Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 29

Ðề tài: Sấm Giảng của Bửu Sơn Kỳ Hương

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Sấm Giảng của Bửu Sơn Kỳ Hương

    Giới thiệu

    Một đặc trưng của Bửu Sơn Kỳ Hương là hầu như toàn bộ kinh văn và giáo lý truyền đạo được thể hiện bằng văn vần, thể thơ lục bát hoặc thơ bảy chữ, có vần điệu rõ ràng.

    Từ khi mở đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cách đây hơn 150 năm, khoảng năm 1849, tương truyền Đức Phật Thầy Tây An có để lại các kinh văn như: Khai kinh kệ, Thái dương kinh, Thái âm kinh, Chuẩn đề chú, Giảng xưa Tòng Sơn v.v... Đa số các kinh văn này qua thời gian lưu lạc, đã không được ấn tống đầy đủ, việc sưu tầm các bản kinh văn gốc gặp rất nhiều khó khăn. Một số bản kinh văn được truyền khẩu đến ngày nay, do các đệ tử của Đức Phật Thầy ghi chép lại nên có khác nhau một vài từ ngữ.

    Chúng tôi sẽ cố gắng sưu tầm lại các bản kinh văn này trong topic Sấm Giảng Bửu Sơn Kỳ Hương, để lưu giữ lại các kinh văn của nền đạo Việt Nam, đặc trưng của miền Tây Nam Bộ.

  2. #2

    Mặc định

    MƯỜI ĐIỀU KHUYẾN TU
    của Phật Thầy Tây An


    Điều thứ nhất Thầy khuyên nên nhớ
    Lòng trung kiên muôn thuở còn nêu
    Dầu ai nặng nhẹ trăm điều
    Quyết không bỏ lý cao siêu của Thầy
    Nhiều thử thách đang vây con đó
    Nếu ngã lòng công khó tiêu tan
    Việc chi còn ở trần gian
    Là điều huyễn hoặc chớ mang nơi lòng.

    Điều thứ hai Thầy mong đệ tử
    Tình bạn bè phải giữ thuỷ chung
    Luôn luôn tha thứ khoan dung
    Như khuyên nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô
    Dìu dẫn nhau điểm tô công quả
    Phải thật thà với cả chung quanh
    Thiệt thòi cam chịu đã đành
    Vô vi phẩm vị Thầy dành cho con.

    Điều thứ ba vẹn toàn hạnh đức
    Tuy bán buôn cơ cực tảo tần
    Đổi công nuôi lấy tấm thân
    Đừng ham mến chuyện phi nhân gạt lường
    Dù bạc vàng đầy rương tràn tủ
    Cuộc trần nầy chưa đủ con ơi
    Ác gian cũng chỉ một đời
    Thà nghèo trong sạch, thảnh thơi linh hồn.

    Điều thứ tư pháp môn quy luật
    Lục, thập chay cố sức trau dồi
    Thịt thà xương máu tanh hôi
    Cỏ cây rau cải cũng rồi bửa ăn
    Đức Từ Bi thường hằng thể hiện
    Không sát sanh lòng thiện ta còn
    Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon
    Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng

    Điều thứ năm quyết không hờn giận
    Ghét ganh chi cho bận lòng mình
    Con xem vạn quyển thiên kinh
    Hiền nhân quân tử rộng tình vô câu
    Muôn việc xảy bắt đầu sân nộ
    Là nguyên nhân thống khổ ly tan
    Chân truyền chánh pháp đạo tràng
    Tập xong chữ Nhẫn Niết Bàn không xa.

    Điều thứ sáu thiết tha Thầy dặn
    Ngày hai thời lẳng lặng công phu
    Việc chi dầu quá cần cù
    Cũng nhân vài khắc tập tu nguyện cầu
    Khi rảnh việc đồng sâu chợ búa
    Đem sấm kinh tự của Thầy ban
    Học cho thông thuộc đôi hàng
    Ngâm nga trong lúc thanh nhàn bâng khuâng.

    Điều thứ bảy quyết tăng công quả
    An ủi người già cả ốm đau
    Tùy duyên có thể giúp vào
    Lâm cơn hoạn nạn khi nào cần con
    Phước đức đó vẫn còn muôn thuở
    Tuy vô hình đừng ngỡ rằng không
    Con ơi ! Trong chốn trần hồng
    Mấy ai nghĩ đến cõi lòng thanh cao.

    Điều thứ tám lời nào Thầy dạy
    Dầu khổ lao chớ nại công trình
    Biết rằng con phải hy sinh
    Phật Tiên đâu nỡ quên tình hay sao
    Đừng chấp việc núi cao rừng thẳm
    Hay là đường muôn dặm xa trông
    Hễ con thề giữ trọn lòng
    Đương nhiên đắc đạo thoát vòng tử sinh.

    Điều thứ chín đạo lành căn bản
    Giữ làm sao có bạn không thù
    Từ đây con nhớ rằng tu
    Hạ mình nhận lỗi mặc dù là không
    Lời nói sao hòa trong hiệp ngoại
    Đừng hơn người nếu phải ép lòng
    Không ham những chuyện mênh mông
    Vừa no, đủ ấm đèo bồng làm chi.

    Điều chót hết mười ghi trăm nhớ
    Phật - Pháp - Tăng con chớ quên ơn
    Gia đình nghĩa trọng nhiều hơn
    Tình thương xã hội giúp cơn thiết cần
    Ơn tổ tiên dành phần con cháu
    Đó những lời dạy bảo Thầy mong
    Con ơi hãy khá ghi lòng
    Bấy nhiêu tâm huyết, mấy dòng thi văn.

    ----------------------------------------------

    CHÚ THÍCH

    Điều thứ nhất: chữ Định

    Điều thứ hai: chữ Hòa

    Điều thứ 3: chữ Tham

    Điều thứ tư: Phật Thầy khuyên đạo hữu mới nhập môn nên ăn chay mỗi tháng 6 đến 10 ngày. Khi đã thuần thành đa số các đạo sĩ Bửu Sơn Kỳ Hương ngày nay ăn chay trường.

    Điều thứ năm: chữ Sân

    Điều thứ 6: hai thời công phu gồm thời sáng sớm (5 giờ sáng) đọc Kinh Thái Dương và thời chiều tối (5 giờ chiều) đọc Kinh Thái Âm. Hai bản kinh này rất ít người còn giữ bản gốc.

    Điều thứ 7: Hành thiện, giúp đỡ người khác để tăng Phước báu.

    Điều thứ 8: Kiên trì giữ con đường đạo.

    Điều thứ 9: Phát Tâm Bồ Đề.

    Điều chót hết: Giáo lý cơ bản của Bửu Sơn Kỳ Hương là thực hành Tứ Ân, tu Nhân học Phật.

  3. #3

    Mặc định

    Qt có một bài cũng hay nên chia sẻ cho ace cùng tham khảo.


    Ngũ Giới Cấm
    BÀI THỨ HAI: dạy con thủ giới,

    Năm điều răn tiến tới toàn thanh,

    Vì rằng từ thuở tập tành,

    Nặng mang cái kiếp thương sanh dãi dầu.

    Rồi lầm lẫn biết đâu tội ác,

    Rồi đê mê như giấc mộng truyền,

    Nay con đã định tâm yên,

    Đạo tràng học hỏi lời khuyên ghi lòng.

    --------------------------------------------

    Cám ơn bạn Quang_tâm đã sưu tầm bản kinh này.
    Sau khi tìm hhiểu thì được biết đây không phải kinh văn Bửu Sơn Kỳ Hương, mà đây là bài Ngũ Giới Cấm trong Kinh Tam Thừa Chơn Giáo - Quyển 1, Phẩm Tiểu Thừa của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Đạo Cao Đài). Trước đây huynh TinhKhiThan đã đăng trên TGVH:


    http://thegioivohinh.com/diendan/sho...98&postcount=4

    Bản kinh này đã được chuyển sang Mục Đạo Cao Đài.
    Last edited by Love_Tamlinh; 05-01-2011 at 06:40 PM.
    Long Hoa con thuyền cứu rỗi
    Người ăn năn sám hối mau tri
    Long Hoa con thuyền đại bi
    Người ăn năn sám hối mau đi
    Long Hoa con thuyền biết đi
    Người ăn năn sám hối ráng trì
    Trần ôi ngày ngắn quá đi..
    Trần ôi đêm dài mau đi tìm người....

  4. #4

    Mặc định

    cảm ơn mod, vì bài sưu tầm cũng nhiều nên Qt ko nhớ thuộc phần nào. thật xin lỗi.
    Long Hoa con thuyền cứu rỗi
    Người ăn năn sám hối mau tri
    Long Hoa con thuyền đại bi
    Người ăn năn sám hối mau đi
    Long Hoa con thuyền biết đi
    Người ăn năn sám hối ráng trì
    Trần ôi ngày ngắn quá đi..
    Trần ôi đêm dài mau đi tìm người....

  5. #5

    Mặc định Giảng xưa ở Tòng Sơn

    GIẢNG XƯA CỦA PHẬT THẦY TÂY AN


    1. Cha chết, mẹ chết, Thầy đi tu ở núi Tà Lơn cho đến khi được ấn chứng

    Tòng Sơn (1) căn gốc ông bà
    Mua đất tọa lạc tại làng Cần Chông
    Vợ chồng xưa cũng đồng lòng
    Thầy Cai tên Sử họ mà chánh Lê
    Sanh con đặt thửa tên này
    Họ Lê Hướng Thiện (2) tháng ngày nưng niu.
    Cho ăn tôm thịt đau nhiều
    Ăn ròng những muối cơm không chịu đời,
    Thầy Cai mua đất khắp nơi
    Mang bịnh hút ghiền bán hết còn chi
    Còn một miếng đất biếu đi
    Tới kỳ góp lúa cu ly nó chèo,
    Mẹ con bước xuống tiểu thoàn (3)
    Góp lúa ăn hết bảy ngàn năm trăm
    Tá điền xin lúa có năm
    Buổi ghiền lúc giận thú cầm báo tao
    Mẹ con tang liệu làm sao
    Dám cho bớt lúa của tao như vầy
    Hay là đem dạ tà tây
    Đem lòng hoa nguyệt đem lòng hại tao
    Mẹ con mày kíp ra mau!
    Đánh mẹ bốn chục con mà xin dưng
    Nhìn mẹ nước mắt rưng rưng
    Khổ này con chịu mẹ an thửa lòng!
    Cầm roi ông đánh Thầy xong
    Ba ngày nhóm bịnh ông mà bỏ thây.
    Ông chủ là chú của Thầy
    Chủ hườn bước lại mới rày quở la:
    Anh tao chết cũng vì mày
    Xiêu mưu lập kế giết rày anh tao
    Anh Cai có chết đi rồi
    Rước làng biên tịch hết thôi gia tài.
    Hương chủ là chú của Thầy
    Giả vô thăm bệnh thoa vào miệng Cai
    Thuốc độc dòm thấy ghê thay
    Làng xét thấy vậy bắt ngay mẹ Thầy
    Tịch bôi gia sản đông tây
    Ông chủ xét lại xin làng khảo tra
    Tội này tịch của tịch gia (4)
    Đuổi ra chẳng đặng lấy mà món chi
    Bảy ngày cúng tế vậy thì
    Heo chưng bò cúng đi rày bạc trăm
    Các quan làng xóm rần rần
    Kẻ quỳ người tế đông chân chật nhà,
    Thầy chùa trống đánh bên la
    Lại thêm cổ nhạc trống mà rất đông
    Mẹ con thảm thiết âu sầu
    Thiên đình thấy lỗi dắt âu đem về
    Ông Cai dám đánh con Trời
    Mượn bụng sanh đẻ nối đời nhà Nam
    Ông chủ tom góp của luôn
    Cho nên Ngọc Đế bắt hồn ông Cai
    Phải chết còn của bạc muôn
    Muốn đoạt của thế thánh thần cũng hay
    Tóm đồ mới đuổi mẹ Thầy
    Có bảy đồng bạc trong mình đi ra
    Đuổi ra chịu tiếng xấu xa
    Kêu trời bốn tiếng bước ra ngoài đường.
    Còn Thầy bước lại thắp hương
    Cha ơi ở lại con ra ngoài đường
    Chú tôi tom góp hết rồi
    Mẹ con than thở vô hồi nhớ thương.
    Bao đành phi việc vô lương
    Đoạt nhà vườn đất Phật Trời chứng tri.

    Than rằng mẹ chớ sầu bi
    Tạm qua lối xóm mua xuồng kiếm ăn
    Mẹ rằng xưa cũng có ăn
    Ngày nay phải chịu khó khăn mãn đời,
    Bước ra thảm thiết vậy thời
    Mua xuồng thì có dầm thì vốn không
    Miếng tre khẽ lấy bơi ròng
    Gian nan chi xiết châu hồng trời ơi!
    Xóm giềng xem thấy rụng rời
    Ông chủ đành dạ ăn chi của người
    Bà rằng khổ sở mình tôi
    Mẹ con tha thiết kiếm trầu đặng mua
    Bà rằng ít vốn ba trăm
    Thầy rằng ít quá cũng tầm ba thiên
    Ra đi nước mắt liên miên
    Bạc trăm để đó ra thì mình không
    Của muôn bạc giạ khó mong
    Ra đi mình một nuôi thân bán trầu.
    Lần lần chống cặp theo bờ
    Lớn đi ròng đậu (5) dật dờ mé sông.
    Đêm ngày nhịn đói sạch không
    Có ba nồi gạo để hòng nuôi thân
    Nấu cơm một nắm đỡ lòng
    Ăn mà dằn bụng nào hòng dám no,
    Mười lăm ngày mới tới nơi
    Vô vàm thấy Mạc Cần Dưng (6) rõ ràng
    Khổ thay trong dạ vô hồi
    Mẹ ôi thức giấc tỉnh ngồi dậy chơi
    Nấu cơm trời sáng hừng rồi
    Ăn sơ ba hột con lần bơi đi
    Vĩnh Hanh (7) Thầy mới thông tri
    Cắm xuồng Thầy nghỉ lên bờ Thầy coi
    Chỗ này thiệt chỗ hẳn hòi
    Lập đình hát bộ đặng coi Minh Hoàng
    Thảm thay trần thế chàng ràng
    Bẻ cây cặm xuống làm đình Vĩnh Hanh
    Chỗ này sau có đua tranh (8)
    Lỡ đường bá tánh dừng chân tạm nhờ
    Làm nên bá tánh đặng nhờ
    Làm quấy ngồi chày làm hoài chẳng nên
    Ối thôi bước thẳng xuống thuyền
    Mẹ toan nằm nghỉ con liền bơi đi.
    Ra đi chi xiết rụng rời
    Tay liền mở nút áo thời cởi ra
    Đắp cho thân mẹ ấm da
    Con toan phải chịu tuyết sa lạnh lùng,
    Tay bơi muỗi cắn tứ tung
    Hai bên đế sậy (9) bịt bùng thậm đa
    Rong cùng bùn trịn (10) thay là
    Thầy mà ra sức xuống mà đẩy đi
    Bùn lên ngập xuống nửa dầm
    Mòng đeo muỗi cắn đập mà tứ tung
    Ve kêu dế gáy não nùng
    Lớp đắp cho mẹ lớp nào gửi thân,
    Rưng rưng nước mắt hai hàng
    Bao giờ muỗi cắn Thầy bèn leo lên
    Chờ cho nước lớn phục hồi
    Thầy toan vội chống lần hồi khỏe thân.

    Đi ngang nghe tiếng rên rần
    Trời đương hừng sáng lên bờ hỏi thăm
    Thấy cô chuyển bụng rên thầm
    Hỏi sao rên quá xin phân tôi tường!
    Cậu ơi đau bụng không giường
    Chồng tôi đi khỏi đâm rùa sau lung (11)
    Cho nên giường dạt không làm
    Thân đau nhặt thúc (12) trong lòng mệt đa
    Khuyên cùng với cậu thay là
    Kêu chồng (13) làm phước ngàn ngày đội ơn!
    Thầy than không biết gần xa
    Để tôi tiếp giúp chặt mà lao vôi (14)
    Làm giường tiếp thím cho rồi
    Thím lên sanh đẻ có tôi phụ dùm,
    Thầy than lạy với quỷ thần
    Chứng minh cho thế đặng hầu sanh thai
    Vái rồi bé trổ sanh ngay
    Không ai tiếp giúp đỡ tay đun lò
    Ra tay điên điển (15) nhúm lò
    Cà dăm phơi sẵn đút lò lửa than
    Thương thay nghèo khổ cơ hàn
    Không ai nhau rún Thầy càng gớm ghê
    Thầy ra múc nước trịn bùn
    Phun cho ngồi dậy cắt mà rún nhau
    Thầy ra hốt những cỏ rừng
    Ôm vô Thầy bó thít mà bỏ đi
    Hoảng ra Thầy lại kêu gì
    Đi chôn dùm thế để mà hôi tanh,
    Đúng ngọ Thầy mới hồi thành
    Ngó mong dòm thấy lội về chơi vơi
    Cậu Thành về tới đến nơi
    Cúi đầu bái biệt đáp ơn cùng Thầy:
    Nay tôi khổ sở cơ bần
    Lấy chi đền đáp cho mà ân nhân
    Xâu rùa đáp lễ đền ân
    Cúi đầu chín lạy tỏ phân là cùng.
    Thầy khuyên lại với anh rằng:
    Ra tay làm phước màng gì ơn lo.
    Xuống xuồng bà mẹ rày to:
    Việc mình buôn bán không lo tối ngày!
    Mẹ ơi làm phước đêm ngày
    Lỡ người sanh đẻ bỏ rày sao nên!
    Ra đi dốc dạ cho bền
    Hỏi mày chắc thiệt còn nhà nhiều không?
    Mẹ ơi vô đó thật đông
    Đi một ngày ròng trầu héo sạch trơn
    Tới nơi gặp chốn rừng tòng (16)
    Cậu Ân vợ chết khóc ròng như mưa
    Thầy thưa cùng mẹ cho đi
    Lên thăm hỏi thử việc chi om sòm
    Con lên tới đó biết rằng
    Hỏi thăm buôn bán coi mà đặng không?
    Bước lên than khóc lụy ròng
    Vợ tôi đã chết ai hồng đi chôn
    Thầy xem tội nghiệp chôn dùm
    Bước vô làm sảy bó ma một mình
    Cậu Ân lệ nhỏ dầm mình
    Nhào lăn lộn lại khóc ròng em ơi
    Thầy toan cất gánh dời thây
    Kề vai thầy cõng đem mà tới nơi
    Đào mương đào lỗ xong rồi
    Bỏ thây người xuống dập rồi Thầy đi
    Trở về gia nội vậy thì
    Cậu Ân cúi lạy xin Thầy thương tôi
    Thân Thầy tấc dạ ngùi ngùi
    Việc người lại nhớ việc tôi sụt sùi
    Ra đi bước xuống thoàn lui
    Kiếm chuyện gạt gẫm mẹ mình an vui.
    Hỏi thăm ta nói được rồi
    Lần vô bán trúng mẹ đừng có lo.
    Mày thôi báo hại tao to
    Không lo mua bán cứ lo việc gì
    Trầu khô héo cuống hết rồi
    Mẹ đừng than thở héo thời bán lên
    Tao mên thứ héo ăn bền
    Con đi thường biết thế mà ăn hung.
    Bơi hoài tăm tối khôn cùng
    Tới bến Xà Tón (17) cặm dầm Thầy lên
    Mẹ ơi chắc khổ không bền
    Mẹ lên theo trẻ bước đường tử sanh
    Cặm dầm đến chỗ quán tranh
    Chỗ này sau có thị thành rất đông,
    Bước lên mẹ thấy mủi lòng
    Mùng chiếu không có nằm ròng mẹ than,
    Con hòng tím ruột bầm gan
    Con nhìn thấy núi con mang lòng sầu!
    Đêm khuya thảm thiết buồn rầu
    Tao hầu thấy núi tao hầu muốn lên,
    Mẹ ơi tôi chắc chốn đây
    Sau nên thành thị chốn này rất đông
    Chừng nào lộ thẳng đường đồng
    Liêu linh bá tánh long đong sơn hà
    Bá gia ăn đá dưỡng già
    Lập nên đại hội ông bà tiêu diêu.

    Xảy đâu chen lặng trời chiều
    Sương phong cảm mạo mẹ liền phát run
    Kề vai cõng mẹ khôn cùng
    Chung lần đảnh núi tầm đường thúc thân
    Áo quần cởi hết truồng trần
    Lớp đắp cho mẹ lớp nào che thân
    Thảm thương ve muỗi rần rần
    Mẹ than lạnh quá chết mà bớ con!
    Mẹ ơi gượng gạo lên non
    Mẹ chết con còn sống lại làm chi!
    Hai bên ve muỗi li bì
    Mòng kêu sáo thổi ve kêu não nồng
    Thầy than một tiếng tấm lòng
    Không ai tiếp giúp đưa lần tới nơi!
    Than rồi đom đóm nhiều nơi
    Chá ngời bốn phía làm đèn đi khơi,
    Nửa đàng mẹ lại kêu trời
    Con ơi ở lại mẹ thời xa con
    Chắc là mẹ chết không còn
    Vậy con ở lại giữ tròn trung quân
    Con ơi thảm thiết vô cùng
    Tay chân vọp bẻ nhức mình tắt hơi
    Hai bên cọp gấu dưng lời
    Tiếp thời dắt mẹ hụt hơi chết rồi
    Con ơi con ráng tìm trời
    Mẹ chẳng sống nổi tách dời âm cung!
    Thầy than thảm thiết vô chừng
    Làm sao chôn mẹ lấy gì móc hang
    Hùm kêu vượn hú nghe ran
    Cọp đang móc lỗ chôn rày mẹ ta
    Khỉ vào rừng nội bôn ba
    Bẻ bông hái trái cúng bà quảy đơm,
    Nghiêng mình lăn lóc Thầy nằm
    Kêu trời than khóc mẹ đành bỏ con
    Từ đây thế sự hao mòn
    Mẹ toan chết trước con còn mà chi!
    Hùm Beo trỗi giọng kêu thì
    Từ đây phải chịu li bì khóc than
    Ra đi tím ruột bầm gan
    Mẹ nam con bắc chẳng an lòng sầu
    Ta đi mưa nắng dãi dầu
    Trời ơi đất hỡi thảm sầu tứ phương
    Cúi đầu lạy mẹ miên trường
    Mẹ an xuống lỗ chịu đường gian nan.
    Tà Lơn (18) tầm Phật rõ ràng
    Hai bên đế sậy con càng phải đi
    Ve kêu dế gáy dậy thì
    Vắt đeo cơ cực con nào dám rơ
    Bao nhiêu rối rắm đường tơ
    Hùm kêu khỉ rống dật dờ khá thương
    Thấy ve với muỗi đoạn trường
    Cắn đeo cho chắc kẻo mà xảy tay
    Phận tôi thắm thiết đêm ngày
    Tà Lơn đến ngụ theo thời Phật Tiên.

    Phật Bà ngó thấy người hiền
    Thử tài cho biết Thánh Tiên về trần
    Ráng coi theo bảo ân cần
    Thường thường xin đọc coi đời biết nhau
    Bao giờ đến lúc minh trào
    Xin cho hiểu lý thấp cao làm gì
    Này con ráng nhớ lời ghi
    Phật Bà truyền dạy phải y theo lời
    Thế gian chớ có ngạo cười
    Phật Bà thấy vậy theo đưa ghẹo người.
    Thầy đi sáu tháng tới nơi
    Lần hồi mới tới xứ rày Tà Lơn
    Ra đi ve muỗi phiền hờn
    Cắn Thầy máu nhuộm chớ hờn muỗi ve
    Thảm thay rừng đế vắng hoe
    Mẹ nam con bắc vô hồi nhớ thương
    Ra đi lụy nhỏ đoạn trường
    Ôm lòng nhớ mẹ trăm đường biệt ly
    Mẹ ơi con sống làm chi
    Lần hồi tầm kiếm thấy thì Phật Tiên
    Ôm lòng mà chẳng dám phiền
    Tuôn rừng lướt bụi phải yên lòng này
    Quyết lòng tìm được chúa thầy
    Hùm kêu beo rống đồng này khá thương
    Ra đi lụy nhỏ đoạn trường
    Lánh thân tìm chúa đoạn trường xiết bao
    Thảm thay trong ruột quặn đau
    Ve kêu khỉ hú rừng tòng khá thương.
    Từ đây xa cách hai đường
    Mẹ an phận mẹ con thương thảm sầu
    Mòng đeo vắt cắn khó âu
    Bây ơi đeo chắc kẻo mà xảy chân,
    Đi đêm rồi lại đi ngày
    Cơm thì chẳng có nước rày chẳng không
    Thảm thay chi xiết đèo bòng
    Đi thời sáu tháng mới hòng tới nơi,
    Tà Lơn tạm ở vậy thời
    Chín năm lao khổ đất trời có hay
    Trần truồng nằm dưới cội cây
    Không quần không áo đêm ngày chan chan
    Màn trời chiếu đất che thân
    Chiếu là mặt đất đỡ thân lạnh lùng
    Thảm thương beo tượng chung cùng
    Vượn mà dâng trái beo mà dâng sương
    Đem theo Thầy uống đoạn trường
    Năm canh Thầy ngủ hào quang rọi đầy,
    Thầy nằm chiếu sáng phương tây
    Phật Tổ mới hỏi cái gì sáng đây
    Phải đòi thập bát la hầu
    Mở cửa dòm xuống dương gian vị nào
    Cớ sao thấu đến bàn đào
    Đòi mà tiên nữ xuống mà xem qua,
    Phật Bà ngự trước tâu qua
    Để tôi giáng thế coi mà thế ni
    Bà vâng Bệ ngọc liền đi
    Giả ra cô gái ngộ mà thất kinh
    Tới mà trêu ghẹo dạng hình
    Thử Lê Hướng Thiện coi mà trung không:
    Thiếp thưa lại với cùng ông
    Thiếp tu một cảnh chùa chiền phòng không
    Đêm ngày thiếp luống đợi trông
    Thấy ông thiếp muốn dắt ông về chùa
    Năm canh lạnh lẽo bốn mùa
    Gặp ông thiếp muốn dắt về tu chung.
    Cô ơi tôi chẳng muốn hùn
    Khổ tôi tôi chịu chung hùn khổ đa
    Dầu mà tu niệm thật thà
    Cô đừng khuyến dụ thói tà chẳng nên
    Cô về niệm Phật cho bền
    Công phu bái sám giữ gìn thiện tâm
    Việc tu đừng có sai lầm!
    Gặp ông thương quá trời đày cũng cam
    Thấy ông quần áo lang thang
    Thiếp nay sắm sửa ông về chung vui
    Sao ông trong dạ ngùi ngùi
    Ông về với thiếp tu hành chung đôi.
    Thầy than chết sống mình tôi
    Xin cô tránh khỏi mà đừng vãng lai
    Nhứt tâm niệm Phật lâu dài
    Cô đừng bạo dạn ghẹo hoài tôi chi
    Có thương trở lại thiên đường
    Cứ theo chọc ghẹo tội trời lắm đa
    Dốc lòng niệm chữ ma ha
    Xin cô tránh khỏi xấu xa phận này
    Thân tôi là tớ của Thầy
    Bồng lai nhuộm mật thơm rày khắp nơi
    Thân tôi bùn lắm mọi nơi
    Sen tàn cúc rụi dám chường cô đâu,
    Xin cô trở lại cho mau
    Cúi đầu lạy tạ cô đừng khuyên lơn
    Việc tu chớ giận đừng hờn
    Cô về thượng giới mà chầu Phật Tiên
    Muôn tâu đức Phật thánh hiền
    Họ Lê Hướng Thiện khuyên hoài không nao
    Lịnh trên coi tính thể nào
    Nam Tào Bắc Đẩu nghi rày làm sao
    Cho về làm Phật minh trào
    Dương gian làm phước cứu hàng chúng sanh.
    Cho nên Phật Tổ truyền rành
    Biểu bà mau xuống truyền mà họ Lê
    Năm canh an giấc Thầy nằm
    Niệm ba tiếng Phật nằm mà nghỉ an
    Phật Bà cầm quạt bước sang
    Đằng vân giá võ xuống mà Tà Lơn
    Gặp Lê Hướng Thiện đang nằm
    Ngủ mê chẳng thức Bà liền gần bên
    Quạt luôn ba cái bên trên
    Giựt mình thức dậy Bà liền hoœi ngay:
    Hỏi rằng Hướng Thiện tên này
    Muốn về Thượng Đế hay gần dương gian?
    Mối đạo con bỏ chẳng an
    Ngày sau tiêu diệt dương gian còn gì!
    Bà thương truyền phép vậy thì
    Truyền chơi sáu khắc Thầy đà hiểu thông,
    Bà truyền hai phép phù thần
    Hỏi mày về thế cứu trần làm sao?
    Thầy quỳ phân tỏ âm hao:
    Con về cứu thế bất cần món chi.
    Nếu mà hạ thế cứu trần
    Dịch ôn trừ khử thánh thần cũng tiêu
    Bà cho con xuống hạ trần
    Núi Sam con ở độ lần nhơn sanh
    Chắc con còn chịu nợ trần
    Tam tai vương lấy nhiều lần gian nan
    Con về lại cảnh Tây An
    Khuyên nhủ bá tánh nhơn gian cho hòa
    Bàn tay lật ngửa vậy mà
    Con mau bước tới cho Bà thổi đi
    Thế nào con chịu lâm nguy
    Cúi đầu Thầy lạy con đi về trần
    Vậy con ráng độ dương trần
    Con về cõi thế Bà hồi phương Tây.
    Ba tiêu Bà quạt Thầy bay
    Núi Sam thầy ở tháng ngày náu nương.

  6. #6

    Mặc định

    CHÚ THÍCH
    --------------------------------

    1. Tòng Sơn: nơi Phật Thầy Tây An đến chữa bịnh và truyền Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương từ năm 1849 Kỷ Dậu.

    Từ thế kỷ 19, làng Tòng Sơn thuộc tỉnh Sa Đéc. Sang đầu thế kỷ 20 làng Tòng Sơn thuộc tỉnh Vĩnh Long, sau đó làng được sát nhập vào làng Mỹ An, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Ngày 23-11-1923, làng Mỹ An hợp với làng An Hưng thành làng Mỹ An Hưng; nay thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

    2. Lê Hướng Thiện: tên và gia đạo Phật Thầy Tây An trong câu chuyện này không phải tên thật, vì Phật Thầy Tây An muốn ẩn dấu thân phận của mình. Tại sao Thầy lấy họ Lê? Có bằng chứng tâm linh cho rằng Phật Thầy Tây An là hậu duệ Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) và Ngọc Hân Công Chúa (Lê Ngọc Hân), dưới thời nhà Nguyễn, Phật Thầy Tây An đã phải thay đổi thân phận để tránh bị nhà Nguyễn trả thù tru di cửu tộc, nhưng vẫn giữ nguồn gốc họ Lê.

    3. Tiểu thoàn: thuyền nhỏ (trại âm)

    4. Tịch của tịch gia: tịch thu của cải, nhà cửa.

    5. Lớn đi ròng đậu: con nước lớn chống xuồng đi, và nước ròng, nước cạn thì cột xuồng đậu lại.

    6. Mặc Cần Dưng: con rạch nay thuộc xã Bình Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

    7. Vĩnh Hanh: nay thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

    8. Đua tranh: giặc giã, phân tranh.

    9. Đế sậy: lau sậy và cây đế còn gọi cây lách là một dạng lau sậy mọc thành bụi hoang, thân nhỏ lá cứng, có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong văn học người ta thường nói lau sậy hoặc lau lách.

    10. Trịn: dẻo và dính.

    11. Lung: vùng đất trũng ngập nước, trái nghĩa với gò là vùng đất cao.

    12. Nhặt thúc: lúc chậm lúc nhanh, lúc đau ít lúc đau nhiều.

    13. Kêu chồng: đi gọi người chồng về dùm.

    14. Lao vôi: loại cây thân gỗ thẳng, giống cây ổi, và thao lao.

    15. Điên điển: hay còn gọi cây điền thanh, cây nhỏ thuộc họ đậu, mọc ven bờ mương rạch, bông màu vàng dùng làm rau.

    16. Rừng tòng: tòng lâm, hay tùng lâm, là rừng thông, còn nghĩa là rừng núi, nơi tu hành và chùa chiền.

    17. Xà Tón: nguyên âm tiếng Khmer là Xvayton, dịch tiếng Việt là Tri Tôn, nay thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

    18. Tà Lơn: thuộc núi Cấm, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

  7. #7

    Mặc định Giảng xưa ở Tòng Sơn

    2. Phật Thầy Tây An đi hành đạo và chữa bịnh nhiều nơi

    Thảm thay chi xiết đoạn trường
    Tư bề những đế (1) cỏ hồng minh mông
    Ra thân đập cỏ nhổ bông
    Gặp con én rủ Thầy hồng thương thay
    Bứt cây đế sậy nhai rày
    Phun con én rủ hoàn hình đơm lông
    Xảy đâu hai cậu đi đồng
    Hai cậu ngồi đó dòm chừng mà coi
    Đâm rùa hai cậu gánh liền
    Cậu Sanh cậu Lý ở mà coi chơi
    Hai cậu dòm thấy rụng rời
    Ông này quá giỏi hoàn hồn thật hay
    Hai cậu về tới đồn rày
    Núi Sam có Phật độ rày con chim
    Tiếng nghe bá tánh đi tìm
    Rần rần rộ rộ tới Thầy biết bao
    Kẻ thời dâng lý dâng đào
    Người thời trà rượu ra vào thiếu chi
    Tro nhang thầy phát ra thì
    Người nào cũng lãnh vậy thì rất đông
    Rần rần bá tánh long đong
    Thầy ngồi châu lụy nghĩ không ra gì
    Thằng Ân nó ở ra gì
    Sanh thế cờ bạc ắt mày hại tao
    Bán đồ chảo sắt cùng thau
    Trước mầy côi cút nhờ tao độ mầy
    Chảo thau tao nấu đồ chay
    Mầy còn đem bán chắc mầy hại tao.

    Xảy đâu lại có một nàng
    Tại vàm Xà Nóc (2) tên là cô Minh
    Cha cô là phó hương đình
    Người này vốn thiệt vậy mà tên Thân
    Cô Minh có chưœa trong trần
    Xét đi xét lại ít mà giống ai
    Ba năm chịu khổ ai hoài
    Chồng cô giáo tập dạy rày Sóc Trăng
    Giáo tập khổ sở mấy trăng
    Cầu Trời khẩn Phật cho nàng sanh thai
    Cha chồng mới chở đi hoài
    Đem lên bụng lớn Thầy mà hỡi ôi:
    Lạy Thầy cứu độ dùm tôi
    Cứu con tôi mạnh dễ quên ơn Thầy
    Ông ôi có muốn tôi dùm
    Rước chồng cô đó tới thời với tôi!
    Ông rằng cớ sự tại tôi
    Thầy biểu bổn đạo mau thì ra đi
    Tới cơn Thầy chịu lâm nguy
    Nhắc hòm chờ sẵn chôn Thầy để chi!
    Ông Thân biểu để ráng thì
    Nếu Thầy có để biệt ly chẳng còn
    Bụng Minh ba tướng đã tròn
    Minh đẻ Thầy chết thiệt là có oan.
    Thầy ra nguyện vái Thiên Hoàng
    Dầu tôi chết sống cho đành chúng sanh
    Dán bùa xây lộn chuyển quanh
    Trên trời sấm sét cô thời bể hông,
    Mặt xanh ông Lý Thiết Hoài (2)
    Ông về thượng đế dạy mà phép tiên
    Mặt đỏ là Lữ Đồng Tân (3)
    Đem về thượng đế ẩn thân chuyên nghề
    Mặt trắng Thầy lại đem về
    Truyền ra bổn đạo chôn Thầy cho mau
    Trong chùa bổn đạo ồn ào
    Thằng ở chạy riết ra ngoài báo quan,
    Chôn Thầy giữ kín đã an
    Chú Cai thầy Đội (4) tới mà một bên
    Ông cò (5) biểu xếp đào lên
    Hối thúc bổn đạo đào lên coi nào
    Cạy hòm khám thử xem sao
    Thấy xương với thịt đều sình hết trơn
    Hối từ đắp lại làm ơn
    Kẻo đó truyền nhiễm chẳng nên đâu là,
    Thằng ở chịu khổ vậy mà
    Bỏ tù sáu tháng kẻo mà đâu oan
    Bảy ngày bổn đạo đào lên
    Sọ dừa vốn có xác Thầy vốn không
    Thầy mà đổi xác thinh không
    Thầy liền đổi xác theo mà Cao Miên (6).

    Mình Thầy ở đó chí bền
    Tám năm lăn lóc lập chùa cứu dân
    Chúng dân nghe tới rần rần
    Bứt cỏ hốt thuốc cho trần uống chơi
    Bịnh chi cũng đến tới nơi
    Đau cùi lao tổn phong chi cũng tàn
    Thầy xưa bổn đạo dư ngàn
    Đến nay Thầy chết hai phen hết rồi
    Tiếng đồn trần thế nổi trôi
    Cũng vì bổn đạo than ôi rã rời
    Đánh tay Thầy biết việc đời
    Bổn đạo nó hại Thầy mà chẳng không
    Nấu chay nồi tránh mất rồi
    Chảo thau tô gấm trong chùa sạch trơn
    Mắt dòm thằng Lánh quá hờn
    Thiệt mày báo hại bán mà còn đâu
    Quơ cây Thầy đập lại rày
    Bon bon chạy riết tới rày báo quan.
    Tà Lơn (7) làm hội rõ ràng
    Người đứng làm chủ tên rày Ết-ri
    Lịnh ra quân đội điều đi
    Cò Tây súng ống kéo đi rần rần
    Thầy than bổn đạo ở trần
    Thằng Lánh nó báo chôn lần tôi đi
    Ngã sau móc lỗ sẵn thì
    Khiêng Thầy dập khuất ba ngày đào lên
    Đội vô chẳng thấy việc gì
    Bổn đạo không có việc gì cũng không
    Chú Cai đi xét tây đông
    Bắt tội thằng Lánh phạt rày sáu quan
    Thằng Lánh nó trốn thở than
    Ba ngày Thầy sống lần hồi ra kinh
    Láng Linh (8) Thầy hiệu Quản Thành (9)
    Cậu Hai con ruột (10) dạy rành nghề văn
    Phát bùa (11) giao hết lăng xăng
    Bửu Sơn (12) giao lại Quản Thành giữ coi
    Nếu con in rải cho nhiều
    Cậu Hai đứng rải cho gần chúng sanh
    Những người quỷ quyệt khôn lanh
    Thì lòng không tốt con đừng dễ dui
    Trăm người rảy lại mười người
    Coi ai có trí coi mà tốt hơn
    Tu hành gìn giữ chớ sờn
    Thằng Lánh nghe nói Thầy rày xuống đây
    Cho nên nghe tiếng tìm Thầy
    Vào chùa nó ở nhiều ngày làm ăn
    Chín năm chẳng có tiếng tâm
    Xem tôi có quấy thánh thần tru di
    Ở đây niệm chữ từ bi
    Giữ lòng trung liệt chớ khi thánh thần.

    Ngay đó có một ông già (13)
    Tên Đình lòng muốn vào chùa quy y
    Thầy coi tướng mạng vậy thì
    Người tu chắc đặng ở thì với tôi
    Canh khuya Thầy bảo tới rồi
    Cho mau đi riết tới mà mé kinh
    Bỏ vợ ở nhà thằng Sinh
    Dưới vàm Sà Tón bắt rùa bỏ thê
    Cho nên chuyển bụng khóc um
    Mau đi tới đó cứu dùm người ta
    Ông Đình xách gối bôn ba
    Nghe lời Thầy dạy tôi mà phải vâng.
    Tới nơi ngó thấy dửng dưng
    Vạt phên chẳng có vách dừng cũng không,
    Ông Đình hết dạ hết lòng
    Viết bùa uống sổ vách dừng chặt đưng
    Đốn lao làm vạt nằm chừng
    Hừng đông ngó thấy chàng kề gần bên
    Ông Đình kêu hú riết lên:
    Vợ ông sanh đẻ đi liên quá chừng!
    Lạy ông cứu đặng phen này
    Bằng ông tái tạo sánh bằng phụ thân!
    Đình xem gánh nặng lại gần
    Thấy con sấu đỏ Đình hầu lại xin:
    Cho tôi con sấu đỏ mình
    Xem qua lạ quá năm giò lạ thay!
    Lạy ông cho hết ông rày
    Đội ơn tái tạo tôi nào tiếc chi.
    Ông Đình ôm sấu ra đi
    Bon bon chạy riết về chùa tỏ phân
    Thầy dòm ngó thấy sấu thần
    Ngày sau nó báo hại thì dương gian (14)
    Đình đem dấu sấu vào hang
    Cắp bánh cùng chuối đem sang nuôi rày
    Ba năm sấu lớn quá tay
    Tốc hang đi mất kiếm hoài không ra
    Lòng buồn sợ thấu tai Thầy
    Mảng lo thảm thiết sấu rày đi đâu
    Ông liền cúi lạy khấu đầu
    Bạch Thầy con sấu đi đâu mất rồi
    Thầy than con hỡi Đình ơi
    Cây lao cho đó câu này sợi dây
    Ngày sau tuôn lướt sông mây
    Con mà ra bắc cứu trần dương gian
    Tuất Hợi dịch khí ôn binh
    Năm Chèo dậy riết đón vàm Mặc Dưng (15)
    Cho con sáu lá phù thần
    Ngày sau con cứu trong trần người ta
    Có lòng niệm Phật công phu
    Xin con ráng giúp kẻ tu người hiền
    Cứu dân đừng có ham tiền
    Giã con ở lại thầy về Láng Linh.
    Cũng vì bổn đạo không tin
    Báo cùng quân lính hại chùa tiêu tan
    Quản Thành người ở chẳng an
    Cậu hai cũng mất Quản Thành cũng tiêu
    Bắt trong bổn đạo cũng nhiều
    Hai Nhu cũng mất lại tiêu chùa rồi
    Cho nên thầy mới lần hồi
    Thả ra Vĩnh Tế coi mà thế gian
    Tiếng đồn người nói nghe vang
    Trong kinh Vĩnh Tế nghinh ngang quá chừng
    Bán buôn giành giựt tưng bừng
    Đàn bà hung ác rủa mà dịch ôn
    Dương gian thế sự tiếng đồn
    Bán buôn giành giựt thêm rày chưœi la
    Thầy nghe kiếm xuồng thả ra
    Giả ra buôn bán lê la thể nào
    Mua khoai ít yến thả vào
    Bơi vô buôn bán ồn ào xuống đông
    Cùng nhau buôn bán sạch không
    Vác lên nhận xuống trái cân cũng kỳ
    Điên này ngồi dựa dưới thuyền
    Kẻ bưng người xách hết xuồng biết chi
    Chấp tay Thầy niệm từ bi
    Hỏi thăm cô Tám biết thì ai mua
    Tán thành ông chẳng phân bua
    Của tôi tôi trả ai mua biết nào
    Rưng rưng nước mắt xốn xang
    Dương trần dầu có lẽ nào nói không
    Xuôi buồm trở lại cho xong
    Thiệt kinh Vĩnh Tế thấy không người nào
    Quỷ ma thú vật ồn ào
    Kiếp này phải chịu chớ đừng thở than
    Thaœm thương khô héo lá gan
    Mười ba tháng bảy chẳng an kinh này
    Kỷ Dậu bá tánh phơi thây
    Ôn binh đông quá hạ rày chúng sanh
    Xin đừng xấc xược khôn lanh
    Tranh dành đoạt lợi quỷ vương hành hình
    Vàm Nao (16) thả xuống linh đinh
    Nhắm xem sông vịnh buồn tình lòng đây
    Lỡ bờ lỡ bực nhắm ngay
    Vàm Nao ông Chưởng thét nay gần dùng
    Bâng khuâng bá tánh khôn cùng
    Thả luôn đi riết xuống vàm Cần Dưng
    Chỗ này dòm thấy vui mừng
    Có thành có lũy rưng rưng lụy nào
    Trên xe chẳng có đi nào
    Dưới sông chẳng thấy ghe nào đi coi
    Buồn lòng thủng thẳng đi voi
    Bằng Lăng (17) cũng có ở chơi vài ngày
    Buồn riêng chi xiết châu mày
    Mỹ Hội (18) có ở thân này chơi vơi
    Chẳng qua số hệ ở trời
    Thả luôn ông Chưởng xuồng bần nước không
    Xuồng bần trống lỏng sạch không
    Gạo cơm không có Thầy không đói lòng.

    Linh đinh Thầy thả dòng sông
    Cả Mơn lỡ tối mắc rày trận dông,
    Lên đình tạm ở bên hông
    Bước vô hỏi thử ông Từ rằng không!
    Cho tôi tạm ở bên hông
    Ông từ cho ở ngoài vòng mái hiên
    Vịt gà đái ỉa huyên thuyên
    Nam mô Di Phật chẳng phiền lòng đây
    Xuồng bần lơœ lói gốc cây
    Để tôi kéo riết vô đây gởi xuồng
    Kéo lên đút riết vô buồng
    Ông từ giận quở ông già dị đoan:
    Xuồng bần lở lói tan hoang
    Cho người chẳng lấy kéo lên làm gì?
    Thầy rằng: người chẳng nghĩ suy
    Người đâu của đó bỏ thì biết sao?
    Bây giờ kéo riết cho mau
    Kéo vô nhà chánh gởi vô linh thần.
    Ông Từ lấy roi bước gần
    Đánh cho ít cái ông già ghẹo tao!
    Thầy rằng: tôi lỡ kéo vào
    Lạy xin ông thứ Từ ơi là Từ.
    Từ rằng giận sút mồ hôi
    Đánh rồi lại đá kêu làng đóng chân.
    Thầy rằng: ông thiệt khó khăn
    Điên khùng dại dột ông mà thứ dung
    Ai hoài dạ nọ thiết tha
    Kéo ra mở đút trên mà gác cao
    Ông từ nổi giận biết bao
    Tam canh mưa gió trói ông vài hồi
    Thầy ngồi xót ruột lắm ôi
    Có cơm nguội lạnh cho mà tôi ăn!
    Ông Từ giận quá nói rằng:
    Tấm heo tôi có cơm ăn hết rồi!
    Đêm nay thổn thức châu mày
    Từ ơi ông thả tôi mà đi tiêu!
    Xuống sông giaœ bộ đi tiêu
    Thấy con chó chết vớt mà đem lên
    Ông từ lại quở mắng thêm:
    Kéo con chó chết đem lên làm gì
    Ông này thiệt cũng lạ kỳ
    Lại thêm thúi quá ông già bất nhơn!
    Thaœm thương thầy chịu đêm trường
    Chó không tới số bị mà mắc phong
    Giận thay gia chủ buồn lòng
    Đổ lông đổ lá quăng mà xuống sông
    Thầy ra lượm lá kiếm bông
    Thầy nhai phun chó hoàn lông cốt hình.
    Ông Từ thấy vậy hoảng kinh
    Ông già thiệt giỏi bùa linh phép mầu
    Ông rằng: con chó chết lâu
    Những người mắc dịch ông mà cứu không?
    Tôi mà chẳng biết đó ông
    Già mà có rõ có thông một điều
    Tháng tám ôn dịch chết nhiều
    Thiệt năm Kỷ Dậu dương trần tiêu diêu.
    Có con ông Cả đau nhiều
    Nào kêu pháp lực nào là phù tiên
    Thầy pháp tới cúng huyên thuyên
    Lương y cũng đủ bịnh không thuyên gì
    Ông từ lời mách một khi:
    Bẩm Cả tôi có ông chi lạ lùng
    Ở trong đình nghĩ thật linh
    Chết sình con chó cứu mà sống nhăn
    May mà cứu đặng cô chăng
    Xin Caœ cô trước tôi mau rước về.
    Vô đình mới nói ông ơi
    Cô con ông Cả đau nhiều nặng hung,
    Lời Thầy mới nói thung dung:
    Ông đừng chưœi nữa tôi đi cứu người
    Nói ra tôi bắt nực cười
    Tro nhang lấy đó đem về uống phun
    Tro nhang thiệt mạnh vô cùng
    Uống vô thiệt mạnh rùng rùng xúm theo
    Ông Từ lâm bịnh hiểm nghèo
    Bà con thaœm thiết đau mà ỉa ngay
    Thầy bèn thấy vậy châu mày
    Cứu Từ sống đặng con Từ chết luôn (19).

    Sáng ra thầy riết Cái Môn
    Lập chùa am tự kêu rày Tây An
    Ở chơi xem khắp cả làng
    Chừng nào bãi chợ không an lưu truyền
    Ngựa trâu kêu rống không hiền
    Cái Môn xa cách thọ truyền dặn dân
    Thầy mà thả tuốt đi lần
    Từ đây thầy ở lập chùa Vĩnh An
    Bây giờ tới lúc gian nan
    Bị đui bị điếc vô làng Vĩnh Hưng
    Ghé nhà thằng Hỉ nghỉ chân
    Thấy nó nghèo quá Thầy bèn ở chơi
    Vót nan đương rổ vậy thời
    Thằng Hỉ tốt quá ở nhà đôi năm
    Con xem dọn thửa cơm ra
    Con gái thằng Hỉ tuổi mà mười lăm
    Bưng cơn dọn thửa trên mâm
    Trong mình mang bịnh chửa lâu tháng ngày
    Nó làm lợp cợp thay là
    Thiếu nước xúc miệng nó mà đem lên
    Tưởng là con chó ăn cơm
    Cán dao Thầy đập trúng liền bụng cô
    Dè đâu mũi mác trúng vô
    Liếc vô ngó thấy mực ô rỏ ràng
    Văng con tét bụng chết khan
    Thằng Hành là rể trói Thầy giải quan.
    Trên quan kêu án cho Thầy
    Giết con giết mẹ án đày năm năm
    Thầy mà nhứt dạ ghi tâm
    Nhứt tâm thiết quá giữ tâm chớ sờn
    Trời ơi đất hỡi là trời
    Năm năm lao lý mắc mà ngục môn.
    Ở tù bá tánh tiếng đồn
    Ông già thiệt quỷ hại mà thế gian
    Chú Cai thầy Đội giữ rằng
    Roi mây đánh bổ bắt già làm lia
    Xế chiều chẳng muốn cho dìa
    Mười giờ cho đúng tới giờ ăn cơm
    Cầm roi chăn giữ như sơn
    Chú Cai đánh thí về mà ngục môn.
    Khi vô tù xúm khảo tra:
    Cha già khốn kiếp vô đây làm gì?
    Xúm nhau đánh mãi riết thì
    Già mà hung ác giết mà để chi
    Thân này thiên địa nan tri
    Thầy mang đoạn thaœm tớ thì biệt ly
    Hai bên tù ngục đánh thì
    Hào quang chiếu đỏ tù thì ngã lăn,
    Rạng ngày mở ngục lăng xăng
    Chú Cai đánh dữ đánh rày không phân
    Bắt làm cuốc đất đội phân
    Lớp nào xách nước đổ phân cây trồng
    Thằng kia canh giữ ngục hồng
    Thưa cậu Cai Chánh ông nầy báo quan:
    Cớ sao đánh khảo chẳng tha
    Mình ông đỏ hoét tôi toan rùng mình.
    Thầy Đội như thiệt ông linh
    Để tao đánh thử coi mà có không
    Như mà chẳng có y lời
    Thì mày chịu đánh vậy thời tám roi.
    Năm giờ lùa khám hẳn hòi
    Hoœi Lê Hướng Thiện tên này cuœa ai
    Thầy rằng chánh thưœa tôi rày
    Cầm roi nó đánh trên đầu mười roi
    Nháng ra ánh sáng một vòi
    Cúi đầu Thầy chịu mười roi đau lòng
    Dòm vô trong khám buồn lòng
    Thầy cam bụng chịu chớ hòng thở than.
    Chú Cai thấy vậy nghĩ an
    Sáng ra hỏi tội buộc ràng hỡi ông
    Cớ sao chiếu sáng mình ông
    Hai rồng phụ thể phò mà đế vương
    Không vua sau cũng Phật Thầy
    Cũng vì phước tướng sao mà bị vương.
    Tù nhân nằm khắp bốn phương
    Còn ông ngồi nghĩ tư lương thaœm sầu
    Chú Cai Đội khám lo sầu
    Chắc ông tấn phước lầm rồi Thầy ôi!
    Thầy than tôi cũng tù nhơn
    Xin thầy cùng cậu biểu tôi việc làm
    Thân tôi mắt thịt xác phàm
    Lâm vô tù tội ra mà khổ đa
    Làm người chịu chữ xấu xa
    Vô mà vòng tội khó ra đặng nào
    Tù nhơn lớn nhỏ lao xao
    Kẻ toan móc đất người hòng móc mương
    Thân tôi nghĩ lại đoạn trường
    Chú Cai thương lấy kính gì thân tôi,
    Khi xưa thì chú đánh tôi
    Mười roi để đó tôi nào dám quên
    Ơn cha nghĩa mẹ lâm đền
    Cứ theo lẩn quẩn chẳng nên đâu là
    Đời ông chí những đời cha
    Già không hung hiếp nhỏ mà quyền cao
    Thân tôi hoạn nạn xiết bao
    Lâm tù chịu tội đớn đau vô cùng.
    Năm giờ đuổi tội rùng rùng
    Roi mây bổ thí chẳng dùng tới ai
    Trong khám lại có thằng tù
    Đau chi không biết nửa ngày ngay đơ
    Sáng ra cho đúng bảy giờ
    Mới mở cửa khám đuổi mà tù nhơn
    Lính điểm coi lại sạch trơn
    Thiếu một thằng tù trong dạ hoảng kinh
    Vô xem nó chết lạnh mình
    Vô khiêng dập khuất chớ đừng để lâu
    Chú Cai nhớ thửa rồi kêu
    Có ông chiếu sáng tới cầu thử coi
    Thầy mau bước lại liền coi
    Lấy cát phun giải bịnh lành như xưa
    Chú Cai thầy Đội kinh hồn
    Đem ông nuôi dưỡng trong nhà tưng tiêu
    Trước kia dại dột rất nhiều
    Xin ông xuống phước cho trần một phen.
    Cậu ơi tôi phận nghèo hèn
    Có chi dung thứ vậy mà đội ơn
    Trước tù sau lại ráo trơn
    Áo vàng cậu lính tôi nay thân tù
    Năm năm phải chịu lao tù
    Chưœi cha mắng chú là loài thú sanh
    Ở tù đừng có hùng anh
    Tù nhơn có thuơœ mãn căn hồi thành
    Quyền cao tước xấu lưu danh
    Lột da tiêu diệt tanh banh chẳng còn
    Mão cao gót đỏ giường son
    Ngày sau văng mão làm con ở trần.

  8. #8

    Mặc định

    CHÚ THÍCH
    --------------------------------

    1. Đế: cây đế còn gọi cây lách là một dạng lau sậy mọc thành bụi hoang, thân nhỏ lá cứng, có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong văn học người ta thường nói lau sậy hoặc lau lách.

    2. Lý Thiết Hoài: còn gọi là Lý Thiết Quài hay Lý Thiết Quải, vị tiên đứng đầu trong Bát Tiên, học trò của Lão Tổ, tu luyện đạt khả năng xuất hồn, nằm bất động, hồn bay về Trời.

    3. Lữ Đồng Tân: hay Lã Động Tân, vị tiên thứ 6 trong Bát Tiên, tu luyện đạt thành tựu, thường hay giả dạng người bình dân đi kinh lý.

    4. Chú Cai thầy Đội: chức vụ trong binh lính thời Pháp thuộc, gồm 3 bậc: chức Cai tương đương Hạ Sĩ, chức Đội tương đương Trung Sĩ, chức Quản tương đương Thượng sĩ.

    5. Cò: cảnh sát thời Pháp thuộc.

    6. Tương truyền rằng Phật Thầy Tây An thường dùng phép ẩn thân, tàng hình hoặc xuất hồn.

    7. Tà Lơn: thuộc núi Cấm, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

    8. Láng Linh: xưa thuộc về làng Thạnh Mỹ Tây, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

    9. Quản Thành: Quản cơ Trần Văn Thành, một trong 12 người thuộc thế hệ đại đệ tử đầu tiên của Phật Thầy.

    10. Cậu Hai: người con đầu của Quản cơ Trần Văn Thành, tên là Trần Văn Nhu.

    11. Bùa: khi xưa Phật Thầy chữa bệnh cho dân chúng thường làm một tờ giấy vàng gấp nhò lại, bên trong ghi 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương, đã được Phật Thầy gia hộ linh lực vào đó. Tờ giấy này có tên gọi là lòng phái, và dân chúng thường gọi là đạo bùa.

    12. Bửu Sơn: chính là Bửu Sơn Các, hay trại ruộng Láng Linh do Phật Thầy lập nên.

    13. Ông Đình Tây, đệ tử của Phật Thầy, được Phật Thầy truyền cho phép chữa bịnh, và sau giao trông coi trại ruộng Thới Sơn.

    14. Con cá sấu có 5 chân, được thờ gọi là Ông Năm Chèo, có một sự tích gắn liền với Đức Phật Thầy Tây An về cá sấu này.

    15. Vàm Mặc Dưng: nay thuộc xã Bình Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

    16. Vàm Nao: nhánh sông nối liền sông Tiền và sông Hậu thuộc địa phận tỉnh An Giang, một bên bờ huyện Chợ Mới, bờ bên kia là huyện Phú Tân. Vàm do chữ Pàm hay Péam của tiếng Khmer biến ra, để chỉ nơi sông nhỏ, rạch nhỏ giao nhau với sông, cũng là cửa sông.

    17. Bằng Lăng: nay thuộc huyện Thốt Nốt, Tp Cần Thơ.

    18. Mỹ Hội: nay thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đông Tháp.

    19. Ông Từ giúp giới thiệu con gái ông Cả đến chữa bịnh. Khi cứu được con gái ông Cả thì ông Từ bị bịnh, hiện tượng này gọi là ông Từ sang nghiệp hay lãnh nghiệp cho con gái ông Cả. Muốn tránh hiện tượng này, bắt buộc con gái ông Cả phải tự xả nghiệp trước khi chữa bịnh. Theo nguyên lý Nghiệp của ai người đó phải trả Nghiệp.

  9. #9

    Mặc định Giảng xưa ở Tòng Sơn

    3. Nhũng lời giáo khuyên và những lời tiên tri

    Xảy đâu nghe tiếng đồn rân
    Vợ quan lớn Chánh đau mà phút chung
    Sanh ra bịnh nặng vô cùng
    Đêm ngày băng huyết rước thầy khắp nơi
    Xanh da vàng vọt vậy thời
    Chích đâm cũng đủ bịnh mà chẳng an,
    Ông rằng nghe tiếng đồn vang
    Có người tù ngục giỏi mà quá đa
    Ông liền mau lấy giấy ra
    Viết vô ít chữ lính hầu đem đi
    Lấy xe chạy riết một khi
    Rước thầy mau tới bất kỳ là ai.
    Thầy than tôi mắc án đày
    Đi ra sợ cậu đánh rày thân tôi!
    Lên xe kẻ kéo người lôi
    Tới quan lớn Chánh mỏ liền “mẹc xi”
    Ma đam dẻn mết anh ty
    Mẹc xi với mỗ măng ri mông sừ.
    Thầy mà chẳng biết tiếng người
    Mẹc xi dẻn mết vợ người đau lâu:
    Ông thầy chớ có buồn rầu
    Cứu đặng vợ mỗ mỗ liền cứu ra.
    Thầy liền cúi lạy thưa qua:
    Thân tôi tù tội thả ra khó mà
    Thầy kêu bớ cậu sếp ra
    Lá tràm một nắm kiếm mà cho tôi
    Một nắm nếp với lá rau
    Lớp thoa lớp uống bịnh rày mạnh không,
    Giã ơn ông ở tôi về
    Lo bề ở khám kẻo hồ nghi tôi,
    Chú Cai thầy Đội khám ôi
    Trời kia trăng lặn đánh tôi xin đừng!
    Chú Cai bước tới thưa ông:
    Tôi đâu dám đánh ông mà ngại nghi!
    Thầy rằng xin cậu nghĩ suy
    Hôm kia cậu đánh mấy cây rõ ràng
    Ông cha chí những lan tràn
    Mẹ cha không đánh cậu hồng đánh tôi!
    Mẹc xi dỷ mết thôi rồi
    Cao quan lớn chức sau ngồi móc trôn.

    Giỏi hay bá tánh tiếng đồn
    Vợ quan lớn Chánh bà đầm đau hung
    Miếng ăn miếng uống không dùng
    Đòi Thầy tới cứu tiếng đồn rất ngoa.
    Nghe ông cứu vợ chánh tòa
    Nếu không cứu đặng bà đầm đuổi ra,
    Cho lương mỗi tháng trăm ba
    Có giấy lục tỉnh đi ra cứu đời
    Mề đay (1) bốn cái mang chơi
    Ban cho cây súng thaœnh thơi vô cùng,
    Bảo xe chạy riết tới nơi
    Rước Thầy tới cứu cho mà bịnh thê
    Cứu đặng thì thaœ ông về
    Bằng không cứu đặng nhận mà xuống sông!
    Thầy xem nước mắt chảy ròng
    Ma đam tới số tôi không biết rồi (2)
    Chẳng thà ông giết thác tôi
    Đặng tôi thế mạng cho mà bà đây!
    Ông Tây bước lại nắm tay
    Bỏ ngay cũi sắt quăng ngay giữa dòng
    Tại đây ông đã dậy thời
    Bảy ngày nhận nước coi mà sống không?
    Cấp hai thằng lính giữ ròng
    Chắp tay niệm Phật mắc vòng gian nan:
    Thương thay thầy chú cậu nào
    Chúc cho mấy cậu sang giàu thăng lon
    Sanh con đẻ cháu nối giòng
    Làm quan thượng đẳng giết dòng nhà Nam
    Sang giàu phú quý chớ ham
    Sang giàu muôn kiếp ai làm nấy ăn
    Thân tôi chết nước nhăn răng
    Xin cậu ở lại làm quan trọn đời!
    Dứt lời đạp xuống giữa vời:
    Ông già tráo trát đổi dời khó nghe
    Giết ông cho tiệt chết đi
    Đừng lời nặng nhẹ nhiếc mà quân nhân.
    Có dây cột dụi để hờ
    Bây giờ xúm lại đặng mà kéo lên
    Quăng mơi chiều lại thấy lên
    Vẩn vơ ngoài chợ tại cầu ô ma
    Lính xem ngó thấy ông già
    Sao ông đi đặng vậy mà đi đây (3).
    Thầy rằng tôi ở chốn này
    Chú Cai xem kỹ giống rày hay không
    Ông nào ông liệng xuống sông
    Ông nào còn ở cậu không biết rồi
    Hay là con mắt thụt rồi
    Coi qua không biết cậu hầu lột lon.
    Chú Cai giận chạy bon bon
    Kéo lên coi có ông mà hay không
    Biến mình nhẹ tợ dường lông (3)
    Mau vô cũi sắt ở trong chốn này:
    Uống nước phát ách cậu ơi
    Sớm mai tới tối đói mà hụt hơi.
    Chú Cai chạy kiếm tơi bời
    Giống in ông đó đi thời mất tiêu
    Kéo lên nhận lút cho nhiều
    Năm ngày không có thấy ngồi chợ trưa.
    Chú Cai thấy sợ vô cùng
    Ông ơi xin chớ lên mà báo tôi
    Trong cơ caœ thaœy mấy ai
    Quan nào cũng sợ Thầy hay vô cùng
    Bảy ngày kéo cũi lên bờ
    Thầy ngồi ăn nói chẳng khờ hơn ai
    Gian nan Thầy chịu quá dai
    Nào ai có thấy vãng lai người nào
    Linh đinh thầy chịu lao đao
    Sống còn thắc mắc chớ sau gan vàng
    Thầy ôi phú quý muôn ngàn
    Giàu sang tiếp giúp bần hàn bỏ đi
    Bao giờ niệm Phật từ bi
    Hai con ở lại cha đi về trời
    Con đen xin chớ dễ dời
    Con mong ở lại cha thời tránh xa
    Từ ngày ở cù lao ba
    Hai con Thầy mới sanh ra đem về
    Bà ơi chín mẹ cùng tôi
    Vợ chồng siêu lạc việc chi buồn rầu
    Giã từ mấy cậu phiên bang
    Ngày sau mới biết ngày cùng ra sao
    Kiếp này phải chịu lao đao
    Tỏ cùng con cạn sống sao đừng buồn
    Đào hang móc lỗ luông tuồng
    Làm mòi phản quốc đừng buồn cậu ôi
    Lầu đài uổng kiếp làm tôi
    Ngày sau mới biết mưa tuôn hãi hùng
    Thương thay đình sập trôi đùm
    Miễu trung ít kẻ vào đường lân la
    Phố phường buôn bán quỷ ma
    Giấy tiền vàng bạc xé ra xài cùng
    Chúng sanh phải nhớ cờ cùng
    Điền vô nhơn chuœ lộ hành triệt giang
    Dòm đường chẳng thấy người ta
    Đàn bà sung sướng chẳng ra ngoài đồng
    Các nơi nào có buộc lòng
    Nước mà không xách lửa mà để cao
    Nóc mùng để nó quẹt mau
    Còn chê giỏi dở ngày sau đá mày
    Sướng thôi rụng gối châu mày
    Củi không có bửa vô ngồi sướng không
    Thầy ngồi bắt mạch ngó mong
    Từ đây sắp tới khó mong sống đời
    Quần sau áo rách một nơi
    Quần không có ống áo thời nửa lưng
    Chừng nào lộ thẳng Mặc Dưng
    Ngay vàm Xà Tón bâng khuâng thấy đời
    Chúng sanh nay đổi mai dời
    Tu thời ít có hung thời rất đông
    Đóng thuyền chờ trận gió giông
    Rước người trung đạo chớ không bỏ đời
    Tháng ba tiểu hội vui cười
    Tháng năm cóc khóc ếch cười cuốc la
    Trên bờ chật nức người ta
    Dưới sông thuyền đậu chật mà chơi vơi
    Đại bàng bay liệng khắp nơi
    Cùng là ác thú mãng xà quỷ vương
    Beo hùm tượng gấu đều ra
    Ai mà tu niệm khỏi sa miệng hùm
    Xương phơi là buổi chợ cùng
    Rách rưới che đùm là chánh Phật Tiên
    Tốt ham bỏ mặc dương trần
    Vải bỏ mắc quá gạo trần sụt lui
    Ngoại bang thâu góp quá lung
    Rách rưới thiếu đùm đừng có bỏ chê
    Ráng mà dành để chớ chê
    Đời nay quốc loạn chớ chê của hèn
    Thầy thương ở lại dạy trần
    Qua năm Bính Tuất thầy lần dạy con
    Đạo Phật càng riết càng mòn
    Ráng mà tu niệm đặng mà coi Tiên
    Nước Nam còn chúa rạng hiền
    Sai trăm quan cựu xuống trần giảng dân (4).
    Thầy mà khuyên khắp thôn lân
    Ráng tu tầm đạo để sau lụy mình
    Chúng sinh tom góp gia đình
    Đồ rách chớ bỏ để dành ngày sau
    Việc đời riết tới mau mau
    Việc khổ trước mắt chớ sau đâu là
    Nước Nam dường thể ngọc ngà
    Ngày sau các nước ai mà cũng theo
    Thaœm thương cơ nghiệp cheo leo
    Thầy mang đoạn thảm tớ không buồn rầu
    Tới nay là việc đáo đầu
    Khuyên trong bổn đạo ráng cầu Thánh Tiên (5),
    Xa nơi tửu sắc vui mừng
    Trà Vinh tạm ở ra mà cuốn kinh
    Xưng tên chánh hiệu mới linh
    Thánh thần Trà Ếch thượng vinh miễu thờ
    Buồn riêng nghĩ lại vẩn vơ
    Cần Chông cũng có nào hòng xứ mô
    Nam Vang Châu Đốc đều vô
    Long Xuyên Vàm Cống cũng vô theo thầy
    Rạch Giá là chợ vui vầy
    Thốt Nốt ở tạm tháng ngày Cần Thơ
    Trà Vinh sớm dật tối dờ
    Cần Chông, Sa Đéc, Bến Tre gần hòn
    Bạc Liêu sắp đến Sài Gòn
    Bến Tre cũng đến hao mòn thế gian.
    Vui buồn khổ sở hai phen
    Hà Nội cũng có thế gian ai tường
    Trà Vinh, Chợ Thủ bất tuân
    Ngày sau rốt cuộc Mặc Dưng có Thầy
    Vĩnh Tế lướt dặm tuôn mây
    Bà con lớn nhỏ theo Tây hại mình.
    Đạo riêng nhiều đạo rất linh
    Bá nhơn thứ đạo kể mà nghe chơi:
    Đạo Nho, Đạo Thích, Đạo Trời
    Trung quân kỳ đạo ai mà biết đâu
    Đạo Phật, Đạo Tưởng, Tam Kỳ
    Đạo chơn Minh Lý, đạo thời Gia Tô
    Đạo Tâm, Đạo Nguyện, Đạo Tiền
    Đạo không có cúng ông bà thắp hương
    Ăn cơm niệm Phật minh vương
    Đốt nhang cầu nguyện Phật thương đặng nào
    Giảng cơ khó định năm nào
    Thiên cơ bất khả lậu trào biết nhau.
    Nay tôi ở Chắc Cà Đao (6)
    Ông ba bà dạy bước mau thi bài
    Nói sơ ít tiếng tỏ bày
    Thiện nam tín nữ ôm lòng để coi
    Khuyên cùng mấy đạo con nòi
    Ai mà có biết xem qua thì tường
    Quý Mùi bá tánh gian nan
    Dương gian phải chịu vô hồi đắng cay
    Tháng ba chết sống sẽ hay
    Tháng mười Nhâm Ngọ ít cười khóc than
    Thương người tím ruột bầm gan
    Thây nằm như củi làn khan chất chồng,
    Tháng ba bá tánh khóc ròng
    Bị tần nó giết máu hồng tuôn rơi
    Tháng năm tháng sáu rụng rời
    Tháng bảy tháng tám sửa đời bá gia
    Lớp nào dịch khí binh ma
    Lớp nào ban trái lớp nào bịnh vương
    Mùa màng thất bát thaœm thương
    Ngó lên Bảy Núi tư lương trong lòng
    Có khi lửa cháy phập phòng
    Cháy lên Bảy Núi cháy vòng Đội Om
    Tháng mười giặc đánh có chòm
    Chúng sanh phải ráng lo phương tu hành
    Năm Dê tan rã đã dành
    Tang điền thương hải mới đành lòng dân.
    Nói xa rồi lại nói gần
    Hết lời kêu réo cho trần ráng theo
    Làm cho tới chết cũng nghèo
    Ráng theo một đạo hiểm nghèo cũng vui
    Mấy người chẳng có tin tôi
    Sau đây mới biết việc đời ô hô
    Bây giờ còn mạnh như bồ
    Lớn con mạnh quá ai xô núng nào
    Con Trâu nó lớn biết bao
    Có khi ngã xuống một giây tiêu tàn
    Con Dê khổ thấy rõ ràng
    Bần tăng sĩ khó phân tàn thế gian
    Không văn học võ cho toàn
    Đặng sau cứu thế giúp làng độ dân
    Nếu không nghe thửa lời ân
    Ngày sau rụng cánh rơi đầu đứt chân
    Năm Dê giặc đánh tưng bừng
    Cọp rống vượn hú nghe cùng khỉ la
    Hồng hoàng Cao cát (7) cũng ra
    Mãng xà chim nhạn bay ra khắp trờ
    Gớm ghê dòm thấy hỡi ôi
    Thây nằm máu chảy tràn đồng ghê thay.
    Năm Thân nhiều việc gắt gay
    Hội về Bảy Núi cát bay mịt trời
    Hết trông hết tưởng sự đời
    Vua ra cai trị dân thời tiêu diêu
    Chết sao chết rất là nhiều
    Hội nhau lục tỉnh cũng tiêu một giờ
    Dòm nhau như cá chạy lờ
    Dường như chẳng khác con khờ không cha
    Từ rằm cho tới tháng ba
    Người không có ngớt khóc la trong nhà
    Năm Dê cho đến năm Gà
    Hết trông thờ phượng ông bà mất công
    Tháng mười tôi sợ cuồng phong
    Tháng mười Nhâm Ngọ cuồng phong bất kỳ
    Nội trong ở nước Nam Kỳ
    Trúng đâu phải chịu hao mòn thế gia
    Mười phần hết bảy rõ ràng
    Chọn đi lựa lại hao mòn rất hung
    Thầy tu giữ dạ liệu dùng
    Thầy tu nhứt trí buộc ràng tiêu sinh
    Trời năm lâu quaœ một mình
    Phò mà cho thiệt cho xin hết tình
    Bao giờ tìm chúa của mình
    Nam mô bạc lại giữ gìn lòng ngay
    Chúng sanh phải chịu trời đày
    Đôi ba năm nữa châu mày lụy sa
    Tháng tư kỳ quyết tháng ba
    Ông bà tiêu diệt ra ma hết rồi
    Thế gian khổ sở lắm ôi
    Con Dê bị lửa khó ngồi trông đa
    Năm Thân hết thảy người ta
    Ông lên bà xuống nghì ngà còn chi
    Bây giờ chẳng biết tiên tri
    Ông nào cũng giỏi biết tri việc đời
    Nay mới đổi xác xa vời
    Biến hồn đổi xác cho mà biết nhau
    Chừng nào lở đất cù lao
    Chia phân thiên các với nhau mới rầu
    Ngày sau có chuyện thảm sầu
    Vàm Nao Ông Chưởng liền cầu dễ đi
    Bây giờ lời nói hồ nghi
    Biết chừng đó có hay không chuyện gì
    Minh vương ra trị vậy thì
    Tháng tám năm Ngọ lộ kỳ thẳng ranh
    Lúc này chưa thấy nghinh ngang
    Đến cơn rốt việc vái van khôn rồi
    Cội thung gieo ngọn bên gành
    Trước không niệm Phật cho đành lòng nhơn
    Bây giờ khổ tới bên chơn
    Nước toan vội đến nhảy đâu khỏi bờ
    Thấy con bé dại còn khờ
    Không cha vô chúa dật dờ nắng mưa
    Ráng tu đặng có lọc lừa
    Ngày sau Phật biết đặng chừa nó ra
    Xin đừng tin tưởng đạo tà
    Thấy lên ngúc ngắc vậy mà tiếp theo
    Ngày sau yêu phật hiểm nghèo
    Ông lên bà xuống vậy mà tiêu diêu
    Đời này ma quỷ rất nhiều
    Hết năm Nhâm Ngũ xuống lên cùng trời.
    Thế gian đừng có đổi lời
    Nay thương ông đó mai dời ông kia
    Ăn chay như cá dồn đìa
    Chừng nào nước ngập cá mà lội lên
    Ăn chay giữ dạ cho bền
    Bỏ quên tội phước không nên đâu là
    Bao giờ trong dạ còn tà
    Cứ theo lục thục bỏ qua cho rồi
    Việc tu đừng có lở bồi
    Tu tâm dưỡng tánh cho rồi mới nên
    Năm Dê nghĩ lại cho bền
    Tứ bề giặc giã không phương trốn rồi
    Mặc Dưng lộ thẳng cũng rồi
    Phố phường cũng khó an rồi mau ra
    Trên bờ giặc đánh hằng hà
    Lớp giặc lớp thú nó ra một lần
    Trốn đâu cho khỏi giặc Tần
    Kẻ quên người nhớ dạy lần cho nhau
    Cả kêu kìa bớ mấy em
    Ráng mau tầm đạo vậy mà riết theo
    Dưới sông chẳng có trống nào
    Hai bên ghe khít đậu vào nối đuôi
    Vui thôi như hội tầm vương
    Mãng xà cất cổ kêu người ngổn ngang
    Kẻ kêu người khóc nghe vang
    Ngọc ngư muốn nuốt thế gian muôn trùng
    Thôi thôi tiếng súng đùng đùng
    Gươm vàng khua lấy khác nào bắp rang
    Còn Thầy đứng chót Tây An
    Cả kêu thần tướng cứu an đem về
    Ngày nay cá nọ dồn đìa
    Hết cơn lưu lạc theo Thầy bớ con
    Ngày nay mới biết mất còn
    Chọn đi lựa lại hao mòn còn ba
    Hết trông hết đợi hết chờ
    Hết Dê tới Khỉ dật dờ bá gia
    Hằng hà sa số người ta
    Cộng đi lựa lại quỷ ma rất nhiều
    Kéo nhau đi cũng chật đường
    Bảy mươi hai thứ tranh đương chém đầu
    Nay trên núi Cấm có lầu
    Có cờ có phướn rọi mà chợ châu
    Gom nhau các nước đâu đâu
    Cùng nhau các đạo lủi đầu riết theo
    Đạo nào có giỏi mau theo
    Chợ châu lục quốc ùn ùn đẩy sang
    Hồi xưa Thầy nhớ Tây An
    Thầy dặn hồi trước khoan khoan hãy chờ
    Thấy con yếu đuối dật dờ
    Con ráng ở lại sau chờ Thầy ra
    Tự lòng bá tánh bôn ba
    Đừng theo chen lấn quỷ ma mà lầm
    Bây giờ ở lại không tầm
    Tự lòng tự ý nghe cùng hay không
    Đua nhau như cá ròng ròng
    Nôn nao chết sớm dật dờ còn đây
    Xúm nhau kết lũ kết bầy
    Một đạo xuống thế xúm bầy xưng vương
    Rủ nhau đi cũng chật đường
    Hết năm con Khỉ thấy đời bước sang
    Tháng sáu con Khỉ nước tràn
    Khỉ ăn trái gáo thân ngồi khô lông
    Năm Dậu bình địa khởi công
    Thương cho bá tánh hết lo giàu nghèo
    Còn ba tháng tới hiểm nghèo
    Rùng rùng ba tiếng nổ mà thành sông
    Xà Tón ra tới kinh Ông
    Đưa ra tới láng Bảy Thưa Ông Tà
    Thấy thôi ngớt mắt thay là
    Thấy số người chết thây mà mù u
    Thây nằm sắp lớp ruồi bu
    Sùng đục ruồi cắn ầm ầm quá ghê
    Máu người chảy xuống thấy ghê
    Khác nào nước suối chảy thôi ầm ầm
    Máu sa xuống biển Bảy Thưa
    Khác nào già nhuộm thấy mà hoảng kinh
    Bên la trống đánh ình ình
    Thương cho cô vãi chịu mà oan ương
    Thấy cô khổ sở trăm đường
    Cạo đầu tụng thiếu pháp trường phanh thây
    Thầy chùa trói quách ngoài cây
    Ăn tiền hối lộ cũng xưng ông thầy
    Mấy người đừng có châu mày
    Qua mặt trần thế qua mà thần tiên
    Tay cồn tay mõ nghe ran
    Kêu ôn rủa dịch vái van nhiều lần
    Bao giờ mình hại cõi trần
    Tiện cây làm tướng hại trần vái heo
    Đến sau lâm bịnh hiểm nghèo
    Ngũ hành chư vị mách mà quân sư
    Cho nên Trời Phật biết dư
    Oan oan thú vật biết đi phương nào
    Nơi nơi tâu cáo trong trào
    Làm thầy pháp lục rơi đầu vì đâu
    Bây giờ phải bỏ cho mau
    Cứ theo niệm Phật trước sau đặng nhờ
    Núi Sam bảng đá trương cờ
    Làm ra nhà việc xử mà bá gia
    Núi Bà nhà ngói Minh trào
    Bảy Núi chứa ngọc chứa vàng chứa quan
    Bà Đội cơm nấu cho quan
    Ông Tô làm khám chứa hàng lục châu
    Núi Tượng chứa lửa củi châu
    Ông Két chứa thánh chứa âu người lành
    Núi Sam Thầy ở phân rành
    Quân sư nhà Hớn thuộc rành nhà Nam
    Cứ theo pháp luật Thầy làm
    Sâu nào rau nấy chớ cho ai rờ
    Các con sao lại quá khờ
    Nói sơ mách lối với mà lục châu
    Bây giờ bây biết khấu đầu
    Binh nào tướng nấy vào chầu vinh râu
    Thầy ra tiếng đạo chém đầu
    Gia tô tội quá chém đầu tru di
    Tại mầy trước buổi chẳng y
    Hồi quá thập tự cũng nghi vào lòng
    Chúa mày tao cũng biết xong
    Hồi đời Tự Đức mãn đời Gia Long
    Phá thành phá lũy thành sông
    Hồi đời Cường Để tới nay khó lòng
    Hội nhau như cá ròng ròng
    Có ông Ương Chiếu qua mà đầu Tây
    Nhập môn đốt hết thuốc này
    Đốt hết kho thuốc theo Tây trọn đời
    Mày hại mày báo nhãn tiền
    Rủ nhau mà chạy vua mà bỏ ngai
    Gom nhau chém đạo một lần
    Ngày sau sống sót kiếm hồn tru di
    Hết năm Dậu mới tường tri
    Thầy lên làm soái Tuất đây năm này
    Bao giờ tam giáo hiệp vầy
    Biết nhau hay dở đông tây hiệp hòa
    Năm Tuất nối nghiệp cửa nhà
    Bà lang làm chúa lên mà từ công
    Dẹp âu thế sự chưa xong
    Thằng nào chớn rớn chém trong pháp trường
    Nước Nam bênh vực vậy thì
    Lần lần dạy dỗ theo y lời truyền.

    Năm Tuất còn hỡi chưa yên
    Phân ngôi chiếm thứ tới mà nghe chơi
    Đào Lư công chúa vậy thì
    Hoa Kỳ tiếp sức hại thì nhà Nam
    Đố ai cất nổi việc làm
    Thoại Ba công chúa văn phàm tiếp theo
    Đào Lư phép thuật hiểm nghèo
    Phi sa tẩu thạch đốt mà lửa bay
    Làm cho cây ngã đá tan
    Hô phong hoán võ chật đàng binh âm
    Nước phun lửa cháy sáng lòa
    Tối trời tối đất ba ngày dường đêm
    Thoại Ba tâu trước thiên đình
    Cho tôi kim đính ba tiêu tôi cầm
    Ba tiêu mượn của Phật Bà
    Hồ lô mượn của ông mà Xích My
    Nếu không giết nó để chi
    Nếu mà để vậy chết đi không còn
    Thế Tôn dòm thấy hao mòn
    Tâu thêm hết sức với mà chơn nhơn
    Lãnh phù lưới sắt hết trơn
    Đằng vân giá võ xuống ra phép tài
    Sa xuống dòm thấy Hoa Kỳ
    Đào Lư lướt dặm tiếp thì nước Ngô
    Thoại Ba bước xuống liền hô
    Thoại Ba cất tiếng xin cô liền dừng
    Đào Lư bói quẻ liền mừng
    Địa tiên đâu dám sánh cùng Thiên tiên
    Hồ lô phong hóa hô liền
    Đào Lư phun lửa dính liền thâu vô
    Đào Lư biến phép liền hô
    Thoại Ba lại hóa lưới trời quăng ra
    Lớp đi lớp ở lớp hà
    Đào Lư giận quá hóa ra tối trời
    Tư bề kiếm chém khắp nơi
    Thiên la địa võng bủa ra khắp trời
    Phi đao mắc lưới hết rồi
    Hóa ra cồn lớn tư bề không chân
    Kim Đính thấy vậy dửng dưng
    Kêu Thầy bốn tiếng tiếp con phen này
    Rồng vàng thanh bạch rồng mun
    Bốn con đỡ lấy dậy thời cù lao
    Bây giờ thế sự không sao
    Thoại Ba liền hóa ba tiêu huờn hình
    Coi đi ngó lại vậy thì
    Con Ngưu độc giác giống hình yêu tinh
    Đem về Phật Tổ hành hình
    Sút chuồng nó chạy dân tình thác oan
    Cầu cho ông thánh Tây An
    Sau đây cầu Phật thế gian lưu truyền

    Hết

  10. #10

    Mặc định

    CHÚ THÍCH
    ----------------------------

    1. Mề đay: huy chương

    2. Trong chữa bệnh tâm linh, cho dù năng lượng vô hình rất cao nhưng không phải trường hợp nào cũng cứu chữa thành công. Nguyên nhân người bịnh có Nghiệp Quả rất nặng, không thể giải Nghiệp được, và đã đến ngày giờ phải về với ông bà tổ tiên.

    3. Phật Thầy Tây An phân thân xuất hiện nhiều nơi.

    4. Nước Nam đựơc Phật Thầy dự báo là địa linh, vùng đất của Đạo, rất nhiều vị giáng thế tại nước Nam.

    5. Thời kỳ Thánh Đức.

    6. Chắc Cà Đao: Chắc Cà Đao trước là Hoà Bình Thạnh, nay thuộc thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

    7. Hồng hoàng, Cao cát: loại chim mỏ lớn, sống vùng núi cao, rừng thẳm. Chim này xuất hiện ở đồng bằng khi ở vùng núi rừng có chiến tranh, bom đạn.

  11. #11
    damquangvinh
    Guest

    Mặc định

    mô phật !
    có những cái tên , địa danh ......hay là gì đó ..vinh đọc mãi ko hiểu .
    mô phật !
    có đệ tử nào phát tâm giảng giải thì hay quá ạ .
    cảm ơn anh LTL nhiều ạ .

  12. #12

    Mặc định

    Chào Anh Love-Tamlinh. Tôi đang cố gắng tìm hiểu về Đạo Việt và Bửu Sơn Kỳ Hương thì tìm thấy một loạt bài có đề tài BSKH do anh post trên TGVH.com. Thật là hữu duyên cho tôi! Chân thành cám ơn anh. Tại vì tôi mới tìm vào TGVH.com cho nên thật tình chưa biết 'ai là ai' hết, chỉ mới đọc vài bài của dienbatn, sau đó biết được ông có tên là Bùi Quốc Hùng. Hôm nay đọc bài của Anh và thấy nhiều người gọi Anh là "huynh" thành ra tôi cũng gọi là ... Anh. Xin lỗi nếu như phạm thượng, Anh nhé. Mạo muội xin hỏi Anh một việc: Anh có quen, có biết, có nghe, ... hay có bài viết nào nhắc đến hai lão tiền bối trong Đạo BSKH, có quý danh là Phan Thị Cảnh (tôi gọi là Bà Cô) và người sư đệ là ông Sáu Nổi hay không? Những tin tức về hai cao nhân này mà tôi có được như sau: Thứ nhất về Bà Phan Thị Cảnh: Khoảng trước năm 1945, Bà Cô từ Long Xuyên lên Tây Ninh. Bà có thuyền đậu dưới bến chợ cá Tây Ninh. Bà có nam nữ đệ tử cùng sống trên thuyền và thuyền cũng là "Phòng Thuốc Nam" của Bà. Khi có quá đông bịnh nhân phải nằm điều trị lâu, thì Bà Cô cùng đệ tử lên "độn" đất, là rẫy trồng trọt của Bà (nuôi đệ tử), nằm dưới chân Núi Bà. Năm 1957, Bà Cô ở tại Long Xuyên. Từ chợ cá Long Xuyên phải dùng thuyền nhỏ ra sông mới đến thuyền lớn của Bà Cô ngoài khơi. Chung quanh thuyền lớn là những "thuyền bịnh nhân". Bà cũng có độn đất ở Long Xuyên. Và tin cuối cùng, không rỏ là vào năm nào, Bà Cô tịch ở Sóc Trăng. Về người thứ hai là Ông Sáu, với danh hiệu là Cậu Sáu Nổi, tại vì Ông Sáu "ngồi" nổi trên mặt sông, vỗ tay xuống nước tung tóe. Rồi thì có những người chỉ khởi ý nghĩ muốn đi gặp Ông, thì chưa ra khỏi nhà, đã thấy Ông đứng trước cửa. Một lần, tại trong dinh Gia Long, khách tham dự phải có giấy mời, vậy mà Ông Sáu - mặc bộ đồ "xe thổ mộ" - ung dung xuất hiện bên cạnh người muốn gặp Ông, khiến người ấy sững sờ .... Ông nói:"Sau này con vào đây với tư cách khách lớn chứ không phải (...) như hôm nay đâu". Chỉ 6 tháng sau, người này ...thay đổi vị trí, y như lời Cậu Sáu Nổi tiên đoán!
    Nhận được tin nhắn này, xin anh Love-Tamlinh hoan hỷ trả lời lại cho tôi nhé! Chờ tin anh. Trân trọng kính chào.
    CUUBAOLONG

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi CUUBAOLONG Xem Bài Gởi
    Mạo muội xin hỏi Anh một việc: Anh có quen, có biết, có nghe, ... hay có bài viết nào nhắc đến hai lão tiền bối trong Đạo BSKH, có quý danh là Phan Thị Cảnh (tôi gọi là Bà Cô) và người sư đệ là ông Sáu Nổi hay không? Những tin tức về hai cao nhân này mà tôi có được như sau: Thứ nhất về Bà Phan Thị Cảnh: Khoảng trước năm 1945, Bà Cô từ Long Xuyên lên Tây Ninh. Bà có thuyền đậu dưới bến chợ cá Tây Ninh. Bà có nam nữ đệ tử cùng sống trên thuyền và thuyền cũng là "Phòng Thuốc Nam" của Bà.

    Về người thứ hai là Ông Sáu, với danh hiệu là Cậu Sáu Nổi, tại vì Ông Sáu "ngồi" nổi trên mặt sông, vỗ tay xuống nước tung tóe. Rồi thì có những người chỉ khởi ý nghĩ muốn đi gặp Ông, thì chưa ra khỏi nhà, đã thấy Ông đứng trước cửa.
    Chào huynh CUUBAOLONG, những chi tiết huynh kể về các lão tiền bối thể hiện đúng kiểu của các vị Bửu Sơn Kỳ Hương, thường hay chữa bịnh và có những khả năng đặc biệt. LTL sẽ dựa vào lời kể của huynh và hy vọng sẽ sưu tầm thêm về cuộc đời hành đạo của các vị. Thân ái.

  14. #14

    Mặc định

    SẤM TRUYỀN
    Đức Phật Thầy Tây An

    Nguyễn Văn Hầu Biên khảo – Phiên âm – Chú thích
    Xuất bản 1973



  15. #15

    Mặc định

    Tuế thứ Kỷ Dậu niên
    Nhuận nhị ngoạt nhị thập thất nhựt


    Đồ Trương trợ bút, nhứt quyển giảng

    Đoạn 1

    Thừa nhâm (1) Hổ Cứ (2) bước sang,
    Tháng heo (3) giáo giác kiếm đàng chạy ra.
    Nhiệm mầu vui đạo Thích Ca,
    Thiền môn hứng chí Di Đà lòng chuyên.
    Nương thuyền bát nhã cho yên,
    Vào non ngũ uẩn tín thiềng sùng tu.
    Hiếu trung trọn (4) giữ một câu,
    Bãi tiên suối hạc cầm câu đợi chờ.
    Liếc xem thuyền bá bơ vơ,
    Sóng khơi biến thảm dật dờ sông mê!
    Bớ ai ăn ở vụng về,
    Không lo nước lửa nhiều bề chông gai.
    Bởi mình, ai dễ mặc ai,
    Để cho sa sẩy mình chôn lấy mình.
    Phật Tiên chí hiển chí linh,
    Một câu chánh niệm thì mình thảnh thơi.
    Ai ai cũng ở trong trời,
    Nhơn từ phải giữ đừng lời trớ trinh.
    Biển đời cuộc thế thình lình,
    Thiện tồn ác thất (5) thiên đình số phân.
    Vần xây thế giái phàm trần,
    Sự mình không biết mưu thâm ở người.
    Hư nên nhờ phận, Phật Trời,
    Non băng đất lỡ giữa vời linh đinh.
    Phải làm như bổn nhựt trình (6)
    Trẻ già xin nhớ giữ gìn mà coi.
    Niên như điển, nguyệt như thoi (7).
    Vần xây thế giái luân hồi chẳng chơi!
    Có người thiện nữ truyền lời,
    Nhứt Vân thiên lộ máy trời thinh thinh.
    Nhị Vân thánh ứng quang minh,
    Tam Vân triều hội gia đình phân vân.
    Ngó xa xem cũng thấy gần,
    Xa gần gió tạc bụi trần sạch không.
    Hắc đầu tử, bạch đầu ông (8)
    Bớ người dương thế sao không coi đời.
    Đạo vơi vơi, đạo vơi vơi,
    Đường xưa cảnh cũ lập đời sửa xây.
    Buồn khoanh tay, buồn khoanh tay!
    Thấy trong con tạo khéo xây lạ lùng.
    Đời bạo ngược ít (người) hiếu trung,
    Miệng thời toan tính, lòng dùng mưu sâu.
    Thiện phùng thiện ác đáo đầu,
    Oan oan tương báo ai hầu cứu cho.
    Thằng mà tính, thẳng mà lo (9)
    Thiên đường hữu lộ phải dò nẻo đi,
    Nghe chi những tiếng thị phi,
    Trách con mắt thịt vậy thì chẳng coi.
    Mở hai con mắt thồi lồi,
    Nước xao sóng dợn ầm ầm bên tai.
    Cực bớ ai, cực bớ ai.
    Cám thương trần thế dạy hoài không nghe.
    Nước gần lớn gió đưa bè,
    Giữ cầm lèo lái một bề thuận theo.
    Dặm cheo leo, cảnh cheo leo.
    Một mình khó nỗi chống chèo đặng đâu!
    Làm sao chẳng xét trước sau,
    Khinh khi chú lái ai hầu rước đưa.
    Người đời như buổi chợ trưa,
    Tan rồi lại hiệp, hiệp tan mấy hồi.
    Khóc lỡ khóc, cười lỡ cười,
    Tình tang hỡi bậu, cạn đời còn chi!
    Lệ lâm li, lụy lâm li,
    Thương chăng thương kẻ từ bi giữ lòng
    Lọc nước trong, lọc nước trong,
    Sợ chi lũ kiến chòm ong chơi bời,
    Ăn nhịn miệng, nói nhịn lời,
    Mặc tình thế sự chê cười mặc ai!
    Dốc cầu đặng chữ Như Lai,
    Phủi câu danh lợi mặc ai tranh tài.
    Cảnh thiên thai, chốn thiên thai,
    Chí công luyện sắt giồi mài nên kim.
    Cảnh rất nghiêm, cảnh rất nghiêm,
    Muôn thu xây dựng khó tìm đặng đâu.
    Buồn dàu dàu, buồn dàu dàu,
    Hỗn ngươn xoay lại đời nay mơ màng.
    Mèo kêu vang, mèo kêu vang.
    Rắn rồng sợ chạy vào ngàn ẩn thân.
    Ngọn cờ phất, trống thùng tan,
    Kẻ lên người xuống hai đàng khác nhau.
    Quặn ruột đau, quặn ruột đau,
    Phật Tiên thương chúng dạ sầu héo khô.
    Gắng công (thường) lục tự nam mô,
    Họa may cá suối gặp hồ liên hoa.
    Phật trời lòng lại xót xa,
    Giáo trong thiện chúng Long Hoa mà nhờ.
    Gió đưa ngọn cỏ phất phơ,
    Sẽ coi cuộc thế như cờ bị vây
    Cảnh đã xây, cảnh đã xây,
    Nhành lai đời khác, đổi thay cuộc đời.
    Xem trong máy tạo hết rồi,
    Ngửa ngiêng biển thẳm rã rời bờ ao!
    Thuyền ai chạy tới sông đào,
    Thuyền ông Bát nhã Phật vào độ dân.
    Khuyên người sớm xả bụi trần,
    Dắt cho khỏi chốn mê tân bớ người!
    Súc sanh ngạ quỉ là loài,
    Màng chi những chốn lạc loài đọa thân
    Tây phương thắng bước chơn lần,
    Hưởng nhờ muôn thuở bửu châu thiếu gì.
    Tín thành truyền dạy vân vi,
    Bớ người lớn nhỏ sao không giữ gìn!
    Nay xem cảnh thế thình lình,
    Vô thường quỉ dẫn ai binh đặng nào.
    Sớm còn tối mất lao đao,
    Tỉ như trời chớp, sáng nào đặng lâu.
    Dặm canh thâu, dặm canh thâu!
    Thở than than thở lo âu cho đời.
    Nghĩ trong cuộc thế vơi vơi,
    Khổ tăng gia khổ trong đời gian nan.
    Kìa kìa quỉ mị khởi loàn,
    Xà thương hổ giảo (10) đa đoan hội này.
    Phần thời giặc giã phủ vây,
    Phần thời đói khát thân rày chẳng yên.
    Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên,
    Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi.
    Đã hết lời, đã hết lời,
    Khuyên răn dạy biểu cho người thiện duyên.
    Trách lòng nhiều sự chẳng kiêng,
    Ốm đau cầu giảm, an thuyên chẳng màng.
    Biển sanh những sự tà gian,
    Hủy tăng phá giới (11) lòng toan hại người.
    Thế nay cạn , sự đã rồi!
    Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Ngươn.
    Chuyển luân thiên địa tuần hườn,
    Hội này thấy lửa tàm lam cháy mày.
    Ít ai tỏ biết đặng hay,
    Ví như cầm chén rủi tay bể rồi!
    Thầy xưa lời dặn hẳn hòi,
    Thực nhơn nhơn thực đến hồi chẳng không.
    Oan oan tương báo chập chồng,
    Tham tài tích đại, (12) mình không xét mình.

  16. #16

    Mặc định

    Đoạn 2

    Khiến xui phụ tử tương tranh
    Cha không lành thảo con lành đặng đâu
    Trung quân, phụ tử (13) làm đầu,
    Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào?
    Trời xui trăm vật trăm hao,
    Để cho đồ khổ, xiết bao nhọc nhằn.
    Ngọn phù thủy (14) cuộc đất xây,
    Rồng nằm đáy biển, sông hằng hứng sương.
    Bao giờ hưởng thọ Kỳ Hương (15)
    Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài.
    Sanh thân này khổ bớ ai,
    Trăm ngàn việc khổ chất hoài vô thân
    Phú hết phú, bần hết bần,
    Thân vong tài tán quan dân cũng đồng.
    Khiến xui vợ lại giết chồng,
    Con mà hại mẹ tình không yêu vì.
    Anh em đồng khí tương li
    Quân thần phản nghịch thế thì (16) Hạ Ngươn
    Đổi dời hải thủy băng sơn,
    Tiêu đường quỉ mị, nghĩa nhơn Lập Đời.
    Tam Ngươn qui dựng lại rồi,
    Tang điền thương hải rã rời đổi xoay.
    Lần lần tay tính tối ngày,
    Người nay như thế thấy rày lại không
    Chữ rằng nhơn vật dữ đồng (17)
    Vật còn biết tánh người không tỏ tình.
    Ngồi buồn than trách một mình
    Thương trong thế sự thình lình tiêu tan.
    Đua nhau rượu thịt nghinh ngang,
    Chưỡi cha mắng mẹ, nhiều đàng ngược xuôi.
    Biến sanh thấy sự hẳn hòi
    Tử nhi vô hối (18) hết đời tà ma
    Nhiệm mầu thuyền đạo Thích Ca,
    Quan Âm (19) cứu khổ, Di Đà độ sanh.
    Non đoài giữ dạ tín thành,
    Thầy cho Cư Sĩ học hành chưa thông.
    Anh em ai có phục tùng,
    Theo tôi học đạo phải dùng tai nghe.
    Phật truyền chưởng thọ Bồ Đề,
    Giữ câu minh chánh chớ hề sai ngoa.
    Muốn cho vào (20) chốn ta bà,
    Phương tiện bố thí hà sa phước gìn.
    Kỉnh Trời kỉnh Đất, Thần Minh,
    Tông môn phụng tự giữ toàn Tứ Ân.
    Sanh tại thiên hiếu song thân,
    Một hậu vi nghĩa ân cần sớm mai.
    Trung quân lòng giữ chẳng sai,
    Giồi câu tiết chánh tỏ bày bia son.
    Mình tu phải dạy cháu con,
    Đạo truyền kế đạo Phật môn lâu dài.
    Thích Ca Phật tổ Như Lai,
    Lục niên tân khổ chẳng nài nhọc công.
    Đến nay về hạ thần long,
    Tỉ như thuyền nhỏ bị phong giang hồ.
    Di Đà lục tự Nam mô,
    Vãng sanh Tịnh độ ra vô thanh nhàn.
    Thoát nơi khổ hải mới sang,
    Lánh vòng trần tục khỏi đàng tử sanh.
    Phận tôi Cư Sĩ tín thành,
    Thầy truyền dạy chúng làm lành tu thân.
    Hạ ngươn cuộc thế cũng gần,
    Tỉnh tâm tự giác ân cần cho mau.
    Chuyện tu chẳng khó ở đâu,
    Lấy câu bố thí làm đầu rất nên.
    Thiên thần biên chép đôi bên,
    Thiện tăng ác giảm hư nên lời truyền.
    Thưở xưa Phật dạy chẳng tin,
    Kẻ nghe người bỏ, nói mình khôn ngoan.

  17. #17

    Mặc định

    Đoạn 3

    Tham tài dưỡng vật đa đoan,
    Để nuôi thân thịt không toan nghe lời.
    Sát sanh hại vật ăn chơi,
    Gian phu dâm phụ nhiều lời trớ trinh.
    Thấy rồi mình lại tủi mình,
    Nói ra thời tệ làm thinh thêm sầu.
    Cao bay xa chạy khỏi đâu,
    Mắc trong lưới nhặt dãi dầu khá thương.
    Phật Tiên tương hội ai tường,
    Cứu sanh độ tử mỗi đường trần gian.
    Giáo khuyên trần chúng nhiều phang,
    Giữ câu nhẫn thiện lòng toan tu hành.
    Chứ (21) lời đừng có đua tranh,
    Bồ Đề một hột tâm thành đặng siêu.
    Long Hoa thắng hội tiêu diêu,
    Dữ lạnh đến đó mai chiều sẽ hay.
    Phận mình Cư Sĩ dám bày,
    Luật nghi phép tắc diễn bài tỏ ra.
    Nhứt Ngươn Đức Phật Thích Ca,
    Giáng sanh cõi thế Long Hoa hội kỳ
    Người sanh bá tuế sở qui,
    Bá niên giảm thọ hạ di thiếu thời.
    Giảm chí tâm thập đến nơi,
    Người cao ba thước là đời cơ nguy.
    Tai ương khỗ não nhiều kỳ
    Giảm chí vậy thì nay thiệt chẳng sai
    Người cao hai thước chẳng dài,
    Ôn hoàng tật bịnh liên lai khốn nàn.
    Giảm chí thập tuế bước sang,
    Người cao một thước tai nàn bớ dân.
    Thiệt là đại biến phàm trần,
    Vạn nhơn nam nữ thẳng lần sơn trung.
    Sách còn ghi nói chẳng không,
    Con gái có chồng ngũ ngoạt thành song.
    Mạt hạ phong tục long đong,
    Thần hôn (22) quốc loạn người không y người
    Oan hình, lao ngục khắp nơi,
    Nhãn tiền tựu thị (23) là nơi để dành.
    Thác về lục đạo tứ sanh,
    Tiền đạo, nhơn đạo phước mình thảnh thơi.
    Tu la, Ngạ quỉ là loài,
    Súc sanh, Địa ngục nhiều tai khốn nàn (24)
    Tứ sanh phân nói rõ ràng,
    Noãn, thai, thấp, hóa là phang luân hồi (25)
    Trì trai, giái sát bớ người,
    Cảnh trên Tịnh Độ là nơi để dành.
    Làm người cho biết hiền lành,
    Vãng sanh vi đại cứu chư các loài
    Thánh thần minh chánh thiện tai (26)
    Ác sát mỗi vật đầu bài vi tiên,
    Chúng sanh nhiều việc đảo điên.
    Sát sanh hại mạng không điên đất trời.
    Đổi thừa sát hại ăn chơi,
    Sau về địa ngục tội hành không dung.
    Sát hại tà dâm tội hung,
    Vọng trôn trá ngữ thiên công gia hình.
    Lưỡng thiệt ác khẩu trớ trinh,
    Người tuy chẳng thấy, tội mình nhiều thay.
    Tham lam gian giảo vậy vay,
    Ngục hình dành để đợi khi luân hồi
    Bất hiếu phụ mẫu nghịch lời,
    Cha sanh mẹ dưỡng là nơi ơn dày.
    Âm quan (27) về đến mới hay,
    Hành hình phân xử đêm ngày khóc than.
    Bất kính Tam Bảo rõ ràng,
    Khinh khi Phật Pháp nhiều đàng thinh linh.
    Làm người tự giác tự minh,
    Phật tiên mến tưởng Thiên đình cũng thương.
    Tu tâm tu tánh giữ thường,
    Tu trong kính giáo Phật Đường truyền ra.

  18. #18

    Mặc định

    Đoạn 4

    Tu tánh tu hạnh nết na,
    Tu câu Lục tự Di Đà đừng quên.
    Tu hành hiếu nghĩa đôi bên.’
    Tu cang tu kỷ gắng bền hiếu trung.
    Tu nhơn tu đức để lòng,
    Tu trau vóc ngọc lấm bùn đừng mang.
    Tu công bồi đấp miếu đàng (28)
    Tu tài bố thí việc gian thì đừng
    Tu cầu thánh tọ thiên xuân,
    Dân khương vật phụ (29) khỏi oan cơ hàn.
    Tu cầu vạn hải thiên san,
    Hà thanh hưng vượng (30) vạn bang thái bình.
    Thần hôn (31) lạy Phật đọc kinh (32)
    Lạy Thầy đức hóa tái sanh đạo mầu.
    Sông sâu cá lội thấy đâu,
    Minh mông trời rộng chìm hầu bay cao.
    Giác thời đặng hưởng thiên đào (33)
    Mê thời địa ngục, ngày nào đặng sanh?
    Tay mình lại chặt lấy mình,
    Mắt thời thấy đó làm thinh không rằng.
    Tai nghe tội phước lăng xăng,
    Đau thời tưởng Phật, hết rằng thời thôi!
    Kiếm lời dễ cảm khua môi,
    Khen chê phải chẳng nói thôi chi màng.
    Dị đoan án nội rõ ràng,
    Diêm đình tội để khó toan luân hồi.
    Kinh rằng Phật dạy cạn lời,
    Giác thời đặng thấy, mê thời thấy đâu.
    Chốn vui chốn khổ thêm sầu,
    Đục trong hai ngã toan âu nẻo nào?
    Hửu duyên đặng hưởng quyền cao,
    Vô duyên lại gặp thân sau cơ bần.
    Lời vàng tạc để thiên lân (34)
    Có đâu trễ nải quá chừng dân ôi!
    Nước non nay đã cạn rồi,
    Nào hay vội lỡ một hồi Pháp Cơ.
    Mê man nhiều nỗi dật dờ.
    Hồn bay phưởng phất như tơ lộn cuồn.
    Thoát qua như ngọn tên bay,
    Khác quê, khác xứ, khác nay thú cầm.
    Đêm ngày mù mịt tối tăm,
    Hồn sa phách lạc mới nên luân hồi.
    Mở mang xoay lại Lập Đời,
    Khoác loài thú vật khác người tân dân.
    Còn người Phật Thánh Tiên Thần,
    Yêu ma nào có loạn trần được đâu!
    Tóm thâu thể giải một bầu,
    Phật trời phân định đâu đâu thái bình.
    Nay đà gặp Phật giáng sanh,
    Khá khuyên bá tánh làm lành tu thân.
    Sự đời xem thấy cũng gần,
    Trở người trở vật trở năm trở ngày.
    Trở ăn trở mặc bằng nay,
    Trở chồng, trở vợ, trở vì quân vương
    Trở non, trở núi, trở vườn,
    Trở trâu trở ruộng trở đường nào ra.
    Trở thời trở tiết những là,
    Trở cây trở trái bông hoa trở kỳ.
    Trở bậu trở bạn cố tri,
    Lời ăn tiếng nói vậy thì khác xưa.
    Trở lòng, ăn nói đẩy đưa,
    Trở căn trở bịnh thuốc xưa trị nào!
    Đời nay ma quỉ loạn vào,
    Pháp linh phù thủy cứu nào đặng chăng!
    Làm người chớ cậy tài năng,
    Mai thì thấy đó, tối rằng thấy đâu.
    Có khi hơi thở ra vô,
    Đứt hơi nào biết qui mô chốn nào!
    Sanh tiền mình chẳng biết sao,
    Tử về âm cảnh hồn vào ngục môn,
    Nhứt nhựt tam đả oan hồn (35)
    Oan thân nghiệt trọng ai hiềm cứu cho
    Nhãn tiền sao chẳng biết lo,
    Sông không cầu bắc mướn đò ai đưa?
    Để cho khát nước quá trưa,
    Ra công đào giếng cù cưa đặng nào.
    Thuở còn trai tráng dương bao,
    Sao không tụ tập già nào biết đâu.
    Xưa sanh tánh thiện làm đầu,
    Lớn khôn tích ác mình âu hại mình.
    Thiền sanh nhơn hữu tánh linh,
    Mê trần mê lẫn tại mình trách ai.
    Tôi làm một mảy chẳng sai,
    Xin người tự hối giồi mài tánh linh
    Để cho mình buộc lấy mình,
    Thê thằng tử phược (36) linh đinh không rời.
    Ta bà là (37) chốn thảnh thơi,
    Vui câu bát nhã gần với ma ha.
    Đói thời nhờ ruộng Thích Ca,
    Khát thời nhờ nước Phật Bà dưỡng thân.
    Lời Thầy xưa có cạn phân,
    Nương câu thanh tịnh dõi lần đường mây.
    Mặt trời chinh xế bóng cây,
    Giồi câu tứ trí tánh hằng học khôn.
    Tu hành chi luận giàu nghèo,
    Vùa hương bát nước mai chiều giữ coi.
    Hữu tình Trời Phật xét soi,
    Màng chi nhiều ít heo đòi không nên.
    Lưỡng thần cầm sổ đôi bên,
    Chép ghi tội phước tâu lên cho người.
    Ngọc lành sao chẳng trau giồi,
    Sá chi phấn thổ (38) vui cười tay trao.
    Chẳng coi trước, chẳng nhằm sau,
    Người nay như mộng thấy đâu cho bền.
    Gương loan sáng tỏ dưới trên,
    Ngựa hồng cất chạy xuống lên hai đường.
    Phất qua như bóng nguyện quang,
    Khi tròn khi khuyết nở tàn dưỡng bao.
    Hoa đông hồi lại xuân qua,
    Nhỏ không tu tập thì già biết chi!
    Buông lời nói chẳng kính vì,
    Biết đâu phép tắc lễ ngi chuyện nào.
    Sanh thân này khổ biết sao,
    Để cho sa sẩy kiếp nào đặng sanh!
    Khá khuyên cải dữ làm lành,
    Sùng tu Tam Bảo học hành cho thông.
    Rắn còn tu đặng thành rồng,
    Làm người sao chẳng xét trong thân mình.
    Để cho thân chịu linh đinh,
    Tai kia họa nọ biến sanh mọi bề.
    Dương là cảnh, âm là quê,
    Phước mình gánh vác đặng về cảnh xưa.
    Hữu duyên Thần Thánh tiếp đưa,
    Vì mình thiện niệm sớm trưa lần hồi.
    Vắn dài lời nói cạn rồi,
    Lạy Thầy trở lại phản hồi bổn gia.
    Lầm thầm miệng niệm Di Đà,
    Tay lần chuỗi hột lòng ta giữ lòng,
    Kỉnh dưng Minh Chúa hưng long,
    Dân khương vật phụ thiên xuân thái bình
    Phụ từ tử hiếu trung trinh,
    Hà thanh hải yến, (39) an ninh trong ngoài.

    (Hết)

  19. #19

    Mặc định

    CHÚ THÍCH

    (1) Phải chăng muốn chỉ vào thiên can lúc Đức Phật Thầy trở về Hổ Cứ! Theo đó thì sau Kỷ dậu ba năm, là đến năm Nhâm tí (1852). Lúc đó Đức Phật Thầy đang mở nhiều trại ruộng và Ngài cũng vân du hóa độ nhiều nơi. Bản Nôm viết Thừa nhâm, không viết Thừa nhiệm.

    (2) Hổ Cứ là địa danh bên cạnh Tòng Sơn, nên viết là (chữ Nôm) mới đúng.

    (3) Bản Nôm chép là Nguyệt Trư tức tháng heo.

    (4) Bản Nôm chép toàn (chữ Nôm), đọc là trọn.

    (5) Cũng đọc là “Lành còn dữ mất”

    (6) Do chữ “Nhựt nhực trình báo” mà ra chữ Nhựt trình. Xưa các quan làm việc, khi có điều gì quan trọng, thì cấp trên buộc cấp dưới phải nhựt trình (trình báo hàng ngày) để hiểu biết, theo dõi và kiểm soát. Cũng do đó mà về sau, khi nước ta bắt đầu có nghề làm bao thì tờ báo được gọi là nhựt trình hoặc nhựt báo (journal). tờ báo đầu tiên xuất bản bằng Pháp văn tại nước ta là tờ Le Bulletin officiel de l’Expe1dition de la Cochinochine do Đô đốc Charner điều khiển 20 số, rồi kế đó là Đô đốc Bonard tiếp tục nhiệm vụ đến số 173. Số đầu ra ngày 29-9-1861. Còn tờ báo đầu tiên xuất bản bằng Việt văn tại nước ta là tờ Gia Định báo, số 1 ra ngày 15-4-1865. Điều khiển báo này do các ông E.Patteau. đến Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của

    Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra,
    Chép làm một bổn để mà xem chơi.
    (Thơ Thầy thông Chánh)

    Vậy từ ngữ Nhựt trình theo ý nghĩa những bản vần thông báo để mọi người cùng hiểu, đã có từ rất xưa, còn theo ý nghĩa của thông tin, báo chí thì về sau hơn, nhưng cũng khởi đầu từ 1861, tức cách nay (1973) lâu đến 112 năm.

    (7) Năm như chớp, tháng như thoi. Ý nói ngày giờ qua mau.

    (8) Con đen tóc, cha bạc đầu.

    (9) Thẳng tức thủng thẳng. Cũng đọc là thỉnh thoảng

    (10) Rắn cắn cọp ăn

    (11) Hủy báng thầy tu và phá bỏ giới luật

    (12) Tham của, chất chứa cho đầy túi, phải viết là (chữ Nôm)

    (13) Bản Nôm chép phụ tử. Đúng ra là hiếu phụ

    (14) Nước nổi. Mực nước dâng lên cao. Miền Nam không gọi mực nước lên vào mỗi mùa thu là mùa lụt, mà gọi là mùa nước nổi.

    (15) Chỉ danh xưng tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy.

    (16) Tức thời thế, đây chỉ cuộc đời. Không phải như thế thì...

    (17) Người và vật cùng đồng nhau về tánh tình, cũng biết mừng giận, đau thương.

    (18) Đến chết mà không chịu ăn năn.

    (19) Tức Quan Thế Âm Bồ Tát. Không phải Quan Âm Thị Kính.

    (20) Có lẽ chữ thoát. Chắc chắn bản Nôm đã chép sai chữ này.

    (21) Chữ: ghi nhơ. Nôm viết là (chữ Nôm)

    (22) Kẻ bề tôi tối tăm. Phải viết là (chữ Nôm)

    (23) Tựu thị: đến đó, lúc ấy

    (24) Lục đạo được chia làm hai:Tam thiện đạo và Tam ác đạo. Tam thiện đạo tương đối thảnh thơi, dễ chịu (Tiên đạo, thần đạo và nhơn đạo); còn Tam ác đạo thì nguy nan, khốn đốn (địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh).

    (25) Tử sanh cũng gọi là Tứ chủng sanh, gồm có Noãn sanh (sanh từ trong bào thai, như người, khỉ, ngựa) Thấp sanh (sanh từ chỗ ẩm ướt, như cá, rắn, cóc), Hóa sanh (sanh từ chỗ tự nhiên hóa ra, như loài bướm từ sâu mà đổi dạng).

    (26) Thiện tai: lành thay, Ý nói rất lành.

    (27) Quỉ thần ở cõi âm.

    (28) Chỉ triều đình, tôn miếu xã tắc. Nên viết là (chữ Nôm)

    (29) Nhân dân và vạn vật đều yên vui và phong phú.

    (30) Cảnh yên ổn phát đạt.

    (31) Buổi sớm mai và buổi chiều tối.

    (32) Nguyên văn chép “bái Phật tụng kinh”, nên Nôm là lạy Phật đọc kinh.

    (33) Quả đào ở cõi trời. Cũng gọi tiên đào. Đức Huỳnh Giáo Chủ có câu: Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa. Không phải chữ Đào yêu trong câu Đào chi yêu yêu trong Kinh Thi Trung Hoa.

    (34) Ngàn xóm. Xưa cứ năm nhà làm một xóm. Tựa như tiếng bá gia: một trăm nhà. Đây có nghĩa là ban rải ra cùng khắp các nơi.

    (35) Hồn oan mỗi ngày bị đánh đập ba lần

    (36) Vợ là cái dây, con là trói cột.

    (37) Có thể chữ nào bị chép thành chữ là. Chắc chắn người ta đã tam sao thất bổn câu này

    (38) Phấn thổ: Bụi đất. Những thứ không ra gì, đáng vất bỏ đi. Có câu “Tiền tài như phấn thổ...”

    (39) Sông trong biển lặng. Chỉ cuộc đời thái bình.

  20. #20

    Mặc định

    Câu chuyện về việc sưu tầm
    Quyển Sấm Truyền Phật Thầy Tây An


    Như chúng ta đọc thấy ở chương trước, Sấm truyền Bửu Sơn Kỳ Hương hiện nay còn được lưu hành thật quá hiếm hoi và chắc rằng trong số còn lại đó phần lớn bị sai chạy quá nhiều. Sai chạy từ việc không đúng nguyên tác cho đến việc lẫn lộn tác giả.

    Một lẽ giản dị để hiểu lý do sai chạy nguyên tác là vì tất cả kinh kệ ấy đều không được khắc in mà chỉ được chép tay. Người ta đã tam sao thất bổn từ các bản Hán, bản Nôm dẫn cho đến lúc được phiên âm quốc ngữ. Vấn đề chính tả quốc ngữ còn thêm một lần nữa làm cách cội xa nguồn nếu người phiên âm không có một trình độ kiến thức khả quan. Còn về việc lẫn lộn tác giả thì thường do thông lệ cữ tên. Người ta vì kính trọng người lớn, muốn húy tên người lớn. Vả lại với quan niệm thông thường ngày xưa là một tác phẩm chép tay dù có truyền bá rộng đến đâu thì ắt “những người chuyền tay nhau chép cũng đã biết tên tác giả rồi”, vậy cần gì phải phô trương để có thể đưa đến ít nhiều hậu quả này nọ...

    Đã sai chạy văn từ trên nguyên tác, lại cũng không biết tác giả là ai, tác phẩm còn dễ bị mai một bởi công việc chép tay thì số lượng phổ biến rất giới hạn, chúng chịu đựng làm sao nổi trước những biến cố của thiên tai, chiến họa, của những lần pháp nạn và của mối mọt làm tàn hoại lần hồi. Đó là một lí do khác khiến tác phẩm hiện nay còn lại rất hiếm hoi.

    Trong số những quyển Sấm Giảng bị thất truyền mà chúng ta đoán rằng khá nhiều đó, có một quyển chúng tôi vừa may mắn tìm được. Nó có một lịch sử lâu dài ngót cả trăm năm kể từ lúc được khai sanh cho đến ngày châu về hiệp phố. Xin phép được trần thuật nguyên lai.

    Độc giả hẳn còn nhớ, xưa kia, khi Đức Phật Thầy Tây An rời Tòng Sơn đến Trà Bư, thì dân chúng Tòng Sơn rất bối rối vì chứng bịnh thời khí tại đó càng lúc thêm nhiều. Ông Đoàn Văn Điểu cùng với hương chức làng đã phải đến Trà Bư để thỉnh Đức Phật Thầy trở lại. Nhưng Đức Phật Thầy không về Tòng Sơn, Ngài chỉ mách cho họ một cái mo nang để lại tại đình mà trong đó có bức trần đỏ, có một quyển Sấm Truyền và có một cây cờ ngũ sắc. Theo lời thuật đích xác của Ban quản tự Tòng Sơn cổ tự cũng như nhiều bô lão trong vùng, thì chính quyển Sấm Truyền đó được dân chúng chuyền tay nhau đọc và rồi thì vẫn đem về trả lại để trân tàng tại bàn Phật tại đình Tòng Sơn. Cũng theo lời các bô lão ấy kế tiếp, đó là một truyền thống lưu liên tại đây từ xưa.

    Đến thời ông Võ Văn Đống làm Hương cả (1) thì quyển Sấm truyền này được sao chép ra và được truyền về thôn Mỹ Chánh một bổn. Bổn còn lại lần hồi cũng được chép lại bởi quá cũ vì trao tay quá nhiều người.

    Trải qua biết bao nhiêu biến cố, nào khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây (1867) dân Tòng Sơn phải chịu nhiều khốn đốn; rồi tiếp đến những cuộc nổi dậy của các phong trào bình Tây sát tả, dân chúng tự vệ, nhất là cuộc kháng chiến của Quản cơ Thành (tức Đức Cố Quản) từ những năm 1868 đến 1873. Vì nghe theo tiếng gọi của người cùng một đạo mà dân chúng Tòng Sơn đã chạy theo Bình Gia Nghị (2) khá đông, bởi thế mà khi bộ đội của ông Đạo Thành bại trận (tháng 2 năm 1873), Tòng Sơn đã bị khủng bố tơi bời.

    Đến cuộc chiến tranh với Pháp... Những dồn qua dập lại gây nên cảnh khói lửa ngụt trời, Tòng Sơn bấy giờ là xã Mỹ An Hưng, phải gánh chịu biết bao nhiêu tang tóc. Nhà cửa tiêu tàn, tủ ghế, chõng ngựa và cả đến chén bát, lu hũ cũng phải ném ra bờ tre để tránh lửa, người dân có lúc tản cư sạch ấp. Chạy mình không mà còn chưa ắt đủ vợ đủ chồng, còn sá chi đồ đạc...

    Bởi vậy mà bổn Sấm Truyền chánh gốc không rõ đã bị thất lạc về đâu.

    Được hỏi ra, người ta biết rằng có một bổn được sao chép lại từ năm Kỷ dậu (1909) theo một bản cũ ngày xưa để thờ trên bàn Phật đình Tòng Sơn, nhưng bổn ấy được vị Hương Chủ trong làng là ông Võ Tương Như mượn về nhà xem. Hỏi ra nữa, thì ông Võ Tương Như đã chuyền tay về ông Nguyễn Thanh Cự. Lại hỏi phăng ra lần nữa, thì ông Nguyễn Thanh Cự nhận rằng có mượn, nhưng vì trải qua bao nhiêu thế cuộc thăng trầm, không rõ đã lạc về đâu! Ông Cự bị ông Như đòi để trả lại làm bảo vật cho làng. Nhưng ông Nguyễn Thanh Cự đành bó tay vì nhà cửa đã bị giở, đồ đạc đã bị dời, lục soát lại mãi mà không thấy vật cũ đáng quí ấy. Chuyện này từ ấy lần hồi bị giải đãi bỏ trôi. (3)

    Mãi cho đến năm 1963, chùa Tòng Sơn được thành lập bên cạnh ngôi đình thần có mang dấu tích của Đức Phật Thầy, Ban trùng tu cùng với các giới chức trong làng mới kiểm điểm các vật xưa còn lại (như tấm trần đỏ của Đức Phật Thầy cho, như tấm biển sơn son thiếp vàng mang ba chữ Đoàn Phật Sư) đễ thỉnh từ đình sang thờ tại chùa. Trong dịp này người ta bỗng nhớ ngay đến bổn Sấm truyền ngày trước.

    Chuyện cũ giở ra thành mới, ai nấy đồng xuýt xoa tiếc rẻ. Ông Phan Tấn Xưa (tức Do) lúc đó là Trưởng ban trùng tu chùa Tòng Sơn, bèn đề nghị với ông Nguyễn Văn Phú (là con của ông Nguyễn Thanh Cự, cũng có chân trong ban trùng tu) nên cố sức về nhà lục soát lại để may ra,vì trước kia ông Nguyễn Thanh Cự già cả, có thể tìm sót chăng? Ông Nguyễn Văn Phú gượng gạo nhận lời với hy vọng cầu may mà thôi, vì ông tự biết gia đình của ông đã bị trải nhiều biến cố và thân phụ ông xưa kia từng đã không tìm được kia rồi!

    Nhưng sau đó bất ngờ ông Nguyễn Văn Phú lại kiếm gặp nguyên vẹn bổn Giảng xưa nói trên nằm thu mình trong một ngăn tủ đầy bụi nhện mà trước đó ông đã nhiều lần lục soát nhưng không thấy.

    Ông Phú đã mang quyển ấy đến chùa với sự hân hoan của toàn thề những người trong cuộc. Và quyển Sấm Truyền từ ấy được trân tàng cùng chung trong một chiếc hòm bằng gỗ quí đang đựng tấm trần đỏ thờ ở chánh điện của chùa Tòng Sơn.

    Muốn hiểu biết nội dung Sấm truyền khuyến dạy điều gì, cũng như muốn đem phổ biến quyển ấy cho đại chúng cùng hiểu,, nhưng ngặt vì tác phẩm toàn bằng chữ Nôm, mà trong Ban Quản Tự thì không ai đọc và phiên âm quốc ngữ được, cho nên rồi cũng đành thôi.

    Trong thời gian từ 1963 đến nay, ông Phan Tấn Xưa đã yêu cầu nhiều người đọc hoặc nhờ họ nhờ lại người khác đọc và phiên âm giúp. Trong số những người ấy có ông Phan Văn Nghi ở xã Bình Phước Xuân và Đại Úy Phan Thành Công ở Long Xuyên. Nhưng không ai làm thỏa mãn được yêu cầu đó của ông, nên chuyện vẫn đâu còn nguyên đấy.

    Cho đến ngày 14-07-1973, nhân một phiên họp tại Tòng Sơn cổ tự giữa Ban Quản Tự chùa này cùng với Ban Chẩn Tế Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo để lo chỉnh trang sân và đường vào chùa, chuẩn bị cho kỳ đại lễ kỷ niệm lần thứ 117 ngày viên tịch của Đức Phật Thầy Tây An, vấn đề trên mới được đề cập trở lại. Tất cả đồng đề nghị mang quyển Sấm Truyền ấy đến chúng tôi.

    Ngày 20-07-73, các ông Trịnh Văn Tại, Nguyễn Trường Chấp, Đỗ Văn Lùng và Bùi Ngọc Hưỡn, đại diện cho Ban Quản Tự và Ban Chẩn Tế, đích thân đưa quyển Sấm Truyền ấy đến tận tư thất của chúng tôi và ngõ ý muốn tôi nghiên cứu để nếu thấy quả thật đây là Sấm Truyền căn gốc Bửu Sơn Kỳ Hương thì biên khảo, phiên âm để các ông hoan hỉ ấn hành.

    Sau một tháng làm việc, khi Ban Chẩn tế Phật Giáo Hòa Hảo và Ban Quản Tự Tòng Sơn Cổ Tự đã đệ trình Đại Diện Tổ Đình PGHH duyệt lãm, ngày 21-08-1973, tôi thân hành đến Tòng Sơn cổ tự để sưu tầm, tham khảo thêm tại chỗ cho một số sự kiện còn lại. Hôm ấy, lúc 10 giờ 30, trước sự hiện diện của hằng ngàn tín hữu, đông đủ các nhân viên Ban Quản Tự, Ban Chẩn Tế, có sự tham dự của Trung tá Nguyễn Minh Tâm, Quận trưởng Chợ Mới; bác sĩ Huỳnh Trung Nhì, Trưởng y tế An Giang; bác sĩ Đào Tuấn Kiệt, Giám đốc bệnh viện Long Xuyên; bác sĩ Trần Lỹ, Giám đốc bệnh viện Nguyễn Trung Trực; bác sĩ Phan Văn Bàn, bác sĩ Ludwick và cô Lise Côté (Canada) chuyên viên của Trung tâm y tế toàn khoa Long Xuyên, và nhiều giáo sư, giáo viên, sĩ quan, thân hào nhân sĩ, chúng tôi đã diễn thuyết về vấn đề này và liền sau đó, được hội thảo, phỏng vấn, chụp ảnh và ghi âm lời nói của Ban tổ chức cùng với những tài liệu chi tiết hữu ích cho việc biên khảo sách này.

    Có lẽ nhờ vậy mà nguyên lai của quyển Sấm Truyền được thêm phần sáng tỏ đối với quý độc giả lâu nay còn xa lạ trước nguồn cội Bửu Sơn Kỳ Hương.

    Quyển Sấm Truyền được trần thuật nguyên lai trên đây mang một hình thức mỏng manh, nếu lật mạnh có thể bị rệu rã một cách dễ dàng. Nhưng may mắn là chữ cò nguyên vẹn trừ một ít dấu mối mọt gặm nhấm và một ít chỗ lằn xếp có bị rách sờn.

    Ngang một tấc 70, dài 3 tấc 90, xưa nó được viết bằng mực đen trên nền giất bạch, nay vì quá cũ quá đã sẩm xuống thành một màu xám đục. Nét chữ thật đẹp, thật đều. Văn lục bát, có điểm dấu chấm câu và chép đầy đặc tất cả các trang không hề bỏ trống. Sách gồm 8 tờ (16 trang). Chỉ tờ cuuối còn dư ra một trang. Hình như trước đây chừng khoảng 40 năm, tờ đó đã bị cũ rách, sứt ra, nên được một tuồng chữ khác chép lại trang đó trên một thứ giấy “nhựt trình trắng” rồi đóng kèm thay vào.

    Tuy nét chữ viết đẹp, bay bướm lắm, nhưng có lẽ vì theo một bản nào trước đó có bị chép sai, cho nên có lắm chữ không được Nôm đúng cách và có một số vần bị lạc. Có bôi xóa 6 chữ chép thừa và gạch thêm 11 chữ chép thiếu.

    Đầu sách có đề năm tháng và tên người chép giúp bổn Sấm Truyền, nguyên văn như vầy:

    “Tuế thứ Kỷ Dậu niên, nhuận nhị ngoạt, nhị thập thất nhựt – Đồ Trương trợ bút nhất quyện Giảng” (Năm Kỷ Dậu, tháng hai nhuần, ngày 27, quyển Giảng này do Trò Trương viết giúp).

    Tính theo âm lịch, nhờ người sao chép có ghi rõ là tháng hai nhuần, nên chúng ta được biết chắc Kỷ Dậu này là 1909, cách nay 64 năm. Chúng tôi đã hết sức truy tầm, nhưng không rõ “Đồ - Trương” là ai, còn có miêu duệ gì ở Tòng Sơn – Hổ Cứ không, nhưng không được một ai biết mảy may gì liên hệ để giúp chúng tôi đạt được ý nguyện.

    Theo thời gian được ghi chép chắc chắn trên đây, bổn Sấm Truyền này đáng được coi là một bản Nôm chép tay xưa nhất trong các bản Nôm còn lại của Bửu Sơn Kỳ Hương. Xưa hơn bộ Cửu khúc, Kiểng tiên của ông Nguyễn Văn Thới và xưa hơn cả bộ Sấm Giảng người đời của ông Sư Vãi, nếu ai còn giữ được nguyên tác; bởi vì bổn Sấm Truyền này là một bổn được sao chép lại chớ không phải mới được sáng tác từ năm Kỷ Dậu 1909 ấy. Nó đã có trước năm sao chép lâu rồi!

    http://www.hoahao.org/D_1-2_2-203_4-...7-7_14-2_15-2/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Người tình Hồi giáo có hương thơm kỳ dị của Hoàng đế Càn Long
    By Bin571 in forum Lịch sử, giai thoại, truyền thuyết của các nước khác
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 17-02-2011, 07:10 PM
  2. Lịch sử kỳ diệu của con đường quân sự vĩ đại nhất thế giới
    By Bin571 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 16-12-2010, 12:47 AM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 12-12-2010, 04:56 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •