém chị. Tuy nhiên cô gái không lấy thế làm buồn, suốt ngày vẫn thường vui đùa ca hát.

    Một buổi trưa hè, cô theo bạn lên rừng kiếm củi. Vì mải mê tìm nấm, cô vui chân quá bước vào rừng sâu, quên bẵng mất trời đã về chiều và mây thì đang kéo tới mỗi lúc một đen sầm, báo hiệu một cơn dông sắp tới. Quả nhiên khi cô định trở về để gặp chúng bạn thì không kịp nữa. Gió thổi mạnh làm cây rừng xào xạc, cành khô gãy răng rắc, những giọt mưa hắt vào mặt. Bất đắc dĩ cô phải tìm chỗ ẩn. May làm sao cô chạy kịp đến một gốc cây cổ thụ, thu mình chui vào một cái hốc để tránh mưa. Nhưng đến lúc mưa tạnh bước ra khỏi hốc thì trời cũng đã tối mịt. "Các bạn ta bây giờ chắc đã rủ nhau về cả. Đường rừng lại tối đi một mình thật là đáng sợ. Thôi đành ở đây đợi sáng, không còn cách nào khác". Nghĩ vậy, cô dọn lại chỗ hốc sạch sẽ rồi lách mình vào đó nằm nghỉ, không quên đặt bó củi chắn cửa để đề phòng thú dữ.

    Đến khuya, có những tiếng hát, tiếng cười và tiếng đàn sáo làm cho cô tỉnh giấc. Cô nhìn ra thấy trăng sáng như ban ngày. Ở một bãi đất bằng phẳng phía bên kia gốc cổ thụ có một đám người đang múa hát vui vẻ. Cô bước ra khỏi hốc. Thoạt đầu cô cứ ngỡ là một đám người đi rừng nào đó lên đây sớm ngồi đợi trời sáng nên bày ra múa hát mua vui. Nhưng khi nhìn kỹ thì hoá ra không phải. Đó là những người hình dung dị thường, ăn mặc khác lạ, có những bộ mặt đen đúa đầy lông lá gớm ghiếc. Cô gái bụng bảo dạ: "Đúng là một bọn quỷ", và cô bỗng rùng mình, nhưng rồi cô liền đánh bạo bước lại nấp sau cây cổ thụ rình xem. Bọn quỷ vẫn múa hát không biết có người đang rình mình. Giọng hát của chúng không hay nhưng thật là vui làm cho cô vui lây. Cho nên cô cũng lẩm bẩm hát theo bằng một giọng nho nhỏ trong cổ họng. Dần dần hứng lên, tự nhiên cô cất cao giọng, quên bẵng là mình đang nấp.

    Nghe tiếng hát, bọn quỷ bỗng im bặt. Rồi cả bọn ùa nhau đến gốc cây. Một đứa nói:

    - Hà hà, khá quá! Ra đây, ra đây, ta cùng hát cho vui.

    Rồi chúng dắt cô ra bãi, bảo cô hát tiếp. Cô lấy can đảm hát lại bài hát vừa rồi. Giọng cô rất ngọt làm cho bọn quỷ phải lắng nghe. Xong một bài, chúng tấm tắc khen ngợi rồi nhảy múa thích thú. Chúng lại đưa những quả sim, quả ổi mời cô ăn. Ăn xong, lại bảo cô hát tiếp, rồi chúng còn lần lượt đàn hát và nhảy nhót suốt đêm.

    Tiếng gà rừng gáy buộc bọn quỷ phải ngừng cuộc vui. Một đứa bảo:

    - Cô hát hay quá! Tối mai đến đây hát nữa nhá!

    Cô gái đáp:

    - Cái đó thì cũng còn tuỳ.

    Nó kêu lên:

    - Ấy, còn tùy thế nào? Chúng mày ơi! Ngộ tối mai cô ấy không đến thì sao?

    Một đứa chỉ vào cái bướu:

    - Ta hãy giữ lấy cái này, chắc là của quý. Mai cô đến đây mà lấy nhé!

    Nói xong phẩy tay một cái, rồi cả lũ biến đi lúc nào không hay.

    Sáng hôm sau cô gái ra về, lòng mừng khấp khởi. Cục bướu đã được bọn quỷ lấy đi một cách thần diệu, làm cho cô trở nên nhẹ nhõm. Gặp ai cô cũng kể chuyện tối hôm trước cho họ nghe. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn đã lan khắp đầu đường xó chợ. Một cô gái con nhà phú ông ở làng bên cạnh cũng không may mang một cục bướu trên mặt, khi nghe câu chuyện, cô này vội vàng đến gặp cô kia xin chỉ chỗ cho mình đi thay, hy vọng nhờ lũ quỷ nhổ cho cái bướu xấu xí trên mặt. Cuối cùng, cô gái nhà phú hộ cũng tìm được đến gốc cây cổ thụ nọ và nấp sẵn trong hốc cây. Nửa đêm, bọn quỷ hiện ra dưới ánh trăng. Chúng tìm đến chỗ cô gái nấp:

    - Nào, cô hãy xuống hát với chúng tôi đi!

    Vốn quen thói gắt gỏng, lại thấy những cánh tay lông lá giơ ra kéo lấy áo, cô vội gạt đi:

    - Buông ra đã nào, tránh để cho tôi xuống. Ôi, kinh tởm!

    Rồi cô cũng nhảy xuống khỏi hốc, nhưng vẫn tỏ vẻ sợ hãi, gớm ghiếc, không dám lại gần lũ quỷ. Cô để cho chúng giục hai ba lần mới cất giọng hát, song nét mặt thì không được vui. Giọng của cô cũng vì thế mà mất tự nhiên. Mỗi lần cô cố gắng cất cao thì giọng lại the thé, nghe chẳng hay ho gì. Cô mới hát được một bài, bọn quỷ đã tỏ ý không hài lòng! Một đứa nói:

    - Hôm qua hát hay thế, sao bây giờ thì chán ngắt! Thôi cô về đi cho rảnh.

    Cả lũ quỷ đồng thanh:

    - Phải đấy, về đi!

    Tiếng đuổi của lũ quỷ nhao nhao làm cho cô gái phật ý, quay lưng trở lui. Nhưng mới đi được mấy bước, cô đã nghe có tiếng chạy theo: Này cô kia, trả lại cô cái làm tin hôm qua.

    Cô vừa ngoảnh lại thì thấy có vật gì mềm nhũn văng vào má. Sờ tay vào mới biết bây giờ không phải là một mà có tới hai cục bướu.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  2. #2
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Hòn vọng phu

    Hòn vọng phu

    Ngày xưa, ở thị trấn Kinh Bắc có một người đàn bà goá chồng từ sớm, ngày ngày đi mò cua, bắt ốc để nuôi hai con, một trai, một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa con trai độ mười tuổi và Tô Thị, con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa nghịch với nhau, không ai kiềm chế nổi.

    Một hôm, Tô Văn chơi ném đá, rồi không biết thế nào ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy thẳng một mạch ra đường không còn dám ngoái cổ lại.

    May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm biết chuyện chạy sang cứu Tô Thị cầm được máu. Ðến khi người mẹ trở về thì con gái đã ngồi dậy được.

    Nhưng còn Tô Văn thì biệt tăm, ngày một ngày hai cũng không thấy trở về, tìm khắp nơi mà không thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi qua đời, bỏ lại Tô Thị một mình. Ðứa con gái nhỏ được hai vợ chồng người láng giềng nhận đem về nuôi. Sau đó ít lâu, họ dời lên xứ Lạng để làm ăn nên đem Tô Thị đi theo.

    Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít vốn, nàng xin phép bố mẹ cho nàng được mở một cửa hàng buôn bán, hai vợ chồng người hàng xóm thấy con mình đã trưởng thành nên đều ưng thuận. Học được nghề làm nem từ bố mẹ, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở hàng Cưa tại chợ Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến thưởng thức nem ngon, nhưng cũng có người vừa thích nem lại vừa yêu bóng yêu gió nàng. Chiều khách thì thật là khéo chiều, nhưng nàng rất đứng đắn làm cho mọi người càng thêm vị nể.

    Thấm thoát Tô Thị đã hai mươi tuổi. Tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.

    Một hôm, có một thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc Bắc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở Hàng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon lại có chỗ cho trọ rộng rãi, chàng thanh niên liền tìm đến. Chàng thấy nem quả thật là ngon và cô bán hàng cũng thật tươi giòn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân thiết, trước còn mến nhau sau yêu nhau. Hai người lấy nhau được hơn một năm thì Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực. Lại thêm mụn con mối tình càng khăng khít.

    Một hôm người chồng về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cái sẹo to, anh nói:

    - Ðầu em có cái sẹo to, thế mà bây giờ anh mới biết.

    - Bây giờ anh mới biết à? Anh cho là xấu phải không? - Tô Thị hỏi.

    - Có xấu gì đâu! Tóc che, có ai mà biết ! Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to thế ?

    Thấy chồng hỏi một cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện. Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những gì xảy ra hồi còn bé. Trấn Kinh Bắc, nơi quê cũ, người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn ở đấy cho đến bây giờ. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn.

    Biết bao đau thương buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm : "Sao mình không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn. Thôi mình đã lấy lầm em ruột rồị" Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng đã lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đã đi lang thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lý. Chàng thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng - Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đình ở miền xuôi chắc không còn một ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không còn nghĩ về đó làm gì.

    Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên, không biết chồng mình đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngây thơ, vui vẻ như thế. Tô Văn càng không muốn cho nàng biết sự thực. Ai lại để cho một người em gái mình còn non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân như thế bao giờ! Một việc loạn hôn không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi hay lại đi biệt chuyến nữa, em gái mình trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm gì chả lấy được một người chồng khác. Văn nghĩ thế, rồi anh tìm cách để đi.

    Giữa lúc tâm trạng Văn như thế thì có việc bắt lính thú. Anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Mãi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói với vợ:

    - Anh đã đăng lính rồi, em ạ! Sớm mai lên đường. Ði chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn. Em ở nhà nuôi con, còn về phần em, em cứ định liệu.

    Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng mình lại bỏ đi một cách quái gở như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc mãi không nói nửa lời. Còn Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc mình đi như vậy là giải thoát.

    Từ ngày chồng đi rồi. Tô Thị chẳng thiết gì đến việc bán hàng, ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng đi được bình yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum họp. Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định chối từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con còn thơ dại không dám chối từ ngay, sợ rước vạ vào thân chỉ tìm cách khất lần. Nhưng khất lần mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng hẹn với lão một kỳ hạn, để sau này tìm mưu kế khác. " Biết đâu đến ngày ấy chồng mình lại chả về!" Nàng nghĩ thế. Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ con mắt mà vẫn không thấy về cho. Nàng ôm con lên Chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp loé khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một lớn. Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót.

    Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời toả ánh sáng xuống núi rừng. Rất nhiều người dân xung quanh khi nhìn lên đỉnh núi thì đã thấy nàng Tô Thị bế con đã hóa đá từ bao giờ. Ngày nay hòn đá ấy vẫn còn ở tỉnh Lạng Sơn, gây cho khách tham quan nhiều nỗi vấn vương khi nhớ lại câu chuyện truyền kỳ éo le của một thời. Vẫn còn đó câu ca dao xưa :

    Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
    Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.


    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  3. #3
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Người tiều phu hóa nai

    Người tiều phu hóa nai

    Ngày xưa, ở đất Cao Bằng, có một người tiều phu mộc mạc hiền lành và hiếu thảo. Anh có một bà mẹ già hay đau ốm. Thầy thuốc bảo là cần có sữa nai tẩm bổ, mới mong chữa lành bệnh cho mẹ. Anh không quản ngại khó khăn, mỗi ngày vào rừng quyết tâm đi tìm kiếm sữa nai về cho mẹ. Nhưng rất khó. Vừa thấy bóng người, nai đã bỏ chạy mất rồi.

    Không lấy được sữa nai, người tiều phu buồn bực, không dám về nhà. Anh ngồi giữa rừng ôm mặt khóc. Bỗng nhiên, thấy có một ông lão chống gậy đến bảo rằng: "Nếu con muốn có sữa nai thì phải mang lốt nai, mới đến gần loài nai được". Rồi ông lão trao cho anh tiều phu một bộ da nai khoác vào người.

    Quả nhiên, sau đó, anh lại gần được các con nai cái, vắt được nhiều sữa đem về nhà chữa bệnh cho mẹ già. Một hôm, ông lão lại hiện ra, ngỏ lời khen lòng hiếu thảo của anh, rồi truyền cho anh các phép đạo thần tiên. Anh học thuộc lòng, không nói cho ai hay biết. Sau khi mẹ già qua đời, anh liền bỏ đi lên núi biền biệt, không trở về nhà nữa.

    Sau đó khá lâu, một hôm, có một người con của ông tiều phu vào núi lấy củi. Anh bỗng gặp một con nai nói được tiếng người. Nai bảo: "Cha đây. Cha đã hoá thành nai rồi, không thể trở lại lốt người được nữa. Cha cho con cái gạc (sừng) đây, con hãy buộc dây mà kéo về. Đến chỗ nào mà gạc vướng, không đi được nữa, thì con hãy lấy chỗ đất ấy mà khai khẩn làm ăn, về sau sẽ khá".

    Nói xong, con nai húc đầu vào thân cây cho rụng gạc ra. Rồi nai biến mất vào rừng sâu. Người con trai vâng lời, làm theo nai dặn. Quả nhiên, về sau được sung túc. Người đời khi biết chuyện, đã gọi người tiều phu hoá nai là Lộc Giác Chân Nhân, cho rằng ông đã tu luyện được thành tiên.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  4. #4
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Nàng tiên thứ chín

    Nàng tiên thứ chín

    Một bà cụ có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. Ðêm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà khóc. Một đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo: "Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được”.

    Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa qua.

    Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương.

    Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang: miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang chói sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà.

    Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng không thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi . Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ đến bên nàng chào hỏi: "Cháu ơi! Ðường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã." Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri - loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người Kinh - cho cô gái yên giấc.

    Ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em.

    Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hoà thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo - vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình.

    Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. Ðược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt.

    Ðược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. "Mẹ ơi!" Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. Ðau khổ quá, họ bưng mặt khóc.

    Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn.

    Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn , bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. (Ðến nay người Hơ- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người).

    Ðã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết.

    Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh... đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo: "Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!" Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông.

    Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê... cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông chảy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá.

    Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ.
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  5. #5
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Con cóc là cậu ông Trời

    Con cóc là cậu ông Trời

    Ngày xửa ngày xưa, con cóc vẫn sần sùi xấu xí như ngày nay, nhưng cóc nổi tiếng giữa muôn loài là một con vật tuy bé nhỏ nhưng rất gan dạ. Gan cóc tía mà lại. Vào một năm không nhớ rõ năm nào, trời làm hạn hán khủng khiếp. Nắng lửa hết tháng này đến tháng khác thiêu cháy cây cối, hút cạn nước sông ngòi, đầm hồ. Muôn loài không còn một giọt nước để uống. Các con vật to lớn hùng mạnh xưa nay tác oai tác quái trong rừng đều nằm lè lưỡi mà thở để đợi chết, không ai nghĩ được kế gì để cứu mình, cứu muôn loài. Sức mạnh của chúng chỉ để bắt nạt nhau thôi chứ đâu có thể làm gì nổi ông trời. Duy có anh chàng Cóc tía bé nhỏ, xấu xí kia là có gan to. Anh tính chuyện lên thiên đình kiện Trời làm mưa cứu muôn loài... Khởi đầu chỉ có một mình nhưng anh đâu có nản. Đi qua một vũng đầm khô, Cóc tía gặp Cua càng. Cua hỏi Cóc đi đâu. Cóc bèn kể rõ sự tình và rủ Cua cùng đi kiện Trời. Ban đầu Cua định bàn ngang. Thà chết ở đây còn hơn chứ Trời xa thế đi sao tới mà kiện với tụng. Nhưng những con vật ở quanh Cua nghe Cóc nói lại tranh nhau mà bàn ngang bàn lùi, làm cho Cua nổi giận. Nói ngang bàn ngang là chuyện ngang của Cua thế mà họ lại dám tranh mất cái quyền ấy, cái quyền được phép ngang như cua cơ mà. Thế là Cua làm ngược lại, Cua tình nguyện cùng đi với Cóc.

    Đi được một đoạn nữa, Cóc lại gặp Cọp đang nằm phơi bụng thở thoi thóp. Gấu đang chảy mỡ ròng ròng và khát cháy họng. Cóc rủ Gấu và Cọp đi kiện trời. Cọp còn lưỡng lự thì Gấu đã gạt đi mà nói rằng:

    - Anh Cóc nói có lý, chẳng có lẽ chúng mình cứ nằm ở đây đợi chết khát cả ư... Ta theo anh Cóc thôi. Đến ngang như anh Cua còn theo anh Cóc được thì tại sao chúng mình không theo.

    Cả bọn nhập lại thành đoàn. Đi thêm một chặng nữa thì gặp đàn Ong đang khô mật và con Cáo bị lửa nướng cháy xém lông. Cả hai con vật này cũng hăng hái nhập vào đoàn loài vật đi kiện Trời do Cóc dẫn đầu.

    Cóc dẫn các bạn đi mãi, đi mãi đến tận cửa thiên đình. Khi đi trên đường cả bọn đều hăng hái nhưng đến trước cửa Trời oai nghiêm, bọn Cọp, Gấu, Cáo, Ong, Cua đều sợ, duy chỉ có Cóc là gan liền dõng dạc ra lệnh:

    - Bây giờ các anh phải nghe lời tôi. Kia là chum nước của Trời, anh Cua vào nấp trong ấy. Anh Cáo nấp ở phía bên trái tôi, anh Gấu nằm ở phía bên phải tôi, còn anh Cọp chịu khó nằm đằng sau tôi. Các anh có nghe lệnh của tôi thì mới thắng được Trời.

    Tất cả đều nghe lệnh của Cóc. Sắp đặt xong đâu đấy Cóc mới nhảy lên mặt trống đánh ba hồi ầm vang như sấm động.

    Ngọc Hoàng đang ngủ trưa một cách lười biếng bị tiếng trống lôi đình đánh thức dậy nên bực tức, bắt Thiên Lôi ra xem có chuyện gì. Thiên Lôi lười biếng vội phủi bụi và mạng nhện giăng đầy trên lưỡi búa tầm sét cắm cổ chạy ra. Thiên Lôi ngạc nhiên vì ở ngoài cửa thiên đình chẳng thấy có một người nào cả chỉ thấy mỗi một con Cóc xù xì xấu xí đang ngồi chễm trệ trên mặt trống của nhà Trời. Thiên Lôi hết nhìn con Cóc lại nhìn lưỡi búa tầm sét khổng lồ của mình và thở dài vì cái búa to quá mà Cóc bé quá, đánh chưa chắc đã trúng được. Thiên Lôi bèn cắm cổ vào tâu Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nghe xong bực lắm bèn sai con gà trời bay ra mổ chết chú Cóc hỗn xược kia.

    Gà trời vừa hung hăng bay ra thì Cóc đã nghiến răng ra hiệu, lập tức chàng Cáo nhảy ra cắn cổ gà tha đi mất. Cóc lại đánh trống lôi đình. Ngọc Hoàng càng giận giữ sai Chó nhà trời xổ ra cắn Cáo. Chó vừa xồng xộc chạy ra thì Cóc lại nghiến răng ra hiệu. Lập tức anh Gấu lừng lững xổ ra đón đường tát cho Chó một đòn trời giáng. Chó chết tươi.

    Cóc lại thúc trống lôi đình đánh thức Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng bèn sai Thiên Lôi ra trị tội gấu. Thiên Lôi là vị thần trời có lưỡi tầm sét mỗi lần vung lên thì thành sét đánh ngang trời, thành sấm động bốn cõi. Sức mạnh của Thiên Lôi không có ai bì được. Ngọc Hoàng yên trí lần này cử đến ông Thiên Lôi ra quân thì cái đám Cóc, Cáo ắt hẳn là tan xác. Vì thế khi ông Thiên Lôi vác lưỡi tầm sét đi là Ngọc Hoàng lại co chân nằm trên ngai vàng mà ngủ tiếp.

