Trang 1 trong 6 123456 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 102

Ðề tài: Dành cho người hữu duyên

  1. #1

    Smile Dành cho người hữu duyên

    TRỞ VỀ ÐẠO PHẬT

    BÁC SĨ TRÍ & ÐỨC TÂM
    (Ghi chép theo băng giảng của Sa Môn Thích Thông Lạc)


    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

    Trước khi tôi kể lại sự tu hành trong ba năm nhập thất xin quí vị cùng tôi niệm hồng danh
    Ðức Phật. Trước là để tưởng nhớ công ơn của Người đã chịu bao nhiêu gian nan khó khổ và còn phải dày công tu tập trên đường tìm chân lý giải thoát. Người đã chứng nghiệm được sự giải thoát nơi thân tâm của mình, rồi mới đem dạy lại cho chúng ta. Nhờ thế ngày nay chúng
    ta mới có đường lối tu hành chân chánh.

    Bây giờ quí Phật tử chắp tay lên cùng tôi niệm Phật ba lần.

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

    Niệm Phật xong xin quí Phật tử chắp tay lại, đem cả lòng thanh tịnh không còn chút bợn nhơ của thế tục kính cẩn chào nhau. Ðó là chúng ta, những người con Phật phải thể hiện đức hạnh trong muôn ngàn đức hạnh của Ðạo Phật.

    Bắt đầu quí vị chắp tay lên, mắt hướng về tượng Phật cúi đầu chào nhau.

    Hôm nay là ngày ra thất của tôi sau ba năm nhập thất tu hành (ba năm nhập thất là ba năm làm gương cho chúng tu tập chứ tôi đã tu hành xong).

    Kính thưa quí vị Phật tử! quí vị đã không ngại đường xá xa xôi, dành những thì giờ quí báu, cùng bỏ những công ăn việc làm để huân tập về đây với lòng chân thành ngưỡng mộ sự tu hành của tôi và cũng để tìm hiểu pháp môn tu hành của tôi có kết quả hay không? Và kết quả ấy có lợi ích trong đời sống thiết thực của con người hay không? Sự giải thoát kết quả mà tôi đã tu tập có phải là sự giải thoát của Ðạo Phật hay không?

    Ðể trả lời những câu hỏi thắc mắc trên đây của quí vị tức là tôi kể lại sự tu hành của tôi và chính cũng là giải toả được mối nghi ngờ trong tâm của quí vị.

    Kính thưa quí vị Phật tử! Từ lâu quí vị đã hướng thân tâm của mình về Phật pháp, từng đi chùa lễ phật, tụng kinh, bái sám, từng đi nghe thuyết giảng kinh sách, từng để tâm nghiên cứu học hỏi giáo pháp của Ðức Phật, với một lòng chân thành. Nhưng quí vị rất đau lòng và nghi ngờ Phật pháp vì tận mắt quí vị đã thấy, tai quí vị đã nghe các bậc chân tu mà quí vị đã từng gặp trong cuộc đời của mình. Các vị ấy là bậc Thầy Tổ của quí vị, đã từng hướng dẫn cho quí vị biết Phật pháp, biết tu học Phật pháp, đã từng chỉ dạy cho quí vị biết cách thức tu tập như: niệm Phật, niệm chú, tụng kinh, ăn chay, ngồi thiền, làm các điều lành và còn dạy cho quí vị biết thiền quán xả tâm, tham thiền nhập định theo thiền Ðông Ðộ, thiền Yoga. Mỗi vị đều đem hết khả năng tu học của mình chỉ dạy cho quí vị để quí vị đạt được sự giải thoát. Nhưng khi ra đi các vị ấy không giải thoát, phải chịu đau khổ trên giường bệnh, nhức nhối khổ sở trong các cơn đau, mệt mỏi thở chẳng ra hơi, hay lẫn lộn quên trước, quên sau khi tuổi già sức yếu.

    Suốt cuộc đời quí vị Phật tử đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh trạng đau lòng của Thầy Tổ mình, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy toàn một sự đau khổ, thì làm sao quí vị không nghi ngờ Phật pháp được?

    Ngược lại những gì quí vị đã học trong kinh điển nói về các Tổ và các Thiền sư tu như thế nào mà khi chết được tự tại làm chủ sanh tử luân hồi mà thế mà hiện giờ thì không thấy có vị nào chết được tự tại, hay đây chỉ là huyền thoại để lừa bịp người sau chăng?


    Ðể trả lời câu hỏi thứ nhất:
    Pháp môn tu hành của tôi là Pháp môn nào?

    Xin trả lời, tôi tu hành theo pháp môn Giới, Ðịnh, Tuệ của Ðức Phật. Trước khi chưa tu, là một tăng sinh đang học Phật pháp, tôi đã từng học qua những lời di chúc của Ðức Phật. Lời di chúc là lời dạy sau cùng của Ðức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn.

    Lời di chúc thứ nhất Ðức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giáo Pháp và Giới Luật của ta làm Thầy và làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi ta nhập Niết bàn". Lời dạy này tôi ghi khắc mãi không quên và không bao giờ quên ông Thầy của chúng tôi là Giới Luật, là chỗ nương tựa vững chắc cho sự tu hành của chúng tôi ngày mai.

    Lời di chúc thứ hai Ðức Phật dạy: "Giới Luật còn là Phật còn tại thế, Giới Luật mất là Phật mất". Lời dạy này cho thấy hình ảnh Giới Luật là hình ảnh của Ðức Phật, nên tôi nghiêm khắc mình trong Giới Luật không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Tôi lấy đó làm giai đoạn tu hành thứ nhất của mình.

    Lời di chúc thứ ba: Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật, các pháp lành đều nhờ đó mà sanh, các Tỳ kheo hãy nhớ lấy mà tu tập.

    Lời di chúc thứ tư đó là lời di chúc không lời, khi nhập niết bàn, Ðức Phật nhập từ Sơ
    Thiền đến Tứ Thiền, nhập đi nhập lại tới ba lần rồi mới chịu nhập niết bàn.

    Kính thưa quí vị, ở đây Phật muốn nhắc nhở người sau phải ráng công tu tập thiền định này đừng bao giờ tu tập thiền định nào khác. Vì trong cuộc sống của chúng ta hiện giờ, trong thời Ðức Phật và cũng như ở ngày mai vậy, có biết bao nhiêu thứ thiền mà chẳng có thiền nào đưa chúng ta đến giải thoát được thân tâm và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cho nên Phật chỉ định có thứ thiền này mới làm chủ được sanh tử, tự tại bỏ báo thân chấm dứt được tái sanh luân hồi mà thôi. Vậy xin quí vị Phật tử hãy lưu ý chỗ này. Khi nhập xuôi nhập ngược ba lần xong, thì Ngài nhập Tứ Thiền xả bỏ báo thân, nhập niết bàn. Thể theo những
    lời di chúc này tôi tu tập ngày đêm không biết mệt mỏi, ốm đau, quyết không bỏ giờ tu suốt ba năm trời trong thất chịu từng đắng cay gian khổ để chiến đấu với tạp khí thói quen tật xấu với nghiệp lực quá nặng nề, với tâm tham ái, dục vọng dẫy đầy. Nhiều khi tôi tưởng chừng không thắng nổi. Nhưng với sự bền lòng, kiên cường, gan dạ, dũng cảm quyết liệt tôi đã chiến thắng thân tâm của chính mình và chứng nghiệm được sự giải thoát của Ðạo Phật.

    Ðể trả lời câu hỏi thứ hai:
    Sự tu hành của tôi có kết quả hay không?

    Kính thưa quí vị! Giới luật là pháp môn tu để giải thoát được đời sống của con người. Tôi đã chứng nghiệm được điều này rất thực tẽ và cụ thể. Ví dụ trước kia tôi ăn ngày ba bữa, bây giờ ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt gì hết, cơ thể thì rất khỏe mạnh, ít bị bệnh tật, suốt ngày không lo về ăn uống gì cả, tâm ít vọng tưởng, ít ngủ. Ăn ngày một bữa, tôi tìm
    thấy giải thoát được hai bữa ăn và đầu óc ít nghĩ bậy bạ, tâm không ham muốn và không ham ngủ. Sự giải thoát chân thật cụ thể này thì quí vị không thể nào phủ nhận được. Cũng từ trong sự tu giới luật này tôi đã được giải thoát nhiều điều trong đời sống hàng ngày. Nhưng thì giờ có hạn không cho phép tôi kể dông dài làm mất thì giờ của quí vị vô ích.

    Thưa quí vị, thiền định của Ðạo Phật từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền là những pháp môn giải thoát, tự tại sanh tử, làm chủ sự sống chết của thân tâm, tôi nhận biết rõ ràng bằng cách chứng nghiệm rất cụ thể. Ví dụ: Tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng, không ăn uống gì hết, không đi đại tiểu tiện, không mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết. Xuất định, tôi cảm thấy nhẹ nhàng, an lạc. Ðó là một bằng chứng rất cụ thể. Như vậy sự tu hành của tôi sống đã có giới luật, tâm ly dục ly ác pháp nên tâm hồn bất động và chết đã có thiền định, làm chủ được hơi thở nên tôi cũng đã có sự giải thoát ở mức cao độ, vì thế tôi cần phải có sự hiểu biết về vô lậu của mình. Sự hiểu biết vô lậu là do trí tuệ của tôi. Vì thế tôi phải thực hiện Tam Minh, trong đó, lậu tận minh là trí tuệ cuối cùng của tôi. Ðến đây tôi đã có đủ: giới, định, tuệ theo con đường tu tập của tôi mà Ðức Phật đã vạch ra và chỉ dạy từ ngàn xưa.


    Ðể trả lời câu hỏi thứ ba:
    kết quả ấy có thiết thực giải thoát cho đời người hay không?

    Sau ba năm nhập thất này tôi chỉ nhập thất làm gương cho chúng tu hành, chứ riêng tôi tu hành đã thành tựu vào năm 1980. Sự nhập thất lần này (năm 1994, chú thích của người ghi) mục đích là đem kinh nghiệm của mình dạy lại cho người khác. Vì thế, không phải riêng có tôi mà còn có những người đang nhập thất với tôi, ngoài ra còn có những người cư sĩ đang sống tại gia đình cũng như Cô Út, người phục vụ cơm nước cho chúng hằng ngày ở đây và cháu Ðào ở Phước Hải. Họ được nghe băng của tôi, tự nghiêm khắc mình trong giới luật bằng ba hạnh ăn, ngủ và độc cư. Họ cũng đã chứng nghiệm được sự giải thoát và đang chủ động điều khiển diệt tầm tứ trong hơi thở để chuẩn bị sự nhập định phá thọ làm chủ thân
    tâm. Hiện giờ tôi chưa cho phép họ nhập định vì họ chưa ly dục và ác pháp hoàn toàn, họ còn phải học xong và sống đúng giới luật đức hạnh giải thoát của Ðạo Phật thì sẽ không lọt vào thiền tưởng. Tại sao? Vì giới luật và đức hạnh là pháp môn đầu tiên của Ðạo Phật, là bước đường đầu tiên đi vào con đường giải thoát của đạo.

    Tóm lại, tôi cũng đã có những người chứng nghiệm được sự giải thoát chân thật nhưng chưa phải viên mãn hoàn toàn. Vì giai đoạn nhập định là giai đoạn khó nhất, nếu ly dục ly ác pháp chưa xong thì rất là nguy hiểm, có thể rơi vào thiền tưởng và cũng có thể loạn óc
    điên khùng. Nhưng có điều chắc chắn hiện giờ đứng trước cuộc sống nghèo đói, bịnh tật, tử
    vong tôi chẳng hề nao núng, vì làm chủ được tâm mình.

    Tôi không còn bị chướng ngại hoặc bị các ác pháp cám dỗ bằng bất cứ hình thức nào và chẳng còn biết sợ hãi mọi điều gì cả, tuy rằng tôi chưa chuyển được toàn diện nhân quả.

    Ðể trả lời câu hỏi thứ tư :
    Sự giải thoát đó có phải của Ðạo Phật hay không?

    Kính thưa quí vị! quí vị hãy vui lòng đọc lại các Kinh điển Nguyên Thủy của Ðạo Phật, rồi nghiệm lại đời sống của Ðức Phật và đời sống của chúng tôi. Ðời sống của Ðức Phật:

    • Ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời.
    • Ngủ ít.
    • Không có của cải, châu báu, ngọc ngà, tiền bạc và cũng không có chùa to, Phật lớn sang đẹp.
    • Sống lấy gốc cây làm giường nằm, chết dưới gốc cây.

    Hiện giờ chúng tôi cũng sống như vậy: không ăn uống lặt vặt phi thời. Nhà ở bằng cây tầm vông, vách bằng liếp đan và nếu đủ duyên chúng tôi sẽ sống trong hang núi và cũng chết dưới gốc cây như Ðức Phật. Ðó là lối sống của Ðức Phật và lối sống của chúng tôi đều giống nhau. Cho nên quí vị không thể nào nói rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được.

    Phần làm chủ thân tâm thứ hai cũng rất cụ thể. Ðức Phật tuyên bố trước mọi người còn ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn. Ðiều này Ðức Phật đã giữ đúng lời hứa. Chúng tôi đã nhập được Tứ Thiền phá được thọ tịnh chỉ đươc hơi thở, cho nên chúng tôi cũng làm được điều này khi chúng tôi muốn dứt bỏ báo thân.

    Kính thưa quí vị! Chúng tôi có làm khác Ðức Phật hay không? Ở đây quí vị không thể nào viện một lý do gì bảo rằng chúng tôi tu sai pháp Phật được. Xưa Ðức Phật đã làm được điều gì thì bây giờ tôi cũng làm được như vậy. Tuy rằng tôi không giảng Kinh, thuyết pháp như các Thầy khác nhưng tôi thân giáo bằng hành động thân, khẩu, ý bằng sự sống của tôi để hướng dẫn người qua kinh nghiệm bản thân của mình hơn là ngôn ngữ. Vì sự hướng
    dẫn này theo tôi nghĩ là thực tế và cụ thể hơn.

    Trên đường tu theo Ðạo Phật tôi tu hành như vậy không còn sợ sai trái với Ðạo Phật và không còn sợ mọi ảnh hưởng của các tôn giáo khác đang đồng hóa Ðạo Phật.

    Kính thưa quí vị Phật tử! Khi nghe tôi nói đến đây, quí vị nên nghỉ xả hơi một chút để ngồi
    suy ngẫm những gì tôi đã nói ra có đúng hay sai. Nếu quí vị thấy có điều sai thì xin quí vị cho biết thêm những ý kiến để tôi chứng minh những lời Phật dạy, khiến cho quí vị không còn
    nghi ngời nữa.

    Bây giờ chúng ta tiếp tục lại câu chuyện còn đang dở dang.

    Sau khi đã được trả lời những câu hỏi mà bấy lâu nay quí vị đã từng ôm ấp trong lòng, hằng chờ đợi đến ngày ra thất của tôi. Nay quí vị đã được giải bày thông suốt. Nhưng tôi biết chắc quí vị còn một điều muốn thưa hỏi, đó là con đường thiền Ðông Ðộ mà Thầy chúng tôi (Hoà Thượng Thanh Từ) đã ra công triển khai và chấn hưng suốt 24 năm nay, kể từ năm 1970,
    cho đến nay, quá trình thời gian rất dài. Nhưng nhìn lại trong đó không thấy có kết quả gì thì mọi người cũng phải nghi ngờ, thời gian là một xác chứng cụ thể của con đường thiền đó,
    mà không chứng minh được, do đó quí vị phải có một mối nghi trong tâm là đúng, nhưng còn e ngại chưa muốn hỏi tôi, tôi hứa sẽ giải nghi cho quí vị nếu có đủ thì giờ bằng không chúng
    ta phải chờ một dịp khác. Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề.

    Kính thưa quí vị Phật tử! Nãy giờ quí vị đã suy ngẫm những gì tôi đã nói, tôi xin nhắc lại, quí vị đã biết rằng ai là Thầy của quí vị thì người đó sẽ dẫn dắt quí vị trên đường tu theo Ðạo Phật mà không hề sợ lạc lối. Tôi xin hỏi quí vị một lần nữa, Thầy của quí vị là ai? quí vị cứ trả lời xem, đừng dựa vào huyền sử 33 vị Tổ sư Thiền Ðông Ðộ và Trung Hoa, vì đó là sự dựng lên những trang sử không có thật của người sau.

    Kính thưa quí vị! Nãy giờ quí vị không trả lời là vì quí vị còn dè dặt, để tôi trả lời thay cho quí vị.

    Kính thưa quí vị! Cứ theo kinh sách Nguyên Thủy thì Thầy của quí vị không phải là chúng tôi. Chúng tôi là những con người bằng xương bằng thịt như quí vị, chúng tôi cũng không được Ðức Phật chỉ định làm người thừa kế dẫn dắt quí vị trên đương tu theo Ðạo Phật. Cho nên quí vị đừng nương tựa theo chúng tôi tu hành. Nương tựa theo chúng tôi tu hành sẽ có nhiều điều bất lợi và khó khăn cho quí vị:

    1.- Chúng tôi không phải là người thừa kế của Ðạo Phật, vì thế quí vị không đủ niềm tin đối với chúng tôi. Khi quí vị nghe người ta nói xấu chúng tôi, cho chúng tôi tu hành không đúng Ðạo Phật, tu theo ngoại đạo thì chừng đó quí vị còn đủ niềm tin đối với chúng tôi chăng?

    2.- Thời điểm hiện giờ Phật Giáo suy thoái. Người tu sĩ Phật Giáo đắm danh hám lợi, lòng ganh tị nhỏ nhen ích kỷ hẹp hòi và tinh thần tỵ hiềm cao độ.

    3.- Pháp môn tu hành của Ðạo Phật hiện giờ đã bị lẫn lộn nhiều pháp môn của ngoại đạo khó phân biệt tà chánh.

    4.- Các bậc Tôn túc đi trước tu hành sai, người sau không dám sửa đổi sợ Thầy Tổ buồn phiền. Thầy chúng tôi là Hòa Thượng Thích Thanh Từ tu thiền, Hòa thượng Thiện Hoa là Thầy bổn sư nhưng không vừa ý.

    5.- Lòng người còn ham danh đắm lợi ham mê sắc dục không muốn rời xa 5 thứ dục lạc của thế gian (danh, lợi, sắc, thực, thùy).

    6.- Ðời người còn lạc hậu, nặng lòng mê tín, thường cầu khẩn, bái lạy, tụng kinh, niệm chú, lấy uy lực chư Phật làm chỗ nương tựa tu hành, không tự cứu mình.

    7.- Ham mê thần thông, bùa chú linh hiển, tin chuyện quá khứ vị lai.

    8.- Lòng người bây giờ thiếu thành thật, thường dối Thầy, dối Tổ, dối mình và dối người khác.

    9.- Ham danh học thức cao, chạy theo cấp bằng này, cấp bằng nọ.

    10.- Những bậc chân tu không xu hướng chính trị bên này bên kia thì bị cô lập.

    Do 10 điều trên đây quí vị không nên theo tôi tu hành vì rất khó khăn cho quí vị và cho tôi. Vả lại theo tôi tu hành đông đảo chắc chắn sẽ để lại một trang sử Phật giáo không tốt đẹp. Xưa Huệ Khả bị giết, Lục Tổ Huệ Năng bị hành thích, gần đây Tổ Sư Minh Ðăng Quang bị bắt cóc mất tích, ông Ðạo nằm Nguyễn văn Thế bị ám sát bắn chết tại chùa.

    Kính thưa quí vị Phật tử, người Thầy của quí vị chính là Giới Luật. Giới Luật là người thừa kế của Ðức Phật và đã được Ðức Phật chỉ định trước giờ nhập Niết bàn. Chính chúng tôi tu học cũng từ Ông Thầy Giới Luật mà có được như ngày hôm nay. Vậy quí vị hãy trở về nương tựa nơi ông Thầy Giới Luật của quí vị đi. Ðừng nương tựa vào ai hết dù bất cứ ông Thầy nào, họ là những con mọt kinh sách, chẳng có một chút kinh nghiệm gì trên đường tu tập. Họ chỉ nói bằng miệng mà cuộc sống tu hành chẳng có kết quả gì. Họ đâu biết rằng kinh sách hôm nay là do tam sao thất bổn, có nghĩa là ba lần sao chép làm cho Kinh mất gốc, không đúng lời Phật dạy.

    Kính thưa quí vị, vả lại còn do tưởng giải của người sau thêm bớt quá nhiều theo kiến thức hiểu biết của họ rồi cho rằng đúng, do đó họ đã làm lệch lạc con đường tu hành của Ðạo
    Phật ở đời sau. Họ không dám tu giới luật, lúc nào cũng tìm cách tránh né viện cớ này cớ kia hoặc chạy theo con đường phá giới, phá oai nghi tế hạnh của Ðạo Phật.

    Tóm lại chẳng ai chịu nghe Ông Thầy Giới Luật nên tình trạng Phật Giáo mới ra nông nỗi này.

    Họ dám bẻ vụn Giới Luật, biến Phật giáo thành Thần Giáo, ông Phật thành ông Thần. Hiện giờ Chùa là nơi cúng bái cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xin xăm bói quẻ, cúng sao giải hạn, coi ngày giờ tốt xấu, dựng vợ gả chồng,... Vì thế chùa là nơi mê tín dị đoan.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành Nghĩa địa nhà mồ vì tư lợi nhỏ mọn cá nhân để Phật tử tới lui cúng bái và giỗ chạp làm tuần, làm tự, cúng vongm tiễn linh lúc nào cũng ồn náo; biến chùa thành nơi phục vụ mê tín cho những người Phật tử còn lạc hậu.

    Họ dám bẻ hỏng giới luật và giáo pháp của Phật, biến chùa thành khu du lịch để làm nơi ăn chơi của Phật tử, của khách hành hương tham quan du ngoạn. Bắt Tăng, Ni phục vụ cơm nước để được lòng Phật tử, được cúng dường.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành chỗ tổ hợp buôn bán làm tương, làm chao làm đủ
    mọi thứ nghề nghiệp, biến Tu sĩ thành công nhân sản xuất gia dụng, còn đâu những thì giờ để tu hành thật là phí uổng một đời người.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành cửa hàng ăn uống, bắt Tăng Ni phục vụ, còn gì thể thống đạo đức của người tu. Họ chỉ biết có tiền, có lợi mà không thấy việc làm của họ đúng hay sai.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành nông trại, tu sĩ thành nông dân để có miếng cơm manh áo hằng ngày không đúng tư cách của người tu sĩ. Họ lấy gương Bách Trượng một ngày không làm một ngày không ăn sách động tu sĩ lao động để xây dựng chùa to Phật lớn như cung đình, lao tác quần quật như con ong và như vậy còn gì là đời tu của tu sĩ.

    Họ dám bẻ hỏng Giới luật biến chùa thành cơ quan từ thiện xã hội, nay kêu đoàn Phật tử này quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ này, mai kêu đoàn Phật tử khác quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi cứu tế chỗ kia. Họ đâu biết rằng bổn phận của họ là lo giải quyết sanh tử trước mắt thì Phật Giáo mới còn, chứ đâu phải làm việc này; việc này là của người cư sĩ. Thời Ðức Phật ông Cấp Cô Ðộc là người cư sĩ làm những việc này nên mới có tên là Cấp Cô Ðộc, còn bây giờ Tăng, Ni là Cấp Cô Ðộc không còn là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni nữa. Họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành Tuệ Tĩnh Ðường, trạm y tế, bịnh viện, trạm xá, trường học. Biến tu sĩ thành Thầy thuốc ta, thuốc bắc, bác sĩ, y sĩ, dược tá, y tá, giáo viên ... khiến nơi tu hành mất hết vẻ tôn nghiêm thanh tịnh.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật chuyên lo đào đất làm hồ, xây dựng chùa to tháp lớn, biến Tăng
    Ni thành lao công quanh năm suốt tháng lao động quần quật, còn sức đâu mà tu hành.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật đi quyên góp tiền Phật tử xây chùa to tháp lớn như đền đài cung điện các vua chúa và tạo cây cảnh vườn tược đẹp đẽ để quyến rũ Phật tử và khách tham quan, biến tu sĩ trở thành những lao công quét dọn công viên và chăm sóc cây cảnh.

    Những việc làm này ngược lại Ðạo giải thoát của Phật.

    Họ dám bẻ hỏng Giới Luật đi khất thực không đúng oai nghi tế hạnh, xin tiền, xin Ðô la làm những việc tồi bại như bọn ăn mày khất cái.

    Những điều mà quí vị đã làm ở trên đều vi phạm vào Giới Luật của Ðức Phật, vì danh, vì lợi sang đẹp mà quí vị đã bắt chước các tôn giáo khác và người thế tục, những việc làm này không phải là tu sĩ Phật Giáo làm. Nếu trong kinh sách của Phật có dạy làm những điều này là do những người sau họ bị ảnh hưởng của các tôn giáo khác mà thêm vào.

    Kính thưa quí vị Phật tử, những gì quí Thầy đã làm và tôi đã nói ở trên không phải là những gì làm sai đối với thế gian, những người thế tục, nhưng chỉ sai đối với Ðạo Phật, lại đúng đối với các tôn giáo khác, cho nên tôi nói Phật Giáo chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác là vậy. Phật Giáo chủ trương đường lối buông xả, mục đích của Ðạo Phật là để giải thoát mọi cá nhân ra khỏi sự đau khổ sanh, lão, bịnh, tử của đời người. Cá nhân được thoát khổ thì xã hội mới an vui. Cá nhân còn đau khổ thì quí vị có giải quyết từ thiện bằng cách nào thì xã hội vẫn còn đau khổ và còn hơn thế nữa. Tuy rằng trước mắt tạm thời quí vị an ủi họ một chút mà thôi vì bản chất dục vọng tham lam, ham muốn, ganh tị hơn thua, gian dối xảo trá, giết sanh linh ăn thịt chúng của loài nguời, ngàn đời không bao giờ từ bỏ được. Do nguyên nhân này mà con người bóc lột lẫn nhau bằng mọi thủ đoạn mánh khóe gian xảo. Ngoài mặt làm ra vẻ thương yêu bác ái, nhưng còn bên trong toàn là gươm đao, súng đạn. Giai cấp bị bóc lột đứng lên đấu tranh để bảo tồn quyền lợi sống còn của mình, do đó thế giới mới có chiến tranh liên miên, không nước này thì cũng nước khác. Vì thế Ðạo Phật nhắm vào giải
    quyết cá nhân, giải quyết cá nhân là giải quyết xã hội. Cá nhân tốt thì xã hội mới tốt, cá nhân xấu thì xã hội xấu. Cá nhân hay tập thể làm từ thiện mà trong đó còn có danh cầu từ thiện
    thì không phải là từ thiện. Làm từ thiện để được tiếng từ thiện thì còn nghĩa lý gì là từ thiện.

    Kính thưa quí vị Phật tử! Vì việc làm từ thiện mà cá nhân và gia đình quí vị toàn là gặp đau khổ không thiện chút nào.

    Kính thưa quí vị Phật tử! Những điều tôi nói ở trên, Tăng, Ni hay là những người từng học Giới Luật của Phật, họ đều biết rất rõ những điều ngăn cấm này. Nhưng có điều hiện giờ sự tu hành của họ không có chất liệu của sự giải thoát. Họ chỉ học lý thuyết suông nên họ phải chuyển qua làm những việc này không còn cách nào khác để tiêu thụ cái nợ đàn na thí chủ. Nếu không làm thì nuốt sao trôi.

    Giới Luật của Phật là bậc Thầy của quí vị, nó thường ngăn cấm quí vị làm những điều sai, mà cớ sao quí vị không nương tựa vào ông Thầy của mình để sửa những điều sai mà lại nương tựa vào những bậc vạn năng, những đấng sáng tạo và Tiên, Thần, Thánh để cho Phật Giáo bây giờ mới ra nông nỗi này!

    Nếu quí vị tu hành đúng Giới Luật, nghiêm khắc mình trong Giới Luật thì đó chính là con
    đường của Ðạo Phật, con đường giải thoát thật sự.

    Cuộc sống đức hạnh giải thoát của quí vị chính là quí vị đã chấn hưng Phật Giáo, chứ đâu phải cất chùa to tháp lớn mới gọi là chấn hưng. Ðạo Phật không cần những thứ này. Chính cuộc sống đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị làm sáng tỏ Phật Pháp, chứ đâu cần có Tăng Ni cho nhiều mà Giới Luật chẳng ra gì.

    Cuộc sống đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị đã xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một ngàn lần quí vị làm công tác từ thiện xã hội.

    Kính thưa quí vị, đến đây chúng tôi xin quí vị nghỉ xả hơi một chút để suy ngẫm lại những
    điều tôi đã nói.

    PHÁP MÔN PHẬT GIÁO CHÂN CHÁNH

    Kính thưa quí vị, bây giờ chúng ta nên trở lại vấn đề. Sau khi được nghe tôi kể lại sự tu hành và chỉ định ông Thầy của quí vị, quí vị phải cẩn thận nghiên cứu kỹ pháp môn nào tu được pháp môn nào không tu được, pháp môn nào của chính Ðức Phật và pháp môn nào không phải của Ðức Phật và ai là ông Thầy của quí vị. Do sự cẩn thận suy xét, tôi tin chắc rằng quí vị sẽ hướng về chúng tôi. Nhưng kính thưa quí vị chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, chúng tôi đâu có chùa, đâu có chỗ ăn, chỗ ở cho quí vị, chúng tôi là những người ăn xin, ở trọ của người khác.

    Khi nghe tôi nói đến đây quí vị rất lấy làm ngạc nhiên có phải vậy không? Tuy quí vị chưa dám nói ra, nhưng tự nghi vấn trong lòng rằng: Tu viện Chơn Như trước mắt đây mà Thầy nói rằng Thầy không có chùa thì bảo sao chúng tôi tin được? Xin thưa với quí vị Phật tử, từ những khu đất rộng rãi này đến những ngôi nhà chư Tăng, Ni ở, cùng trai đường, nhà bếp, điện thờ Phật, Thiền Ðường, Tổ đường, phòng vệ sinh, phòng tắm, hồ nước và tất cả tài sản trong chùa đều là của các cư sĩ như Cô Út Diệu Quang ờ đây, vợ chồng Chơn Tâm, Tâm Như, Tâm Giác, Như Trì, Như Lý, vợ chồng Minh Tâm, cô Diệu Tâm, Diệu Mỹ, ông Muời,
    Diệu Hương, vợ chồng Thiện Hiển, Ngộ Ngọc và Cháu Tùng v.v.... Còn những cái ăn cái mặc hàng ngày cũng đều do các cư sĩ này và nhiều cư sĩ khác nữa. Từng thùng gạo, từng ổ
    bánh mì, từng chai nước tương, từng hạt muối, đường, sữa, trái cây, xà bông, bột ngọt, vải xồ, y áo và thuốc thang trị bịnh,... Cho nên tôi đâu có gì để nuôi quí vị. Xưa Ðức Thế Tôn không có nuôi một vị Tỳ kheo nào hết. Các vị muốn tu theo Ðạo Phật phải tự đi xin mà ăn.
    Tôi bây giờ cũng vậy, là người xin ăn ở trọ. Tôi đâu dám làm phiền những vị cư sĩ này, vì
    kinh tế gia đình của họ có mức độ.

    Kính thưa quí vị, tôi là tu sĩ Phật Giáo không bao giờ dám mở miệng xin tiền cất chùa hoặc xin tiền để làm những việc gì khác cho cá nhân mình. Vì Ðức Phật và Giới Luật không có dạy tôi làm điều đó. Nếu quí vị Phật tử có nghĩ đến tôi là kẻ tu hành chơn chánh thì cúng dường cho tôi được no lòng và y áo được lành lặn. Còn không cúng dường thì tôi chịu đói lòng và rách nát. Dù sống trong cảnh trạng như vậy tôi cũng chẳng hề mở miệng than thở, xin xỏ cùng ai. Còn ngược lại quí vị cúng dường mà không có tâm thành thì tôi thà chịu đói chứ không thọ dụng. Cúng dường những vật dụng không đúng cách tôi cũng chẳng dùng. Tôi là tu sĩ Phật Giáo nghiêm khắc mình trong Giới Luật không thể dùng những lời hoa mỹ đẹp đẽ để giả dối đạo đức để lừa gạt người, làm danh làm lợi cho mình. Tôi là tu sĩ Phật Giáo không dám dùng những điều mê tín dị đoan bùa linh chú giỏi nói chuyện quá khứ vị lai coi bói xem tướng coi sao giải hạn để gạt người bằng cách vô lương tâm, gây tạo sự mê tín cho muôn người là điều bất chánh phi đạo đức. Tôi là tu sĩ Phật Giáo không thể tổ chức hành hương đi chỗ này chỗ kia hoặc đi mười chùa, hai mươi chùa để khéo léo móc túi tiền của phật tử ham vui thích đi.

    Kính thưa quí vị Phật tử, vì thế tôi không có chùa, không có cơm để ban cho quí vị ăn, không có áo để cho quí vị mặc. Tôi là người giải thoát hoàn toàn không có gì cả ngoài cái bát để ăn cơm hàng ngày và vài bộ y áo để mặc kín thân. Nếu quí vị muốn tu theo tôi thì chỉ khi nào
    có những vị cư sĩ tự phát tâm cúng dường, chứ quí vị không được kêu gọi họ. Khi nào quí vị có chỗ ăn chỗ ở thì quí vị thỉnh mời tôi về đó. Tôi sẽ cho người hướng dẫn quí vị tu hành. Khi quí vị tu xong thì cũng là lúc tôi sẽ liền rời khỏi nơi đó và ẩn mình trong hang đá gốc
    cây. Tôi là những người đã sống buông xả hết, vì thế tôi được tự tại giải thoát không còn vướng bận chuyện trần ai. Khi đủ duyên tôi hướng dẫn quí vị, thiếu duyên tôi ẩn mình trong núi hoặc nơi thanh vắng ít người, quí vị khó lòng mà tìm. Sau ngày ra thất quí vị có về Chơn Như nhưng quí vị cũng khó mà gặp tôi. Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị muốn tu theo tôi, nếu quí vị là Tăng hay là Ni thì quí vị hãy đến Tu viện Huệ Quang và Ấn Quang xin gặp Thầy Minh Cảnh và Thầy Minh Thành, hai người này đã nhận lời di chúc của Hòa Thượng Huệ Hưng xây dựng Tu viện chuyên tu cho Tăng và Ni. quí vị sẽ về đó đòi hỏi hai Thầy này phải thực hiện lời di chúc để Tăng, Ni có chỗ tu tập Giới Ðức và Thiền Ðịnh. Nếu hai Thầy này đứng ra làm công việc cho quí vị thì quí vị phải góp công, góp sức, góp của với hai Thầy này để công việc được sớm viên mãn thì nơi
    tu hành của quí vị mới được yên ổn. Nhà nước và Giáo Hội sẽ giúp đỡ hai vị này. Khi công việc hoàn thành thì quí vị đến thỉnh tôi. Tôi sẵn sàng cho người về đó để hướng dẫn cho quí vị tu hành, bằng không thì tôi ẩn bóng.

    Kính thưa quí vị, nếu quí vị muốn học kinh thì quí vị đến Hoà thượng Thích Minh Châu ở Thiền viện Vạn Hạnh, TP. H.C.M; nếu quí vị muốn tu Thiền Ðông Ðộ thì quí vị hãy đến Hoà Thượng Thích Thanh Từ ở Thiền Viện Trúc Lâm Ðà Lat; nếu quí vị muốn tu theo Tịnh Ðộ thì quí vị hãy đến Hoà Thượng Thích Trí Tịnh ở chùa Vạn Ðức Thủ Ðức; nếu quí vị muốn tu theo Mật tông thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu ở Bình Dương; nếu quí vị muốn tu theo Thiền đốn ngộ thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Bửu Thắng ở Gò Công; nếu quí vị muốn
    tu theo thiền Công Án thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Duy Luật ở chùa Từ Ân Chợ Lớn, TP. H.C.M. Tất cả những vị này sẽ chỉ dạy cho quí vị đúng với sở nguyện của mình.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tại sao tu viện Chơn Như không đề Thiền Viện Chơn Như? Chúng tôi ở đây tu theo ba pháp môn Giới, Ðịnh, Tuệ nên không thể nào đề Thiền Viện được vì thế chúng tôi dùng chữ Tu Viện mới đúng nghĩa của ba pháp môn này. Ngày xưa Ðức Phật không tự xưng mình là Thiền sư mà chỉ xưng mình là bậc Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

    Kính thưa quí vị, một sự vô ý hay hữu ý mà người ta chạy theo xu hướng Thiền Tông rầm rộ rồi tự đặt tên chùa là Thiền Viện này Thiền Viện nọ để thu hút lòng hiếu tu thiền của người Phật tử. Chúng tôi tu theo Ðạo Phật, không bị mọi xu hướng của thời đại và không chạy theo mọi phong trào của quần chúng. Chúng tôi luôn luôn tự xét mình làm cái gì đúng, làm cái gì sai để không lầm lỗi, để không bị ảnh hưởng mọi phong tục tập quán của con người. Vì vậy tên Tu Viện Chơn Như vẫn đứng vững vàng không bị ảnh hưởng của Thầy Tổ. Cất chùa bằng tầm vông liếp đan, nhưng mãi mãi muôn đời người ta sẽ ghi nhớ không quên.

    Kính thưa quí vị Phật tử, hôm nay đã được nghe tôi kể lại sự tu hành xin quí vị đừng nghĩ rằng tôi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán. Tôi tu hành chẳng có chứng đắc gì cả. Chỉ hằng ngày tu tập làm chủ thân tâm của mình. Lâu ngày tôi làm chủ được nó nên không thể nào gọi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán, vì tôi thấy mình cũng bằng xương bằng thịt như chính quí vị vậy, cũng cười, cũng nói, vui vẻ như quí vị. Vì thế tôi chẳng phải Phật, Bồ Tát, A La Hán. Nhờ tu tập làm chủ thân tâm, tôi trở thành con người biết cách làm chủ mình nên tâm không buông lung, phóng dật, thân không hành động thô ác, miệng không nói lời hung dữ gian dối, xảo trá, ý không khởi niệm xằng bậy. Tôi cũng chẳng phải là Thánh Ðức, Hiền Nhân, Siêu nhân. Tôi là con người bình thường như bao con người khác, nhưng có điều tôi biết chắc rằng tôi không bao giờ làm khổ mình khổ người và cũng biết chắc rằng tôi chẳng có thần thông phép tắc gì cả. Tôi không thể kêu mây, hóa lửa, làm gió. Tôi chẳng biết chuyện quá khứ vi lai của ai hết. Tôi chỉ biết đủ và không cầu mong gì hết, cho nên quí vị đừng đảnh lễ tôi. Tôi không phải là Thầy của quí vị và cũng không phải vị Tổ Sư nào cả, tôi cũng không phải Bồ Tát, A La Hán nữa. Tôi cũng bình đẳng và bình thường như quí vị.

    Tôi là bạn lành của quí vị. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, lưu ý quí vị, tôi là bạn lành của quí vị. Vậy từ nay về sau quí vị đừng đảnh lễ tôi. Nếu quí vị đảnh lễ tôi là quí vị đã làm cách xa tôi với quí vị. quí vị đã biến tôi thành ông Thần, ông Thánh, ông vua để quí vị lạy chứ không phải quí vị theo tôi để tu hành. Ðạo Phật là một tôn giáo không có giai cấp thế mà quí vị biến tôi thành giai cấp bề trên để cho quí vị không bao giờ dám mở miệng khuyên răn khi tôi làm những điều sai với Ðạo Phật. Nhiều khi quí vị còn a dua theo tôi để bây giờ quí vị chứng kiến sự tệ hại của Phật Giáo đến tận cùng.

    Kính thưa quí vị, tôi xin quí vị mỗi lần gặp nhau đều chắp tay lên xá nhau là đủ lắm rồi. Vì đôi bàn tay của quí vị chấp lại tượng trưng cho búp sen. Sen là một loài thảo mộc, mọc dưới nước bùn nhơ hôi thối, thế mà hoa sen vươn lên không hôi thối mùi bùn mà còn toả hương thơm ngát. Cũng giống như chúng ta vậy, sống trong cõi đời đầy ô trược mà luôn luôn lúc nào cũng giữ thân tâm trong sạch như hoa sen kia vậy. Chúng ta chắp tay lại là tượng trưng cho hoa sen, đó là nói lên được lòng trong sạch thanh khiết của chúng ta kính cẩn chân
    thành chào nhau thì trên đời này không có gì quí bằng.

    Kính thưa quí vị, các bậc Tôn túc Thầy Tổ của chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi vua chúa phong kiến quá nặng, nên cuộc sống của các ngài đều tỏa mùi phong kiến, khiến cho nhân phẩm bình đẳng của con người mất đi (dân lạy quan, quan lạy vua) và tình cảm của chúng ta bị xa cách vì giai cấp quân thần.

    Thưa quí vị Phật tử, những gì chúng ta làm là chúng ta phải có ý thức đầy đủ đừng để phong tục tập quán của con người đồng hóa Phật Giáo mà người ta coi rẻ và khinh thường Ðạo Phật.

    Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng ta tạm dừng câu chuyện tại đây để trả lời bức thư của một người Phật tử gửi đến hỏi tôi cách thức tu hành của vị này có đúng hay không. Tôi xin trả lời và xin mời người chủ của bức thơ chú ý nghe.

    Trong thư Phật tử này đã nêu năm Pháp môn:

    1 - Quán tâm theo kiểu Ðại thừa
    2 - Mật Tông thần chú
    3 - Tịnh Ðộ
    4 - Giới Luật
    5 - Hơi thở

    Phật tử này đã tổng hợp 5 pháp môn này làm thành một pháp môn để tu hành. Tuy trước mắt Phật tử có một lợi nhỏ nhưng tu lâu về sau không nhập được các chánh định của Phật, phần chắc sẽ nhập vào định tưởng. Cách thức mà Phật tử đã trình trong thơ, tôi nghiệm xét thấy:

    1 - Quán tâm chẳng ra quán tâm
    2 - Mật Tông chẳng ra Mật Tông
    3 - Tịnh Ðộ chẳng ra Tịnh Ðộ
    4 - Giới Luật chẳng ra Giới Luật
    5 - Hơi thở chẳng ra hơi thở

    Trong thư Phật tử đó còn cho chúng tôi biết kết quả ưu điểm của sự tu tập này như:

    1.- Lúc nào con cũng thấy tâm con vui an lạc. Tối nằm xuống là ngủ liền, không trằn trọc, không chiêm bao mộng mị, không cảm thấy nhớ nhung gia đình, lòng dạ rỗng rang vô tư lự như trẻ con.

    2.- Trạng thái thiền định của con cũng tốt, không bao giờ bị tán loạn hôn trầm. Con định tâm cũng dễ, đôi khi hơi thở và câu niệm PHẬT của con chỉ còn mong manh nhu nhuyễn như một sợi chỉ. Con chìm đắm trong một trạng thái tĩnh lặng rất dễ chịu, nhưng con vẫn tỉnh chứ không mê. Lúc đó con hoàn toàn không cần một chút dụng công nào. Con chỉ để cho hơi
    thở ra vào một cách tự nhiên và nó tự nhẹ lần, chứ con không tác ý.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tôi xin trả lời gọn và dễ hiểu để không mất thì giờ. Theo lối tu tập của vị Phật tử này không có kinh nghiệm chuyên môn mà chỉ chạy theo an lạc do xúc tưởng hỷ lạc sinh ra. Lối tu này là của Phật Giáo cổ truyền trong các chùa Tịnh Ðộ thuộc Phật Giáo Cổ Sơn Môn, Lục hoà Tăng theo nghi thức tụng niệm của họ.

    Xin thưa quí Phật tử, người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp môn này thuộc hệ thống Ðại Thừa hơn là tìm tu giải thoát. Ðó là một pháp môn tổng hợp Thiền, Tịnh, Mật của quốc sư Ngọc Lâm trong thời vua Nhà Thanh,Trung Hoa. Tôi xin nhắc lại một lần nữa "người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp môn tổng hợp". Tu như vậy không phải là ngươì đi tìm sự giải thoát của Ðạo Phật. Ðây cũng là một thứ bịnh tu hành thời đại cầu mong tìm hỷ lạc dễ chịu để trốn khổ trong cuộc sống hay đi tìm một thứ cao siêu vượt bực, khác của con người.

    Kính thưa quí vị Phật tử, trong những ngày nhập thất tôi đã được biết có một số Tăng Ni và Phật tử đều thuộc giới có học thức thế mà lại tu theo pháp môn của ngoại đạo. Những pháp môn này mạo danh là của Ðạo Phật. Họ thường sống ẩn dật trong núi non luyện tập bùa chú thiền định xuất hồn, thiền định luyện tinh khí thần, thiền định luân xa, thiền định hiển linh vô vi tạo những điều linh hiển kỳ lạ, biến thế giới tâm tưởng thành thế giới siêu hình đầy dẫy linh hồn người chết, ma quái quỉ, Thần Thánh, Tiên, Phật, Trời,...

    Ðối với những Phật tử, những tu sĩ này thường phô trương tiên đoán chuyện quá khứ vị lai của mọi người, thường làm thầy thuốc nam, thuốc bắc, hoặc bùa chú, hoặc truyền điển linh luân xa để trị bệnh khiến cho mọi người mê tín lại càng thêm mê tín hơn. Họ nói chuyện toàn là khoe khoang sự xuất hồn đi chu du trong các cõi Tiên, cõi Phật và làm những điều thần thông quái lạ khiến cho mọi người say mê thích thú và phục lăn họ, xem họ như Phật sống, như Thần, Thánh, Tiên đang sống tại thế vậy. Ðó là những hành động dối gạt, bịp người,
    làm những điều sai trái phạm vào Giới Luật của Phật.

    Xưa Ðức Phật thường cấm các đệ tử không được thể hiện thần thông, không được làm những điều kỳ lạ, vì Ðức Phật cho những thần thông biến hóa và biết chuyện quá khứ và vị lai là những trò huyễn hóa lừa đảo người. Những tu sĩ này đã biến Phật Giáo thành một tôn giáo mê tín dị đoan, và như vậy là xa lìa mục đích tu hành chân chánh của Ðạo Phật, khiến cho hàng Phật tử lòng dạ hoang mang chẳng biết Phật Pháp như thế nào đúng và như thế nào sai. Giống như người đứng trước ngã ba đường.

    Hình ảnh Tế Công Phật sống tức là Tế điên Hòa Thượng, Phật sống Cựu Kim Sơn, đó là những hình ảnh tu sĩ ma quái mượn danh nghĩa Phật Giáo luyện thần thông trị bệnh làm những điều mê tín, dị đoan, cứu thế độ dân. Ðó là những hành động phá hoại Giới Luật đức hạnh giải thoát và những oai nghi tế hạnh của Ðạo Phật. Xưa Ðức Phật dạy: Này các Tỳ kheo, Các Thầy hãy giữ gìn Giới Luật của ta nghiêm túc thì hàng Phật tử sẽ kính mộ các Thầy, thường quì xuống trải tóc dài trên đường cho quí Thầy đi.

    Ðối với những hạng tu sĩ ma quái như Tế Ðiên Tăng và Phật sống Cựu kim Sơn, hiện giờ có người vẫn còn tin đó là Phật sống và còn phổ biến kinh sách ca ngợi những hạng người này. Họ đâu biết rằng sự sống chết đau khổ của cuộc đời con người là do nhân quả, không thể có một Tế Ðiên Phật sống nào mà cứu họ được. Cho dù có một ngàn Tế Công cũng chẳng cứu họ được.

    Kính thưa quí vị Phật tử, Ðạo Phật là Ðạo làm chủ thân tâm chứ không phải là Ðạo đi tìm sự an lạc tiêu cực trong cuộc sống hoặc đi tìm thần thông phép lạ. Hầu hết quí Phật tử đến chùa tu tập theo Ðạo Phật là đi tìm dục lạc mới trong tôn giáo hoặc đi tìm sự an ủi tinh thần trong kinh điển vì cuộc sống ở thế gian quá khổ sở, quá cay nghiệt, quá phiền toái, hoặc đi
    tìm thế giới siêu hình để thoả mãn lòng mơ tưởng của mình. Chính vì thế, vô tình quí Phật tử đã dùng tiền bạc sai quí Thầy phục vụ tinh thần trong đời sống của quí vị. quí vị cúng dường bố thí trai tăng là luôn luôn đòi hỏi quí Thầy phải thuyết pháp giảng kinh hoặc cúng bái, cầu siêu, cầu an, coi bói xem tướng, v.v... chứ không bao giờ quí vị đến cúng dường cho Chư Tăng bằng một tấm lòng cầu mong quí Thầy giữ gìn Giới Luật thanh tịnh để Tam Bảo được trường tồn. quí vị đến chùa là đến với sự trao đổi, chứ không phải đến với tâm giữ gìn Phật Pháp.

    Còn riêng quí Thầy, Chư Tăng, Ni cũng vì vật chất tiền bạc tình cảm cuộc sống cho nên đã
    để Phật Giáo bị đồng hóa theo phong tục tập quán của con người. Từ đó quí Thầy quí Cô đã sản xuất ra những loại kinh sách cúng bái, tụng niệm như ca hát giọng cao giọng thấp, cúng vong tiễn linh theo tiếng trống tiếng kèn, tiếng mõ nhạc dập dìu du dương, ảo não ru lòng người đam mê say thích, Tăng Ni tụng niệm giống như đào kép hát tuồng, khiến cho tín đồ thích thú và còn bày vẽ ra nhiều điều mê tín lừa đảo tín đồ. Toàn bộ các tu sĩ này đều phạm giới phá Giới Luật của Phật. Rồi cũng từ đó quí Thầy sản xuất ra những loại kinh sách để an ủi người Phật tử khi đau ốm bịnh tật, khi sân hận thù oán, khi phiền não tái tê, khi ganh tỵ hơn thua và khi tử biệt phân ly. Những kinh sách này không phải để tu hành làm chủ thân tâm giải thoát sanh tử, nó chỉ là nguồn an ủi tinh thần làm dịu bớt cơn buồn khổ. Nhờ đó mà quí Thầy quí Cô mới tiêu thụ được món nợ trai tăng cúng dường của quí Phật tử. Hay nói cách khác là trao đổi.

    Phải nói vì vật chất, tiền bạc, tình cảm và cuộc sống của quí Thầy, quí Cô mà đã biến quí thầy quí cô trở thành người phục dịch cho Phật tử từ cái ăn cho đến cái đi chơi và mọi sự của Phật tử mà quí Thầy và quí Cô đều phải lo hết. Do đó quí Thầy quí Cô phải thức thâu đêm dịch kinh viết sách cho Phật tử đọc, quí Thầy quí Cô cũng nặng đầu bóp trán suy nghĩ
    tìm mọi cách tạo ra cây cảnh đẹp đẽ để cho Phật tử du ngoạn thưởng thức. Như vậy còn thì giờ đâu mà quí Thầy quí Cô tu hành. Tu hành không phải là một việc dễ làm, phải thường hằng tập sửa những sự sai lầm nơi mình. Phải thường hằng gìn giữ Giới Luật nghiêm túc cho nên không thể một sớm một chiều mà thành tựu được. Vì thế quí Thầy đã trở thành những công viên chức của Phật tử mà không hề hay biết. Kinh sách Phật được bày bán la liệt không có vẻ tôn nghiêm ngoài hè phố, ngoài lề đường và cũng vì thế mà người tu theo Phật Giáo thời nay rất là hời hợt. Những Giới Luật của Phật Giáo con người thời đại ngày
    nay đã quên hết, chỉ còn biết làm danh làm lợi trên những đống kinh sách này. Ðem hết cuộc đời và công sức của mình, bỏ hết thì giờ quí báu, thay vì để tu tập giải thoát khỏi cảnh đời ô trược này thì quí Thầy quí Cô lại chôn mình trong bùn lầy danh lợi hôi tanh, làm mất giá trị
    Pháp Bảo của Phật.

    quí Thầy quí Cô nghiêm khắc mình trong Giới Luật thực hiện thiền định sâu mầu là quí Thầy quí Cô đã phổ biến Pháp Bảo quí báu nhất của Phật đến tận hang cùng ngõ hẻm của con người, chứ không phải việc in kinh viết kinh sách bày bán khắp chợ là phổ biến Pháp Bảo. Ðó là quí Thầy quí Cô đã ném Pháp Bảo xuống bùn nhơ hôi thối.
    Kính thưa quí vị, khi nghe tôi nói đến đây quí vị hãy suy ngẫm lại, chứ đừng vội lên án tôi. Kính thưa quí vị, kinh sách bày bán la liệt mà người tu bây giờ chẳng ra làm sao! Ngay chính
    bản thân của quí vị tu hành thì quí vị cũng tự biết lấy rất rõ ràng. Kinh sách Phật là để cho
    người tu tập giải thoát, chứ không phải để an ủi người đời. Bởi vậy Phật Giáo ngày nay không người tu chứng là vậy. Nếu muốn tu giải thoát thì quí vị phải đến chùa tu hành hẳn
    hoi, chứ không phải đi lang thang chùa này chùa khác để nghe thuyết pháp chơi. Vả lại chùa
    cũng chẳng phải là chỗ để cho quí vị đi chơi ngắm cảnh giải trí an ủi tinh thần. Nếu quí vị muốn tu thì phải nghiêm chỉnh thực hành đúng như lời của Phật dạy và nghiêm khắc mình trong kỷ luật của nhà chùa chứ không phải dùng tiền bạc cúng dường bố thí trai tăng rồi muốn sai sử quí Thầy cách nào cũng được. Từ lâu quí vị đã dùng tiền bạc của mình để an ủi tinh thần mình mà biến Phật Giáo thành Thần giáo, ông Phật thành ông Thần, và quí Thầy
    trở thành nhân viên của quí vị cư sĩ.

    Một lần nữa tôi xin nhắc lại chùa là nơi để tu hành giải thoát chứ không phải chùa là nơi để quí vị nghỉ mát nghỉ hè làm việc mê tín, dị đoan. Chùa là nơi để cho Tăng, Ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, tuệ tĩnh đường, phòng thuốc từ thiện xã hội,...

    Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị đến chùa cốt là để học hỏi những lời vàng ngọc của Phật để tu học giải thoát thân tâm, để vượt ra khỏi cảnh đời ô trược, chứ không phải đi tìm cái ăn cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi, đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của chư Phật. Ðó là những điều mê tín, phi đạo đức, đó là những điều sai không đúng của Ðạo Phật. Khi đến chùa quí vị đừng làm bận tâm những người tu hành ở đây, vì cái ăn cái mặc của quí vị. Khi đi đến chùa quí vị đừng để người tu hành phục vụ quí vị mà mất phước. Khi đi đến chùa quí vị đừng ăn mặc hở hang bày da hở thịt, mặc quần áo màu sắc rực rỡ bông hoa lòe loẹt. Khi đi đến chùa quí vị đừng thoa son đánh phấn như đi dự tiệc tùng đám cưới đám hỏi .... Khi đi đến chùa quí vị đừng làm ồn náo cười nói phải giữ mình có nết hạnh. Khi đi đến chùa đừng nghĩ mình có xe hơi, xe gắn máy chạy đậu sát thềm chùa. Ðó là tư cách thiếu đạo đức, quí vị cần sửa lại. Khi đi đến chùa quí vị phải đậu xe ở ngoài cổng, dắt xe vào phải cởi bỏ giày dép đi chân trần vào chùa và hết lòng cầu Pháp thì may ra quí vị mới hưởng được Pháp vị của Ðức Phật. Khi đến chùa quí vị đừng biến chùa thành cái chợ. Xưa vua A Xà Thế đến thăm Ðức Phật phải dừng xe ở đầu rừng rồi đi bộ đến gặp Phật. Khi đi đến chùa đừng nghĩ rằng có tiền là có tất cả, đừng ỷ rằng mình có tiền quăng tiền ra là có đủ loại kinh sách và còn được ưu tiên nghe thuyết giảng các loại kinh, có biết đâu đó là những bài Pháp đầu môi chót lưỡi, chính người thuyết pháp đó cũng chưa thực hành được. Những bài thuyết pháp đó thường bán rẻ mạt ở đầu đường xó chợ. Những bài thuyết pháp này quí vị có tu ngàn đời cũng chẳng ra gì. Pháp không cầu mà có là pháp giả, pháp không cầu mà bày bán la liệt là pháp không có giá trị tu hành. Pháp ấy là pháp danh, pháp lợi chứ không phải chân pháp của Ðạo Phật.

    Kính thưa quí vị Phật tử, khi đi đến chùa Tăng, quí vị là nữ cư sĩ hoặc Ni cô thì quí vị nên đi từ hai người trở lên vào tu viện nam. Là người cư sĩ nam hay chư Tăng khi đến chùa Ni hoặc tịnh thất của cư sĩ nữ thì quí vị phải đi từ hai người trở lên chứ không thể đi một người vào chỗ đó được. Khi đi vào chỗ tu hành quí vị không thể đi xông pha mà phải đi theo người hướng dẫn, nói chuyện nhẹ nhàng để giữ gìn sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó. Khi cần gặp người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ chứ không được tự động đến chỗ người thân ở. Người tu hành ở tại tu viện cũng không được đưa dắt người thân bạn bè đi tham quan làm động chúng tu hành. Ðó là điều làm sai, xin quí vị lưu ý. Một cư sĩ nữ hay một ni cô khi đến chùa Tăng mà tự do đi lại thì phải biết đó là một người thiếu đức hạnh phải
    sửa lại. Ngược lại một cư sĩ nam hoặc một vị Tăng cũng vậy không được ngang nhiên đi vào nơi tu hành tu sĩ nữ. Vậy khi đến nơi tu hành xin quí vị lưu ý hãy cẩn trọng chớ xem thường chỗ tu hành như chỗ du lịch tham quan, chỗ ăn chơi hò hẹn. Một việc làm vô ý tứ là gây ra
    tai hại cho mình cho người. Ở trong nhà chúng ta sống sao cũng được, nhưng chúng ta phải biết đó là những người thiếu đạo đức nhân cách. Ngược lại ra ngoài cũng phải tùy nơi tùy chỗ thì quí vị mới xứng đáng là đệ tử của Phật, đầy đủ tác phong phẩm chất đạo đức giải thoát của Ðạo Phật. Tám năm trời chúng tôi mở tu viện Chơn Như, chẳng tìm thấy một
    người cầu pháp chân thật, toàn là thứ ăn hại của đàn na thí chủ, làm những điều tồi tệ phá Giới Luật cống cao ngã mạn, hiêu hiêu tự đắc coi mình là bực Thầy, Tổ của thiên hạ. Xét lại họ chỉ toàn là những con mọt sách.

    Tóm lại Tăng Ni và Phật tử đối với Phật Pháp còn biết bao nhiêu điều sai trái nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi nêu ra đây hết được. Khi nào đủ duyên Cô Diệu Quang mở khóa tu đạo đức giải thoát thì tôi sẽ giảng dạy cho quí vị.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tôi biết rằng lời thật mất lòng nhưng tôi phải nói. Nói vì sự tồn vong của Phật Giáo, dù biết rằng tôi nói sẽ không có chùa để ở, không có cơm để ăn, không có y áo để mặc thì tôi cũng vẫn phải nói. Nói để cảnh tỉnh Tăng Ni và quí vị cư sĩ. Nói để quí vị sửa sai, nói để quí vị không bị đọa địa ngục ngay cảnh sống thế gian này. Nói để cho quí vị hiểu Phật Pháp đúng cách.

    Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị phải hiểu tôi nói ở đây không có ý phê phán chỉ trích ai hết. Ai muốn tu sao cũng được. Tôi chỉ biết nêu lên ở đây những ý này để quí vị đừng hiểu sai Ðạo Phật, đừng lầm đường lạc lối tu tập sai mục đích của Ðạo Phật mà uổng phí thì giờ quí báu của quí vị.

    Kính thưa quí vị, chúng ta là những đệ tử của Phật mà không tu hành theo pháp môn của Ðạo Phật, lại đi tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhìn nhận tu theo Ðạo Phật. Sự lầm lạc này khiến cho Phật Giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thật sự. Hiện giờ Phật Giáo xem như bị mất gốc chỉ còn cành lá mà thôi. Cho nên tôi gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh quí vị, để nhắc nhở quí vị. Còn nghe hay không là quyền của quí vị. Tôi chẳng có ý gì khác hơn. Tu đúng, tu sai là quí vị nhờ chứ tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả. Tôi chỉ mong quí vị tỉnh ngộ quay về với con đường chân chánh của Ðạo Phật để có sự ích lợi thiết thực cụ thể hơn. Những điều quí vị tu hành và những việc làm của quí vị đều tốt đều thiện, nhưng tốt và thiện đối với Tôn giáo khác, còn đối với Phật Giáo thì quí vị đã lầm lạc. Bởi quí vị đã không tu Giới Luật mà còn phá Giới Luật, làm những điều sai trái phạm vào Giới Luật, trong khi Giới Luật là ông Thầy mà quí vị từ bỏ không chịu tu theo. Tôi cũng không biết nói thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không chịu nghe lời dạy không chịu nương tựa vào ông Thầy của mình thì quí vị sống với ai, tu tập cái gì?

    Nếu tôi tu tập Giới Luật, Thiền định, Trí tuệ của Ðạo Phật mà không có kết quả như ngày
    hôm nay thì tôi cũng chẳng nói lên đây làm gì. Vì có kết quả quá rõ ràng cho nên tôi cho nổi cơn sấm sét để quí vị tỉnh cơn mơ mộng trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.

    Kính thưa quí vị Phật tử, quí vị hãy cùng tôi sửa sai lại những gì quí vị đã từ lâu không biết, đã làm sai. quí vị hãy chấm dứt, đừng vì lợi ích nhỏ mọn, ích kỷ cá nhân tầm thường mà làm tổn hại Phật pháp. Bấy lâu nay cũng vì hiểu sai Phật Pháp, tu sai mà tưởng là bồi đắp xây dựng Phật Pháp. Vì thế dầu quí vị có tìm khắp nơi trên thế giới cũng không tìm ra một bậc tu chứng.

    Tôi sẽ giải nghi cho quí vị về con đường Thiền Ðông Ðộ. Tôi biết rằng khi nói đến Thiền Ðông Ðộ là chạm đến Thầy chúng tôi. Song tôi tin rằng Thầy chúng tôi không phải là ngươì tầm thường. Thầy chúng tôi luôn sáng suốt và thường để tâm theo dõi chúng tôi, sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi trên bước đường tu tập cũng như khai thác những kinh nghiệm gì mà
    chúng tôi đã gặt hái được kết quả lợi ích thiết thực và cụ thể của Ðạo Phật để lấy đó phục hồi chấn hưng làm sáng tỏ Thiền tông Việt Nam.

    Kính thưa quí vị Phật tử, cách đây 14 năm khi tôi tu hành có kết quả về trình lại với Thầy và có ý xin Thầy cho phép tôi nhập diệt bỏ báo thân này. Thầy chúng tôi không bằng lòng và khuyên bảo tôi ở lại giúp Thầy chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Tôi nhận lời và ở lại giúp Thầy. Cho nên suốt 14 năm nay tôi đã gặp bao nhiêu cay đắng phũ phàng và chịu nhiều gian khổ, tôi cũng chẳng sờn lòng. Dù sông kia có thể cạn, núi kia có thể mòn, song lòng dạ tôi không hề thay đổi. Nguyện đem đời tu hành của mình làm viên đá để Thầy chúng tôi xây dựng lại ngôi nhà Thiền Tông Việt Nam như ước vọng của Thầy chúng tôi. Tôi biết rằng Thầy chúng tôi không bao giờ cố chấp chịu khô cằn trong giáo điều Thiền Ðông Ðộ và cũng không bao giờ chịu chết cứng trong giáo điều Thiền Trúc Lâm. Vì Thầy đã từng nói với chúng tôi: Thầy trò hiểu nhau là hơn hết.

    Mặc dù Thầy chúng tôi có nói với quí vị tôi tu lạc vào Thiền ngọai đạo, bị ngũ ấm ma và còn nói với quí vị rằng tôi chẳng hiểu Phật Pháp, nói tôi tu theo Tiểu Thừa tiêu nha, bại chủng, chồi khô mộng lép, hoặc nói tôi khai trừ Thầy. Những lời nói này quí vị không thể hiểu nỗi Thầy chúng tôi đâu. quí vị nên nhớ, nhờ có Thầy chúng tôi mà quí vị mới biết tôi ngày nay. Một lát nữa tôi sẽ giải thích cho quí vị nghe.

    Thầy chúng tôi đã tận tụy hy sinh cả đời mình vì Phật Pháp. Tìm thấy cái gì hay trong kinh sách vội đem ra kêu chúng tôi về cho tu tập. Cho nên cuộc đời của Thầy chúng tôi nguyện đem hết sức mình lo cho Tăng Ni và Phật tử quá nhiều, luôn luôn lúc nào Thầy của chúng tôi cũng chịu cực khổ lo giảng kinh dạy đạo và còn dịch viết kinh sách Thiền để cho quí vị không lầm đường tu hành. Bởi vậy chúng tôi tin Thầy của chúng tôi hơn ai hết.

    Thầy nói điều gì về chúng tôi là nhắc nhở chúng tôi tránh những điều sai lầm. Như nói tôi tu lạc vào thiền ngoại đạo là nhắc nhở tôi kiểm tra lại đường lối tu hành của mình. Nói tôi không hiểu kinh điển là bảo tôi ôn cố lại kinh điển. Nói tôi bị ngũ ấm ma là nói tôi ý tứ từng lời nói và việc làm. Nói tôi tiêu nha bại chủng là nói tôi tận lực tu hành để trợ giúp Thầy chấn hưng
    Phật Pháp làm Bồ Tát hạnh. Nói tôi khai trừ Thầy là bảo tôi gắn bó cùng Thầy để Thầy trò cùng nhau làm lợi ích chúng sanh.

    Kính thưa quí vị Phật tử, những lời dạy bảo này là vì nguyên nhân Phật Pháp hôm nay đã bị pha trộn đủ loại pháp môn tu hành. Người tu hành thường hay bị rơi vào ngũ ấm ma mà không hề hay biết, nên Thầy chúng tôi ngăn ngừa cảnh giác, nói thẳng về sự tu hành của tôi để tôi coi chừng tránh lầm lạc.

    Kính thưa quí vị Phật tử, những lời nói này là những lời khuyên vàng ngọc của Thầy đối với tôi. Những lời nói này làm cho tôi cảm thấy rằng Thầy luôn lúc nào cũng ở bên mình dìu dắt tôi từng bước đi không để tôi bị ngã té trên đường tu học. Lòng thương yêu của Thầy chúng tôi không thể lấy trời biển núi non mà sánh được.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tâm nguyện lớn lao hy sinh cả cuộc đời mình cho Phật Pháp nên Thầy chúng tôi thường dạy bảo: một người tu chứng là Phật Pháp thường còn. Vì thế ngày nay đã biết bao nhiêu người thấm nhuần công đức của Thầy chúng tôi. Vì có hiểu Thầy như vậy nên tôi không ngần ngaị nói lên những điều mà tôi đã thấy biết được để giúp Thầy
    chấn hưng Phật Pháp và cũng để giúp quí vị tu hành không hoài công phí cuộc đời.
    Không Spam nghe chưa :waiting:

    Nếu mà Spam thì slapping chết này, nữa này violent105

    Dạ em không dám Spam nữa ạ surrender

  2. #2

    Mặc định

    SỰ TU TẬP CỦA ÐẠO PHẬT HIỆN GIỜ


    Kính thưa quí vị Phật tử, con đường tu theo Ðạo Phật hiện giờ có muôn vạn nẽo, chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời không có kết quả. Theo sử 33 vị Tổ Sư Thiền Ấn Ðộ và Trung Hoa thì con đường thiền này do từ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy. Qua câu chuyện niêm hoa trên núi Linh Thứu, Ngài Ca Diếp mỉm cười thì chắc quí vị ai cũng biết rõ, tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ. Ca Diếp tổ thứ nhất bên Ấn Ðộ truyền xuống đến tổ thứ 28 là Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung Hoa và làm tổ thứ nhất tại đất
    nước này. Người Trung Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là nhị tổ Huệ
    Khả.

    Bồ Ðề Ðạt Ma truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm. Tôi xin nhắc lại câu chuyện để quí vị thưởng thức.

    Thần Quang đến tìm Bồ Ðề Ðạt Ma để mong cầu Pháp tu hành. Lúc bấy giờ Bồ Ðề Ðạt Ma đang ngồi nhìn vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động. Mãi đến hôm sau tuyết phủ lấp gối Bồ Ðề Ðạt Ma mới quay ra hỏi: "Ngươi đến cầu gì mà phải khổ sở vất vả quá
    vậy?

    Thần Quang đáp:
    - Con đến cầu pháp.

    - Ta có pháp gì để ngươi cầu?

    - Bạch Hòa Thượng tâm con bất an.

    - Ngươi lấy tâm ra ta an cho.

    Thần Quang đứng, nhìn quanh quất chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch:
    - Bạch Hòa Thượng, tâm ở đâu làm sao con lấy được.

    - Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

    Thần Quang bèn quì xuống đãnh lễ tổ nhận pháp an tâm. Ngay câu nói mà liền hiểu thì gọi là đốn ngộ. Như vậy Thần Quang đã ngộ pháp an tâm tức là ngộ Phật tánh còn gọi là kiến tánh.

    Qua câu chuyện này quí vị có hiểu pháp an tâm không? Ðể tôi so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quí vị thấy rõ ràng.

    Theo kinh Tứ Niệm Xứ, Phật đã dạy: vô thường, khổ, không, vô ngã. Chỗ pháp an tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy tâm vốn không. Khi Thần Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì liền có tâm, không niệm thì không tâm. Vậy khi không niệm tâm quí vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền não, bồ đề, thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái, dục, thì còn chỗ nào gọi là sanh tử. Cho nên Bồ Ðề Ðạt Ma gọi đó là an tâm.

    Vậy pháp môn an tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma có giống pháp môn chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, bản lại diện mục hiện tiền của Lục tổ Huệ Năng không?

    Kính thưa quí vị Phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không. Tâm không là tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm. Như vậy bây giờ quí vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải không?

    Tôi xin kể lại câu chuyện "Bản lai diện mục" để quí vị thưởng thức.

    Khi Huệ Minh đuổi theo Huệ Năng để dành y bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi, nên bỏ y bát bên vệ đường đứng đợi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo:
    - Người đến đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây ngươi cứ lấy đi đi. Huệ Minh cúi đầu đảnh lễ tác bạch:
    - Con đến cầu pháp chẳng cầu y.
    - Chẳng nghĩ thiện nghĩ ác cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh? Huệ Minh đảnh lễ Tổ nhận pháp bản lai diện mục rồi trở về.
    Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng ta đem hai pháp này so sánh với kinh Ðại Thừa, vì lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy rồi.

    Kinh Kim Cang Bát Nhã có câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" do câu kinh này mà Lục tổ Huệ năng đã kiến tánh. Nghĩa của câu kinh này dạy đừng nên trụ tâm chỗ nào cả thì tâm kia hiện tiền.

    Xin thưa với quí vị Phật tử, tâm của chúng ta thường trụ ở 3 chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm. Kinh này dạy chúng ta ở chỗ không, không trụ tức là không niệm, không niệm tức là tâm vốn không, tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện nghĩ ác tức là bản lai diện mục, bản lai diện mục tức là Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Ðông Ðộ. Bây giờ quí vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng hành.

    Thiền Ðông Ðộ chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn đầu thiền, giai đoại giữa thiền, giai đoạn cuối thiền.

    1. Từ pháp môn An tâm đến pháp môn Bản lai diện mục là giai đoạn đầu của Thiền Ðông
    Ðộ.

    2. Từ số đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.

    3. Từ số đệ tử của Lâm Tế đến Hư Vân Hòa Thượng và La Hỏa Thiền sư là giai đoạn cuối thiền.

    Giai đoạn đầu thiền sư khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ, cho nên lúc bấy giờ người theo tu rất đông, nhất là thời kỳ Lục tổ Huệ Năng, người nghe qua liền ngộ, chẳng cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm. Chúng ta phải nói thiền Ðông Ðộ cực thịnh nhất ở giai đoạn này như hoa thiền đến thời kỳ rộ nở. Khi nhận ra pháp này Thiền Ðông Ðộ gọi là ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm còn gọi là tiệm tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật. Vì vậy mà có từ ngữ đốn ngộ rồi tiệm tu. Tiệm tu có nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật
    tánh. Vì có ngộ được Phật tánh mới thành Phật nên gọi là kiến tánh thành Phật. Ngộ Phật tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành, nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra pháp môn chẳng nghĩ thiện nghĩ ác.

    Chỗ chẳng nghĩ thiện nghĩ ác là chỗ chẳng có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ chẳng có pháp môn nào biết lấy cái gì tu hành. Do đó kinh Kim Cang dạy cách tu Bồ Tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì thành Phật. Bát Nhã Tâm kinh dạy: Ða thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không; Kinh Lăng Nghiêm
    dạy: Phản văn, văn tự tánh. Kinh Viên Giác dạy: Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác. Các tổ sư thiền dạy: chăn trâu, gọi Ông chủ, biết vọng liền buông. Tham thọai đầu, tham công án, khởi nghi tình, v.v... Thầy chúng tôi giải thích cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Thiền sư Huệ Hải cũng dạy như vậy. Thiền sư Dược Sơn dạy: ngàn Thánh cũng chẳng làm nghĩa là cái biết không cho mất, nhờ cái biết trong cái không niệm thiện niệm ác lâu ngày thuần thục nên gọi là da mỏng da dày đều rớt sạch. Giữ tâm chẳng niệm thiện niệm ác còn gọi là chăn trâu. Vọng tưởng hết gọi là hết chăn trâu. Hết chăn trâu là thành tựu cũng như kinh Kim Cang dạy độ hết chúng sanh là thành Phật.

    Kính thưa quí vị việc làm này không phải dễ cho nên tổ sư Hoàng Bá đã dạy:

    Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường.

    Hoặc:
    Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
    Hoa Mai đâu há dễ ngửi mùi.

    Cho nên chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết. Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng liền buông. Thầy chúng tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Ðông Ðộ và chấn hưng Thiền Tông Việt Nam. Trong thời gian tôi theo học tại Thiền viện Chơn Không, Thầy
    chúng tôi dùng phép an tâm khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.

    Kính thưa quí vị, kinh Ðaị thừa và thiền Ðông độ dạy cách tu quá đơn giản. Nhưng kinh Ðaị Thừa và thiền Ðông Ðộ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm thiện niệm ác mà lại lặng xuống rơi vào trạng thái mất tiêu, nên trong Thập mục ngưu đồ, tranh thứ 8 người trâu đều mất, giống như ở trạng thái hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không đều có trạng thái người trâu đều mất tiêu.

    Ở chỗ trạng thái hôn trầm, thuỳ miên thì các thiền sư điều biết mặt nó do đó các Ngài lại một phen khổ sở không biết làm cách nào phá được nó. Qua những trang tự thuật của các Ngài tu hành, tôi biết các Ngài không có cách phá. Còn ở trạng thái vô ký, ngoan không thì trong phần tự thuật các Ngài không hề nói đến. Qua kinh nghiệm bản thân của tôi thì các pháp tu từ pháp độ chúng sanh, chăn trâu, gọi ông chủ và biết vọng liền buông đều không đủ lực dừng niệm thiện niệm ác thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên các Ngài phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn làm gối kê đầu. Những việc làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên; không thể hàng phục nó được.

    Kính thưa quí vị, tôi xin lưu ý quí vị ở chỗ này: Khi chăn trâu, độ chúng sanh, biết vọng liền buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện niệm ác thô, còn niệm thiện niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên tôi bảo rằng các pháp môn này không đủ lực. Vì thế quí vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế. Khi gặp nghịch cảnh quí vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng. Do đó mà tôi bảo rằng quí vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng. Ðể phá trạng thái này, các thiền sư dùng pháp tác ý thường gọi ông chủ. Gọi "Ông Chủ" là pháp môn tác ý. Pháp môn tác ý có nhiều pháp như: gọi ông chủ, sổ tức, niệm Phật, đề khởi thoại đầu, đề khởi nghi tình, v.v ...

    Kính thưa quí vị Phật tử, muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn trầm, thùy miên thì chỉ có giới luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy Phật mới dạy giới sanh định. Không thể giữ tâm, ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định ngoài giới luật thì không bao giờ có định chân chính, chỉ có những định tưởng mà thôi. Ðịnh tiếng động 500 cỗ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của ông Nhan Hồi tọa vong cu thân, định của thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên đá, định của tổ Hám Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định, định Không Vô Biên xứ tưởng, định Thức Vô Biên xứ tưởng, định Vô Sở Hữu xứ tưởng, định Phi Tưởng Phi Phi xứ tưởng đều không giải quyết được sanh, lão, bịnh, tử và cũng không chấm dứt tái sanh luân hồi, nên Ðức Phật đã ném bỏ như ném chiếc giày rách; chỉ có người sau không dám bỏ nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.

    Những lời này tôi đã nói thẳng. quí vị đừng tin tôi mà cứ về suy ngẫm kỹ. Sau này khi có thì giờ tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ. Nếu quí vị muốn tu theo Phật mà quí vị sợ tu Giới Luật thì quí vị tu cái gì? Tôi xin nêu lên một ví dụ để quí vị rõ. Bây giờ quí vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa chùa cành lá sum suê, tươi tốt vì hằng ngày Chư Tăng bón phân tưới nước rất kỹ lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây. Bắt đầu quí vị lặt lá bỏ, khi hái sạch lá quí vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ
    trong một thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh. Như vậy biết bao giờ quí vị hái cho hết lá, bởi lẻ lá từ nơi cây mà ra.

    Tôi tu Giới Luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm dù một lỗi nhỏ nhặt nào. Giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm tức là tôi đã xa lià dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân tưới nước nữa thì cây phải cằn cỗi trơ cành trụi lá. Còn quí vị cố dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện niệm ác khởi mà cứ luôn chạy theo
    dục lạc thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân tưới nước đầy đủ thì làm sao quí vị hết vọng tưởng hết hôn trầm được. Cho nên người ta thường bảo ham ăn ham ngủ nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều. Qua kinh nghiệm bản thân của chúng tôi ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no không ăn ráng ăn thêm, vì không ăn ráng ăn thêm thì dù không chủ ý dừng hôn trâm thì hôn trầm tự nó cũng phải dừng. Ở đây chỉ ăn một bữa không ăn uống lặt vặt, vậy mà có người sợ mất sức khỏe nên rán ăn hơi nhiều hơn một chút liền bị hôn trầm, thùy miên tấn công huống là quí vị ăn ngày hai ba bữa còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quí vị phá hôn trầm, thùy miên, vô ký được! Nên Ðức Phật đã dạy: ăn ít, ăn vừa đủ, không nên ăn ráng.

    Kính thưa quí vị nếu quí vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng cũng không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký thì lâu ngày quí vị rơi vào các định vong thân như định của Ngài Nhan Hồi, định trong Thập mục ngưu đồ tranh số 8 người trâu đều quên.

    Kinh Ðại Thừa không có cách thức xuất nhập định, nên chỉ dừng hết vọng tưởng là thành Phật. Ở trạng thái này kinh Ðại Thừa gọi là thường định, đại định, định không xuất không nhập. Thiền Ðông Ðộ cũng vậy không có định xuất nhập. Còn Thập Mục Ngưu Ðồ thì có nhập vào định vong thân người trâu đều quên. Theo kinh nghiệm bản thân của tôi, nhìn cách thức buông vọng dừng vọng thì biết cách thức nhập định của họ.

    Bây giờ tôi so sánh hai thứ thiền định của Phật và thiền định củaTổ để quí vị suy ngẫm. Theo thiền của Ðạo Phật, thì muốn hàng phục vọng tâm của mình nhập Sơ Thiền thì tôi cần giữ gìn Giới Luật nghiêm túc. Sống lập ba hạnh ăn, ngủ và độc cư. Do ba hạnh này tôi nghiêm trì được Giới Luật, bảo vệ được sáu căn tức là bảo vệ được tâm của tôi. Bảo vệ được tâm tức là không cho tâm tiếp duyên bên ngoài tức là không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, nhờ đó tâm tôi thanh tịnh, tâm thanh tịnh là tâm tỉnh thức, do sự tỉnh thức nên không còn bị loạn tưởng hôn trầm. Tôi rất tỉnh giác thường thấy biết cái tâm ham muốn và tham dục của mình còn nhiều hay ít. Nhờ thấy được nó tôi ly được dục và các ác pháp không làm tâm tôi dao động; nhờ ly được dục tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc thế gian. Tâm thường lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt mọi vật không qua được ý tứ của tôi. Như vậy là tôi đã tỉnh giác trên mỗi niệm; tỉnh giác trên mỗi niệm là tôi đã làm chủ được tâm mình; làm chủ được tâm mình tức là tâm bất động hay nói cách khác là tôi nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Từ đó tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày. Tôi không làm khổ mình và cũng không làm khổ người. Ðiều này tôi hiểu rõ lời Phật dạy ly dục sanh hỷ lạc là đúng; do ly dục và ly ác pháp mà tâm mình có giải thoát, do ly dục và ly ác pháp mà tâm mình trở thành thiền định, chứ không phải ngồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng mà có thiền định. Tôi nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng giới luật là đủ.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tôi xin lưu ý quí vị chỗ này, một người muốn nhập Sơ Thiền không phải là một việc dễ làm. Phải biết xả bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tánh xấu, phải không bép xép nhiều chuyện, phải biết thương yêu mọi người, phải biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết nhẫn nhục, phải biết tùy thuận, phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít, phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức hạnh giải thoát, tức đạo đức nhân quả, tức là đạo đức làm
    người. Tóm lại quí vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc thế gian, có được như vậy thì mới nhập được Sơ Thiền.

    Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Khi độ hết chúng sanh và chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu Giới Luật nhập Sơ Thiền nhưng thiền Ðông Ðộ và
    Ðại Thừa thuộc về loại thiền ức chế tâm vì không ly dục ly ác pháp mà cứ bắt ép tâm tập trung diệt vọng tưởng, nên tâm tham, sân, si vẫn còn nguyên vẹn, vì thế nên không thể giải thoát được. Cùng một kết quả thiền định gần giống nhau mà tu hành giữ gìn Giới Luật gọi là thiền xả tâm, nên Phật thường dạy: giới sanh định. Ðem so sánh thì thấy hai loại thiền có vẻ như tương đương với nhau nhưng Kinh Nguyên Thủy gọi là ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền, kinh Ðại Thừa gọi là thành Phật, thiền Ðông độ gọi là bản lai diện mục.

    Kinh Nguyên Thủy được giải thoát do ly dục, ly bất thiện pháp. Ly dục ly bất thiện pháp là lìa tâm ham muốn và các ác pháp, do ly dục mà giải thoát được cái ăn, cái ngủ và các lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn bon chen khổ sở, không còn phiền não, sân hận, tham lam, si mê, ganh tị, v.v...

    Còn kinh Ðại Thừa và Thiền Tông thì dừng hết vọng tưởng thì tâm được tự tại vô ngại đói ăn khát uống, mệt ngủ, thậm chí ăn ngày 4, 5 bữa cũng chẳng sao, vui chơi ca hát đàn địch thỏa thích, sát sanh hại mạng cũng không tội. Những kết quả này của hai bên xin quí vị suy xét,
    tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.

    Kính thưa quí vị, ở đây tu tập Giới Luật, chỉ mới diệt được tầm chưa diệt được tứ, (tôi nói diệt tầm tức là nói không vọng khởi chứ không phải diệt tầm tứ theo kiểu Nhị Thiền) nên tôi tiếp tục tùy tức để diệt tứ nhập Nhị Thiền. Ðến đây tôi xin lưu ý nhắc quí vị khi nào quí vị hết vọng tưởng mới tu pháp tùy tức. Tùy tức ở đây tôi nói là nương vào hơi thở dùng pháp hướng diệt tầm tứ, chứ không phải tùy tức suông như Lục Diệu Pháp Môn. Còn nếu vọng tưởng chưa hết mà vội tu pháp tùy tức thì quí vị tu hành hoài công vô ích (vọng tưởng chưa hết có nghĩa là tâm ly dục ly ác pháp chưa sạch) mà còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công chứ chẳng ích lợi gì cho con đường tu hành của quí vị và về sau còn tai hại rất lớn cho quí vị.

    Khi tôi tu Giới Luật ly dục diệt tầm thì tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập mục ngưu đồ của Thiền Tông: trâu quên còn người. Chỗ này tương ưng với kinh Ðại thừa: độ hết chúng sanh thành Phật.

    Khi tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập mục ngưu đồ: người trâu đều quên. Tôi biết rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không. Xin lưu ý quí vị khi tôi diệt tầm tứ thì tôi không mất. Trời sét không nghe, tôi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị Thiền sinh ra. Trong thập mục ngưu đồ tranh
    8 người trâu đều quên không có hỷ lạc, vì bị mất tiêu, mất tiêu nhưng tiếng động lớn còn nghe đó là trạng thái vong thân còn gọi là tưởng vô sắc định, một trạng thái không tưởng giống như người trong mộng, do đó người nhập định tưởng còn mộng mị chiêm bao, đó là
    môi trường của chúng (tưởng thức) như thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải Ðại sư, Hư
    Vân Hòa thượng, v.v... .Hầu hết phải nói rằng các Thiền sư Ðông Ðộ đều còn nằm chiêm bao tức là còn tưởng dục.

    Xưa Ðức Thế Tôn đã nhập được các định tưởng và nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ định. Khi nhập xong Ðức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết những cái khổ của loài người, nên Ðức Phật ném bỏ mặc dù vị thầy dạy Ðức Phật tu pháp môn này rất tha thiết yêu cầu Ðức Phật ở lại chia nửa tòa lãnh đạo đồ chúng, nhưng Ðức Phật từ khước, ra đi tìm chân lý. Chỗ này thiền Ðông Ðộ và Nhị Thiền
    của Phật không thể tương đương nhau được, cũng như kinh Ðại Thừa không thể tương đương với Sơ Thiền được. Vì Sơ Thiền nhờ tu Giới Luật, ly dục ly ác pháp nên tâm được an ổn thanh tịnh thường trống không lặng lẽ nhưng rất tỉnh giác sáng suốt và ý tứ làm chủ cuộc
    sống nên tâm không bị chướng ngại, phiền não, đau khổ, ganh tỵ hơn thua, v.v... Còn kinh
    Ðại Thừa khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động. Giống như một vị thiền sư nào
    đó cứ ôm ấp chữ như trên đầu nên qua sông quên mặc quần áo. Cũng như trong cuốn Góp Nhặt Cát Ðá có thuật lại một vị thiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng thì mang cái rổ, thiền
    sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt. Kính thưa quí vị chỗ vô phân biệt này
    Thiền Ðông Ðộ và Ðại Thừa cho không phải là chỗ vô tâm vì cái biết vẫn còn nhưng không
    có phân biệt (chỗ này nói được chứ không làm được). Ðến điểm này kinh Ðại Thừa và Thiền
    Ðông độ chấp nhận là đã tu xong, còn Thập mục ngưu đồ cho tu đến chỗ này vẩn chưa xong, còn tiến tu đến tranh thứ 8, tranh thứ 9 và tranh thứ 10.

    Kính thưa quí vị, đến đây quí vị tự suy ngẫm sự chứng đạt này, tôi không có ý kiến gì.

    Kính thưa quí vị Phật tử, người trâu đều quên trong tranh số 8 Thập mục ngưu đồ chưa xác định được là đang tu ở mức độ nào tương ưng với kinh sách Ðại Thừa và Thiền Tông, ngược lại Thiền Tông và kinh sách đại Thừa cũng không xác định tu ở mức độ nào tương ưng với tranh số 8. Mọi trạng thái tỉnh lặng hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên. Chỗ này khi quí vị về suy ngẫm lại, khi nào bí quá quí vị hỏi các vị thiền sư Ðông độ.

    Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ cho rằng độ hết chúng sanh hoặc chẳng nghĩ thiện nghĩ ác thì thành Phật. Vậy thành Phật rồi còn phải tu nữa hay không? Khi độ hết chúng sanh rồi có làm chủ được thân tâm hay không? Và có chấm dứt tái sanh luân hồi chưa? Cách thức làm chủ bằng cách nào?

    Ðây, tôi xin nhường lời lại cho tổ Bách Trượng trả lời quí vị, Tổ Bách Trượng dạy: chẳng muội nhân quả. Ở đây quí vị phải hiểu câu nói này: đau là phải chịu đau, chết là phải chịu chết, chứ không thể nào làm chủ được nó. Chỉ chẳng mê muội trước nó là đủ, mê muội trước nó có nghĩa là sợ hãi, là buồn khổ, v.v... Ý của Tổ nói đứng trước các pháp ác tâm không hề dao động là đủ (chẳng mê muội).

    Tôi xin lập lại câu nói này để cho quí vị dễ hiểu hơn. Chẳng muội nhân quả nghĩa là quí vị chẳng sợ hãi trước cơn đau bịnh, trước cái chết, trước cái tai nạn khổ sở là đủ, nghĩa là đừng sợ hãi các ác pháp vì quí vị thấy nó là huyễn giả, không thật, là không. Mọi sự vật mọi hoàn cảnh xảy ra đều là huyễn giả không thật có. Do hiểu biết như vậy quí vị sẽ không sợ hãi. Vì thế Nhị Tổ Pháp Loa bịnh đau rên hừ hừ mà không làm chủ được cái đau, nên khi Tổ Huyền Quang hỏi, ông trả lời theo kiểu Tổ Bách Trượng: gió thổi qua khe trúc. Tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh để chứng minh Thiền Tông không làm chủ nhân quả. Câu chuyện Bách Trượng giả hồ, chúng tôi xin lưu ý quí vị, tổ Bách Trượng mượn thuyết định mệnh chứ không phải là thuyết nhân quả. Còn Ðạo Phật thì chuyển nhân quả và làm chủ nhân quả nên nó không là số mệnh, định mệnh được.

    Ví dụ: Cùng hai đứa bé nhức răng ôm khóc, một đứa con nhà giàu, một đứa con nhà nghèo. Ðứa bé con nhà giàu được cha mẹ đưa đến nha sĩ chữa trị hoặc nhổ chiếc răng hư, đứa này không còn đau nhức chạy chơi vui cười. Còn đứa bé con nhà nghèo, không có tiền đi nha sĩ nên phải chịu đau nhức rên khóc mãi suốt ngày này sang ngày khác.

    Kính thưa quí vị người giàu có là do phước báo hữu lậu, biết bố thí, cúng dường đúng pháp nên chuyển nghiệp nhân quả được huống là chúng ta tu pháp môn giải thoát vô lậu thì phước báo vô lậu không thể nghĩ lường, như muốn chết hồi nào thì chết muốn sống hồi nào thì
    sống, không có luật định mệnh hay luật nhân quả nào cấm cản được.

    Kính thưa quí vị, xin quí vị lưu ý chỗ này: Tổ Bách Trượng dùng thuyết định mệnh còn qua câu chuyện chúng tôi vừa kể về hai đứa bé đău răng là thuyết nhân quả, mà thuyết nhân quả thì làm chủ được vì nó di chuyển và thay đổi được; còn thuyết định mệnh thì không thay đổi được vì nó cố định. Cho nên dù có làm Phật thì cũng không làm chủ được cái nhân quả.
    Như vậy thì quí vị đã phân biệt được luật nhân quả và luật định mệnh phải không? Hai
    thuyết này khác nhau chứ không giống nhau, nó chỉ giống nhau ở hành động nhân quả thiện ác mà thôi. Có sự cố định đó là thuyết định mệnh, còn có sự thay đổi thì đó là thuyết nhân quả. Ví dụ: Ðức Phật, ông Xá Lợi Phất, ông La Hầu La tự tại nhập niết bàn, v.v...

    Bởi vậy người tu theo Ðạo Phật đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì không còn nghiệp đau, nghiệp chết, tác dụng được vì thọ đã bị triệt tiêu trong định Tứ Thiền. Như vậy mới gọi là làm chủ sanh tử. Làm chủ sanh tử là làm chủ nghiệp; làm chủ nghiệp là xả lạc, xả khổ xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh là xả thọ; xả thọ tức là đoạn ái; đoạn ái tức là chấm dứt sự đau khổ. Còn chấm dứt sự tái sanh luân hồi thì phải thực hiện lậu tận trí. Như trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên dạy: vì có thọ mới có ái, cho nên khi thọ diệt thì ái phải đoạn tận. Ờ đây quí vị đã hiểu rõ về Thập Nhị Nhân Duyên.



    Kính thưa quí vị, đến đây quí vị biết tứ thiền là một pháp môn quan trọng của Ðạo Phật trong sự làm chủ sự sống chết. Phật dạy 37 phẩm trợ đạo đều giúp cho pháp môn này để cho quí vị thành tựu giải thoát cá nhân của quí vị ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ và còn ra khỏi thân đau khổ này. Tôi xin quí vị lưu ý thêm chỗ này, thọ là then chốt của nghiệp ái. Chúng ta tự hỏi nghiệp để làm gì? Nghiệp để cho ai? Xin trả lời để cho thọ. Ái để làm gì? Ái để cho ai? Xin trả lời để cho thọ. Vậy chúng ta tu hành dùng Tứ Thiền xả thọ thì nghiệp và ái còn tác dụng vào đâu, cho nên goị là diệt nghiệp đoạn ái. Ðoạn ái là làm chủ thân tâm; diệt nghiệp là chấm dứt tái sanh luân hồi. Con đường của Ðạo Phật dạy chúng ta tu hành quá rõ ràng không giống như Thiền Ðông độ và kinh Ðại Thừa. Vả lại chúng ta biết muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Hơi thở là mạng sống của con người; khi nhập định Tứ Thiền tịnh chỉ được hơi thở tức là làm chủ được mạng sống của mình, một loại thiền định làm chủ sự sống chết rất rõ ràng và cụ thể mà trong thế gian này chúng ta không ngờ lại có một pháp mầu nhiệm như vậy.

    Kính thưa quí vị, tôi xin chép ra đây một đoạn trong Thiền Luận của Ðại Ðức Suzuki: Thấy tâm không thật thì tâm dứt, quên trâu, tranh 7: vong ngưu tồn nhân, thấy người không thật thì người quên nốt, tranh 8: nhân ngưu câu vong. Biết cái tâm không tâm, ấy là hiểu suốt Ðạo Phật. (Thiền luận tập thượng trang 616 ). Nghe qua những lời dạy này quí vị có biết cách tu hay không? Hay chỉ cần thấy tâm không thật người không thật là vọng tưởng hết, là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác. Nói được, không làm được. Tri hành không hợp nhất. Người và trâu đều quên thì từ lòng đất dũng mãnh vọt lên mặt trời tuệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn viên giác, tranh 8, đó là tâm vô tâm. (Thiền luận, tập thượng, trang 616).

    Kính thưa quí vị Phật tử, đến tranh 8 Thập Mục Ngưu Ðồ xác định người trâu đều quên mất mới cho đó là tâm vô tâm. Còn kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ trâu mất mà thằng chăn trâu còn gọi là vô phân biệt, qua sông quên mặc quần áo, sai lấy cái thùng mang cái rổ, chỗ nay không phải là vô tâm. Ở chỗ Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 8 mới là chỗ tâm vô tâm. Chỗ này mới gọi là năng sở không còn. Thầy chúng tôi dạy năng sở không còn là vô tâm hay là tranh số 8. Thập Mục Ngưu Ðồ cho chỗ vô tâm là chưa viên mãn nên bảo "vô tâm còn cách một lớp rào", vì thế phải tiếp tục tu hành tiến tới tranh thứ 9, tranh thứ 10.

    Kính thưa quí vị, cái vòng tròn tượng trưng cho trí tuệ từ trong lòng đất người trâu đều quên sanh ra. Thập Mục Ngưu Ðồ Thiền Tông không xác định được người trâu đều quên ở mức độ nào mà trí tuệ phát sáng. Hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không cũng có trạng thái người trâu đều quên, rồi cũng từ trong đó có trí tuệ phát sáng, cũng ngộ những công án, cũng thông suốt các lý luận của Thiền Tông và các kinh Ðại Thừa.

    Nhưng trí tuệ phát sáng này tôi gọi là tưởng tuệ. Tưởng tuệ là do từ trong định tưởng phát ra, tùy theo ở mức độ nhập định tưởng lâu mau, sâu cạn và do đó có sự hiểu biết thấp cao. Tưởng tuệ là trí tưởng tượng suy nghĩ nghĩa lý trong các kinh sách Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chứ không có kinh nghiệm tu hành giải thoát như kinh Nguyên Thủy. Câu chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, độ hết chúng sanh thành Phật, thấy tâm không thật thì tâm dứt, thấy người không thật thì người quên. Những câu nói này là tưởng tuệ, không tu hành gì được. Bằng chứng là kinh sách thì nhiều mà người tu chẳng ra gì, nghe thì hữu lý mà thực hành thì không vô. Bởi vậy có hàng trăm hàng ngàn người theo tu với Mã Tỗ mà người ngộ đạo, ngộ được tâm ngồi đạo tràng tu hành chỉ có 84 người nhưng đến khi thành tưụ chỉ còn có 2, 3 người, tức là những người nhập được định, trong đó có thiền Sư Dược Sơn.

    Phải nói Thiền Ðông Ðộ có nhiều đạo tràng chỉ có đạo tràng của Mã Tỗ là số người tu đông nhất, nhập định được thì cũng không được mấy người, nhưng lại là định tưởng, định không làm chủ được sự sống chết. Loại thiền định này nhập để mà chơi cũng như Ðức Phật nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ để mà biết Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ mà thôi thì còn có nghĩa lý gì cho cuộc đời tu hành. Kính thưa quí vị, giai đoạn đầu thiền người ngộ thì đông mà tu thành tựu thì quá ít, không giống như câu nói kiến tánh thành Phật. Biết bao nhiêu người đã thấy chỗ không nghĩ thiện không nghĩ ác mà có làm Phật được đâu? Mà có thành Phật chỗ nào? Do sự tu không được, các Thiền Sư phải thay đổi cách khai ngộ và cách tu, bắt đầu họ dùng các công án rắc
    rối hơn, hoặc đánh hoặc la hoặc hét để hạn chế người ngộ. Ðó là giai đoạn giữa thiền. Bắt
    đầu từ các đệ tử của Lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế thì cách tu tập họ cũng còn giữ cách tu cũ, nhưng có thêm nhiều thứ thiền như Lục diệu môn, sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Thiền hơi thở phong, khí, suyễn, tức và pháp môn Tịnh Ðộ. Thiền Lục Diệu Pháp Môn do Trí Khải đại sư sản sanh, thiền hơi thở phong, khí, suyễn, tức do một vị thiền sư mà tôi không nhớ tên. Pháp môn Tịnh Ðộ do thiền sư Huệ Viễn lập Liên Trì Thư Xã và sớ giải kinh Tịnh Ðộ, thiền sư Diên Thọ Vĩnh Minh tán thán pháp môn này.

    Khi con đường thiền Ðông Ðộ tu không có kết quả người ta mới sinh ra nhiều pháp môn như vậy. Nhưng mỗi pháp môn được sinh ra chỉ có sống một thời với người cha đẻ của nó rồi cũng chết yểu, vì thiếu kinh nghiệm, chỉ do trí tưởng tượng tạo ra nên tu không có kết quả. Pháp môn Tịnh độ còn sống đến ngày nay là nhờ một nhóm thiền sư khéo léo lấy sự mê tín trong dân gian làm chổ nương tựa như: cầu an, cầu siêu, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, v.v... Vì người nào khi niệm Phật có được nhất tâm thì khi chết được sanh về Cực lạc. Còn người nào sống tu tập chưa đạt được nhất tâm, sau khi chết cũng được sanh về Cực lạc rồi tu tập tiếp. Do sự tiện lợi và dễ dàng dù niệm Phật ít hay nhiều đều được sanh về nước Cực lạc. Người ta đặt ra 48 lời nguyện của Ðức Phật Di Ðà để mọi người dựa vào đó mà nuôi hy vọng như trong sám Từ Vân có câu:

    Thiện nam tín nữ các người
    Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra
    Ta không rước ở nước Ta
    Thệ không làm Phật chắc là không sai.

    Nhưng đây chỉ là một thứ hy vọng ảo tưởng mà thôi.

    Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ chúng tôi đem so sánh kinh Nguyên Thủy, kinh Ðại Thừa, thiền Ðông Ðộ với Thập Mục Ngưu Ðồ.

    Tôi xin nhắc lại kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chấp nhận khi hết vọng tưởng là thành Phật; độ hết chúng sanh là thành Phật; chẳng nghĩ thiện nghĩ ác bản lai diện mục hiện tiền hay kiến tánh là thành Phật. Chỗ này kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ ở tranh số 7: ngưu vong tồn nhân.

    Thầy chúng tôi dạy trâu mất người chăn phải còn. Chổ này Thầy chúng tôi cũng chỉ tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 7, với kinh Ðại Thừa, với Thiền Ðông Ðộ, nhưng không thể tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ tranh 8 được. Kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ tu đến chổ này được xem là thành Phật. Phật là Ðại giác, giác là trí tuệ. Ngược lại Thập Mục Ngưu Ðồ cho chỗ tu này chưa xong nên phải tiếp tục tu tới tranh 8: nhơn ngưu câu vong, người
    trâu đều mất, người trâu đều quên. Kinh Ðại Thừa, Thiền Ðông Ðộ thì không có nhưng kinh Nguyên Thủy thì tương ưng với Thập Mục Ngưu Ðồ ở tranh 8, nhưng lại khác, khi người trâu đều quên thì mất tiêu rồi phát ra trí tuệ, còn Kinh Nguyên Thủy thì ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị Thiền sanh như tôi đã nói ở trên. Ở Thập Mục Ngưu Ðồ, khi trí tuệ hiện ra thì hành giả thấy mình và vạn hữu là một. Nên thiền sư Thiền Lão dạy:

    Thúy trúc huỳnh hoa phi ngoại vật
    Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân

    Dịch :
    Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại
    Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

    Thấy mọi vật là mình. Mình là mọi vật là tranh số 9: phản bổn hoàn nguyên trong Thập Mục
    Ngưu Ðồ. Tu đến chỗ này sau một năm nhập thất Thầy chúng tôi tuyên bố trước Tăng Ni và Phật tử Thầy đã về đến nhà,Thập Mục Ngưu Ðồ tranh số 9: phản bổn hoàn nguyên. Sau khi ra thất Thầy chúng tôi cho xây cất Thiền viện Trúc Lâm, phát huy Thiền Tông Việt Nam để Tăng Ni và Phật tử có chỗ tu hành chân chính, đó là Thầy chúng tôi đang ở tranh 10 Thập Mục Ngưu Ðồ, thỏng tay vào chợ.

    Kính thưa quí vị Phật tử, Thầy chúng tôi vừa dẫn dắt Tăng Ni và Phật tử và còn phải tự tu cho mình. Thế là cho đến hôm nay Thầy chúng tôi đã đi suốt quãng đường Thập Mục Ngưu Ðồ Thiền Tông.

    Kính thưa quí vị, như vậy xét qua cách thức tu hành để đi đến kết quả thì kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ giống nhau. Còn Thập Mục Ngưu Ðồ thì không giống kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ. Riêng kinh Nguyên Thủy độc lập không giống kinh Ðại Thừa, Thiền Tông và Thập Mục Ngưu Ðồ. Cho nên pháp môn được xem là của Ðức Phật hiện giờ là pháp môn phát triển, pháp môn tổng hợp. Vì thế, chúng ta đừng hiểu nó là phương tiện di chuyển mà phải hiểu mỗi pháp môn là một con đường đi. Mổi con đường đi nó sẽ dẩn chúng ta đến một nơi riêng của nó.

    Kính thưa quí vị Phật tử, đến đây quí vị cần suy ngẫm kỹ chứ quí vị đừng hiểu trăm sông đều về biển cả. Ðem pháp môn tu hành của Ðức Phật ví dụ như vậy là sai. Vì mọi pháp môn tu hành không phải là những môn học được xếp loại thấp cao để nối tiếp nhau theo lớp lang. Mọi pháp môn có thấp cao tự riêng nó. Cho nên chúng ta tu đúng thì đúng ngay từ lúc ban đầu mà đã tu sai thì cũng tu sai ngay từ lúc ban đầu. Nếu đường đi về thành phố Hồ chí Minh thì phải về thành phố, nếu đường đi về Tây Ninh thì phải về Tây Ninh. Không thể đi Tây Ninh mà về thành phố được, ngược lại cũng vậy.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tranh Thập Mục Ngưu Ðồ thiền tông do các thiền sư sau này tưởng giải sinh ra qua kinh nghiệm tu hành của mình nên đã đi khá xa hơn kinh Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ. Nhưng các thiền sư vẫn chấp nhận cho đó là kết quả của Thiền tông. Vậy tôi xin các vị cứ suy ngẫm, riêng tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhất là hiện giờ người theo tu Thiền Ðông Ðộ và kinh sách Ðại Thừa rất đông và thời gian cũng rất dài nhưng chẳng thấy ai làm chủ sự sống, chết, già, bịnh cụ thể. Hình thức ngồi thiền 2, 3 tiếng đồng hồ thì có mà chẳng có định gì cả, giỏi nhất của Thiền Ðông Ðộ là hý luận trên công án.

    Kính thưa quí vị Phật tử, bây giờ đến giai đoạn cuối thiền cách khai ngộ vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng đánh, la và hét thì các thiền sư giảm bớt. Cách tu thì hoàn toàn thay đổi hẳn. Họ không còn tu chăn trâu, gọi ông chủ hay biết vọng liền buông nữa, mà tham thoại đầu, tham công án, khởi nghi tình. Các ngài cố ôm chặt khối nghi dùng sức mạnh của khối nghi mà tập trung tư tưởng hầu để ức chế vọng tưởng cho bằng được. Những điều ức chế tâm quá mạnh này khiến cho các thiền sư càng nén tâm nhiều. Và sự nén tâm nhiều này khiến cho các ngài nỗi lên những cơn sân quá dữ dội. Những hành động và lời nói rất thô lỗ và hung ác khi các ngài đối xử với các đệ tử cũng như đối với các Phật tử. Như thiền sư Lâm Tế, Mục Châu, Ðạo Ngô, La Quả thiền sư, v.v... Mặc dầu các thiền sư cố dùng khối nghi mong đè bẹp được vọng tưởng để đạt được định, nhưng sự thành tựu này cũng chẳng được gì vì chính họ đã đi xa lần Giới Luật và Ðức hạnh giải thoát của Ðạo Phật, nên càng ngày họ tu hành không có kết quả. Trong cuối thế kỷ thứ 20 này Thiền tông đã chết tại đất nước Trung Quốc. Thầy chúng tôi đã đi qua đó tham quan để tìm xem có vị thiền sư nào hay không. Chuyến đi đó Thầy chúng tôi không gặp.

    Bởi thiền Ðông Ðộ không tu Giới Luật, nên thiền sư Bạch Vân Nhật Bổn đã hướng dẫn tu thiền và khai ngộ cho người Tây phương rất đông. Họ đã được thiền sư khai ngộ và đã tu hành chứng ngộ được đạo thiền, vậy mà họ kết hôn nhau làm thành vợ chồng (trong tập 3
    Trụ Thiền của Philip Catro, do ông Ðỗ Ðình Ðồng dịch). Thiền sư Suzuki vẫn có những tác phẩm thiền danh tiếng trong thế kỷ 20 này, vậy mà Ngài có một người vợ Mỹ, thì thử hỏi tu
    thiền như vậy làm sao thoát khổ chấm dứt tái sanh luân hồi được. Nhưng có người bào
    chữa cho thiền sư rằng thiền sư có người vợ Mỹ để cùng nhau hợp tác mà viết ra những tác phẩm thiền bằng ngoại ngữ. Lời bào chữa này theo chúng tôi nghĩ không đúng. Vì đối với Thiền sư Suzuki vẫn có những người bạn trai rất tâm đầu ý hợp. Nếu cần qua việc kết hôn của ông là nhằm mượn phương tiện để phổ biến thiền sang Tây phương, thì hầu hết những người bạn trai nầy cũng sẵn sàng giúp ông. Như vậy đó là một lý luận che đậy những sự phạm giới của Ðạo Phật. Thiền sư mà còn dâm dục thì làm sao mà tin họ giải thoát. Bởi vậy nguyên nhân đau khổ là do ái dục, cớ sao người ta lại nuôi ái dục mà gọi là chứng ngộ thiền giải thoát. Còn ái dục thì làm sao hết khổ. Ái dục còn làm sao chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử được.

    Hiện giờ Thầy chúng tôi phục hồi giai đoạn đầu thiền Ðông Ðộ. Hòa Thượng Duy Luật phục hồi giai đoạn cuối thiền Ðông Ðộ. Hòa Thượng Duy Luật luôn luôn kích bác Thầy chúng tôi, đệ tử của họ đem cuốn thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 mổ xẻ chống bác Thầy chúng tôi. Tôi nghĩ cũng buồn cười, một con rắn độc lấy cái đuôi chửi cái đầu.

    Kính thưa quí vị Phật tử, những người đang tu thiền Ðông Ðộ hiện giờ trong cảnh chờ đợi chén rơi, bát đổ, mèo kêu, chó sủa, hoa rơi, lá rụng để chứng ngộ đạo thiền. Tôi không biết nghĩ như thế nào mà các thiền sinh đang ở trong cảnh phải chờ đợi như thế này. quí vị cứ suy ngẫm.

    Kính thưa quí vị, như tôi đã nói ở trên Thiền sư Bách Trượng đã xác định Thiền Ðông Ðộ không làm chủ sanh tử được, chỉ dùng những danh từ hoa mỹ và những câu chuyện huyền thoại về việc làm chủ sanh tử để lừa dối, bịp người sau. Thiền sư Thường Chiếu cũng xác định rõ ràng để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa.

    Một hôm thiền sư Thần Nghi hỏi thiền sư Thường Chiếu:
    - Bạch Hòa Thượng, khi Hòa Thượng trăm tuổi như thế nào? Thiền sư Thường Chiếu bảo:
    - Ta chết như người thường
    Thiền sư Thần Nghi ngạc nhiên hỏi:
    - Như vậy Bồ Ðề Ðạt Ma là sao? Thiền sư Thường Chiếu đáp:
    - Ðó là bọn đại bịp, một con chó sủa một bầy chó sủa theo.

    Kính thưa quí vị, Bồ Ðề Ðạt Ma là tổ thứ nhất, người đại diện cho thiền Ðông Ðộ và tượng trưng cho thiền phái này, là linh hồn của Thiền Ðông Ðộ, cho nên hai thầy trò Thần Nghi ở
    đây không phải nói về cá nhân Bồ Ðề Ðạt Ma mà nói thẳng về Thiền Ðông Ðộ. Như chúng ta đã biết thiền sư Bách Trượng là một vị đại thiền sư danh tiếng nhất Trung Quốc, Ngài có bộ Thanh Qui Bách Trượng thì đủ biết ngài là một người có sự điều khiển chỉ huy một thiền đường lớn không phải nhỏ của Trung Quốc mà Ngài còn xác định con đường Thiền Tông
    như vậy thì chuyện cha con ông Bàng Long Uẩn chỉ là một câu chuyện huyền thoại. Ở Việt Nam thiền sư Thường Chiếu là một danh tăng có nhiều uy tín trong đường thiền Ðông Ðộ, thế mà Ngài đã thành thật xác định với chúng ta như vậy. Thiền Trúc Lâm Yên Tử truyền đến tổ Huyền Quang là mất, mặc dù sau này có nhiều người muốn phục hồi lại nó nhưng không thành tựu chỉ vì họ chết cứng trong giáo điều thiền Trúc Lâm. Tổ Pháp Loa trước khi tịch đau rên hừ hừ , tổ Huyền Quang hỏi:

    - Sao Hòa Thượng lại rên ? Pháp Loa trả lời:
    - Gió thổi qua khe trúc. Và tống cho Huyền Quang một đạp.

    Ở đây quí vị tự suy ngẫm, gió thồi qua khe trúc có thọ hay không? Do có thọ Pháp Loa mới rên, nếu không thọ làm gì có rên. Tổ Huyền Quang đã chứng kiến cái chết của tổ Pháp Loa, cũng như chúng ta đã chứng kiến cái chết của Hòa Thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Thiện Hòa, Hòa Thượng Huệ Hưng, Bửu Huệ, Thiền Tâm và còn biết bao nhiêu vị tôn túc khác nữa. Từ đó tổ Huyền Quang mới đem Mật Tông vào con đường thiền này làm thơ vịnh hoa bướm khiến cho nhà vua và ông Mạc Ðĩnh Chi phải nghi ngờ mới dùng nàng Thị Bích thử Tổ.

    Kính thưa quí vị Phật tử, để so sánh hai thứ định: Ðịnh của Ðạo Phật và định tưởng của ngoại đạo.

    1 .- Ðịnh trời sét không giật mình, định của Ðức Phật.

    2 .- Ðịnh không nghe tiếng động của 500 cỗ xe bò đi ngang qua, định của Ngoại đạo, định tưởng. Ở đây không phải chúng ta so sánh hai tiếng động lớn nhỏ mà so sánh ở trạng thái giật mình và ở mục đích giải thoát của định trời sét không giật mình dù quí vị có đánh bể đồng loa thì cũng không xuất định. Trời sét không giật mình tức là định đã diệt sáu thức cho nên cảm thọ không còn có, vì thế gọi là xả thọ. Xả thọ tức là diệt ái như tôi đã nói ở trên, diệt ái tức là
    phải có định mà định ở đây thì phải bắt từ Nhị Thiền đến Tứ Thiền, Tứ Thiền là xả lạc, xả
    khổ, xả niệm thanh tịnh. Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh tức là xả thọ, hay làm chủ thọ nên không còn giật mình. Ðịnh Tứ Thiền là định xả thọ, còn định phá âm thanh là định Nhị Thiền, khi diệt tầm tứ thì sáu thức dừng nghỉ không hoạt động nên tai không còn nghe âm thanh dù âm thanh có to như tiếng sét cũng không nghe vì đã diệt Tầm Tứ.

    Thiền định tưởng, dù định cao nhất của nó như định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Ðịnh cũng còn giật mình, trừ Diệt Thọ Tưởng Ðịnh thì âm thanh sắc tướng đều bị diệt cả. Cho nên các thiền sư nhập định tiếng đồng loa, tiếng chuông lắc vẫn đánh thức họ trong lúc nhập định. Thiền sư Hám Sơn lắc chuông tỉnh lại, Thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa đánh xuất định đều là những định chưa diệt tầm tứ, chưa xả thọ, nên chưa làm chủ thân tâm, chưa chấm dứt tái sanh luân hồi. Phần nhiều các thiền sư nhập vào định này đều còn tưởng dục. Tôi xin lưu ý quí vị một lần nữa, còn tưởng dục tức là còn mộng mị chiêm bao. Tất cả thiền
    sư Ðông độ còn chiêm bao mộng mị.

    Kính thưa quí vị Phật tử, thiền định nào để lại nhục thân được? Thiền định nào cũng để lại nhục thân được trừ những người chưa nhập định. Ðể lại nhục thân không phải mục đích của Ðạo Phật, nên Ðức Phật và các đệ tử của Ngài không có để lại, vì để lại nhục thân còn có mục đích cầu danh trong đó và đó cũng là một lối lừa đảo.

    Kính thưa quí vị, những điều tôi đã phân giải ra đây là những điều tôi đã trực tiếp trong cuộc
    đời tu hành của tôi. Tôi đã thấu suốt rất rõ ràng từ đời sống tu sĩ, cư sĩ và đến các pháp
    môn, như thế nào đúng như thế nào sai. Tôi nói ra đây để Thầy chúng tôi và cũng như quí vị Tăng, Ni, Phật tử hiểu rõ Phật Pháp để trở về đúng với con đường tu hành đúng của Ðạo Phật. Tôi không có ý xấu xa bài bác mọi con đường, mọi pháp môn tu hành của quí thầy,
    của Thầy chúng tôi. Tôi nói ra những điều này là vì tôi đã hiểu rất rõ ràng mọi pháp
    môn, mọi con đường tu hành từ Thiền Ðông Ðộ đến kinh Ðại Thừa mà tôi cứ ngồi nhìn quí vị tu hành ngày tháng qua mau, sanh tử gần kề, tôi không thể chịu được nữa, phải nói. Nói, dù tôi có tan xương nát thịt. Nói, dù tôi có như thế nào, tôi cũng cam chịu. Nói, để Thầy chúng tôi chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam, làm sáng tỏ Thiền Tông Việt Nam, mà không theo lối mòn của thiền phá giới và sống đời sống phi phạm hạnh. Nếu Thiền Tông Việt Nam sẽ phục hưng với nền đạo đức nhân bản thì ích lợi thiết thực cho loài người nói chung cho dân tộc Việt Nam nói riêng, và Thiền này sẽ sống mãi muôn đời trên thế gian này.

    Kính thưa quí vị Phật tử, khi tôi nói ra điều này thì quí vị khó mà được gặp tôi nữa. Tại sao? Tôi nói ra vì Phật Pháp vì sự tồn vong của Phật Pháp chứ không phải nói ra vì danh vì lợi vì tranh hơn thua cao thấp với quí thầy, với Thầy chúng tôi. Tôi đã xả bỏ hết danh lợi của cuộc đời cho nên tôi chẳng quản quí vị biết đến tôi làm gì. Tôi sẽ ẩn bóng để Thầy chúng tôi và huynh đệ chúng tôi hướng dẫn quí vị trên đường tu hành của Ðạo Phật. Tu Viện Chơn Như chúng tôi sẽ trao lại cho Cô Út Diệu Quang, khi cô nhập xong Tứ Thiền, cô sẽ đứng ra hướng dẫn các cháu con của những người cư sĩ quyết tâm theo cô tu hành. Tu viện này sẽ trở
    thành Tu Viện Nữ cư sĩ thì lúc bấy giờ tôi sẽ không còn ở lại đây nữa.

    Kính thưa quí vị Phật tử, tại sao tôi phải ẩn bóng bỏ các vị mà đi? Xin thưa cùng quí vị có hai
    điều kiện:

    1. quí vị sẽ hiểu lầm tôi đem kinh nghiệm tu hành của mình đã đạt được ra tranh hơn thua với quí thầy, với Thầy chúng tôi.

    2. Tôi không muốn manh múm Phật Pháp thành nhiều đoàn thể, nhiều tông phái khác nhau
    để làm tan nát ngôi nhà Phật Giáo.

    Kính thưa quí vị tôi chỉ muốn những kinh nghiệm của tôi được trao lại cho một vị Thầy có đức độ có uy tín với quí vị để vị Thầy ấy xây dựng lại ngôi nhà chánh pháp của Ðạo Phật. Những kinh nghiệm tu hành của tôi chỉ là những viên gạch để chúng ta là những người con Phật xây dựng lại ngôi nhà Phật Giáo mà từ lầu vô tình chúng ta bị ảnh hưởng mọi chiều hướng của ngoại đạo và thế tục hóa đã khiến cho tòa nhà Phật Giáo sụp đổ tan tành. Ðến đây tôi xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay, xin gửi lời thăm và chúc tất cả gia đình của quí vị thân tâm thường vui vẻ.

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

    Thích Thông Lạc
    TU VIỆN CHƠN NHƯ
    (Bác sĩ Trí & Ðức Tâm ghi chép theo băng giảng)

    http://www.nguyenthuychonnhu.net/ebo...AnCNCuSi-1.pdf
    Không Spam nghe chưa :waiting:

    Nếu mà Spam thì slapping chết này, nữa này violent105

    Dạ em không dám Spam nữa ạ surrender

  3. #3
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT!
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  4. #4
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Vô tình nghe được cái này trên mạng.
    http://www.youtube.com/watch?v=A3cHcGOZmd8
    http://www.youtube.com/watch?v=4Kw0G...eature=related
    Thật là tội lỗi lắm thay, đau đớn lắm thay...thương xót lắm thay...
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT!
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  5. #5
    Tứ Đẳng Avatar của gioidinhtue
    Gia nhập
    Jan 2010
    Nơi cư ngụ
    Quảng Đà
    Bài gởi
    4,281

    Mặc định

    Có lẽ mình "vô duyên" rồi !!!!!!!!!!!!!!! Xin lỗi vì đã click vào cũng như đã Spam nhảm.
    "Niệm lên danh hiệu Phật,
    Muôn đức đủ đầy trong.
    Chuyên trì danh hiệu ấy,
    Muôn hạnh đủ không sai.
    "

    :praying:2Nam mô A Di Đà Phật.:praying:2
    ---o0o---

    Thường Như - Thiện Tường - Mãn Ngọc - Trực Minh.


  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vietnamese Xem Bài Gởi
    Vô tình nghe được cái này trên mạng.
    http://www.youtube.com/watch?v=A3cHcGOZmd8
    http://www.youtube.com/watch?v=4Kw0G...eature=related
    Thật là tội lỗi lắm thay, đau đớn lắm thay...thương xót lắm thay...
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT!
    cáo lỗi chủ topic vì làm loãng đề tài này !
    tại hạ cũng vô tình nghe được ! xin lỗi tại hạ kêu bằng "lão này" chẳng phải người tu chứ đừng nói hòa thượng ! mong lão sớm tỉnh ngộ lúc khuất thoát tội nơi vô gián địa ngục
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

  7. #7

    Mặc định

    Nam Mô A Di Đà Phật xin đồng tu xem xét kỹ, giữa lời phật dạy và lời vị thầy kia dạy thì nên tin ai???? Như Lai dùng kim khẩu thuyết : Thiền, Mật, Tịnh,...là vì lợi ích chúng sanh, nếu mở miệng chê pháp môn phật dạy, tức đồng chê Như Lai, đệ tử mà chê thầy tức phạm tội ngũ nghịch....

    -Lời Như lai thuyết và lời vị thầy trên là khác xa hoàn toàn, dù có dẫn chứng lời Phật nhưng do chẳng hiểu nên đã cách biệt...
    Tâm phàm phu nếu chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác thì đó là tâm vô ký,...sỏi đá cũng chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác mà có ngộ đạo đâu??nên vị thầy trên nói khi tâm chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, thì tâm ở trong trạng thái không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không. chúng ta tu hành ai cũng biết Không không có nghĩa là , "Sắc tức thị không, không tức thị sắc"chứ không phải....không tức thị không!!! nếu nói không là không có gì cả, đó là đoạn diệt. Nếu đã mang nghĩa đoạn diệt thì chẳng phải là đạo,...

    - Muối thì mặn đường thì ngọt, nếu bắt muối phải giống đường thì không thế được
    Ấn Độ người xuất gia có thể chuyên tâm lo tu hành vì có tứ chúng cúng dường, Phật giáo truyền qua Trung Quốc, Việt Nam,..mà cũng bắt tứ chúng cúng dường như Ấn độ thì chẳng đúng, nên Tổ Bá Trượng dạy "một ngày không làm một ngày không ăn", người tu hành ai cũng biết, "một hạt cơm tín thí lớn như núi Tu di, nếu đời nay chẳng liễu ngộ, mang lông đội sừng trả" nên lời vị thầy trên dạy là chẳng đúng vì mang nghĩa chấp trước...

    - Đức phật vẫn hiện tướng nhập Niết Bàn
    Phật thuyết 4 khổ lớn sanh, lão, bệnh, tử ai cũng phải trải qua, người tu hành cũng vậy... chẳng lẽ người tu hành không có sao??người tu hành vẫn trải qua sanh lão bệnh tử,..nhưng không có khổ,..phật dạy ai chịu thực tập những điều ta dạy thì sẽ không có khổ...không khổ chứ không phải không chết, thân này là giả tạm, nên Thường Chiếu đại sư đáp Ta chết như người thường, là chẳng sai...vị thầy trên không hiểu về thiền Đông độ nhưng cứ nói giảng về Đông Độ là tu sai, là không đúng....,không biết mà nói tức đồng phạm khẩu giới, là người tu hành tuyên dương giới luật đã phạm khẩu giới mà chẳng biết, chẳng nhận thì sao có công phu mà gọi là đã giải thoát hoàn toàn...tự mình còn chẳng nhận biết, tự độ đã khó nói chi tới độ chúng sanh??
    Thiền định phần sau cũng chẳng phải? nếu định mà có xuất nhập, lúc nhập có định...... không nhập, thì không định đó chẳng phải là thiền định...ai cũng biết điều này, chư Tổ sư cũng biết,..kinh Lăng nghiệm dạy về định tự tánh, tự tánh chẳng có xuất nhập nên gọi là Lăng Nghiêm đại định, nếu ai có duyên đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ thấy rõ..Chư Vị cổ đức Thiền sư đông độ chẳng những biết mà còn có chứng nhập, vậy sao gọi là còn chiêm bao mộng mị???
    Không biết mà nói, đâu bằng người biết mà không nói,...
    vài dòng để đồng tu suy nghĩ kỹ, tin Phật hay tin chúng sanh là do đồng tu lựa chọn?? Chớ bảo Thích Ca dạy lầm: Không thành tại bởi lòng ta
    nào đâu tại phải Thích Ca Dạy lầm??

  8. #8

    Mặc định

    Nhân duyên sở sinh pháp
    Giả thuyết tức thị không
    Diệc vi thị giả danh
    Diệc vi trung Đạo nghĩa.

  9. #9

    Mặc định

    Có lẽ ngộ tính mình còn hạn hẹp nên không thể hiểu hết đc bài của nguoi_mu Nhưng mình nhận thấy người giảng bài này thật sự chưa ngộ đc các pháp Như Lai ( Rất xin lỗi tác giả cũng như người thuyết giảng. Mình sẵn sàng nghe các vị khia ngộ nếu sai liên hệ 0976228264. )
    Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát

  10. #10

    Mặc định

    - Quả thật Phật giáo đến như ngày nay(đại diện là 3 tông phải lớn là Thiền tông, mật tông, tịnh độ tông) làm cho người ta không sinh tâm nghi ngờ cũng chẳng được. Mà đối với những người không sinh tâm nghi ngờ thì chỉ có cách giải thích: một là họ là người đã phát nguyện và tu từ nhiều kiếp trước(ấy là nếu có chuyện tiền kiếp hậu kiếp), cách giải thích khác họ là có một niềm tin khổ sai và thưởng phạt vào phật giáo( cũng như bao tín đồ của tôn giáo khác tin vào đạo của họ).
    - Khi một người đã tin vào một pháp môn nào đó thì có một hệ quả tất yếu là mọi giáo điều của pháp môn đó được người đó mặc nhiên cho là đúng(có nghĩa là không cần biết vì sao nó đúng), chính với điểm này nếu một người có bộ óc tầm thường nhất cũng nhìn thấy đó là điều bất ổn rồi!
    - Vậy tại sao wake nói Thiền tông, tịnh độ tông, mật tông lại làm cho ta sinh tâm nghi ngờ? Bởi vì dễ thấy là ba pháp môn này chẳng có pháp môn nào phật và các vị alahan, bồ tát đã thực hành để giác ngộ cả, lại nữa cũng chẳng có cơ sở nào để bảo các vị tu theo 3 pháp môn này tu hành giác ngộ cả.
    - xin hỏi các đạo hữu phật có bảo "kiến tánh thành phật không?"- Theo wake ông Thông lạc nói không phải là không có lý, tất cả những pháp môn sau này có thể xuất phát từ việc lánh nặng tìm nhẹ. Đã tu đại thừa phát nguyện vô lượng chúng sinh thề nguyện độ sao không tu lục độ bồ tát, mười ba hạnh đầu đà, ăn đói mặc rách, đắp y mang bát...độc cư tu hành mà lại lập chùa, ngồi mát. Nhận sự cúng dường và kính trọng tột độ của người đời... Vậy thì xuất gia đi tu rồi có khi nào ngồi lại tự hỏi mình đang tu vì cái gì không?
    - Tất nhiên ông Thông lạc chưa phải là người giác ngộ(wake đã lập luận và dẫn chứng trong một topic trong diễn đàn). Nhưng một số chủ chương và đường lối tu hành của ông đúng là "chánh quan niệm":
    1) Biết nghi ngờ phương cách tu hành của tiền nhân khi tận mắt chứng kiến những điều phi logic.
    (việc nghi ngờ này cũng chính đáng như phật nghi ngờ các đạo sư của phật, Thầy Thanh Từ nghi ngờ việc tu Tịnh độ của Thầy mình hòa thượng Thiện Hoa... )
    2) Làm theo những gì phật đã làm: sống hạnh độc cư, khổ hạnh, chủ chương giới sinh định.
    3) Nhớ được một câu dạy cốt tủy của đức phật: "sau khi ta nhập diệt các ông hãy lấy giới luật làm thầy". Các đạo hữu nên nhớ rằng chỉ có phật mới được phép chế giới. Và phật bảo lấy giới luật làm thầy chứ có bảo lấy ông Ca Diếp làm thầy đâu. Nên nhận thấy là: nếu không có đời sống tu hành như phật và các vị bồ tát alahan đã làm thì khó mà giữ được giới.

    - Bây giờ wake nêu ra sự so sánh này để các đạo hữu suy ngẫm:
    1) Động lực để Thích Thông Lạc xuất gia đi tu là gì? Động lực để phật xuất gia đi tu là gì?
    2) Thích thông lạc có sống đời sống khổ hạnh, độc cư không? Phật có sống đời sống khổ hạnh, độc cư hay không?
    3) Thích Thông Lạc và Phật có cùng đi qua nhưng giai đoạn của thiền định giống nhau hay không?
    4)Động lực để Thích Thông Lạc tuyên bố mình chứng đạo là gì? Động lực để Phật tuyên bố mình chứng đạo là gì?

    - Bốn điều so sánh trên cho thấy nếu ta nghi Ngờ Thích Thông Lạc thì ta cũng nghi ngờ luôn cả phật vì điều kiện tu hành và việc làm của hai ông này là rất giống nhau.
    - Thú thật với các đạo hữu là wake nghi ngờ cả hai. Ông Thông lạc thì wake kết luận mười mươi. Còn Đức phật thì chưa giám nói. Xin các đạo hữu đừng bảo wake phỉ báng chánh pháp, chư phật. Bởi vì các đạo hữu và wake đều chưa ngộ đạo, cho nên đều không có cơ sở để kết tội wake phạm tội ngũ nghịch. (Nếu các đạo hữu chưa thấy lẽ đạo mà đã cho là đúng, hoặc thấy phật pháp có lý mà đã cho là đúng thì đó là mê tín)
    - Xin nói thêm là nếu có duyên xuất gia đi tu thì hiện thời wake chưa thấy có con đường tu hành nào có được "chánh quan niệm" như con đường mà Sư Thông Lạc đã nêu lại.
    - xin các đạo hữu khi đánh giá hãy tự quán sát và thật sự khách quan. Chúng ta nói ở đây để cùng vỡ lẽ chứ không có ý chê người này hay pháp môn kia.
    Last edited by wake; 14-02-2011 at 11:30 PM.
    Người trú giới có trí
    Tu tập tâm và tuệ
    Nhiệt tâm và thận trọng
    Tỳ kheo ấy thoát triền.

  11. #11

    Mặc định

    "Kiến tánh thành phật" Cài này đọc sách thì tôi thấy là Ông Tổ sư Thiền Đạt Ma nói, chớ Phật không nói. Phật nói lấy giới luật làm thầy chứ đọc kinh không nghe thấy nói lấy Ông Tổ nào làm thầy. Bây giờ chúng ta thấy Đạo phật biết bao nhiêu là Tông phái và có nhiều thầy nói do căn cơ chúng sanh, tùy bệnh cho thuốc, Phương tiện thiện xảo, đọc sách nhìn lại thời Đức phật hồi xưa và các Phật tử xuất gia học đạo với Ngài tôi thấy sự khác biệt quá rõ ràng. Nếu quả thật có 3 pháp môn Tịnh Độ, Mật Tông, và Thiền Tông do chính Đức phật dạy vậy thời Đức Phật ngài có dạy cho Đệ tử của Ngài không? hay Ngài dạy đệ tử của ngài tu tập như Ngài đã từng tu tập (Kinh nguyên thủy)? Không lẽ thời xưa căn cơ của những người đó là tu theo "Tiểu thừa" không có ai có căn cơ tu theo "Đại thừa" hết? Những vị chứng Alahan thời Đức phật nhiều vô số vậy họ tu theo "Tiểu thừa" hay "Đại thừa"? Thời nay được bao nhiêu vị tu chứng quả Alahan khi mà Đạo phật phát triển mạnh hơn thời Đức phật tại thế? Đức Phật ngộ đạo là nhờ tu theo "Tiểu thừa" hay "Đại thừa"?. Vấn đề này nói cũng rất nhiều rồi, ai ngộ ra thì người đó hưởng vậy, có nói thêm nữa cũng chả ích gì.
    Last edited by nguoi_mu; 15-02-2011 at 12:59 AM.
    Không Spam nghe chưa :waiting:

    Nếu mà Spam thì slapping chết này, nữa này violent105

    Dạ em không dám Spam nữa ạ surrender

  12. #12

    Mặc định Tâm

    Tâm chúng sinh thường trụ ở 3 chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm. Tâm Bồ đề không trụ tức không niệm, không niệm tức tâm vốn không, tâm vốn không tức an tâm, an tâm tức chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác tức bản lai diện mục. Bản lai diện mục tức Phật tánh. Chỗ vô trụ này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách Ðại Thừa và kinh sách Thiền Ðông Ðộ. Bây giờ quí vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền Giáo đồng hành.

  13. #13

    Mặc định Tâm

    Đức Phật là Bậc Đại Giác

    chúng sinh là Bậc Vô Minh

    chỉ có Giới Luật mới hãm phần nào vô minh

    do vậy Nghi cũa chúng sinh là hợp lẽ

  14. #14

    Mặc định Thân

    Thân Đức Phật là Kim Cang

    Thân Chúng sinh là sanh diệt

    do vậy Kim Cang ....................Trí Tuệ

    do vậy Sanh Diệt ......................Vô Minh

    Chúng sinh còn NGHI ? là Tất yếu

  15. #15

    Mặc định

    Ta từng nghe: muốn nói gì thì cũng phải biết lắng nghe trước.
    Bài viết chứa ý Đạo hành và Pháp hành của Thông Lạc, đã đọc qua.
    Buồn thay, thật buồn thay. Thông Lạc tuy có ý, nhưng đường ấy là sai Lạc.
    nguoi_mu nếu là đệ tử của Thông Lạc, hãy thay lời ta nói vói hắn rằng:
    Cảnh hữu vô tăng
    Vô cảnh hữu tăng
    Tăng vô vô cảnh
    Hữu tăng hữu cảnh.
    Trong mắt nhà ngươi chỉ có Thích Ca, nhưng trong mắt Thích Ca thì có toàn giáo chúng.
    Trong tâm nhà ngươi chỉ có cái Ta, nhưng trong tâm thích Ca là quả Bồ Đề.
    Đạo Phật sẽ phải có lúc thay đổi, nhưng không phải cái Đạo Thông Lạc nhà ngươi.
    Last edited by tien_n89; 15-02-2011 at 06:29 AM.

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi wake Xem Bài Gởi
    -
    - Bây giờ wake nêu ra sự so sánh này để các đạo hữu suy ngẫm:
    1) Động lực để Thích Thông Lạc xuất gia đi tu là gì? Động lực để phật xuất gia đi tu là gì?
    2) Thích thông lạc có sống đời sống khổ hạnh, độc cư không? Phật có sống đời sống khổ hạnh, độc cư hay không?
    3) Thích Thông Lạc và Phật có cùng đi qua nhưng giai đoạn của thiền định giống nhau hay không?
    4)Động lực để Thích Thông Lạc tuyên bố mình chứng đạo là gì? Động lực để Phật tuyên bố mình chứng đạo là gì?
    .
    Giống cái hình nhưng không giống cái nội tâm
    1) Khởi nguyên, không chủ kiến sao có đông lực/Trong vô minh muốn tìm ra ánh sáng.
    2) Chấp lại hình khổ hạnh, độc cư/ bảy năm dưới gốc Bồ Đề, không phải đã tìm ra trung Đạo đó sao.
    3) Thích Thông Lạc và Phật có cùng đi qua giai đoạn của thiền định giống nhau. Nhưng kết quả thì khác.
    4) Thu thập giáo chúng/Giải thoát giáo chúng.
    Ta thật có lỗi khi so sánh Đức Thế Tôn với Thông Lạc. Nhưng Thế Tôn mà không độ chúng sanh, ai độ chúng sanh đây.
    Thân!
    Last edited by tien_n89; 15-02-2011 at 08:12 AM.

  17. #17

    Mặc định

    Thích Thông Lạc nói:
    Thưa quí vị, thiền định của Ðạo Phật từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền là những pháp môn giải thoát, tự tại sanh tử, làm chủ sự sống chết của thân tâm, tôi nhận biết rõ ràng bằng cách chứng nghiệm rất cụ thể. Ví dụ: Tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng, không ăn uống gì hết, không đi đại tiểu tiện, không mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết. Xuất định, tôi cảm thấy nhẹ nhàng, an lạc. Ðó là một bằng chứng rất cụ thể. Như vậy sự tu hành của tôi sống đã có giới luật, tâm ly dục ly ác pháp nên tâm hồn bất động và chết đã có thiền định, làm chủ được hơi thở nên tôi cũng đã có sự giải thoát ở mức cao độ, vì thế tôi cần phải có sự hiểu biết về vô lậu của mình. Sự hiểu biết vô lậu là do trí tuệ của tôi. Vì thế tôi phải thực hiện Tam Minh, trong đó, lậu tận minh là trí tuệ cuối cùng của tôi. Ðến đây tôi đã có đủ: giới, định, tuệ theo con đường tu tập của tôi mà Ðức Phật đã vạch ra và chỉ dạy từ ngàn xưa.
    Vị nầy chưa tới tứ thiền!

    Tôi tu Giới Luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm dù một lỗi nhỏ nhặt nào. Giữ gìn Giới Luật đừng cho sai phạm tức là tôi đã xa lià dục lạc thế gian, cũng giống như cây kia không bón phân tưới nước nữa thì cây phải cằn cỗi trơ cành trụi lá. Còn quí vị cố dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện niệm ác khởi mà cứ luôn chạy theo
    Vị nầy chưa đọc đoạn đức Phật hấp hối và nói với Ngài Anan.
    Chưa đọc qua kinh kim cang và shangata Tuân theo các kinh nầy là giữ giới luật, chẳng cần đặc ra giới với luật, do đó trước khi chết Phật nói với Ngài Anan ra sao?
    Last edited by linh_tinh_85; 15-02-2011 at 06:57 AM.

  18. #18

    Mặc định

    [QUOTE=tien_n89;254197
    3) Thích Thông Lạc và Phật có cùng đi qua giai đoạn của thiền định giống nhau. Nhưng kết quả thì khác.[/QUOTE]

    Trích dẫn Nguyên văn bởi tien_n89 Xem Bài Gởi
    Thông Lạc tuy có ý, nhưng đường ấy là sai Lạc.

    Lấy gì để Ngươi biết Thầy Thích Thông Lạc tu sai? Ngươi đã sống được như Thầy chưa, giữ giới được những giới nào? Một ngày Ngươi ăn mấy bữa cơm? Ngủ mấy tiếng, sống độc cư chưa, đạt được Tứ thiền của Phật giáo chưa?


    Trích dẫn Nguyên văn bởi linh_tinh_85 Xem Bài Gởi
    Vị nầy chưa tới tứ thiền!

    Bạn giữ được giới nào, sống độc cư chưa, một ngày ăn mấy bữa cơm, ngủ mấy tiếng? Bạn đạt được Tứ thiền của Phật giáo chưa mà nói Thầy Thích Thông Lạc chưa đạt được Tứ Thiền?


    Kinh KimCang là kinh sau khi Phật nhập diệt mới có hay khi Phật còn tại thế có?



    Nếu hai vị không giữ giới và sống được như Thầy Lạc, thì quý vị nghĩ mình đủ tư cách để nhận xét Thầy ấy tu đúng hay sai chăng? Tôi thiết nghĩ nếu muốn nhận xét người khác trước hết thì hãy nhìn lại mình trước khi phán xét người khác, xem mình có được như người ta hoặc hơn người ta hay không thì hãy có ý kiến.



    Thông báo: QUÂN ĐỘI MỸ VỪA MẤT VÀI QUẢ BOM NGUYÊN TỬ XIN QUÝ VỊ CẨN THẬN
    Không Spam nghe chưa :waiting:

    Nếu mà Spam thì slapping chết này, nữa này violent105

    Dạ em không dám Spam nữa ạ surrender

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi wake Xem Bài Gởi
    - Quả thật Phật giáo đến như ngày nay(đại diện là 3 tông phải lớn là Thiền tông, mật tông, tịnh độ tông) làm cho người ta không sinh tâm nghi ngờ cũng chẳng được. Mà đối với những người không sinh tâm nghi ngờ thì chỉ có cách giải thích: một là họ là người đã phát nguyện và tu từ nhiều kiếp trước(ấy là nếu có chuyện tiền kiếp hậu kiếp), cách giải thích khác họ là có một niềm tin khổ sai và thưởng phạt vào phật giáo( cũng như bao tín đồ của tôn giáo khác tin vào đạo của họ).
    - Khi một người đã tin vào một pháp môn nào đó thì có một hệ quả tất yếu là mọi giáo điều của pháp môn đó được người đó mặc nhiên cho là đúng(có nghĩa là không cần biết vì sao nó đúng), chính với điểm này nếu một người có bộ óc tầm thường nhất cũng nhìn thấy đó là điều bất ổn rồi!
    - Vậy tại sao wake nói Thiền tông, tịnh độ tông, mật tông lại làm cho ta sinh tâm nghi ngờ? Bởi vì dễ thấy là ba pháp môn này chẳng có pháp môn nào phật và các vị alahan, bồ tát đã thực hành để giác ngộ cả, lại nữa cũng chẳng có cơ sở nào để bảo các vị tu theo 3 pháp môn này tu hành giác ngộ cả.
    - xin hỏi các đạo hữu phật có bảo "kiến tánh thành phật không?"- Theo wake ông Thông lạc nói không phải là không có lý, tất cả những pháp môn sau này có thể xuất phát từ việc lánh nặng tìm nhẹ. Đã tu đại thừa phát nguyện vô lượng chúng sinh thề nguyện độ sao không tu lục độ bồ tát, mười ba hạnh đầu đà, ăn đói mặc rách, đắp y mang bát...độc cư tu hành mà lại lập chùa, ngồi mát. Nhận sự cúng dường và kính trọng tột độ của người đời... Vậy thì xuất gia đi tu rồi có khi nào ngồi lại tự hỏi mình đang tu vì cái gì không?
    - Tất nhiên ông Thông lạc chưa phải là người giác ngộ(wake đã lập luận và dẫn chứng trong một topic trong diễn đàn). Nhưng một số chủ chương và đường lối tu hành của ông đúng là "chánh quan niệm":
    1) Biết nghi ngờ phương cách tu hành của tiền nhân khi tận mắt chứng kiến những điều phi logic.
    (việc nghi ngờ này cũng chính đáng như phật nghi ngờ các đạo sư của phật, Thầy Thanh Từ nghi ngờ việc tu Tịnh độ của Thầy mình hòa thượng Thiện Hoa... )
    2) Làm theo những gì phật đã làm: sống hạnh độc cư, khổ hạnh, chủ chương giới sinh định.
    3) Nhớ được một câu dạy cốt tủy của đức phật: "sau khi ta nhập diệt các ông hãy lấy giới luật làm thầy". Các đạo hữu nên nhớ rằng chỉ có phật mới được phép chế giới. Và phật bảo lấy giới luật làm thầy chứ có bảo lấy ông Ca Diếp làm thầy đâu. Nên nhận thấy là: nếu không có đời sống tu hành như phật và các vị bồ tát alahan đã làm thì khó mà giữ được giới.

    - Bây giờ wake nêu ra sự so sánh này để các đạo hữu suy ngẫm:
    1) Động lực để Thích Thông Lạc xuất gia đi tu là gì? Động lực để phật xuất gia đi tu là gì?
    2) Thích thông lạc có sống đời sống khổ hạnh, độc cư không? Phật có sống đời sống khổ hạnh, độc cư hay không?
    3) Thích Thông Lạc và Phật có cùng đi qua nhưng giai đoạn của thiền định giống nhau hay không?
    4)Động lực để Thích Thông Lạc tuyên bố mình chứng đạo là gì? Động lực để Phật tuyên bố mình chứng đạo là gì?

    - Bốn điều so sánh trên cho thấy nếu ta nghi Ngờ Thích Thông Lạc thì ta cũng nghi ngờ luôn cả phật vì điều kiện tu hành và việc làm của hai ông này là rất giống nhau.
    - Thú thật với các đạo hữu là wake nghi ngờ cả hai. Ông Thông lạc thì wake kết luận mười mươi. Còn Đức phật thì chưa giám nói. Xin các đạo hữu đừng bảo wake phỉ báng chánh pháp, chư phật. Bởi vì các đạo hữu và wake đều chưa ngộ đạo, cho nên đều không có cơ sở để kết tội wake phạm tội ngũ nghịch. (Nếu các đạo hữu chưa thấy lẽ đạo mà đã cho là đúng, hoặc thấy phật pháp có lý mà đã cho là đúng thì đó là mê tín)
    - Xin nói thêm là nếu có duyên xuất gia đi tu thì hiện thời wake chưa thấy có con đường tu hành nào có được "chánh quan niệm" như con đường mà Sư Thông Lạc đã nêu lại.
    - xin các đạo hữu khi đánh giá hãy tự quán sát và thật sự khách quan. Chúng ta nói ở đây để cùng vỡ lẽ chứ không có ý chê người này hay pháp môn kia.
    Bạn chắc hẳn là kẻ còn đứng ngoài cửa đạo, sao cứ lần lựa không chịu bước vào?? Ngoại đạo cũng giữ giới ngày ăn một bữa, chẳng ăn phi thời, sống độc cư, tuyệt ái dục,hành xác, chịu khổ...nên cũng có định, nhưng định này là do chấp thủ mà có, chẳng phải là chánh định, nếu muốn chánh định thì đầu tiên phải có chánh tri kiến..hãy bình tâm mà nghe,....
    Người tu nói "tu hành, tu hành" con vẹt cũng nói "tu hành, tu hành" vậy người tu với con vẹt là giống hay khác???nếu so sánh vậy thì mới biết rằng tuy đệ tử cũng nói lời của thầy, nhưng kiến thức, sở ngộ,..của thầy và đệ tử là hoàn toàn sai khác...chẳng thể gộp chung lại mà nói, Phật chế giới là để đệ tử có thể nhiếp tâm tu học, nếu đệ tử phật mà chẳng giữ giới thì có khác gì ngoại đạo tà sư??người bình thường xem ăn thịt là chuyện bình thường,thế nhưng khi người xuất gia mà ăn thịt thì đó là chuyện không bình thường..tại sao vậy?? tại vì, xuất gia có giới luật, nên phải lấy giới làm thầy,..Trong giới luật có giới thân, giới tâm và giới khẩu...nên Phật dạy thiền, tịnh, mật là dùng cho giới tâm...
    -Tâm rất khó giữ giới.
    Ai cũng biết trốn trong rừng sâu, sống hạnh độc cư, giữ vẹn giới thân, nhưng có mấy ai biết...tâm cũng phải giữ giới, nếu tâm đã chẳng giữ...thì tu thân lợi ích chi?? Phật dạy rất rõ ràng " Chư ác mạt tác, chúng thiện phụng hành, tịnh tư kỳ ý, thị chư Phật thuyết" câu kệ này có từ thời Phật Ca Diếp, tới thời Phật Thích Ca vẫn còn câu này, đây là câu tóm gọn giáo lý, xin đừng coi thường ông già 80 còn chưa thể hiểu...chư ác mạc tác...các ác không làm, đó chẳng phải là giới ak? chúng thiện phụng hành..điều lành làm cho tăng trưởng, là định sinh huệ,..tịnh tư kỳ ý...đây là giới tâm,...Gôm ba câu này lại, mới gọi là thị chư phật giáo...nếu chỉ có hai câu đầu thì không thể gọi là tu Phật được...
    Biết phải giữ giới... nhưng tâm rất khó giữ, phật dụ như voi, tổ sư nói là "Tâm viên ý mã rất khó kiềm giữ", nên phật thuyết thiền, tịnh, mật,... để phòng tâm, giữ giới. Mười bức tranh chăn trâu thiền tông là dùng làm việc chi???ai cũng biết,không cần phải nói,... vậy cớ sao lại nghi ngờ thiền, mật, tịnh,.... phật và Bồ Tát, ALahan không có tu?? Phật thuyết giới là cho chúng tu, Bồ tát, Alahan cũng phải tu..có Bồ Tát nào lại phá giới chăng???
    Chúng sanh nếu không nghe lời phật tu thiền, tịnh, mật,...thì làm sao có thể giữ giới tâm??? nếu tâm đã chẳng có định..thì thân có định...có khác gì tảng đá trăm năm?? đá đâu có chứng 4 quả thánh??..Nếu phật chưa từng tu Thiền,...thì biết đâu mà dạy cho chúng đệ tử, phật là con người chân thật không hoa ngôn, lời nói luôn lấy lợi ích của chúng sanh làm đầu?? nếu nghi ngờ thì có khác gì cô phụ tấm lòng của thầy mình??...
    Chúng ta nương tựa giáo pháp Như Lai là do chúng ta thấy được lợi ích mà Pháp phật đã dạy, nếu chẳng có lợi ích cho thân tâm thì chắc không có ai tu đâu, vì vậy đừng nghi ngờ. Thiền, mật, tịnh,..thảy đều do kim khẩu nói, nếu chẳng phải thì từ trước tới nay, người đứng, kẻ ngồi,...biết trước ngày giờ đến đi tự tại, vui vui vẻ vẻ,...sẽ không bao giờ có. Do vậy mà biết:
    Chẳng thành tại bởi lòng ta
    Nào đâu tại phải Thích Ca dạy lầm
    Last edited by bachliencu; 15-02-2011 at 08:28 AM.

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nguoi_mu Xem Bài Gởi

    Bạn giữ được giới nào, sống độc cư chưa, một ngày ăn mấy bữa cơm, ngủ mấy tiếng? Bạn đạt được Tứ thiền của Phật giáo chưa mà nói Thầy Thích Thông Lạc chưa đạt được Tứ Thiền?

    Hahaha...
    nguoi_mu ơi! nguoi_mu.
    Ta biết Thông Lạc ngày ăn bao nhiêu và ngủ mấy tiếng. Nhưng ta nói cho ngươi biết: Người nông dân mưa nắng làm lụng vất vả ngoài đồng, người công nhân cũng khổ cực không kém trong nhà máy. Nếu họ ăn uống, ngủ kiểu Thông Lạc lấy đâu ra sức mà làm việc. Thông Lạc hắn mang cái tối kiến riêng bản thân hắn mà không nghĩ đến người khác, sao gọi là tâm bồ tát. Hắn không hiểu được điều cơ bản nhất: "có làm thì mói có ăn". Mà chỉ ngồi ì ra ăn, cái mà nông dân, công nhân kia làm việc vất vả mang đến. Rồi tỏ thần tỏ thánh.
    Ta nói cho ngươi biết: Ta đang sống độc cư đây, mà chung quanh còn bao phủ bởi cái lạnh của băng tuyết nữa.
    Tứ thiền của ta, con mắt phàm phu của ngươi sao nhìn thấy. Con mắt phàm phu ấy chỉ có thể thấy cái "Tứ Thiền" phàm phu của Thông Lạc

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Cõi Vô Hình
    By Bin571 in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 55
    Bài mới gởi: 25-03-2015, 02:01 AM
  2. Ý nghĩa của 64 quẻ và 384 hào
    By Bin571 in forum Dịch Học
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 08-07-2012, 04:04 PM
  3. Từ chối bán thận 50.000 USD để dành tặng người nghèo
    By Bin571 in forum Người TỐT, việc TỐT
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 28-03-2011, 02:43 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •