Thế mà... Ông thở dài, đỡ người hầu thiếp ngồi dậy.
- Đốt đèn lên, ta sẽ thay nàng viết mấy lời tự tình.
Hiểu tính tình của ông, người hầu thiếp không một lời than trách. Nàng thắp đèn, mài mực và lo nấu cho ông ấm trà.
Tiếng gà gáy sáng, thì cũng vừa lúc ông buông bút xuống, húp ngụm trà đặc sánh, thơm lừng từ tay người vợ trẻ. Ông hiếng mắt nhìn người vợ trẻ đọc đi đọc lại bài ca trù chưa ráo mực, gật gù ra chiều thích thú. Ông lấy bàn tay khẽ gõ nhịp lên bàn, và giọng người hầu thiếp cất lên:
Buồn sực nhớ đài trang cảnh cũ
Nhớ trượng phu trong dạ bàng hoàng
Mái Tây sơn sương tỏa mấy lần
Thân cái nhện không vò mà rối
Chỉn tại tơ hồng trêu quấy nỗi
Há rằng dây đỏ ghét ghen chi
Chốn cô phòng năn nỉ với cầm thi
Đường viễn hoạn ngõ thấu tình chăng nhẽ
Trong trần thế sầu lây mấy kẻ
Giòng Hà Đông thêm cám cảnh cho ai
Xin cho trời đất lâu dài
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru ?
Thấu tình chăng kẻ trượng phu ?
- Đúng là Uy Viễn tướng công ! – Người hầu thiếp đặt tờ giấy xuống bàn, ôm chầm lấy ông và siết một cái thật mạnh rồi... buông ra ngay.
Nguyễn Công Trứ lại thở dài, nhìn người hầu thiếp thoát ra khỏi phòng lo công việc cho ngày mới. Gần đây, nhiều lúc ông thấy có lỗi với nàng. Chính chút tự ái vặt cuối đời, ông đã trói buộc cuộc đời của nàng. Đã có lần ông đặt vấn đề cho nàng tự do bay nhảy. Nhưng nàng đã từ chối và giận hờn ông. Có chồng thì phải theo chồng; Chồng đi hang rắn hang rồng phải theo. Cái đạo lý ngàn đời ấy đã ăn sâu vào trong máu thịt của nàng, biết làm sao mà gỡ. Trước đây, ông rất tự hào về chuyện ong bướm, bướm ong. Chắc ông là người duy nhất trên đời này có câu liễn phúng vợ:
Nguyệt tỉ bất tu sầu, khang phụ thùy năng thiên tuế hạc
Diêm vương như hữu vấn, lão phu do phiến Ngũ hồ chu
(Chị Nguyệt chớ nên buồn, vợ tấm cám mấy người nghìn tuổi thọ
Diêm vương như có hỏi, thuyền lão này đang mải Ngũ hồ chơi)
Nhưng để được gì ? Thân phụ của ông tuy chỉ có mỗi một mình ông là con trai, nhưng lại đạt được chí nguyện của Người. Còn ông ? Trai gái dẫy đầy hàng ba chục đứa, mà nào có được gì đâu. Nhờ ảnh hưởng của ông và cũng nhờ vào những ngày ông chưa xuất chính, người con trưởng của ông (Nguyễn Hy Cát) mới được làm Cẩm y thị vệ hiệu úy tại Ty Thanh lại. Nguyễn Công Ngạc cũng chỉ đến Tú tài và đang làm hậu bổ ở Kinh. Những trai gái còn lại chẳng đâu vào đâu. Con đông làm gì, nếu chúng cứ cố sống để mà sống. Tội nghiệp ! Trót sinh ra thì phải có chi chi, Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu. Cái chí ấy, ông không truyền được cho con.
Người hầu thiếp trẻ bảo ông là kẻ ích kỷ, quả chẳng sai. Ông chỉ lo cho mỗi phần ông. Ông mãi lo lo "vẫy vùng cho hết đất" mà quên đi trách nhiệm làm cha. Nhìn lại bầy con cháu bây giờ, ông chỉ thấy còn người con trai Nguyễn Công Huân và đứa cháu nội Nguyễn Công Trường (con của Tú tài Nguyễn Công Ngạc) là có thể nối được chí ông, nhưng... đã trễ lắm rồi. Qũy thời gian không cho phép ông đào luyện một đứa trẻ nên người. Thôi, còn sống ngày nào, ông tìm cách phả chút hồn của mình vào cho con cháu, may ra chúng không làm xấu mặt tiền nhân.
Nguyễn Công Trứ thở dài buồn bã, khẽ ngâm:
Việc đời đã chắc chắn đâu,
Lỡm lờ con tạo một màu trêu ngươi.
Hóa nhi đa hí lộng,
Đúc chuốt ra rồi bắt bẻ làm sao.
Khéo gán phần những việc đâu đâu..
Nho tướng công Nguyễn công Trứ
Tác giả: Vu Gia