    Thiên Lôi vừa hùng hổ vác búa tầm sét ra đến cửa thiên đình thì Cóc đã nghiến răng ra lệnh, lập tức chàng Ong nấp trên cánh cửa bay vù ra và cứ nhè vào mũi Thiên Lôi mà đốt. Nọc ong đốt đau lắm, mũi Thiên Lôi rát như phải bỏng. Nhớ là ở cửa trời có một chum nước. Thiên Lôi vội vàng vứt cả búa tầm sét nhảy ùm vào chum nước chạy trốn. Nào ngờ vừa nhảy ùm vào trong chum nước thì anh Cua càng nấp trong đó từ bao giờ đã chờ sẵn để giương đôi càng như đôi gọng kìm cắp chặt lấy cổ. Thiên Lôi đau quá gào thét vùng vẫy vỡ cả chum nước nhà Trời. Thiên Lôi tìm đường chạy trốn thì Cóc tía lại nghiến răng ra lệnh. Lập tức Cọp nấp sau Cóc tía nhảy bổ ra gầm lên một tiếng vang động xé tan xác Thiên Lôi thành hai mảnh.

    Ngọc Hoàng thấy thế sợ quá bèn xin giảng hoà với Cóc, và xin Cóc cho nhận lại xác của Thiên Lôi để cứa chữa. Cóc bằng lòng ngay. Theo lệnh nghiến răng của Cóc, Cọp và Gấu vác xác Thiên Lôi về xếp lại ở giữa sân điện thiên đình. Ngọc Hoàng phải ra tay làm phép tưới nước cam lồ vào cái xác đầy thương tích đó. Nhờ phép của Ngọc Hoàng, Thiên Lôi mới được sống lại. Ngọc Hoàng nghĩ mình đường đường là một ông Trời mà lại chịu thua Cóc thì thật là điều sỉ nhục, nên tính lật lọng, sai Thiên Lôi vác búa tầm sét chống lại Cóc và các bạn của Cóc. Biết thế nào Ngọc Hoàng cũng tính chuyện lật lọng nên Cóc lại nghiến răng. Lập tức các bạn của Cóc dàn trận. Ong giương nọc, Cáo giương nanh, Cọp giương vuốt, Cua giương càng, Gấu giương cánh tay đầy sức mạnh... Thiên Lôi vừa mới thoát chết hoảng quá lui lại không dám tiến lên, mà thụt vào nấp sau chiếc ngai vàng của Ngọc Hoàng. Các tướng nhà Trời oai phong lẫm liệt thấy đến ông Thiên Lôi còn sợ sệt như thế thì hoảng quá tìm kế thối lui.

    Thấy tướng nhà trời của mình như vậy, Ngọc Hoàng biết không thể thắng nổi Cóc và các bạn của Cóc. Đến lúc bấy giờ Ngọc Hoàng mới thực bụng giảng hoà, và hỏi Cóc lên tận thiên đình có việc gì. Cóc oai phong nhảy hẳn lên tay ngai vàng và dõng dạc thưa:

    - Đã bốn năm nay ở dưới trần gian hạn hán kéo dài, không một giọt mưa. Muôn cây khô héo, vạn vật chết khát... Tưởng Ngọc Hoàng bận gì hoặc là Ngọc Hoàng giận gì trần gian mà ra phúc hoạ, ai ngờ lên đây mới biết Ngọc Hoàng và các tướng nhà trời ngủ quên không nhớ đến việc làm mưa cứu muôn vật muôn loài dưới trần thế... Chúng tôi phải lên tận đây đánh thức Ngọc Hoàng, xin Ngọc Hoàng làm mưa ngay cho trần gian được nhờ.

    Thấy Cóc nói giọng oai phong và bạn bè Cóc lại đằng đằng sát khí, Ngọc Hoàng vội cuống quýt chống chế:

    - Cóc với ta là chỗ thân thích, việc gì mà cậu phải mất công đến như vậy, ta sẽ sai thần mưa, thần gió xuống hạ giới làm mưa ngay bây giờ... Cậu Cóc có bằng lòng thế không nào.

    Cóc gật gù thưa:

    - Muôn tâu Ngọc Hoàng, trần gian được một trận mưa cứu khát thì còn gì bằng nữa... Anh em tôi vô cùng đội ơn Ngọc Hoàng... Nhưng nếu ở hạ giới mà hễ bị hạn hán là bọn anh em chúng tôi lại lên đây kêu với Ngọc Hoàng đấy.

    Nghe Cóc hẹn lại lên thiên đình, Ngọc Hoàng hoảng hồn rối rít lắc đầu xua tay:

    - Thôi khỏi, thôi khỏi phải bận đến cậu như thế... Chỗ cậu và ta là tình thân thích, cậu chả nên bầy vẽ vất vả mệt nhọc như vậy làm gì. Cậu không phải lên thiên đình nữa... Khi nào có hạn hán cậu muốn ta làm mưa, cậu chỉ cần ngồi dưới đất nghiến răng là ta nghe thấy liền.

    Để chứng tỏ lòng thành thật không lật lọng của mình, Ngọc Hoàng sai rồng đen bay xuống phun mưa, và đưa Cóc cùng các bạn về hạ giới. Cơn mưa cứu hạn làm cây cối tươi tốt, muôn loài nhảy múa chào đón anh em Cóc trở về. Từ đó hễ Cóc nghiến răng là trời lập tức đổ mưa; nên đồng dao của trẻ nhỏ ngàn năm vẫn có câu hát rằng:

    Con Cóc là cậu ông Trời
    Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho


    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  6. #6
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Chiếc áo tàng hình

    Chiếc áo tàng hình

    Ngày xưa ở vùng Cao Bằng có một chàng trẻ tuổi, nay đây mai đó làm nghề chài lưới, tên là Triều. Gia sản của anh không có gì ngoài bộ đồ nghề. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vậy người nghèo khổ trong vùng, ai cũng mến anh.

    Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh cá ở vùng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu giúp mọi người không tiếc sức. Một hôm, anh không được mẻ cá nào. Nhưng lúc về dọc đường, anh bỗng thấy một ông cụ đang nằm run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ.

    Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say sưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua. Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết tìm cho ra người gảy đàn. Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá. Ông cụ mải mê gảy đàn không biết có người tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi:

    - Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây?

    Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo:

    - Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tí.

    Triều đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi:

    - Con có nhớ ta không?

    - Có - Triều đáp ngay - Cụ có phải là người nằm ở gốc cây đa đầu làng hôm nọ không?

    - Đúng - Ông cụ trả lời - Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền cho con một chiếc áo khác.

    Nói xong, cụ cởi chiếc áo đang mặc quàng vào mình Triều rồi biến mất.

    Từ ngày được áo của Tiên cho, Triều mới biết đấy không phải là chiếc áo thường mà là một bảo vật, có phép làm cho người ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không một ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh đi chu du khắp nơi. Anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường hoàng đi vào tận buồng chúng, lấy gạo tiền cho những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra đánh giữa công đường thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại thì vẫn không hề tìm thấy ai. Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng Trời Phật đã có con mắt.

    Cứ như thế Triều đi khắp nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kỳ. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thoả mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó nhan nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà Vua lấy của ra phân phát cho họ. Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả. Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị Tiên thường cứu giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu Tiên cũng có mặt, nhưng lại không "xuất đầu lộ diện" bao giờ.

    Về phía Triều, anh vẫn ngày ngày làm công việc cứu giúp dân nghèo, coi đây là phận sự của mình, mà không hề băn khoăn đến chuyện báo đáp. Anh đã làm cho bọn giàu sang xiết bao sợ hãi, lo lắng khi thấy tiền của chúng tự nhiên không cánh mà bay, mặc dầu trong nhà ngoài ngõ đều có người canh gác cẩn mật.

    Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre ở bờ giậu làm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy có thể bị lộ nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó, hàng ngày anh lại vào kho nhà Vua tiếp tục phận sự của mình.

    Từ ngày thấy kho luôn bị hao hụt, nhà Vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra dấu vết gì đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới rất nhạy để chụp vào những nơi mà chúng nghi ngờ.

    Hôm ấy, bọn quan coi kho bỗng thấy có một con bươm bướm trắng ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại những đĩnh bạc trắng xoá, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan coi kho mừng lắm, liền giải anh lên Vua. Vua sai bỏ ngục để chờ xét xử.

    Hồi ấy, có ông Vua một nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà Vua đã cho quân đội ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch tiến như vũ bão. Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác. Nghe được tin này, Triều liền bảo quan coi ngục tâu Vua cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà Vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho anh, và gọi anh đến hỏi:

    - Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã?

    - Tâu bệ hạ - anh đáp, chỉ cần một mình tôi cũng có thể đuổi được giặc dữ. Chỉ xin bệ hạ cho tôi một thanh gươm.

    Vua liền cởi gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng quân, Vua còn ra lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.

    Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ nghe tin anh được tha và phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường.

    Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng. Triều mặc ngay chiếc áo tàng hình vào người đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy tán loạn. Những người đi theo Triều chỉ việc chia nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về. Đến những trại khác của giặc, Triều cũng làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình đều bị chém đầu. Thấy quân sĩ ngã lòng, tên Vua láng giềng đành hạ lệnh rút lui. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy ca ngợi công lao của Triều.

    Lúc Triều kéo quân khải hoàn, Vua khen ngợi anh hết lời. Vua phong cho anh làm quan đại thần, cắt đất đai huyện cho anh ăn lộc, lại gả con gái cho anh làm vợ. Từ đấy người ta quen gọi anh là Quan Thiều. Ngày nay ở Cao Bằng có đền thờ Quan Thiều.
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  7. #7
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Bốn anh tài

    Bốn anh tài

    Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nghèo không con. Hai vợ chồng khấn vái hết đền này đến chùa khác, mãi sau mới sinh được một mụn con trai. Thằng bé lớn lên như thổi. Nhưng càng lớn, hắn càng ăn rất tợn: bung kia, chảo nọ nấu lên bao nhiêu cũng vợi. Hai vợ chồng cố sức làm lụng để nuôi con nhưng nuôi không nổi. Trong nhà có vật gì đáng tiền, họ đều bán sạch để cho con chèn dạ dày. Sau rồi hai vợ chồng nghĩ chỉ có cách cho con đi tha phương cầu thực mới đỡ khốn vì nó. Một hôm, người cha gọi con lại, bảo rằng:

    - Nay con đã khôn lớn mà cha mẹ gần đất xa trời, yếu đuối không làm gì được để nuôi con. Ngày xưa lúc nhà ta còn khá giả, có hoàng đế Trung Quốc vay vàng và bạc đến 70 vạn lạng. Bây giờ con tìm cách sang bên đó đòi lấy mà ăn.

    Nghe nói, người con vâng lời đi ngay. Chàng cứ dọc bờ biển đi lần về phương Bắc. Một hôm, đến một xứ kia, bỗng gặp một người khổng lồ đang tát biển, anh chàng tiến lại hỏi:

    - Anh làm gì đấy?

    Khổng lồ đáp:

    - Tôi tát cạn biển, để tìm vàng ngọc dưới đó.

    - Sức lực một mình làm sao mà tát cạn được.

    - Ta có sức khoẻ không ai bì kịp. Anh cứ thử lại xách gàu của ta xem.

    Nhưng khổng lồ lấy làm lạ vì hắn cũng nhấc nổi cái gàu của mình, bèn mời về nhà kết nghĩa anh em. Anh chàng bèn rủ:

    - Anh hãy đi theo tôi đòi nợ vua Trung Quốc lấy tiền ăn tiêu ngay, còn như tát biển thì chờ lúc nào về, lại sẽ tiếp tục.

    Khổng lồ nghe bùi tai, liền cùng nhau ra đi.

    Một hôm, họ đi đến một hòn núi. Thấy một anh chàng trẻ tuổi ngồi trên một tảng đá lớn có vẻ nhàn hạ, hai người tiến đến hỏi hắn làm gì mà ngồi đấy. Hắn đáp:

    - Ta ngồi đây thỉnh thoảng lại thổi một hơi làm cho ngã cây ngã cối đưa về làm củi.

    Nghe nói lạ, hai người bảo anh làm thử cho xem. Quả nhiên hắn vừa phùng má thổi một hơi thì cây cối ở trước mặt tự nhiên ngã rạp xuống như bị một trận bão nặng nề. Hai người bảo anh rằng:

    - Bác có tài thế sao không đi khắp thiên hạ làm cho nổi tiếng một phen chứ lại sống chui rúc ở xó rừng này làm gì? Thôi! Bác hãy cùng chúng tôi đi đòi nợ vua Trung Quốc, ngó chừng còn thú vị hơn ở đây!

    Anh chàng nghe nói bằng lòng ngay. Rồi đó cả bọn cùng lên đường.

    Mười ngày sau, bọn họ lại đến một khu rừng khác. Thấy từ trong rừng sâu tiến ra một người cao lớn, vai gánh một đôi voi đi như bay. Cả bọn kinh phục, vội gọi giật lại hỏi:

    - Bác gánh voi đi đâu đó?

    - Tôi hàng ngày vào rừng tìm voi mà bắt. Bắt được con nào thì trói giò lại gánh về rữa thịt lấy một hai cây ngà bán kiếm tiền ăn tiêu.

    Cả bọn bảo:

    - Thôi! Sức khoẻ như thế tội gì cặm cụi trong rừng cho khổ. Hãy đi với chúng tôi đòi nợ vua Trung Quốc về chia nhau ăn đi.

    Nghe nói, anh chàng vừa ý vội bỏ voi lại nói:

    - Ừ! thì đi.

    Đến kinh đô Trung Quốc, bốn chàng tìm đến hoàng cung. Một toán lính gác cổng cản lại không cho vào. Cả bọn nổi xung lên, nói:

    - Bọn tao sang đây đòi nợ chứ có phải chơi đâu mà không cho vào.

    Và họ toan giã cho chúng một trận, nhưng anh chàng ăn khoẻ cản lại rồi viết một bức thư đòi nợ, bảo tên lính đem vào cho vua. Hoàng đế Trung Quốc đọc xong lấy làm lạ, liền sai một viên cận thần ra xem thử người nào mà to gan đến như thế. Viên cận thần ra một lát, trở vào tâu rằng:

    - Có bốn tên dị hình dị dạng ở nước An Nam sang, đứa nào cũng quyết đòi nợ được mới về. Chúng nó toan đánh cả lính.

    Hoàng đế nghe nói không vui, nhưng cũng truyền dọn yến đãi đằng tử tế trước khi gặp họ.

    Bốn chàng được mời vào một phòng riêng ăn uống nghỉ ngơi trong vòng vài ba ngày. Nhưng họ ăn uống hung quá đến nỗi qua ngày thứ ba mấy viên quan trông nom về ngự thiện phải vào báo với vua rằng kho thức ăn của hoàng đế vì việc tiếp đãi bốn người khách lạ đã vơi hết già nửa. Hoàng đế nghe nói giật mình, vội bảo mấy viên đại thần tìm cách ám hại họ đi cho khỏi phiền. Người ta được lệnh mời bốn chàng đi thuyền chơi hồ thì đánh đắm cho chết đuối tất cả.

    Quả nhiên bốn anh em không ngờ sa vào mưu gian bị chìm xuống nước. Nhưng giữa lúc nguy cấp thì anh chàng khổng lồ nắm lấy chiếc thuyền như một chiếc gầu rồi tát lấy tát để. Chỉ trong một chốc, đáy hồ khô cạn, cứu ba người kia khỏi chết đuối.

    Thấy họ sống yên lành, hoàng đế tức giận, vội sai dọn yến tiệc khoản đãi, rồi chờ lúc họ no say mới sai mấy đội quân xông vào vây chém. Hôm ấy, bốn chàng vô tình cùng nhau chén tạc chén thù không nghi ngờ gì cả. Bỗng nhiên một tiếng hô vang, phục binh xông ra như kiến. Cả bọn toan chạy, anh chàng thổi khoẻ đã ngăn lại mà rằng:

    - Các anh cứ để yên, để tôi cho bọn chúng xiêu dạt một phen!

    Nói rồi, phùng má thổi mấy hơi, bọn lính chịu không nổi với sức gió, bay văng đi như những chiếc lá khô. Thế rồi ở trong này, bốn chàng vẫn cứ ung dung ngồi chén tì tì cho đến mãn tiệc.

    Lần này hoàng đế Trung Quốc lo lắng hết sức. Vua sai triệu các vị cơ mật đến tính cách đối phó. Nhưng mọi người khuyên vua nên trả quách đi cho êm chuyện. Vua nói:

    - Bảy mươi vạn lạng thì nhiều quá. Các khanh có cách gì bắt chúng giảm bớt được không?

    Một viên quan tâu lên:

    - Bệ hạ cứ bằng lòng trả, nhưng bắt các thần dân, các thuyền bè xe cộ, khắp trong nước không ai được gánh thuê chở thuê cho chúng và bắt chúng nó không được chuyên chở nhiều lần. Như thế dù có sức như Hạng Vũ cũng chỉ mang ra được chừng dăm bảy trăm cân là hết nước.

    Vua bằng lòng theo cách đó. Đến ngày nhận vàng bạc, người ta thấy một mình anh chàng gánh voi quảy hai sọt lớn vào kho. Chúng không ngờ chỉ một người đó mà thôi, đã thừa sức gánh 70 vạn lạng. Bọn quan coi kho không biết làm thế nào, đành cắm đầu cân lấy cân để, vợi hẳn cả kho bạc.

    Được của, bốn anh chàng cúi chào hoàng đế rồi ung dung đi ra khỏi cung. Về nước, họ chia nhau tiêu xài sung sướng trọn đời.
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  8. #8
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Nàng Cu Pên

    Nàng Cu Pên

    Ngày xửa, ngày xưa ở trên một vùng núi cao phía bắc dãy Trường Sơn có chàng Đào Lu dũng mãnh, tuấn tú và nàng Cu Pên xinh đẹp thùy mị nết na. Hai người ở cách nhau một ngọn đèo cao quanh năm mây phủ, không một dấu chân người. Ngọn gió thổi qua ngọn đèo cao luôn kể cho họ nghe về nhau, nhưng không được thấy mặt nhau, vì thế ngày đêm họ ao ước được gặp nhau và mong sao sẽ nên vợ nên chồng.

    Ao ước mãi không được, chàng Đào Lu bèn giắt tên nỏ, xách gươm đi tìm nàng Cu Pên. Chính khi ấy, nàng Cu Pên cũng mặc váy đẹp nhất, đeo gùi chứa đầy lương khô, tay mang dao rừng lên đường đi tìm chàng Đào Lu.

    Họ phạt cây mở lối, vượt qua ngọn đèo chưa bao giờ có dấu chân người để tìm nhau. Đào Lu khỏe hơn, dũng mãnh hơn, nên đi nhanh hơn, đã vượt qua được ngọn đèo và tiến về phía quê hương Cu Pên. Vô tình hai người gặp nhau bên bờ một dòng suối lớn. Tuy không ai biết ai nhưng vừa gặp nhau cả hai đã bàng hoàng e thẹn. Chàng hỏi:

    - Ta đi tìm nàng Cu Pên nên rạch rừng đi lối này, tại sao lại gặp nàng ở đây?

    Nàng nói:

    - Em chính là Cu Pên, em cũng phát rừng mở lối đi tìm chàng Đào Lu, phải chăng chàng chính là Đào Lu?

    Hai người nhận ra nhau, tay cầm tay, mặt nhìn mặt, nghẹn ngào sung sướng.

    Vừa lúc đó có một chiếc thuyền của tên chúa từ xa tới. Thấy nàng Cu Pên xinh đẹp, tên chúa sai quân lên mời nàng xuống thuyền ăn với hắn miếng trầu. Nàng Cu Pên tưởng chúng thực tình, vừa bước xuống thuyền tên chúa liền sai rút ván chèo thuyền chạy như bay. Đào Lu đuổi theo bắn tên phóng lao nhưng không kịp. Chàng chỉ biết nhìn theo con thuyền đã cướp Cu Pên mà khóc.

    Thuyền trôi hết suối đến sông. Nàng Cu Pên không khóc nữa, vì biết có khóc cũng không thoát khỏi tay lũ người ác. Phải nghĩ ra một kế gì mới mong thoát nạn về với Đào Lu. Nhìn thấy giống cây Gơ rên mọc bên dòng sông nàng Cu Pên tự nhủ: Cái cây Gơ rên lá xanh quả chín vàng giống quả xoài rừng thơm ngon này sẽ cứu ta đây. Nàng nói:

    - Ai muốn cưới ta thì hái cho ta một quả Gơ rên chín nhất.

    Nghe Cu Pên nói vậy, tất cả binh lính quan quân của chúa ác đều tranh táp thuyền vào bờ và tranh nhau leo lên cây như một lũ khỉ. Cả tên chúa ác cũng leo lên. Thấy vậy nàng Cu Pên nói thêm:

    - Không kể quan quân, không kể chúa và nô lệ, hễ ai ngắt được quả Gơ rên chín nhất thì được nắm tay ta và được ăn đời ở kiếp với ta.

    Nghe thấy thế bọn giặc rút kiếm chém nhau để giành bằng được quả chín nhất hòng được kết duyên cùng nàng Cu Pên xinh đẹp. Nhân cơ hội ấy nàng Cu Pên cướp lấy tay lái thuyền, cho thuyền lách bến trôi theo dòng sông cuồn cuộn chảy.

    Thuyền trôi trong đêm thâu, một mình nàng Cu Pên ôm mặt khóc. Tiếng khóc của nàng vẳng đến tận trời. Trời động lòng thương sai hai người con trai xuống hạ giới xem ai khóc. Hai chàng trai bay xuống con thuyền trôi vô định, thấy một cô gái khóc, tưởng nàng khóc vì những người cùng đi đã chết dưới gốc cây Gơ rên. Hai chàng bèn biến thành hai con vượn, nhẩy nhót reo hù trên cây Gơ rên. Một con giả vờ ngã từ trên ngọn cây xuống chết. Con kia bèn cắn vỏ cây Gơ rên nhai, lấy nước phun vào con vượn chết. Lập tức con vượn kia sống dậy khoẻ mạnh như thường, rồi hai con cùng biến mất. Nàng Cu Pên đoán biết vượn bầy cách cứu người bèn bỏ thuyền leo lên cây bóc vỏ cây quý chất đầy thuyền, rồi lấy xà tích của chúa ác mặc vào giả làm đàn ông, nhổ sào thuyền trôi theo dòng.

    Thuyền đến làng kia. Cu Pên chợt nghe tiếng khóc của dân làng đang làm lễ chôn cất một cô gái vừa mới chết. Cu Pên bảo họ:

    - Dân làng đừng khóc nữa, tôi có phép làm cô gái xinh đẹp này sống lại.

    Dứt lời, Cu Pên nhai vỏ cây thần phun vào mặt cô gái, lập tức cô gái hồng hào đôi má và chớp chớp mắt tỉnh dậy. Dân làng vui mừng cố giữ người thầy thuốc nhân hậu tài ba ở lại.

    Ở với dân làng nhưng Cu Pên không nguôi nhớ người mình yêu. Một hôm nàng lập một cái chòi cao giữa ngã ba đường, đặt cái lược mà Đào Lu tặng nàng lúc gặp nhau lên chòi rồi bảo dân làng rằng:

    - Nếu có ai cầm cái lược này mà khóc thì giữ lại mang đến cho tôi ngay.

    Sau vài tuần trăng, quả thật có một chàng trai dừng lại bên chòi uống nước, trông thấy cái lược ngà liền cầm lấy ngắm nghía rồi than khóc. Dân làng bèn giữ lại và đem đến cho vị thần y của làng mình, nhưng vừa đến nơi, dân làng lạ quá, vị thầy thuốc đã biến thành con gái từ lúc nào. Nàng chạy ra và reo lên:

    - Chàng Đào Lu, em biết thế nào chàng cũng tìm ra.

    Chàng nắm tay Cu Pên mà nói rằng:

    - Ta đi cùng trời cuối đất tìm nàng vì tin là nàng đang chờ ta.

    Dân làng biết tình yêu của hai người đều cảm động rơi nước mắt. Họ chúc cho hai người gắn bó đời đời trong tình yêu thắm thiết.

    Hai người dẫn nhau về làng xưa ra mắt xin bố mẹ được làm lễ thành hôn. Nhưng bố mẹ nàng Cu Pên giầu có không bằng lòng cho con gái lấy chàng Đào Lu nghèo khó. Cu Pên khóc mấy đêm liền xin cha mẹ thương cho mối tình của mình nhưng cha mẹ nàng một mực không ưng. Buồn quá nàng ra gốc dừa và khóc rằng:

    - Dừa ơi, dừa rủ lá xuống đây che cho thân ta.

    Lá dừa rủ xuống, nàng Cu Pên nhân hậu và xinh đẹp nhắm mắt xuôi tay chết. Cha mẹ nàng vô cùng hối hận nhưng đã quá muộn. Họ làm lễ cúng linh đình, một con trâu, một cái chiêng và một cái gùi, chôn nàng theo nghi lễ sang trọng.

    Từ phía núi bên kia hay tin nàng Cu Pên không thắng nổi cha mẹ đã tự tìm đến cái chết, chàng Đào Lu cũng tìm đến cây dừa mà khóc rằng:

    - Dừa ơi hãy rủ lá xuống đưa ta đi theo người yêu của ta.

    Chàng Đào Lu chết theo người yêu. Hồn chàng bay qua suối sâu, bay trên núi xanh vào làng mây trắng. Vừa đi chàng vừa gọi:

    - Ơ làng mây trắng ơi, có thấy nàng Cu Pên xinh đẹp đeo gùi đi qua đây không? Ơ làng mây vàng ơi có thấy nàng Cu Pên nết na đeo chiêng đi qua đây không? Ơ làng mây xanh ơi, có thấy nàng Cu Pên chung tình dắt trâu đi qua đây không?...

    Dân làng mây trắng, mây vàng, mây xanh đều đồng thanh trả lời chàng Đào Lu rằng:

    - Nàng Cu Pên chờ chàng ở đây không được, vì nàng đã làm lễ gội đầu cho hồn nàng lên làng trời... còn chàng chàng chưa làm lễ gội đầu làm sao chàng vào cửa trời để gặp nàng Cu Pên xinh đẹp, nết na, chung tình.

    Vừa lúc ấy nàng Cu Pên từ trên làng trời gọi xuống rằng:

    - Em vẫn đợi chàng ở làng trời, chàng về bảo với mẹ cha làm lễ gội đầu cho hồn chàng, chàng lên đây ở với em mãi mãi.

    Hồn chàng Đào Lu lại vọng xuống trần gian xin cha mẹ làm lễ gội đầu. Nhà cha mẹ chàng nghèo không có trâu, không có chiêng để làm lễ. Cuối cùng hai ông bà già chỉ còn cách đan một cái gùi thật đẹp. Lệ trời không khe khắt như lệ trần gian, cái gùi đẹp cũng đủ làm lễ cho Đào Lu rồi, thế là Đào Lu được đi qua cửa nhà trời. Mãi đến lúc này, sau khi đã đi qua cửa nhà trời, nàng Cu Pên và chàng Đào Lu mới có thể sống đời đời bên nhau, gắn bó không gì có thể chia cắt được.

    (Truyện cổ dân tộc Tà Ôi)

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  9. #9
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Chú chó tinh khôn

    Chú chó tinh khôn

    Từ ngày xửa ngày xưa đồng bào người Việt gốc Khơ me ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thường kể chuyện về một chú thỏ tinh khôn. Chuyện của chú nhiều và dài lắm, vì trí khôn của chú lớn và chiến công của chú kể hết năm này qua năm khác không thể hết được.

    Một hôm thỏ đang nằm ngủ dưới một gốc cây sung. Bỗng một quả sung chín rụng rơi đánh bốp một cái giữa đầu thỏ. Vốn nhát, thỏ giật bắn mình chồm dậy và chạy. Chạy như gió cuốn, chạy như bay. Hổ thấy thỏ chạy thì cản đường hỏi tại sao thỏ chạy. Thỏ trợn mắt nói:

    - Không chạy thì chết mất ngáp. Đất đang sụt dưới chân ầm ầm kia kìa... Chạy đi thôi...

    Hổ nghe hoảng hồn, cũng cắm đầu chạy đứt hơi đuổi theo thỏ. Nhưng hổ làm sao mà đuổi kịp.

    Thỏ chạy trước còn hổ thì vừa chạy vừa thở phì phò như kéo bễ. Thần Gió Giêvata cười phì bảo:

    - Hổ ơi sao mày to xác thế mà để thằng thỏ nhãi ranh nó lừa mày. Đất có bao giờ sụt đâu mà cần phải chạy.

    Nghe thần gió, hổ tin ngay liền tìm thỏ để trừng phạt cho bõ tức. Nhưng thỏ bình tĩnh hỏi:

    - Bác hổ ạ, bác ăn thịt cháu cũng được thôi, nhưng phiền một nỗi là toàn thể loài vật vừa bầu cháu làm vua rồi. Bác từ nay cũng phải coi cháu là vua. Nếu bác không tin bác cứ thử đi với cháu mà xem. Chắc hơn hết bác cứ để cháu ngồi lên lưng, ta đi dạo một vòng, nếu không đúng là các loài sợ oai vua của cháu thì bác cứ việc ăn thịt.

    Hổ ngờ ngệch bằng lòng cõng thỏ đi một vòng rừng, đi đến đâu trăm loài đều sợ sệt bỏ chạy. Họ chạy vì hổ mà hổ cứ tưởng họ sợ oai thỏ thật. Lúc ấy thỏ mới ra oai quát hổ rằng:

    - Nhà ngươi thấy chưa! Trăm loài trong rừng đều sợ ta. Thế mà nhà ngươi còn dám láo với ta. Lần này thì ta tha, vì nhà ngươi chưa biết oai của ta là vua của núi rừng, lần sau ta sẽ trị tội nghe không!...

    Hổ sợ quá đành vâng lời.

    Lừa hổ xong, thỏ cũng bỏ trốn luôn, nhưng vì bụng đói, thỏ muốn trở lại bãi cỏ xanh non bên bờ suối. Thỏ đã định phóng mình chạy ra đấy nhưng chợt nhớ lần trước mình đã lừa cá sấu nếu ra cá sấu có thể giết chết mình mất. Thỏ sợ đành gậm cỏ trong rừng vừa già vừa khô. Ăn mãi chán quá, thỏ tự nhủ có thể cá sấu quên chuyện cũ rồi chăng. Ra đến nơi thấy cá sấu bận ngủ không để ý gì đến thỏ, thỏ càng tin là cá sấu đã quên chuyện cũ thật. Ai ngờ cá sấu cũng rất cao tay, lừa thỏ đến gần bèn chẳng nói chẳng rằng há mồm ra đớp gọn, chỉ còn chờ nuốt vào trong bụng nữa là hết đời con thỏ tinh khôn. Thỏ sợ quá, rụt rè hỏi:

    - Này bác cá sấu, bác có định ăn thịt cháu thì ăn nhanh lên cứ ngậm mãi làm gì, cháu sợ lắm.

    Cá sấu cười mím miệng:

    - Hút... hút... hút... tao sẽ làm cho mày sợ chết khiếp... chết khiếp... chết khiếp... trước khi nuốt mày vào bụng... hút... hút... hút...

    Thỏ nhận ngay ra rằng muốn giữ mồm, mõm cá sấu dài phải mím chặt nên chỉ cười hút... hút được mà thôi... Thế là thỏ ta cười vang:

    - A ha, buồn cười quá... buồn cười quá... cá sấu ngọng nên cứ phải kêu hút... út... làm sao ta sợ được... Muốn ta sợ mày phải cười ha... ha... cơ... chứ thế này thì buồn cười đến đứt ruột mất thôi.

    Cá sấu tức quá quát:

    - Tao mà ngọng à... thằng thỏ ranh... nghe đây... dỏng tai mà nghe ta cười đây... ha... ha... ha...

    Để cười ha ha cá sấu phải ngoác miệng ra, thế là lập tức thỏ nhảy tót ra khỏi mệng cá sấu và quay lại dạy cá sấu rằng:

    - Này thằng cá sấu ngu ngốc kia... Nghe đây... Từ nay trong miệng đang ngậm mồi thì chớ có cười ha ha nghe không...

    Dứt lời thỏ chạy vào rừng.

    Một lần có người muốn thử tài của thỏ, bèn đưa cho thỏ một cái đơn kiện vô cùng tối nghĩa. Đơn viết rằng: "Cách đây ít lâu, có người lấy trộm của tôi một con trâu. Không phải trâu đực cũng không phải trâu cái. Không phải năm ngoái cũng không phải năm nay, người lấy không phải họ hàng, cũng không phải người ngoài".

    Thỏ chuyển đơn kiện lên các quan, các quan đều ngơ ngác chẳng thể nào hiểu được lá đơn kiện nói gì, phải nhờ thỏ giảng giải rằng:

    - Vụ mất xảy ra vào đêm ba mươi Tết. Vì đêm đó có thể gọi là đêm cuối cùng của năm ngoái, nhưng cũng có thể coi là ngày đầu tiên của năm nay. Còn con trâu bị mất trộm không phải là trâu đực cũng không phải là trâu cái chỉ có thể là trâu thiến. Mà kẻ lấy trộm dứt khoát là thằng rể. Vì chỉ có thằng rể mới không phải là người trong nhưng lại không phải là người ngoài họ.

    Nghe thỏ giải thích các quan toà đề phải kính phục. Lúc đó, quan toà đang đau đầu về một vụ kiện không cách nào xử được, vội xin thỏ xử giùm. Vụ kiện đầu đuôi như sau:

    Có một người cưới vợ. Anh ta yêu quý vợ đến nỗi suốt ngày chẳng muốn rời nửa bước. Nhưng rồi đến buổi loạn ly anh phải đăng lính, không đi không được. Người vợ tiễn chồng đi hết đường này đến đường khác không nỡ rời tay. Đến mãi gốc cây đa kia, người chồng mới dừng lại tâm sự biết bao nhiêu điều, mãi đến khi trống thúc quân vang dậy, loa thét động trời, người chồng mới đành dứt áo ra đi. Không ngờ ở gốc đa có một con yêu tinh. Nó nghe hết mọi điều tâm sự của hai vợ chồng, lại thấy người vợ xinh đẹp, nó đành nghĩ ra một kế độc. Vài hôm sau nó bèn giả dạng thành người chồng vác gươm, giáo về quê hương nói rằng vua không bắt lính nữa. Vì biết tất cả mọi điều riêng tư của hai người nên con yêu tinh làm cho người vợ cứ yên trí đây là chồng mình thật không một chút nghi ngờ gì.

    Người chồng sau một thời gian chinh chiến được hồi hương, anh mừng lắm vội vã về nhà đập cửa gọi vợ. Người vợ mở cửa thì thấy lạ quá, ngoài cửa cũng là chồng mình. Người chồng trong nhà quát hỏi người chồng ngoài cửa rằng:

    - Mày ở đâu mà dám giả dạng là tao để nhận xằng vợ tao.

    Người chồng mới về uất ức vặn lại:

    - Người đàn bà này chính là vợ tao, tao mới cưới được vài ngày thì phải đăng lính. Mày ở đâu đến mà dám nhận xằng vợ tao là vợ mày.

    Hai bên cãi nhau chẳng bên nào chịu bên nào, đến người vợ cũng đành chịu, vì hai người giống nhau quá, không thể nào phân biệt được ai là chồng thật ai là chồng giả.

    Việc đưa lên quan, quan cũng đành chịu. Vừa may có thỏ ta nổi tiếng quan toà, nên chính quan toà nhờ thỏ xử hộ.

    Thỏ bèn hỏi hai người chồng rằng:

    - Ai là chồng thật của người đàn bà này?

    Cả hai người đều tranh nhau nhận. Thỏ gật gật đầu ra vẻ suy nghĩ rồi bảo cả hai người rằng:

    - Nếu là chồng thật thì phải biết trong cái hũ nào của vợ giấu một viêm kim cương. Chị vợ đâu mang hết hũ nhà chị ra đây!

    Người vợ ngạc nhiên vì mình có giấu kim cương vào hũ bao giờ đâu, nhưng nghe lệnh của thỏ, chị cũng đành khuân hết các hũ nhà mình ra trước toà. Bấy giờ thỏ mới bảo rằng:

    - Ai trong hai người không dùng tay, không được chạm vào hũ mà chui vào trong hũ ngậm được viên kim cương ra thì người đó chính là chồng người đàn bà này.

    Nghe lệnh như thế, quỷ ta mừng lắm, bèn rùng mình, chui ngay vào hũ đầu tiên, thỏ ta bèn ra lệnh cho người chồng thật bịt ngay miệng hũ lại, mang vứt xuống sông. Quan toà ngơ ngác, thì thỏ cười mà rằng:

    - Phải vứt nó đi thôi, giam nó vào hũ vì nó là yêu tinh. Chỉ yêu tinh mới có thể chui vào trong hũ. Thôi hai vợ chồng anh về nhà đi. Đừng chần chừ ở đây mà quan toà ác hơn cả yêu tinh lại cướp mất vợ của anh, thì thỏ tôi cũng đành bó tay không còn cách gì giúp nữa đâu.

    Dứt lời thỏ nhảy tót vào rừng làm cho đám quan toà tức điên lên mà chẳng kịp làm gì cả...
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  10. #10
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Anh chàng nghèo khổ

    Anh chàng nghèo khổ

    Ngày xưa có hai mẹ con anh chàng nghèo rớt mồng tơi. Anh chàng lang thang đi kiếm việc làm nhưng chả có ai cho thuê cả. Mãi sau, có một chủ thuyền buôn thấy anh khoẻ mạnh, lại biết bơi lội mới thuê làm thuỷ thủ. Hắn hứa cho anh cơm một ngày ba bữa và một năm bốn mươi quan tiền trả trước. Anh chàng tưởng không có mừng nào hơn thế nữa, vội cầm ba mươi quan về cho mẹ tiêu, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc.

    Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn. Trên bến người mua kẻ bán chen chúc như hội. Bọn thuỷ thủ bảo chàng:

    - Ở đây buôn thứ gì cũng được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán là tự khắc có lãi.

    Anh chàng xưa nay không quen buôn nên cầm mười quan tiền trong tay, chưa biết nên mua thứ hàng gì. Bỗng chốc, anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt dọn tiệc, không rõ cất đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi bỏ sông. Nghe kể thế, anh chàng xin mua lại con chó. Người kia cười mà rằng:

    - Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì?

    Chàng đáp:

    - Thây kệ, cứ bán nó cho tôi đi!

    Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan mua lại con chó cởi trói cho nó; đoạn xích lại bên chỗ mình làm việc.

    Sau đó một chốc, anh lại trông thấy có một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài để con vật lại cho mình. Thấy người đàn bà khuyên không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói:

    - Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi!

    Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan để mua, đem buộc lại gần bên con chó. Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn, anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi xử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản:

    - Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu?

    - "Mặc kệ chúng tôi", bọn trẻ đáp "Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì?"

    Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là tất cả số tiền mang theo lần lượt vơi đến hết. Mua được con rắn, anh vội thả xuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình, thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên, không nói gì cả.

    Khi thuyền bắt đầu trở về vào khoảng nửa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc mà nói:

    - Cha tôi là Long Vương cảm ơn anh cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình, anh có thể đi được dưới nước cũng như đi trên bộ.

    Anh chàng nghe nói vội vàng chèo đi theo con rắn nước xuống thuỷ phủ. Quả nhiên anh được Long Vương tiếp đãi rất hậu, và biếu anh ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó, anh được người của Long Vương đưa về đến tận nhà.

    Chủ thuyền mất hút anh, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại trình xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên vì anh thuỷ thủ trẻ đã về đến nhà ba ngày trước rồi.

    Từ đó anh trở nên giầu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái rất đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang, thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm, nên một hôm lấy trộm mang đến cho một người thợ kim hoàn, bảo đánh cho mình một chiếc nhẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quý ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo mà cướp lấy bảo vật.

    Khi biết rõ chuyện mất cắp thì anh chàng thuỷ thủ trở nên buồn bã. Hàng ngày anh ra bờ sông, mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc.

    Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì để vượt cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi cho các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi lên lưng, chở qua sông yên lành.

    Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó:

    - Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong xóm xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào, không ai biết.

    Quả nhiên, bầy chó của nhà người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới cái hầm, vô sự.

    Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão kim hoàn đều bỏ trong cái rương xe, luôn luôn khoá kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đến gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ việc mình đến đây và nhờ hắn giúp mình lấy cho được viên ngọc, đổi lại mèo hứa sẽ không chạm đến gia tộc nhà hắn. Chuột chúa đàn vâng dạ rối rít.

    - Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhà khoét chiếc rương ra, tìm cho các ông.

    Nhưng đến khi lọt vào được rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo cho mèo biết, và nói:

    - Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu trong đó; cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được.

    - Vậy làm thế nào bây giờ? - mèo hỏi.

    - Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ấy ra đây cho các ông tìm.

    - Thế thì làm gấp đi.

    Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã lấy được cái hộp đưa cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.

    Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã để cho ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc vội bơi tới đớp và nuốt ngay.

    Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá, mắng cho một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thinh, cuối cùng mếu máo:

    - Biết làm sao bây giờ?

    Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó:

    - Chúng ta sẽ tìm đến nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ kiếm cách cướp lấy đem về.

    Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật tỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế.

    Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo tiến lại cọ vào người chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và lập tức cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo trước con mắt ngơ ngác của mấy bố con nhà ông chài.

    Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt, bảo chó:

    - Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà rồi, chả sợ gì nữa.

    Nó nói thế nào thì làm như thế.

    Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên đầu mèo, thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu trên cành cao. Thấy ngọc lại mất, đến lượt chó mắng mèo rất dữ, rồi nói:

    Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng.

    Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó:

    - Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế.

    Chó hỏi:

    - Kế gì?

    Đáp:

    - Giả chết bắt quạ.

    Nói xong mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn mình thì tới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết. Quạ đang ngậm ngọc, đậu trên cây cao nhìn xuống thoáng thấy có bóng con vật chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy Quạ. Quạ van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế, ngoạm lấy viên ngọc ra đi.

    Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được món tặng vật của Long Vương, hết sức vui mừng càng thêm quý mến hai con vật có tình có nghĩạ

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  11. #11
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Chàng Na Á

    Chàng Na Á

    Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ. Anh thẳng tính, không kiêng nể một ai, cũng chẳng sợ trời phật. Thấy anh thật thà, lại hay lam hay làm, người trong vùng ai cũng yêu mến. Cảm lòng tốt của anh, Táo Quân thường hóa thành một ông già làm bạn với anh. Còn anh cũng rất yêu quý Táo Quân. Táo Quân bảo gì, anh cũng nghe và thường tìm cách mách cho mọi người làm theo. Nhờ vậy, bà con trong vùng tránh được nhiều tai nạn. Trong vùng có một cô gái đẹp người, tốt nết vẫn thầm yêu anh. Một hôm, nhân lúc trò chuyện, Táo Quân ướm hỏi anh:

    - Na Á này, anh có muốn lấy vợ không?

    Na Á thành thật đáp:

    - Thưa cụ, cháu nghèo thế này thì ai lấy ạ!

    Táo Quân nói:

    - Thôi anh cứ muốn có vợ là được. Mọi việc cứ mặc lão lo liệu.

    Ít lâu sau cô gái nọ trở thành vợ Na Á. Hai vợ chồng sống với nhau rất hòa thuận, tiếng khen khắp gần xa. Cả hai vợ chồng Na Á đều chăm chỉ làm lụng, trong nhà dần dần có cái ăn cái để. Mỗi lần ai khen Na Á tốt số thì anh thường bảo: "Số mệnh gì đâu. Âu cũng là nhờ hai bàn tay".

    Không ngờ câu nói ấy của Na Á lọt đến tai Ngọc Hoàng. Đã từ lâu Ngọc Hoàng ghét Na Á vì tội bất kính, nay lại nghe anh coi thường cả số mệnh thì nổi giận. Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lôi lập tức xuống đánh Na Á.

    Lệ thường hễ nhà nào sắp xảy ra chuyện gì thì Táo Quân được biết trước. Táo Quân tìm Na Á, bảo:

    - Này Na Á! Tối nay Thiên Lôi xuống đánh anh đấy!

    Na Á hỏi:

    - Biết lúc nào Thiên Lôi xuống, hở cụ?

    Táo Quân bảo:

    - Tối nay, khi nào có mưa to gió lớn, sấm chớp nổi lên là lúc Thiên Lôi xuống đấy! Thiên Lôi xuống thế nào cũng phải đứng trên nóc nhà. Vậy anh có cách gì làm cho Thiên Lôi trượt chân ngã thì sẽ không việc gì.

    Na Á suy nghĩ mãi. Cuối cùng anh nghĩ ra một kế. Anh lấy lá chuối lợp lên mái nhà. Anh lại hái thật nhiều rau đay và rau mồng tơi giã nhỏ, nấu thành một thứ hồ sền sệt, trơn nhầy nhẫy. Anh đem phết thứ hồ ấy lên lá chuối trên nóc nhà. Tối đến, anh cầm sẵn đòn ống, ngồi ở góc nhà đợi Thiên Lôi.

    Trời mỗi lúc một tối. Đến nửa đêm thì mưa to, gió lớn nổi lên. Sấm chớp nổ vang trời. Thiên Lôi hung hăng rẽ mây bay xuống. Nhà Na Á đây rồi! Thiên Lôi nhảy thẳng xuống nóc nhà để đánh Na Á. Huỵch! Thiên Lôi vừa đặt chân xuống nóc nhà thì giẫm phải lá chuối phết hồ, bị trượt chân, ngã lăn quay xuống sân, đánh rơi cả lưỡi tầm sét. Thiên Lôi chưa kịp hoàn hồn thì bỗng: "Phịch! Phịch! Phịch!" và Thiên Lôi bị đòn ống nện vào lưng! Hắn kêu: "Cứu với! Cứu với!". Tiếng Thiên Lôi kêu cứu hỗn loạn trong tiếng sấm ầm ỳ... Vất vả lắm Thiên Lôi mới thoát được trận đòn, tơi tả bay về trời.

    Nghe tiếng sấm sét, Ngọc Hoàng khấp khởi mừng thầm, tưởng Thiên Lôi đã đánh chết Na Á. Giữa lúc đó, Thiên Lôi mặt mày sưng húp, áo quần rách bươm, bước vào. Thiên Lôi kể hết mọi nỗi cho Ngọc Hoàng nghe. Ngọc Hoàng vô cùng kinh sợ, tức tốc ra lệnh cho Diêm Vương phải trừ ngay Na Á.

    Diêm Vương vốn căm ghét Na Á từ lâu, bây giờ được lệnh Ngọc Hoàng, Diêm Vương lấy làm mừng lắm. Diêm vương vội hội họp các tướng độc ác nhất để bàn mưu giết Na Á.

    Quận Rết là viên tướng giỏi nhất của Diêm Vương tình nguyện một mình đi trị tội Na Á. Rết vốn thân hình nhỏ bé, dễ luồn lỏi. Rết leo giường, chui vào gối, định ban đêm sẽ bò ra cắn cổ Na Á.

    Táo Quân dò biết việc này vội mách cho Na Á biết, Na Á mỉm cười bảo ông vua bếp:

    - Cụ đừng lo! Cháu đã có cách.

    Tối đến, trước khi đi ngủ, anh đem nhúng chiếc gối vào nước sôi. Thế là quận Rết chết chín nhừ.

    Diêm Vương đợi mãi không thấy Rết về, lấy làm lo, liền sai quận Rắn lên hợp sức với quận Rết. Rắn vâng lệnh đi ngay. Rắn ta chui vào đống rạ đầu hè, chờ ban đêm sẽ bò ra cắn chết Na Á.

    Táo Quân lại tin cho Na Á biết. Ông bảo:

    - Quận Rắn độc lắm đấy, anh phải cẩn thận mới được!

    Na Á cười bảo:

    - Cụ đừng lo! Cháu đã có cách.

    Tối đến, Na Á vác gậy ra đống rạ. Quận Rắn đang rúc trong đống rạ ngủ say thì bị Na Á đập cho mấy gậy giập đầu.

    Thấy hai tướng giỏi đi mất không trở về, Diêm Vương lại càng lo, sai quận Cú là viên tướng miệng lưỡi độc địa đi dò la tin tức. Quận Cú vâng lệnh đi ngay. Cú đi một lúc, vội quay về báo với Diêm Vương: “Hai tướng đã bị Na Á giết cả”. Diêm Vương kinh sợ, liền sai Cú đi báo thù.

    Cú bay đến nhà Na Á. Lúc này, Táo Quân và Na Á đi vắng. Cú bay thẳng vào cửa sổ, thấy vợ Na Á đang nằm ngủ trên giường. Cú vươn cổ nhìn vào và kêu luôn ba tiếng. Vợ Na Á bỗng giật mình, rồi tắt thở. Giết xong người phụ nữ, Cú bay vào rừng xanh, đợi dịp trở lại giết luôn cả người chồng là Na Á.

    Đi làm về, thấy vợ mình bỗng dưng lăn ra chết, Na Á thương xót vô cùng, vội chạy đi hỏi Táo Quân. Táo Quân bảo:

    - Việc này là do quận Cú đây! Anh phải bắt cho được Cú thì mới có cách cứu vợ anh.

    Na Á suy nghĩ rồi nói:

    - Cháu có kế này nhưng phải nhờ tay cụ. Chiều nay, mời cụ trở lại đây.

    Na Á chặt tre đan một cái lồng hình cái nơm nhưng có đáy. Anh đem quét sơn xanh đỏ cái lồng, trông rất đẹp. Anh đưa lồng cho Táo Quân và bảo:

    - Quận Cú là giống chim, ắt thích ở lồng. Cụ giả đem biếu hắn cái lồng này. Chờ khi hắn chui vào thì cụ đóng ngay cửa lại, rồi xách lồng về đây cho cháu.

    Táo Quân cầm lồng đi thẳng đến rừng xanh, núi đỏ. Quả như lời Na Á nói. Thấy Táo Quân xách lồng son đến, quận Cú mừng khấp khởi. Qua vài câu chuyện, Cú ngỏ ý xin cái lồng. Táo Quân bảo:

    - Tôi định đem đến biếu anh. Nhưng không hiểu anh có ưng ý không. Anh thử chui vào xem có vừa không đã.

    Cú ta tối mắt về cái lồng sơn xanh đỏ, liền chui tọt vào. Táo Quân đóng sập cửa lại. Cú ngơ ngác bảo:

    - Ông định nhốt tôi lại à?

    Táo Quân hỏi:

    - Mày dùng cách gì mà giết được vợ Na Á?

    Quận Cú đành phải thú tội:

    - Tôi chỉ cần kêu ba tiếng thì có người phải chết.

    Táo Quân lại hỏi:

    - Tại sao mày chỉ kêu có ba tiếng mà chết người được?

    Quận Cú nói:

    - Việc này không thể nói cho ngài biết được.

    Táo Quân tức giận bảo:

    - Mày không nói thì tao sẽ giao mày cho Na Á giết thịt.

    Vừa nói Táo Quân vừa lắc mạnh cái lồng làm cho Cú tối tăm cả mặt mũi.

    Cú đành nói thật:

    - Tôi có hai lưỡi. Một lưỡi đen kêu lên thì chết người. Còn kêu bằng lưỡi đỏ thì người chết sẽ sống lại.

    Táo Quân bảo:

    - Cho tao xem cái lưỡi đen của mày!

    Cú thè lưỡi đen ra cho Táo Quân xem. Táo quân rút dao cắt phăng cái lưỡi độc ấy đi. Quận Cú mất lưỡi độc rồi, Táo Quân xách ngay lồng Cú về cho Na Á. Na Á xách dao đến, bảo Cú:

    - Kêu ba tiếng ngay, nếu không tao sẽ giết chết!

    Cú buộc lòng phải kêu lên ba tiếng. Cú vừa dứt tiếng kêu thì vợ Na Á từ từ mở mắt. Chị sống lại, khỏe mạnh như xưa. Xong việc, Na Á mở cửa lồng cho Cú bay ra. Cú vội bay về báo cho Diêm Vương biết mọi việc xảy ra. Diêm Vương run sợ, vội làm sớ tâu lên Ngọc Hoàng.

    Được tin, Ngọc Hoàng lo toát mồ hôi, liền xuống lệnh cho Long Vương đem tất cả các loài thủy tộc dâng nước lên thật mau để dìm chết Na Á.

    Táo Quân vội báo tin dữ này cho Na Á biết. Cụ bảo Na Á:

    - Phen này thì nguy mất, anh ạ.

    Na Á ung dung nói:

    - Cụ đừng lo! Nước dâng lên thì cháu sẽ lên đánh trời.

    Thế rồi Na Á bảo dân làng mỗi người đóng một chiếc bè lớn, sắm sửa thật nhiều lương khô, trên bè cắm thật nhiều bông lau làm cờ. Khi nào nước lụt thì kéo nhau lên bè. Hễ nước dâng lên thì cứ đánh trống, reo hò thật khỏe vào.

    Mọi người nghe theo lời Na Á. Anh cũng tự mình đóng một chiếc bè. Bè làm vừa xong thì nước lụt tràn đến. Na Á và dân làng cứ mỗi nhà một bè, sẵn sàng chống lụt. Nước càng lên. Na Á càng thúc trống, bảo mọi người hò hét cho thật ầm ĩ.

    Nước lên mỗi lúc một cao, ngập cả ruộng vườn đồi núi. Trâu bò, gà vịt đều bị cuốn theo dòng nước. Na Á và mọi người không chút sợ hãi, vừa đánh trống vừa reo hò. Mưa càng to, gió càng lớn thì những bông lau trên các bè càng lung lay mạnh. Na Á thét lớn: "Nước lên nữa đi! Mau mau đưa ta đến cổng trời để ta phá Thiên đình".

    Nước dâng lên gần đến nhà trời. Ngọc Hoàng nghe tiếng hò hét ầm ĩ, liền sai một tướng nhà trời ra xem. Viên tướng đi một lúc, vội chạy về báo:

    - Nguy to! Nguy to! Na Á kéo quân định phá Thiên đình!

    Ngọc Hoàng hoảng sợ, vội ra lệnh cho Long Vương lập tức rút nước xuống. Ngọc Hoàng lại tức tốc triệu các thiên thần về trời, mặc cho Na Á muốn làm gì thì làm ở trần gian.

    Từ đó, hễ khi nào lau trổ bông thì trời không còn sấm sét nữa, mực nước các sông cũng đều rút thấp. Người già bảo đó là vì Ngọc Hoàng, Thiên Lôi và Long Vương sợ Na Á lại kéo quân lên phá Thiên đình.

    HELLBOY(st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  12. #12
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Chiếc cầu phúc đức

    Chiếc cầu phúc đức

    Ngày xưa có anh chàng chuyên sống về nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được nhiều, có lúc được ít, nhưng trong nhà không bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa nhịn.

    Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng ôn lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng xưa kia.

    Xưa kia ông nội của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món đáng bạc chục, bạc trăm, vậy mà khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì.

    Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm dưới, mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng, lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần bốn chục tuổi đầu.

    Ôn lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán ngẩm.

    Một đêm, chàng đến rình nhà ông thầy đồ ở xóm bên, định ăn trộm cái thủ lợn mà một nhóm học trò mang đến biếu. Rình mãi tới khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy đọc tới câu: "Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương". Chàng bụng bảo dạ: "Phải chăng ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho tả” Rồi tự đáp: "Phải, quả thật đúng như vậy". Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm.

    Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: "Cẩn thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia!". Cái tiếng "ba đời ăn trộm" làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: "Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức họa may mới xóa được mấy tiếng đó".

    Một ngày mùa hạ, trời mưa to nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi, mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói:

    - Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở...

    Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý định bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và giục chàng dốc sức bắc cầu!

    Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ.

    Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi tỉnh.

    Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống. Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

    - Xưa kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không?

    Chàng bắc cầu vui mừng nói:

    - Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn!

    Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói:

    - Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy tiền.

    Viên quan võ thân mật bảo chàng:

    - Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào?

    Chàng bắc cầu nói:

    - Nếu vậy thì còn gì hay hơn!

    Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu.

    Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi.

    Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa.

    Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững. Cơn gió bỗng vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng:

    - Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy.

    Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà.

    Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên tiếng gọi:

    - Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở cửa!

    Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật xuống giường. Vợ chồng viên quan võ cũng chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa.

    Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng.

    Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn.

    Ít lâu sau, vợ viên quan võ có mang, đến tháng đến ngày chị sinh hạ được một con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng lấy vợ có con và sống sung sướng đến già.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  13. #13
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Phù Đổng Thiên Vương

    Phù Đổng Thiên Vương

    Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển l, tờ 3b và 4a), dựa vào sách Lĩnh Nam chích quái, tóm lược chuyện Phù Đổng Thiên Vương như sau:

    ?Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh (nay thuộc Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc - NKT), có nhà giàu nọ, sinh được một đứa con trai. Đứa trẻ ấy, mãi đến năm hơn ba tuổi, tuy ăn uống béo tốt, nhưng lại không biết nói cười.

    Bấy giờ gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, nhà vua bèn sai Thiên Sứ đi tìm người có thể đánh được giặc. Đúng ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng dưng nói được. Nó nhờ mẹ ra mời Thiên Sứ vào rồi nói rằng:

    - Xin cho tôi một thanh gươm, một con ngựa. Vua không phải lo gì nữa.

    Vua liền ban cho gươm và ngựa. Đứa trẻ liền phi ngựa, vung gươm tiến lên. Quan quân theo sau. Giặc bị đánh tan ở núi Vũ Ninh (núi này, nay thuộc đất Quế Võ, tỉnh Hà Bắc - NKT). Chúng sợ, quay giáo đánh lẫn nhau, chết nhiều lắm. Bọn sống sót thì cúi rạp xuống mà lạy, rồi cùng tôn đứa trẻ ấy là Thiên Tướng và đến xin hàng.

    Giặc tan rồi, đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi, Vua liền sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, quanh năm cúng tế. Sau, vua Lý Thái Tổ (làm vua từ năm 1010 đến năm 1028 - NKT) phong làm Xung Thiên Thần Vương?.


    Lời bàn:

    Chuyện dân gian hẳn nhiên không phải là lịch sử, nhưng, bất cứ chuyện dân gian nào cũng đều phản ánh một cái lõi có thật nào đấy của lịch sử. Cái lõi có thật ấy, có thể chính là bản thân sự kiện hoặc nhân vật, nhưng có khi chỉ là một ý nguyện chân thành, gửi gắm qua cách nhìn nhận một sự kiện hoặc một nhân vật lịch sử nào dó.

    Không ai tin rằng một đứa trẻ lên ba lại có thể cưỡi ngựa vung gươm, dẫn đầu quan quân ra trận và đánh tan lũ giặc hung tàn, nhưng bất cứ ai cũng đều tin rằng, hễ có giặc thì hết thảy già trẻ gái trai nước Việt đều hăm hở ra chiến trường. Chí lớn và tài cao chẳng phải lúc nào cũng đi đôi với tuổi tác.

    Thắng trận rồi, đứa trẻ lẳng lặng bay lên trời, không bận tâm suy tính công lao, chẳng băn khoăn gì về sự ân thưởng. Mới hay, lòng dân muôn đời vẫn vậy, bình thản lo đại nghĩa một cách vô tư. Người có công tạo lập và gìn giữ thái bình chẳng hề đòi hỏi bất cứ một điều gì cho riêng mình cả.

    Từ Lý Thái Tổ ta đi, các vua nối nhau đều phong thần cho đứa trẻ quê ở Phù Đổng. Chính hương khói của việc thờ phụng này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra khí phách hiên ngang và sự vô tư kỳ lạ cho lớp lớp những thế hệ trẻ, vì nước quên thân, vì dân quên mình. Kính thay!


    (Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục)

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  14. #14
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Giai thoại thánh Tản Viên

    Giai thoại thánh Tản Viên

    Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" (ngoại kỉ, từ tờ 4a đến tờ 5a) chép rằng:

    ?Cuối thời Hùng Vương, nhà vua có người con gái gọi là Mỵ Nương, nhan sắc rất xinh đẹp. Vua nước Thục nghe tiếng, bèn đến cầu hôn. Nhà vua đã muốn gả, nhưng Hùng Hầu can rằng:

    - Chẳng qua họ muốn chiếm nước ta nên mượn việc cầu hôn để tạo ra cái cớ mà thôi.

    Vua nước Thục vì thế mà để bụng oán giận. Nhà vua muốn tìm người xứng đáng để gả, liền nói với các bề tôi rằng:

    - Đứa con gái này là giống Tiên, cho nên chỉ ai đủ tài đức ta mới cho làm rể.

    Bấy giờ, có hai người từ phía ngoài tiến vào, cùng lạy dưới sân xin cầu hôn. Nhà vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng, một người là Sơn Tinh, một người là Thuỷ Tinh, đều là ở trong cõi của nhà vua cả. Nay, nghe tin nhà vua có thánh nữ, bèn đánh bạo tới xin chờ mệnh của vua. Vua nói:

    - Ta chỉ có một người con gái, làm sao lại có thể có đến hai người rể hiền.

    Nói rồi, bèn hạ lệnh cho hai người, rằng đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ tới trước thì sẽ gả con cho người ấy. Hai người nghe xong, lạy tạ rồi ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem các thứ châu báu bạc vàng cùng chim rừng thú núi tới dâng. Nhà vua y hẹn, gả con gái cho Sơn Tinh. Sơn Tinh đón vợ về trên đỉnh cao của núi Tản Viên. Thuỷ Tinh cũng đem sính lễ đến, nhưng muộn hơn, giận là đã đến trễ, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập rồi đem các loài thuỷ tộc đuổi theo. Nhà vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chắn ngang khu vực thượng lưu sông Từ Liêm (tức khúc sông Hồng, chảy qua Chèm, ngoại thành Hà Nội) để ngăn lại. Thuỷ Tinh lại theo sông khác, từ vùng Lỵ Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi men sông Hát và tràn ra sông Lớn (tức sông Hồng) mà ngoặt sang sông Đà để đánh lên Tản Viên. Ở đâu (Thuỷ Tinh) cũng đào vực, đào chằm để chứa nước hòng đánh úp Sơn Tinh. Sơn Tinh có phép thần biến hoá, sai người đan tre thành hàng rào chắn nước, lấy cung nỏ bắn xuống, khiến cho các loài thuỷ tộc đều bị trúng tên mà chạy trốn. Rốt cuộc, Thuỷ Tinh không sao xâm phạm được núi Tản Viên. Tục truyền, từ đó Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đời đời thù oán, hàng năm vẫn dâng nước đánh lẫn nhau.

    Núi Tản viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm. Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, khiến cho vua của nước Thục cũng tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm cho được nước ta?.


    Lời bàn:

    Chuyện đầy những chi tiết bất hợp lý và hoang đường, nhưng giá thử ai đó có tài kể ngược lại, bỏ hết những chi tiết bất hợp lý và hoang đường, thì... chuyện sẽ chẳng còn là chuyện nữa.

    Bồng bềnh giữa những lời hư ảo chính là cái gì đó phản ánh một cách vừa mơ hồ vừa rất rõ rệt về năng lực trị thuỷ của cổ nhân. Sừng sững giữa thiên nhiên khắc nghiệt, núi Tản Viên là biểu tượng của ý chí hiên ngang trước mọi thuỷ tai.

    Chẳng có gì khó khăn khi tìm chỗ đúng sai của cổ tích, nhưng, làm như vậy phỏng có ích gì? Giữa bao la của trời đất, những người dân bé nhỏ vẫn tin là có thánh thần. Thánh thần cao cả mà vô tư, luôn cứu giúp tất cả những người lao động chân chính. Và đối với ngàn xưa, đó quả là một sức mạnh tinh thần hết sức lớn lao. Mà... sức mạnh tinh thần, có khi lại khoác áo cổ tích đầy vẻ hoang đường.

    Trước mọi thuỷ tai, xin bạn hãy trông vời về đất Tổ, nơi ấy có Sơn Tinh tức thánh Tản Viên, bạn tin hay không tin cũng vậy, khi thành kính hướng về đất Tổ, nhất định bạn sẽ tự cảm thấy có một nguồn sức mạnh vô hình nào đấy, khiến bạn tự tin và phấn chấn hẳn lên. Cứ đợi thử mà xem!


    (Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo Dục)

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  15. #15
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Giai thoại Cổ Loa thành

    Giai thoại Cổ Loa thành

    Loa Thành hay Cổ Loa Thành, còn có tên khác là Tư Long Thành, người Trung Quốc thường gọi là Côn Lôn Thành, chính là kinh thành của nước ta thời An Dương Vương. Di tích Loa Thành nay vẫn còn ở huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp theo kiểu xoáy hình trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng, dài tổng cộng hơn mười sáu cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn nhất của nước nhà thời cổ đại, là chứng tích bất diệt của ý chí và năng lực sáng tạo của tổ tiên ta. Việc đắp thành khó khăn này đã được tiến hành như thế nào? Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỷ, quyển 1, từ tờ 6a đến tờ 7b) chép rằng:

    ?Thành này cứ hễ đắp xong lại bị sụt lở khiến nhà vua rất lấy làm lo. Nhà vua bèn trai giới sạch sẽ, khấn trời khấn đất và các vị thần núi, thần sông, rồi khởi công đắp lạí' .

    ...''Mùa xuân, tháng ba, chợt có thần nhân đến trước cửa thành, trỏ vào thành rồi cười mà nói rằng:

    - Đắp như thế thì đến bao giờ mới xong?

    Vua liền mời vào điện để hỏi. Thần nhân nói :

    - Cứ đợi Giang Sứ đến.

    Xong, cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, Vua ra cửa thành, thấy có con rùa bơi trên sông, từ phía Đông đến, nói được tiếng người, xưng là Giang Sứ, bàn được chuyện tương lai. Nhà vua mừng lắm, để lên mâm vàng rồi đặt mâm lên điện và hỏi về nguyên nhân khiến cho thành bị sụt lở. Rùa vàng đáp:

    - Ấy là bởi tinh khí núi sông của vùng này bị (hồn thiêng) của con vua thuở trước phụ vào để trả thù cho nước. Nó nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có con quỷ, ấy chính là (hồn thiêng) của người con hát thuở trước chết chôn ở đấy hoá thành. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không. Ông ta có đứa con gái và một con gà trắng, đó chính là hư khí của tinh, phàm ai là người qua lại và ngủ đêm tại đó đều bị chết vì bị quỷ ám. Chúng có thể gọi nhau, họp đàn họp lũ, làm cho sụp cả thành. Nay nếu giết được con gà trắng ấy để trừ tinh khí đi thì thành sẽ tự nhiên xây được bền vững.

    Nhà vua nghe vậy, liền đem rùa vàng đến quán, giả làm người xin ngủ trọ. Chủ quán nói:

    - Ngài là bậc quý nhân, vậy xin đi ngay kẻo ở đây là mắc hoạ. Nhà vua cười nói:

    - Sống chết đều có số mệnh cả, ma quỷ mà làm gì nổi?

    Nói rồi, vẫn cứ ngủ lại quán. Đêm khuya, nghe tiếng quỷ từ ngoài vào gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng khiến lũ quỷ không sao vào được. Gần sáng, khi nghe tiếng gà gáy thì chúng bỏ chạy tan tác. Rùa vàng xin vua đuổi theo chúng. Tới núi Thất Diệu, tinh khí của lũ quỷ biến mất. Nhà vua cùng rùa vàng trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng nhà vua đã chết rồi, bèn gọi người đến khâm liệm để đem đi chôn. Thấy nhà vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán sụp lạy mà thưa rằng:

    - Ngài được như thế này ắt phải là thánh nhân.

    Vua xin gà trắng đem giết để tế lễ. Gà chết, con gái của chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi (Thất Diệu), thấy ở đó có nhạc khí cổ và xương người, liền sai đốt thành tro rồi đổ xuống sông. Yêu khí ma quỷ từ đó mất hẳn. Cũng từ đó, thành đắp chưa quá nửa tháng đã xong. Rùa vàng liền cáo từ ra về. Nhà vua cảm tạ và hỏi rằng:

    - Đội ơn ngài đã giúp đắp thành vững chắc. Nhưng, nay mai nếu có giặc đến thì lấy gì mà chống giữ?

    Rùa vàng liền trút chiếc móng đem cho vua và nói:

    - Nước yên hay nguy đều do trời định đoạt, nhưng người cũng nên phòng bị. Nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này mà làm lẫy nỏ, nhằm thẳng giặc mà bắn thì không lo gì.

    Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (cũng có sách chép là Cao Thông) chế nỏ thần, lấy móng rùa vàng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ?.


    Lời bàn:

    Nước bấy giờ còn nhỏ, dân bấy giờ còn thưa, tiềm lực quốc gia bấy giờ cũng còn yếu, đã thế, trình độ kỹ thuật bấy giờ lại chưa cao, thế mà nhà vua dám dốc sức xây thành Cổ Loa, chí lớn thật đáng sánh ngang với trời đất. Việc lớn, khó khăn lớn, hình ảnh của lũ yêu quái phá hoại, ở một góc độ nào đó, cũng có thể coi là biểu tượng của những thách thức chất chồng đó thôi.

    Việc nhà vua nghênh đón Giang Sứ có cái gì đó phảng phất hình ảnh các vị minh quân hồ hởi đón lời hay trong thiên hạ. Việc Giang Sứ không chút quản ngại, cùng vua lên tận núi Thất Diệu để diệt yêu quái, sau lại còn thanh thản trút móng tặng vua, tất cả nào có khác gì hình ảnh những người vô danh trong trăm họ, đã hết lòng phò tá chí lớn của nhà vua!

    Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà (thế kỷ thứ XV) là Ngô Sĩ Liên nói rằng; ?Việc làm của thần là dựa theo ý người, thần nhập vào vật mà nói. Khi nước sắp thịnh, thần minh giáng xuống để xem đức hóa, khi nước sắp mất, thần minh cũng giáng xuống để xét tội. Cho nên, cũng có khi thần giáng mà thịnh, lại cũng có khi thần giáng mà suy? (Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỷ, quyển 1, tờ 10-b).

    Như An Dương Vương, thần minh giáng lần đầu thì đắp xong Loa Thành, dựng nên quốc gia Âu Lạc hùng mạnh; thần minh giáng lần thứ hai, quân thua nước mất. Người xưa tin như vậy và đã trịnh trọng chép vào sử như vậy. Gấp sách lại, xin bạn chớ bao giờ tự hỏi rằng đáng tin hay không đáng tin, mà tốt hơn cả, bạn nên tự hỏi rằng cổ nhân muốn kí thác điều gì.


    (Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục)

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  16. #16
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Lý Ông Trọng và ngôi đền trong huyền thoại

    Lý Ông Trọng và ngôi đền trong huyền thoại

    Bên bờ sông Hồng quanh năm lộng gió, sóng nước mênh mang, có một ngôi đền đang cùng với dòng sông đi vào huyền thoại. Đó là đền Chèm.

    Đền tọa lạc trên vùng đất thuộc xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, thờ Thành hoàng Thượng Đẳng Thiên Vương Lý Ông Trọng.

    Truyền thuyết kể rằng: Ông tên thật là Lý Thân, người làng Chèm. Ông là người có nhân đức cao cả, khôi ngô tráng kiện, tầm vóc cao lớn lạ thường, lại có tài thao lược hơn người. Ông sinh ra vào thời Hùng Duệ Vương (vua Hùng thứ 18), mất vào thời Thục Phán An Dương Vương (257-208 trước công nguyên).

    Thời đó Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Quốc, muốn mở rộng bờ cõi xuống phía Nam. Năm 214 trước công nguyên, vua Tần sai tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân rầm rộ tiến đánh nước Âu Lạc (quốc hiệu của nước ta thời đó). Người Âu Việt và Lạc Việt đã đoàn kết chiến đấu và giành được chiến thắng trước quân Tần hùng mạnh. Tướng Đồ Thư bị giết, quân Tần bị thảm bại phải rút lui. Trong cuộc chiến này, Lý Ông Trọng đã lập công xuất sắc, giúp An Dương Vương đánh đuổi được giặc ngoại xâm.

    Sau chiến thắng, để kết tình hòa hảo với nước Tần nhằm bảo vệ độc lập lâu dài, An Dương Vương đã cử Lý Ông Trọng sang giúp Tần bảo vệ biên giới phía Bắc. Tần Thủy Hoàng đã thử tài ông về kiến thức văn võ. Kết quả: văn đạt Hiếu liêm, võ xứng Hiệu úy (Tướng chỉ huy). Vua Tần rất mừng, phong cho ông chức Tư lệ hiệu úy, sai dẫn 10 vạn quân ra trấn thủ miền biên cương (thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Ông đã đánh bại được quân Hung Nô (một bộ tộc rất thiện chiến lúc bấy giờ) xâm lược Trung Hoa, bảo vệ vững chắc cương thổ cho đế chế Tần. Khi về già, ông xin trở lại quê hương. Vắng ông, quân Hung Nô lại sang quấy phá. Vua Tần lại phải sai sứ sang Âu Lạc triệu ông. Ông từ chối, nói thác là tuổi già sức yếu, muốn an nghỉ nơi quê hương. Thấy ông không đi, vị sứ giả của vua Tần đành xin ở lại để tránh tội với vua Tần là không thuyết phục được ông và cùng ông phò tá An Dương Vương dựng nghiệp. An Dương Vương sai sứ nói với Tần Thủy Hoàng là ông đã chết nhưng Tần Thủy Hoàng không tin, đòi cho thấy xác ông. Bất đắc dĩ ông đành ẩn lánh nơi núi rừng rồi tử tiết. An Dương Vương đau xót, lấy thủy ngân ngâm xác ông rồi đem nộp cho vua Tần. Tần vương đặt ông thụy hiệu là Lý Ông Trọng, đúc tượng ông cao lớn, oai phong đặt ở cửa Tư Mã, phía bắc kinh đô Hàm Dương. Điều đặc biệt là bụng tượng rỗng, có thể chứa được nhiều người và có máy điều khiển cho tượng cử động. Thấy vậy, quân Hung Nô khiếp sợ, nghĩ ông còn sống, vội vàng rút về nước, không dám gây hấn nữa.

    Nhân dân làng Chèm kính trọng đức độ và tài năng của ông, đã suy tôn ông là Thành hoàng Đức Thánh Chèm, tạc tượng vợ chồng ông, thờ chung trong đền làng, gọi là Đức Ông, Đức Bà. Nhà vua truy tặng ông bốn chữ: Thượng Đẳng Thiên Vương.

    Khoảng thế kỷ VIII, Triệu Xương, vị quan Đô hộ triều Đường bên Trung Quốc sang nước ta, đã cho lập đền riêng (tức đền Chèm ngày nay), bốn mùa tế lễ. Những năm 864-874, sau khi đánh dẹp quân Nam Chiếu, Cao Biền đã cho sửa sang, tu bổ đền thờ, khắc tượng, gọi là đền Lý Hiệu úy. Qua bao thời đại, ngôi đền đã được tôn tạo, khang trang, to đẹp hơn đến tận ngày nay.

    Ngôi đền ngày nay cùng hòa vào dòng lịch sử, văn hóa dân tộc, uy nghi cùng khí thiêng sông núi. Đây là công trình có qui mô bề thế; kiến trúc liên hoàn kiểu nội công ngoại quốc; mỹ thuật điêu khắc lộng lẫy, tinh vi; cấu trúc vững chắc với gần trăm cột gỗ lim vượt sức người ôm, có các ban thờ và cổng tam quan, tọa lạc giữa vườn cổ thụ xanh tươi. Đền Chèm đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia loại 1, là một di sản văn hóa quý báu của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung.

    Theo truyền thống, hàng năm dân làng Chèm mở lễ hội tưởng niệm Đức Thành hoàng Lý Ông Trọng vào các ngày 14, 15, 16 tháng Năm âm lịch.

    Trình tự hoạt động của lễ hội đền Chèm như sau: Ngày 14, đền mở cửa để dân chúng tới thắp hương tưởng niệm. Không chỉ nhân dân làng Chèm mà nhân dân từ nhiều vùng xa gần cũng đến tham dự. Đoàn người ăn mặc chỉnh tề, trong tay là hương hoa, trong tâm là tấm lòng thành kính. Ngày 15 là ngày chính hội. Mở đầu là lễ mộc dục (tắm rửa tượng thần). Một lễ rước lớn, rất đông người, nghiêm trang, tề tựu đủ chức sắc, bô lão và thứ bậc dân chúng. Họ lên đê, đi ngược sông Hồng ba dặm, rồi xuống thuyền. Thuyền xoay ba vòng, trai tráng trong làng đổ đầy nước vào các ché sứ lớn, đánh phèn cho trong. Sau đó, đoàn thuyền xuôi dòng về nhà Mã (cách đền 1 km) để lấy đồ mã, quân trang cho Đức Ông. Đồ mã gồm ngựa xe, y phục, cờ hội, đao kiếm làm bằng cột tre phết giấy lộng lẫy sắc màu. Đám rước bước lên bờ, dừng ở sân đền để làm lễ tắm rửa tượng thánh. Ngày xưa, lễ này được tiến hành trên sông, tức là rước tượng Đức Ông ra sông để tắm rửa theo cách sống bình dị của ông lúc sinh thời. Ngày nay, để đỡ nặng nhọc, các cụ trong làng quyết định làm lễ ngay tại sân đền. Lúc hoàng hôn xuống, lễ rước văn tế được cử hành long trọng từ nhà ông Trưởng văn (người chấp bút làm văn) tới đền. Bài kinh kể lại công đức của Lý Ông Trọng do một vị sư đọc, diễn ra vào đêm rằm. Vào ngày chính hội này, dân làng còn tổ chức hội thả chim bồ câu, thi bơi chải, đấu vật, diễu võ, múa hát, diễn tuồng và nhiều trò chơi dân gian khác từ sáng đến tối.

    Ngày 16 là ngày cuối hội, vẫn tiếp tục các trò chơi như đấu cờ, đấu vật, hát chèo, hát ví, đối đáp nam nữ... Quang cảnh luôn tưng bừng nhộn nhịp từ sáng đến tối.

    Ngày nay, đền Chèm đã được tu sửa, tôn tạo khang trang, uy nghi soi bóng trên dòng sông Hồng. Hàng năm, lễ hội vẫn được tổ chức long trọng với mọi nghi thức đậm đà bản sắc dân tộc.

    Thượng Đẳng Thiên Vương Lý Ông Trọng được nhân dân ngưỡng mộ và truyền tụng cô đọng qua mấy câu thơ:

    Lý Ông quê ở Thụy Phương,
    Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
    Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
    Làm quan Hiệu úy đem quân ngự hồ
    Uy danh đã khiếp Hung Nô,
    Người về Nam Việt, hình đồ Bắc phương.



    (Theo Hồng Quang)

    HELLBOY
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  17. #17
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Trạng Khiếu

    Trạng Khiếu

    Ngày xưa, ở đất Đồng Cống, làng Hữu Thanh, tỉnh Thái Bình, có một người mõ già làng xóm vẫn gọi tên là lão Đốp. Vợ chồng lão Đốp hiếm hoi sinh được một đứa con trai tuấn tú đặt tên là Bé Con. Nhà nghèo hèn, lớn lên Bé Con không được học hành, khi mười lăm tuổi thường ngày vác mõ đi rao thay cha già và đem phần biếu các quan viên.

    Bấy giờ có cụ Thượng Lê về hưu trí, giữ chức tiên chỉ, có một người con gái 16 tuổi, tên là Hồng Ngọc. Đã có mấy đám con quan đến dạm hỏi song tiểu thơ chưa bằng lòng lấy ai. Đến khi thấy Bé Con đến nhà mang phần biếu, Hồng Ngọc bỗng động lòng thương mến, rồi đâm ra tương tư. Thấy bệnh tình con gái nguy kịch, cụ Thượng bà dò hỏi mới vỡ lở ra rằng Hồng Ngọc đã gặp gỡ thề nguyền với con trai lão Đốp và quyết liều chết một phen nếu không lấy được người yêu.

    Cụ Thượng lấy làm xấu hổ thấy con gái mình là một vị tiểu thư lại đi say mê một kẻ cùng đinh thất học, và gia đình một vị quan lớn phải thông gia với một nhà mõ, song lại sợ con chết, đành buộc lòng chiều theo ý con. Cụ Thượng cho mời họ hàng làng xóm đến xơi rượu để tuyên bố là nhà hết phúc, con gái nhà quan không chịu lấy chỗ môn đăng hộ đối, lại tình nguyện lấy con nhà mõ, cụ đành gả cho mà đuổi đi không nhận là con nữa.

    Hồng Ngọc thu vén tư trang quyết chí đưa chồng đi nơi xa, tìm thày cho học. Có cụ Thượng Phùng, vốn là bạn cũ với cụ Thượng Lê, mở trường dạy học danh tiếng tại Thanh Hóa, Hồng Ngọc đưa chồng vào đấy, nói dối là em trai út, vì học dốt và lười biếng, cha ghét đuổi đi, chị xót thương vì em, phải kiếm vốn đưa đi, buôn bán nuôi cho em ăn học, đợi đến khi thành danh sẽ đem về. Cụ Thượng Phùng nghe nói là con trai cụ Thượng Lê, nên sẵn lòng dạy bảo, xem con bạn cũng như con mình. Rồi cho dọn một buồng riêng tại nhà cho Hồng Ngọc ở để buôn bán nuôi em ăn học, còn Bé Con thì trọ tại nhà ngoài với các cậu con mà học, cho tiện nơi sách đèn.

    Sau thời kỳ phá ngu, Bé Con học đầu nhớ đó, văn chương thơ phú lỗi lạc nhất trường, bạn bè không ai theo kịp. Học đến đầu năm thứ ba, một hôm cụ Thượng Phùng gọi Hồng Ngọc mà bảo rằng:

    - Cậu em học chắc khoa này đỗ đầu thiên hạ, vậy cô về thưa với cụ loại khai cho cậu em đi học để đến kỳ thi vào thi, kẻo không kịp hạn.

    Hồng Ngọc bấy giờ mới khai thật Bé Con là chồng mình và kể lại sự tình đã xảy ra rồi thưa:

    - Nhờ thày mở trí cho, chồng con lại học được, nhưng chưa đỗ đạt gì thì con chưa dám về, mà nếu có về nói, cha con cũng chẳng tin nghe mà cho tên loại khai thi hạch, vậy xin thày cho chồng con nhập tịch ở đây, nhờ thày nói với làng, may ra chồng con thi đỗ rồi sẽ xin cải chính về làng cũ cũng được.

    Cụ Thượng Phùng ngẫm nghĩ rồi viết thư gởi cụ Thượng Lê kể hết mọi sự và mời bạn vào chơi để định liệu cho cậu con rể tài giỏi đi thi. Cụ Thượng Lê nhận được thư, động lòng thương xót rể, báo tin cho vợ hay. Cụ Thượng bà mừng rỡ giục chồng đi gặp hai con.

    Vào Thanh, sau cuộc hàn huyên của đôi bạn già, cụ Thượng Phùng giở tập văn của Bé Con đưa cho cụ Thượng Lê xem. Suốt mấy trăm bài, cụ Thượng Lê đều chịu con rể có tài văn chương khôi giáp, nhưng lại ngờ có thày tô điểm vào chăng, bèn cho gọi Bé Con vào để thử tài, ra đề cho làm một bài luật thi vịnh chiếc mõ, Bé Con vâng lời, múa bút viết luôn một hơi tám câu thơ:

    Vì thiên hạ điếc đã lâu ngày,
    Trời mới sinh ra chiếc mõ thày.
    Phép nước vang lừng ran cửa miệng,
    Lệnh làng thét lẹt khét trong tay.
    Việc quan thúc bách ba dùi đốp,
    Lộc thánh gia ban mấy hộc đầy;
    Lốc cốc tre già măng lại mọc,
    Đầu đình chót vót bổng tầng mây.


    Cụ Thượng Lê xem xong vỗ đùi, tán thưởng:

    - Rõ ra khẩu khí con ông lão Đốp mà văn chương trạng nguyên.

    Rồi bảo rằng:

    - Không có lẽ con rể lại cùng họ với bố vợ. Con là con ông Đốp thì ta đặt cho con là họ Khiếu mà tên là Hữu Thanh. Để ta về bắt lý trưởng loại khai cho con mà đi hạch đi thi, chứ cha nào có nén tài con?

    Đoạn gọi Hồng Ngọc lên thăm vỗ về:

    - Khen con thật đã có mắt tinh đời, cha đành chịu cái lỗi không biết người mà từ tạ với con. Con cứ ở đây mà nuôi cho chồng ăn học, bao giờ chồng con thi đỗ sẽ vinh qui và vu qui một thể, lại càng rạng tỏ môn mi.

    Khoa hương năm ấy ở trường nam, Khiếu Hữu Thanh giật giải nguyên. Khi xướng danh ban yến, cụ Thượng Lê nghe tiếng viết thư bảo về vinh qui, song chàng thủ khoa từ tạ chưa chịu về làng, trở lại Thanh Hóa tạ ơn thày rồi ở luôn tại đây học, bảo vợ gắng chờ sang năm thi hội và thi đình chiếm được bảng vàng hẳn về bái tổ vinh qui và vu qui, thăm mừng cha mẹ đôi bên.

    Tới kỳ xuân thi, luôn bốn kỳ thông ưu, Hữu Thanh đỗ hội nguyên, rồi vào đình được vua Lê sắc tứ "Đệ nhất giáp tiến sĩ cấp đệ đệ nhất danh". Khi vào dự yến, cỡi ngựa xem hoa, chàng tân trạng nguyên dâng tạ biểu về vinh qui, vua Lê ngỏ ý muốn gả công chúa Quỳnh Hoa. Nghĩ tình Hồng Ngọc đã yêu thương gầy dựng cho mình được vinh hiển ngày nay, chàng không nỡ để cho vợ phải ở hàng dưới con vua nên cứ tình thật trình bày cùng vua để từ tạ. Vua khen chàng có nghĩa, ban cho biểu vàng "Ân tứ vinh qui" và gia ban cho "Ngự tứ hôn".

    Hàng tỉnh được giấy sức đi đón rước tự thành Nam trở về, cờ xí rợp trời, trống chiêng dậy đất, ngựa chàng đi trước, võng nàng theo sau. Cụ Thượng Lê kết lầu hoa đón rể và con. Những người trước kia đã chế diễu tiểu thư Hồng Ngọc lấy con trai lão mõ đều che nón không dám trông.

    Cụ Thượng Hà bạn đồng liêu với cụ Thượng Lê, đến dự tiệc mừng Trạng Khiếu vinh qui, trong lúc cao hứng, ngỏ ý muốn gả cô gái lên mười tám làm vợ thứ cho Hữu Thanh. Trạng Khiếu cười đáp:

    - Việc đó thì tùy ở vào nhà tôi có bằng lòng cho lấy vợ lẽ tôi mới lấy, chứ đến như công chúa Quỳnh Hoa sang đẹp là thế, nhà vua muốn gả mà tôi cũng xin từ vì đã có vợ nhà rồi.

    Hồng Ngọc nghe thế mới bảo rằng:

    - Công chúa Quỳnh Hoa vì sang đẹp hơn tôi mà cậu không chịu lấy, chứ tiểu thư Bích Châu con cụ lớn đây thì tài sắc cũng xuýt xoát với tôi, lại là chỗ chị em bạn gái trong làng, tôi thiết tưởng cậu nên nhận lời, để về đỡ tôi cùng gánh vác giang sơn cho cậu, càng hay chứ sao?

    Ngày hôm ấy, Hồng Ngọc đón tiểu thư Bích Châu về làm vợ thứ cho chồng, chị em trên kính dưới nhường, thương mến nhau theo khuôn phép.

    Trạng Khiếu làm quan được mấy năm thì lên chức Thượng thư, rồi tể tướng, ngoài bốn mươi năm sự nghiệp hiển hách. Đến khi cáo lão về làng, dân xã lập sinh từ, nay là đền quan Trạng Khiếu tại quê cũ Đồng Thanh. Con cháu họ Khiếu về sau ngày càng đông đúc, kể có mấy trăm người, nhiều kẻ thi đỗ cao, đời nào cũng có kẻ hiển đạt. Người sau noi về dòng dõi trạng nguyên con lão mõ làng có thơ truyền rằng: "Họ Khiếu vang trời kêu tiếng mõ kêu".

    HELLBOY (st) .
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  18. #18
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Cô Ðào Hát Với Anh Học Trò Khó

    Cô Ðào Hát Với Anh Học Trò Khó

    Ngày xưa, có một đứa bé thông minh tên là Nguyễn Kỳ, mẹ mất sớm, người cha lấy vợ khác. Kỳ bị dì ghẻ hành hạ ác nghiệt, phải bỏ nhà mà đi.

    Kỳ lang thang đó đây, xin ăn qua ngày. Một hôm, cụ Cử làng Địch Vọng ở Hà Đông thấy Kỳ mặt mũi khôi ngô, thông minh mới hỏi có biết chữ không. Kỳ xin giấy bút rồi ngẫu hứng viết thành một bài thơ. Thoáng nhìn qua nét bút rắn rỏi mà nhẹ nhàng, rồi đọc đến những bài thơ với những lời lẻ bóng bẩy ngụ ý nói đến cảnh ngộ khốn khổ của người trẻ tuổi, cụ Cử liền ngỏ ý muốn giúp cho Nguyễn Kỳ ở lại nhà và dạy cho học.

    Sẵn khiếu thông minh, chỉ trong mấy năm, Nguyễn Kỳ chẳng những học hành theo kịp các bạn trước mà lại còn nổi tiếng giỏi văn thơ.

    Một ngày tiết xuân, có người bạn học rủ Kỳ đi xem tế lễ ở làng. Thấy bạn trai cùng lứa khoác áo diêm dúa, còn mình thì quần thô áo vải đã sờn rách, Kỳ không khỏi buồn tủi, lẫn vào đứng ở một góc đình, khuất sau cột lớn.

    Trong khi đó, đám đông người chăm chú theo dõi một cô đào khá xinh đẹp lộng lẫy đang múa hát. Mọi người như dại như ngây đua nhau thưởng tài người đẹp. Cô đào vừa hát, vừa múa, như bay như lơợn, khi lướt qua phía góc đình trông thấy Kỳ đứng buồn dựa cột, bỗng nhiên nàng sững sờ dừng lại, tắt tiếng hát, ngừng điệu múa, mắt đăm đăm nhìn thư sinh nghèo rồi vội quay đi.

    Qua hôm sau, Nguyễn Kỳ đang ngồi ở nhà ngang vắng đọc sách, thì thấy cô đào hát hiện ra. Nàng chân thành bảo Kỳ: "Sao người có tài lại gặp số phận hẩm hiu như thế này"? Rồi van nài Kỳ nhận lấy những nén bạc và mấy xấp vải của nàng đưa tặng. Kỳ lễ phép từ chối song nàng khéo nằn nì, rồi bỏ đi ngay không kịp cho Kỳ thốt lời cảm tạ.

    Cách ít lâu nàng trở lại, rồi thỉnh thoảng lại đến thăm Kỳ, mỗi lần đều dọn dẹp trong phòng học, vá mạng quần áo, nấu thức ăn, khuyến khích chàng học tập, y như nàng là vợ của Kỳ. Sự thân mật giữa hai người ngang tới đó. Nguyễn Kỳ kính nàng như một người bạn gái thân, và những lời lẽ, cử chỉ, bao giờ cũng ở trong khuôn phép.

    Song lâu ngày chàng hiểu biết nàng hơn, trở nên thân thiết hơn mà cũng dễ dàng rung cảm trước sắc đẹp của nàng hơn lên.

    Một hôm, chàng làm một cử chỉ suồng sã trong lúc không tự chủ, rồi đâm ra ân hận ngay khi thấy nàng nghiêm nghị trách móc: "Anh chớ vội tưởng lầm. Em tìm đến anh vì em nghĩ đến tương lai đời em. Thói thường những đào hát như em không nghĩ đến ngày mai, cho nên tới lúc luống tuổi rồi, chỉ gặp phải những kẻ không đâu. Vì thế em muốn trong lúc đang còn trẻ, có một nơi xứng đáng nương cậy về sau, cho đến khi đầu bạc răng long. Anh lại coi em như phường liễu ngỏ, hoa tường, làm thế nào mà em còn gần gũi với anh được nữa"?

    Nguyễn Kỳ xin nàng tha lỗi và từ đó càng kính trọng đối với nàng hơn nữa.

    Mấy năm về sau, gần đến kỳ thi, trước ngày lên đường, Nguyễn Kỳ ân cần bảo nàng: "Trong cuộc đời nghèo khó của anh, anh đã được may mắn gặp em. Công ơn của em đối với anh rất nặng, anh nhớ đến trọn đời. Rôi đây xa cách nhau, một ngày kia thế nào anh tìm được em"?

    Nàng nói: "Sau này, nếu anh không quên, thì em sẽ tìm đến anh. Bằng như chúng ta không cần phải gặp nhau nữa, thì anh muốn biết tên họ làng mạc của em cũng vô ích. Về phần em, em không dám đòi hỏi anh hứa hẹn gì cả. Chỉ có trời biết lòng em".

    Đến khi Nguyễn Kỳ thi đỗ, trở về quê, cha chàng buộc lấy một người con gái nhà môn đăng hộ đối. Nguyễn Kỳ hết sức từ chối, nghĩ đến người bạn gái ân nhân, nhất quyết thà chết hơn là phụ bạc người. Chàng đem chuyện cũ thưa lại, song cha chàng gạt đi, cho đó chỉ là một chuyện trai gái thường tình, và chàng bây giờ đã đỗ đạt danh phận ắt sẽ chóng quên một ả đào hát. Người cha viện lý lẽ để chống lại ý muốn của con, nghiêm khắc bảo không bao giờ nhận một ả đào hát làm con dâu.

    Nguyễn Kỳ đau khổ âm thầm, thấy lòng vẫn yêu và kính mến cô đào như xưa, cho là mình không thể quên người, dù đôi bên chưa có một lời thề hẹn. Song lễ giáo cay nghiệt của người cha đưa ra, rồi bổn phận của người con bắt buộc, cuối cùng chàng phải vâng lệnh mà cưới vợ.

    Đến năm sau, chàng ra kinh thi tiến sĩ, cô đào ngày trước tìm đến gặp, mang biếu chàng đủ thứ. Trông thấy vẻ ngượng nghịu của người bạn cũ, nàng đoán hiểu, rồi nói: "Anh không cần phải nói ra nữa, em cũng đã thấy rõ. Âu đó cũng là số phận đã định thế, mỗi người mỗi con đường..." Rồi nàng từ biệt hẳn mà đi.

    Khoa thi năm ấy, Nguyễn Kỳ đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan ở triều, rồi đi sứ qua Tàu. Đến khi trở về, luôn mười năm trời, chàng giữ chức quan to ở kinh đô và các tỉnh. Sau một cuộc dẹp loạn ở Hải Dương, Nguyễn Kỳ được vua ban tước quận công.

    Danh vọng cao, tiền bạc sẵn, con cái đông, chàng không còn ước ao điều gì nữa. Tuy thế, mỗi khi nhắc đến thuở thiếu thời khốn khó của mình với bạn hữu, Nguyễn Kỳ thấy nghẹn ngào, xốn xang trong lòng. Chàng đã nhiều lần sai người thân tín đi tìm cô đào ngày xưa, nhưng khôn thấy bóng dáng đâu cả.

    Một tối, trong bữa tiệc ở nhà công hầu họ Đặng, giữa đám con hát và nhạ công ngồi bên dưới, quận công Nguyễn Kỳ để ý người đàn bà gõ sanh có vẻ mặt quen thuộc. Hỏi ra mới rõ chính là người bạn gái ân nhân ngày xưa. Lại nghe kể rằng mười năm trước nàng có lấy chồng, một người lính quê ở Thái Nguyên. Chồng đi trận chết, nàng vẫn ở vậy, có ít tiền dành dụm được đem nuôi mẹ già, chẳng may bị đứa em bất hạnh lấy sạch, nàng phải đưa mẹ già lên ở kinh đô, kiếm sống lần hồi, trở lại nghiệp hát.

    Nguyễn Kỳ xúc động tận đáy lòng, mời mọc hai mẹ con về ở trong dinh. Vì nghĩ tới mẹ già mà nàng nhận lời. Nguyễn Kỳ dành cho một ngôi nhà riêng và không để cho thiếu thốn một thứ gì cả.

    Một năm sau bà cụ mất, Nguyễn Kỳ cho chôn cất trọng thể. Xong rồi nàng cám ơn và xin phép từ biệt. Nguyễn Kỳ không giữ lại được, nài nỉ nàng nhận lấy vài nén bạc, nàng cũng khước từ mà ra đi.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  19. #19
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Chó Thần

    Chó Thần

    Ngày xưa, ở một phủ nọ miền thượng du, có vị lão quan họ Lê được dân chúng kính yêu như cha già, vì trong bao nhiêu năm cai trị vùng này, cụ đối xử với dân như con cháu trong nhà, không một việc oan ức nào mà chẳng được cụ xét đến.

    Vị tri phủ già họ Lê có một con chó rất khôn ngoan, được cụ thương mến như con. Việc quan xong, mỗi đêm cụ nằm ngủ trên sập hút thuốc phiện, con vật trung thành nằm cạnh dưới chân, ngước nhìn chủ đầy vẻ trìu mến, đôi mắt thông minh ý nghĩa tưởng chừng như không là của loài bốn chân. Thỉnh thoảng ông quan già ngừng tay vuốt ve con vật thân yêu rồi bốn mắt nhìn nhau như trao đổi cảm tình không phải nói ra thành lời.

    Một đêm, vị lão quan nằm luôn ở sập không dậy nữa. Dân chúng trong vùng thương tiếc khóc đưa không khác nào cha chết. Chôn xong, mọi người ra về, trên ngôi mả mới, con chó trung thành còn nán lại rên rỉ, ứa nước mắt, từng lúc kêu lên áo não.

    Người con trai cụ Lê là cậu cả Tông, bấy lâu nhờ sự dạy bảo của cha học hành xuất sắc, được bổ nhậm nối nghiệp người đã khuất. Song Lê Tông tính nết lại khác hẳn cụ phủ, trong việc cai trị thường tỏ ra khắc nghiệt, tham lam, tàn bạo. Đối với cụ phủ Lê trước kia, dân có cảm tình bao nhiêu, thì ngày nay đối với cậu cả Tông, họ lại oán ghét bấy nhiêu.

    Cả Tông chỉ bắt chước cha ở một điểm là hút thuốc phiện, hút ngay tối hôm hạ huyệt cụ phủ Lê. Dân chúng phải lo cung cấp đủ số thuốc phiện cho vị tân quan, và lỡ người nào đem nộp thứ thuốc không được ngon là bị nọc ra đánh ngay trước phủ đường.

    Một đêm Tông hút nhiều hơn lệ thường, đang nằm mơ màng bên ngọn đèn dầu lạc, bỗng nghe có tiếng động nhẹ rồi thấy con chó nhảy lên sập gụ, nằm dài phía dưới mâm đèn á phiện. Tông muốn quát lên đuổi nó đi, song đã quá say, chỉ lầm bầm mấy tiếng: "Cút đi, đồ khốn kiếp"!

    Đôi mắt thông minh của con vật chăm chú nhìn lại khiến Tông khó chịu, ấp úng: "Đồ khốn kiếp"! Rồi im bặt, kinh ngạc, hoảng sợ khi thấy con chó lên tiếng: "Sao cậu lại rủa tôi, đuổi tôi đi? Tôi làm gì hại cho cậu"?

    Qua phút hãi hùng, Tông trấn tĩnh lại, nhận thấy sự buồn cười nghe con chó biết nói, mới bảo nó: "Này, mày là loài chó, làm sao biết nói được thế kia"? Rồi Tông không nhịn được cười sặc sụa lên một hồi. Con chó lại nói: "Cậu lầm rồi, cậu tưởng tôi chỉ là chó, thật ra tôi chính là thần".

    - Thần! Thần... chó!

    Tông muốn cười phá lên, song đã say đờ đẫn, nên chỉ mở hé hai mắt cười gằn.

    - Cậu không tin lời tôi nói à?

    Tông lại cười rồi đáp:

    - Tao không tin thần thánh gì cả.

    - Rồi một ngày kia cậu bắt buộc phải tin, mà ngày đó cũng không xa đâu.

    - Ngày đó mà có, là bao giờ mày làm được cho tao thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi xin ăn.

    Con chó không trả lời ngay, cậu cả Tông không để ý đến nữa, tiếp tục nướng thuốc hút. Trong khi cả Tông ro ro kéo thuốc phiện, con chó lên tiếng kể lại bao nhiêu tội lỗi của con chủ rồi trách: "Cậu hãy nên hối cải đi, theo gương của cụ ngày trước, kẻo tủi cho vong linh người đã khuất". Tông chán nghe con vật khuyên răn, nhấc đầu lên bảo: "Tao đã chán tai nghe mày nói rồi, thôi mày đi đi". Giọng con chó trở nên nghiêm nghị: "Cậu đã muốn thế thì mặc cậu. Tôi đi đây, song chẳng mấy chốc đâu cậu lại phải gặp tôi. Cậu hãy nhớ lấy những lời cậu vừa nói: "Bao giờ thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi ăn xin". Nói xong con chó nhảy xuống đất.

    Tông ngủ thiếp đi, chập chờn trong ác mộng, đến lúc tỉnh dậy, đầu óc căng lên như búa bổ. Viên quan trẻ tuổi càng ngày càng gắt gao, nha lại được lệnh bắt bớ đòi ăn hối lộ người giàu, hành hạ đánh đập dân nghèo. Con chó không thấy trở lại nữa, Tông cũng quên hẳn đêm gặp gỡ con vật trong thành của cha già.

    Một buổi chiều trời giông, mây đen vần vũ, có một sứ giả cùng một toán lính đến trước phủ đường. Người cầm đầu vừa xuống ngựa, ra lệnh báo tin cho quan phủ hay. Quan phủ Tông thường ngày vẫn cấm quân hầu không được đánh thức trong lúc mình đang giấc, nên người nhà chần chờ không dám gọi. Khách lạ lớn tiếng ra lệnh một lần nữa, tên lính hầu cận mới rón rén vào phòng quan phủ run sợ, tâu bẩm. Phủ Tông đang ngái ngủ gắt mắng ầm ỹ lên, nhưng đến khi nghe thấy tiếng khách, liền vội vã phóc dậy khoác áo ra khúm núm tiếp đón. Vì khách kia chính là sứ giả của triều đình đến báo tin nhà vua sắp ngự qua đây nay mai.

    Thế là những ngày sau đó, dân chúng sở tại phải khốn đốn trăm chiều, vì quan phủ cho thuộc hạ bắt buộc mọi người phải dẹp bỏ hết công việc để sửa soạn tưng bừng bày hương án trên đường đón tiếp hoàng đế. Nha lại lính tráng được dịp tha hồ làm tình, làm tội dân, hạch xách, quấy nhiễu đủ điều. Lính phủ phải ê tay vì đánh đập, thúc hối dân làm việc quan.

    Tới ngày vua ngự đến, phủ Tông vận trào phục lộng lẫy, ngồi cáng che lọng có lính hầu khiêng đi nghênh đón. Khi thấy bóng kiệu nhà vua xa xa, phủ Tông đã xuống cáng, vòng tay đứng chờ cạnh hương án khói trầm nghi ngút. Bỗng từ bụi cây bên đường một con chó phóng ra, chồm lên người phủ Tông mà cắn xé rách nát cả triều phục. Lính hầu hốt hoảng không kịp ra tay, con chó đã chạy mất biến.

    Phủ Tông chưa kịp hoàn hồn thì xa giá đã đến. Trông thấy viên phủ áo quần tả tơi, gần như trần truồng, vua nổi giận đùng đùng, xuống lệnh nghiêm trị tức khắc viên quan phạm thượng, dám tiếp đón hoàng đế một cách khiếm lễ, khi quân như vậy.

    Phủ Tông rập đầu van lạy kêu ca về tai nạn bất ngờ vừa xảy ra, song chẳng được đoái hoài đến. Nhà vua đã hay biết lối trị dân độc ác của viên phủ tham ô, bèn nhân dịp này mà ra oai thiên tử. Vị quan cận thần được lệnh vua truyền lột hết chức của Tông, giáng làm thường dân và xử trảm ngay tại trước phủ đường về tội khi quân.

    Tông bị trói chặt dẫn về đến trước dinh phủ, đã biến thành pháp trường. Trong khi đao phủ đang sửa soạn, một bô lão sở tại đến xin ra mắt vua, tâu xin nhà vua nên nghĩ đến vong linh vị lão quan hiền đức họ Lê thân sinh ra Tông mà tha tội chết cho đứa con bất hạnh. Vua chuẩn y lời thỉnh cầu thành khẩn. Tông thoát chết, lạy tạ nhà vua, lầm lũi kiếm đường lẩn tránh mọi người.

    Tông men vào rừng gần đấy, vừa đi vừa chạy, cho đến khi khuất hẳn giữa ngàn cây, không còn thấy bóng người nào, mới vật mình xuống chân một gốc cây mà khóc mùi, hận tủi, nhục nhã. Tông chua xót, mệt mỏi lịm người đi. Đến lúc bừng tỉnh, thấy trời đã xế chiều, trong bụng đói khát cồn cào, lồm cồm đứng lên, thất thểu tìm đến một giòng suối uống nước và kiếm trái cây rừng đỡ dạ. Tông quanh quất ở trong rừng ngày này sang ngày khác, ăn trái rừng, uống nước suối, tránh các lối mòn, sợ người trông thấy cảnh mình điêu vong. Đói lạnh, thú dữ, nhọc nhằn giữa rừng sâu, Tông cắn răng chịu đựng, không muốn trở lại với loài người, vì lòng kiêu hãnh đã bị tổn thương.

    Một hôm, Tông đi đến một cánh rừng thưa, trông thấy một túp lều tồi tàn ở gần bờ suối. Sức người đã kiệt, bụng đói thèm cơm khiến Tông không còn giữ kiêu hãnh được nữa. Tông lê gót về phía túp lều, trông như là một chốn Cực Lạc đối với anh lúc bấy giờ. Trước khi đến cửa lều, thấy nước trong ở một con suối, Tông dừng là.i đưa hai tay vốc uống, và nước lên mặt cho tỉnh táo.

    Tông kinh hoảng khi nhận thấy gương nước phản chiếu hình ảnh của mình: khuôn mặt hốc hác tiều tụy, thân hình sạm đen, da bọc lấy xương, áo quần tả tơi, bẩn thỉu. Anh đập tan gương nước, như muốn xóa đuổi hình ảnh ghê rợn của mình rồi toan cắm đầu chạy trốn, nhưng đã đuối sức, mất cả thẹn thuồng, lê người vào túp lều tranh.

    Cánh cửa mở, Tông thấy hiện ra một người con gái trạc chừng mười lăm tuổi, áo quần nâu thô rách, nhưng trông rất dịu hiền, xinh đẹp. Cô gái thoạt tiên trông không khỏi kinh sợ khi thấy người lạ mặt, nhưng trông lại vẻ tiều tụy, gầy yếu của con người tuấn tú, không thể là kẻ trộm cướp được, nên yên lòng ngay. Một người đàn ông lực lưỡng bước tới sau lưng cô gái lên tiếng hỏi han.

    Đấy là một gia đình tiều phu, sống ở ven rừng, lam lũ mà an vui với cuộc sống riêng biệt. Họ mời Tông vào nhà, gặp bữa mời cùng ăn. Chưa bao giờ Tông ăn được ngon miệng đến thế, và cơm đỏ trộn sắn dọn trong chén đá với muối vừng, cà muối, thức ăn thường ngày của nhà này, anh thấy quý trọng gấp bội các món cao lương mỹ vị bày ở đĩa sứ, chén bạc thời làm quan. Người tiều phu không khỏi mỉm cười thích thú khi thấy khách không chê bữa cơm đạm bạc, ăn hết bốn bát đầy có ngọn. Chủ nhà rót mời Tông một chén rượu rừng, anh uống vào tưởng chừng như đã nhấp tiên tửu, thấy cả cuộc đời cao sang vừa qua, chưa bao giờ được ăn uống ngon lành như vậy.

    Sau đó Tông lễ phép hết lời cám ơn chủ nhà, rồi chào ra đi. Người tiều phu thấy Tông yếu mệt, bảo anh nghỉ lại đến mai hẵng đi.

    Tối hôm ấy, Tông nằm ngủ trên một mảnh chiếu cũ, nhưng cảm thấy khoan khoái nhất đời. Sự nhọc nhằn, thiếu thốn dồn dập trong bao nhiêu hôm tụ lại thành một cơn sốt kịch liệt, sáng hôm sau Tông không gắng gượng ngồi dậy nổi. Trong liền mấy hôm, Tông mê man li bì, nhờ vợ người tiều phu đi kiếm thuốc lá ở rừng về sắc cho uống mới hạ dần cơn bệnh. Khi Tông đã bình phục, người tiều phu mới nói rằng: "Tôi không rõ là anh ở đâu đến, định đi đâu, nhưng nếu anh không chê nhà này, còn có chỗ đụt mưa tránh nắng hơn là lang thang ngoài trời thì mời anh ở lại đây với chúng tôi. Củi rừng không thiếu, miễn là anh chịu khó làm với chúng tôi".

    Tông ngần ngại, ngẩng đầu lên bỗng gặp đôi mắt đen lánh, trong sáng của người con gái đang chăm chú nhìn mình, thắc mắc chờ đợi.

    - Tôi ở lại.

    Tông chỉ biết nói thế và từ hôm đó, anh bắt đầu chia xẻ đời sống của người tiều phu, những nặng nhọc và vui thú của gia đình nghèo hèn này. Chẳng bao lâu anh học được nhiều điều hay trong lúc đem sức cần lao ra để đổi lấy sự sống, mà suốt quãng đời nghiên bút, kinh sử anh đã không hề biết đến.

    Ban ngày vào rừng đốn củi, tối lại Tông còn dạy cho người con gái học dưới ngọn đèn nhựa trám mờ khói. Anh không nề hà một sự khó nhọc nào để giúp đỡ chung quanh, vui vẻ nhận lấy sự tiến bộ mau chóng của cô học trò ngây thơ. Cô gái không dấu được thích thú mỗi lúc gần người trai lạ bí mật, chẳng hề nhắc nhở đến quá khứ, có khi thẫn thờ xa vắng tận đâu.

    Hai năm êm đềm trôi qua, Tông hầu như quên hẳn con người quyền quý của mình ngày trước. Cô gái tiều phu bây giờ đã trở nên một thiếu nữ xinh đẹp mà lớp quần áo nâu sồng không làm giảm vẻ tươi sáng của tuổi dậy thì. Vẻ trong trẻo, đằm thắm của cô gái thuần phác đã biến đổi hẳn tính nết độc ác, ích kỷ, kiêu ngạo của Tông trước kia. Anh đã thành ra một người bình thường như mọi người, hàng ngày làm lụng vất vả, nhưng trong lòng êm ả, nhẹ nhàng. Tông bắt đầu hưởng hạnh phúc mà cả quãng đời nhung lụa ở phủ đường không được biết đến, là tình yêu.

    Một hôm, Tông vừa hạ xong một thân cây lớn, đang vuốt mồ hôi trán, thì nghe co tiếng kêu rên ở gần, ngoảnh lại trông thấy một con chó đang ngước mắt nhìn anh một cách thảm thương. Con chó đã già lắm, gầy yếu, trông như sắp chết. Tông ngồi xuống đưa tay vuốt ve lên mình con vật, nó đưa mắt nhìn tỏ ý cám ơn. Sẵn mo cơm và cá khô gói theo ăn trưa, Tông lấy một phần cho nó. Con chó chỉ ăn một lúc là sạch nhẵn. Tông im lặng nhìn nó, bỗng sực nhớ lại hình ảnh của mình hai năm trước đây, cũng đến chốn này kiệt sức như con vật đáng thương hiện thời.

    Khi Tông vác rìu trở về lều, con chó lẽo đẽo theo sau chân. Đêm đến, mọi người trong nhà lần lượt yên ngủ, Tông đang nằm thao thức, bỗng nghe có tiếng động nhẹ, đoán chừng là con chó đến nằm ở cạnh chân. Tông vỗ về con vật liếm tay mình, rồi trong đêm tối yên lặng bỗng nghe tiếng nó nói: "Anh không nhận ra tôi sao? Chính là tôi đã đưa anh đến đây mà! Anh có nhớ những lời mà anh đã nói với tôi là "nếu anh thôi chức quan lớn, đóng khố trong rừng đi ăn xin"?

    Con chó im một lúc lâu rồi lại nói: "Bây giờ anah tin là có thần linh không"? Tông thầm đáp: "Ta tin ở mi và cầu xin vong hồn cha tha tội cho con".

    - Anh có sẵn lòng nghe lời tôi không?

    - Nói đi cho ta nghe.

    * * *

    Hôm sau, đã tối mịt rồi mà chưa thấy Tông trở về. Trọn đêm cũng không thấy đâu. Người con gái thao thức, đợi chờ, khóc thầm. Sáng tinh sương nàng đã cùng cha đi vào rưng, đến chỗ Tông thường đẵn củi, thấy bầu nước và rượu ở gốc cây. Nhìn lên lưng thân cây vừa lột một miếng vỏ lớn, nàng đọc thấy những chữ của Tông đã dùng lưỡi dao sắc cạnh ghi lại rằng: "Tông có việc phải đi, luôn luôn nhớ đến nàng và hẹn sẽ trở lạị"

    Trong khi cô gái buồn rầu trở về túp lều giữa rừng thì Tông đã đi xa, theo sau con chó, cũng không tìm hỏi nó đưa mình đi đến đâu.

    Tới một ngôi làng, vào buổi phiên chợ đông, con chó làm nhiều trò xảo thuật theo lời bảo của Tông, khiến nhiều người tò mò xúm lại xem, bỏ tiền ra thưởng. Các nhà buôn giàu có tranh nhau mời mọc thày trò con chó kỳ tài về nhà khoản đãi.

    Từ làng này qua xã khác, từ huyện nọ đến tỉnh kia, Tông cùng con chó đi đến đâu cũng được thán phục, tặng quà biếu tiền. Hai thày trò sống một cách đầy đủ, phong lưu dọc theo đường gió bụi.

    Từ mạn ngược về đường xuôi, người và vật đi, đi mãi. Cái túi vải đeo bên mình Tông đã bắt đầu rủng rỉnh tiền, và mỗi ngày một nặng thêm. Tông chưa hề hỏi con chó là rồi sẽ đi đến đâu. Con chó cũng không nói nữa, và trông cũng chẳng khác gì đồng loại nó, ngoài ra tài múa nhảy và sự thông minh tỏ ra hiểu biết lời nói của người ta.

    Một buổi chiều vào lúc trâu bò về chuồng, Tông và con chó đi đến kinh thành. Qua cửa thành đô, Tông hồi tưởng lại năm nào mình vác lều chiếu đi thi, và ngày tên ghi bảng vàng, kết quả bao nhiêu năm khó nhọc dùi mài kinh sử.

    Tại kinh đô chẳng mấy chốc tiếng tăm của thày trò Tông đồn đãi khắp mọi nhà. Ngoài các trò múa nhảy tài tình theo lời sai bảo của chủ, con chó còn làm cho mọi người kinh ngạc về sự nhận xét không bao giờ sai. Đàn ông hoặc đàn bà có vợ chồng hay chưa, con cái nhiều hay ít, làm chức nghiệp gì, bao nhiêu tuổi, giàu hay nghèo, con chó đều trả lời đích xác theo ước lệ đã định trước. Thiên hạ truyền miệng đi là chó thần, tiếng đồn đến tai vua. Vua cũng muốn biết qua tài diệu kỳ của con chó, thử xem lời đồn của bá tính có quá đáng chăng.

    Có lệnh vua vời vào trước sân rồng để biểu diễn. Tông không khỏi làm cho vua ngạc nhiên thấy một kẻ thường dân ra mắt vua đúng với nghi lễ triều đình. Vua không nhận ra Tông là viên tri phủ đã bị thải hồi. Con chó bắt đầu múa nhảy, vua cười chảy cả nước mắt khi thấy nó chỉ đúng phẩm tước của bá quan theo từng hồi tiếng sủa. Trò cuối cùng là chó làm thơ. Tông xin giấy trắng trải lên sân rồng, buộc bút vào chân chó. Sau khi chấm bút lông vào nghiên mực, chó gật gù suy nghĩ rồi thảo luôn một bài luật thi dâng tặng vua. Chữ viết như rồng bay phượng múa, lời thơ trang nhã, bóng bảy khác thường.

    Thị vệ dâng vua ngự lãm, vua sửng sốt thấy chưa có một thi sĩ hữu danh nào đương thời có thể làm được hay hơn bài thơ của con vật bốn chân kia. Trong lúc hào hứng, vua truyền cho Tông cùng con chó từ đây được ở luôn tại viện trong cung nội và được lương bổng nhà vua ban cho.

    Tông hết lời cảm tạ ơn vua rồi tâu: "Bệ hạ chỉ mới thấy vài trò tiểu xảo đó thôi, con vật trung thành của thần còn biết được nhiều điều lạ hơn nữa". Thấy vua càng ngạc nhiên tò mò hơn nữa, Tông bèn thưa: "Nếu bệ hạ muốn chứng kiến thực hư, thần xin bệ hạ cho triệu họp đông đủ văn võ bá quan triều đình lại ở sân rồng".

    Vua nóng lòng muốn xem trò mới lạ, liền chuẩn y ngay đề nghị của Tông và truyền cho khắp triều thần ngày mai phải có mặt. Tông lại xin được hội kiến riêng trong chốc lát với một mình vua trước khi bắt đầu trình diễn các trò phi thường. Lời yêu cầu tuy táo bạo song cũng được chấp thuận trong khi vua đang cao hứng.

    Ngày mai lại, trước giờ vua lâm triều, bá quan văn võ tề tựu đông đủ trước sân rồng. Tông và con chó được đưa vào gặp riêng vua ở cấm điện. Vua ra lệnh cho thị vệ tả hữu lui ra, Tông mới thưa rằng: "Tâu bệ hạ, con chó của thần ngoài sự thông minh xuất chúng khác hẳn đồng loại nó, còn có kỳ tài đoán biết được những ý nghĩ thầm kín, những hành động bí mật của người ta mà ngỏ riêng cho thần hiểu, và lại có nhiều ý kiến khôn ngoan thần tình. Nếu bệ hạ cho phép, nó sẽ kể rõ về mỗi vị thượng quan ở triều phục vụ bệ hạ ra sao".

    Vua nghe nói hết sức ngạc nhiên, hỏi Tông làm cách nào. Tông đáp: "Bệ hạ cho thị vệ xướng danh và chức phẩm của mỗi quan triều rồi cho phép con chó của thần được đến gần để nhận xét, đánh hơi từng vị, rồi sau đó, cho nó gặp riêng thần một lúc để thần được nghe báo cáo của nó mà tâu lại cùng bệ hạ".

    Vua lâm triều, phán cho thi hành theo lời đề nghị của Tông. Con chó lần lượt đi qua trước các hàng thượng thư, quan lại triều đình, theo tiếng loa của thị vệ báo danh trước mỗi vị. Các quan bối rối thầm nghĩ là vua định bày trò đùa gì đây, khi thấy con chó dừng lại trước từng người, đứng trên hai chân sau, giương hai mắt ra nhìn xét, đưa mũi đánh hơi quần áo.

    Sau đó, Tông và con chó được đưa vào một phòng riêng giữa bốn vách tường kín mít. Con chó nói qua cho Tông hay sự tình để tâu lại, rồi hai thày trò được đưa đến bệ kiến riêng vua.

    Sau khi tâu lại những nhận xét của con chó về các quan, nhất nhất đều đúng với sự thực, Tông báo cho vua hay một sự khám phá quan trọng: "Tâu bệ hạ, hiện đang có một cuộc âm mưu tiếm vị, khuynh đảo bệ hạ cùng các quan trung thành với đương triều. Kẻ cầm đầu cuộc phản loạn này không ai khác hơn là quan thượng thư bộ Hình, người đã thọ lãnh ân tứ của bệ hạ nhiều hơn ai hết".

    Vua lặng đi vì kinh ngạc, hãi hùng, Tông kể luôn danh sách của nội bọn mưu phản và kế hoạch của chúng đã trù liệu, rồi phục mình trước ngai vàng tâu rằng: "Thần cúi xin bệ hạ cho mật xét lại để xem thực trạng có đúng thế không. Nếu con chó của thần biết sai và thần tâu man để làm rộn đến bề trên, thì thần xin chịu tử hình về tội khi quân. Ví bằng đúng sự thực..."

    Vua đang trầm ngâm suy nghĩ bỗng ngước đầu lên bảo: "Nếu sự thực quả như lời khanh tâu, trẫm sẽ không bao giờ quên công ơn thày trò khanh đâu. Bây giờ trẫm muốn cho khanh cùng con vật trung thành ở riêng một nơi tại cung cấm, không phải thiếu một thứ gì, đợi cho đến khi trẫm xét rõ lời khanh nói có đúng không".

    Theo lệnh vua, Tông được đưa đến một cung riêng, có sẵn người hầu hạ và quân sĩ tuốt gươm trần canh gác bên ngoài. Ba hôm sau một vị cận thần đến mời Tông đi. Qua dẫy cung điện sơn son thếp vàng, Tông theo chân vị quan triều đi vào giữa chánh điện, trông thấy vua đang ngồi trầm tư trên ngai rồng. Tông toan quỳ xuống thi lễ thì vua đã bước xuống ngai đỡ dậy mà bảo rằng: "Trẫm cho phép khanh từ đây là thần dân duy nhất được miễn quỳ lạy trẫm, để ghi nhớ công khanh đã giúp trẫm giữ vẹn long thể và ngôi báu, giúp giang sơn khỏi nạn binh đao. Tất cả những lời khanh tâu đều được chứng nghiệp chính xác. Lũ loạn thần bị bắt đều đã thú tội. Chúng sẽ được xử theo phép nước".

    Vua không dấu nổi kinh hoàng vừa khám phá ra âm mưu thí vua của đám gian thần, xúc động nói với Tông: "Trẫm không biết khanh là ai, ở đâu đến, nhưng từ đây trẫm muốn khanh ở bên mình trẫm, với chức Quốc Sư, tước quan nhất phẩm triều đình của trẫm ban cho khanh. Trẫm lại cho khanh được phép ra vào trong cung cấm, muốn gặp trẫm bất cứ lúc nào cũng được, và khanh chỉ ở dưới quyền của trẫm thôi".

    Vua dành riêng cho Tông một dinh thự lớn, ban cho bao nhiều vàng bạc, châu báu, gấm vóc, và mỗi khi quyết định việc gì quan trọng cũng đều hỏi ý kiến vị quốc sư. Sống trong cảnh quyền thế, nhung lụa, Tông cũng không thấy gì là sung sướng, người ta không bao giờ thấy Tông cười. Một hôm, vua thân mật hỏi chuyện nguyên nhân sự buồn bã của vị Thượng Khanh, Tông mới thành thật tâu rằng mặc dầu được hưởng bao nhiêu đặc ân của vua ban cho, không bao giờ tông thấy lòng vui thú giữa chốn cung vàng điện ngọc, và xin phép vua được trở về quê nhà thăm phần mộ cha già. Vua không muốn rời xa ân nhân, song cũng đành phải nghe theo lời thỉnh cầu của Tông.

    Mấy hôm sau, trên đường về quê, Tông không còn phải là kẻ dắt chó làm trò nữa, mà oai vệ ngồi trên con tuấn mã vua ban cho, đi giữa đoàn lính tráng cờ lọng uy nghi theo hầu. Về đến đầu làng, chỗ ba năm trước đây Tông quỳ rước vua bị con chó cắn xé áo mũ gây ra bao nhiêu nông nỗi, Tông xúc động xuống ngựa bảo đoàn tùy tùng dừng lại. Anh đi lại tảng đá bên đường, ngồi ôm đầu suy nghĩ. Đến lúc ngẩng đầu lên, Tông không khỏi ngạc nhiên thấy một dám rước trọng thể do viên tri phủ sở tại dẫn đầu đi đón, Tông lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe vị quan đã thay mình ba năm trước đây phụng đọc chiếu vua bổ nhậm Tông cai trị vùng này.

    Dân chúng hay tin vị Quốc Sư thân cận của hoàng đế đến hạt mình, già trẻ lớn bé rủ nhau đi xem đầy đường, tiếng chào mừng dậy đất khi thấy Tông ngồi trên mình ngựa hiện ra. Tiếng ồn ào bỗng im bặt khi người ta nhận rõ vị thượng quan nhất phẩm triều đình chính là viên phủ độc ác trước đây đã làm cho tất cả dân chúng trong vùng khiếp sợ. Tông mỉm cười nhảy xuống ngựa, cho gọi các bô lão đến mà nói rằng: "Xin các cụ yên tâm và bảo con em hãy yên lòng. Người trở về hôm nay không phải là người mà dân đã xua đuổi trước đây. Xin bà con biết cho rằng con trai của cụ phủ Lê ngày trước sẽ cố gắng được xứng đáng với danh tiếng của ông cha. Có một điều tôi muốn cho tất cả rõ: con chó ở bên cạnh tôi đây, là bạn trung thành của thày tôi trước kia, đã giúp cho tôi được như ngày nay, phải được mọi người trọng vọng cũng ngang bằng tôi. Tôi đã hối cải về những sự lầm lỗi ngày trước, bây giờ tôi còn sống là để mà làm việc giúp dân".

    Tông giữ đúng lời hứa, dân chúng trong vùng lại được sống yên lành với một vị quan cai trị công bình, nhân đức. Con chó vẫn ở bên cạnh Tông, yên lặng không hề nói nữa. Một tối bất ngờ nó lại lên tiếng bảo Tông: "Anh đã nghĩ tới việc lấy vợ để sinh con nối dõi giòng họ chưa"? Tông mỉm cười đáp: "Đã, nhưng lần này tôi không nghe ai đâu, tôi tự ý quyết định lấy một mình thôi". Con chó không nói gì nữa, sằng sặc trong miệng như cười.

    Ngày hôm sau, Tông sửa soạn ra đi, theo sau một đoàn người ngựa chuyên chở nhiều lễ vật. Mặc dù Tông không nói trước là đi đâu, song con chó đã đoán biết trước, chạy đi đầu dẫn đường. Băng rừng, lội suối, đến gần chiều tối đoàn người ngựa tới trước túp lều của người tiều phu mà Tông đã sống qua hai năm trời lao lực.

    Cô gái sợ hãi thấy một toán quân đến trước nhà mình, chạy trốn vào trong. Cả nhà vừa sợ, vừa mừng khi thấy lại Tông áo mũ xênh xang ra mắt.

    Lễ cưới của tri phủ Tông với con gái người tiều phu cử hành lớn lao. Tất cả dân nghèo trong vùng đều được mời đến ăn uống linh đình luôn ba hôm liền. Vua phái sứ mang tặng vật quý giá đến mừng. Sau đó, Tông mời cha mẹ vợ về dinh ở, song ông bà nhất quyết không bỏ chốn rừng núi đã quen thuộc.

    Mấy tháng sau, Tông được tin mừng là vợ đã có thai, cùng với tin buồn là con chó già nằm ngủ luôn không dậy nữa. Đám táng con chó được cử hành rất trọng thể, vợ chồng Tông mặc tang phục đi sau linh cửa, cùng với đủ mặt dân chúng trong vùng theo đưa.

    Mộ con vật có nghĩa được xây cất lớn lao, có bia ghi chép công trạng, còn lưu truyền đến ngày nay. Qua bao nhiêu đời, câu chuyên con chó thần vẫn còn nhắc nhở trên cửa miệng dân chúng miền thượng du.

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

  20. #20
    Nhất Đẳng Avatar của HellBoy
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    Địa Ngục
    Bài gởi
    1,647

    Mặc định Cái vết đỏ trên má công nương

    Cái vết đỏ trên má công nương

    Ngày ấy có một ông thượng thư đầu triều nổi tiếng là người nghiêm khắc và hách dịch. Ông có tính nóng như lửa. Đã thế ông lại có quyền "tiền trảm hậu tấu" nên không khỏi giết oan một số người vô tội. Trong triều ngoài quận người ta coi ông như vị hung thần. Mỗi lần ông thét đao phủ chém một người nào, thì dù là kẻ thân thiết nhất cũng không ai có thể can được, cho nên những người ở gần đều sợ ông như cọp.

    Ông thượng có một sở thích đệ nhất là món hát bội. Ngày ấy chưa có rạp tuồng bán vé cho công chúng vào xem như sau này, cho nên các nhà quyền quý thường nuôi gánh hát riêng. Chẳng những ông thích xem hát mà còn tự tay biên soạn nhiều vở tuồng, vì vậy ông cũng có một gánh hát trong nhà. Trong số đào kép của gánh hát này thì có kép Châu là một tay xuất sắc. Kép Châu tuổi trẻ tài cao, thường được người xem tán thưởng về hát hay múa dẻo, nhất là đám nữ giới mỗi lần thấy anh thủ vai chính trên sân khấu thì thường mê như điếu đổ về cả thanh lẫn sắc.

    Ông thượng không có con trai, chỉ có một cô con gái rất xinh tên là Nhung. Cũng như thói thường của mọi nhà quyền quý khác, ông chăm dạy cho con mọi điều công, dung, ngôn, hạnh. Thấy con gái thông minh và tài hoa, ông yêu dấu rất mực. Đến nỗi hằng ngày hút thuốc, nếu không có thuốc do con ông quấn thì ông hút không ngon. Tuy nhiên, một việc oái oăm ông không bao giờ ngờ tới là cô Nhung được ông dạy dỗ chăm sóc là thế lại thầm yêu trộm nhớ kép Châu. Về phần kép Châu tuy biết thân phận hèn kém, tuy biết tính mạng treo đầu sợi tóc cũng không nỡ vô tình với công nương. Hai bên đã nhiều lần kín đáo gặp gỡ và cũng đã từng chỉ non thề biển, quyết sống chết có nhau.

    Một hôm ông thượng ăn mừng thọ. Ngoài tiệc tùng đãi khách như thường lệ, còn có một đêm hát bội đặc biệt diễn một vở do ông biên soạn. Thủ vai chính không có ai khác ngoài kép Châu. Trong khi đào kép đang cố gắng trổ tài trên sân khấu thì ông thượng chăm chú cầm chầu. Hứng thú, ông đốt hết điếu này sang điếu khác. Bỗng chốc số thuốc quấn sẵn đựng trong một cái hộp bằng vàng đã hết nhẵn, ông bèn sai lính hầu vào bảo công nương quấn tiếp cho ông mười điếu nữa. Nhưng tên lính hầu đi quá lâu làm cho ông sốt ruột. Cho đến khi hắn bưng được hộp thuốc vào, ông mắng ngay:

    - Mày đi đâu mà lâu thế?

    Tên lính hầu đáp:

    - Bẩm, vì công nương không có nhà nên con lại phải đi tìm, công nương vừa quấn xong là con mang đến đây liền.

    Ông thượng không nói gì. Nhưng khi cầm lên một điếu ông lập tức chau mày. Thuốc của con gái ông quấn bao giờ cũng khéo: vừa gọn vừa chặt bằng giấy quyến tinh khiết, mười điếu không sai một. Đằng này đã quấn lỏng lại có nhiều vết bẩn. Bực mình, ông quát tên lính hầu:

    - Vào gọi công nương mày tới đây tao bảo.

    - Dạ.

    Ấy thế nhưng lần này tên lính hầu cũng lại đi mất hút. Đợi một thôi một hồi, ông mới thấy cô con gái yêu đến. Ông mắng phủ đầu ít câu về điếu thuốc quấn không thành điếu, rồi đuổi con ra. Nhưng khi cô Nhung lui gót, ông vừa nhìn theo chợt trông thấy trên má của con có một cái vết đỏ. - "Hừ, làm sao nó lại có vẻ nhem nhuốc thế kia". Nghĩ thế, song ông vẫn để tâm trí vào trống chầu.

    Giữa lúc ấy, đến lượt kép Châu bước lên đài. Ông thượng liếc nhìn thấy bộ mặt hóa trang của hắn cũng nhem nhuốc, nhợt nhạt, thì ông bỗng đoán ra nông nỗi. Một cơn giận bừng bừng bốc lên: - "Chà thằng này láo thật. Đồ xướng ca vô loài". Rồi ông lại nghĩ đến con gái: - "Không ngờ con gái ta lại đâm ra mê say nó, giở trò trên bộc trong dâu. Không thể tha thứ được!". Tuy nghĩ vậy, ngoài mặt ông vẫn điềm tĩnh, tay vẫn đánh trống chầu không nhầm lỗi.

    Khi màn bắt đầu hạ để chuyển sang một cảnh khác, lập tức ông đứng dậy dõng dạc truyền lệnh:

    - Quân đâu, dẫn kép Châu ra sân, chém đầu!

    Tiếng quân hầu dạ ran. Các quan khách và mọi người đang xem hát ai nấy đều ngơ ngác kinh hồn. Chẳng ai hiểu duyên cớ vì đâu mà có cái án tử hình đột ngột này. Đây đó tiếng người thì thầm: - "Có lẽ nó đã làm điều gì đó hỗn xược với cụ lớn". Hay là: - "Chắc tên kép ấy đã phạm "húy" cụ lớn hay là phạm "húy" hoàng đế thì phải".

    Trong khi kép Châu còn nguyên cả y phục tuồng bị đao phủ lôi ra sân, thì cô Nhung vẻ mặt hốt hoảng chạy tới trước ghế của cha mình ngồi thụp xuống vái lấy vái để:

    - Trăm lạy cha, xin cha tha cho anh ấy. Có giết xin cha cứ giết mình con đây!

    Nghe câu nói, ông thượng vẫn không động lòng, mà lại còn cảm thấy như bị thách thức. Trợn mắt, ông quát:

    - A, nếu thế thì quân bay hãy cởi trói cho kép Châu mà bắt giải công nương ra chết thế.

    Bọn quân hầu nhìn nhau toáng đảm, không ai dám cất tay động chân. Ông thượng đứng bật dậy quát:

    - Chúng mày đã nghe rõ lệnh ta chưa?

    Lại có tiếng dạ ran. Lính hầu xúm lại dẫn cô Nhung đi ra sân. Không có một lời can ngăn. Không một ai nhúc nhích. Một lát sau, một tiếng rú của công nương bật lên ai oán, rồi tất cả rơi vào im lặng.

    Bấy giờ ông thượng quay lại phía bọn đào kép đang chúi vào một xó nhắc: - "Chúng mày hãy diễn tiếp đi!".

    Tiếng đàn, nhị, trống, chiêng,v.v. thốt nhiên lại cất lên. Người xem tuy chẳng còn hứng thú xem tiếp, nhưng không một ai dám bỏ chỗ ngồi ra đi. Ông thượng miệng vẫn hút thuốc, tay vẫn nắm lấy dùi trống chầu như không có việc gì xảy ra. Màn diễn đến đoạn cuối: vai chính sẽ than thở bên xác người yêu. Kép Châu lại bước lên đài, mặt cắt không được giọt máu. Anh hát những câu hết sức buồn thảm, anh khóc thật và tỏ điệu bộ não nùng chưa bao giờ làm rung động người xem đến thế. Cứ như vậy, tiếng than khóc mỗi lúc một ai oán. Cho đến câu hát cuối cùng vừa dứt, kép Châu kêu lên mấy tiếng thảm thiết không có trong vở:

    - Em ôi! Em hãy đợi anh với!

    Đoạn rút trong tay áo một con dao găm đâm ngay vào cổ họng và ngã lăn xuống khán đài. (1)

    ---------------------------

    Khảo Dị

    Truyện này gần như là một truyện thuộc loại muộn nhất của cổ tích, đã mang dáng dấp truyện ngắn hiện đại. Mặc dầu vậy nó cũng có dị bản, nhưng kết cục của dị bản lại không bi đát như truyện trên:

    "Trong nhà một ông tuần nọ có nuôi một gánh hát riêng. Trong số diễn viên cũng có một kép trẻ tuổi đẹp trai hát hay, lôi cuốn được nhiều người, nhất là giới phụ nữ. Cũng như truyện trên, kép ta lọt vào mắt xanh con gái ông tuần. Thế rồi mối tình thầm lén ngày một nảy nở. ở đây không có cái vết đỏ trên má cô nàng, mà là bức thư tình của cô do một bạn đồng nghiệp của kép lấy trộm đưa tới ông tuần. Cơn thịnh nộ của ông bùng lên, ông tuốt kiếm bảo người đi tìm kép dẫn đến cho ông tức khắc. Nhưng kép lại vắng mặt lúc đó, nên kết thúc của truyện mang đôi chút hài hước. Trong khi chờ đợi tội nhân, ông cho giam con gái lại; thấy đôi hia đế cong của kép, ông dùng kiếm băm vằm như băm vằm người thật để hả cơn giận. Cơn giận dịu đi trông thấy. Đến chiều, theo dự định, vở tuồng "Từ Thứ quy Tào" sẽ diễn mà vai chính Từ Thứ thì ngoài kép ra không ai có thể thay được. Nhưng, kép ta có lẽ vì sợ vẫn chưa về mà nếu về cũng không có hia để đóng. Cuối cùng, ông tuần bảo người nhà đi mua một đôi hia khác và giục đi tìm kép về gấp để cho vở tuồng không bị hoãn lạị(2)

    -----------------

    1. Theo Tiểu thuyết thứ bảy (1935); tạp chí Đông - Nam Á, số 16 (1950); và Phổ thông, số 3 (1952).

    2. Theo Bách khoa, số 382 (1972).

    HELLBOY (st).
    Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc ,
    Nào ngờ đâu ở mãi tới hôm nay .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •