Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 27

Ðề tài: Để vào được nước Chúa???

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Thumbs up Để vào được nước Chúa???

    Vốn liến khi ở trần thế chỉ có ba cái: Thân Thể, Linh Hồn và Tư Tưởng. Mà khi vào Nhà Chúa thì bị lột hết thì chỉ "còn cái Vô Ngã". :big_grin::big_grin::big_grin:

    (trích Làm gì có lợi cho linh hồn của mình?)
    Vậy xin hỏi quý vị nếu theo Tôn giáo Jesu thì phải tu tập như thế nào để đạt được Vô ngã???
    cảm ơn chư vị rất nhiều!
    Aaa.... DiDiiiii.... Đà.aaaa... Phật...phậtttttttt

  2. #2

    Mặc định

    [QUOTE=bienvasong;228588]:big_grin::big_grin::big_grin:

    tự nhiên bị người kế bên bễ gẫy một tay rồi àh?

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi bienvasong Xem Bài Gởi
    Vốn liến khi ở trần thế chỉ có ba cái: Thân Thể, Linh Hồn và Tư Tưởng. Mà khi vào Nhà Chúa thì bị lột hết thì chỉ "còn cái Vô Ngã". :big_grin::big_grin::big_grin:

    (trích Làm gì có lợi cho linh hồn của mình?)
    Vậy xin hỏi quý vị nếu theo Tôn giáo Jesu thì phải tu tập như thế nào để đạt được Vô ngã???
    cảm ơn chư vị rất nhiều!
    Hình như trong Đạo Chúa chỉ khuyên con chiên giữ giới luật , làm lành lánh dữ thôi hà , đó cũng có thể xem là tu tập bên mấy đạo khác đúng không bạn?
    xin Mẹ rủ lòng thuơng xót linh hồn Phaolo Trần Bình Nguyên rose4

  4. #4

    Mặc định

    ĐỂ ĐƯỢC VÀO THIÊN ĐÀNGwellcome1

    - Theo vào bằng ngỏ hẹp.
    - Tâm trong sáng như trẻ thơ.
    - Bác ái thương yêu mọi người.

  5. #5
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Jenny Xem Bài Gởi
    Hình như trong Đạo Chúa chỉ khuyên con chiên giữ giới luật , làm lành lánh dữ thôi hà , đó cũng có thể xem là tu tập bên mấy đạo khác đúng không bạn?
    ngoài ra còn phải xa đàn bà,coi người nghèo hèn,phong cùi...là "chúa" mới được đó.

    31) "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. (34) Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (36) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm". (37) bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; (38) có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?" (40) Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". (41) Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom". (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy". (46) Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời".
    haiz...........................

  6. #6

    Mặc định

    Bé nghĩ là nên: sống, học tập, và làm theo lời Chúa dạy chúng ta thì chúng ta sẽ vào được nước Chúa.

  7. #7

    Mặc định ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC CHÚA

    " AI YÊU DANH LỢI ,VẬT CHẤT TRẦN GIAN HƠN TA KHÔNG ĐÁNG LÀ MÔN ĐỆ CỦA TA "

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi bienvasong Xem Bài Gởi
    Vốn liến khi ở trần thế chỉ có ba cái: Thân Thể, Linh Hồn và Tư Tưởng. Mà khi vào Nhà Chúa thì bị lột hết thì chỉ "còn cái Vô Ngã". :big_grin::big_grin::big_grin:

    (trích Làm gì có lợi cho linh hồn của mình?)
    Vậy xin hỏi quý vị nếu theo Tôn giáo Jesu thì phải tu tập như thế nào để đạt được Vô ngã???
    cảm ơn chư vị rất nhiều!
    Ở đây mình tạm bỏ qua ý niệm (của bạn) là con người có 3 cái: Thân Thể, Linh Hồn và Tư Tưởng, tạm bỏ qua các từ chuyên môn như Vô Ngã. Chúng ta bàn ngay vào vấn đề chính với từ ngữ "bình dân học vụ" nhé.

    Cốt lõi của việc vào nước Chúa, chỉ có một, và duy nhất một điều kiện thôi: Không có tội lỗi.

    1 - Ai là người không có lỗi, Chúa (Ông Trời) nói: Không ai cả ! Tất cả đã phạm tội !
    2 - Làm sao để trở thành "không có tội" ?: Phải được xóa tội !
    3 - Làm sao để được xóa tội ?: Công bằng mà nói thì chỉ có người vô tội mới chịu giùm tội cho người khác, và người có tội kia mới được xóa tội.
    4 - Ai là người không có tội để gánh giùm tội của người khác? Có một người tên là Zi, sẵn sàng chịu đền tội cho MỘT NGƯỜI có tội.
    5 - Một người tên A ý thức rằng mình có tội, bèn quyết định đến gặp Zi, nhận món quà Zi cho mình, và Zi chịu tội cho người A. Người A được xóa tội. Zi chịu phạt chết vì tội của người A.
    6 - Một người tên B cũng ý thức rằng mình có tội, bèn quyết định đến gặp Zi. Nhưng Zi lúc này đang mang tội của người A! Zi là một người, giá trị của ông ta chỉ bằng với một người, nên ông không thể chịu tội thêm cho B được.
    7 - Vấn đề này đã được Ông Trời giải quyết bằng cách: chính Ông Trời chấp nhận xuống làm người tên Zi, chấp nhận mang tội của loài người. Và vì ông Zi vừa là người, vừa là Ông Trời, nên giá trị của ông Zi lúc này cực kỳ lớn, có thể gánh hết tội cho toàn nhân loại, và toàn nhân loại lúc này có giải pháp để được xóa tội.
    8 - Đến đây thì các bạn biết ông Zi là Chúa Jesus, và đó chính là xác nhận trong Kinh thánh: Nếu không qua Ngài thì không ai có thể vào nước Thiên Đàng.

    Đây là món quà chính, lớn nhất, miễn phí, không cần tu tập gì cả, như đã ghi trong mục 5. Đối với đạo Chúa, bạn được vào nước Thiên Đàng không phải do bạn tu hành đủ sâu, đức độ đủ rộng, trí huệ đủ cao... Kinh thánh có chép là tên trộm cướp bị đóng đinh cùng với Chúa trước khi chết đã hối hận và nói với Ngài: Tôi là kẻ có tội, xin Ngài chấp nhận tôi, và hắn ta được Chúa cho lên Thiên đàng (nguyên văn: Paradis). Cốt lõi của đạo Chúa là như vậy

    Các đạo khác dạy tín đồ tu tập, đến mức nào đó thì "đắc đạo".
    Riêng đạo Chúa thì là "đắc đạo không phải do công đức". Chúa có nói công đức mà loài người hay hãnh diện (ngấm ngầm hay công khai) trước mặt Ngài đều như giẻ rách rơm rác.
    Một người bình dân có thể cầm thức ăn bằng tay bẩn, cho là không sao. Một bác sĩ, một vết bẩn nhỏ trên tay coi như là vấn đề nghiêm trọng.
    Con người ở mức đạo đức rất cao, một vết ố nhỏ trong tâm hồn đã là một vấn đề ghê gớm, huống chi đối với Ông Trời phải TUYỆT ĐỐI trong sạch.

    Vấn đề ở đây là thừa nhận mình có tội, và đến để được xóa tội (đó là món quà, là ơn, chứ không phải phần thưởng). Và khi không có tội thì được nhận vào Thiên đàng.
    Nhiều người vẫn coi mình không có tội, hoặc có tội ít ít, do đó có thể làm điều tốt, tu nhân tích đức để bù lại. Không phải vậy, vì làm điều tốt là sự bình thường, không có điểm, trong khi làm điều xấu là bị điểm âm, làm sao mà lấy điểm 0 bù điểm âm được.

    Những điều các bạn khác trích dẫn trong Kinh thánh đều đúng, nhưng là những yếu tố phụ:

    Thí dụ:
    - "Sống, học tập, và làm theo lời Chúa dạy chúng ta thì chúng ta sẽ vào được nước Chúa".
    Đây là điển hình của cố gắng tu tập như các đạo khác.
    Điều này đúng, nhưng như thế thì chúng ta chỉ là người TỐT chứ không phải là người vô tội. Khi có tội thì dù là tu tập tốt đến mức nào đi nữa vẫn là rơm rác, không bù được những tội lỗi quá khứ.

    Thí dụ:
    - Theo vào bằng ngỏ hẹp.
    - Tâm trong sáng như trẻ thơ.
    - Bác ái thương yêu mọi người
    Cũng như trên, đây là các điều phụ, không phải điều chính.

    Khi bạn theo Chúa, dần dần những điều phụ sẽ dễ thực hiện hơn, các điều ác muốn phạm sẽ khó khăn ray rứt hơn. Đó là điều mà Kinh thánh có chép: Ai tin nhận Ngài thì sẽ được "sinh lại" như một người mới.

    Chúc các bạn vui

  9. #9

    Mặc định

    Các nguyên tắc đạo đức của người theo đạo Công giáo
    Lời giới thiệu
    Đạo Kitô đưa ta trở về với nguồn cội là Thiên Chúa toàn năng,toàn ái.
    Đức Phật đã dạy những gì thì hầu hết các Phật Tử và những ai từng tìm hiểu giáo lý Phật Giáo đã biết rõ .Một cách tổng quát,Đức Phật dạy chúng sanh là phải diệt cho được “tham,sân,si” và “hỉ,nộ,ái,ố” để có thể vào được Niết Bàn như Ngài đã thành công. Nếu kiếp nầy tu không xong thì phải tiếp tục tu ở kiếp sau v.v...Trong quyển "Lời Phật Dạy" của tác giả Đinh Sĩ Trang, có ghi lại một câu của Đức Phật trong Kinh Pháp Cú như sau: "Chính tự các người phải cố gắng kiên trì tu tập. Như Lai chỉ là người thầy chỉ rõ con đường giác ng cho các người, chứ không giác ng giùm ai được." (trang 130, câu 276).Và nếu chúng ta biết nghe lời Ngài,quết thực hiện theo sự chỉ dạy của Ngài để được cứu,chúng ta sẽ vĩnh viễn đứng ra ngoài sông mê biển khổ của luân hồi sinh tử, vì Đức Phật có cho biết rằng: "Phật chỉ là đấng chỉ đường dẫn lối, Phật không có quyền ban phước, hay giáng hoạ cho bất cứ một ai...". Trong trang 17 quyển sách nhỏ "Ba Vấn Đề Trọng Đại Trong Đời Tu Của Tôi", của Thiền Sư Thích Thanh Từ, có một đoạn Thiền Sư Thích Thanh Từ viết như sau: "Cho đến cái khổ đau và an vui của con người, Đạo Phật nói rõ đều do con người tự do tạo lấy. Phật không có quyền can thiệp khổ vui của con người. Ngài chỉ là người hướng dẫn chỉ đường cho những ai muốn tránh khổ tìm vui, mọi khổ vui đều do cho người quyết định..."
    Chính vì biết rõ lời khẳng định của Đức Phật, và biết được sự yếu kém của chính bản thân các bạn. Nếu các bạn biết rõ con người thật của các bạn không thể nào diệt nổi "tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố" thì các bạn nên mạnh dạn tiếp nhận Chúa Giê-xu làm cứu Chúa của mình, cũng như sự hy sinh cao cả của Chúa Giê-xu trên thập tự giá để chết thay cho con người tội lỗi trong trần gian, và trong số người tội lỗi đó có chính tôi (đây chỉ là sự cảm nhận về ơn cứ rổi mà Chúa Giê-xu dành cho những ai tin vào lời Thánh Kinh). Nếu ai có dịp tìm hiểu Thánh Kinh thì chắc cũng biết Chúa Giê-xu có phán rằng: "Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai đến được cùng Cha" Giăng 14:6, và tôi cũng từng tin tưởng và kinh nghiệm về ơn phước Chúa ban qua lời hứa nầy: "Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy" (Giăng 7:38). Nếu ai muốn tìm hiểu để biết Kinh Thánh đã nói những gì, tôi xin mách trước rằng, trong đó có cho biết: "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác: vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu." (Công-vụ: 4:12)
    Đạo Chúa dạy chỉ có một kiếp.Nếu chỉ có một kiếp,mà chúng ta tin có nhiều kiếp thì chết sẽ đau khổ mãi mãi trong hoả ngục.Ngược lại,có nhiều kiếp mà chúng ta tin có một kiếp,thì vẫn còn cơ hội làm lại cuộc đời.
    Hơn thế,Chúa Giêsu Kitô,Thiên Chúa Ngôi hai,đã từ cõi vĩnh phúc xuống trần gian,và Ngài quả quyết:
    -“Ta là đường đi,là sự thật,là sự sống; Ta là ánh sáng thế gian.Ai theo ta,không đi trong tam tối”
    -“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng hãy đến cùng ta,ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.Ta có lòng nhu mì,khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu, và gánh ta nhẹ nhàng". (Ma-thi-ơ 11:28-30)
    -“Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc,hãy vào thiên đàng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu..”
    -“Hỡi phường gian ác,hãy đi cho khỏi mắt ta,mà vào lửa đời đời..”
    -“Các con hãy rao giảng khắp thế gian, những gì ta truyền cho các con. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu; ai không tin sẽ phải án phạt; Trời đất có qua đi nhưng lời ta sẽ chẳng qua đâu..”
    Vì tôi có cơ hội tìm hiểu phần nào giáo lý Phật Giáo nên đến ngày nay tôi vẫn còn nhớ nằm lòng những lời dạy của Đức Phật trong Kinh Pháp Cú, như sau: "Thắng lợi thì bị oán thù, thất bại thì bị đao khổ. Kẻ nào không màn tới thắng bại, kẻ ấy sẽ sống một đời hoà hiếu an vui..." Lời dạy nầy cũng khá gần gũi trong Kinh Thánh của Cơ Đốc Giáo: "Chớ lấy ác trả ác cho ai, phải chăm làm điều thiện trước mặt mọi người. Nếu có thể được thì hãy hết sức mình mà hoà thuận với mọi người.... Chớ trả thù ai, những hãy nhường cho cơn thạnh n của Đức Chúa trời..." (Rô-ma 12:17-19). (Có lẽ chúng ta sẽ không nhầm lẫn giữa vấn đề tranh giành thắng lợi, và hành động đòi hỏi sự công bằng cho người khác, hoặc góp phần ngăn cản không cho tội ác hoành hành... Đã nói đến điều nầy thì cũng xin cho phép tôi "lạc đề" một chút rằng: "Tội ác ở đâu cũng là tội ác; tội ác đang xảy ra tại VN ngày nay hay tội ác tại các nơi khác trên thế giới đều giống nhau..." Chính vì thế mà cũng trong Kinh Thánh Tân Ước, sách Rô-ma 13, có dạy là: "sợ kẻ mình đáng sợ, kính kẻ mình đáng kính...", chứ Kinh Thánh không dạy con người đi đầu phục một đảng cướp hay nhu nhược trước những kẻ khinh thường Thiên Chúa và vì cho rằng đó là hành động "nhu mì, khiêm nhường" mà Chúa đã dạy.)

    Sau khi tiếp nhận Chúa, tôi có dịp đọc Kinh Thánh kỹ hơn, và điều lý thú là trước đó tôi thấy trong Kinh U-Da-Na-Vác-Ga của Phật Giáo có chép: "Đừng làm tổn thương kẻ khác theo những lối mà chính mình thấy là dễ gây tổn thương", thì tôi cũng tìm thấy trong Kinh Thánh Tân Ước Chúa Giê-xu cũng có phán như sau: "Hễ điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm điều đó cho họ, vì ấy là luật pháp và lời tiên tri." (Ma-thi-ơ 7:12)

    Cũng có những người "tin Chúa" từ lúc mới lọt lòng mẹ, vì họ may mắn có cha mẹ đã tiếp nhận Chúa rồi, hoặc cũng có người tin Chúa nhưng chưa bao giờ có cơ hội đọc những lời dạy của Đức Phật, nên không tỏ quan tâm, hoặc tìm cách bài bác những điều dù chính mình không biết chắc là đúng hay sai? Và Kinh Thánh có cho biết: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình.." (Ê-phê-sô 2:8-9)

    Ngày nay, dù tôi chưa bao giờ dám có ý nghĩ là mình sẽ trở thành mục sư, hay một nhà truyền đạo, nhưng tôi rất ham thích làm những công việc đúng nghĩa mà các tôi tớ, con cái Chúa chân chính thường làm là: Rao giảng tin mừng của Chúa, để mọi người biết đó là niềm hạnh phúc thật, là sự cứu rỗi, sự bình an dành cho những ai nhận biết mình là con người yếu đuối bất toàn và thật sự muốn tìm kiếm quyền năng của Ngài. Chính vì biết trân quý về lời dạy của Đức Phật và hiểu được sự cứu rổi của Chúa Giê-xu như đã nói, nên tôi thấy mình rất tâm đắc về lời thố lộ của một người từng tu đến chức Đại Đức Phật Giáo, người ấy được Thi Sĩ Bùi Giáng giới thiệu quyển Kinh Thánh, ông đã đọc và đã tin Chúa. Trong quyển "Ai Chết Cho Ai, Ai sống Cho Ai" trang 57, mà ông chính ông là tác giả.
    Qua lời dạy của Đức Phật và các tôn giáo khác trên thế gian, nếu có ai nghĩ rằng tự mình có thể "ăn hiền, ở lành, tu nhơn, tích đức, tu tâm dưỡng tánh, diệt được tham sân si, hỉ, n, ái, ố..." tôi xin chúc mừng. Còn nếu những ai mà trong tận đáy lòng mình, vẫn còn cảm nhận được sự yếu kém về con người thật của mình, liên quan đến các điều sau đây: "đầy dẫy mọi sự không công bình, độc ác, tham lam, hung dữ; chan chứa những điều ghen ghét, giết người, cải lẫy, dối trá, giận dữ; hay mách, gièm chê, chẳng tin kính, xấc xược, kiêu ngạo, khoe khoang, khôn khéo về sự làm dữ, không vâng lời cha mẹ, dại dột, trái lời giao ước, không có tình nghĩa tự nhiên, không có lòng thương xót...." (Rô-ma 1:29-31) thì hãy đầu phục Chúa Giê-xu để được cứu: "Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài..". (Giăng 1:12). Đặc biệt những ai đang đọc bài viết nầy trong thời điểm mà lòng mình đầy những buồn lo, chán chường, sợ hải, hoặc ghê tởm một điều gì... Nói một cách khác là mình đang trong tâm trạng: "trong héo, ngoài tươi", xin chớ bối rối, nản lòng. Tôi xin trân trọng mời quý vị hãy đến với Chúa Giê-xu như lời kêu gọi của Ngài: "Hởi những kẻ mệt mõi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ..."
    “Hỡi những ai đang có gánh nặng cuộc đời, xin hãy đến với Chúa để Ngài lau khô nuớc mắt và lấy đi gánh nặng của mình.
    Xin hãy trông cậy nơi Ðức Mẹ Maria và chạy đến cùng Mẹ. Hãy chia sẻ buồn vui với Mẹ để Mẹ nâng đỡ ủi an. Mẹ là nơi tích lũy ơn lành. Sự sống, sự chết đều do Mẹ quan phòng.
    Hãy cầu xin với Chúa Thánh Thần để Ngài soi sáng và đền bù xứng đáng cho qúy vị.”
    Như thế chọn đạo Chúa, theo Chúa, tuân giữ luật Chúa là khôn ngoan, vì được bảo đảm sẽ có hạnh phúc bất tận trên thiên đàng.Đấng Toàn Năng đã bảo đảm, thì không có sự bảo đảm nào chắc chắn hơn.
    Tại sao chúng ta nên theo đạo Công giáo ?
    Tôi theo đạo Công giáo Roma. Gọi thế để phân biệt với Chính thống giáo (Oxthodox), Anh giáo (Anglican), Tin lành (Protestant).

    a- Trước hết, đạo Công giáo có Kinh thánh (Bible) như sao sáng dẫn đường về trời.
    Người Công giáo phải tin vào Kinh thánh , vì nếu không tin vào Kinh thánh do Thiên Chúa mạc khải (reveal) cho loài người thì không còn ai đáng tin hơn. "Con người thì sai lầm" (Errare humanum est) như châm ngôn triết học đã nói.
    Theo Kinh thánh đạo Công giáo, người ta biết: Thiên Chúa (God) có những phẩm tính sau:
    • Linh thiêng (không có thể xác),
    • Quyền phép toàn năng (dựng nên trời đất vạn vật và làm được mọi sự),
    • Nhân từ (tốt lành với mọi người),
    • Tình yêu (làm mọi việc vì yêu con người),
    • Thương xót (chỉ muốn cứu độ con người tội lỗi hơn là lên án phạt),
    • Thánh thiện (ghét tội lỗi gian tà),
    • Công bằng (thưởng phạt công minh)…tất cả đều vô cùng.
    b- Thứ hai, đạo Công giáo có Giáo hội (Catholic Church) thay mặt Thiên Chúa.
    Giáo hội này do chính Chúa Giêsu (là Thiên Chúa làm người cứu chuộc muôn dân). Chúa Giêsu đã lập Giáo hội và trao quyền cho tông đồ Phêrô và các người kế vị (successor) gọi là giáo hoàng. Kinh thánh theo Matthêu còn ghi:

    Mt 16, 18-19 viết: "Thầy bảo cho anh biết, anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.

    16,19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy"
    .
    -Giáo hội này hướng dẫn chỉ đường cho giáo dân, những điều hợp với lí trí con người, hợp với giới răn của Thiên Chúa, hướng dẫn giáo dân về Nước Trời.

    -Giáo hội Công giáo có 4 đặc tính: 1-duy nhất (một niềm tin, bí tích, giới răn, cầu nguyện), 2- thánh thiện (từ Chúa Ba ngôi thánh đến việc thánh hóa mọi phần tử), 3- công giáo (kêu gọi mọi người trên thế giới tin theo), tông truyền (vì được xây dựng từ thời các tông đồ tới nay và mãi về sau).

    -Trong Giáo hội này, giáo lý qui về 4 cột trụ chính về 1-những điều cần tin (để khỏi sai lạc) tóm trong kinh Tin kính, 2- những điều cần xin (để được nhận lời) tóm trong kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu, Đấng lập đạo đã dạy, 3- những điều cần làm (để khỏi lạc đường về trời) tóm trong kinh 10 điều răn, 4- những điều cần lãnh (để được nuôi dưỡng và lớn lên trong GH) tóm trong kinh 7 Bí tích.

    - Thiên đàng của Công giáo Roma có nền tảng trong Kinh thánh, như Chúa Giêsu đã nói rất nhiều lần, và Người quả quyết: dù phải mất tay, mất chân, mất mắt (Mt 5: 29-30) mà được vào Thiên đàng thì vẫn tốt hơn, vì Thiên đàng tồn tại muôn đời.

    Trong Phúc âm theo thánh Mattheu Chúa nói: " Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình nào có ích gì? Lấy gì đổi lại cho cân bằng?" (Mt 16: 26)

    Thiên đàng của đạo Công giáo có những điều tích cực đã được tả trong sách Khải huyền (Revelation) như sau:

    21,1 Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. 21,2 Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. 21,3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to, "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ ở với họ. Họ sẽ là dân Người, Người sẽ là Chúa ở cùng họ. 21,4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất".22,4 Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. 22,5 Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị muôn đời.

    c- Thứ ba, Đạo Công giáo có Đấng Sáng lập chết (Jesus died on the cross) để cứu rỗi những người tin theo. Điều này không có nơi các đạo do con người lập ra.

    d- Thứ bốn, Đạo Công giáo có Bí tích Thánh Thể (The Eucharist). Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh rượu. Đây là bí tích Tình yêu của Chúa Giêsu lập ra để ở lại với con cái mình, nuôi sống linh hồn họ, an ủi họ, thêm sức thông cảm cuộc sống vất vả của họ…cho đến ngày tận thế.

    Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh sự hiện diện thực sự của Người trong Thánh Thể. Điều này không hề thấy nơi các đạo kia và cả các đạo Tin lành cải cách từ đạo Công giáo.

    đ- Thứ năm, Đạo Công giáo có Đức Mẹ Maria (Our Blessed Virgin Mary) để yêu thương, phù hộ, lo lắng dẫn dắt con cái mọi nơi, mọi thời về nước Thiên đàng.

    e- Thứ sáu, Đạo Công giáo có những Phép lạ (miracle) do Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thánh làm để ban ơn phúc cho những người tin cậy cầu khấn.

    g- Thứ bảy, Đạo Công giáo có những cuộc Hiện ra (apparition) của Chúa Giêsu, Đức Mẹ, như tại Lộ đức (Lourdes, nước Pháp), Fatima, nước Bồ đào nha và nhiều nơi khác để ban ơn và hướng dẫn người ta lo phần rỗi đời sau trên Thiên đàng.

    Rất nhiều người đã được ơn lạ chữa bệnh phần xác và ơn cải thiện phần hồn để lo tìm về hạnh phúc đời sau.

    h- Thứ tám, Đạo Công giáo cầu cho các linh hồn Luyện ngục (Purgatory). Họ là tín hữu sau khi chết, để họ được vào Thiên đàng, nếu họ còn ở trong cuộc thanh tẩy cuối cùng.

    Lời Đầu Sách
    -Bài này được viết là vì bạn, người anh/chị/em của tôi, vì bạn và tôi đều do một Thượng đế dựng nên, và Ngài yêu thượng tất cả chúng ta như tình yêu của một người CHA. Do đó, điều tốt đẹp, hữu ích và vô cùng quan trọng cho đời bạn, nếu tôi im lặng, không nói gì cả, thì tôi đâu có coi bạn là anh/chị/em của tôi. Hơn nữa, Chúa dạy tôi phải chia sẻ những điều tôt lành mà tôi nhận được từ Ngài.
    - Thiên Chúa đã ban cho bạn và tôi sự tự do, theo Ngài hoặc chối bỏ Ngài. Do đó, người theo Chúa rao giảng nhưng không ép buộc ai phải theo. Sự chọn lựa ở trong tay anh/chị/em, và không ai trách nhiệm hộ sự chọn lựa đó.
    Tuy nhiên tôi xin nhắc nhở bạn: nếu bạn chọn lầm một món đồ, một chiếc xe, bạn có thể không vui trong một thời gian; nếu bạn chọn lầm một môn học, hoặc một căn nhà bạn có thể không vui trong vài năm; nếu bạn chọn lầm người vợ hay chồng, bạn có thể không vui trong vài chục năm; nhưng nếu bạn chọn lầm tôn giáo, bạn sẽ khổ đau đời đời.
    Nếu bạn lỡ một chuyến xe buýt, một chuyến máy bay, một chuyến tàu, bạn còn cơ hội đi chuyến xe buýt, chuyến máy bay, hoặc chuyến tàu khác, nhưng khi bạn phải giã từ cõi tạm này ra trước tòa Thiên Chúa, thì bạn không còn cơ hội lần thứ hai.
    *
    CÁC NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO
    - Vì các bạn , người anh/chị/em của tôi và tôi đều do một Thượngđế dựng nên, và Ngài yêu thượng tất cả chúng ta như tình yêu của một người CHA. Do đó, điều tốt đẹp, hữu ích và vô cùng quan trọng cho đời bạn, nếu tôi im lặng, không nói gì cả, thì tôi đâu có coi các bạn, người anh/chị/em của tôi là anh/chị/em của mình. Hơn nữa, Chúa dạy tôi phải chia sẻ những điều tôt lành mà tôi nhận được từ Ngài.
    - Thiên Chúa đã ban cho các bạn và tôi sự tự do, theo Ngài hoặc chối bỏ Ngài. Do đó, người theo Chúa rao giảng nhưng không ép buộc ai phải theo. Sự chọn lựa ở trong tay anh/chị/em, và không ai trách nhiệm hộ sự chọn lựa đó.
    Nhưng làm thế nào để đến với Chúa? Xin thưa là, rất là đơn giản nhưng phải thật nghiêm túc và hết lòng. Quý vị chỉ cần một mình chọn một nơi yên tịnh nào đó và thầm thưa (cầu nguyện) với Chúa bằng những lời chân thành như sau:

    "Kính lạy Chúa, con biết theo tiêu chuẩn loài người, con có thể là người tốt, nhưng theo tiêu chuẩn của Chúa, con là những kẻ có tội. Con tin rằng Chúa đã chết thay cho tội của con trên thập tự giá. Máu của Chúa đã đổ ra vì con. Chúa ơi! ngoài mặt con vẫn ra vẻ bình an, nhưng trong lòng con tan nát, rối bời, tuyệt vọng. Xin Chúa thương xót con, xin Chúa ngự vào lòng con ngay từ bây giờ... A-men".

    Và tôi rất mong được quý vị chia xẻ về hạnh phúc mà quý vị có được.
    Luật này qui định các nguyên tắc đạo đức của người theo đạo Công giáo như sau:
    Chương I: Qui định tổng quát
    Điều 1: Nếu các bạn cảm thấy tin có ông Trời (Thượng Đế, Thiên Chúa hay Đấng Tạo Hóa), và các bạn muốn tôn thờ Ngài để sống trong tình yêu của Ngài, để sống cuộc sống tốt đẹp và ý nghĩa hơn, cũng như để được cứu độ và được hưởng hạnh phúc với Ngài muôn đời, thì các bạn được Hội Thánh Công Giáo vui mừng đón nhận.
    Các bạn có thể đến với bất cứ linh mục nào trong một nhà thờ, các bạn trình bày ý nguyện của các bạn. Ngài sẽ hướng dẫn các bạn các thủ tục và nghi thức gia nhập Đạo.
    Nói tổng quát, các bạn sẽ học giáo lý Công giáo khoảng 6 tháng, thực hành cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ. Sau đó các bạn sẽ lãnh nhận nghi thức Thánh Tẩy và được làm con Chúa trong Hội Thánh.
    Nếu cần, các bạn có thể nhờ một người bạn Công giáo đưa bạn đến giới thiệu với một linh mục.
    Điều 2: Người theo đạo Công giáo nên đến với đạo Chúa bằng lòng tin: tuyệt đối tin tưởng vào đấng tối cao rồi sẽ có ngày được lên thiên đàng

    Chương II: Thiên Chúa Ba Ngôi
    Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy là ba ngôi nhưng theo giáo lý “Thiên Chúa Ba Ngôi” thì cũng vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, hay là “một Thiên Chúa trong ba ngôi vị”. Đó không hẳn chỉ là niềm tin, mà cũng có thể giải thích được phần nào.

    Trở lại với câu “Thiên Chúa là tình yêu” : “Tình Yêu” là hai chữ quan trọng bậc nhất trong Thiên Chúa giáo, nó mang nghĩa “yêu tha nhân như chính mình”. Ta có thể hiểu câu nói theo hai cách, tùy theo niềm tin của mỗi người:
    -- Nếu bạn tin có Thiên Chúa, thì bạn coi Tình Yêu là bản tính, hay thiên tính của Thiên Chúa. Nếu bạn "yêu tha nhân như chính mình" là Thiên Chúa ở cùng bạn, còn nếu bạn ghét người khác là bạn đã xa rời hay chối bỏ Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa hai chữ Tình yêu trong Ki-tô giáo.

    -- Nếu bạn không mang niềm tin có một vị Thiên Chúa, thì bạn có thể hiểu câu nói "Thiên Chúa là Tình Yêu" theo nghĩa đen, coi hai chữ "Thiên Chúa" như là một cách nói khác cũa hai chữ "Tình Yêu". Thiên Chúa và Tình Yêu tuy là hai nhưng bản chất là một, chỉ khác nhau từ ngữ mà thôi, và có thể diễn tả Thiên Chúa = Tình Yêu, hay Thiên Chúa ↔ Tình Yêu, Tình Yêu tức là Thiên Chúa.
    Như vậy, ngoài Thiên Chúa chính là Tình Yêu, đức Jesus là người mang Tình Yêu như thế trong tâm nên ngài cũng chính là Thiên Chúa; và những vị khác khi đã mang được Tình Yêu chân chính như thế đều ở một ngôi vị như Thiên Chúa, và được tôn bậc Thánh. Tất cả ba ngôi vị đều mang thiên tính Tình Yêu, nên cùng là một Thiên Chúa. Tình Yêu là sự kết nối giữa ba ngôi vị và còn được biết dưới các từ ngữ khác như Thiên tính, Thần khí, Thánh linh, Thần linh; và những ai đã đạt được Tình Yêu chân chính được coi như nên một với Thiên Chúa.

    - Thiên Chúa là Ngôi vị thứ nhất.
    Vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” nên ta cũng hiểu một cách khác là chính “Tình Yêu” là ngôi vị thứ nhất. Ta tìm tới Thiên Chúa hay nước Trời là cùng nghĩa với ta tìm tới Tình Yêu. Hai chữ “Tình Yêu” này mang nghĩa “yêu tha nhân như yêu chính mình”
    “Yêu tha nhân như yêu chính mình” cũng mang ý nghĩa của tâm “không phân biệt TA/NGƯỜI” (không yêu TA hơn NGƯỜI khác, mà đổi lại là yêu NGƯỜI như yêu chính TA). Đó cũng chính là “tánh không hai” hay là Phật tánh nói trong Phật giáo.
    Như vậy “Tình Yêu” là cái đích đến mà người Thiên Chúa giáo tìm tới trên con đường tu đức. Đến được với TìnhYêu là đến được với Thiên Chúa hay nước Trời.
    - Đức Jesus là Ngôi vị thứ hai.
    Chính đức Jesus cũng là Thiên Chúa vì trong tâm ngài “Tình Yêu” ngự trị. Đó là Ngôi Hai.
    Suốt thời gian giảng đạo, ngài giảng về hai chữ Tình Yêu, và làm thế nào để tìm được Tình Yêu đó, để nhân loại yêu thương nhau như anh em, như điều răn của ngài trong bữa tiệc ly “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu anh em”.
    Nếu mọi người đều theo được điều răn của ngài, thực sự yêu thương nhau như anh em thì con người thoát khỏi tranh giành, chém giết lẫn nhau: Đó là bình an, là hoà bình, là hạnh phúc. Đó là "con đường, là sự thật, là sự sống". Đó là ý nghĩa của ba chữ “chúa cứu thế” mà chúng ta đã trân trọng dành cho ngài, một con người đã hy sinh cả mạng sống của mình, chỉ vì theo đuổi mục đích đem hai chữ Tình Yêu đến cho mọi người. Có Tình Yêu là "yêu Người như chính bản thân mình" là có bình an, hòa bình, hạnh phúc: đây là con đường duy nhất, là sự thật, để mang lại sự sống, sống bình an,hoà bình, hạnh phúc vĩnh viễn.
    - Thánh Thần là Ngôi vị thứ ba.
    Những người thât sự hiểu và mang hai chữ Tình Yêu chân thực trong tim mình, thì chính người ấy đã "nên một" với Thiên Chúa, hay nói cách khác chính người ấy cũng là Thiên Chúa (ở ngôi vị thứ ba), vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Đó là các vị Thánh. Đó là chúa Thánh Thần, chính là ngôi thứ ba của Thiên Chúa Ba Ngôi vậy.
    Chúa Thánh Thần lại tiếp tục sứ mệnh của chúa Jesus truyền bá Tình Yêu tới cho mọi người, như một vị thầy đầy lòng thương yêu, nhân ái. Cho nên chúa Thánh Thần còn được hiểu như là Đấng bảo trợ, Đấng dậy dỗ, Đấng cứu giúp, bậc tôn sư dẫn dắt tín hữu tìm về hai chữ "Tình Yêu", như lời đức Jesus:
    "Đấng bảo trợ, là Thánh Thần, Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta nói với các ngươi."(Ga.14:26).
    Tình Yêu vốn đã có sẵn trong mỗi người (1), nên ai cũng có thể nên Thánh, cũng như ai cũng có Phật tánh, nên ai cũng có thể thành Phật vậy.
    3.- Tóm lại:
    Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều có sự hiện diện của Tình Yêu. Tình Yêu hiện diện cũng là Thiên Chúa hiện diện, vì thế tuy Ba Ngôi nhưng là một Thiên Chúa duy nhất, hay Một Thiên Chúa trong ba ngôi vị. Và Thiên Chúa ba ngôi, cùng Ba Ngôi Tam Bảo Phật giáo, về hình thức và cả ý nghĩa có những nét rất là gần nhau./.

    GHI CHÚ:
    (1) Đức Jesus là Ngôi Hai, còn được gọi là Ngôi Lời.
    Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
    Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa,
    Và Ngôi Lời là Thiên Chúa (Ga 1:1)
    "Ngôi Lời là Thiên Chúa" nên Ngôi Lời cũng là Tình Yêu, vì "Thiên Chúa là Tình Yêu".
    Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, cũng có nghĩa là Tình Yêu cũng đã có sẵn nơi con người từ lúc khởi đầu, cũng như Phật tánh đã có sẵn trong mỗi con người từ ban đầu, nhưng bị khuất lấp bởi vô minh và phiền não.
    I. MẠC KHẢI VỀ CHÚA BA NGÔI
    Hôm nay chúng ta đi vào mầu nhiệm cao cả nhất trong đạo, là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người không thể nào có thể hiểu hay hình dung được. Trong Cựu ước, dân Do thái chỉ được mạc khải cho biết là chỉ có một Thiên Chúa Giavê độc nhất và chỉ được tôn thờ một mình Ngài :”Hôm nay, các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa chớ không có Chúa nào khác”(Đnl 4,39).
    Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này ? Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta. Theo bài Tin mừng hôm nay, trước khi về trời, Đức Giêsu đã tập họp các môn đệ lại ở trên núi để dặn dò một điều sau cùng:”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,18-20).
    Đức Giêsu chỉ mạc khải cho chúng ta biết có một Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, còn tìm hiểu về Chúa Ba Ngôi thế nào thì Ngài dành cho Chúa Thánh Thần, Đấng là hồn sống của Hội thánh sẽ soi sáng và giữ gìn kho tàng đức tin. Bởi vì thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi : Thời Cựu ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
    2. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
    Cựu ước chưa có mạc khải về Chúa Ba Ngôi. Cựu ước chỉ nhấn mạnh về một đức tin độc thần : Chỉ duy Đức Chúa mới là Thiên Chúa độc nhất hiện hữu và ban ơn cứu độ. Mười điều răn được ban cho dân Israel thì điều răn quan trọng nhất là “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”(x. Xh 20,3).
    Trong Thánh lễ hôm nay, Tin mừng Matthêu ghi lại lệnh truyền của Chúa Phục sinh, mạc khải rõ ràng về mầu nhiệm này :”Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).
    Sách Công vụ Tông đồ của Luca ghi lại bài giảng của Tông đồ Phêrô có câu:”Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe”(Cv 2,33).
    Tin mừng Gioan đã nhiều lần đề cập đến mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi:”Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,16).
    Còn thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ở phần chào thăm:”Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”(2Cr 13,13).
    Chúng ta chỉ có thể biết được mạc khải về Chúa Ba Ngôi trong những đoạn Kinh thánh nêu trên. Theo đó, Đức Giêsu cho chúng ta biết : Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa, và Ngài với Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi vị riêng biệt chứ không phải là Ba Thiên Chúa. Vì Ba Ngôi cùng chung một bản tính và cùng một quyền năng nên Ba Ngôi bằng nhau, không Ngôi nào lớn hơn. Trong các kinh cầu đều có câu :”Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả” : Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời.
    Về công việc của mỗi Ngôi vị, chúng ta được biết khi sáng tạo vũ trụ vạn vật và loài người, Thiên Chúa xuất hiện như một người Cha. Ngài dùng Lời quyền năng làm cho vạn vật từ không xuất hiện (x. St 1,3). Ngài còn tiếp tục quan phòng để các tạo vật tồn tại và ngày một tiến hoá. Khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu, để thiết lập Nước Trời. Cuối cùng Ngài đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người. Khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha lại sai Thánh Thần đến tiếp tục chương trình cứu độ, bằng việc ban ơn thánh hoá để giúp loài người nên con Thiên Chúa và nhận được ơn cứu độ của Đức Giêsu (Lm Đan Vinh).
    Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Thánh Augustinô là một bậc tài trí cũng không thể hiểu được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Cầm một vỏ hến mà tát cạn đại dương còn dễ hơn là thấu hiểu được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Cứ tin, cứ yêu đi rồi sẽ hiểu . Dĩ nhiên chĩ hiểu được một phần rất nhỏ theo kiểu loại suy thôi.
    III. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ CHÚA BA NGÔI.
    Nhằm giúp các tín hữu hiểu biết một phần nào về Chúa Ba Ngôi, các nhà thần học đã dùng những hình ảnh để diễn tả, dĩ nhiên những hình ảnh này chỉ diễn tả được một phần nào về Chúa Ba Ngôi, còn mầu nhiệm thì vẫn còn là mầu nhiệm, không thể hiểu được.
    Thánh Patrick dùng hình ảnh lá cây “Tam diệp thảo”, tuy chỉ có một lá nhưng do ba lá nhỏ dính vào nhau.
    Thánh Ignace de Loyola thường dùng hình ảnh ba nốt nhạc trong một hợp âm. Tuy ba nốt nhạc khác nhau nhưng cùng làm nên một hợp âm nghe du dương.
    Hoặc chúng ta có thể dùng hình ảnh nước để diễn tả : nước có thể ở thể hơi, thể lỏng và thể đặc. Tuy chỉ là nước mà có thể ở được những dạng khác nhau.
    Hình tam giác đều tuy chỉ là một hình, nhưng có ba góc, ba cạnh đều nhau.
    Thời gian có thể lá quá khứ, hiện tại và tương lai.
    Và còn rất nhiều hình ảnh khác mà chúng ta không cần kể ra hết.
    IV. CHÚA BA NGÔI TRONG ĐỜI TA.
    1. Một dịp nhắc nhở.
    Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay là một dịp để chúng ta nhắc lại bí tích Rửa tội. Nhờ phép Rửa, chúng ta được tẩy sạch tội nguyên tổ và tội riêng đã phạm, được ơn thánh hoá, được nhận làm con Chúa, được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Ngày lễ nhắc nhở chúng ta hãy trung thành với Chúa, thi hành những điều đã hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng; đồng thời nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn để ta luôn sống trong tình con thảo đối với Chúa để lúc nào cũng có thể thưa với Ngài :”Abba, Cha ơi”.
    Năm 500, vua Clovis và rất nhiều binh sĩ xin được rửa tội qua bàn tay của thánh Rémi tại thành Reims. Trước khi ban phép Rửa tội, thánh nhân tuyên bố với nhà vua của bộ lạc Franc:”Từ đây ông sẽ thờ Đấng mà ông đốt và đốt những cái mà ông thờ”. Và nước phép rửa tội đã chảy trên trán của Clovis và ba ngàn binh sĩ, nhờ công ơn và lời cầu nguyện của bà thành Clotilde, hoàng hậu.
    2. Hạnh phúc được làm con Chúa Ba Ngôi.
    Nhờ phép Rửa và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần chúng ta được nhận làm con Chúa. Đã là con thì chúng ta được thừa hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm con Chúa, nhất là chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh của Chúa. Đấy là một vinh dự lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta vì Đức Chúa Cha bởi yêu thương đã dựng nên loài người và tôn lên làm con Ngài để có quyền thừa kế Nước Trời.
    Các loài ta thấy trên đời, nếu chúng biết nói, chắc chúng sẽ nói lên sự phen bì với ta, vì Chúa đã biệt đãi loài người phạm tội ; chúng thì không phạm tội, lại luôn theo ý Chúa mà không được Chúa thương bằng con người.
    Ông vua kia nuôi một con chim hót rất hay, ông vua yêu nó lắm, mua những thức ăn nó thích nhất, sắm cái lồng vàng. Một ngày kia nghe nó hót líu lo, ông vua say mê, và vì yêu nó quá, nên nghĩ rằng : thôi, ta nhận nó làm con, để ăn gia tài của ta. Ông vua nghĩ thế, người ta cho là yêu đến phát điên. Thực ra, Chúa đã yêu ta đến thế : Thiên Chúa mà nhận con người làm con ! Thật là hạnh phúc quá (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật B, t.2, tr 124).
    3. Chúa Ba Ngôi hành động trong ta.
    Khi đã trở thành người con Chúa chúng ta được tham dự vào đời sống của Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có Chúa ngự trong mình vì Chúa đã nói:”Ai yêu mến Thầy và tuân giữ các lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến nó, chúng ta sẽ đến ở trong nó và chúng ta sẽ lập cư trong nhà nó”(Ga 14,23).
    Thánh Phaolô cũng xác quyết:”Anh em lại không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ở trong anh em sao”?(1Cr 3,16-17 ; 6,19).
    Các thánh đã sống mầu nhiệm này một cách hết sức ân cần và thân mật. Việc Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn đã ghi sâu vào tâm trí các ngài và làm cho các ngài không bao giờ cảm thấy cô đơn lẻ loi. Thánh Têrêsa Hài đồng đã nói:”Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, Chúa trở nên tù nhân bị giam hãm trong hồn con”.
    4. Thái độ của ta đối với Chúa Ba Ngôi.
    Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là Tình yêu”. Ngài là nguồn gốc mọi tình yêu. Ngài san sẻ cho chúng ta tình yêu của Ngài để chúng ta yêu Ngài và yêu thương nhau. Điều răn mến Chúa yêu người phải được thực hiện song song, mà muốn yêu Chúa thì phải yêu người.
    a) Yêu thương nhau :
    Khi nói đến yêu thì phải nói yêu ai chứ không chỉ nói yêu suông. Mà nếu không yêu ai thì chỉ là yêu mình, một tình yêu vị kỷ bệnh hoạn, giống như tình yêu của anh chàng Narcisse trong thần thoại Hy lạp. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên cho chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
    Yêu thương là phải biết hy sinh, phục vụ người khác. Yêu thương là phải biết cho đi, phải biết trao cái mình có nhất là chính bản thân mình vì cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận.
    b) Tôn trọng sự hiệp nhất :
    Thiên Chúa Ba Ngôi là hình ảnh tuyệt vời của sự hiệp nhất. Chúa Cha yêu thương đã sinh ra Chúa Con và tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con đã làm phát sinh ra Chúa Thánh Thần. Tuy Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, trong sự yêu thương và hiệp nhất. Cuộc sống của cộng đoàn cũng cần phải có sự hiệp nhất theo gương Chúa Ba Ngôi để lúc nào cũng vang lên câu Thánh vịnh :
    Anh em xum họp một nhà
    Bao là tốt đẹp bao là thú vui.
    c) Tôn thờ Chúa Ba Ngôi :
    Để tỏ lòng yêu mến tôn sùng Chúa Ba Ngôi, ta phải có thái độ trân trọng khi xưng danh Chúa Ba Ngôi như khi đọc kinh Sáng danh hay lúc làm dấu Thánh giá. Chính trong đó ta đang tuyên xưng danh Chúa Ba Ngôi rất thánh. Ngoài ra chúng nên nghĩ ra những cách thích hợp để nhắc ta năng nhớ đên Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống.

  10. #10

    Mặc định

    Chương III: Các Mối và Điều Răn
    CHÚA KITÔ DẠY GIỮ CÁC GIỚI RĂN ĐỂ ĐƯỢC HẰNG SỐNG
    (Mười Điều răn giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi,cho ta con đường sống,cho ta được sống đời đời (MT 19,16-19)
    Bài trích sách Xuất hành: (Xh 19, 1- 20,21)
    "Mồng một tháng thứ ba kể từ khi con cái Israel ra khỏi Ai cập, chính trong ngày ấy, họ tới Sa mạc Sinai...họ đóng trại ở đó đối diện với núi...
    Yavê phán với Mosê, "Hãy loan báo cho con cái Israel, nếu các ngươi quyết nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì các ngươi sẽ là dân riêng của Ta giữa các dân...các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế (kingdom of priest) cho Ta, một dân thánh (dedicated people).
    Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây u ám, để cho dân nghe tiếng Ta trong lúc Ta phán bảo ngươi..."
    Đến ngày thứ ba, xảy có sấm chớp và mây dầy đặc trên núi, và tiếng loa rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run khiếp. Mosê đưa dân ra khỏi trại nghinh đón Thiên Chúa, họ đứng dưới chân núi. Tất cả núi Sinai nghi ngút khói, vì Yavê xuống trong lửa...
    Thiên Chúa đã phán các lời này:
    1.Điều Răn Nhất: "Ta là Yavê Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đem ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi nhà tôi mọi, Ngươi không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta và ngươi sẽ không có những thần khác trước nhan Ta...ngươi sẽ không thờ lạy chúng... Ngươi chỉ thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.

    2.Điều răn hai: Ngươi sẽ không kêu Danh Yavê cách bất kính (use My Name in vain),Ngươi không được dùng danh thánh Chúa cách bất xứng,Chớ kêu Tên Đức Chúa Trời vô cớ

    3.Điều răn ba: Ngươi phải giữ ngày Sabát (tức ngày Chúa Nhật),Ngươi hãy nhớ đến ngày lễ nghỉ để thánh hoá (make it holy) ngày đó.
    4.Điều răn bốn:Hãy trọng kính(respect) cha mẹ ngươi.
    5.Điều răn năm: Ngươi không được hãm hại người khác
    Chớ giết người(murder),
    6.Điều răn sáu: Ngươi không được dâm dục,ngoại tình (commit adultery),
    7.Điều răn bảy: Ngươi không được trộm cắp(steal)
    Chớ lấy của người
    8.Điều răn tám: Ngươi không được làm chứng gian (accuse falsely) cáo tội đồng loại,
    9.Điều răn chín: Ngươi không được chiếm đoạt vợ chồng của người khác.Ngươi sẽ không mê muốn vợ của đồng loại, tớ trai, tớ gái, bò lừa hay bất cứ vật gì của nó...

    10.Điều răn mười: Ngươi không được ham muốn chiếm đoạt của cải người khác, chớ tham của người.
    Ngươi sẽ không tham muốn (desire) nhà cửa của đồng loại.
    Dân đã đứng mãi đàng xa, và Mosê tiến lại bên đám mây, chỗ có Thiên Chúa".
    Cần đèn xanh đỏ: Chúng ta đang ở trong một nước mà xe trở thành phương tiện di chuyển không thể thiếu. Muốn tới nơi mong muốn, người lái xe cần phải lưu ý tới các bảng chỉ dẫn hoặc đèn xanh đỏ trên đường đi, nếu không, sẽ không thể tới nơi an toàn mà còn bị tai nạn, gây án mạng, vào tù hoặc ra nghĩa địa.
    Mười Điều Răn Chúa có thể ví như những bảng chỉ dẫn hoặc đèn xanh đỏ trên đường về quê trời, người tín hữu cần lưu ý tuân giữ.
    Giữ Mười Điều răn Chúa, - người ta sẽ được "Sống": Bản Thập Điều là một con đường Sống, dù nói lên những điều cấm đoán.(Glcg92 2057).
    Chính Chúa Kitô đã quả quyết điều này khi trả lời cho người thanh niên: "Nếu anh muốn được sự Sống, hãy tuân giữ các Điều Răn (Mt 19, 16-19).
    Ai quen với đạo Phật, thấy đạo Phật dạy giữ ngũ giới: Cấm sát sinh, cấm trộm cướp, cấm gian dâm, cấm nói dối, cấm rượu thịt. Như vậy cũng chưa đủ. Thật ra, Mười Điều Răn chính là luật Tự nhiên mà Thiên Chúa đã ghi trong lòng con người từ thời ban đầu (Glcg92 2070).
    Mười Điều Răn "nói lên những đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân. Ba Điều Răn đầu liên quan nhiều hơn đến tình yêu Thiên Chúa, và bảy điều răn sau liên quan nhiều hơn đến tình yêu tha nhân (GlCg 2067). Giữ 10 điều răn không khó quá sức ta, vì những gì Thiên Chúa truyền dạy ta phải làm, Người dùng ơn thánh để giúp ta có thể làm (GlCg92 2082).

    BA ĐIỀU RĂN ĐẦU HƯỚNG TỚI CHÚA:
    1.Điều Răn Nhất:Ta là Thiên Chúa của ngươi
    Ngươi không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta
    Ngươi không được tạc tượng vẽ hình để thờ
    Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
    (You shall not have other gods besides me)
    (Glcg92 2084-2141).

    (Nhờ điều răn này,người ta được giải thoát khỏi thờ cúng tà thần)
    Điều răn nhất bao gồm những gì?
    - Điều răn nhất bao gồm đức Tin, Cậy, Mến, Tôn thờ một Chúa Chân thật-Đấng không thay đổi và rất công minh. (Glcg92 2086).
    a- Đức Tin đòi ta giữ gìn đức tin cách thận trọng.
    Kính mến Chúa hết lòng, hết sức, trong tâm hồn và ngoài thể xác(tư tưởng, lời nói, việc làm): Cầu nguyện, dự các lễ nghi trong đạo, lãnh nhận các Bí tích.
    Tránh những cố ý nghi ngờ những điều Giáo hội dạy phải tin, chối bỏ điều phải tin, bỏ đạo Công giáo.
    b- Đức Cậy đòi ta chờ đợi sự chúc lành của Chúa và được hưởng phúc đời đời.
    Tránh tuyệt vọng về phần rỗi, hoặc tự cao tự đại nghĩ tự mình có thể đạt phần rỗi không cần ơn Chúa giúp. (2090-91)
    c- Đức Mến đòi ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, mọi loài.
    Tránh thái độ lãnh đạm, vô ơn, biếng nhác, nguội lạnh.Không nghi ngờ, thù nghịch, thù ghét Chúa, bỏ đạo Chúa. (2093-94).

    d- Đức Tôn thờ đòi ta:
    - Tôn thờ Chúa với niềm cung kính và suy phục tuyệt đối. (2096-97).
    - Cầu nguyện, hy sinh và giữ lời khấn hứa (cách riêng bậc tu trì) (2098-2103).
    - Phải Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người (2104-09).
    . Cấm không được thờ thêm thần linh nào của đạo khác ngoài một Thiên Chúa (2110).
    Cấm tin kiêng dị đoan, thờ đa thần, ngẫu tượng, tin bói toán, ma thuật, phù thủy. Không cậy nhờ cậy nhờ Satan, ma quỉ (âm binh) qua các hình thức: bói bài, gọi hồn người chết, giải mộng, đoán định tương lai, lấy số tử vi, chiêm tinh, tướng số, giải điềm, lên đồng cốt ...vì nó đi ngược lòng tôn kính Thiên Chúa (Glcg 2111-17).
    Người ta nói về mấy ông bói toán gieo quẻ như sau:
    "Hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.
    "Thề rằng xẩm chẳng thấy gì, xẩm mà nói dối xẩm thì cũng đui.
    . Không thách đố Thiên Chúa, cấm lời nói việc làm thách thức Thiên Chúa, phạm Thánh (nhất là phạm đến phép Mình Thánh (phép Thánh Thể) ), và mua bán thần Thánh (2118-22).
    e- Giáo hội Công giáo cho phép việc tôn kính ảnh tượng Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các thiên thần và các Thánh của đạo Công Giáo không đi ngược điều Thiên Chúa cấm dân Do thái "tạc tượng ảnh" trong Cựu Ước (Nhị luật 4,15-16), vì ngày nay việc tôn kính ảnh tượng là để tưởng nhớ tới các Đấng, dựa trên hình ảnh Ngôi Lời đã nhập thể làm người có xác thể (GlCg92 2129-33).
    Theo tập tục người Việt nam, người ta có thể:
    1.Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa,Đức Mẹ trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
    2.Đặt hoa nến trước di ảnh Ông Bà,
    3.Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. Cầm hương vái lậy di ảnh, bài vị Ông Bà để tỏ lòng tôn kính, chứ không có nghĩa là thờ Ông Bà như thờ Thiên Chúa.

    4.Ngày giỗ cũng là ngày "kỵ nhật" được "cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

    5.Trong hôn lễ, dâu rể được làm "Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên" trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
    2.Điều răn hai: Ngươi không được dùng danh thánh Chúa cách bất xứng
    Chớ kêu Tên Đức Chúa Trời vô cớ
    (You shall not take the name of The Lord, your God, in vain)
    (GlCg92 2142-67).
    (Nhờ điều răn này người ta biết tôn vinh Danh Chúa cho phải đạo)
    Điều răn hai đòi tôn kính, , chúc tụng, ngợi khen Danh Thánh Chúa (2142-), tuyên xưng Danh Chúa, vì Danh Chúa là Thánh, con người chỉ nói đến Thánh Danh Chúa để chúc tụng, ngợi khen .
    - Không được dùng Danh Chúa cách bất kính (2143).

    a/ Phải tuyên xưng Danh Chúa cách nào?
    - Bằng cách tuyên xưng đức tin của mình không sợ gì hết. Khi rao giảng và dạy Giáo lý phải có tâm tình tôn kính Danh Chúa Giêsu Kitô
    - Ta nên kêu Tên Chúa khi nào?
    - Khi bắt đầu ngày sống, khi gặp cơn cám dỗ, gặp nguy khó, ta làm dấu Thánh giá kêu cầu Chúa Ba Ngôi (2157).
    - Mỗi người Công Giáo có tên Thánh Bổn mạng Rửa tội, là để thánh nhân cầu bầu cho, và là gương sống thánh thiện cho ta (2156).
    b/ Cấm bất kính Danh Chúa là thế nào?
    - Là cấm sử dụng cách bất xứng Thánh Danh Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh.
    - Không giữ lời hứa nhân Danh Chúa.
    - Nói phạm thượng (nói trong lòng hay ngoài miệng những lời oán trách, thách thức, nói xấu Chúa) là trực tiếp phạm giới răn này. Nói phạm thượng, tự nó là tội trọng (2148).
    - Cấm chửi thề xấu xa nhắc tới Danh Chúa, và nêu Danh Ngài vào những lời phù phép (2149).
    - Đã lấy Danh Chúa mà thề, hứa thì gắng giữ. Cấm thề gian, thề làm điều xấu (lấy Danh Chúa làm chứng lời thề dối trá của mình. Cấm phản lời thề (thề rồi bỏ không giữ) (2146-52).
    (Mỗi người Công giáo có tên thánh Bổn mạng Rửa tội, Người cầu bầu và gương sống thánh thiện cho ta (2156).
    3.Điều răn ba: Ngươi phải giữ ngày Sabát (tức ngày Chúa Nhật)
    (Remember to keep holy the Sabbath day)
    (Glcg92 2168-95).
    (Nhờ điều răn này ta được nghỉ ngơi phần xác để hưởng ngày của Chúa, kỷ niệm Chúa Phục sinh)
    Điều răn ba đòi buộc điều gì?
    - a/ Dự lễ: Đòi người Công giáo dự lễ Chúa nhật (chính ngày hoặc chiều áp). Hiện diện với tâm hồn sùng mộ từ đầu tới cuối. Cũng phải dự Thánh lễ các ngày lễ buộc (tại Hoa kỳ có 6 lễ), trừ khi được miễn vì lý do nghiêm trọng (bị bệnh, săn sóc trẻ sơ sinh) hay được vị chủ chăn mình (cha xứ) miễn chuẩn.
    (Khi được miễn dự lễ vì những lý do trên hoặc vì không có xe đi lễ, đi đường xa nhỡ giờ lễ...thì phải làm việc lành bù lại (chẳng hạn: đọc năm hoặc ba chục kinh kính mừng, hoặc đọc Kinh Thánh mươi phút và cầu nguyện).
    Ai lỗi phạm nghĩa vụ này một cách có suy nghĩ thì phạm tội trọng (2181).
    - b/ Kiêng việc xác: Ngày Chúa nhật (Ngày của Chúa) được đặt ra để mọi người được nghỉ ngơi và rảnh rỗi để vun trồng đời sống văn hoá, nội tâm cá nhân, gia đình, từ thiện xã hội và tôn Giáo (2184-86).
    - Người có quyền, phải tránh đòi hỏi người khác làm những điều có thể ngăn cản họ giữ ngày của Chúa.
    - Phải kiêng các công việc nặng nhọc không cần thiết, những hoạt động ngăn cản việc thờ phượng Chúa, cản trở niềm vui nghỉ ngơi ngày Chúa nhật (2185).
    - Những truyện khẩn cấp của gia đình, hoặc lợi ích của xã hội là những lý do chính đáng để miễn chuẩn việc buộc nghỉ ngơi ngày Chúa nhật. Nhưng đừng để sự miễn chuẩn thành tập quán có hại cho tôn Giáo, đời sống gia đình, cho sức khỏe (2185).
    - Dùng giờ rảnh trau dồi kiến thức văn hóa, xã hội và tôn giáo.
    c/ Làm những công việc từ thiện (thăm bệnh nhân, người già...) :
    Cha ông ta khuyên con cháu:
    Người trồng cây hạnh người chơi
    Ta trồng cây đức để đời về sau.
    BẢY ĐIỀU RĂN SAU HƯỚNG TỚI THA NHÂN:
    4.Điều răn bốn:Tôn kính cha mẹ
    (Honor your father and mother)
    (2197-2257).
    (Nhờ Điều răn này ta thực hiện đức công bằng với những ai ta có bổn phận)
    Điều răn bốn nói về điều gì?
    - Điều răn này dạy con cái phải tôn kính, yêu mến, biết ơn cha mẹ, Ông bà, Tổ tiên; học trò với thầy; công nhân với chủ nhân; cấp dưới với cấp trên; công dân với chính quyền (nhà cầm quyền), giáo dân với Giáo hội, với quê hương…Và ngược lại (2199).

    - Gia đình Công Giáo phải tôn trọng vấn đề : sinh sản, giáo dục con cái, cầu nguyện, đọc Lời Chúa hằng ngày củng cố đức ái trong gia đình, loan báo Tin mừng của Chúa.
    Trong gia đình:
    a/ Khi còn nhỏ: Con cái yêu mến, tôn kính, biết ơn, vâng lời cha mẹ và những người giám hộ những điều phải lẽ.
    b/ Khi đã khôn lớn:
    - Tùy khả năng mà giúp cha mẹ vật chất và tinh thần, nhất là khi cha mẹ già, đau yếu, bệnh hoạn, cô đơn, buồn tủi...
    Mẹ già ở túp lều tranh,
    sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
    - Khi cha mẹ hòng chết: phải giúp các Người lo phần hồn: Lãnh Bí tích Giải tội, Xức dầu, Mình Thánh như Của Ăn đàng về trời.
    - Khi cha mẹ đã qua đời: phải lo báo hiếu xin lễ, cầu nguyện, làm việc lành cứu cha mẹ chóng ra khỏi Luyện ngục, được lên Thiên đàng mát mẻ. (2218).
    (Người Việt nam rất trọng đạo hiếu, nên nhiều người sợ không dám theo đạo Chúa, sợ bỏ Ông Bà, vì người ta thường nghe nói:
    Công cha như núi Thái sơn,
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
    Một lòng thờ mẹ kính cha,
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
    - Anh chị em trong gia đình, hãy chịu đựng lẫn nhau (2219).
    - Các Kitô hữu phải biết ơn những ai đã đưa mình vào Giáo hội (bà con, ông bà, đỡ đầu, chủ chăn, Giáo lý viên, thầy dạy, bạn bè).

    - Gia đình công Giáo đối với ngoài xã hội: Gia đình phải biết chăm sóc các em nhỏ, người lớn, người đau yếu, tật nguyền, nghèo khó (2208).

    - Các Kitô hữu cần tỏ lòng biết ơn những ai đã đem mình vào Giáo hội là cha mẹ, ông bà, chủ chăn, giáo lý viên, thầy cô giáo, bạn bè.
    - Người dân - vâng phục quyền bính hợp pháp và phục vụ tiện ích chung, - đóng thuế sòng phẳng, - đi bầu cử, - bảo vệ quê hương và nơi mình đang sống.
    - Nhà cầm quyền phục vụ theo quyền hành. Phải tôn trọng những quyền căn bản con người, đặc biệt quyền các gia đình, những người thua thiệt.Phải dùng quyền bính để phục vụ, không được truyền dạy những điều trái phẩm giá con người và trái luật tự nhiên (2235). Thượng cấp phải xử sự công bằng phân phối đồng đều, khôn ngoan nhắm lợi ích công cộng (2236).
    - Giáo hội và chính trị: Giáo hội không hòa lẫn vào cộng đồng chính trị bất cứ cách nào. Giáo hội tôn trọng , cổ võ tự do chính trị của công dân.
    (Xét cho kỹ, điều răn thứ bốn đạo Công giáo buộc ngặt hơn đạo hiếu thông thường mà nhiều người Việt nam vẫn quan niệm, và như vậy theo đạo Chúa không sợ bất hiếu với cha mẹ).
    Ngược lại:

    Bổn phận cha mẹ (người giám hộ) Sinh, dưỡng, Giáo dục luân lý, đào tạo tinh thần. Tôn trọng con cái như những "con người" và "con Chúa", làm gương sáng cho con (2221-23). Cha mẹ chọn trường cho con học, hướng dẫn con chọn nghề nghiệp và bậc sống (2229-30), thầy cô, nhà cầm quyền: phải theo nhiệm vụ mình mà chăm sóc cho người thuộc quyền cơm ăn, áo mặc, học vấn, an ninh...trong tình "con người" và "con Chúa", về các phương diện thể xác, trí khôn, đức tính, tôn giáo. Nêu gương lành cho người thuộc quyền.
    Uốn cây từ thuở còn non,
    Dạy con từ thuở con còn ngây thơ.
    5.Điều răn năm: Ngươi không được hãm hại người khác
    Chớ giết người
    (You shall not kill)
    (2258-2330).
    (Nhờ điều răn này, mạng sống ta và người thân yêu được bảo vệ)
    (Người Việt thường nói: "Mạng sống quí hơn đống vàng". Giết người là việc độc ác bị mọi người kinh tởm. Đạo buộc tín hữu tôn trọng mạng sống của mình cũng như của người khác "từ khi còn nằm trong lòng mẹ cho tới khi chôn vào lòng đất", vì chỉ Thiên Chúa có quyền trên mạng sống con người).
    * Điều răn này cấm:
    a/ Giết người: cấm cố ý giết người trực tiếp, giết người vô tội (Giết trẻ thơ (phá thai), cộng tác phá thai, giết anh em, cha mẹ, vợ chồng, làm chết sớm... đều là những tội thật nặng nề, - Làm chết êm (euthanasia) - Cũng không được cố ý gián tiếp gây nên cái chết của một người. Không được bỏ đói để chết đói những người già, người bệnh nan y, buôn bán trục lợi gây nên chết đói (2268-69)
    b/ Giết mình (cấm tự tử(2280), cắt chặt phần thân thể của mình, triệt đường sinh sản, phung phí sức khoẻ, làm hại sức khoẻ: như ăn uống quá độ, hút thuốc quá đáng, say rượu, lái xe, lái tầu quá lẹ gây nguy hiểm chết người (2290), xài xì ke ma túy, buôn bán ma túy là lỗi nặng (2291), nghiện rượu.
    c/ Cấm làm gương xấu cho nha nhân. Gương xấu có thể sinh ra từ thời trang hoặc dư luận (2286).
    d/ Cấm giận ghét tha nhân (muốn điều xấu trả thù tha nhân).. Giận ghét tới mức muốn giết hoặc đả thương cách có suy nghĩ, thì phạm đức ái cách nặng (2302). Chúa dạy tha thứ, yêu thương cả kẻ thù.

    e/ Chửi mắng (Mt 5,22)
    * Những điều được phép:
    a/ Tự vệ (self defense) cứu mình, dù gây cái chết cho kẻ đang xông đánh. Ai có nhiệm vụ với gia đình, với công ích càng cần phải tự vệ.
    b/ Giết quân địch của tổ quốc theo lệnh thủ lãnh quốc gia.
    (Nhà cầm quyền gắng tránh chiến tranh, tránh chạy đua và buôn bán vũ khí).
    c/ Cho các phần cơ thể của mình sau khi đã qua đời (Glcg92 số 2301).
    d/ Hỏa táng thi thể.
    6.Điều răn sáu: Ngươi không được dâm dục
    (You shall not commit adultery)
    (2331-2400).
    (Nhờ điều răn này năng lực và phái tính mỗi người được tôn trọng)
    Điều răn này đòi tránh những lỗi phạm đức Khiết tịnh theo bâc sống (2349).
    a/ Những lỗi phạm đức Khiết tịnh: Các hình thức tà dâm bên ngoài, một mình hay với người khác (thủ dâm, thông dâm, khiêu dâm...)
    - Thủ dâm (masturbation) là tự ý kích thích bộ sinh dục mình để tìm khoái cảm xác thịt),
    - Thông dâm (fornication) là quan hệ xác thịt giữa người nam và người nữ ngoài hôn nhân.
    - Khiêu dâm (Pornography) qua Sách báo và tranh ảnh: chủ ý phô bày cho người khác những tác động tính dục, thực hiện qua tưởng tượng hoặc từ thân mật nam nữ,
    - Mãi dâm (Prostitution): Tự hiến những lạc thú tình dục cho người khác,
    - Cưỡng hiếp (Rape): Dùng bạo lực cưỡng bức người ta ân ái với mình,
    - Đồng tính Luyến ái (Homosexuality): Hai nam hoặc hai nữ có những hành vi phái tính với nhau.
    b/ Những vi phạm trong bậc hôn nhân, đời sống vợ chồng như ngừa thai trái tự nhiên, ngoại tình...
    - Ngoại tình (Adultery): Người đã có vợ chồng ân ái với người khác (2308),
    - Li dị (divorce): Vợ chồng muốn đứt đoạn cam kết tự do chung sống trọn đời (2382).
    - Đa thê (Polygamy): Một chồng nhiều vợ, điều này không hợp kế hoạch của Thiên Chúa,
    - Loạn luân (Incest): Quan hệ ái ân giữa bà con ruột thịt, bà con thông gia, ở cấp bậc họ hàng cấm không được kết hôn với nhau (2388).
    - Sống chung không hôn thú (Free union): Quan hệ ân ái như vợ chồng, nhưng không chấp nhận hình thức pháp lý công khai, - Hôn nhân thử (Trial marriage): Giao hợp trước hôn phối với ý hướng lấy nhau.
    Tất cả những hình thức này đều nghịch luân lý và không được rước lễ (2390).
    7.Điều răn bảy: Ngươi không được trộm cắp
    Chớ lấy của người
    (You shall not steal)
    (2401-2463).
    (Nhờ điều răn này của cải của ta và người thân được tôn trọng)
    * Điều Răn này cấm:
    a/ Trộm cướp (nghĩa là chiếm tài sản tha nhân trái ý họ).
    b/ Cấm chiếm đoạt hoặc giữ của cải của người khác cách bất công (giữ lại của cho mượn, giữ của đánh mất hay đồ vật người ta mất, gian lận trong việc mua bán, , buôn bán đồ lậu, trả lương bất công, trả công thiếu công bằng, nâng giá cả lừa người quẫn bách).
    c/ Làm hại: Đầu cơ để thay đổi giá cả, tăng giá để thủ lợi, hối lộ cấp trên làm sai lệch quyết đoán của người thi hành pháp luật, tự chiếm cho mình tài sản công, làm ăn cẩu thả gây hại cho chủ, gian lận thuế, , giả mạo hóa đơn, chi tiêu lãng phí, cố ý làm hại công quĩ, cố ý gây hại của tư, của công (2409).
    Cha ông ta dạy
    Không nên: "Của người bồ tát, của mình lạt buộc", hoặc "Của mình thì giữ bo bo, của người lại muốn cho bò nó ăn".
    d/ Không giữ lời hứa, không giữ hợp đồng đã ký kết (2401).
    đ/ Cờ bạc bất công hay cá độ, nếu người chơi bị tước hết những gì cần thiết để lo cho bản thân và gia đình. Cá độ bất công hay gian lận cờ bạc là tội nặng, trừ khi thiệt hại nhẹ hay người bị hại coi là nhẹ (21413).
    Tham chi những của phù vân,
    Lỡ ra công nợ nhiều phần xấu xa.

    e/ Thú vật: không xứng, khi tiêu xài những món tiền lớn cho chúng hơn dành cho anh em nghèo khổ. Cũng không xứng khi dành cho loài vật những trìu mến chỉ dành cho con người (2416-18).

    e/ Đền bù: Khi đã lấy hay giữ của cải người ta cách bất công, phải đền trả lại cho chủ của, hoặc cho con cháu họ khi có thể. Nếu không biết đền cho ai thì dùng tiền của ấy vào việc từ thiện bác ái, hay dâng cúng vào nhà thờ.
    Xem như trên, nếu giữ được những điều đạo Chúa dạy, xã hội sẽ trật tự biết bao, mọi người sống trong bình an, hạnh phúc, trong sự tin tưởng nhau. Người mình khi nhạo những kẻ lười biếng, không chịu cần cù làm việc mà lại muốn có tiền tiêu, bằng lời châm biếm sau đây:
    Con ơi học lấy nghề cha,
    một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
    8.Điều răn tám: Ngươi không được làm chứng dối
    (You shall not bear false witness against your neighbor)
    (2464-2513).
    (Nhờ điều răn này ta sống trong sự thật)
    a/ Điều răn tám cấm điều gì?
    Cấm dối trá trong mọi giao tiếp với tha nhân:
    - Nói dối, nói sai sự thực với chủ ý lừa đảo người có quyền biết sự thật, nói xấu, nói hành, nói oan, nói hay làm...hạ danh giá người ta, làm chứng gian , thề gian, lỗi lời thề.
    Nói dối có thể thành nặng khi phạm công bình, bác ái cách nghiêm trọng. (2482- 86).
    Cha ông ta thường khuyên con cháu:
    Ăn mặn nói ngay, Còn hơn ăn chay nói dối.
    Và khi lỡ nói dối thì nên sám hối ngay:
    "Một điều nói dối, sám hối bảy ngày".

    b/ Bồi thường thế nào cho đúng phép?
    - Bất cứ tội nào phạm đến đức công bằng và bác ái phạm những điều hại danh giá tha nhân, chống lại sự thật đều buộc phải bồi thường cân xứng theo lương tâm, dù kẻ phạm tội đã nhận được ơn tha thứ qua bí tích giải tội. Khi không thể sửa lại thiệt hại cách công khai, thì phải làm cách kín đáo. Nếu không thể trực tiếp đền bù cho kẻ bị thiệt, thì phải đền bù theo tinh thần. Đền bù thanh danh thường có tính cách tinh thần, nhưng cũng có khi bằng vật chất, tùy thiệt hại gây cho tha nhân. Đây là nghĩa vụ buộc lương tâm.
    c/ Cũng phải giữ bí mật toà giải tội, bí mật Bí tích Hòa giải và bí mật nghề nghiệp, bí mật quốc gia, trừ trường hợp ngoại lệ khi sự giữ sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho người giữ hoặc nhận bí mật, cho đệ tam nhân, mà chỉ có thể tránh hại bằng sự tiết lộ bí mật đã nghe.
    d/ Cả những truyện riêng tư, những tâm sự đời tư tai hại cho người mà không có lời thề giữ bí mật cũng không được tiết lộ, nếu có hại cho tha nhân, trừ khi có lý do nghiêm trọng tương xứng (2491).
    đ/ Thề làm chứng gian dối.
    9.Điều răn chín: Ngươi không được chiếm đoạt vợ chồng của người khác
    (You shall not covet your neighbor's wife)
    (2514-2533).
    (Nhờ điều tăn này ta chống lại sự thèm muốn nhục dục, giữ sự thanh sạch tâm hồn là đền thờ Chúa)
    Điều răn này cấm ước muốn làm những chuyện dâm tà. Điều này chỉ xảy ra bên trong, chứ chưa thực hành bên ngoài như điều răn thứ Sáu. Nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt trong lòng thấy tất cả.
    (Giữ tâm hồn là Đền thờ Chúa cho thanh sạch, Chúa sẽ cho được nhìn thấy Chúa đời sau, ngay từ đời này giúp ta nhìn xem mọi sự theo Ý Thiên Chúa.
    (Với ơn Chúa và sự cố gắng, người ta có thể giữ mình trong sạch được. Người mình thường ca tụng đoá sen trong bùn:
    Trong đầm gì đẹp bằng sen,
    Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng,
    Nhị vàng bông trắng lá xanh,
    Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
    (Những dịp dễ làm ta phạm hai điều răn sáu và chín là: Lười biếng, bạn bè xấu, sách báo phim ảnh tục, ăn uống say sưa, giao thiệp thiếu nết na.
    Xã hội Việt nam xưa kia không hề cho nam nữ giao thiệp tự do, cha ông quan niệm rằng: Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, nên "nam nữ thọ thọ bất thân", trao cho nhau cái gì thì không trực tiếp đưa tay với tay. Đối với các cặp hôn nhân, cha ông cũng khuyên nên giữ trong trắng:
    "Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ, đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau).

    Điều răn chín cấm điều gì?
    Điều răn này cấm:
    - Ước muốn làm những chuyện dâm tà.
    - Cấm sự thèm muốn xác thịt (2515).
    - Sự trong sạch đòi phải có sự nết na.
    Điều này chỉ xảy ra bên trong, chứ chưa thực hành bên ngoài như điều răn thứ Sáu. Nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt trong lòng thấy tất cả.
    (Giữ tâm hồn là Đền thờ Chúa cho thanh sạch, Chúa sẽ cho được nhìn thấy Chúa đời sau, ngay từ đời này giúp ta nhìn xem mọi sự theo Ý Thiên Chúa.
    (Với ơn Chúa và sự cố gắng, người ta có thể giữ mình trong sạch được. Người mình thường ca tụng đoá sen trong bùn:
    Trong đầm gì đẹp bằng sen,
    Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng,
    Nhị vàng bông trắng lá xanh,
    Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
    (Những dịp dễ làm ta phạm hai điều răn sáu và chín là: Lười biếng, bạn bè xấu, sách báo phim ảnh tục, ăn uống say sưa, giao thiệp thiếu nết na.
    Xã hội Việt nam xưa kia không hề cho nam nữ giao thiệp tự do, cha ông quan niệm rằng: Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, nên "nam nữ thọ thọ bất thân", trao cho nhau cái gì thì không trực tiếp đưa tay với tay. Đối với các cặp hôn nhân, cha ông cũng khuyên nên giữ trong trắng:
    "Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ, đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau”.
    Nết na từ chối phơi bày ra những gì cần phải giấu kín, nết na hướng dẫn cái nhìn và cử chỉ cho phù hợp với nhân phẩm, tránh tò mò không lành mạnh. (2521-22). Sự nết na của thân xác chống lại những khai thác của tính khoái nhìn thân thể con người, nơi một số tranh quảng cáo, cũng chống lại một số phương tiện truyền thông đại chúng đa đi quá trớn trong việc phô bày những chuyện thầm kín. Sự nết na khuyên người ta chống lại những quyến dũ của thời trang.
    Dạy sự nết na cho trẻ em và cho các thiếu niên là gợi cho chúng ý thức về sự tôn trọng nhân vị con người (2521-24).
    10.Điều răn mười: Ngươi không được ham muốn chiếm đoạt của cải người khác
    Chớ tham của người
    (You shall not covet anything that belongs to your neighbor)
    (2534-2557).
    (Nhờ điều răn này ta tâm hồn ta thanh thản thoát khỏi tham lam)

    Điều răn mười cấm không được ước muốn và tìm cách chiếm đoạt của cải,tài sản của tha nhân cách bất công. Khác với điều răn thứ bảy đã chiếm đoạt rồi.
    a/ Cũng cấm để lòng phạm những điều bất công, làm thiệt hại tài sản tha nhân (2536).
    b/ Những con buôn ước ao thấy sự đói kém để họ bán hàng đắt lên, những kẻ mong ước thấy đồng bào sống cơ cực để họ kiếm lời, những y sĩ mong có nhiều bệnh nhân, những người thuộc giới luật pháp mong có nhiều vụ kiện quan trọng (2537).
    c/ Cấm ghen tương những sự tốt lành của tha nhân, buồn phiền khi thấy người khác có của cải, và rất ước ao chiếm cho mình dù bằng cách bất chính. Khi muốn làm thiệt hại nặng cho tha nhân, thì là tội trọng.
    (Khi bị cám dỗ tham lam của người, nếu bỏ ngay những tư tưởng tham lam thì không mắc lỗi mà còn có công phúc trước mặt Chúa. Thiên Chúa thấu suốt lòng mỗi người sẽ thưởng hay phạt những ý nghĩ, những ước muốn tốt xấu của mỗi người. Ta hãy sống ngay thật, sẽ được bình an. Nên khát vọng no thỏa trong ơn Chúa Thánh linh và xin ơn nghèo khó trong tâm hồn để được Chúa là gia nghiệp. Tập khiêm nhường, sống phó thác cho Chúa).

    Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ:Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,sau lại yêu người như mình ta vậy.Amen

  11. #11

    Mặc định

    KINH SÁU ĐIỀU RĂN
    Hội Thánh có sáu điều răn:
    Thứ nhất: Xem lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc.
    Thứ hai: Chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc.
    Thứ ba: Xưng tội trong một năm ít là một lần
    Thứ bốn: Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh.
    Thứ năm: Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc
    Thứ sáu: Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng các ngày khác Hội Thánh dạy

  12. #12

    Mặc định

    KINH BẢY PHÉP BÍ TÍCH
    Đạo Đức Chúa Trời có bảy phép Bí Tích:
    Thứ nhất: Bí Tích Rửa Tội
    1. Bí Tích Rửa Tội là gì?
    Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để sinh ta lại làm con Ðức Chúa Trời và con Hội Thánh.
    2. Ai có thể ban bí tích Rửa Tội?
    Linh Mục và (giáo dân cũng được khi trong trường hợp khẩn cấp)
    3. Có mấy cách Rửa Tội?
    Có 3 cách: bằng nước, bằng máu, bằng lòng muốn
    4. Phải Rửa Tội như thế nào?
    Phải đổ nước trên trán người chịu phép Rửa Tội và đọc: “Tôi rửa …….. nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
    5. Ai có thể nhận Bí Tích Rửa Tội?
    - Bất cứ ai chưa được rửa tội.
    - Nếu là người lớn thì phải: Có lòng muốn, phải có lòng tin và cải thiện đời sống, phải học giáo lý
    6. Chúng ta lãng nhận gì khi chịu bí tích Rửa Tội?
    Chúa ban cho ta ơn Thánh sủng, các nhân đức đối thần: tin, cậy, mến.
    7. Trong Bí Tích Rửa Tội, Chúa Giêsu tha tội nào cho chúng ta?
    Tha tội nguyên tổ và tội riêng ta phạm.
    8. Trong Bí Tích Rửa Tội, ta hứa sự gì?
    a. Từ bỏ ma quỷ, những quyến rũ của ma quỷ, và những cám dỗ
    b. Hữa sống theo giáo huấn của Chúa Kitô và Giáo Hội.
    9. Bí Tích Rửa Tội có cần thiết không?
    Bí Tích Rửa Tội cần thiết vì tha tội nguyên tổ mà tổ tông đã truyền lại cho chúng ta để ta vào thiên đàng.
    10. Mô thể của bi tích Rửa Tội là gì?
    - “Tôi rửa …. nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”
    - Lời đọc nói lên rằng con người đang bước vào sự thông hiệp vĩnh cửu với Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần.
    11. Chất thể của bí tích Rửa Tội là gì?
    Nước: nói lên sự rửa sạch tội và ban cho đời sống mới tức là ơn thánh.
    12. Tại sao phải lấy tên Thánh khi chịu phép Rửa Tội?
    Ðể người chịu phép Rửa Tội có thể noi gương đấng Thánh của mình và được Người bảo hộ cách riêng.
    13. Tại sao phải cần người đỡ đầu khi chịu phép Rửa Tội?
    Ðể người đỡ đầu có thể giúp đỡ kẻ đã chịu phép Rửa Tội về đàng thiêng liêng.
    14. Trẻ em chết khi chưa được Rửa Tội sẽ ra sao?
    Những trẻ em này chết khi chưa phạm tội thì được sống nơi hạnh phúc tự nhiên gọi là “Lâm Bô.”
    15. Cha mẹ phải lo liệu cho con cái mình được lãnh bí tích Rửa Tội càng sớm càng hay.
    16. Bí Tích Rửa Tội ban gì cho ta?
    Bí Tích Rửa Tội xoá bỏ tội tổ tông bằng cách cho ta đời sống ân sủng. Nó làm ta trở nên con cái Chúa và phần tử của Giáo Hội Ngài.
    17. Tại sao phép Bí Tích Rửa Tội là một tái sinh đối với ta?
    Bí Tích là một tái sinh vì nó cho ta thông phần vào đời sống của Ðức Kitô phục sinh.
    18. Ấn tín bí tích làm gì cho ta?
    Ấn tín Bí Tích ghi dấu trên ta để ta trở nên phần tử của Giáo Hội, ban cho ta khả năng lãnh nhận các bí tích khác và thông phần vào đời sống của Giáo Hội.
    19. Ðức tin ban cho ta khả năng nào?
    Ðức tin ban cho ta khả năng tin Thiên Chúa phán dạy ta qua Con Ngài, và dâng hiến ta cho Ngài.
    20. Bí Tích Rửa Tội kêu gọi ta làm gì?
    Bí tích kêu gọi ta sống như con Chúa.
    21. Ðức cậy cho ta khả năng gì?
    Ðức cậy cho ta khả năng hướng về Chúa với lòng trông cậy sẽ được thiên đàng và những gì ta cần đến để tới thiên đàng.
    22. Ðức ái cho ta khả năng gì?
    Ðức ái cho ta khả năng yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự vì Ngài rất tốt lành, và yêu mọi người vì Ngài.
    Thứ hai: Bí Tích Thêm Sức
    1. Bí tích Thêm Sức là gì?
    Là bí tích Ðức Chúa Giêsu đã lập cho ta nhận lấy Chúa Thánh Thần cách đặc biệt, để ta giữ đạo nên và trở thành chiến Sĩ Chúa Kitô.
    2. Ai có thể lãnh nhận bí tích Thêm Sức?
    Bất cứ ai đã được rửa tội đều có thể nhận bí tích Thêm Sức. Tuy nhiên, Giáo Hội khuyến khích tất cả mọi tín hữu nên học hỏi về đức tin cho chắc chắn hơn trước khi chịu phép này vì bí tích này đòi hỏi ta phải sống với tinh thần đức tin.
    3. Muốn lãnh bí tích Thêm Sức thì cần gì?
    - Ðã lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
    - Học biết giáo lý căn bản trong đạo, những bổn phận đối với đức tin đặc biệt về bí tích Thêm Sức.
    - Sạch tội trọng và có lòng ước ao.
    4. Bí tích Thêm Sức được lãnh nhận nhiều lần không?
    Không, vì bí tích này in dấu thiêng liêng trong linh hồn ta không thể mất được.
    5. Chất thể của bí tích Thêm Sức là gì?
    Việc đặt tay trên đầu người chịu bí tích này cùng với việc vẽ hình Thánh Giá trên tránh bằng dầu thánh.
    6. Mô thể của bí tích Thêm Sức là gì?
    - “Hãy nhận lấy ấn tín Chúa Thánh Thần, ân huệ của Chúa Cha.”
    - Ấn tín: chỉ việc ban ấn tích thiêng liêng, làm cho người chịu phép Thêm Sức nên giống Chúa Kitô hơn.
    - Ân Huệ: nghĩa là chỉ chính Chúa Thánh Thần, “Chúng con hãy nhận lấy ân huệ của Chúa Thánh Thần.”
    7. Ai có quyền ban bí tích Thêm Sức?
    Thông thường là Ðức Giám Mục. Và những linh mục được tòa thánh hay Giám Mục cho phép thì mới có quyền ban bí tích này mà thôi.
    8. Dầu tượng trưng cho sự gì?
    Dầu tượng trưng cho việc ban Chúa Thánh Thần, vì việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Kitô (Mc 1:10) được gọi là việc xức dầu thiêng liêng. Ngày xưa dầu được xức để tăng sức mạnh cho các lực sĩ, nên dầu ám chỉ sức mạnh thiêng liêng được xức trong bí tích Thêm Sức.
    9. Việc đặt tay chỉ sự gì?
    Việc đặt tay chỉ việc ban thần lực của Chúa Thánh Thần. Việc đặt tay cũng gợi lại tình phụ tử và ơn phúc lành của Thiên Chúa.
    10. Xức dầu theo hình Thánh Giá tượng trưng gì?
    Là ấn tích thiêng liêng Chúa ban. Thánh Giá tượng trưng ơn cứu rỗi của Chúa Kitô, người mạch mọi bí tích. Thánh Giá nói lên là chúng ta muốn chia sẻ những đau khổ của Chúa Kitô và trung thành với Ngài.
    11. Cha mẹ đỡ đầu có bổn phận gì?
    Cha mẹ đỡ đầu bảo đảm với với Giáo Hội về ý hướng ngay lành của người mà mọ đại diện. Cha me đỡ đầu giới thiệu người chịu bí tích Thêm Sức cho Ðức Giám Mục. Sau này bằng lời cầu nguyện, bằng lời nói, và bằng gương lành, cha mẹ đỡ đầu phải lo liệu cho con thiêng liêng chu toàn những bổn phận của người Kitô.
    12. Ai có thể làm cha mẹ đỡ đầu?
    Cha mẹ đỡ đầu phải là người Công Giáo ngoan đạo đã chịu phép Rửa Tội. Ngày nay, Giáo Hội ước mong rằng cha mẹ đỡ đầu Rửa Tội cũng làm cha mẹ đỡ đầu Thêm Sức luôn. Tuy nhiên vẫn có quyền chọn cha mẹ đỡ đầu riêng. Cha mẹ ruột không có thể làm người đỡ đầu cho con cái.
    13. Hiệu quả chính của bí tích Thêm Sức là gì?
    Hiệu quả chính của bí tích Thêm Sức là được tăng thêm sức sống Thần Linh do ơn Thánh Hóa ban cho. Ngoài ra còn có dấu ấu thiêng liêng không hề mất.
    14. Hoa quả của Chúa Thánh Thần là gì?
    Là những tác động của nhân đức các việc lành, những ước vọng và tâm tình mà Chúa Thánh Thần gợi lên trong ta.
    Thứ ba: Bí Tích Mình Thánh Chúa
    1. Thánh Thể là gì?
    Là của lễ hy sinh. Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn ta, làm cho ta nên giống Chúa và kết hợp chúng ta trong tình yêu Chúa.
    2. Tại sao Chúa Giêsu ban cho chúng ta Thánh Thể?
    Vì Chúa muốn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để an ủi, ban sức mạnh và làm cho chúng ta nên thánh.
    3. Thánh Thể khác với các bí tích khác ở chỗ nào?
    Bí tích này khác là dưới hình bánh rượu, Chúa Giêsu thực sự hiện diện đầy đủ là Thiên Chúa và là con người, còn các bí tích khác Chúa Giêsu chỉ hiện diện bằng quyền năng và ân sủng.
    4. Chất thể của bí tích Thánh Thể là gì?
    Là rượu, bánh và (nước)
    5. Mô thể của bí tích Thánh Thể là gì?
    Là lời truyền phép: “Này la Mình Ta sẽ bị nộp vì các con.. Này là chén Máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con..”
    6. Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể khi nào?
    Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi người chịu chết.
    7. Chúa Giêsu lập bí tích này thế nào?
    Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: “Hãy cầm lấy mà ăn, này la Minh Ta.., hãy cầm lấy mà uống, này la Máu Ta…”
    8. Khi nào bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô?
    Trong Thánh Lễ, khi linh mục đọc lời truyền phép: “Này là Mình Ta, Này là Máu Ta.”
    9. Khi linh mục đọc lời truyền phép thì bản thể hay chất thể của tấm bánh trở nên Mình Thánh Chúa. Tại Sao?
    Bản thể: Vì chất thể của tấm bánh là tròn, trắng mùi vị nên không thay đổi.
    10. Hy lễ Chúa Giêsu hiến dâng trong Bữa Tiệc Ly là Hy lễ nào?
    Chúa Giêsu dâng chính Mình Người làm Hy Lễ bằng cách biến đổi bánh và rượu nên Mình và Máu Người.
    11. Ðiều gì xảy ra khi Chúa Giêsu phán: “Này là Mình Ta”, “Này là Máu Ta”?
    Khi phán thì bánh và rượu liền trở nên Mình và Máu Người, chỉ còn vẻ bên ngoài là bánh và rượu thôi.
    12. Chúa Giêsu đã làm gì cho các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly?
    Chúa Giêsu cho các tông đồ làm Linh Mục và truyền cho các ông phải dâng Hy Lễ và truyền chức Linh Mục lại cho người khác.
    13. Tại sao thánh lễ lại là hy tế Thánh Giá?
    Thánh lễ là hy tế Thánh Giá bởi chính Chúa Giêsu vừa là Linh Mục vừa là Của Lễ.
    Thứ bốn: Bí Tích Giải Tội
    1. Bí tích Giải Tội là gì?
    o Là bí tích do Chúa Giêsu lập để tha tội riêng ta phạm qua quyền hành Chúa ban cho các linh mục, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội Thánh.
    2. Ai có thể ban bí tích Giải Tội?
    o Linh Mục hoặc Ðức Giám Mục hành động nhân danh Chúa Giêsu trong bí tích Giải Tội.
    3. Tội là gì?
    o Tội là bất tuân cùng Chúa và luật Hội Thánh.
    4. Có mấy thứ tội riêng?
    o Tội trọng và tội nhẹ
    5. Ðể một việc xấu trở thành tội phải có mấy điều?
    o Có luật cấm hay luật buộc
    o Biết hoặc cố tình
    o Tự do làm
    6. Ai có thể lãnh nhận bí tích Giải Tội?
    o Bất cứ ai được rửa tội rồi.
    7. Để được xưng tội nên phải có mấy điều?
    o Xét mình, ăn năn tội, dốc lòng chừa, xưng tội, và đền tội.
    8. Xét mình là gì?
    o Là nhớ lại các tội mình đã phạm từ lúc xưng tội lần trước đến giờ và mỗi tội phạm bao nhiêu lần.
    9. Ăn năn tội là gì?
    o Là thật lòng thống hối vì những tội mình đã làm mất lòng Chúa.
    10. Dốc lòng chừa là gì?
    o Là quyết tâm chừa cải và không phạm tội nữa.
    11. Có mấy cách ăn năn tội?
    o Cách trọn và chẳng trọn.
    12. Ăn năn tội cách trọn là gì?
    o Là thực lòng mến Chúa và ghét tội.
    13. Ăn năn tội cách chẳng trọn là gì?
    o Là vì hổ thẹn hay là sợ Chúa phạt đời này và đời sau.
    14. Xưng tội là gì?
    o Là kể các tội của mình ra cùng linh mục có quyền giải tội và tha tội cho ta.
    15. Ðền tội là gì?
    o Là làm các việc linh mục dạy làm mà đền vì các tội xưng.
    16. Chúng ta lãnh nhân gì khi chịu bí tích Giải Tội?
    o Ðược tha tội
    o Linh hồn lấy lại được ơn thánh
    o Ðược tha hình phạt đời đời và ít nhất một phần phạt đời này bởi tội mà ra
    o Ðược trợ giúp để sống thánh thiện hơn
    17. Trong bí tích Giải Tội, Chúa Giêsu tha tội nào cho chúng ta?
    o Tha tội riêng ta phạm
    18. Ta phạm tội vì những lý do nào?
    o Kiêu ngạo: là tự phụ vô lối, không đúng cách.
    o Hà tiện: là ước muốn của đời này thái quá.
    o Dâm dục: là không kiềm chế được ước muốn lạc thú.
    o Hờn giân: là một cảm xúc tức bực mạnh và không làm chủ được.
    o Mê ăn uống: là ăn uống quá chừng mực.
    o Ghen ghét: là buồn sầu khi người khác được may mắn hơn.
    o Lười biếng: là trễ nải việc thiêng liêng, tinh thần hay thể xác, là ta chểnh mảng việc bổn phận.
    19. Sáu tội phạm đến Chúa Thánh Thần là gì?
    o Thất vọng về phần rỗi
    o Tự phụ có thể được rỗi mà không cần nhờ công nghiệp và sám hối
    o Chống lại sự thật tỏ tường
    o Ghen tị về ơn Chúa ban cho người khác
    o Cố chấp trong đàng tội
    o Không hối cải trong giờ sau hết
    20. Mô thể của bí tích Giải Tội là gì?
    o “Cha tha tội cho con. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. “
    21. Chắt thể của bí tích Giải Tội là gì?
    o Là lòng ăn năn, dốc lòng chừa của tội nhân.
    Thứ năm: Bí Tích Xức Dầu Thánh
    1. Bí tích Xức Dầu Thánh là gì?
    Là bí tích do Chúa Giêsu đã lập để ban ơn nâng đờ sức mạnh phần hồn xác cho những người đang yếu liệt nặng vì lý do bệnh tật, thương tích hay tuổi già.
    2. Ai có thể ban bí tích Xức Dầu Thánh?
    Linh Mục và Ðức Gíam Mục
    3. Mô thể của bí tích Xức Dầu Thánh là gì?
    Lời đọc trong bí tích Xức Dầu Thánh có nghĩa là chúng ta xin Chúa ban sức mạnh, chữa lành và ban ơn thánh của Ngài.
    4. Chất thể của bí tích Xức Dầu Thánh là gì?
    Dầu thánh tượng trưng cho sự chữa lành phần hồn và phần xác. Xức dầu trên trán và tay bệnh nhân và đặt tay trên bệnh nhân.
    5. Ai có thể nhận bí tích Xức Dầu Thánh?
    Bất cứ ai đã được rửa tội, đang yếu liệt nặng hoặc vì bệnh tật, thương tích hay Tuổi già.
    6. Chúa ban ơn gì cho người lãnh bí tích này?
    - Ban sực mạnh cho linh hồn bệnh nhân bằng ơn thánh để chống các cám dỗ.
    - Ban ơn nâng đỡ để chịu đựng đau đớn và ban ơn can đảm và an ủi trong giờ chết.
    - Tha tội nhẹ
    - Tha cả tội trọng nếu bệnh nhân ước ao xưng tội nhưng không thể được.
    - Phục hồi sức mạnh phần xác nếu điều đó có ích cho phần rỗi của bệnh nhân.
    7. Những bí tích sau hết là gì?
    Bí tích Giải Tội, Xức Dầu Thánh và Mình Thánh Chúa
    8. Trong bí tich Xức Dầu Thánh chúng ta được thông phần vào sự đau khổ với Chúa Kitô.
    Thứ sáu: Bí Tích Truyền Chức Thánh
    1. Bí tích Truyền Chức Thánh là gì?
    Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để ban quyền Linh Mục cho những người chọn đặc biệt, ban ơn thánh để ăn ở xứng đáng, chu toàn chức vụ cứu rỗi loài người.
    2. Chúa Giêsu lập bí tích Truyền Chức Thánh khi nào?
    Trong bữa tiệc ly.
    3. Trong bí tích Truyền Chức Thánh, Chúa Giêsu trao quyền gì cho các Linh Mục?
    - Rao giảng Lời Chúa và chúc lành
    - Dâng Thánh Lễ
    - Ban các bí tích
    - Cai trị và phục vụ dân Chúa
    4. Tại sao Linh Mục không được lập dia đình?
    - Noi gương Chúa Giêsu
    - Linh Mục của tất cả gia đình, không bị ràng buộc bởi ai, cứu vớt mọi linh hồn, phục vụ mọi người.
    5. Bổn phận của người tín hữu đối với Linh Mục như thế nào?
    - Cầu nguyện cho các Linh Mục
    - Tôn trọng, vâng lời các điều hợp với luật Chúa và Hội Thánh vì Ngài thay mặt Chúa
    - Cộng tác, đóng góp tinh thần và vật chất để xây dựng Nước Chúa
    6. Có mấy nghi lễ truyền chức?
    Chức Phó Tế, chức linh Mục, và chức Giám Mục
    7. Ai ban bí tích Truyền Chức Thánh?
    Ðức Giám Mục
    8. Ai được lãnh bí tích Truyền Chức Thánh?
    Là người nam, độc thân, Công Giáo tốt, đã chuẩn bị bằng học hỏi, tự do, có ý muốn lãng nhận và được Ðức Giám Mục chấp thuận.
    9. Dấu bí tích Truyền Chức Thánh là gì?
    - Gồm việc đặt tay và lời cầu nguyện đặc biệt.
    - Ðức Giám Mục đặt tay trên đầu người được lãnh chức – nói lên việc ban Chúa Thánh Thần cùng với quyền năng và ơn thánh của Người.
    10. Công việc của Phó Tế là gì?
    Các phó tế phục vụ dân bằng sự rửa tội, tuyên đọc và rao giảng Lời Chúa, cho rước lễ, làm phép cho các đôi tân hôn trong bí tích Hôn Phối.
    11. Có máy loại Phó Tế?
    Có hai loại phó tế. Những phó tế đang chuẩn bị lên chức linh mục. Họ chỉ là phó tế tạm thời. Ngoài ra còn có những phó tế vĩnh viễn. Họ là những người độc thân hoặc có gia đình, và là những phó tế suốt đời.
    Thứ bảy: Bí Tích Hôn Phối
    1. Bí Tích Hôn Phối là gì?
    Là bí tích Chúa Giêsu đã lập để kết hợp một nam một nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa và Hội Thánh và ban ơn đặt biệt để giúp họ sống chu toàn nghĩa vụ.
    2. Chúa Giêsu lập bí tích Hôn Phối khi nào?
    Từ thời nguyên thủy của Adong và Evà. Trong Tân Ước Chúa Giêsu đã chúc lành cho đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana.
    3. Mục đích của Hôn Phối là gì?
    - Sinh sản và giáo dục con cái theo đạo Công Giáo.
    - Trung thành, yêu thương và nâng đỡ nhau.
    4. Bậc hôn nhân Công Giáo có tầm quan trọng nào?
    - Tình yêu vợ chồng biểu hiệu tình yêu Chúa và Hội Thánh.
    - Sinh sản con cái để thời phượng Chúa.
    5. Dấu bí tích Hôn Phối là gì?
    - Chất thể: người nam và người nữ
    - Mô thể: biểu lộ sự ưng thuận bằng lời nói, lời cam kết
    6. Chúa Giêsu dạy gì về bí tích Hôn Phối?
    - Hợp nhất: phải giữ một vợ một chồng
    - Không được ly dị và phải sống hoà thuận với nhau cho đến chết
    7. Ai hành động nhân danh Chúa kitô trong bí tích Hôn Phối?
    - Người nam và người nữ
    - Linh mục hay phó tế chỉ chứng kiến bí tích và chúc lành cho đôi tân hôn thôi
    8. Phải làm gì để lãnh bí tích Hôn Phối nên?
    - Phải sạch tội trọng
    - Hiểu biết bổn phận của đời sống gia đình
    - Bằng lòng kết bạn với nhau theo nghi thức Giáo Hội.

  13. #13

    Mặc định

    KINH MƯỜI BỐN MỐI
    Thương người có mười bốn mối
    Thương xác bảy mối:
    Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn.
    Thứ hai: Cho kẻ khát uống.
    Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
    Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc.
    Thứ năm: Cho khách đỗ nhà.
    Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi.
    Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết.

    Thương linh hồn bảy mối:
    Trích lược sách tiên tri Yô-na, ch.1
    Yavê truyền cho tiên tri Yô-na rằng :

    - Hãy chỗi dậy, đi sang Ni-ni-vê, kinh thành vĩ đại, mà loan báo cho chúng hình phạt sắp đổ xuống trên đầu do các tội lỗi, ác nhân ác đức của chúng đã lên thấu tai Ta.

    Nhưng Yô-na run sợ, ông nghĩ :

    - Dân Ni-ni-vê là dân đại gian, đại ác, lại là kẻ thù không đội trời chung của dân tộc mình. Nay mình sang rao giảng, nhỡ ra họ ăn năn trở lại và Thiên Chúa thì nhân từ sẽ tha, không giáng phạt cho họ, thì lời loan báo hình phạt của mình là dởm, thiên hạ sẽ cười mình chết. Hơn nữa, chúng là kẻ đại gian, đại ác, cứ để chúng bị phạt chết tiệt nòi, tiệt chủng đi là đáng kiếp.

    Nghĩ thế rồi, ông không tuân lệnh Chúa, trốn chạy nhiệm vụ. Thay vì xuống tàu sang phía đông đến Ni-ni-vê, ông xuống tàu đi ngược phía tây, tưởng lánh xa được mặt Chúa. Ai dè, đang lênh đênh trên mặt biển thì Thiên Chúa làm nổi dậy phong ba. Tàu muốn vỡ tan vì sóng nhồi, gió táp. Thủy thủ và mọi người trên tàu khiếp vía, ai nấy cầu khẩn thần linh của mình. Họ quăng đồ đoàn xuống biển cho tàu nhẹ bớt, nhưng nguy hiểm càng lúc càng lớn. Còn Yô-na chui xuống hầm tàu ngủ li bì. Thuyền trưởng lại gần đánh thức ông :

    - Này ! Dậy đi mà kêu khấn thần linh của ngươi !

    Nhưng cầu khấn mãi mà nguy hiểm không giảm. Họ bảo nhau:

    - Giữa chúng ta, chắc có một kẻ tội phạm nào đó chọc giận thần linh, làm cớ cho các vị thần đổ tai họa xuống cho ta. Ta hãy bắt thăm để biết.

    Họ đã gieo thăm. Thăm lại nhằm đúng Yô-na. Yô-na đành phải xưng :

    - Tôi là dân Hipri (tức Do thái), thần linh tôi thờ là Yavê Chúa trên trời. Ngài dựng nên biển khơi cũng như đất liền.

    Nghe vậy, họ rất đỗi khiếp sợ. Họ hỏi :

    - Vậy ngươi đã làm gì xúc phạm đến Ngài ?

    Yô-na thú tội là ông trốn nhiệm vụ Yavê trao. Họ hỏi bây giờ phải làm thế nào để biển yên sóng lặng. Yô-na nói :

    - Hãy quăng tôi xuống biển, thì các ông qua khỏi hiểm nghèo. Bởi tôi biết chính vì tôi đã xúc phạm đến Yavê, mà cơn bão này xảy đến cho các ông.

    Thoạt đầu, họ không dám làm, họ ra sức chèo chống để vào đất liền, nhưng vô phương, bão càng thêm hung dữ. Cuối cùng, họ đành khấn vái Yavê, xin đừng bắt tội họ vì mang Yô-na, rồi họ quăng tùm ông xuống biển. Tức thì, biển trở lại yên như tờ. Mọi người kính sợ Yavê và dâng tế lễ kính Ngài.

    (Chuyện Yô-na còn tiếp, sẽ kể vào dịp khác)

    * Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
    Suy niệm Lời Chúa
    Vì sao Yô-na trốn chạy việc rao giảng cho dân Ni-ni-vê ? Anh chị em nào đáp thử xem có đúng không ? (để họ nói...). Bây giờ, ta thử đọc lại Lời Chúa, ở mấy dòng đầu có lời giải đáp (xin đọc lại mấy dòng đầu).

    Tóm lại, thứ nhất, ông sợ người ta chê cười. Đi loan báo hình phạt sắp xảy đến, mà nhỡ ra họ ăn năn trở lại, thì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng ái tuất, kẻ đại gian, đại ác đến mấy mà thống hối, ăn năn, Ngài cũng tha thứ và thôi phạt ; như vậy, hóa ra lời loan báo của ông là láo, loan báo điều không xảy ra. Thứ hai, ông không có lòng thương linh hồn kẻ tội lỗi, mặc kệ cho Chúa phạt chúng chết đi. Đáng tội !

    Biết đâu nhiều người trong chúng ta cũng là Yôna trốn chạy việc cứu giúp linh hồn người ta, vì sợ cái này, cái nọ ! Là thành phần của Hội Thánh truyền giáo, ta mặc kệ người ta chết mất linh hồn mà chẳng thò một ngón tay ra cứu vớt sao ?

    Trong đời bạn, đã có lần nào giúp một người khác bỏ đàng tội lỗi trở về đàng chánh chưa ? Đã một lần nào, bạn đưa một tâm hồn đến tin vào Chúa, hoặc đưa một người lương đến chịu phép Rửa tội chưa ? Nếu đã được ít ra một lần, thì cũng tốt lắm rồi, thế là bạn đã cầm chắc phần rỗi của chính bạn, vì có lời Kinh Thánh dạy : “Hãy biết rằng : kẻ làm cho một người tội lỗi trở lại, bỏ đường lầm lạc, là sẽ cứu linh hồn mình khỏi chết và phủ lấp muôn vàn tội lỗi mình” (Gc 5.20).

    Dầu vậy, cứu một linh hồn là quá ít. Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê bôn ba bốn bể năm châu, sang Ấn độ, đến Trung quốc, vào Nhật bản, lặn lội nơi rừng thiêng nước độc, đến cùng những bộ lạc hung tợn ăn thịt người... để rao giảng, dạy đạo, khuyên bảo mọi người hãy tin vào Chúa, hầu được cứu rỗi ; nên thánh nhân đã cứu được cả triệu linh hồn đưa về với Chúa.

    Vậy, cái gì là động cơ thúc đẩy lo phần rỗi cho người khác ? Thưa:

    Thứ nhất : lòng yêu thương : “Mến Chúa thì cũng thương anh em mình. Phàm ai yêu mến Đấng Sinh thành, tất yêu mến cả những kẻ bởi Ngài mà sinh ra”, Thánh Kinh dạy vậy (1Ga 4.21 và 5.1). Không chỉ thương xác như đã xem ở các kỳ trước, mà còn thương phần linh hồn. Cứ xem gương Đức Giêsu đủ rõ : Ngài đã làm những gì để cứu linh hồn chúng nhân ? Ở đây, chúng ta không bàn rộng, đợi dịp khác, chỉ cần nhớ một điều : cho dù chỉ có một linh hồn tội lỗi trên thế gian, Chúa Giêsu cũng từ bỏ trời xuống thế, rao giảng, hi sinh chịu chết làm của lễ đền tội cho người đó. Dụ ngôn người chăn chiên bỏ 99 con trên rừng, để đi tìm một con chiên lạc bầy, đã cho phép ta nghĩ như thế.

    Ngày xưa, Thày Mạnh Tử nói : “Người ta ai cũng có tính thiện trong người : đó là cái lòng trắc ẩn. Chứng cớ là đây : giá thình lình thấy đứa bé sắp ngã xuống giếng, thì ai trông thấy cũng có lòng bồn chồn, xót thương mà chạy lại cứu giúp. Xem như vậy, ai không có lòng trắc ẩn, thương xót, thì không phải là người” (chương Công Tôn Sửu). Cũng vậy, linh hồn tội lỗi là một kẻ sa xuống giếng, đã là con người ai cũng xót thương mà đến cứu giúp. Há người Kitô hữu lại không biết xót thương ? Hay là họ không còn là người nữa ? Hay họ không có trái tim ? Kitô hữu nào không xót thương linh hồn người ta, không phải là Kitô hữu thật.

    Thứ hai : một lý do nữa thúc đẩy lo cứu các linh hồn là nhận định xác đáng về hạnh phúc đời đời. Ta có một báu vật gì, nếu mất đi, ta tiếc xót, đau khổ, buồn rầu, mất ăn, mất ngủ, có khi đến loạn óc, và nếu còn hi vọng, ta sẽ ra công tìm kiếm không quản khó nhọc. Do đó, nếu nhận định xác đáng hạnh phúc đời đời, cuộc sống với Chúa, với Đức Mẹ cùng các thần thánh nơi cõi trời mới, đất mới là cao quí, tốt đẹp và vui sướng vô ngần ; ta sẽ cẩn thận không để mất nó, và thấy ai sắp mất, ta sẽ giúp họ gìn giữ. Hỏi giá trị một linh hồn là bao nhiêu ? Thưa : cả vũ trụ này cũng không bằng. Đức Giêsu đã nói : “Nào ích gì cho người ta khi chiếm lấy cả thế gian làm sở hữu mà lại đánh mất sự sống linh hồn mình ! Người ta sẽ lấy gì để chuộc lại sự sống linh hồn mình ?” (Mc 8.36-37).

    Đức Mẹ đã hiểu hạnh phúc đời đời là thế nào : Tuy Đức Mẹ cũng là con cháu Adong, Evà như ta mọi đàng, song nay thì Người đang nếm hưởng phúc vô cùng trên trời với cả hồn lẫn xác. Khi Mẹ thấy loài người cứ ham mê các vật thế gian tạm bợ, mau qua, chóng tàn, mà phạm tội mất lòng Chúa, bỏ mất phần phúc vô cùng lớn lao, cao quí kia, và xô nhau xuống hỏa ngục đau đớn, quằn quại, nghiến răng, khóc lóc đời đời ; thì Mẹ như cuống cuồng, rối rít lên... Cho nên, Mẹ hiện ra lia lịa, nơi nọ nơi kia : nào Lộ Đức, nào Fatima, bây giờ đang hiện ra bên Mễ Du... để cảnh tỉnh, để thúc giục người ta ăn năn trở lại, đừng dại dột chuốc lấy hỏa ngục vô cùng đau đớn... Và để làm bằng chứng cho người ta thấy hỏa ngục là có thật, thì ở Fatima, Mẹ cho ba em nhỏ - trong đó có Lu-xi-a, nay còn sống - được thấy hỏa ngục và các quỉ dữ cùng các linh hồn trầm luân, đau đớn gào thét trong đó... Mới đây, ở Mễ Du, Đức Mẹ lại cho các thanh thiếu niên Mẹ tuyển chọn, được chứng kiến cảnh thiên đàng, rồi hỏa ngục...

    Theo gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh, ta không thể sống dửng dưng, mặc anh em ta sa xuống đó, và tự nhủ mình : “Tôi có phải là người canh giữ anh em tôi đâu ! Họ sao kệ họ, tôi không biết!” Lời Thánh Kinh dạy ta : Thiên Chúa trao cho mỗi người phận sự lo lắng phần rỗi và ích lợi thiêng liêng cho anh em đồng loại, chứ không chỉ lo cho mình thôi. “Mắt không thể bảo tay : Tôi không cần anh ! Hay đầu không thể bảo chân : Tôi không cần các anh ! Song Thiên Chúa đã xếp đặt các bộ phận của thân thể... để các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc nhau. Cho nên, một bộ phận đau thì hết các bộ phận đều đau chung. Một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận đều vinh chung...” (1Cr 12.21-26).

    Sau khi nói như trên dành cho người lớn, chúng ta còn muốn nhắm đến các thanh thiếu niên nam nữ, con em chúng ta. Các em còn trẻ, dễ uốn nắn, dễ tập biết lo ích lợi thiêng liêng cho tha nhân.

    Cha mẹ, phụ huynh tập cho con em mình thế nào ? Trước tiên là bằng gương sáng, bằng lời nói và đời sống mình. Nếu ngay từ nhỏ, các em được phụ huynh nói với các em về Chúa, khuyến khích yêu mến, làm đẹp lòng Chúa, và cùng cầu nguyện với các em, đưa các em đi nhà thờ, dạy các em biết cách lo lắng cho linh hồn tha nhân, thúc giục các em giúp đỡ các kẻ có tội, và cầu nguyện, hi sinh cho họ, tập cho các em biết làm việc tông đồ, truyền giáo bằng lời nói, việc làm, bằng chính gương hăng hái tông đồ của phụ huynh... các em sẽ tiêm nhiễm thói quen tốt lành đó, lúc lớn lên các em có thể tự động làm lấy một mình.

    Nhưng, buồn thay ! Nhìn vào gia đình công giáo, rất ít gia đình làm như vậy. Thành ra, các tính tốt tiềm tàng nơi các em bị mai một, chôn vùi đi. Phần nhiều, phụ huynh chỉ lo nghĩ đến các chuyện làm ăn, sinh sống vật chất : lo sức khỏe, lo cho đi học, thi đỗ, thành công, có công ăn việc làm, dựng vợ gả chồng, có tiền xài..., toàn lo cho có những cái hay, cái đẹp trước mắt người đời ! Nếu có phụ huynh nào lo lắng về việc đạo của con em, thì quanh đi quẩn lại chỉ nghe thúc giục đi nhà thờ, dự lễ, đi xưng tội, hoặc dạy cầu xin những điều vật chất... Thảm hơn nữa, nhiều con em chỉ nhìn thấy phụ huynh đưa ra những lời nói, những cử chỉ vô đạo, hoặc lãnh đạm với Chúa, với phần rỗi... Chưa kể các em luôn thấy trước mắt những gương xấu tham tiền tham bạc, tham công ăn việc làm, chẳng có chút chi đạo hạnh. Nói tóm, con em chỉ thấy trong gia đình một lối sống ngoại đạo... được che phủ bằng vài phút đọc kinh nghêu ngao, chán chường lúc sáng tối... Còn cả ngày, Thiên Chúa hình như vắng bóng, không một ai nhắc nhở đến Ngài. Thế là đến lúc lớn lên, các em cứ theo đường lối ấy mà sống..., đến đời con, đời cháu chúng nó là mất đạo, chứ đừng nói gì đến việc cứu linh hồn người khác.

    Ngoài ra, phụ huynh cũng như con em còn phải chịu biết bao ảnh hưởng ngoại đạo chung quanh thấm nhập vào... Aûnh hưởng của quần chúng len lỏi khắp nơi, mọi ngõ ngách, cách nhẹ nhàng mỗi ngày một tí, rất tinh vi ; nó âm thầm hay công khai phi bác đạo, các mầu nhiệm thiêng liêng... Rồi lại thêm sách báo, phim ảnh, câu lạc bộ... nhạc, băng, cát-xét, vi-đê-ô... lôi cuốn cách riêng giới trẻ rời xa không khí thiêng liêng, đạo đức, chạy theo các thị hiếu vật chất và chán điều thiêng liêng...

    Trong tình trạng nguy ngập này, mọi người phải nỗ lực cấp tốc sửa chữa lại... Phải đánh thức lương tâm dậy với bổn phận tông đồ, lo mưu ích thiêng liêng cho người khác... bắt đầu với các người đồng trang lứa, đang xa Chúa, đang sống bê bối... như đã nói trên kia. Phương thế tốt nhất để đánh thức, hun đúc sự lo lắng cho phần rỗi linh hồn tha nhân nơi các em, đó là thúc đẩy các em đi học Thánh Kinh, đi chia sẻ Lời Chúa. Cái gì phụ huynh đã cố gắng mà còn thiếu sót hay không đủ khả năng, Lời Thiên Chúa sẽ bù đắp mà dạy dỗ, huấn luyện, lôi cuốn các em, đúng như lời Thánh Phaolô dạy : “Kinh Thánh tất cả được Chúa Thánh Thần soi sáng, linh ứng, và có ích để dạy dỗ..., để tu chỉnh, để giáo huấn trong đàng công chính ; ngõ hầu người của Thiên Chúa (tức là con cái Thiên Chúa) được trang bị sẵn sàng cho mọi công việc lành thánh” (1Tm 3.16).

    Phụ huynh sẽ thấy : các thanh thiếu niên, con em chúng ta không thiếu thiện chí ; trái lại, có sẵn một tấm lòng giàu đại độ mà ta không ngờ, chỉ tội từ lâu ta đã để chôn vùi, mai một, không khai thác cho Chúa và cho tha nhân được nhờ.
    Tích truyện
    Ba em Xê-xi-li-a (Cécilia) là một công nhân, phải đi làm từ sáng sớm đến tối mịt mới về. Má lo nội trợ song bà rất bác ái, hiền hậu, nên cả xóm đều quí mến. Em Cécilia mới ít tuổi mà học giáo lý rất giỏi. Em rất hãnh diện về gia đình mà em cho là rất hạnh phúc. Em chỉ còn nghĩ đến Chúa bị bỏ rơi trong các người bị áp bức, đau khổ. Nhưng ai dè, một hôm, thật bất ngờ như gáo nước lạnh dội vào mặt, một đứa bạn nói :

    - Này, Xê-xi-li-a, mẹ mày thực tốt, nhưng khốn khổ vô cùng !

    Xê-xi-li-a kêu lên :

    - Sao thế ?

    - Mày đừng tưởng gia đình mày hạnh phúc, vì ba mày đêm nào cũng về đến nhà đã say sưa be bét, rồi đánh đập, chửi mắng mẹ mày, hàng xóm nhà nào cũng nghe, mày không tin cứ rình xem !

    Tối hôm ấy, Xê-xi-li-a học bài xong, không đi ngủ như thường lệ, em chờ ba về, nấp kỹ sau bức màn và hồi hộp rình xem... Một cảnh tượng hãi hùng diễn ra trước mắt : ba em đầu bù tóc rối, hơi thở nồng nặc rượu, miệng tuôn ra hàng loạt câu chửi tục tĩu, nhiếc mắng mẹ em. Bà mẹ cúi mặt làm thinh, vừa ăn, vừa khóc. Lát sau, ba Xê-xi-li-a lùa nguyên cả mâm cơm xuống nền nhà, chén bát vỡ tan tành... Chưa vừa ý, ông còn tặng vợ những cú đấm đá tàn nhẫn. Sau bức màn, Xê-xi-li-a chết lịm...

    Em suy nghĩ và cầu nguyện. Một hôm, em được Chúa soi sáng làm một diệu kế. Từ nay, tối nào em cũng thức đợi ba, lúc ba về, em chạy ra đón, ôm hôn ba, cất mũ áo cho ba, rồi quay sang giúp mẹ dọn bàn cơm. Suốt bữa, em ngồi bên ba má, ríu rít kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba công việc ở sở. Thoạt đầu, ba em lấy làm lạ, càu nhàu, khó chịu ; nhưng dần dần đành chịu thua con, lại thấy trong lòng vui vui... Nhiều lúc, Xê-xi-li-a còn đứng lên vỗ tay ca hát giữa nhà. Dần dà, bầu khí gia đình trở nên nhẹ nhàng. Tuy vẫn còn ngà ngà say, nhưng ông cũng lấy làm cảm động, có lần choàng tay ôm hôn con âu yếm.

    Rồi một hôm, Xê-xi-li-a xin phép ba kể lại điều em đã thấy, đã nghe về sự bất hòa giữa ba má mỗi tối, khi ba say. Xê-xi-li-a thú thực là em rất thương ba má, nhưng cũng rất đau khổ vì thấy Chúa bị bỏ rơi, bị khinh miệt trong cảnh gia đình xào xáo như vậy, nên em muốn đem Chúa về lại trong gia đình. Nghe kể vậy, ba má em cảm động. Họ mừng mừng tủi tủi, không ngờ con mình thương cha mẹ như thế. Ba em hứa từ nay sẽ chừa bỏ uống rượu để gia đình hòa thuận, hạnh phúc như xưa, và Xê-xi-li-a khỏi phải thức khuya đợi ba về nữa.
    Tiếp chuyện tiên tri Yô-na, ch.2-4
    Sau khi Yô-na bị ném xuống biển, Yavê đã liệu cho có một con cá lớn nuốt Yô-na vào bụng. Trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ông đã hối tội và cầu Chúa cứu giúp. Con cá lớn đã mửa ông lên đất liền. Ngay đó, lần thứ hai, lời Thiên Chúa lại vang lên, sai ông đi rao giảng. Ông tuân lệnh, đến Ni-ni-vê, cất tiếng hô lớn rằng :

    - Còn 40 ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá hủy, nếu không lo ăn năn trở lại.

    Nghe tin sét đánh, dân Ni-ni-vê tin vào lời Thiên Chúa. Từ lớn chí bé sám hối, ăn chay, hãm mình, cởi áo lụa là, mặc bao bị nhặm. Ngay cả nhà Vua, hay tin ấy cũng rời ngai vàng, cởi cẩm bào, trùm lấy bao bố, ngồi trên đống tro, ăn năn đền tội. Vua còn ra lệnh cho dân, ngay đến trâu bò, súc vật cũng phải chay kiêng :

    - Mọi người phải ra sức cầu xin Thiên Chúa tha tội, cùng ăn năn trở lại, bỏ đàng tội và các việc hung ác vẫn làm, trông cậy nhờ đó, Thiên Chúa sẽ dủ tình thương xót mà rút lại án phạt.

    Quả đúng, thấy họ thanh tẩy lòng sám hối, bỏ đàng dữ, Thiên Chúa đã rút lại, không trút phần phạt Người đã ngăm đe.

    Phần ông Yô-na, thấy thế thì buồn bực lắm ! Ông nổi giận và trách Chúa :

    - A ! Lạy Yavê ! Lại không đúng như lời tôi nói sao, khi tôi còn ở quê tôi ? Chính vì thế mà tôi đã trốn nhiệm vụ, vì quả tôi biết rằng: Người dịu hiền, từ tâm, khoan dung và nhân nghĩa bao la. Ai ăn năn thống hối là Người tha thứ và rút lại vạ dữ, không phạt nữa. Dân Ni-ni-vê đại gian, đại ác như thế mà Người cũng tha. Thôi, tôi còn mặt mũi nào mà sống nữa, xin Người cất mạng sống tôi quách đi cho rồi ! Chết còn hơn sống nhục !

    Yavê mới nói :

    - Ngươi nổi giận như thế phải không ? Hãy xem đây !

    Để cho Yô-na một bài học về lòng từ tâm, thương xót của Người, Yavê cho mọc lên một cây thầu dầu, một đêm mọc cao đến nỗi che mát cho Yô-na, đang khi ông chờ xem sự gì xảy ra cho Ni-ni-vê. Thoạt được bóng mát, Yô-na nguôi ngoai đôi chút. Đến sáng hôm sau, Thiên Chúa lại cho một con sâu chích cây thầu dầu chết khô. Gió nồm nóng bức thổi, mặt trời rọi những tia lửa trên đỉnh đầu, làm Yô-na ngất xỉu. Và ông lại muốn chết. Bấy giờ, Yavê mới phán :

    - Yô-na, ngươi xem đó ! Ngươi thương tiếc một cây thầu dầu mà ngươi không phải khó nhọc chút nào để vun trồng. Còn Ta, sao lại không thương tiếc thành Ni-ni-vê vĩ đại, gồm trên 12 vạn con người, những người mê muội, lầm lạc, cùng với bao nhiêu súc vật hay sao ?

    * Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
    Suy niệm Lời Chúa
    Ông Yô-na buồn bực vì Chúa quá từ tâm, đã không tru diệt cái dân đại gian ác, Chúa còn sai ông đi rao giảng cho chúng ăn năn hối cải làm chi ? Có tội là a lê hấp ! giết chết rồi phạt xuống hỏa ngục đời đời cho đáng kiếp ! Ngược lại, Chúa cho ông bài học : Chúa từ tâm, thương xót kẻ tội lỗi. Người không muốn diệt, Người sai ông đi răn bảo kẻ tội lỗi, lấy lời lành khuyên họ hối cải, để Người tha phạt. Kinh Thánh còn nói : Chúa thương xót ngay cả súc vật trong thành Ni-ni-vê nữa. Lòng từ ái Chúa thật bao la !

    Chúng ta đây thử xét xem : mình thuộc hàng con cái Chúa hay thuộc dòng giống con cháu ông Yô-na ? Lấy dấu này mà biết : không biết xót thương số phận linh hồn tội lỗi, mặc kệ họ sống hay bị chết đời đời, ấy là kẻ thuộc dòng giống Yô-na. Còn ai biết xót thương phần rỗi kẻ có tội, ấy là người có tinh thần của Chúa, thuộc hàng con cái Chúa.

    Bài đền tạ hôm nay vẽ ra những việc giúp ta thực hành lòng thương xót ấy : thương linh hồn bảy mối. Bảy mối ấy là những việc nào, xin mời ông bà cô bác đọc lên giùm [mời họ đọc..., đọc xong nói: Tốt lắm !]. Chúng ta thuộc lòng cả. Đó là một chuyện : chuyện đầu và chuyện dễ nhất. Còn thực hành các điều đó mới khó và nhiều người không muốn làm. Vì thế, chỉ Chúa mới thúc giục lòng ta muốn và thích làm, đồng thời giúp sức ta can đảm mà làm, như lời Thánh Kinh dạy : “Chính Thiên Chúa tạo trong anh em cả ý muốn lẫn việc làm, thể theo Ý Người” (Ph 2.13). Vậy ta phải quay đến Chúa mà xin Người dạy cho điều gì phải làm, phải nói để sinh ích cho linh hồn người ta. Cầu cho ta đã đành, mối thứ 7 dạy phải cầu nguyện cho người khác nữa :

    + Cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết :

    Việc cầu cho kẻ chết, giáo hữu ta lo khá chu đáo rồi, ở đây, chỉ bàn đến cầu cho kẻ sống, nhất là tội nhân. Trong khi giúp kẻ có tội, có những trường hợp ta không thể nói, hay không thể làm gì cho họ cả. Lúc ấy, ta phải biết giữ thinh lặng. Nhưng không phải thinh lặng thụ động, mà thinh lặng tích cực, nghĩa là liên lỉ chú tâm lo lắng cho họ, nhất là liên lỉ cầu nguyện cho họ. Kèm với lời cầu, lại còn dâng thêm các hi sinh, hãm mình, việc lành phúc đức chỉ cho họ. Tỉ dụ : trong gia đình, có người con đã lớn mà nghiện ngập, nhậu nhẹt, hư hỏng... Nói mãi, khuyên mãi cũng không ăn thua gì. Từ nay, cha mẹ, phụ huynh chỉ nên giữ thinh lặng, bớt khuyên, bớt thúc giục, bớt la mắng ; nhưng cầu nguyện nhiều cho nó, hi sinh, hãm mình nhiều chỉ cho nó, cốt ý để Chúa nói với nó. Chúa biết cách nói hơn ta. Ta nhiều khi vì nóng nảy, sốt ruột, vì tư lợi mà la mắng, nói nặng nói nhẹ... hỏng việc hết.

    Như vậy, cầu nguyện là hành vi căn bản trong việc lo phần rỗi linh hồn mình cũng như linh hồn kẻ khác. Cầu nguyện cộng đoàn càng tốt hơn : dù hai hay ba người, hoặc gia đình, hoặc xứ đạo. Cũng chính trong dịp dạy về việc sửa lỗi, khuyên răn kẻ có tội mà Chúa hứa : “Quả thật, nếu trong các con, hai ba người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Thày, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho. Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thày, thì có Thày ở đó, giữa họ” (Mt 18-19-20). Trong Tân Ước, rất nhiều đoạn Chúa dạy cầu nguyện cho kẻ sống kẻ chết, thân thuộc, bạn hữu, kẻ làm ơn, ngay cả kẻ thù, kẻ ghét ta, không ưa ta..., cho các nhà lãnh đạo dân tộc, cho người ngoại, kẻ tội lỗi, vv... Đây chỉ xin trích một câu Thánh Phaolô dạy : “Tiên vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua chúa, và hết mọi người quyền cao chức trọng... Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật...” (1Tm 2.1-4).
    Tiếp đây, mối thương thứ nhất : Lấy lời lành mà khuyên người :

    Bình thường, đừng nên hạn chế vào việc cầu nguyện. Thương linh hồn có 7 mối, cầu nguyện là mối thứ 7, còn những 6 mối khác kia mà. Vậy tùy theo mức độ lòng tin, sự hiểu biết và kinh nghiệm thiêng liêng Thiên Chúa ban cho ta, hãy nói cho người khác, đúng lúc, hợp tình hợp cảnh, một câu nói khôn ngoan, đầy ơn Chúa, để đưa đến cho, khi thì một lời giải đáp thắc mắc, khi thì một lời nhắc nhớ đến bổn phận, khi thì một lời khuyến khích tiến thêm trên đàng nhân đức, vv... Đừng để tính vị nể, ngại ngùng, mắc cở cản bước ta. Giáo dân ta rất chịu khó nghe giảng, đó là điều tốt. Chỉ uổng là sau đó, không để chút ít giờ mà suy đi gẫm lại như Đức Mẹ, hoặc đem chia sẻ với nhau trong nhóm cầu nguyện, hoặc nhóm chia sẻ Lời Chúa, cho nên nghe tai này lọt tai khác, mau quên đi, lúc cần phải nói cho ai thì lúng túng. Vậy xin mời anh chị em, nhất là các bạn trẻ, phải dự bị sao để có thể sẵn sàng tham gia một cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh về vấn đề giáo lý, thiêng liêng, hay bảo vệ một lập trường chân lý, đó là điều Thánh Phêrô dạy : “Hãy luôn sẵn sàng đáp lời với mọi người hỏi lẽ anh em về mối hi vọng (được sống đời đời) có trong anh em” (1Pr 3.15). Trong sách Công vụ Tông đồ, các tín hữu cầu xin giữa cơn bách hại rằng : “Xin cho các tôi tớ Người được tất cả dạn dĩ mà nói Lời của Người...”. Và Chúa đáp lời họ cầu như sau : “Họ cầu nguyện rồi, thì chỗ họ nhóm hội rung chuyển, hết thảy họ được đầy Thánh Thần, và họ cứ ngang nhiên nói Lời Thiên Chúa” (Cv 4.29,31).

    Vậy gia đình ta, mỗi người, hạ quyết tâm : ngày mai, từ sáng đến tối, tôi sẽ tìm dịp thuận tiện để nói Lời Chúa cho ít nhất một người. Và cứ như vậy, các ngày sau...

    Nhưng có điều là đừng chỉ nói bằng miệng, còn phải nói bằng đời sống. Chúa Giêsu, theo lời Kinh Thánh kể, vừa nói vừa làm. Ngài đã sống các điều Ngài dạy (x. Cv 1.1). Ngài còn tự hiến mạng sống để giữ trọn các điều Ngài dạy. Khi Chúa bảo ta : “Các con là muối cho đời, nếu muối ra lạt thì làm sao ướp được kẻ khác ?”, tức là đời sống ta lạt lẽo, ơ hờ, nguội lạnh, làm sao ta giúp người khác mặn mà, khỏi ươn thối. Chúa nói tiếp : “Vậy chẳng còn ích gì, chỉ còn đem đổ ra ngoài đàng xá cho người ta đạp lên mà đi”. - “Chúng con là ánh sáng thế gian... Vậy ánh sáng chúng con phải chói lọi trước mặt người đời”, nghĩa là đời chúng ta phải sáng chói bằng các việc tốt, việc thiện, việc hiền từ, việc bác ái..., thì lúc ấy, “người đời thấy những việc tốt lành của các con mà tôn kính, nhìn nhận Thiên Chúa, Cha trên trời” (Mt 5.13-16). Quả là đúng câu châm ngôn các cụ ngày xưa nói :

    “Lời nói bay đi, gương bày lôi kéo”,
    hoặc :
    “Lời nói chỉ lay, gương bày mới chuyển”.

    Bây giờ, ta đến mối thứ hai : Răn bảo kẻ có tội :

    Người có tội đang ở trong một cơn hiểm nghèo rất lớn về phần rỗi. Nên Chúa dạy ta phải bỏ hết mọi sự để lôi kéo họ về : “Các ngươi nghĩ sao ? Nếu một người có 100 con chiên mà một con bị lạc, há người ấy lại không bỏ 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc kia sao ?”. Chắc chắn thế rồi, ông ta sẽ bỏ 99 con ngoan, mà đi tìm con lạc. Liền đó, Chúa dạy tiếp : “Vậy thì nếu có ai trong anh em ngươi trót phạm tội, đi lạc đường nẻo phần rỗi, thì hãy đi sửa lỗi nó... Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em đó”, tức là ngươi đã cứu được, đã lời được người anh em đó (Mt 18.15). Thánh Giacôbê giải thích rõ hơn : “Nếu có ai trong anh em lạc xa sự thật, và có người làm cho trở lại, thì người ấy hãy biết rằng : Kẻ nào làm cho người tội lỗi trở lại, bỏ đường lầm lạc, sẽ cứu linh hồn nó khỏi chết, và phủ lấp muôn vàn tội lỗi mình” (Gc 5.19-20).

    Nhưng nên nhớ : đi nói lời răn kẻ có tội, mình đừng lên mặt đoán xét, kết án họ hay khinh chê họ ngấm ngầm : “đồ tội lỗi”, “đồ ma cô”, “đồ đĩ điếm”..., nhưng lòng ta phải khiêm tốn, biết rằng mình cũng phạm tội tứ bề, nên phải làm sao cho họ cảm thấy là ta chỉ muốn ích cho phần rỗi họ. Lớn nói với lớn, thanh niên nói với thanh niên, trẻ nói với trẻ... Chẳng hạn, các em thiếu nhi sẽ nói gì với đứa bạn, khi em biết nó sắp đi xem một phim xấu ? hoặc nó nói chuyện tục tĩu, hay một đứa bạn tỏ ra thô bỉ, tàn nhẫn đánh đập một em gái, một đứa trẻ nhỏ ?

    Nếu lời khuyên răn, sửa đổi không làm được, ít nhất, ta cũng đưa ra một lời cảnh cáo, một lời nhắc nhở, và như thế, cũng kể là một việc thương linh hồn người ta rồi vậy.
    Tích truyện
    Chắc nhiều người ở Saigon có quen biết một cụ già hớt tóc dạo, theo đạo Tin Lành, người rất vui vẻ, vợ đã chết, con cái ở xa, có đứa đi nghĩa vụ. Cụ sống trong một căn nhà lụp xụp, nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Mỗi khi khởi sự hớt tóc là cụ nói ngay về Phúc Âm, về Chúa Giêsu Christ. Nhưng người khó quên được câu nói của cụ :

    - Tôi không ham giàu có, kiếm được đủ ăn và lo hầu việc Chúa hàng ngày như thế này là tôi sung sướng, thỏa mãn.

    Cụ hân hoan vì đã biết dùng nghề hớt tóc mà nói về Chúa cho người ta.
    Sách Kinh Thánh kỳ trước thuật chuyện tiên tri Yô-na bỏ trốn sự vụ rao giảng, hôm nay, Kinh Thánh cho ta nghe chuyện ơn kêu gọi làm tiên tri của Ysaia. Ngược với Yô-na, Ysaia lại tự dâng mình đi rao giảng cho dân
    Trích sách Tiên tri Ysaia, ch.6
    Tiên tri Ysaia kể rằng : “Lối năm -742, Vua Ô-zy-a chết, tôi đã được thấy Thiên Chúa : Người ngự trên ngai cao thẳm, hoàng bào của Người xòa lấp Đền Thờ. Chung quanh Người có những thần Sê-ra-phim chầu hầu, mỗi vị có sáu cánh : hai cánh phủ mặt (kẻo trông thấy Thiên Chúa uy nghi mà phải chết), hai cánh che mình, hai cánh còn lại để bay (mà đi thi hành lệnh Chúa). Các vị ấy luôn luôn đối đáp nhau mà tung hô Thiên Chúa rằng :

    - Chúa là Đấng Thánh, Cực Thánh, ngàn trùng Chí Thánh ! Yavê các cơ binh, trời đất đầy vinh quang Chúa !

    Tiếng hoan hô, chúc tụng vang rền, làm các cửa Đền Thờ rung rinh và Đền Thờ nghi ngút khói. Ysaia run sợ than :

    - Tôi chết mất, các thiên thần còn không được nhìn mặt Chúa, mà tôi đã được thấy Người. Tôi là kẻ tội lỗi, môi miệng đầy nhơ uế !

    Bấy giờ, một vị Sê-ra-phim bay đến, gắp một cục than hồng trên hương án Đền Thờ, đụng vào miệng lưỡi tôi mà nói :

    - Lửa hồng này đã tẩy sạch miệng lưỡi ngươi, tất cả tội lỗi của ngươi được tha.

    Ngay đó, tiếng Yavê phán :

    - Ta sẽ sai ai đi rao giảng lời Ta cho dân chúng ?

    Ysaia sốt sắng thưa ngay :

    - Này tôi đây ! Người cứ sai tôi !

    Yavê phán :

    - Vậy ngươi hãy đi rao giảng cho dân! Nhưng hãy nhớ rằng : đừng ngã lòng, dân này cứng đầu, nó nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy, chúng không trở lại mà được tha thứ.

    Tôi hỏi :

    - Sự ấy sẽ kéo dài đến bao giờ ?

    Chúa đáp :

    - Cho đến khi các thành chúng bị tàn phá tan hoang, nhà không người ở, đất không ai trồng !...

    * Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
    Suy niệm Lời Chúa
    Được sai, thế là Ysaia đi rao giảng, ông đã trở thành một tiên tri lớn nhất. Mặc dù dân chúng không nghe, không tin lời giảng, ông cứ thi hành nhiệm vụ, ngày đêm bất kể, vì nhiệt thành lo phần rỗi linh hồn người ta. Nhiều lúc, thấy dân chúng và vua quan cứng lòng, chai đá, ông giận run lên, hét những lời đe dọa nẩy lửa. Lúc khác, thấy trước cảnh tàn phá, thành hoang, đất trống, dân chúng sẽ bị lưu đầy khốn khổ vì tội lỗi mà không ăn năn hối cải, ông đau đớn thốt lên những lời than ai oán xé tâm can.

    Chúng ta cũng vậy, mỗi người hãy là một Ysaia khác hiến thân rao giảng Lời Chúa khi có dịp, tùy khả năng và thời giờ của mình, vì vinh quang Thiên Chúa và vì phần ích thiêng liêng cho người đời.

    Trong tinh thần ấy, ta đọc tiếp các mối thương linh hồn.

    Mối thứ ba : Răn bảo kẻ mê muội :

    Không kể tội lỗi, ngày nay còn một khốn khó khác là sự trí khôn mê muội, dốt nát về tôn giáo, không thông giáo lý. Còn về mặt lương tâm và luân lý thì mù mờ, không biết cái gì làm được, cái gì không được phép làm : cái này có tội không, cái kia có tội không ? Tỉ dụ : cột buồng trứng có tội không ? Ngừa thai là điều làm được hay bị cấm? Viết lý lịch mà gạch bỏ chữ Thiên Chúa giáo đi có là chối đạo hay chưa ? Mà trong số những người mê muội, họ không phải như thời Ysaia đều cứng cổ cả đâu ! Trái lại, có rất nhiều tâm hồn thiện chí, khao khát biết sự thật. Và có khi các kẻ mê muội lại chính là người nhà của mình : chồng, vợ, con cháu. Nếu không noi gương Ysaia, đến khai sáng cho họ hiểu đường lối của Chúa, thì tội nghiệp biết bao !

    Ta hãy nghe chuyện Phúc Âm : Một hôm, Chúa Giêsu bảo : “Hãy đi ra một nơi hiu quạnh, thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút !”. Vậy thày trò lên đò đi đến một nơi vắng vẻ. Ai ngờ, dò biết được các ngài đến đó, dân từ khắp các làng xóm chung quanh rủ nhau kéo đến, và còn đến trước các ngài nữa. Vừa lên khỏi đò, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì Ngài chạnh lòng thương xót họ, vì họ như cừu chiên không có người chăn dắt, dạy dỗ. Và dù mỏi mệt, chưa ăn uống gì, Ngài cũng lên tiếng giảng dạy cho họ... dạy mãi đến tận chiều, các tông đồ phải đến xin Chúa cho họ giải tán đi vào thôn xóm xung quanh mua thức ăn. Nhưng hôm ấy, Chúa thương đã làm phép lạ nuôi họ no nê cả phần xác nữa, bằng việc hóa bánh ra nhiều (Mc 6.30-44).

    Sau Chúa Giêsu, đến lượt các tông đồ cũng vậy, lo chia tay nhau mỗi người một phương giảng dạy kẻ mê muội, lầm đường lạc lối. Có cái hay là Kinh Thánh thuật lại việc các giáo dân cũng lo việc dạy dỗ ấy. Như ông A-pô-lô, ông vốn là người Do thái nên thông thạo Kinh Thánh ; sau khi học biết đạo Chúa Giêsu, tâm hồn ông nồng nhiệt mến Chúa, thương linh hồn, nên dù là giáo dân, ông cũng tìm mọi dịp giảng dạy về Chúa Giêsu một cách xác đáng. Lại có cặp vợ chồng Pri-ki-la và A-ki-la, cũng là bạn với Thánh Phaolô, nghe tin ông A-pô-lô như vậy, đã đến gặp ông và trình bày cặn kẽ hơn về đạo Chúa Kitô ... (x. Cv 18.24-28). Ôi, chớ gì xứ đạo chúng ta ngày nay mà có được một số người, nam nữ, trẻ già như mấy người ấy, thì thật là phúc lớn !

    Mối thứ tư : An ủi kẻ âu lo :

    Trong cuộc sống náo nhiệt ngày nay, nhìn cảnh quần áo chưng diện đúng mốt thời trang, cảnh ăn uống lu bù quán nọ, tiệm kia, cảnh xô nhau ào ào đi mua sắm đồ đạc, nhất là những nét mặt hớn hở của những người được thùng đồ tiếp tế ngoại quốc gửi về..., tưởng chừng ai cũng sung sướng, hạnh phúc. Có nhìn kỹ hơn mới thấy : con người thường bị bao nỗi buồn bã làm tê liệt tâm hồn. Khỏi cần kể, ai cũng biết các điều ấy rồi ! Đời là bể dâu mà ! Mỗi người mỗi cảnh, mỗi đời mỗi cơn đau : “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay !”.

    Thánh Phaolô cũng trải qua nhiều kinh nghiệm đau đớn, nên ông mới nghiệm ra rằng : “Thiên Chúa là Cha đầy thương xót và là Chúa mọi nguồn an ủi. Người an ủi ta trong mọi cơn gian truân, khốn khó, ngõ hầu ta có thể an ủi kẻ khác” (2Cr 1.3-4). Cái hay trong câu ấy của Thánh Phaolô là ông đã được kinh nghiệm thấy trong bao nỗi gian truân, Thiên Chúa đã an ủi và thương xót ông, nên ông mời ta hãy nhớ lại bao lần trong các khốn khó, đau khổ của đời ta, ta đã nếm được sự an ủi và thương xót của Chúa, thì ông nói : đến lượt ta, ta cũng hãy an ủi kẻ đau buồn như vậy. Thiên Chúa an ủi ta, ta đem niềm an ủi ấy biếu cho người khác, và cứ thế, dòng sông tình yêu chảy xuôi mãi xuống, tràn lan ra...

    Nhiều lúc, đứng trước đau khổ lớn lao tràn ngập tâm hồn của một người, chẳng hạn một cái chết của người họ yêu thương, ta cảm thấy bất lực, không biết nói lời gì an ủi - lời nói của ta, thấy nó quá nhạt nhẽo... Lúc ấy, chỉ còn cách : im lặng và cầu nguyện cho họ : xin Cha là nguồn an ủi đến an ủi họ thay ta. Có một cách nữa : lấy một vài Lời Chúa hợp tình cảnh mà nâng đỡ tâm hồn họ. Ví dụ, trong cảnh có người thân chết, lấy lời Chúa dạy về cuộc phục sinh, và Chúa đến lại... (x. 1Tx 4.18; 5.9-11,14). Cần nhất đừng để các người âu sầu ở một mình, lẻ loi, cô độc... Khi có thể, ta làm họ nguôi ngoai bằng cách cứ để họ khóc cho đã ; lúc khác, bằng cách xin họ kể cho mình nghe duyên cớ làm họ buồn, hoặc hỏi xem họ có cần ta giúp đỡ gì không, hoặc tích cực nữa là làm họ giải trí, quên đi nỗi sầu, chẳng hạn mời họ đi dạo, đi xem phim hay cho mượn một cuốn truyện hấp dẫn...

    Mối thứ năm : Tha kẻ dể ta :

    Đây là một việc thương xót người ta hơn cả : sự tha thứ ! Thoạt nghe cũng lấy làm lạ, vì ta thường nghe giảng dạy : bổn phận phải tha thứ... ; còn ở đây lại nói là một sự thi thố lòng thương xót. Thực ra, cả hai đều đúng, tùy người ta xét theo góc cạnh nào. Trước hết, nếu xét theo góc cạnh Thiên Chúa, thì phải nói chúng ta có bổn phận phải tha thứ những điều người ta đã xúc phạm đến ta, như chính Chúa đã tha thứ cho ta muôn vàn tội lỗi. Chính Chúa Giêsu đã lấy một dụ ngôn rất hay mà giảng về điều đó : Có một ông quan lớn kia, mắc nợ vua một vạn nén vàng (cỡ 100 triệu đồng). Thật là một món nợ khổng lồ ! Vì không có để trả, nên nhà vua ra lệnh bán ông ta cùng vợ con làm nô lệ và tịch thu gia sản để trả nợ. Ông ta quì xuống, khẩn khoản van xin vua khoan hồng, để ông tìm cách góp nhặt mà trả. Động lòng thương, Vua thả ông ta, lại còn tha bổng cho cả món nợ. Vài ngày sau, đi chơi ngoài phố, ông bắt gặp một bạn đồng nghiệp nợ ông vỏn vẹn có 100 đồng. Ông ta liền túm lấy áo, đè xuống đất quát :

    - Nợ đâu, trả đây !

    Người bạn năn nỉ xin thư thả sẽ trả hết, nhưng ông ta không chịu, bắt bạn bỏ tù cho đến khi trả xong. Bạn bè thấy ông cư xử tồi tệ quá như vậy, mới kể lại sự việc cho Vua nghe. Đùng đùng nổi giận, Vua sai bắt ông ta vào triều mà mắng :

    - Đồ bất nhân bất nghĩa ! Trẫm đã tha bổng cho ngươi, vì ngươi nài xin trẫm. Há ngươi không phải thương xót và tha cho bạn ngươi, như trẫm đã thương và tha cho ngươi sao ?

    Phán xong, Vua sai lý hình bỏ tù và hành hạ y cho đến chết. Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận :

    - Cũng vậy, Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình (Mt 18.23-33).

    Lời Chúa dạy quá rõ, chẳng cần thêm gì ; trong thực tế, chỉ xin nhớ điều này : Nếu trong lòng ta còn cưu hờn, tích oán bất kỳ ai, người dưng hay người thân trong gia đình, họ hàng, mà không tha thứ tự đáy lòng, thì ta có đi xưng tội cả chục lần, các tội ta vẫn không được tha, dù cha giải tội có lầm không biết mà cứ ban phép giải tội. Nếu đi rước lễ sau đó, lại thêm phạm sự thánh. Mọi việc đọc kinh, lần hạt, việc lành phúc đức lúc ấy đều vô giá trị trước mặt Chúa. Cách đây ít năm, có bà kia đi dự khóa Thánh Linh, thấy các người khác được đầy các ơn lạ lùng : nào vui mừng, bình an, nào nói tiếng lạ, có người được Chúa ban ơn an ủi đến ngây ngất... ; còn mình thì cứ trơ trơ ra, lạnh như đá, như đồng. Bà buồn quá, đến hỏi Cha hướng dẫn khóa cầu nguyện, thì Cha bảo :

    - Cố xét mình xem con còn mắc kẹt gì không ?

    Về nhà, bà xét mình : chẳng thấy nợ nần ai, chẳng lấy của ai, không gian tham, không dâm ô, không bỏ lễ... Mãi vài hôm sau, chợt nhớ mình còn giận chồng, hận con... Như một ánh sáng bởi trời soi thấu nỗi u ẩn, bà đầy lòng hối hận, ăn năn, đi xưng tội và quyết lòng tha thứ tất cả. Quả nhiên, hôm sau, lúc giờ cầu nguyện, bà được Chúa ban xuống cho bà muôn hồng ân, bình an, vui mừng và cho bà được ân tứ cầu nguyện bằng tiếng lạ nữa. Ôi ! Kể sao xiết nỗi vui mừng !

    Bây giờ, ta đứng góc cạnh người đã xúc phạm tới ta mà xét, thì có thể nói : tha thứ là một việc thi hành lòng thương xót. Vì sao ? Hãy xem lại dụ ngôn trên : Ông quan đã cư xử ra sao với người bạn ? Thưa: ông bỏ tù bạn ! Thế nếu ông tha thứ thì ông sẽ làm gì ? Thưa : sẽ thả bạn ra và tha bổng cho bạn. Vậy đó, chẳng phải là thi hành lòng thương xót sao ? Phần ta, tha thứ cho người khác, tức cũng như thả họ ra khỏi tù vậy.

    Mối thứ sáu : Nhịn kẻ mất lòng ta :

    Mối này hơi khác với mối trước. Không còn là chuyện tha thứ, song là nhịn nhục, nhẫn nại, chịu đựng những cử chỉ, những thái độ, tính nết, lời ăn, tiếng nói của kẻ khác làm ta khó chịu, đau đớn, khổ sở... Tha thứ thì chỉ đôi khi xảy ra, chứ nhịn nhục thì xảy ra hàng ngày. Vì đã sống chung thì có đụng chạm. Mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi ý riêng, quyền lợi riêng, sở thích riêng, nên dễ va chạm, dễ làm mất lòng nhau. Thánh Phaolô dạy : “Hãy vác gánh nặng của nhau, và như thế, anh em sẽ giữ trọn luật của Chúa Kitô” (Gc 6.2) - “Hãy chịu đựng lẫn nhau trong lòng mến, với hết lòng khiêm nhường và hiền từ... Hãy hăm hở duy trì sự hiệp nhất của Thần Khí, trong sự hòa thuận” (Ep 4.2-3) - “Ai có lòng bác ái thật thì sẽ chịu đựng được mọi sự, bao dung mọi sự, kiên nhẫn trong mọi sự” (1Cr 13.7). Hãy noi gương Thiên Chúa, vì Kinh Thánh nói : “Bất chấp các tội phạm trước kia của loài người (kể từ tội của Ađam, suốt bao nghìn năm), Thiên Chúa vẫn cầm mình nhẫn nại... cho đến thời Người sai Đức Giêsu đến để cứu kẻ nào có lòng tin” (Rm 3.26). Đó, chính Thiên Chúa cũng phải cầm mình nhẫn nại, vì Người cũng đau buồn vì tội lỗi loài người lắm chứ ! Kinh Thánh cho biết : “Yavê thấy sự dữ của loài người đã ra nhiều..., suốt ngày họ chỉ mưu tính sự độc dữ. Và Yavê đã phải đau phiền trong lòng...” (Kn 6.5-6). Thế mà “Ngài đã cầm mình lại, khoan dung, chịu đựng ta” (Rm 9.22), còn ta, Kinh Thánh ví như “cái bình thịnh nộ, sẵn chờ hư đi”, nghĩa là ta ví như cái bình chất đầy tội lỗi bên trong, tức là chứa đầy thịnh nộ của Thiên Chúa, chờ ngày nổ tung tiêu diệt ta hư đi đời đời. Thế mà, Thiên Chúa đã nhẫn nhịn, chờ ta ăn năn hối cải để được cứu. Đến lượt ta cũng phải nhẫn nhịn chịu đựng anh chị em ta như thế.

    Kể ra tha thứ hoặc nhịn nhục rất khó. Tại sao ? Tại ta nhìn vào ta nhiều quá, ta thấy ta bị xúc phạm, quyền lợi ta bị thiệt thòi, hoặc vì ta nhìn chằm chằm vào các lỗi lầm nơi anh chị em khác, càng thấy sai trái, càng thấy thái độ, càng nghĩ đến lời ăn, tiếng nói xúc phạm của họ, ta càng bừng bừng tức giận... Nhưng nếu ngược lại, ta nhìn lên Thánh giá, Chúa đang chịu đóng đinh giữa vô vàn khổ đau, Ngài đã thốt lên lời van : “Xin Cha tha thứ vì họ lầm chẳng biết”..., ắt ta sẽ múc được sức mạnh mà nhịn nhục, chịu đựng và tha thứ cho người đời.
    Tích truyện
    Người ta kể chuyện nhạc sĩ Bét-tô-fen, một hôm đi ngang qua nhà kia, từ trong nhà vẳng ra tiếng nức nở nghe vô cùng não nuột, thương tâm. Dừng lại nghe một lát, tâm can ông bùi ngùi xúc động. Nhạc sĩ không cầm lòng nổi, ông nhè nhẹ mở cửa bước vào. Một cảnh tượng buồn thảm hiện ra trước mắt : một bà mẹ trẻ đang khóc thương trước thi hài đứa con trai độc nhất của bà, đang còn phủ khăn liệm. Nỗi đau thương bi lụy ấy, ai có lời nào an ủi nổi. Chợt nhạc sĩ thấy loé ra trong đầu một sáng kiến. Ông êm ả đến cạnh chiếc đàn organ (phong cầm), nhẹ nhàng chơi một bản êm đềm, thánh thót : ông để tất cả tâm tình cảm thông vào các phím đàn, ông muốn nhờ đàn diễn tả tất cả những lời an ủi, mà lời nói không sao tả được... Tiếng nhạc khi trầm, khi bổng, êm ái, du dương... Và cứ thế, người ta thấy bà mẹ dần dần vơi buồn, bớt khóc than và khô giọt lệ, đôi mắt bà mẹ nhìn lên trời với tất cả lòng biết ơn thầm lặng... Rồi nhạc sĩ đậy nắp đàn, êm ả rút lui, không một tiếng động, để lại trong nhà một bà mẹ, tim bừng sáng niềm trông cậy..
    -----oOo-----
    Mối thứ bảy : Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
    KINH THƯƠNG XÁC BẢY MỐI
    Với bài này, ta bước sang một đề tài mới là bác ái đối với tha nhân.
    Trích sách Tô-by-a, ch.1-4 và 12 1
    Ông Tô-bi bị Vua San-ma-na-da bắt làm phu tù, đi lưu đầy cùng với người Israen sang Ni-ni-vê. Ông là người công chính, giữ lề luật Chúa trọn vẹn, và rất có lòng kính sợ Thiên Chúa. Lòng đạo của ông không chỉ là đi dự lễ, đến nhà thờ, đọc kinh, nguyện ngắm Lời Chúa, mà còn diễn tả ra bằng các việc lành phúc đức. Ông không những làm gương sáng cho người lân cận, mà còn giúp đỡ họ tận tình : giúp tiền cho kẻ mồ côi, góa bụa và khách tha phương, bố thí cho kẻ nghèo đói, túng thiếu. Ông kể rằng :

    - Người đói, tôi cho bánh ăn ; kẻ mình trần, tôi cho áo xống ; nếu thấy có thây chết nào bị quăng ngoài tường lũy Ni-ni-vê, tôi đem chôn cất.

    Số là Vua mới tên Sa-ne-kê-ríp lên nối ngôi vua trước, ông rất ghét người thờ phượng Thiên Chúa, nên tìm giết họ như những tên đại gian, đại ác. Ông Tô-bi không sợ cơn bắt bớ, cứ thăm viếng kẻ tù ngục, yên ủi, giúp đỡ họ, và khi họ bị giết, ông lén lấy trộm xác đi chôn cất tử tế. Bị người Ni-ni-vê tố cáo lên Vua, ông bị kết án tử hình. May nhờ các bạn tâm phúc, ông trốn được, ẩn náu một nơi, còn gia tài ông bị tịch biên hết không còn gì. Ít lâu sau, vua độc ác kia bị ám sát, Tô-bi lại trở về Ni-ni-vê, đoàn tụ với vợ con và tiếp tục làm việc nghĩa.

    Hôm ấy, ngày đại lễ Ngũ Tuần, người ta dọn một bữa tiệc thịnh soạn mừng ông. Thấy món ăn la liệt trên bàn, ông chạnh lòng nhớ đến những kẻ đói nghèo, và sai con rằng :

    - Này con, hãy ra đường và gặp ai nghèo đói trong anh em ta, hãy dẫn về đây chia sẻ bữa ăn với cha. Này cha đợi con về đó !

    Lúc đưa một người nghèo đói về, cậu con nói với cha :

    - Cha ơi ! Có một người Israen bị sát hại, người ta quẳng xác ngoài bùng binh.

    Vừa nghe, ông Tô-bi chỗi dậy, bỏ bữa ăn, đi lấy xác người đó, đem về giấu đi, đợi đến tối mịt đem chôn. Sau đó, ông mới tắm rửa và ngồi ăn uống. Nhưng bữa tiệc lúc ấy đã biến thành “ăn bánh trong tang sầu”. Đến tối mịt, ông đào huyệt chôn xác người ấy. Hàng xóm thấy thế xì xào :

    - Hắn vẫn chưa sợ ! Đã bị tầm nã và kết án tử hình, phải bỏ trốn, thế mà bây giờ hắn vẫn lại chôn xác kẻ chết !

    Họ không biết rằng ông Tô-bi kính sợ Thiên Chúa hơn sợ vua As-sy-ri, và lòng thương người lớn lao đến nỗi không làm ông chùn bước trước một hi sinh nào.

    Đã vậy, ông có được Chúa thưởng gì đền đáp đâu ! Chỉ gặp toàn là tù ngục, kết án, chạy trốn, gia tài bị tịch thu... Và lần này, xui xẻo hơn nữa : tối đó, vì quá mệt, trời lại nóng bức, ông nằm ngủ bên mé tường, nên bị cứt chim từ mái nhà rớt xuống làm ông bị mù cả hai mắt. Chỉ mãi sau này, như ta đã biết, ông được cậu con là Tôbya lấy mật gan cá rịt cho ông, mắt ông mới sáng lại.

    * Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
    Suy niệm Lời Chúa
    Ông Tô-bi là con người đã thi hành trọn vẹn việc thương xác bảy mối. Có anh chị em nào thuộc lòng, xin đọc lên thử coi ? [mời đọc...] [Hoan hô !].

    Ông Tô-bi thương người đến lụy vào thân, vì sao ông không ngại? Thưa : vì ông là người công chính, đạo đức, tức là người vâng giữ luật Chúa truyền dạy. Ta cũng vậy, Chúa cũng dạy ta yêu người. Thương người có 14 mối, thương linh hồn 7 mối, thương xác 7 mối. Thực hành các điều đó mới xứng danh là đạo bác ái.

    Bài sau, ta sẽ bàn về cách thực hành 7 mối thương xác. Kỳ này, ta hãy suy niệm các lý do tại sao ta phải thương và giúp đồng loại.

    1/ Trước hết, sự sống thật quí giá :

    Khi ta nhìn một em bé mũm mĩm, đang chơi đùa, hồn nhiên, vô tư lự và vui sống, ta cảm thấy xúc động ! Ta thầm nhủ : sự sống con người thật cao quí, thật đẹp đẽ, thật lạ lùng ! Đó là mầu nhiệm sáng tạo : một con người vừa xuất hiện trên cõi đời, tươi mới, trẻ trung, mang theo nó bao hứa hẹn, bao khả năng tiềm tàng trong thân xác non nớt, nhỏ xíu đó. Và ta thử hỏi : Trẻ này mai sau sẽ thế nào ? Một người tốt, một anh hùng, một vĩ nhân, một bậc thánh ? Hay ngược lại, thành một tên côn đồ, một kẻ vô dụng, hại gia đình, phá xã hội, một kẻ dữ sa hỏa ngục đời đời ?

    Sẽ ra thế nào ư ? Một phần không nhỏ là do những người xung quanh có quan tâm, săn sóc, giúp đỡ nó không : săn sóc khi còn nhỏ, giúp đỡ khi đã lớn và đã thành người.

    2/ Sự sống quí giá và là một ơn huệ của Chúa, nên ta tôn trọng mạng sống và thân xác ta thế nào - điều đó ta đã xem ở các bài trước - thì ta cũng phải tôn trọng, lo lắng, săn sóc, giúp đỡ người khác như thế. Bạn thử tưởng tượng đang ở trên xe đò, trước mặt bạn là một bà mẹ với đứa con thơ 3 tuổi. Xe sắp chuyển bánh. Tiếng người lơ xe hô bác tài : “Chạy !”. Và anh ta đang sắp đóng sầm cửa lại. Bỗng bạn thấy bàn tay em bé đang kẹt vào khe cửa. Bạn sẽ cảm thấy thế nào ? Nếu không phải là tim sẽ thắt lại ? Bạn sẽ làm gì ? Bạn có thể ngồi điềm nhiên nhìn bàn tay non nớt kia sẽ nát tan, máu chảy xối xả và em bé đau đớn khóc thét lên được không ? Chỉ một giây mà cả đời em bé sẽ tàn phế, có khi phải cưa cụt đến cổ tay !

    Không ! Không thể như thế ! Bạn không thể ngồi yên, nếu bạn còn có một con tim của loài người. Bạn phải làm một cái gì đó để cứu nguy. Và giả sử em nhỏ đó là chính bạn, chắc bạn sẽ mong được ai cứu giúp. Do đó, ta phải đến cứu giúp tha nhân, như Chúa đã dạy : “Điều gì các con muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7.12).

    3/ Hãy xem gương Thiên Chúa : Ngài thương và săn sóc mọi tạo vật Ngài đã dựng nên ; cách riêng đối với loài người, Ngài tỏ ra nhân hậu, yêu thương biết bao, bất kể họ là ai. Chúa Giêsu nói : “Chúa ban mưa nắng cho kẻ lành cũng như kẻ dữ”. Thế nhưng, có điều này đáng lưu ý : theo lối quan phòng xếp đặt của Ngài, Ngài săn sóc, giúp đỡ ta qua trung gian của người khác, Chúa nhờ tay người này giúp đỡ người kia, cha mẹ giúp đỡ con cái, người khỏe giúp người yếu, người giàu giúp người nghèo, vv...

    Thấy người khác nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau mà không giúp đỡ, đó không còn là con người nữa, mà là con vật, hoặc con người đó không có trái tim. Người ngoại đạo ngày xưa vì tin vào thuyết định mệnh, nên họ để mặc người khác nghèo khổ, đau đớn, vì nghĩ rằng đó là “số kiếp”, đó là “tiền oan nghiệp chướng”, “kiếp trước đã ăn ở thất nhân, thất đức”, ráng phải chịu vậy. Cùng lắm, họ chép miệng cảm thương rồi thôi, chẳng tích cực giúp đỡ gì, chưa kể có khi vì mê tín dị đoan, cái khổ của người khác còn gợi lên nơi họ một mối lo sợ bị lây xui xẻo, nên họ thường tránh xa, hay đốt hương, đốt vía xua đuổi. Nghe nói có chuyện này, chẳng biết đúng hay sai : các ngươi thuyền chài, thấy ai sắp chết đuối, họ kiêng không đến cứu vớt, vì sợ xui, sợ Hà bá !

    4/ Đạo Chúa dạy khác : Thiên Chúa là Cha nhân từ, thì đạo của Chúa chỉ có thể dạy lòng bác ái ! Ngay trong Cựu Ước, Chúa phán : “Ta ưa chuộng tình thương hơn là các lễ vật” (Hs 6.6). Và Chúa dạy phải có những hành động thương yêu cụ thể. Cứ xem gương ông Tôbi trên kia đủ rõ. Rồi Ngài còn chúc phúc : “Phúc cho ai lưu tâm đến người nghèo khó và yếu đuối, ngày họ gặp hoạn nạn, Thiên Chúa sẽ gỡ thoát cho” (Tv 41.2).

    5/ Gương Chúa Giêsu : Đức Giêsu đã đến, Ngài mang tình thương Thiên Chúa xuống trần gian giá lạnh, ích kỷ và khổ đau này. Ngài đẩy tình thương người lên đến đỉnh cao chót vót, khi Ngài tuyên bố : “Điều răn lớn nhất và trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Điều ấy đã đành. Điều răn thứ hai cũng giống như thế, quan trọng ngang với điều thứ nhất : đó là yêu thương người ta như mình vậy”. Nói thật, đạo ta chỉ có hai điều răn ấy. Còn ngoài ra, các điều khác đều từ đó “phăng” ra, thế thôi. Nhưng nên nhớ, Đức Giêsu không chỉ nói, Ngài đã thi hành trước : Ngài động lòng thương người phung hủi, đưa tay đụng đến để chữa lành. Thấy bà góa thành Naim đang khóc lóc đi sau quan tài đứa con trai độc nhất, Ngài chạnh thương làm một phép lạ lớn cho cậu con trai sống lại và trao tận tay bà. Hàng ngàn kẻ đau ốm, tật nguyền, quỉ ám, động kinh, Ngài đều ra tay chữa lành, bất kể có đạo hay không có đạo, tốt hay xấu.

    6/ Lời Chúa Giêsu dạy : Làm trước, dạy sau. Đức Giêsu dạy môn đồ điều Ngài đã thi hành trước. Rồi Ngài dạy : “Các con hãy yêu mến nhau, như Thày đã yêu mến các con”. Ngài còn nói đó là điều răn mới : “Thày ban cho các con một điều răn mới : là các con hãy yêu mến nhau...”. Mới ở chỗ nào ? Xưa, Cựu Ước đã dạy phải yêu thương rồi cơ mà ? Người đời cũng vẫn nói : thương người như thể thương thân ! Cái mới thì ra ở chỗ này : Yêu thương người ta không chỉ như mình, mà còn như Thày đã yêu mến chúng con, yêu như cách Chúa yêu, yêu như lòng Chúa yêu, như mức độ Chúa yêu, vv... Cái mới còn ở điểm này nữa : khi ta thương và giúp đỡ người nào, thì ta làm cho chính bản thân Chúa : “Quả thật, Thày bảo các con, những gì các con đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất của Thày, là các con đã làm cho chính mình Thày”.

    Có người nghĩ rằng Chúa khuyên ta nên yêu mến nhau. Không yêu mến, giúp đỡ nhau cũng chẳng sao, miễn là mình cứ xưng tội, rước lễ, đọc kinh, lần hạt là đủ, vẫn được lên thiên đàng ! Đừng nghĩ vậy ! Sai lầm to ! Chúa Giêsu đã coi đó là một lệnh truyền cơ mà : “Này là lệnh truyền của Thày : các con hãy yêu mến nhau...” (Ga 15.12; 12.17).

    Vậy đây không phải chuyện đùa, thích thì làm, không thích thì thôi. Ai tử tế với ta, ta giúp đỡ, kẻ nào ta ghét, ta mặc kệ... Chúa Giêsu còn nói một cách khác để ta thấy rằng : không yêu thương, giúp đỡ người khác, ta chẳng còn là tín hữu Chúa, mà chỉ là một kẻ ngoại đạo : “Cứ dấu này mà người đời biết chúng con là môn đệ Thày : đó là chúng con yêu mến nhau”. Không làm như thế, chúng ta không phải là môn đệ Ngài nữa, mà là kẻ ngoại đạo rồi. Chúng ta ở đây, ai ai cũng đều biết các điều Chúa dạy, song khốn nỗi, trái tim ta thường lười biếng và ích kỷ, cứ luôn tránh né yêu thương, hoặc viện đủ lý lẽ để làm ngơ, giả điếc, không giúp đỡ anh em khác. Đã là lệnh truyền, đã là điều răn Chúa dạy, mà ta không thi hành, thì hình phạt Chúa chờ ta đó, ngày phán xét Chúa sẽ quở trách khủng khiếp : “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy xéo đi xa Ta, mà vào lửa đời đời. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn, khát không cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi không tiếp rước, mình trần không cho mặc, Ta đau yếu và ở tù, các ngươi không thăm viếng... Quả thật, những gì các ngươi từ chối không làm cho kẻ nhỏ hèn nhất, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta”.

    Gia đình chúng ta hãy tạ tội với Chúa và hứa từ nay sẽ tuân hành lệnh truyền của Chúa, như ông Tô-bi, hầu được phúc sống đời đời bên Chúa.
    Tích truyện
    Bác sĩ Lông-giê (Longet) là một bác sĩ người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây 30 năm, và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, bất kể ngày đêm. Được hỏi vì sao ông quí bệnh nhân đến thế ? vì sao ông có thể bỏ ăn, bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân trên hết ? Ông đáp :

    - Vì thấy Chúa Giêsu trong người bệnh.

    Mỗi sáng, khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông chở trên xe. Mỗi chiều Chúa nhật, ông chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này, nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân công giáo. Vì là người Pháp, đang bập bẹ học tiếng Việt, ông chỉ thuộc mấy kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, đủ để lần hạt chung với họ. Ít lâu sau, trở về Pháp, ông dâng mình đi tu, vào chủng viện, rồi được phong linh mục. Ông tình nguyện sang Việt Nam lại và phục vụ những người nghèo khổ nhất ở địa phận Cần Thơ. Tiếc thay ! Sau khi chịu chức linh mục, chưa kịp thực hiện nguyện ước, Cha Lông-giê bị bệnh và qua đời.
    Trích Tin Mừng Thánh Mátthêu, 25.31tt
    Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, cùng với các thiên thần, bấy giờ Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Các dân thiên hạ được thâu họp trước mặt Ngài hết thảy, và Ngài phân tách người ta ra khỏi nhau, giống như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Ngài đặt bên phải, dê thì ở bên trái. Bấy giờ, Vua cả trời đất sẽ nói với những người ở bên phải :

    - Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy lĩnh lấy làm cơ nghiệp Vương quốc đã dọn cho các ngươi từ tạo thiên lập địa. Vì xưa

    "Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn,
    Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống,
    Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước,
    Ta mình trần, các ngươi đã cho Ta mặc,
    Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng,
    Ta ở tù, các ngươi đã đến với Ta”.

    Bấy giờ, kẻ lành đáp lại rằng :

    - Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi thấy Ngài đói mà đã cho ăn, khát mà đã cho uống, là khách lạ mà đã tiếp rước, mình trần mà đã cho mặc, đau yếu hay ở tù mà chúng tôi đã đến với Ngài ?

    Đáp lại, Vua Cả sẽ nói với họ :

    - Quả thật, Ta bảo con người rõ : những gì các ngươi đã làm cho một người trong những anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta”.

    * Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
    Suy niệm Lời Chúa
    Những hình thức thương và giúp đỡ thể xác người ta thì muôn hình vạn trạng. Chúa Giêsu tóm tắt tất cả trong một câu khuôn vàng thước ngọc này : “Mọi điều các con muốn người ta làm cho mình, thì các con cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7.12). Tôi đói và muốn người ta cho tôi ăn ư ? thì tôi hãy cho kẻ khác đang đói được ăn như vậy.

    Trong cảnh tả về phán xét chung, ta vừa nghe đọc trong Lời Chúa, Chúa Giêsu đã nêu ra những sự khốn cực chính của nhân loại cùng khổ : “đói khát” tức là thiếu ăn, thiếu uống, thiếu dinh dưỡng ; “khách lạ” là những người mất quê hương, lang bạt xứ người, không nơi trú ngụ, không ai thân thiết giúp đỡ, thân cô thế cô, lạc loài, bơ vơ... ; “mình trần” là rách rưới, mặc không đủ ấm ; “đau yếu” là bị bệnh tật, không có tiền mua thuốc, phải đi bệnh viện điều trị, không đủ sức khỏe... ; “ở tù”, nói rộng ra là mất tự do, bị đe dọa, theo dõi, mọi hình thức giam hãm...

    Nói chung là những hình thức đau khổ phần xác của loài người. Trước khi bàn thực tế về các mối thương xác, ta hãy xây dựng cho con em ta có từ thuở bé một tâm hồn quen yêu thương và phục vụ ngay trong gia đình.

    A/ Trong nhà : Các em nhỏ vốn là cái đích qui tụ mọi yêu thương và săn sóc của cha mẹ, anh chị. Tình thương của cha mẹ là thửa đất màu mỡ và ấm áp, làm trổ sinh nơi các em tình thương kẻ khác. Được yêu thương, các em sẽ dễ biết yêu thương. Đừng lầm với với sự cưng chiều quá lố và phi lý. Được yêu thương cách hợp lý và sáng suốt, các em sẽ hấp thụ được tình thương đối với kẻ khác. Cứ xem gia đình Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đủ rõ. Có những cha mẹ nóng nảy, cộc cằn, hay chửi bới, đánh đập con cái, vô tình đã dập tắt trong lòng con cái ngọn lửa thiêng của tình thương. Đến lượt chúng, chúng cũng sẽ ích kỷ, cộc cằn, nóng nảy, chửi rủa, đánh đập kẻ khác. Cha nào con nấy. Ngược lại, chúng sẽ bắt chước lối cư xử và ăn nói đầy tình thương của cha mẹ và của người lớn mà đối xử với những kẻ khác. Vậy ngay từ nhỏ, phụ huynh hãy tập cho chúng, để dần dần lớn lên, chúng sẽ biết hướng sự chú ý và lo lắng giúp đỡ các em út trong gia đình ; rồi những kẻ nhỏ bé, yếu đuối hơn chúng cũng sẽ biết lo cho kẻ khác.

    Khoa tâm lý nhi đồng cho biết : các em tỏ ra rất sung sướng khi làm được một việc tốt cho kẻ khác. Hãy phát triển tâm tính đó thành một tập quán từ ở nhà, rồi sau này ở trường học, ngoài xã hội : nào là biết cảm thương, biết đại độ, biết chia sẻ, biết giúp việc các anh chị, biết đỡ tay cho cha mẹ ; tỉ dụ : đứa lớn đút cơm cho em ăn, mặc áo cho em, giữ em, đưa em đi chơi... Đã đành, các điều này thường vẫn thấy cha mẹ bảo các em làm, nhưng điều cần nhấn mạnh là tập cho các em yêu thích làm các việc đó như những cử chỉ của tình thương, chứ không phải vì cha mẹ bắt buộc, hoặc bảo phải làm, và làm cách vùng vằng, tức tối. Ngược lại, phụ huynh sẽ ghi nhận tất cả các dấu hiệu bắt đầu ló ra nơi con em về sự vô tâm, vô tình, không biết cảm thương, lãnh đạm trước những thiếu thốn hay đau khổ của kẻ khác ; phụ huynh sẽ cương quyết bài trừ và tiêu diệt các mầm mống xấu đó nơi các em, nhất là bài trừ ngay những phát hiện về tính ác độc, phá hoại, chơi xấu, những thích thú làm đau đớn kẻ khác, tính phá phách, chia rẽ, xúi giục đánh nhau, gây gỗ, vv...

    Khoa thanh thiếu niên phạm pháp đã cho thấy bằng chứng với những con số thống kê hùng hồn điều này : một thiếu nhi hay thanh thiếu niên không được yêu thương trong gia đình, hoặc bất hạnh vì sống trong một gia đình lục đục, thiếu đoàn kết..., sự thiếu thốn ấy sẽ tạo nên một đời sống buông thả, đuổi theo khoái lạc, truy tìm các thỏa mãn tội lỗi và bệnh hoạn, như để bù đắp lại cái thiếu thốn tình yêu chúng phải chịu trước kia ; tệ hơn nữa, đi đến cực đoan, chúng sẽ thành những kẻ phá hoại, dùng vũ khí cướp giật hay giết người... Nói như thế, thiết tưởng các phụ huynh đã lưu ý tầm quan trọng của điểm vừa nói đây.

    B/ Ra đến ngoài đường : Ở đây, những hình thức yêu thương, giúp đỡ người khác thật muôn hình vạn trạng như đã nói. Ta cứ tạm lấy bản kinh thương xác 7 mối mà chính Đức Giêsu đã nêu ra trong bài Tin Mừng làm căn bản.

    1/ Thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống : Nhu cầu căn bản và cấp bách nhất của con người là ăn uống.
    a/ Trong xã hội ta, vẫn còn nhiều người thiếu ăn, ăn không đủ no. Cảnh thường thấy nhất biểu lộ tình trạng đó là các người ăn xin nhan nhản trong phố xá, và đi qua cửa nhà ta. Ta hãy giúp đỡ họ : đồng tiền, bát gạo, miếng cơm, manh áo, tùy tiện ! Đành rằng có nhiều người lười biếng, không chịu lao động, kiếm ăn bằng nghề ngửa tay đi xin. Nếu ta cứ nghĩ như vậy, ta sẽ không cho bất kỳ ai, rồi thành ra chẳng bao giờ cho ai cả. Trong số đó lại chẳng có những người thật nghèo đói ư ? Cho nhiều, cho ít, ta cứ cho, để dành cho Chúa sự phán xét họ. Ta đã làm trọn luật Chúa, ta đã yêu thương và Chúa thấu việc ta làm là đủ. Ta có thể cho lầm, nhưng trước mặt Chúa không lầm, việc đó vẫn có giá trị là một việc yêu thương. Vả lại, người có lòng yêu thương dồi dào, đâu có xét nét, đắn đo quá như thế ?

    b/ Sau những người ăn xin, còn biết bao hạng người thiếu ăn khác nữa quanh ta, trong khu phố, ấp, phường ta ở. Đừng đợi họ tới xin. Nếu ta có tình thương, ta sẽ có con mắt để thấy. Tình thương có mắt. Người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sẽ không có mắt, không bao giờ thấy nhu cầu kẻ khác. Hãy nhớ bài dụ ngôn người giàu và Ladarô trong Lc 16.9tt : Ông nhà giàu ăn bận lụa là, gấm vóc, tiệc tùng lu bù, còn La-da-rô ăn xin bị vất ở cổng nhà, đói đến độ muốn được một miếng thừa liệng dưới gầm bàn mà không được, thế mà ngày này qua ngày khác, ông nhà giàu đâu có thấy. Khi ông nhà giàu chết, ông bị phạt sa hỏa ngục vì tội gì ? Không thấy nói ông có tội gì khác, mà chỉ vì tội không để ý đến người nghèo, không chia sẻ cho họ đỡ cơn đói khát.

    c/ Có những người nghèo ở gần, lại có những người nghèo đói ở xa ta hàng chục, hàng trăm cây số. Ta vẫn có thể giúp họ bằng cách gửi phần đóng góp của ta vào các tổ chức từ thiện, cứu tế... Nào nạn bão lụt, thiên tai mới đây ở phía Bắc tổ quốc, ở miền Trung...

    Nhìn rộng ra quốc tế, có nhiều người nghèo và chết đói ở Á châu, ở Phi châu... Theo tài liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi năm có mấy chục triệu người chết vì đói. Ta có thương những anh em xấu số đó không ? Nếu thương, ta đã làm gì giúp họ ? Nhiều khi xem ciné hay ti vi, sách báo, thấy những cảnh sống xa hoa, thừa thãi quá mức, nhất là ở Tây phương, ta dễ nảy ra lòng căm tức : nhà ở quá sức lớn rộng, không biết bao nhiêu phòng ốc ; bàn ăn dư thừa, bỏ mứa, đầy tủ lạnh, đầy kho... đến nỗi con chó của họ ăn còn sướng hơn một người bình thường của nước nghèo. Chả trách biết bao chiến sĩ cách mạng vì nhiệt tình yêu thương đồng loại nghèo khổ, đã nổi lên tranh đấu đòi cơm no, áo ấm, đòi công bằng trong xã hội. Tranh đấu vì tình thương, đó là họ đang có đạo Chúa, đang sống và thực hành đạo Chúa dạy trong điều cốt cán nhất của đạo. Đang khi ta là người có đạo, lại chỉ biết đi nhà thờ, dự lễ mà không biết yêu thương. Thử hỏi, ai là người thật có đạo ? Ai làm đúng ý Chúa ?

    Bài Tin Mừng ta vừa đọc trên cho biết : người nào yêu thương, người ấy có đạo, cho dù họ không biết Chúa Giêsu. Họ nói : “Có bao giờ chúng tôi thấy Ngài...”, vì họ chưa biết Chúa. Thế thì họ thấy ai ? Họ nói tiếp : “Chúng tôi chỉ thấy những người nghèo đói, mình trần, bị tù..., rồi chúng tôi giúp họ mà thôi”. Chúa vạch ra cho họ điều họ không ngờ, Chúa nói : “Ấy đó ! Khi các ngươi giúp những người khốn khổ ấy, là các ngươi giúp chính mình Ta, dù các ngươi không biết đó là Ta. Hỡi các con ! Vì thế, các con được Cha Ta chúc phúc. Các con đã yêu thương, vậy hãy vào hưởng hạnh phúc với Cha Ta, là Đấng vô cùng yêu thương mọi người”. Để hiểu cặn kẽ điều này, xin mời anh chị em đọc bài thuyết trình của Linh mục Brê Bét-tô (Frei Betto), trong cuốn “Phi-đen (Fidel) và tôn giáo”, tr.56-66, và tr.67-73.

    Tín hữu VN ta, đa số, thường chỉ nghĩ đi đạo là đi nhà thờ, dự lễ, đọc kinh, đi xưng tội, chịu các phép Bí tích, giữ điều răn, vv..., toàn chuyện thiêng liêng và lo phần rỗi linh hồn mình. Những việc giúp về nhu cầu vật chất như nói trên, họ cho là những việc nhân đức, ai làm thì có công thêm, còn không làm, cứ đi dự lễ, đọc kinh... đủ lệ là rỗi linh hồn rồi ! Nghĩ như thế là sai căn bản đạo Chúa ! Không cần viện các chứng cớ khác trong Kinh Thánh nhiều vô số, chỉ cần nhắc lại bài Tin Mừng vừa đọc trên, và bài dụ ngôn Chúa dạy về người giàu và La-da-rô cũng đủ rồi. Ngày phán xét ấy, không thấy Chúa tra hỏi về đọc kinh, dự lễ..., mà chỉ hỏi : có yêu thương không, và yêu thương cụ thể bằng việc làm cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ trần trụi áo mặc... không ?

    Sợ rằng Lời Chúa giảng còn chưa làm ta xác tín, xin lấy một chứng về việc làm của Chúa trong Tin Mừng Mc 6.32tt : Hôm ấy, Chúa giảng xong, có hơn 5.000 người theo nghe. Giờ đã muộn, và nơi đó lại hoang vu, các Tông đồ xin Chúa giải tán đám đông, để họ đi đến các thôn quanh đó mà tự mua thức ăn. Theo ý các Tông đồ, Chúa chỉ lo giảng điều thiêng liêng, lo việc rỗi linh hồn, còn chuyện ăn uống là vật chất, mặc kệ người ta tự lo lấy. Ta có nghe Chúa đáp lại làm sao không ? “Việc gì phải bắt họ đi, chính các con hãy cho họ ăn!” Trời đất ! Thày dạy chi lạ vậy ? Chúng tôi là Tông đồ mà đi lo việc ăn uống cho người ta sao ? Các Tông đồ nghĩ bụng như thế. Động trời hơn nữa là Thày lại bảo lo cho hàng ngàn người, thì lo sao được ? Dĩ nhiên là các Tông đồ bó tay... Cho hơn 5.000 người ăn phải mấy xe vận tải lương thực cho đủ ? Thấy thế, Chúa lại tiếp tục bảo : “Chưa chi, các con đã buông xuôi, nản lòng, thì hãy đi kiếm coi có thu lượm được chiếc bánh nào không, cứ đem tới đây !”. Chúa có ý dạy đừng vội nản chí, cứ cố gắng làm phần mình, dù ít ỏi. Thiếu bao nhiêu, Chúa sẽ liệu sau. Thu nhặt được 5 cái bánh và 2 con cá đưa đến, nhưng bấy nhiêu có thấm tháp vào đâu ! Chúa nhận lấy cái ít ỏi đó và Ngài đã từ cái chút ít ấy hóa phép ra vô số bánh đủ cho đám đông ăn no. Khi hóa bánh, Chúa còn đưa bánh phép lạ ấy vào tay các tông đồ, để các ông phát cho dân chúng ăn, hầu dạy các tông đồ phải là những người không chỉ lo việc thiêng liêng, mà còn là những người “lo cho người ta ăn” nữa, như Chúa nói lúc đầu.

    Kỳ sau sẽ tiếp về thương xác mối thứ ba. Khi suy niệm Lời Chúa trong giờ đền tạ này, rõ ràng gia đình ta còn thiếu sót nhiều trong việc thi hành đức thương người. Ta hãy xin Chúa thứ tha, và xin Chúa ban ơn giúp sức, để sau khi đã hiểu, ta đem ra thực hành cho trọn đạo Chúa.
    Tích truyện
    Câu chuyện sau đây có thật. Một bà kia, nhờ học Lời Chúa, đã hiểu bài Tin Mừng ta đọc ở trên : Chúa coi ai làm điều gì cho người nghèo là làm cho chính Chúa. Bà mới suy ra rằng : vậy Chúa ở trong người nghèo và đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa. Một hôm, bà đang giữ cháu trong nhà, nghe có tiếng kêu xin của một người hành khất ngoài cửa. Bà nghĩ : mình bỏ cháu đi ra, nhỡ cháu ngã thì chết ; song chợt nhớ Lời Chúa : “Ai thương cha mẹ, vợ con hơn Ta, thì không đáng làm môn đệ Ta !”. Chúa đến ngoài cửa, ta thương cháu hơn Chúa là không được. Nghĩ vậy, bà liền đặt cháu cẩn thận rồi bước ra. Gặp người ăn xin, bà rút túi 10 đồng (hồi trước 10 đồng ấy to lắm) và lấy cả hai tay cầm dâng lên cho ông ăn xin, như thể bà dâng lên cho Chúa vậy. Cầm lấy tiền, ông hành khất rưng rưng nước mắt nói :

    - Từ khi tôi đi ăn xin, người ta cho tôi cũng nhiều, nhưng tôi chưa thấy ai cho tôi không những nhiều như bà, mà nhất là còn cho với một cử chỉ tôn trọng như vậy. Thật tôi hết sức cảm động.
    Trích Tin Mừng Thánh Luca 16.19tt
    Hôm ấy, Chúa Giêsu nói ngụ ngôn này để cảnh cáo những ai ích kỷ, không thương người khốn khổ khác.

    Xưa, có một ông nhà giàu, ăn mặc toàn hàng xịn, tơ lụa đắt tiền, ngày ngày cỗ bàn cao lương mỹ vị, ăn uống thỏa thuê. Lại có người ăn mày tên La-da-rô, người ta vất bỏ bên cổng nhà ông, mình đầy lở lói, bụng đói như cào, những mong lượm được miếng cơm thừa canh cặn ăn cho đỡ đói lòng, mà không ai cho... Chỉ có con chó hoang đến liếm mụn nhọt. Rồi một hôm, người ăn mày chết và được các thiên thần đem lên thiên đàng, dự tiệc cùng thánh Tổ phụ A-bra-ham. Ông phú hộ cũng chết, nhưng bị rơi xuống hỏa ngục. Giữa những cực hình, ông ngẩng mặt lên, thấy trên kia, La-da-rô đang hưởng phúc, liền kêu to :

    - “Lạy cha A-bra-ham ! Xin thương xót tôi với ! Xin sai La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ xuống lưỡi tôi cho mát chút xíu, vì tôi đang bị quằn quại, thiêu đốt trong ngọn lửa này”.

    Nhưng A-bra-ham nghiêm nghị đáp :

    - Hỡi kẻ ích kỷ vô tâm ! Suốt đời ngươi đã sung sướng, ăn uống no nê, quần là áo lượt, bao nhiêu cái ngon, cái đẹp, ngươi hưởng hết ; còn La-da-rô thì đã chịu bao đau khổ, nào đói khát, nào bệnh tật, rách rưới... Lúc ấy, ngươi có nhớ lấy chút xíu bánh hay rượu mà thấm miệng La-da-rô cho đỡ đói, đỡ khát chăng ? Vậy bây giờ, tình thế đảo ngược : La-da-rô được hạnh phúc, còn ngươi phải quằn quại đau đớn, âu cũng là lẽ công bằng. Vả lại, bây giờ giữa ngươi và chúng ta, không còn có thể qua lại, giúp đỡ nhau gì được nữa, vì có một vực thẳm ngăn cách hai bên. Có giúp đỡ nhau gì thì giúp ngay khi ở trần gian, chứ bây giờ thì vô phương.

    Người ấy lại nói :

    - Thôi, phận con đành vậy ! Nhưng con có 5 anh em còn sống. Xin Cha sai La-da-rô đến nhà răn dạy chúng đừng sống như con mà phải họa đời đời.

    A-bra-ham mới nói :

    - Chúng đã có Lời Chúa, có sách Kinh Thánh, có Tin Mừng dạy, cứ việc nghe và thực hành !

    - Thưa Cha A-bra-ham, không đâu ! Chúng cứng lòng lắm ! Họa may có ai từ cõi chết hiện về bảo chúng, chúng sẽ hối cải.

    A-bra-ham lắc đầu :

    - Ôi ! Nếu chúng không nghe Lời của chính Chúa dạy, thì cho dẫu kẻ chết có hiện về bảo, chúng cũng chẳng nghe đâu !

    * Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !
    Suy niệm Lời Chúa
    Chúng ta đây đang nghe Lời Chúa Giêsu kể ngụ ngôn này. Chúng ta có là những kẻ ích kỷ vô tâm, chỉ lo cho thân mình, không biết nghĩ thương đến kẻ khác chăng ? Chúng ta có cứng lòng, nghe Lời Chúa dạy như thế mà vẫn không thay đổi lòng ích kỷ thành tình thương yêu chăng ? Hay chúng ta chờ người chết hiện về bảo mới nghe ?

    Hôm nay, ta bàn tiếp các mối thương xác, để biết mà thực hành những Chúa dạy.

    Mối thứ ba : Cho kẻ rách rưới ăn mặc :

    Đi giữa phố, thấy ai cũng quần là áo lượt, mốt nọ mốt kia, ta tưởng cảnh rách rưới, không còn nữa, hay chỉ nơi những người ăn xin, cố tình vá chằng vá đụp để gợi lòng thương của người khác. Thôi, đừng nhìn ngoài phố, hãy nhìn quanh khu xóm..., ta vẫn còn nghe có kẻ nói : “Chúa nhật, tôi không đi dự lễ vì không có áo !” ; vẫn còn thấy mùa đông, có người mặc chưa đủ ấm ; vẫn còn có gia đình không đủ chăn mền đắp, thiếu mùng màn tránh muỗi cho con nít, cách riêng để khỏi sốt rét, sốt xuất huyết, vv... Nói rộng nữa, vẫn có những người thiếu nhà, vẫn còn những người chui rúc các ổ chuột..., sống không ra con người.

    Nhìn vào trong nhà, nếu để ý, ta sẽ thấy có quần áo, mùng mền... dư thừa, hoặc không dư, song có khả năng sắm cái mới và cho các đồ cũ. Hãy gom góp lại một chỗ sẵn, để có thể cho đi. Không để ý làm như thế, chợt lúc có ai xin, hay ta định cho, ta sẽ lúng túng và bỏ lỡ dịp. Có những người quá keo kiệt, không bao giờ nghĩ rằng có thể cho ai được manh áo cũ, vì áo quần cũ, họ vẫn cần để... lau nhà ! Đó là cách xử sự của những người không có chút tình thương nào trong tim cả. Lại có nhiều người khác hoàn toàn không cho ai quần áo cũ, chỉ vì không có thói quen, không ý thức vấn đề, không để ý...

    Dân chúng đến hỏi ông Gioan Tẩy Giả :

    - Chúng tôi phải làm gì, sinh hoa quả việc lành phúc đức nào để xứng với lòng hối cải, hòng tránh khỏi cơn thịnh nộ của phán xét Thiên Chúa ?

    Ông Gioan đáp :

    - Kẻ có hai áo hãy chia cho người không có, và ai có miếng ăn, cũng hãy làm như vậy ! (Lc 3.10-11).

    Nghĩa là cách sám hối, đền tội hay nhất là thắng ích kỷ, chỉ biết lo cho mình no đủ. Quả thực, như nhà chú giải Kinh Thánh kia nói : “Có việc đền tội nào tốt hơn sự tự bắt mình phải bớt chút của cải (ở đây là bớt quần áo, đồ cũ), mà thường chúng ta dính bén quá mức ?” (Pirot). Từ xưa, các tiên tri đã dạy như thế : “Thiên Chúa phán : ăn chay, đền tội, hãm mình, phạt xác đâu chỉ là rắc tro trên đầu, mặc áo vải gai thô nhặm ? Ăn chay, đền tội mà Ta mến chuộng là thế này : chia sẻ miếng cơm cho người đói, cho kẻ vô gia cư trú ngụ, thấy ai mình trần, rách rưới, ngươi cho áo che thân, ngươi không tránh né giúp đỡ cho đồng bào ruột thịt ngươi” (Ys 58.5-7).

    Trước lòng chai dạ đá của người có của mà ích kỷ, Thánh Tông đồ Giacôbê nói những lời hăm dọa nghe mà toát mồ hôi lạnh : “Này ! Những kẻ có của, hãy khóc đi ! Rú lên vì những khốn khó sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi tích trữ (không đem ra bố thí), của cải đó đã ra mục nát. Áo quần các ngươi xếp trong tủ, trong rương (không chịu phân phát cho kẻ mình trần), áo quần đó đã để mọt gặm. Tiền bạc các ngươi cất kỹ trong két sắt hay chôn giấu dưới đất, tiền bạc ấy đã bị sét rỉ ! Ấy đó, tất cả những mục nát, mọt gặm, sét rỉ ấy sẽ làm chứng tố cáo tội ích kỷ các ngươi, chúng sẽ ăn thấu xương thịt các ngươi, bởi vì tích trữ mà không biết chia sẻ, vô hình chung, các ngươi đã tích trữ lửa hỏa ngục để thiêu đốt các ngươi trong ngày phán xét” (Gc 5.1-3).

    Mối thứ tư : Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc :

    Đây là những hạng người không có phương tiện để tự mưu sinh. Ốm đau nằm một chỗ, hoặc bị giam tù làm sao kiếm sống được ? Vậy mối thương người này bảo ta phải viếng thăm họ. Không chỉ thăm suông, mà nếu có phương tiện, thăm và nuôi nữa. Trong những hoàn cảnh đau buồn ấy, họ rất cô đơn, cần sự an ủi, nâng đỡ, cả tinh thần lẫn vật chất. Có thể đem đến cho họ an ủi của Lời Chúa, của sách thiêng liêng. Ở những nước khác trên thế giới, có những thanh niên nam nữ, ngay cả thiếu nhi, tình nguyện hi sinh thời giờ vui chơi, làm ăn, kiếm tiền... để đến thăm viếng các bệnh viện, phục vụ bệnh nhân và đỡ tay cho y tá, mỗi tháng một lần, vì công việc của họ quá bề bộn, nặng nề... Còn ở đất nước mình, chừng nào có thể (tỉ dụ phải được phép của ban quản lý bệnh viện nếu đi đông và khá đều đặn), cũng nên cùng nhau đi thăm các trại cùi, bệnh viện, nhà tế bần... Biết bao việc có thể làm, dù nho nhỏ, song cụ thể : gội đầu, hớt tóc, xếp giường chiếu, rửa chén bát cho bệnh nhân, viết thư và gửi thư giùm, nhắn tin, biếu sách báo để giải trí hoặc để bồi bổ tinh thần, biếu những món quà nhỏ hoặc thuốc men, vv...

    Đối với tù nhân, vấn đề cũng tương tự, song có phần phức tạp hơn nhiều. Trong những trường hợp tù oan, hoặc đang bị cầm giữ đợi ngày xét xử, nếu có cách giúp để được trả tự do, thật là quí ! Ở đây, có thể bước sang mối phúc thứ sáu : chuộc kẻ làm tôi. Ngày xưa, thời Trung Cổ, các hiệp sĩ có lý tưởng “thế thiên hành đạo” như các võ sĩ nghĩa hiệp của ta, họ giải thoát tù nhân hay con tin bị bọn thảo khấu bắt giữ..., can thiệp chống cường hào ác bá để giải phóng những kẻ thân cô thế cô, thấp cổ bé miệng. Thánh Vinh Sơn Phaolô chuyên lo tìm cách chuộc kẻ làm tôi, có lần chính Ngài tự nguyện thế chân cho một tên nô lệ chèo đại chiến thuyền... Cha Kôn-bê (Kolbe) tự nguyện chết thay cho một tù nhân ở trại tập trung Đức Quốc Xã.

    Mối thứ năm : Cho khách đỗ nhà :

    Ngày nay, vấn đề này quả rất khó thực hành. Không chỉ do vấn đề hộ khẩu, mà còn do kinh tế eo hẹp, nhất là do con người ngày nay quá dối gian, độc ác, nghĩ ra trăm mưu ngàn kế để lường gạt... ; cho nên người ta đâm sợ làm phúc thành mang họa vào thân..., ngay cả đối với họ hàng hoặc quen thuộc cũng vậy.

    Tuy thế, việc cho khách lạ trú ngụ thật là việc bác ái rất đáng cổ võ, nhất là trong dịp hoạn nạn như chiến tranh, cháy nhà, lụt lội... Nhưng ai vượt nổi mọi e sợ, cho trú ngụ với sự ân cần, niềm nở, chứ không cau có, với tình yêu thương, săn sóc, chứ không lãnh đạm, sống chết mặc bay : người ấy thi hành một việc thương người lớn lao. Họ đã làm cho chính mình Chúa vậy, như Chúa Giêsu đã dạy thế. Còn thánh Phêrô nói : “Đức mến phủ lấp, xóa sạch vô vàn tội lỗi” (1Pr 4.8). Thánh Phaolô thì bảo : “Có kẻ nhờ đó mà không ngờ đã tiếp đón thiên thần làm khách trọ” (Hr 13.2). Ý nhắc đến tích chuyện ông Abraham cho ba người thanh niên trú ngụ và đãi cơm, không ngờ đó là các thần sứ trên trời xuống chúc phúc cho ông được sinh con trai. Nới rộng ra hơn : mối thương người này còn nhằm giúp đỡ những người lạc đường, lạc lõng, bơ vơ, cô thân cô thế..., giúp một người mới bước vào xí nghiệp, công xưởng, đơn vị mình, hoặc mới tập tễnh bước vào nghề..., ân cần chỉ bảo, giúp phương thế cho họ thành công, thành tài... Đó cũng là những việc bác ái lớn.

    Mối thứ bảy : Chôn xác kẻ chết :

    Với một thi thể đã chết, mà cũng thi hành bác ái ư ? Tại sao vậy? Thưa : vì tin vào sự sống lại của thân xác : xác sống lại ngày sau hết, hợp với hồn mà hưởng phúc với Chúa. Giáo Hội làm phép xác, dâng lễ cầu hồn và an táng cách tôn kính, cũng vì coi đó là xác thánh, chứ không phải là một thây ma vô hồn như xác trâu bò, chết là hết. Không ai không tôn trọng thi hài người đã chết, cho dù người vô tín ngưỡng, vô tôn giáo đến đâu cũng vậy. Cũng như người Do thái thời xưa, chết mà không được chôn cất tử tế nơi phần mộ gia đình là một ô nhục, bất hạnh. Giúp chôn cất xác vô thừa nhận như ông Tôbi làm ngày xưa là một việc nghĩa rất lớn. Chính Chúa tán dương người phụ nữ đập bình bạch ngọc, xức dầu thơm cho thân thể Chúa, vì Chúa cho rằng bà ấy linh cảm trước là Chúa sẽ bị chết như một phạm nhân, và không được phép chôn táng tử tế, nên bà ấy đã xức dầu để liệm táng xác Chúa trước đi (Mt 16.12).

    Ngày nay, vấn đề chôn xác ấy ít xảy ra cho ta. Nhưng ta có thể thực hành cách khác : chẳng hạn giúp kẻ sắp sinh thì : đến đọc sách dọn mình chết lành cho người già cả, ốm nặng, hấp hối ; mời linh mục cho họ chịu các phép sau hết ; hoặc trong phường xóm có ai qua đời, họp nhau đến cầu hồn, cầu lễ... Những giúp đỡ cách này, cách khác cho tang gia bối rối là rất quí khi giúp đỡ vô vị lợi. Nhiều nơi có thói tục rất ngoại đạo là mở ra ăn uống, nhậu nhẹt... trong cảnh ma chay ấy, gây ra những điều nghịch mắt, chướng tai : trong nhà thì đọc kinh và khóc lóc, ngoài sân thì nhậu nhẹt, cười nói, rượu vào lời ra... Nhiều người cho ta cảm tưởng là họ đi tìm miếng ăn nơi đám ma.

    Cụ Phan Kế Bính có lần than rằng : “Than ôi ! Việc tử biệt là cảnh rất đau buồn, còn người đến trợ giúp nhà tang là một nghĩa vụ xã hội. Khi người ta đau đớn, có thể giúp được việc gì thì giúp, còn tưởng gì đến sự ăn uống. Phần hiếu chủ thì đang lúc buồn bã, âu sầu, còn bụng dạ nào nghĩ đến việc thù tiếp. Vậy mà ép cho người ta phải cỗ bàn khoản đãi, thì cái nghĩa vụ cứu giúp nhau ở đâu ?” (trích “Việt Nam phong tục”, tr.185).

    Một người ngoài đạo mà còn nói được như vậy ! Nghĩ tình đời thật đen bạc : lúc người ốm nằm hấp hối thì chẳng có ai, dĩ chí người trong gia đình cũng lơ là... Thế mà người ốm vừa thở hơi cuối cùng, thì cả một “kỹ nghệ khai thác xác chết” nổi dậy hoạt động tấp nập, ầm ĩ..., nào đòn đám ma, nào phường kèn, nào mổ heo, mổ gà, nào ăn uống, vv...

    Có những tục lệ ngoại đạo từ ngoại giáo du nhập vào lễ an táng của người công giáo, song không thể chấp nhận được. Có nhiều lắm, chỉ kể ra đây một hai điều. Như thấy ở nơi nọ thuê dàn kèn đám ma, con hát về khóc mướn theo tiếng kèn ò e, í e..., khóc sao có bài bản thật hay thì được thưởng tiền... Có người bắt chước ngoại giáo, đi đưa linh cửa mà lăn lộn ngất xỉu trên đường trước quan tài, hoặc lăn nhào xuống huyệt... như muốn chết theo ; hoặc làm ma chay thật linh đình để lấy tiếng khen, khoe của, khoe công, mà ngờ đâu đạo hiếu của người ấy chỉ là che mắt thế gian, lúc người ốm còn sống thì đối xử tàn tệ, bạc đãi, đến nỗi có câu ca dao chế rằng :

    “Còn sống thì chẳng cho ăn,
    Chết đi cúng kiếng làm văn tế ruồi”.

    Những thói tục ấy chẳng lợi gì cho linh hồn người quá cố, mà còn biểu lộ một sự yếu kém đức tin trầm trọng về số phận của linh hồn người chết nơi thế giới bên kia. Cho nên, thánh Phaolô dạy : “Tôi không muốn để anh em không biết chút gì về số phận những người đã chết, ngõ hầu anh em đừng buồn phiền, sầu não như kẻ không có đức tin và không có niềm hi vọng vào sự sống lại. Đây tôi cho biết : những ai chết trong ơn nghĩa Chúa, Thiên Chúa sẽ cho họ ở làm một với Chúa Kitô... Rồi ngày sau, lúc Chúa Tái Lâm, những kẻ đã chết sẽ sống lại... và chúng ta tất cả sẽ được lên ở với Chúa mãi muôn đời” (1Tx 4.13-17).
    Tích truyện
    Một câu chuyện vui cười về chôn xác kẻ chết : Ông già ốm nặng sắp chết, nằm thoi thóp. Ở phòng bên cạnh, các con ông bàn tán việc lo liệu ma chay. Anh nào cũng keo kiệt, không muốn bỏ tiền để làm ma cho ông. Kẻ thì bàn : mua cho ông chiếc hòm thật rẻ. Kẻ khác nói : không nên thuê xe tang có ngựa kéo, tự ta khiêng quan tài đi chôn cũng được. Nghe họ bàn vậy hoài, ông già gọi các con lại bảo :

    - Thôi, để tao đi bộ ra nghĩa địa mà chết ngoài đó cho rồi !
    -----oOo-----

  14. #14

    Mặc định

    KINH CẢI TỘI BẢY MỐI
    Cải tội bảy mối có bảy đức
    Thứ nhất: Khiêm nhường, chớ kiêu ngạo.
    Thứ hai: Rộng rãi, chớ hà tiện.
    Thứ ba: Giữ mình sạch sẽ , chớ mê dâm dục.
    Thứ bốn: Hay nhịn, Chớ hờn giận.
    Thứ năm: Kiêng bớt , chớ mê ăn uống.
    Thứ sáu: Yêu người, chớ ghen ghét.
    Thứ bảy: Siêng năng việc Đức Chúa Trời , chớ làm biếng.

    KINH PHÚC THẬT TÁM MỐI
    Phúc thật tám mối:
    Thứ nhất: 1. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5, 3 ).
    Tâm hồn những người Giáo Dân Đồng Chiêm thật nghèo khó, họ sẽ được Nước Trời làm của riêng. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia thì chỉ lo làm giàu cách bất chính, lại ham hố chiếm đoạt một quả đồi nho nhỏ xưa này dành để lo chôn cất trẻ sơ sinh và người nghèo, người chết đói. Thật là… vô phúc lành quá !
    Thứ hai: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” ( Mt 5, 4 ).
    Đời sống và sinh hoạt của người dân Đồng Chiêm ở đời này thật nghèo khó, họ sẽ nhận được Nước Trời làm gia nghiệp riêng. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, cái họ vơ vét, tham nhũng, bóc lột ở đời này thật ê hề, nhưng con cháu họ và cả họ nữa cũng rơi vào chuyện hưởng thụ trác táng, ăn chơi nhậu nhẹt, rồi sẽ trắng tay đời này và trần trụi cả đời sau. Thật… bất hạnh thay !
    Thứ ba: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” ( Mt 5, 5 ).
    Người dân Đồng Chiêm đang phải sầu khổ vì bị cách ly, ngăn sông cấm chợ, y như là họ mắc phải căn bệnh dịch, hạch dịch tả lây nhiễm vậy. Đúng, họ đang bị “căn bệnh hiền lành chân chất” có thể lây truyền bất cứ ai tìm đến gần gũi san sẻ với Đồng Chiêm. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, cùng với lựu đạn cay, dùi cui, chó nghiệp vụ, rào sắt bảo vệ quá ư là hùng mạnh thì làm sao có thể lây nhiễm được căn bệnh dễ thương của Tin Mừng ấy ? Thật đáng tiếc !
    Thứ bốn: “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng”( Mt 5, 6 ).
    Người Đồng Chiêm chắc là phải luôn khao khát sống công chính nên quanh năm và cả đời họ mới nghèo, mới phải tìm mưu sinh khắp mọi nơi xa quê. Không ngờ họ lại được Chúa “bù lỗ” bằng bình an vô giá tràn đầy trong tâm hồn họ Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, lòng dạ đen tối với những quay quắt độc dữ, những mưu toan ám hại người khác, thành ra bất an lo sợ đủ chuyện, ăn không ngon, ngủ không yên. Thật là đại họa !
    Thứ năm: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ).
    Ở Đồng Chiêm bây giờ trắng xóa khăn tang, chan hòa nước mắt khóc thương. Người ta xót Danh Thánh Chúa bị xúc phạm, thương anh chị em của họ bị bắt bớ đánh đập tàn nhẫn. Và Chúa đã đáp trả bằng Lòng Thương vô bờ bến cho họ. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, vì cũng là con cái Thiên Chúa, đáng lẽ họ cũng được xót thương, nhưng họ lại quay lưng ngoảnh mặt mà từ khước chống đối tất cả. Thật là uổng phí tấm lòng của Thiên Chúa xót thương !
    Thứ sáu: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” ( Mt 5, 8 ).
    Người Đồng Chiêm và cả muôn vàn người Công Giáo khác ở khắp bốn phương, dù thân phận vẫn là kẻ tội lỗi nhưng nhờ đặt lòng tin vào Chúa, nhờ luôn biết sám hối nên tâm hồn lại luôn được thanh tẩy chữa lành, họ nhìn thấy được, nhận ra được sự hiện diện thiêng liêng của Chúa nơi cây thập giá bằng bêtông, bằng gỗ hay bằng tre. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, lòng đã ra nhơ uế, đầy tà khí ám muội, đôi mắt thịt cũng như đôi mắt hồn thành ra mù lòa, có nhìn mà không thấy được quyền năng yêu thương của Thiên Chúa, có nhìn mà không nhân ra đồng bào đồng loại của mình. Thật là đáng tiếc thay !
    Thứ bảy: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” ( Mt 5, 9 ). Ai làm cho người hòa thuận, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậỵ
    Dân Đồng Chiêm cứ một mực thắp nến sáng và hát Kinh Hòa Bình. Người đời triệt hạ Thập Giá này, họ lại dựng lên ngay một Thập Giá khác, mà không chỉ dựng trên đỉnh núi, họ dựng ngay trong tâm hồn. Và như vậy đã có hàng ngàn cây Thập Giá của Hòa Bình Bao Dung. Và họ chính thực là con của Thiên Chúa. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, chỉ lăm lăm vũ khí để đàn áp, để khủng bố, chỉ sa sả đọc loa để tuyên truyền và nhồi sọ. Họ đã thẳng tay đập phá các cây Thập Giá, họ vẫn còn đang tiếp tục gây tang thương đổ vỡ cho quê hương ngay trong giai đoạn xây dựng hòa bình. Thật họa tai !
    Thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ" ( Mt 5, 10 ). Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy .
    Đồng Chiêm và toàn thể những người Công giáo đang vì sống theo chân lý của Chúa, đang can đảm bênh vực Đạo Chúa mà bị chính quyền sỉ vả bằng đủ loại phương tiện truyền thông. Họ đang bị bách hại bằng những cú đấm, những nhát dùi cui và những con chó nghiệp vụ. Họ đang bị vu khống là chống đối nhà nước, là có tội với nhân dân. Và Danh Chúa cứ thế mà càng được nhiều người biết đến để kính phục tôn thờ. Thật là phúc lành !
    Trong khi những người còn lại kia, họ “ngậm máu phun người”, họ “ném đá giấu tay” thông qua đám “quần chúng tự phát”. Và miệng họ đã tanh hôi, tay họ đã vấy máu người vô tội. Thật vô phúc !
    “Phúc thay anh em vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” ( Mt 5, 11 - 12 ).
    Các ngôn sứ ngày xưa, các ngôn sứ bây giờ, một khi chấp nhận sống Tin Mừng, nói Tin Mừng, lội ngược dòng đời, thì chẳng ai thoát được những cơn bách hại dữ dội của thế gian. Xin Chúa nâng đỡ che chở các cha, các nam nữ Tu Sĩ, anh chị em Giáo Xứ Đồng Chiêm, cũng như mỗi người tin chúng con ở mọi nơi, để chúng con làm tròn sứ mạng Ngôn Sứ của chúng con trong Hội Thánh Chúa hôm nay. Amen.
    Gioan BI ĐÁT – Giuse HY VỌNG, 1 năm 2010

    Bài đọc thêm:
    DỤ NGÔN NÉN VÀNG
    Do Tông đồ Matthêu tường thuật (Mt 25,14-30):
    "Khi ấy Chúa Giêsu phán dụ ngôn (parable) này để khuyên người ta biết dùng ơn Chúa, cùng các tài năng, sức lực, địa vị, hoàn cảnh của mỗi người theo Ý Chúa cho hoàn hảo:
    "Như người kia trẩy đi xa, gọi tôi tớ lại mà ký thác của cải mình cho họ, người thì được ông trao cho năm nén vàng, người khác được hai, và người thứ ba một nén, mỗi người tùy theo tài lực của mình. Đoạn ông trảy đi. Ngay đó, người lĩnh năm nén ra đi doanh lợi bằng vốn đó và gây lời được năm nén khác. Cũng vậy, người có hai nén đã gây lời được hai nén khác. Còn người lĩnh một nén thì đi đào đất giấu bạc của chủ.
    Đằng đẵng mãi lâu sau, chủ các tôi tớ ấy đến và tính sổ với họ. Người đã lĩnh năm nén tiến lại nộp thêm năm nén khác, mà rằng: "Thưa Người, Người đã trao cho tôi năm nén, này tôi đã gây lời được năm nén khác đây". Chủ nói với người ấy: " Tốt lắm, tôi tớ lương hảo và trung trực! Ít, mà ngươi đã trung trực, thì ta sẽ đặt ngươi cai nhiều, hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi.
    Người đã lĩnh hai nén cũng tiến lại mà nói: " Thưa Ngài, Ngài đã trao cho tôi hai nén, này tôi đã gây lời được hai nén khác đây". Chủ nói với người ấy: " Tốt, tôi tớ lương hảo và trung trực. Ít, mà ngươi đã trung trực, thì ta sẽ đặt ngươi cai nhiều, hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi".
    Cả người đã lĩnh một nén cũng tiến lại mà nói: " Thưa Ngài, tôi đã biết Ngài là một người hà khắc, không gieo mà gặt, không vãi mà thu, nên tôi sợ và tôi đã giấu dưới đất nén vàng của Người, này đây, xin Ngài lấy lại của Ngài". Đáp lại, chủ nói với nó: " Tôi tớ bất hảo và lười biếng! Ngươi đã biết ta không gieo mà gặt, không vãi mà thu? Vậy thì phải đặt bạc của ta nơi ngân hàng, và khi ta đến, ta thu hồi lại mà có lãi chứ! Vậy hãy cất lấy nén vàng nó giữ mà ban cho người có mười nén.
    Vì mọi kẻ có thì sẽ được cho thêm mà nên dư dật, còn kẻ không có, thì điều có cũng bị giựt mất. Còn tên đầy tớ vô dụng kia thì hãy đuổi nó ra tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng".
    (Qua dụ ngôn này, Chúa có ý dạy ta phải biết dùng những khả năng đã được Thiên Chúa ban cho mỗi người để phục vụ mình, gia đình và xã hội, xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Không được ích kỷ hẹp hòi. Lười biếng, ích kỉ, ngờ vực chẳng khác gì chôn vùi nén vàng, vừa vô ích cho mình vừa vô ích cho người, lại còn bị phạt).

  15. #15

    Mặc định

    Chương IV: Thờ Phượng
    Xin nhắc lại Điều Răn Nhất CHÚA KITÔ DẠY :Ta là Thiên Chúa của ngươi
    Ngươi không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta
    Ngươi không được tạc tượng vẽ hình để thờ
    Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
    (You shall not have other gods besides me)
    (Glcg92 2084-2141).

    (Nhờ điều răn này,người ta được giải thoát khỏi thờ cúng tà thần)
    Điều răn nhất bao gồm những gì?
    - Điều răn nhất bao gồm đức Tin, Cậy, Mến, Tôn thờ một Chúa Chân thật-Đấng không thay đổi và rất công minh. (Glcg92 2086).
    a- Đức Tin đòi ta giữ gìn đức tin cách thận trọng.
    Kính mến Chúa hết lòng, hết sức, trong tâm hồn và ngoài thể xác(tư tưởng, lời nói, việc làm): Cầu nguyện, dự các lễ nghi trong đạo, lãnh nhận các Bí tích.
    Tránh những cố ý nghi ngờ những điều Giáo hội dạy phải tin, chối bỏ điều phải tin, bỏ đạo Công giáo.
    b- Đức Cậy đòi ta chờ đợi sự chúc lành của Chúa và được hưởng phúc đời đời.
    Tránh tuyệt vọng về phần rỗi, hoặc tự cao tự đại nghĩ tự mình có thể đạt phần rỗi không cần ơn Chúa giúp. (2090-91)
    c- Đức Mến đòi ta kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, mọi loài.
    Tránh thái độ lãnh đạm, vô ơn, biếng nhác, nguội lạnh.Không nghi ngờ, thù nghịch, thù ghét Chúa, bỏ đạo Chúa. (2093-94).

    d- Đức Tôn thờ đòi ta:
    - Tôn thờ Chúa với niềm cung kính và suy phục tuyệt đối. (2096-97).
    - Cầu nguyện, hy sinh và giữ lời khấn hứa (cách riêng bậc tu trì) (2098-2103).
    - Phải Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người (2104-09).
    . Cấm không được thờ thêm thần linh nào của đạo khác ngoài một Thiên Chúa (2110).
    Cấm tin kiêng dị đoan, thờ đa thần, ngẫu tượng, tin bói toán, ma thuật, phù thủy. Không cậy nhờ cậy nhờ Satan, ma quỉ (âm binh) qua các hình thức: bói bài, gọi hồn người chết, giải mộng, đoán định tương lai, lấy số tử vi, chiêm tinh, tướng số, giải điềm, lên đồng cốt ...vì nó đi ngược lòng tôn kính Thiên Chúa (Glcg 2111-17).
    Người ta nói về mấy ông bói toán gieo quẻ như sau:
    "Hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.
    "Thề rằng xẩm chẳng thấy gì, xẩm mà nói dối xẩm thì cũng đui.
    . Không thách đố Thiên Chúa, cấm lời nói việc làm thách thức Thiên Chúa, phạm Thánh (nhất là phạm đến phép Mình Thánh (phép Thánh Thể) ), và mua bán thần Thánh (2118-22).
    e- Việc tôn kính ảnh tượng Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các thiên thần và các Thánh của đạo Công Giáo không đi ngược điều Thiên Chúa cấm dân Do thái "tạc tượng ảnh" trong Cựu Ước (Nhị luật 4,15-16), vì ngày nay việc tôn kính ảnh tượng là để tưởng nhớ tới các Đấng, dựa trên hình ảnh Ngôi Lời đã nhập thể làm người có xác thể (GlCg92 2129-33).

    Dân Ysơraên ở 400 năm tại Êdíptô. Khi được Chúa giải phóng, họ bỏ Ramse đến Sucốt, đến Êtam, đến Phihahirốt, đến Mítđôn và qua Biển Đỏ. Chúa đã rẽ Biển Đỏ làm hai cho họ đi ngang qua như đi trên đất. Họ đến Mara, nơi Chúa đã hóa nước đắng thành nước ngọt cho họ uống, rồi đến Êlim, Nêphiđim, Hôrếp vànúi Sinai. Chúa đã hiện ra trên đỉnh núi, gọi Môise lên mà ban cho họ Luật pháp và các luật lệ về sự thờ phượng. Dân Ysơraên ở tại đây lâu hơn hết, vì có nhiều điều Chúa dạy họ. Những việc đã xảy ra được ghi trong Kinh thánh không phải làviệc hoang đường, bịa đặt, nhưng là những việc thật sự. Dân Aicập, Biển Đỏ, những nơi mà họ đi ngang qua và núi Sinai vẫn còn. Vì vậy, những điều mà chúng ta đã học, là những sự thật đã xảy ra cho dân Ysơraên trước đây hơn 3000 năm, khi họ được giải phóng khỏi xứ Êdíptô. Chúa đã ghi lại những bài học vô giá đó cho mọi người, suốt mọi thời đại.
    CÁCH THỜ PHƯỢNG ĐỨC CHÚA TRỜI (Xuất 20.1-17)
    Trên núi Sinai, Đức Chúa Trời đã hiện ra với Môise và ban cho Môise bộ Luật pháp, trong đó có 10 điều răn. Mười điều răn dạy chúng ta về sự thờ phượng Đức Chúa Trời và cách chúng ta đối xử với nhau, tức là bổn phận của chúng ta đối với Chúa và đối với nhau.
    I. PHẢI THỜ PHƯỢNG MỘT MÌNH CHÚA (Xuất 20.1-3):
    1- Vì chỉ một mình Chúa cứu họ (20.1-3).
    "Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy, rằng: Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Êdíptô, là nhà nô lệ. Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác".
    Dân Ysơraên phải thờ phượng một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Tại sao? -Vì chỉ một mình Chúa cứu họ. Đang khi họ làm nô lệ tại Aicập, thì Hoàng đế, cũng như dân Aicập quyết định giữ họ ở lại đó mãi mãi, Nhưng chính Chúa đã thi hành phép lạ, đổ 10 tai vạ trên dân Aicập, buộc họ phải phóng thích dân Ysơraên ra khỏi xứ của mình. Khi dân Ysơraên ra khỏi xứ, họ không biết đường nào mà đi, thì Chúa dẫn dắt và bảo vệ họ ban ngày bằng trụ mây, ban đêm bằng trụ lửa. Chúa rẽ Biển Đỏ cho họ đi ngang qua như đi trên đất khô. Chúa mưa Mana từ trời xuống cho họ ăn, khiến hòn đá phun ra nước cho họ uống, và đến núi Sinai thì dạy cho họ cách thức để thờ phượng Ngài. Chúa bảo: "Phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi", vì chỉ một mình Chúa giải cứu họ. Cũng vậy, chúng ta chỉ thờ phượng một mình Chúa mà thôi, vì chỉ một mình Ngài cứu chúng ta ra khỏi tay ma quỉ, khỏi xiềng xích của tội lỗi xấu xa, và biến chúng ta trở thành con trai, con gái của Ngài, được làm dân Thánh, làm dân thuộc riêng về Ngài. Hết thảy những việc đó chỉ có một mình Chúa làm được mà thôi, vì vậy, Chúa bảo rằng: "Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu".
    Ngài dạy rất rõ ràng là con người, là vật thọ tạo của Ngài, chỉ thờ lạy một mình Ngài mà thôi. Thờ lạy Ngài là hành động để tỏ ra sự kính mến, kính sợ, ngưỡng mộ và ca ngợi Đấng Sáng Tạo, Đấng Thiêng Liêng là chủ tể của cả vũ trụ hữu hình và vô hình trong đó có loài người chúng ta. Vì là Đấng Sáng Tạo ra vũ trụ, Đức Chúa Trời có quyền bính trên vũ trụ trong đó có con người. Ngoài Ngài ra không có một danh xưng nào trên trời hay dưới đất xứng đáng để con người thờ lạy. Vì Đức Chúa Trời là Linh nên con cái Ngài phải thờ phượng Ngài trong tâm linh và lẽ thật. Lẽ thật về sự thờ phượng này là sự nhận biết sự bất lực của mình trước quyền lực của tội lỗi; và từ đáy vực sâu trong sự cô đơn vì tội lỗi đó kêu gào cùng Đức Chúa Trời Giê-hô-va như tiên tri ê-sai: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giê-hô-va vạn quân!” Người thờ phượng Đức Chúa Trời trong tâm linh và lẽ thật là người đến với Đức Chúa Trời bằng một tấm lòng trong như phim trắng xuyên suốt để tất cả những ý nghĩ thầm kín đều phơi bày ra trước mặt Ngài không mắc cỡ, dấu diếm, dối trá, đạo đức giả. Người thờ phượng lý tưởng theo ý muốn của Đức Chúa Trời là người không còn “tương giao” với Chúa nữa, mà linh của mình hòa nhập vào Linh của Đức Chúa Trời trong một tình yêu thắm thiết mầu nhiệm.


    Không có một giáo chủ nào trong lịch sử nhân loại phán dạy một lời như Đức Chúa Trời. Đó là vì họ không có quyền bính gì trên loài người để đòi hỏi con người phải thờ lạy mình. Ngay cả Phật tổ, là giáo chủ của một tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ xem mình như là một người Thầy. Phật tổ chưa bao giờ nhận mình là Thần Linh (Deity) vì khái niệm về thần linh và linh hồn trường cửu thật sự không tồn tại trong Phật pháp [1]. Khi thấy tín hữu yêu mến mình mà lễ bái, Phật nghiêm khắc dạy dỗ:
    "Này Ananda, không phải như vậy là tôn trọng, kính cẩn, sung bái, làm vẻ vang Như lai đâu. Bất luận vị tỳ khưu nào, bất luận vị tỳ khưu ni hay thiện nam, tín nữ nào hành đúng theo Giáo Huấn, phẩm hạnh trang nghiêm, đời sống chân chính, là người tôn trọng, kính cẩn, sung bái và làm vẻ vang Như lai theo cách cao thượng nhất. Như vậy, này Ananda, con phải chuyên cần tu tập, hành động đúng theo Giáo Huấn, phẩm hạnh trang nghiêm, sống đời chân chính [2]."
    Phật tổ cũng như tất cả giáo chủ khác đều đã chết. Khi sắc thân Phật đã chết hay còn gọi là tịch diệt, người để lại cho thế giới một hệ thống triết lý tôn giáo gọi là pháp thân. Các giáo chủ khác như Khổng tử, Lão tử, Mohammed hay ngay cả Karl Marx cũng để lại những “pháp thân” khác. Họ thật sự đã ngừng thở, tim ngừng đập, điện não đã tắt, thân xác đã tan rữa như bao nhiêu người khác đã chết. Sự chết tuyên bố chiến thắng trên họ, vì họ đã đi vào cõi chết vĩnh viễn. Phật tổ không phải là Thần Linh; người không muốn tín hữu lễ bái người ngay cả khi còn sống, pháp thân của người để học tập và thi hành chứ không phải để thờ lạy, vậy thì Phật tử tỏ sự kính mến người bằng cách nào?
    2- Vì ngoài Đức Chúa Trời không có thần nào khác ( ICôrinhtô 8.4-6; 10.19-22).
    Mặc dầu người Ta tạo ra nhiều thần, nhưng thật ra không phải nhiều thần, mà tất cả là ma quỉ. Chúng ta biết có hai lực lượng sáng và tối, chánh và tà, Đức Chúa Trời và ma quỉ; ngoài hai lực lượng đó, không có ai khác. Nếu không thờ phượng Đức Chúa Trời, thì thờ phượng ma quỉ. Chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời, vì chỉ có một mình Đức Chúa Trời, ngoài Ngài không có ai khác, chỉ có ma quỉ mà thôi. "Vậy, về sự ăn cúng tế các thần tượng, chúng ta biết thần tượng trong thế gian thật là hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ không có thần nào khác. Thật người ta xưng có các thần khác, hoặc ở trên trời, hoặc ở dưới đất,(bởi đó họ thờ nhiều thần nhiều chúa), về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài, lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy" (ICôrinhtô 8.4-6). Mấy câu nầy giải thích rất rõ ràng là không có thần nào khác, chỉ có tà linh, ma quỉ và các quỉ sứ của nó. Nếu người ta tạo ra các thần, thì các thần đó không có giá trị gì cả để cho người ta nhờ cậy hoặc là thờ phượng.
    ICôrinhtô 10.19-22 chép: "Nói vậy có ý chi? Của cúng thần tượng có giá trị gì và thần tượng có ra gì chăng? Chắc là không; nhưng đồ người ngoại đạo cúng tế là cúng tế các quỉ, chớ không phải cúng tế Đức Chúa Trời. Vậy, tôi không muốn anh em thông đồng với các quỉ. Anh em chẳng có thể uống chén của Chúa và cũng uống chén của các quỉ; chẳng thể dự tiệc của Chúa, lại dự tiệc của các quỉ. Hay là chúng ta muốn treo lòng Chúa ghen chăng? Chúng ta há mạnh hơn Ngài sao?".
    Những câu nầy dạy chúng ta rằng tất cả những gì người ta thờ lạy, cúng tế- mặc dầu người ta nói là thờ ông thần nầy, ông thánh kia- nhưng kỳ thật, không có thần nào cả, hết thảy đều là ma quỉ đã hiện ra nhận lấy của lễ đó. Thậm chí khi chúng ta chưa tin Chúa, đã cúi đầu thờ lạy bàn thờ ông bà, và dâng của lễ cho ông bà đã qua đời gọi là cúng ông bà, kỳ thật, ông bà đâu còn ở đó mà ăn. Ông bà đã qua đời là bỏ đời nầy qua đời khác, đã từ trần là bỏ cõi trần nầy về Thiên đàng, hay hỏa ngục, đâu còn ở đây mà ăn. Đó là những chuyện bịa đặt, nhảm nhí, mê tín dị đoan, có ma quỉ đứng phía sau.
    Người ngoại cúng tế là cúng tế các quỉ, chúng ta đừng tiếp tục làm công việc đó! Gần đây, tôi nghe có người tổ chức kỷ niệm ngày qua đời của ông bà. Hãy coi chừng, nó đưa đến sự thờ lạy hình tượng, không phải đời nầy mà có lẽ đời con cháu của chúng ta. Khi chúng ta có cha mẹ qua đời, chúng ta tổ chức ngày kỷ niệm, mời nhiều người đến ăn uống, chúng ta không đến nỗi bị cám dỗ thờ lạy thần tượng. Nhưng con cháu chúng ta sẽ bắt chước và lần hồi chúng ta đi đến chỗ thờ lạy thần tượng, cúng tế như người thế gian. Việc nào tựa như điều ác, gần với mê tín dị đoan, chúng ta phải tiêu hủy, đừng để một di tích nào còn lại trong mình. Khi dân Ysơraên vào xứ Canaan, Chúa bảo họ phải tận diệt tất cả chùa miễu, thần tượng, những gì mà dân Canaan đã làm và chính vì những việc đó, mà Chúa đã quyết định tiêu diệt họ. Chúng ta đừng mở đường cho ma quỉ xen vào Gia đình của mình, trong dòng họ của mình, để rồi con cháu mình bị vướng vào cái bẫy do mình đặt ra.

    Dẹp bỏ bàn thờ tà thần. Nếu lập bàn thờ Chúa bên cạnh bàn thờ tà thần thì Chúa chẳng đẹp lòng, vì Ngài là Đấng kị tà (Xuất 20:5, II Côr 6:16).
    Mặc dầu người Ta tạo ra nhiều thần, nhưng thật ra không phải nhiều thần, mà tất cả là ma quỉ. Chúng ta biết có hai lực lượng sáng và tối, chánh và tà, Đức Chúa Trời và ma quỉ; ngoài hai lực lượng đó, không có ai khác. Nếu không thờ phượng Đức Chúa Trời, thì thờ phượng ma quỉ. Chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời, vì chỉ có một mình Đức Chúa Trời, ngoài Ngài không có ai khác, chỉ có ma quỉ mà thôi. "Vậy, về sự ăn cúng tế các thần tượng, chúng ta biết thần tượng trong thế gian thật là hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ không có thần nào khác. Thật người ta xưng có các thần khác, hoặc ở trên trời, hoặc ở dưới đất,(bởi đó họ thờ nhiều thần nhiều chúa), về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài, lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy" (ICôrinhtô 8.4-6). Mấy câu nầy giải thích rất rõ ràng là không có thần nào khác, chỉ có tà linh, ma quỉ và các quỉ sứ của nó. Nếu người ta tạo ra các thần, thì các thần đó không có giá trị gì cả để cho người ta nhờ cậy hoặc là thờ phượng.
    Một số con cái Chúa chưa hiểu nên muốn dung hòa giữa tà thần hình tượng với Chúa, nghĩa là thờ Chúa nhưng hình tượng cũng không bỏ. Tôi muốn nói đến những hình tượng trong lòng. Tất cả đều phải loại bỏ để đền thờ lòng được thánh sạch, như thế Chúa mới vui ngự vào. Ngày nào những hình tượng kia còn tồn đọng trong tâm trí lòng dạ chúng ta, thì ngày đó bàn thờ Chúa trong lòng chúng ta vẫn chưa được sửa lại.
    3- Đừng thờ tiền bạc (Mathiơ 6.24).
    Có một vị thần mà chúng ta không ngờ, đó là tiền bạc. Chúa Giêxu đã phán: "Chẳng ai được làm tôi hai chủ" (Mat 6.24). Gái không thể lấy hai chồng, tôi trung không thờ hai chủ, chúng ta không được phép làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi tiền bạc nữa. Nếu chúng ta có tiền bạc, thì sử dụng nó như một đầy tớ, nhưng đừng để nó làm chủ mình, đừng đặt nó nhưng trên bàn thờ để thờ lạy. Chúng ta cần có tiền bạc, miễn là tiền bạc đó do công khó của mình làm ra cách chánh đáng. Tiền bạc không phải để vào trong tủ, mà đem ra sử dụng hầu cho người khác được phước. Ôi, có biết bao nhiêu bài học mà Chúa dạy chúng ta phải sử dụng tiền bạc như một đầy tớ, đừng tôn sùng nó như một vị thần. Chúa phán với dân Ysơraên: "Các ngươi mang hình tượng ở trong", nghĩa là dân Ysơraên thờ thần tượng mà người ta không thấy được. Chúng ta không có thần tượng như người đời, nhưng có một thứ thần tượng ở trong lòng chúng ta không ai thấy được, mà Chúa thấy được. Ngài bảo chúng ta hãy coi chừng thứ thần tượng đó. Chúa phán: "Tham lam chẳng khác nào thờ thần tượng". Nếu làm bất cứ việc gì một cách không xứng đáng để được tiền bạc, thì tiền bạc trở thành một vị thần cho mình rồi. Một nhà Truyền giáo rất nổi tiếng đã nói: "Chúng ta phải làm hết sức mình để được nhiều tiền, nhưng khi đã làm được nhiều tiền rồi, thì chúng ta cũng phải đem hết số tiền đó chi tiêu vào công việc phước thiện, nhất là truyền giảng Tin lành để cứu vớt đồng bào mình!".
    Ngày nay, khắp nơi trên Thế giới đều có dấu chân của những người giảng Tin lành. Ngay tại Việtnam, Tin lành đã đến hơn 70 năm rồi, nhờ những con cái của Chúa trên Thế giới đã dâng tiền để chi phí cho Hội thánh, để gởi Giáo sĩ đi giảng cho người ngoại quốc, để mở mang công việc Truyền giáo cho các nơi trên Thế giới. Đó là những người không thờ tiền bạc, nhưng sử dụng tiền bạc. Chắc chắn họ không bao giờ hối tiếc, vì đã dùng tiền vào công tác hết sức đẹp đẽ. Nếu chúng ta có cơ hội dâng tiền, thì hãy cảm ơn Chúa và triệt để sử dụng cơ hội đó hầu cho đồng tiền của chúng ta sẽ có giá trị và sẽ tìm lại được khi chúng ta gặp Chúa yêu dấu ở trên trời.
    Một khách ngoại quốc hỏi một Tín đồ bản xứ: ‘Khi lên trời; ông muốn gặp ai trước nhất?'.
    - Tôi muốn gặp Chúa Giêxu trước nhất, vì Ngài đã hy sinh mạng và cứu chuộc tôi.
    ‘Người thứ hai mà ông muốn gặp là ai?'.
    - Là người đã đem Tin lành cho tôi, vì dầu Chúa Giêxu đã chết trên Thập tự giá cho tôi, tôi vẫn có thể hư mất vì không biết Ngài. Nhờ có người đến tận nhà giảng Tin lành cho tôi, tôi mới được cứu.
    ‘Người thứ ba mà ông muốn gặp là ai?'.
    - Là người đã dâng tiền bạc để các Giáo sĩ ra đi Truyền giáo cho tôi. Chúng ta thờ phượng Chúa bằng cách dâng tiền hay dâng mọi thứ khác. Đừng để tiền bạc trở thành ông thần của mình. Trước mặt Chúa, chúng ta chỉ có Ngài. Tôi phải hết lòng, hết sức, hết trí mà Thờ phượng, Phục vụ, Tôn vinh một mình Đức Chúa Trời mà thôi.
    II. ĐỪNG THỜ PHƯỢNG ĐỨC CHÚA TRỜI BẰNG HÌNH TƯỢNG (Xuất 20.4-6):

    "Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật ở trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhơn tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta".
    Đừng thờ phượng Đức Chúa Trời bằng hình tượng, vì Đức Chúa Trời thực hữu nhưng vô hình. Môise nói rằng: ‘Tôi không thấy Đức Chúa Trời đối mặt tôi', nghĩa là ông thấy Ngài qua một hình ảnh nào đó. Kinh thánh chép Êsai thấy Chúa, Môise thấy Chúa, một số người thấy Chúa, nhưng thật ra họ không thấy như chúng ta thấy nhau đây. Tôi không bao giờ thấy được cái trán của mình, tôi chỉ có thể thấy qua gương mà không trực tiếp thấy được. Điều đó dạy cho chúng ta rằng Môise và bao nhiêu người nói đã thấy Chúa là họ thấy hình ảnh của Ngài phản chiếu vào một nơi nào đó. Vì vậy, chúng ta không có phép làm bất cứ một hình tượng nào để thờ phượng Chúa. Đừng ai thờ phượng Thập tự giá. Đó chỉ là khúc gỗ, không có giá trị gì hết, nhưng đặt ở Nhà thờ để dạy dỗ cho người ta biết Chúa Giêxu đã chịu chết trên cây Thập tự.
    Đừng ai thờ những hình mà người ta nói là hình của Chúa Giêxu. Những hình vẽ đó chỉ rằng Chúa Giêxu có hình ảnh của một người Dothái. Kinh thánh không bao giờ ghi chép Chúa Giêxu có thân hình như thế nào. Tại sao vậy? -Vì Ngài không muốn cho người ta thờ lạy hình tượng. Trong Thi Thiên 115.4-8, Chúa nghiêm cấm sự thờ lạy thần tượng. "Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, là công việc tay người ta làm ra. Hình tượng có miệng mà không nói; có mắt mà chẳng thấy; có tai mà không nghe; có lỗ mũi mà chẳng ngửi; có tay nhưng không rờ rẫm; có chân, nào biết bước đi; cuống họng nó chẳng ra tiếng nào. Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó, đều giống như nó".
    Vậy thì, chúng ta với hình tượng ai hơn? -Chúng ta hơn hình tượng xa quá! Thế thì tại sao chúng ta sấp mình xuống mà thờ lạy hình tượng vô tri bằng gỗ, đá, bạc, vàng, vì nếu thế thì làm cho mình trở nên hèn hạ quá! Một ngày nọ, có một chiếc thuyền chở một bức tượng rất lớn, sơn son, thiếp vàng rất đẹp đẽ. Mỗi lần thuyền gặp chiếc cầu bắc ngang qua rạch, những người trên thuyền phải khiêng tượng đi vòng lên bờ.
    Một vị Truyền đạo thấy thế hỏi: ‘Vì sao các ông phải khổ như vậy?'.
    Họ trả lời: ‘Tượng nầy quí lắm. Để tượng đi qua dưới dạ cầu là tội lắm'.
    -Các ông đem tượng về để ở chúa miếu phải không? Các người thợ cũng đã ngồi trên mái để lợp. Dân Ysơraên đã có lần làm con bò vàng để thờ lạy. Dân Aicập thờ con bò. Vì vậy, chịu ảnh hưởng 400 của người Aicập, người Ysơraên đã làm ngay một con bò. Kết quả là có ba ngàn người chết trong một ngày. Tại sao Chúa làm như vậy? -Vì Chúa nghiêm trị những kẻ thờ lạy thần tượng. Điều răn thứ hai bảo rằng: "Hễ ai ghét Ta", là không vâng lời Chúa mà thờ lạy thần tượng, thì Ngài sẽ nhơn tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời. Nếu đời cha mà thờ lạy hình tượng, thì con cháu phải chịu ảnh hưởng khốn nạn đó. Nhưng ngược lại, Ngài làm ơn đến ngàn đời cho ai tin cậy và vâng lời Ngài, mà thờ lạy đúng theo điều Chúa dạy. Vì vậy, chúng ta là con cái của Chúa, đừng bao giờ sấp mình xuống mà thờ lạy một hình tượng nào cả. Đức Chúa Trời mà chúng ta thờ lạy không có hình tượng nào đem sánh được (Công 17.29). Có người nói rằng nếu chúng ta thờ lạy hình tượng, thì tốt hơn nên thờ lạy ông thợ làm ra hình tượng. Tại sao? -Vì ông thợ có quyền làm ra hình tượng đó, nếu ông muốn mũi nhọn thì làm như thế...Như vậy, chúng ta thấy hình tượng không đáng thờ. Vì vậy, dòng dõi của Ápraham được Chúa dạy từ lúc đó cho đến ngày nay vẫn không bao giờ thờ lạy thần tượng. Mỗi lần bị cám dỗ theo thế gian mà thờ lạy thần tượng, là mỗi lần họ bị phạt rất nặng.
    III. CHỚ LẤY DANH GIÊHÔVA ĐỨC CHÚA TRỜI MÀ LÀM CHƠI (Xuất 20.7) :
    "Ngươi chớ lấy danh Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Đức Giêhôva chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi".
    Danh của Chúa với chính mình Chúa là một, vì thế, chúng ta đừng nhơn Danh Chúa mà lừa dối nhau hay nói chơi. Có người đi đâu cũng nói rằng: ‘Tôi là con cái của Chúa, vì cớ Danh Ngài, xin quí ông bà anh chị giúp đỡ tôi ít nhiều bạc...'. Không nên làm như thế, chúng ta rất cẩn thận khi nhơn Danh Chúa mà nói hay là làm, là vì vinh hiển của Danh Chúa chớ không phải vì ích lợi riêng của chính mình. Nếu chúng ta mượn Danh Chúa để lừa dối thì tội hết sức nặng. Chúa bảo rằng Ngài không cầm bằng vô tội kẻ nào lấy Danh Chúa mà làm chơi. Cũng đừng nhơn Danh Chúa mà thề dối hay hứa nguyện suông. Có Tín hữu đã đem con lên dâng cho Chúa, người đó đã nhơn Danh Chúa mà hứa nguyện, vì vậy, phải cẩn thận về lời hứa nguyện nuôi nấng, dạy dỗ và làm gương sáng để cho con cái mình trở nên tốt đẹp, chớ không phải là một lời hứa suông.
    Tín hữu nào sắp làm lễ Thành hôn, họ hứa nguyện sẽ sống với nhau trọn đời. Lời hứa nguyện này rất long trọng. Nếu ai không làm trọn lời hứa nầy thì khiến cho Danh Chúa trở thành một trò chơi, không thoát khỏi sự trừng phạt nặng nề của Ngài. Vì vậy, mỗi khi chúng ta nhơn Danh Chúa mà cầu nguyện thì phải tôn trọng sự cầu nguyện. Cầu nguyện là tương giao với chính mình Chúa.
    Hiện nay, có người nhân Danh Chúa mà trừ quỉ, nhân Danh Chúa mà chữa bệnh. Kinh thánh có dạy điều đó, nhưng chúng ta đừng để điều đó trở thành một trò chơi. Nhân Danh Chúa mà trừ quỉ, chữa bệnh, nghĩa là Chúa trừ quỉ, Chúa chữa bệnh, chớ không phải là tôi. Lạm dụng Danh Chúa mà làm chơi, thì phạm đến sự Thánh khiết của Ngài, nghĩa là biến sự Thánh khiết của Chúa trở thành phàm tục và Chúa không chịu. Vì cớ dân Ysơraên dựa vào vật chất, Chúa cho phép vua Nêbucátnếtsa đánh phá thành Giêrusalem, cướp lấy những vật dụng trong Đền thờ Đức Chúa Trời và đem về để trong kho. Nhưng khi vua Nêbucátnếtsa uống rượu hứng chí, bảo người hầu đem những vật dụng đã lấy từ đền thờ Giêrusalem ra để đãi khách, thì ngay lúc đó, vua thấy một bàn tay hiện ra trên tường, ghi lại bản án của vua. Ngay đêm đó, Nêbucátnếtsa bị giết, xứ sở Babylôn thuộc về tay người Mêđi, tức là Batư. Chúa không chịu khinh dễ đâu, ai gieo giống chi sẽ gặt giống ấy.
    IV. HÃY NHỚ NGÀY NGHỈ (Xuất 20.6-11)
    "Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày Thánh. Ngày hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày; nhưng ngày thứ bảy là nghỉ của Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi: trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai tớ gái, súc vật của ngươi, hoặc khách ngoại bang ở trong ở trong nhà ngươi, đều chớ làm công việc chi hết; vì trong sáu ngày Giêhôva đã dựng nên trời, đất, biển và muôn vật ở trong đó, qua ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ: vậy nên Đức Giêhôva đã ban phước cho ngày nghỉ và làm nên ngày Thánh".
    Hôm nay chúng ta nghỉ ngày Chúa nhật, vì là ngày Chúa đã sống lại, ngày Đức Thánh Linh giáng lâm, ngày Hội thánh đầu tiên thờ phượng Chúa. Chúa bảo rằng phải nghỉ hết mọi công việc, vì Chúa nghỉ đến chúng ta. Chúng ta làm việc luôn trong sáu ngày, đã mệt mỏi, thì ngày Chúa nhật phải nghỉ để được bổ sức lại. Luôn sáu ngày chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu sự cám dỗ, linh lực bị hao mòn. Ngày Chúa nhật chúng ta ngồi lại, cùng nhau học hỏi, thờ phượng, ca hát, cầu nguyện, nghe giảng để bồi bổ tâm linh. Vì vậy, ngày Chúa nhật được gọi là ngày Thánh. Vì vậy, mỗi chúng ta làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày Chúa nhật chúng ta phải dành để thờ phượng Chúa. Tôi nhớ khi tôi mới tin Chúa, nhà ở xa Nhà thờ lắm, một tháng tôi đến Nhà thờ một lần. Tôi thấy khao khát quá, đời sống thuộc linh đói kém, chậm tiến. Khi tôi về gần Nhà thờ, tôi thích thú vô cùng, ước ao mau đến Chúa nhật để thờ phượng Chúa, vì ngày đó thật là phước hạnh.
    Mỗi chúng ta là người tin Chúa, thì phải áp dụng lời Chúa vào đời sống hàng ngày của mình, để Chúa ban phước cho chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không tin cậy, không vâng lời thì Ngài không thể làm điều đó được. Ngài hứa ban phước cho đến ngàn đời những ai vâng giữ các Lời của Chúa.-
    B.Thực tế của xã hội Việt Nam về sự thờ phượng

    Phật tử thờ lạy hình hoặc tượng Phật để tỏ lòng kính mến Đức Phật. Trong các chùa, Phật tử cúi lạy hay ngay cả sấp mình trước tượng Đức Phật Như Lai và các vị Bồ Tát khác để cầu xin. Hầu hết các gia đình Phật tử đều có bàn thờ có hình tượng Phật và hình tượng ông bà và người thân đã quá cố. Nhiều khi Phật tử còn làm khác lời Phật dạy hơn nữa khi họ cầu xin Đức Phật phù hộ để được sức khoẻ, làm ăn suông sẻ, hoặc ngay cả cứu độ khi tính mạng bị đe dọa. Trên lý thuyết, Phật tử biết rõ Đức Phật chỉ là người chỉ đường; mỗi cá nhân đều phải tu hành cho chính mình để được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Nhưng trong thực tế của đời sống, họ vẫn khao khát kêu gào đến một đấng cứu rỗi vì trong tiềm thức họ biết mình bất lực trước quyền lực của tội lỗi và sự chết.


    Trong khi đó Đức Chúa Trời phán thật rõ:


    Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đấp thấp này, hoặc trong nước dưới đất.


    Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó;


    vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhơn tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến ta và giữ các điều răn ta.


    Đức Chúa Trời ghê tởm sự thờ lạy hình tượng. Hình tượng đó có thể là của một người gọi là Như lai, hay Quan âm Bồ Tát, hay một người bụng phệ gọi là ông địa, hay có thể là hình một người bị đóng đinh trên thập giá mà người ta gọi đó là Chúa Giê-Xu, hay là hình tượng một người đàn bà phúc hậu bồng một đứa trẻ kháu khỉnh mà người ta gọi đó là Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng. Một pho tượng hay một tấm hình có tai mà không biết nghe lời cầu xin, có mắt mà không biết nhìn thương xót, có miệng mà không biết phán dạy, có tay mà không biết vỗ về an ủi, và cứu giúp, có chân mà không biết đi. Thờ lạy hình và tượng chắc chắn không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Con người khi thờ lạy hình tượng đã hạ nhân phẩm mình xuống thấp hơn loài vô tri bằng gỗ, đồng và đá.

    C.Mê tín dị đoan

    Có một điều khó chấp nhận về xã hội Việt Nam là trong suốt mấy ngàn năm chịu ảnh hưởng của Phật giáo, một tôn giáo cổ xúy cho trí tuệ [3], thì mê tín dị đoan là một phần trong đời sống tâm linh của người dân Việt. Một người có thể thờ lạy hình tượng Phật, thờ cúng ông tổ nghề nghiệp, xin xâm, bói toán, cầu cơ, vv. cùng một lúc. Một giáo sư đại học một mặt cổ xúy cho thuyết “khoa học” Darwin, mặt kia vẫn có thể la mắng con cái khi chúng nó quét nhà hướng ra đường trong ngày mồng một Tết vì sợ rằng năm tới đây tiền của bị “quét” hết ra đường! Gia đình nào có trọng tang thì không dám đến “đạp đất” nhà bà con trong ngày Tết. Anh em trong nhà cãi lộn nhau trong ngày Tết thì bị la mắng kẻo năm tới đây hục hặc nhau suốt năm, v.v. Giới trí thức của xã hội Việt Nam vẫn có thể thực hành nhiều tập tục mê tin dị đoan khác nữa như cúng sao, lên đồng bóng, đốt vàng bạc, xem phong thổ khi mua hoặc xây nhà, xem ngày giờ khi cưới hỏi hay khai truơng cửa tiệm hay đi xa, coi chỉ tay, bói bài, đánh số tử vi, v.v. Ngay tại Sàigon hay Hà Nội hiện nay vẫn còn tục lệ đốt tiền mã cho người chết. Tiền mã thì có bán dưới dạng tiền bác Hồ hay đô la Mỹ; nhưng người dân thì thích mua tiền mã đô la Mỹ hơn vì bà con dưới âm phủ có thể đổi ra tiền bác Hồ rất được giá! Khi về thôn quê thì hiện tượng mê tín dị đoan còn rõ nét nữa như: đeo bùa cho con “khó nuôi,” hay đặt tên dơ dáy bẩn thỉu cho con để ma quỉ sợ không dám bắt, v.v. Người dân thôn quê thật sự sợ hãi mọi vật như gốc cây đa, bụi tre, bến nước có người chết chìm, ngôi miếu cổ đầu làng, bát nhang trong bếp, gọi tên “húy,” v.v. Đâu đâu cũng thấy bóng tối của sự sợ hãi ẩn núp.



    Đời sống tâm linh đó nói lên ba điều: 1- Người dân Việt không thỏa mãn với tôn giáo của cha ông mình, 2- Người dân Việt đang sống trong sự bất an, hụt hẩng về tương lai, và 3- Trí tuệ con người chẳng giúp gì được cho đời sống tâm linh. Sự mê tín dị đoan và hình tượng đang đưa dân tộc Việt Nam tới ngõ cụt của sự nô lệ cho tội lỗi. Trên bình diện xã hội, nó gây ra mặc cảm tự ti cho dân tộc mà hậu quả là một đất nước nghèo nàn lạc hậu.


    Khi tâm linh một người không có Đức Chúa Trời ngự trị, thì hình, và tượng chiếm lĩnh. Vì thế, tâm linh đó đã chết mặc dù người đó còn sống. Muốn tâm linh được sống, thì người đó cần phải đuợc tái sanh bởi Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Khi tiếp nhận Chúa Giê-Xu là Cứu Chúa, con người làm hòa lại với Đức Chúa Trời và trở nên con cái Ngài. Kinh Thánh xác nhận: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái của Đức Chúa Trời.” Ngay giây phút tin nhận Chúa Cứu Thế, tâm linh một người bắt đầu có hạt giống của Đức Chúa Trời nẩy mầm. Nhờ đó, họ mới có năng quyền để tranh chiến và chiến thắng tội lỗi. Đức Chúa Trời đã phán:”Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo.” Lúc đó, ánh sáng chân lý của Đức Chúa Trời chói lòa trong tâm linh, xua đuổi đi bóng tối của sự chết vì thờ cúng hình tượng.

    C.Kết luận

    Dân tộc Việt Nam chỉ có một trong hai lựa chọn: Một là làm nô lệ cho những hình tượng vô tri vô giác, không biết nghe không biết nói, hai là làm con cái Đức Chúa Trời bằng sự thờ phượng Ngài trong tâm linh và lẽ thật. Làm nô lệ cho hình và tượng là tội lỗi trầm trọng chống lại Đức Chúa Trời; và kết quả của tội lỗi là sự chết trong tâm linh. Sự chết tâm linh là điều Đức Chúa Trời không bao giờ muốn xảy ra cho tạo vật của Ngài, vì Ngài đã phán và nay vẫn còn phán với lòng xót thương: "Ta không lấy làm vui thú trên sự chết của bất kỳ ai. Vậy ăn năn và sống!" (Ezekiel 18:32 NIV).

    *Việc tôn thờ gia tiên:
    1.Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa,Đức Mẹ trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
    2.Đặt hoa nến trước di ảnh Ông Bà,
    3.Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. Cầm hương vái lậy di ảnh, bài vị Ông Bà để tỏ lòng tôn kính, chứ không có nghĩa là thờ Ông Bà như thờ Thiên Chúa.

    4.Ngày giỗ cũng là ngày "kỵ nhật" được "cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

    5.Trong hôn lễ, dâu rể được làm "Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên" trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.

  16. #16

    Mặc định

    Chương V: Ăn uống lành mạnh

    “CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn rằng: Các con bảo dân Y-sơ-ra-ên: Trong số các loài vật sống trên đất, đây là các loài các ngươi được phép ăn:
    Các ngươi được phép ăn các loài vật có móng rẽ ra, bàn chân chia hai và nhai lại.
    Nhưng có một số chỉ nhai lại hay chỉ có móng rẽ ra; những loài đó các ngươi không được phép ăn. Lạc đà, mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra, và là một loài vật không tinh sạch cho các ngươi.
    Loài chồn sống trên đá, mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra; nó là vật không tinh sạch cho các ngươi. 6 Con thỏ rừng mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra, là một loài vật không tinh sạch cho các ngươi.
    Con heo, dù có móng rẽ, bàn chân chia hai nhưng không nhai lại, đó là vật không tinh sạch cho các ngươi.
    Các ngươi không được ăn thịt và không được đụng đến xác các thú đó, chúng không tinh sạch cho các ngươi.”
    Nhóm thứ nhất là những động vật chúng ta không nên ăn, gồm các con vật hoặc không có móng rẽ ra, hoặc không có bàn chân chia hai, hoặc không nhai lại. Trong nhóm này gồm những con thú chuyên ăn xác chết của những con vật khác hoặc ăn những rác rưởi dơ bẩn, gồm có con heo, con gấu hoặc các loài thú săn mồi ăn sống như chó sói, sư tử, báo vv. thường săn và ăn các con mồi yếu ớt đang mang tật bệnh. Ngựa và thỏ, mặc dù nhai lại, không phải là loài vật ăn xác chết, nhưng vì không có móng rẽ, cũng không nên ăn. Các nghiên cứu mới đây cho biết, thịt ngựa chứa nhiều ký sinh trùng và thịt thỏ là nguyên nhân gây nên chứng bệnh truyền nhiễm “tularemia” qua người.
    Thế còn thịt heo thì sao? Kinh Thánh đã khẳng định “con heo, dù có móng rẽ, bàn chân chia hai nhưng không nhai lại, đó là vật không tinh sạch”. Nhưng thịt heo là món ăn rất hấp dẫn và rất phổ biến kia mà! Người Tây phương dùng thịt heo để chế ra biết bao nhiêu món khoái khẩu như là thịt bacon muối mặn, thịt ham, thịt xúc xích, còn người Việt chúng ta thì dùng thịt heo làm nem, gói chả, rồi món bún bò thì phải đi liền với một cái giò heo chứ!
    Các nhà khoa học cho biết hệ thống tiêu hóa của con heo rất giống với con người, với bao tử chứa đầy chất acid để tiêu hóa đồ ăn. Như chúng ta thường nói “ham ăn như heo”, vì heo là loài vật không bao giờ biết ngừng ăn. Do lượng đồ ăn quá nhiều, nên acid trong bao tử heo đã bị pha rất loãng trong thức ăn, không đủ khử trùng, khiến cho bao mầm mống bệnh tật có thể vượt qua hàng rào phòng thủ. Sán lãi, vi trùng, vi khuẩn và bao chất độc hại khác, vượt ra từ bao tử rồi tiềm tàng trong da thịt của heo chỉ vì cái tật ham ăn vô độ của loài heo. Hơn thế nữa, heo là loài vật dơ bẩn, đúng như chúng ta thường nghe “ở dơ như heo”, vì heo ăn rác rến, ăn xác chết đã thối rửa. Thịt heo nhiều mỡ. Mỡ heo là nơi hội tụ của các độc tố đến từ việc ăn tạp bẩn của heo. Khác với mỡ trong thịt bò thường hội tụ lại một nơi, còn mỡ heo thì phân tán khắp nơi, rất khó tách ra được.
    Thống kê cho biết, tại Hoa Kỳ, trong sáu bệnh phổ biến nhất do ký sinh trùng hay sán lãi gây ra qua đường thức ăn, thì có ba bệnh là liên quan đến việc tiêu thụ thịt heo. Tại Melbourne, Úc đại lợi, là nơi người viết bài này cư ngụ, cách đây vài năm trước, đã xảy ra cơn thổ tả, khiến vài chục người phải vào bệnh viện để cấp cứu, sau khi ăn bánh mì thịt, mà người Úc thường gọi là “pork roll” vì bánh mì này thường có nhận thịt heo. Nói về mặt sinh lý, cơ thể heo rất giống với cơ thể của con người, như trước đây, để trị bệnh tiểu đường, người ta phải chiết insulin của heo để tiêm vào người bệnh. Do cơ thể có nhiều điểm tương đồng như vậy, nên vi khuẩn gây bệnh cũng rất dễ lây lan từ heo sang người hay từ người sang heo.
    Nhóm động vật thứ hai, gồm những con vật có móng rẽ ra, bàn chân chia hai và nhai lại, là những con vật chúng ta được phép ăn thịt. Nhóm này gồm có bò, nai, trừu, dê vv. là những con vật ăn cỏ hay ăn lúa, thường đem lại những loại thịt tinh chất, không pha lẫn vi khuẩn hay vi trùng, ít mỡ với giá trị di dưỡng cao.
    Kính thưa quý thính giả,
    Sách Lê-vi ký 11: 9 -12 có đưa ra cách phân biệt các loài vật nào dưới nước chúng ta nên ăn và không nên ăn, như sau:

    “Đây là các loài vật ngươi được ăn, tất cả loài vật ở dưới nước, tất cả các loài có vây và vẩy dưới nước, hoặc dưới sông hay biển, những thú đó ngươi được ăn.
    Nhưng tất cả các loài tạo vật không vây không vẩy sống dưới biển hay dưới sông, hoặc sống từng đàn hay sống giữa các sinh vật khác dưới nước, đều đáng gớm ghiếc.
    Vì các ngươi phải gớm ghiếc các loài này, nên các ngươi không được phép ăn thịt chúng và phải gớm ghiếc xác chết của chúng.
    Bất cứ loài nào không vây không vẩy sống dưới nước đều đáng gớm ghiếc cho các ngươi.”
    Theo như luật này, chúng ta được phép ăn các loài cá là loài có vây và vẩy, nhưng chúng ta không nên ăn cua, tôm hùm, sò, hến, trai hay các loài có vỏ tương tự như vậy. Đây quả là một điều thất vọng cho những ai thích ăn các món tôm cua, nhưng nếu nhìn vào thực tế, các loài tôm cua sống sâu ở tận các đáy biển, đáy sông hay đáy hồ, ăn những xác động vật chết chìm ở đáy nước. Trong thiên nhiên, các loại sò, hến, ốc, trai tiêu thụ những vật thối rửa chìm xuống tận đáy sâu, kể cả những đồ phế thải từ các cống rãnh của con người. Do vậy, các loài tôm cua sò hến bắt được trong biển hay ao hồ thường mang nhiều vi khuẩn và các mầm mống gây bệnh.
    Tại các nước tiên tiến, người ta quy định phải ngâm các loại tôm cua sò hến trong nước sạch một thời gian tối thiểu được quy định để chúng kịp thải ra các chất tạp chất, trước khi chúng được phép đem bán ra cho người tiêu thụ. Các loại tôm cua sò hến cần được nấu chín trước khi dùng và những ai thích ăn sò sống là đang chấp nhận nhiều rủi ro cho sức khỏe của chính mình.
    Sách Lê-vi ký 11: 13-19 đưa ra cách tránh những loài chim mà chúng ta không nên ăn thịt, như sau:
    “Sau đây là những loài chim các ngươi phải gớm ghiếc và không được phép ăn, vì là những loài đáng gớm ghiếc; chim ưng, kên kên, chim ngạc, 14 diều hâu đỏ, tất cả các loài chim diều đen, tất cả các loài quạ, cú mèo, chim ó ăn đêm, hải âu và tất cả các loài diều hâu, chim cú nhỏ, còng cọc, cú lớn, cú trắng, cú sa mạc, ó biển, con cò, tất cả các loại chim diệc, chim rẽ quạt và dơi.”
    Cũng tương tự như nguyên tắc phân biệt các động vật trên mặt đất và dưới nước, Thiên Chúa cấm con người ăn các loài chim chuyên ăn các xác chết như kên kên, diều hâu, chim cú vv. để tránh bị bệnh tật do vi khuẩn, vi trùng hay sán lãi gây nên, nhưng cho phép con người được ăn gà,vịt, ngỗng, bồ câu, chim cút vv.
    Người ta thắc mắc, nếu có các loài vật mà chúng ta không thể ăn thịt được, không thể dùng làm thực phẩm cho con người, thì Đấng Tạo Hóa tạo dựng ra chúng với mục đích gì?
    Tác giả của quyển sách nổi tiếng “What The Bible Says About Healthy Living”, xin tạm dịch là “Kinh Thánh Nói Gì Về Cách Sống Khỏe Mạnh”, bác sĩ Rex Russell đưa ra câu trả lời như sau:
    Các loài vật không tinh sạch, mà Đấng Tạo Hóa cấm chúng ta không được ăn, có vai trò làm sạch sẽ môi trường sống chung quanh. Những con vật không tinh sạch, như con heo và các loài tôm cua sò ốc, khi ăn vào sẽ gây nguy hại cho sức khỏe của chúng ta, vì chúng ăn toàn những đồ phế thải dơ bẩn từ tất cả những sinh hoạt của con người.
    Đã hơn một thế kỷ, tại tiểu bang Philadelphia, Hoa Kỳ, người ta nuôi heo để tiêu thụ rác rưởi và nước cống, tiết kiệm cho tiểu bang này khoảng 3 triệu đô-la mỗi năm trong việc xử lý rác và đổ rác. Các nông trại nuôi heo kiếm thêm lợi nhuận nhờ nguồn nước cống rãnh này. Tại các trại nuôi gà, người ta nuôi thêm heo để tiêu thụ các con gà bịnh, đỡ khỏi tốn công chôn gà chết”
    Còn các loại tôm cua sò ốc có chức năng lọc sạch nước, tiêu hóa những chất bẩn thải ra trong ao hồ sông biển. Tôm cua sò ốc giống như những bình lọc nước thiên nhiên, thu hút và xử lý một lượng nước thật lớn mỗi ngày. Bao nhiêu chất cặn bã từ cống rãnh đổ ra, gồm những chất hóa học độc hại, vi khuẩn, vi trùng, sán lãi vv. cuối cùng sẽ quy tụ và bị giữ lại trong thân thể của các loài tôm cua sò ốc. Những trận dịch tả thường xuất phát từ các đồ biển, cho nên tiểu bang California tại Hoa Kỳ quy định phải ghi lời cảnh cáo trên các loại tôm cua sò ốc rằng “Thức Ăn Này Có Thể Gây Nguy Hại Cho Sức Khỏe”.
    Kính thưa quý thính giả ,
    Sách Lê-vi ký 11: 43-45 đưa ra cách phân biệt những loài côn trùng mà chúng ta không nên ăn thịt, như sau:
    Tất cả các loài côn trùng có cánh và đi bốn chân đều đáng gớm ghiếc cho các ngươi. 21 Tuy nhiên có một số vật có cánh và đi bốn chân các ngươi có phép ăn: đó là những vật chân có khớp để nhảy trên đất.
    Trong số những loài các ngươi được phép ăn này có các loài châu chấu, châu chấu sói đầu, dế, cào cào.
    Các loài côn trùng có cánh và bốn chân khác đều là vật các ngươi phải gớm ghiếc.
    Sau đây là những trường hợp các ngươi làm cho mình không tinh sạch: ai đụng đến xác các loài đó sẽ bị ô uế đến tối;
    ai lượm xác chết các loài này phải giặt áo xống mình và sẽ bị ô uế đến tối.
    Mọi loài vật có móng rẽ nhưng chân không chẻ hai hay không nhai lại đều là vật không tinh sạch cho các ngươi; ai đụng đến các loài vật này sẽ bị ô uế.
    Trong tất cả các loài vật đi bốn chân có vuốt là loài không tinh sạch cho các ngươi; ai đụng đến xác chết các loài này sẽ bị ô uế đến tối.
    Ai lượm xác các loài này phải giặt áo xống mình và sẽ bị ô uế đến tối. Đó là những loài vật không tinh sạch cho các ngươi.
    Trong các loài vật di chuyển sát trên mặt đất, đây là những loài không tinh sạch cho các ngươi: chuột nhũi, chuột nhắt, tất cả các loại rắn mối,
    cắc ké, kỳ đà, thằn lằn, kỳ nhông, cắc kè,
    Trong tất cả các loài di chuyển sát trên mặt đất, đó là những loài không sạch cho các ngươi. Ai đụng đến xác chết các loài đó sẽ bị ô uế đến tối.
    Khi một con trong các loài vật đó chết và rơi nhằm một đồ dùng, bất cứ dùng vào việc gì cũng trở thành ô uế, kể cả đồ dùng làm bằng gỗ, vải, da hay bao bố. Phải ngâm đồ dùng này trong nước. Nó bị ô uế cho đến tối và sau đó sẽ được tinh sạch.
    Nếu xác chết đó rơi nhằm một bình đất, những gì chứa trong bình đều bị ô uế và phải đập bể bình đi.
    Thức ăn bị nước trong bình này đổ nhằm sẽ bị ô uế: bất cứ thức uống gì chứa trong bình cũng bị ô uế.
    Bất cứ vật gì bị xác các con vật này rơi nhằm sẽ bị ô uế; dù vật này là bếp hay nồi cũng phải đập bể, vì chúng không tinh sạch nên các ngươi phải coi là những vật ô uế. 36 Tuy nhiên, dòng suối hay hồ chứa nước vẫn được kể là tinh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết đó phải bị ô uế.
    Nếu xác chết rơi trên hạt giống sẽ được gieo trồng, hạt giống vẫn được tinh sạch.
    Nhưng nếu hạt giống đã được tưới nước và xác chết rơi nhằm, hạt giống đó bị ô uế cho các ngươi.
    Nếu một con vật thuộc loại có phép ăn bị chết, ai đụng đến xác nó sẽ bị ô uế đến tối.
    Ai ăn xác chết đó phải giặt áo xống mình và sẽ bị ô uế cho đến tối, còn ai nhặt xác chết đó cũng phải giặt áo sống và bị ô uế đến tối.
    Tất cả các loài sâu bọ bò trên đất đều đáng gớm ghiếc và không được phép ăn.
    Các ngươi không được ăn bất cứ loài sâu bọ nào bò trên mặt đất, dù bò bằng bụng, bằng bốn chân hay nhiều chân; các loài vật này đều đáng gớm ghiếc.
    Các ngươi đừng làm mình ô uế vì các loại sâu bọ này. Đừng tự làm ô uế vì chúng hay để chúng làm ô uế.
    Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi; phải biệt mình riêng ra thánh và nên thánh, vì Ta là thánh. Đừng để mình bị ô uế vì bất cứ loài sâu bọ nào bò trên đất.
    Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô (Ai-cập) đặng làm Đức Chúa Trời các ngươi; vì vậy các ngươi phải nên thánh, vì Ta là thánh.
    Đấy là luật lệ liên hệ đến các loài súc vật, loài chim, các loài sinh vật sống dưới nước và các loài sâu bọ bò trên đất.
    Các ngươi phải phân biệt giữa tinh sạch và ô uế, giữa các loài sinh vật ăn được và các loài không được ăn.

  17. #17

    Mặc định

    CHƯƠNG VI: TANG CHẾ
    Điều 1: Con chiên khi lâm trọng bệnh và sắp sửa mệnh chung nên cầu nguyện ,đọc Kinh Kính Mừng:
    “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.Amen
    Lạy Mẹ Maria là Đấng cứu giúp những ai ước ao chết lành, xin Mẹ cũng che chở chúng con trong giờ sau hết. Khi chúng con hấp hối trên giường bệnh, xin Mẹ an ủi nâng đỡ chúng con và giúp chúng con được chết lành trong tay Mẹ. Amen.”
    Kinh Xin Ơn Chết Lành:
    “Con lạy rất thánh Đức Bà Maria là Chúa bầu con, con tin thật Đức Chúa Trời Ngôi Thứ Nhất, là Đức Chúa Cha, có phép tắc vô cùng, đã ban cho Đức Bà được quyền phép cả trên trời dưới đất. Vì vậy con cầu cùng Đức Bà phù hộ cho con trong khi con lâm chung kẻo phải chước dữ kẻ nghịch thù con. Amen.
    Kính mừng ...
    Con lạy ơn rất thánh Đức Bà Maria là Chúa bầu con, con tin thật Ngôi Thứ Hai, là Con Đức Chúa Trời cùng là Con một Đức Bà, đã ban cho Đức Mẹ cực quang cực minh soi sáng cả và thiên đàng. Vì vậy con cầu cùng Đức Bà phù hộ cho con trong khi con lâm chung, xin soi sáng cho linh hồn con được lòng tin thật cùng mạnh mẽ kẻo phải u mê, hay là tin chước dối kẻ nghịch thù con. Amen.
    Kính mừng ...
    Con lạy ơn rất thánh Đức Bà Maria là Chúa bầu con, con tin thật Đức Chúa Trời Ngôi Thứ Ba, là Đức Chúa Thánh Thần, đã ban cho Đức Bà đầy lòng vui kính mến Đức Chúa Trời. Vì vậy con cầu cùng Đức Bà phù hộ cho con được lòng vui kính mến Đức Chúa Trời, trong khi con lâm chung cho con lấy sự khốn khó làm vui mừng. Amen.
    Kính mừng ...”

    Nếu có chuỗi hạt Mân Côi thì nên lần tràng hạt Mân Côi,mang ảnh Đức Mẹ trong mình;vừa lần tràng hạt,miệng vừa đọc kinh Kính Mừng,kinh Xin Ơn Chết Lành và nên đặt lòng tin nơi Đức Mẹ MARIA;giữ tinh thần thản nhiên, can đảm và bình tĩnh, không lo sợ cái chết; để có thể ra đi một cách nhẹ nhàng và nói với họ nên tin chắc rằng sẽ được Đức Mẹ ở bên cạnh. Mặc dù khi sống ta từng là kẻ có tội nhưng tại giây phút cận tử này nếu ta có thể ăn năn,thống hối ,quay đầu về với Mẹ,đặt trọn niềm tin nơi Đức Mẹ và Thiên Chúa bằng cách xin Cha hay Nữ Tu cho ta được xưng tội, chịu lễ và ăn mày các phép;và lần tràng hạt Mân Côi,mang ảnh Đức Mẹ trong mình và đọc kinh Kính Mừng,kinh Xin Ơn Chết Lành ngay lúc đó thì chẳng những Ðức Mẹ MARIA giúp đỡ ta lướt thắng những cơn cám dỗ, Người lại giảm bớt những đau đớn và giúp ta được chết lành bởi vì Đức Mẹ MARIA là Mẹ thật của tất cả mọi người. Đức Mẹ thương chúng ta bằng Tình Yêu vượt xa tầm mức tưởng tượng hẹp hòi của chúng ta! Không bao giờ Mẹ bỏ con cái trong giờ chết
    Điều 2: Khi người thân quyến gần mạng chung, con chiên nên thành kính hướng về Thiên Chúa và Đức Mẹ MARIA, mời Cha,Nữ Tu đến nhà đọc kinh cầu nguyện và rảy Nước Thánh để xưng tội, chịu lễ và ăn mày các phép, chúc lành cho họ để người bệnh khi mãn phần được sanh về Thiên Đàng của Đức Chúa Trời.Và nếu người bệnh chưa thật sự tắt thở thì nên khuyên họ trong khi Cha hay Nữ Tu rảy Nước Thánh trên người , người bệnh nên không ngừng giơ tay kính cẩn làm dấu THÁNH GIÁ.
    Điều 3: Ngay lúc tắt thở người con lớn tắm, rửa thi hài bằng dầu thơm hoặc rượu để tẩy đi những các bụi của thế gian. Mục đích này làm cho gân cốt người mất thư giản và ngay thẳng lại. Song song đó tóc của người mất trải gọn gàng, móng tay và móng chân được cắt cụt. Sau đó mặc áo phép (áo trắng có may cây thánh giá màu đen trước ngực) cho người quá vãng rồi đặt thi thể lên giường, xếp chân tay ngay ngắn lại. Dầu dừa, trà và chuối xanh được đặt lên bụng người quá vãng để xua đuổi những ma quỷ đến quấy rối,nhưng theo khoa học tính chất từ các vật này khử mùi hôi từ thi thể.Trong khi chờ đợi các Thầy hoặc Cha đến tụng kinh, gia đình treo màn phủ lên người quá vãng và tạm thời đặt chiếc bàn con ở phía đầu.Theo đạo Thiên Chúa đặt miếng giấy bìa cứng có ghi tên Thánh của người chết.
    Các vị Cha đọc kinh, rảy nước Thánh chúc lành cho linh hồn người mất về Thiên Đàng,làm lễ nhập liệm (dùng vải trắng),các con chiên của Chúa ca vang Thánh tự,các phần còn lại do các vị có trách nhiệm đảm nhận. Bàn thờ theo Thiên Chúa Giáo đơn giản là một bảng tên thánh, lư hương (ít dùng), bình bông huệ trắng, cây thánh giá¸....Đặt cây nến Phục sinh ở phía đầu quan tài,phía sau quan tài có một tấm vải thiêu tên giáo xứ,trên quan tài, có thể đặt một quyển Thánh Kinh,trước nhà có treo bốn lá cờ nhỏ có thêu chữ 'Sống gởi, thác về'.
    Điều 4:Trong suốt thời gian tang lễ, con cháu, vợ/chồng và bà con,họ hàng không nên khóc lóc, kể lể, để không làm động tâm người chết. Trái lại nên thành tâm, bình tĩnh, cùng nhau đọc kinh cầu nguyện,ca vang Thánh tự để người chết có thể ra đi dễ dàng. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
    Điều 5:Nghi lễ động quan Thiên Chúa giáo gồm có hai phần. Bà con, họ hàng đọc kinh, cầu nguyện trước lúc di quan và sau đó đưa linh cữu vào nhà thờ làm lễ. Thông thường, lúc sinh tiền người quá vãng đi lễ tại đâu thì được Cha Sở của nhà thờ đó làm lễ.
    THÁNH LỄ AN TÁNG
    Khi linh cữu tiến vào nhà thờ, cộng đoàn hát ca nhập lễ.
    Nếu người quá cố là giáo dân, thì đặt họ quay mặt về phía bàn thờ, còn đối với thừa tác viên có chức thánh, thì đặt quay mặt về phía giáo dân.
    Trên quan tài, có thể đặt một quyển Thánh Kinh, phủ áo lễ và dây stola cho người có chức thánh, phủ áo choàng đen cho tu sĩ. Đặt cây nến Phục sinh ở phía đầu quan tài.
    1. HÁT CA NHẬP LỄ
    Nếu có đồng tế thì các linh mục bước ra cung thánh ngay khi linh cữu đã đặt nằm xong tại nhà thờ.
    2. NGHI THỨC ĐẦU LỄ
    a/ Khi có linh mục đi theo linh cữu từ nhà tang đến nhà thờ thì bỏ nghi thức đầu lễ: không đọc kinh Cáo mình và kinh Thương xót.
    b/ Nếu không có linh mục cử hành nghi thức tại nhà tang, thì chủ tế và các đồng tế ra đón linh cữu tại cửa nhà thờ, rồi cử hành nghi thức tiếp đón như sau:
    Lm: Chúa ở cùng anh chị em.
    Cđ: Và ở cùng Cha.
    Lm: Anh chị em thân mến,
    Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời xuống cứu chuộc chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác sáng láng của Người.
    Xin Chúa nhận người anh (chị) em chúng ta vào số các thánh của Chúa, để được hưởng gia nghiệp lời hứa cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa cho chúng ta nữa. Xin Chúa cho chúng ta sẽ có ngày gặp lại người thân yêu mà chúng ta đang thương nhớ bây giờ. Chớ gì tất cả chúng ta được gặp Đức Kitô khi Ngài lại đến trong vinh quang, vì Ngài là sự sống của chúng ta.
    Linh mục rảy nước thánh trên linh cữu. Sau đó ca đoàn hát ca nhập lễ.
    3. LỜI NGUYỆN NHẬP LỄ
    Hát xong ca nhập lễ, linh mục chủ sự đọc lời nguyện nhập lễ.
    4. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
    Có thể đọc hai bài trước Phúc âm. Nếu đọc một bài, thì chọn bài Tân ước. Sau Phúc âm nên có bài giảng ngắn nhưng không được theo hình thức điếu văn.
    5. LỜI NGUYỆN CỘNG ĐOÀN (Có thể bỏ phần này)
    Lm: Anh chị em thân mến,
    Chúa Giêsu Kitô đã chết để tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, và đã sống lại để ban cho chúng ta sự sống mới. Tin tưởng và hy vọng nơi Người, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin :
    1.X: “Mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô như vậy”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu suốt đời đã trung thành theo Chúa, mà nay đã qua đời, được vào hưởng niềm vui nước trời. Chúng con cầu xin Chúa.
    Đ: Xin Chúa nhận lời chúng con.
    2.X: “Ai tin Ta sẽ không phải chết đời đời”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho OBACE T. khi còn sống đã hết lòng tin yêu phụng sự Chúa, giờ đây được thoát khỏi hình phạt tội lỗi, mà vào hưởng hạnh phúc Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin Chúa.
    Đ: Xin Chúa nhận lời chúng con.
    3.X: “Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho thân bằng quyến thuộc của người quá cố, được Chúa thương nâng đỡ và an ủi, hầu biến đau khổ mất mát thành của lễ đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
    Đ: Xin Chúa nhận lời chúng con.
    4.X: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn (giáo xứ) chúng ta, khi tiễn đưa OBACE T. về nhà Cha, được luôn nhớ rằng quê hương chúng ta ở trên trời, để sống tin yêu phụng sự Chúa suốt đời. Chúng con cầu xin Chúa.
    Đ: Xin Chúa nhận lời chúng con.
    Lm: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại để bảo đảm cho chúng con được sống đời đời, xin thương nhận lời chúng con cầu nguyện, mà ban cho linh hồn T. sớm được hưởng niềm vui nước trời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
    Đ: Amen.
    6. PHẦN CUỐI LỄ
    Sau lời nguyện hiệp lễ, bỏ nghi thức kết lễ.
    Linh mục hay người đại diện nói lời cảm ơn (nếu có).
    7. NGHI THỨC PHÓ DÂNG VÀ TỪ BIỆT (1)
    Sau lời cảm ơn (nếu có), linh mục chủ sự đi xuống đứng gần quan tài để cử hành Nghi thức phó dâng và từ biệt, cũng có thể dời Nghi thức này ra nơi nghĩa trang. Thánh giá và hai nến cao đứng ở đầu quan tài. Bốn người giúp lễ đứng hai bên linh mục, cầm bình nước thánh và bình hương lửa.
    Trước khi cử hành nghi thức, ca đoàn hát một bài về mầu nhiệm phục sinh như sau:
    NIỀM HY VỌNG HẰNG SỐNG

    Linh mục chủ sự mời gọi cộng đoàn:
    Anh chị em thân mến,trong khi thi hành nhiệm vụ chôn cất thi hài này theo truyền thống Công giáo, chúng ta biết rằng mọi vật đều phải trung thành sống cho Chúa, vậy chúng ta nài xin Chúa cho thi hài người tôi tớ Chúa là OBACE T. mà chúng ta đang chôn cất vì xác thịt hư nát, nhờ quyền năng Chúa, được sống lại trong hàng ngũ các thánh, và cho linh hồn tôi tớ Chúa được sum họp với các thánh và những người đã tin Chúa.
    Nguyện xin Chúa mở lượng nhân từ trong khi xét xử, để tôi tớ Chúa là T. được cứu độ và giải thoát khỏi hình phạt tội lỗi, được giao hòa với Chúa Cha, được Đấng chăn chiên lành ôm vào lòng, đưa về đoàn tụ cùng Vua muôn đời, để đáng được hưởng nguồn vui bất diệt làm một với cộng đoàn các thánh.
    Linh mục rảy nước thánh và xông hương trên linh cữu, trong khi đó ca đoàn hát:
    LẠY CÁC THÁNH CỦA CHÚA

    Sau bài hát, linh mục chủ sự đọc lời nguyện sau đây:
    Lạy Cha rất nhân từ, chúng con xin phó dâng linh hồn người anh (chị) em chúng con trong tay Cha. Xin cho chúng con được hy vọng chắc chắn linh hồn T. sẽ được sống lại cùng Chúa Kitô trong ngày sau hết, cũng như mọi người đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa Kitô. Vậy xin Chúa lấy lòng nhân từ nghe lời chúng con khẩn nguyện mà mở cửa thiên đàng cho tôi tớ Chúa, và cho chúng con đang còn ở lại, được dùng lời lẽ đức tin mà an ủi nhau, đợi ngày mọi người tái ngộ trong Chúa Kitô, được sống mãi với Chúa và bên cạnh tôi tớ Chúa là T. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
    CĐ. Amen.
    Ca đoàn hát tiếp bài Lạy các Thiên Thần Chúa:

    8. DI QUAN
    Sau bài hát, các đô tùy khiêng quan tài lên xe tang.
    (1)-Nếu có hoả táng thì dùng nghi thức Phó Dâng và từ biệt ở mục NGHI THƯC HOẢ TÁNG.
    Ngoài mục đích này, qua các nghi thức an táng, Giáo Hội "gửi gấm người chết vào lòng từ bi của Thiên Chúa và xin Chúa tha thứ các lỗi lầm của họ." Không ai trong chúng ta là người sạch tội và chúng ta chỉ có thể đền tội khi chúng ta còn sống. Do đó, khi lìa trần, chúng ta phải trông nhờ vào cộng đồng tín hữu để cầu nguyện cho chúng ta.
    Chết là một sự ly biệt và bất cứ sự ly biệt nào cũng đau buồn. Nhưng khi người Công Giáo nói lên sự ly biệt ấy không có nghĩa họ thú nhận một chia lìa hoàn toàn tuyệt vọng, đầy đau thương vì phải xa cách nhau mãi mãi. Ðúng hơn, những bài hát, lời cầu nguyện, nói chung là phụng vụ trong Thánh Lễ an táng không chỉ nhằm xác nhận một thực tại xa cách mà còn nói lên "mối giây liên đới giữa người sống và kẻ chết", và quan trọng hơn nữa, với niềm hy vọng nơi Ðức Kitô phục sinh, chúng ta tin tưởng rằng sau này, "tất cả chúng ta cũng sẽ được đoàn tụ trên thiên đàng".
    Khi kết thúc phần Dẫn Nhập Nghi Thức Tang Lễ, sách Các Nghi Thức viết: "Việc cử hành tang lễ Kitô Giáo đem lại niềm hy vọng và an ủi cho người sống." Ðây là một hướng dẫn quan trọng mà ít người để ý. Dù tang lễ có bi thương, có rình rang cách mấy thì người chết cũng không thể sống lại để nghe những bài điếu văn ca tụng dài lê thê, để thấy được những hàng nước mắt xót thương. Nhưng những gì xảy ra trong buổi lễ lại rất ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài nơi thân nhân người chết, là những người còn sống và phải đương đầu với tất cả những hậu quả của cái chết--về tinh thần cũng như vật chất. Bài điếu văn càng bi ai thì thân nhân sống sót càng đau khổ, càng tiếc nuối người quá cố. Người tham dự tang lễ có ngậm ngùi kể lể thì sau khi nắm đất cuối cùng phủ lên quan tài cũng chỉ còn lại tang quyến--là những người phải sống với đau thương âm ỉ ấy. Nhận định như thế không có nghĩa chúng ta sẽ quên đi "hiếu nghĩa" đối với người chết để nhỏ lệ xót thương hay một đôi phút ngậm ngùi, nhưng chúng ta cần thay đổi một thói quen. Thay vì quá chú ý đến các biểu lộ bên ngoài đến độ giả dối mà nhiều khi có ảnh hưởng xấu đến người còn sống, chúng ta cần để ý đến thực chất bên trong. Một hy sinh, dù nhỏ bé cũng có giá trị hơn những câu kinh ê a qua lần chiếu lệ. Và nếu hy sinh ấy được dâng lên Thiên Chúa để đền bù cho những lỗi lầm của người quá cố, thì thiết tưởng không còn gì hiếu nghĩa hơn đối với người chết.
    Người Việt Nam chúng ta rất thực tế khi "an ủi người sống," đó là sự đóng góp tài chánh cho tang gia. Nhưng còn sự an ủi tinh thần thì sao?
    Có một vài nhận định cần nêu lên ở đây. Thứ nhất, không ai có người thân yêu qua đời mà lại nghĩ rằng người ấy đang ở trong "vực sâu tối tăm". Dù người từ trần có lối sống bê bối đi chăng nữa, thì người thân yêu của họ vẫn hy vọng sẽ được Thiên Chúa thứ tha và cho hưởng phúc thiên đàng. Hình ảnh "vực sâu u tối" không đem lại niềm an ủi cho người sống mà ngược lại, rất có thể phản Tin Mừng. Thay vì trưng ra một Thiên Chúa đầy nhân ái, đầy từ bi thì rất có thể, vì vô tình, qua các bài hát, câu kinh, chúng ta đã trưng ra hình ảnh một Thiên Chúa "quan toà", thích trừng phạt hơn thích tha thứ. Chưa kể nếu người chết đã có một nếp sống thánh thiện, tốt lành mà vẫn phải ở "vực sâu tối tăm" thì sự từ bi nhân hậu của Thiên Chúa ở đâu? Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được sự thật, nhưng về phần chúng ta, bổn phận là đem lại hy vọng cho người còn sống.
    Thứ hai, vì thiếu suy nghĩ nên nhiều khi chúng ta máy móc lập lại những câu an ủi phổ thông, như "đó là ý Chúa," "Chúa thương gọi về." Rất có thể, những câu an ủi ấy gây ảnh hưởng tai hại hơn là xoa dịu người còn sống. Thí dụ, trước cái chết của một người cha trong gia đình nheo nhóc con thơ mà sự ra đi của ông là một mất mát vô cùng lớn lao cho vợ con ông, thì khi chúng ta cho "đó là ý Chúa," hoặc mở đầu tang lễ bằng "Khi Chúa thương gọi tôi về" thì chẳng khác nào chúng ta muốn nói với tang gia rằng Chúa không thương yêu gì đến bà và các cháu đâu! Và trong tâm hồn non nớt của các em, rất có thể các em nghĩ Chúa là người độc ác. Vì Chúa không màng đến người còn sống!
    Thứ ba, vấn đề chia buồn. Cũng vì thiếu suy nghĩ nên nhiều người Công Giáo đã "vô cùng đau đớn khi được tin ông/bà ... đã được Chúa gọi về"! Mục đích tối hậu của người Công Giáo là được hiệp nhất vĩnh viễn với Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại "vô cùng đau đớn" khi được "Chúa gọi về"? Thay vì truyền đạo qua bất cứ biến cố nào trong đời sống, thì chúng ta lại trưng ra một hình ảnh Thiên Chúa đáng sợ hơn đáng kính mến.
    Ðã đến lúc phải nhìn lại các nghi thức phụng vụ cầu nguyện cho người vừa qua đời của người Việt chúng ta. Một phụng vụ đúng nghĩa phải đem lại hy vọng cho người còn sống.
    * Tinh Thần Phụng Vụ
    Ðâu là tinh thần phụng vụ đúng đắn trong các nghi thức cầu nguyện cho người chết? Ngoài những hướng dẫn tổng quát, sách Các Nghi Thức còn đưa ra các bài đọc, thánh vịnh để sử dụng trong các nghi thức cầu nguyện, và sách còn tỉ mỉ chia ra làm 3 phần: cho người lớn, cho trẻ em đã rửa tội và trẻ em chưa rửa tội. Tìm hiểu tinh thần phụng vụ không gì tốt cho bằng nhìn đến các bài đọc, ở đây chúng tôi chỉ đưa ra một vài chi tiết (muốn biết tất cả các bài đọc, xin xem trong Nghi Thức Phụng Vụ Cầu Nguyện Cho Người Vừa Qua Ðời).
    Trong các bài đọc cho người trưởng thành, về Cựu Ước có 6 bài, tỉ như: - Gióp 19:1, 23-27 (Tôi biết Ðấng Cứu Ðộ của tôi đang sống); Khôn Ngoan 3:1-9 (Ngài chấp nhận họ như của lễ toàn thiêu); Khôn Ngoan 4:7-15 (Một đời sống không tì vết là sống thọ); Isaiah 25:6a, 7-9 (Thiên Chúa sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời); 2 Maccabê 12:43-45 (Thật hoan hỉ và thánh thiện khi nghĩ về người chết sẽ chỗi dậy).
    Về Tân Ước có 19 bài. Sau đây là một vài tiêu biểu: Rôma 14:7-9, 10b-12 (Dù sống hay chết, chúng ta thuộc về Chúa); 1 Cor. 15:20-23, 24b-28 (Mọi người sẽ được sống trong Ðức Kitô); - 2 Cor. 4:14--5:1 (Những gì thấy được thì nhất thời; những gì không thấy được thì vĩnh viễn); 2 Cor. 5:1--6:10. (Chúng ta có căn nhà vĩnh viễn ở thiên đàng).
    Về Thánh Vịnh Ðáp Ca có 10 bài: TV 23, 25, 27, 42, 43, 63, 103, 116, 122, 130 và 143. Trong 10 thánh vịnh này không có thánh vịnh 125 (126) (*) là thánh vịnh thường được người Việt mở đầu tang lễ ("Khi Chúa thương gọi tôi về"), và chỉ có thánh vịnh 130 mang ý nghĩa "Từ vực thẳm con kêu lên Ngài".
    Sau khi lướt qua một vài bài đọc, chúng ta thấy tinh thần phụng vụ trong tang lễ của Giáo Hội bây giờ đã thay đổi. Thay vì đưa ra cái nhìn bi quan, xa cách, khiếp sợ của Cựu Ước, Giáo Hội chú trọng nhiều đến niềm hy vọng nơi Ðức Kitô. Hầu như mọi phụng vụ trong các bí tích, như rửa tội, thêm sức, thánh thể, hòa giải đều nhằm diễn đạt mầu nhiệm vượt qua của Ðức Kitô và dĩ nhiên, phụng vụ trong nghi thức an táng cũng không thoát khỏi ý nghĩa này. "Ðức Giêsu Kitô là trưởng tử của những người từ cõi chết... Nếu chúng ta cùng chết với Người, chúng ta sẽ cùng sống với Người."
    * Kết Luận
    Chết là lẽ tự nhiên và khó chấp nhận. Không chết vì già thì chết vì bệnh. Không chết vì bệnh thì chết vì tai nạn. Trước cái chết của một người, điều quan trọng là thông cảm sự đau buồn của thân nhân hơn là đưa ra lời nhận định. Chẳng ai biết được ý Chúa. Và lời an ủi mạnh mẽ nhất là im lặng lắng nghe tâm tình của người còn sống và những giúp đỡ thực tế, tỉ như đem cho họ một bữa ăn, một ly nước, một tiếp tay dọn dẹp nhà cửa, một chuyến xe đưa đón, v.v. Tang lễ của người Công Giáo phải khác với người ngoại giáo. Chúng ta không thể quên đi niềm hy vọng phục sinh nơi Ðức Kitô. Chúng ta không thể tuyệt vọng cho rằng "chết là hết" và thờ ơ việc cầu nguyện cho linh hồn người thân yêu đã từ trần.
    Sau Công Ðồng Vatican II, Giáo Hội Hoàn Vũ đã thay đổi nhiều mà có lẽ Giáo Hội Việt Nam chưa theo kịp. Trong các tang lễ vẫn còn những bài hát, những câu kinh phản ánh tinh thần đạo đức thời xa xưa, nhắm đến uy quyền và sự trừng phạt của Thiên Chúa. Ngày nay, Giáo Hội có cái nhìn của một người trong gia đình, cùng là anh chị em trong Chúa Kitô, thông cảm hơn là kết án, hướng dẫn hơn là dạy đời.
    Có lẽ đã đến lúc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam phải đưa ra những câu kinh, những bài hát thích hợp hơn với tinh thần phụng vụ của Giáo Hội Hoàn Vũ bây giờ./.

    Điều 6:Sau khi tống tang,con chiên có thể treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên.
    Tuy nhiên, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).
    Theo tập tục người Việt nam, người ta có thể:
    1.Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa,Đức Mẹ trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
    2.Đặt hoa nến trước di ảnh Ông Bà,
    3.Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. Cầm hương vái lậy di ảnh, bài vị Ông Bà để tỏ lòng tôn kính, chứ không có nghĩa là thờ Ông Bà như thờ Thiên Chúa.

    4.Ngày giỗ cũng là ngày "kỵ nhật" được "cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

    5.Trong hôn lễ, dâu rể được làm "Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên" trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.

    Người Kitô hữu càng phải sống Đạo Hiếu hơn vì điều răn thứ bốn đã dạy :Hãy thảo kính cha mẹ.Chính Chúa Giêsu đã hai lần trưng dẫn và xác nhận điều răn này.

    Thảo kính cha mẹ là do mầu nhiệm sự sống.Cha mẹ là người cộng tác với Thiên Chúa trong mầu nhiệm này và cha mẹ có trách nhiệm quan trọng về con cái trước mặt Chúa.

    Tinh thần kính trọng bên trong cần phải được diễn tả qua những cử chỉ bên ngoài.Nhiều người con tỏ ra xấu hổ về cha mẹ mình ,phủ nhận cha mẹ mình chỉ vì họ nghèo hèn.Có khi còn dùng lời lẽ xúc phạm để nói với cha mẹ.,đối xử với cha mẹ cách khinh miệt như đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão để rảnh nợ tang bồng.Chống lại cha mẹ đó là tội bất hiếu.

    Ngày Mồng Hai Tết,Giáo hội mời gọi con cái mình kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ.Giáo hội mời gọi con cái mình sống Đạo Hiếu.Tình yêu của con cháu đối với ông bà cha mẹ trước hết phải là một tình yêu mang sắc thái của lòng biết ơn.Mỗi người con trong gia đình sống vâng phục ,sống yêu mến biết ơn cha mẹ sẽ tạo nên sự ấm êm cũng như nâng cao thanh danh của gia đình .Các giáo xứ tổ chức tặng quà chúc thọ các cụ ông, cụ bà trong thánh lễ Mồng Hai Tết ,điều này thật ý nghĩa ,có giá trị giáo dục con cháu sống hiếu thảo.Thánh lễ cũng được cử hành nơi nghĩa trang giáo xứ ngày Mồng Hai tết.Người sống ,kẻ chết gặp nhau trong yêu thương tưởng nhớ trong mầu nhiệm hiệp thông của giáo hội .

    Chính từ cha mẹ tổ tiên ông bà mà người việt nam có thể và đi xa hơn, lên cao hơn tới chốn trời cao siêu nhiên huyền bí của cõi linh thiêng của thần thánh.Từ đó tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên tời dưới đất.

    Đạo Ông Bà ,Đạo Hiếu không những chẳng đối nghịch ,chẳng cản trở đối với Đạo Thiên Chúa mà còn là một điểm tựa,một bước khởi đầu thuận lợi,một lối đi dễ dàng và gần gũi nhất có thể đưa con người đi vào Đạo Thiên Chúa.

    Tình yêu và lòng yêu mến biết ơn đối với ông bà cha mẹ càng làm cho người tín hữu hướng về Thiên Chúa là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.

  18. #18

    Mặc định

    Chương VII:Hôn Nhân
    Trong Công giáo Rôma, hôn nhân được gọi là Bí tích Hôn phối, đây là sự tác hợp vợ chồng giữa một người nam và một người nữ thông qua giáo quyền. Về bản chất, sự tác hợp này là duy nhất và vĩnh viễn trong suốt cuộc đời người nam và người nữ. Giáo luật Công giáo quy định cụ thể về Bí tích Hôn phối từ điều 1055 đến điều 1065[1]. Vấn đề sinh sản và giáo dưỡng con cái cũng được coi là một yếu tố quan trọng kèm theo trong một cuộc hôn nhân Công giáo.
    Hôn nhân Công giáo
    Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình
    và cả hai nên một thân xác.
    Mầu nhiệm này thật lớn lao,
    tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.
    (Ep 5,31-32)
    Khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ trở thành vợ chồng theo luật tự nhiên. Hôn nhân của họ là một khế ước, có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, hôn nhân không chỉ là một khế ước, mà còn là một bí tích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Hôn nhân là bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời.”
    Quan niệm và đặc tính
    Giáo hội Công giáo xác định hôn nhân là một "bí tích" và vì vậy nó có tính chất thánh thiêng, việc cử hành "bí tích hôn nhân" một cách chính thức trước mặt cộng đoàn giáo dân do một linh mục cử hành khiến nó trở nên một giao ước vĩnh cửu giữa người nam và người nữ. Người Công giáo tin rằng khi được lãnh nhận bí tích hôn nhân cách chính thức, đôi nam nữ sẽ được chúc phúc yêu thương, chung thủy với nhau suốt cả cuộc đời, trong một giao ước do chính Chúa Giêsu đã lập. Có thể nói, hai đặc tính cơ bản nhất của một cuộc hôn nhân Công giáo là đơn hôn (một vợ một chồng), vĩnh hôn (vĩnh viễn), thể hiện qua câu Kinh Thánh thường dùng:
    “ Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly. ”
    — (Mt 19,6)
    Ngoài ra, Công giáo không công nhận hôn nhân đồng giới và cực lực phản đối nó.
    Ý nghĩa
    Do có đặc tính như vậy nên người Công giáo tin rằng đôi nam nữ lãnh nhận bí tích hôn nhân sẽ phải yêu thương nhau mãi mãi. Giáo hội Công giáo quan niệm rằng: con người được sinh ra là do Thiên Chúa, vì thế, hôn nhân cũng là sự cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa qua việc sinh sản.
    Giáo hội Công giáo không công nhận hôn nhân khi chỉ có kết hôn dân sự (đăng ký giá thú ngoài đời) mà không qua lãnh nhận bí tích từ Giáo hội (tổ chức lễ cưới trong nhà thờ). Giáo luật Công giáo điều 1055 tuyên bố, giá thú như thế là vô hiệu qua câu:
    “ Giữa những người đã chịu phép rửa tội,
    không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là bí tích. ”
    —Giáo Luật, điều 1055, khoản 2
    Điều kiện của một cuộc hôn nhân Công giáo
    Từ quan điểm hôn nhân là một "bí tích" nên điều kiện lãnh nhận như sau:
    Tự do:
    • Tự do về tinh thần: tự do kết hôn, không chịu sức ép nào từ bên ngoài (gia đình, người thân, các khoản khế ước, vay nợ...)
    • Tự do về dân sự: không bị ràng buộc về mặt pháp lý hôn nhân dân sự (như đang có hôn thú với người khác) và pháp lý về độ tuổi dân sự theo luật pháp quốc gia (ở Việt Nam, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên).
    Tôn giáo - đức tin:
    • Người nam và người nữ phải được rửa tội theo nghi thức Công giáo.
    • Người nam và người nữ chưa lãnh nhận bí tích hôn phối lần nào, hoặc không còn bị ràng buộc bởi một bí tích hôn phối trước đó (khi chồng/vợ mình đã qua đời tự nhiên).
    • Học qua lớp giáo lý của Giáo hội Công giáo thông qua giáo xứ hay giáo phận. Lớp giáo lý hôn nhân được vài tháng trước hôn lễ, để giúp cho người chuẩn bị kết hôn những kiến thức cần thiết về đức tin, kỹ năng sống gia đình, sinh sản, giáo dục con cái.
    • Không bị vướng vào một hay nhiều "ngăn trở" theo quy định của Giáo Luật.

    1. Hôn nhân Công giáo là một bí tích
    Từ xưa đến nay, hầu như nền văn hoá nào cũng coi hôn nhân là việc linh thiêng. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể thường xin trời đất, thần linh hoặc ông bà tổ tiên chứng giám và phù hộ cho cuộc hôn nhân của mình qua một nghi lễ công khai và long trọng.
    Trong Cựu Ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân thuỷ chung, duy nhất. Sang Tân Ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Đức Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới. Còn Hội Thánh được ví như cô dâu, đã được Đức Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống.
    “Ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã có mặt trong một tiệc cưới tại Cana và đã làm dấu lạ đầu tiên, biến nước thành rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2,1-11). Sự hiện diện này được Hội Thánh hiểu như là một chứng thực của Đức Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân”.
    “Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu dạy rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của việc phối hợp giữa người nam và người nữ như thuở ban đầu Đấng Tạo Hóa đã muốn. Sự phối hợp này là bất khả phân ly. Việc Môsê cho phép bỏ vợ là một nhượng bộ trước lòng chai dạ đá của người nam (x. Mt 19, 3-8)”.
    “Khi tái lập trật tự ban đầu của công trình sáng tạo đã bị tội lỗi làm xáo trộn, Chúa Giêsu đã ban sức mạnh và ân sủng để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Ân sủng của hôn nhân Kitô giáo là hoa quả của Thánh Giá Đức Kitô, nguồn mạch mọi đời sống Kitô hữu”.
    “Thánh Phaolô cho thấy điều đó khi nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh” (Ep 5, 25-26). Ngài còn nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.” (Ep 5, 31-32).
    “Toàn bộ đời sống Kitô giáo mang dấu ấn của tình yêu “hôn nhân” giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích Thánh tẩy, cửa ngõ dẫn vào Dân Thiên Chúa, cũng đã là một mầu nhiệm “hôn nhân”: có thể nói đó là nghi thức thanh tẩy (x. Ep 5, 26-27) trước khi bước vào tiệc cưới là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Kitô giáo trở thành dấu chỉ giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao ước Mới, vì nó biểu thị giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh, và thông ban ân sủng cho họ”.
    Như vậy, ta có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.
    Qua bí tích hôn phối, tình yêu của hai vợ chồng được Thiên Chúa đóng ấn; họ nhận được những ơn siêu nhiên giúp họ sống ơn gọi hôn nhân và gia đình, và trở nên dấu chỉ mầu nhiệm Đức Kitô kết hiệp với Hội Thánh.
    2. Đặc tính của hôn nhân Công giáo
    Tình yêu giữa hai vợ chồng Công giáo có ý nghĩa rất phong phú và sâu sắc, vì bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và rập theo khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Tình yêu đó có hai đặc tính là đơn nhất và bất khả phân ly.
    2.1. Đơn nhất
    Đơn nhất nghĩa là một vợ một chồng. “Tự bản chất, tình yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly. “Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt” (x. Mt 19, 6; St 2, 24). Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua việc mỗi ngày trung thành sống lời cam kết hôn nhân, là trao hiến trọn vẹn cho nhau. Sự hiệp thông này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ bí tích Hôn phối đem lại sự hiệp thông trong Đức Kitô. Sự hiệp thông này càng thâm sâu hơn nhờ cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón nhận Mình Thánh Chúa.”
    “Phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương thân tương ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính đơn nhất của hôn nhân đã được Đức Kitô xác nhận. Đa thê là đi ngược với tình yêu vợ chồng, cũng như với sự bình đẳng giữa hai vợ chồng.”
    2.2. Bất khả phân ly
    Bất khả phân ly nghĩa là không thể ly dị. “Lý do sâu xa nhất đòi hỏi hai vợ chồng phải chung thủy chính là sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Kitô với Hội Thánh. Nhờ bí tích Hôn phối, hai vợ chồng được ban ơn để diễn tả và làm chứng cho sự trung tín ấy. Do bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân tiếp nhận một ý nghĩa mới và sâu xa hơn.”
    Ngoài ra sự liên kết mật thiết giữa hai vợ chồng, cũng như lợi ích của con cái, buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín với nhau.
    Chung thuỷ suốt đời với người phối ngẫu là một trong những đặc điểm nổi bật của hôn nhân Công giáo, đồng thời còn có ý nghĩa đặc biệt hơn đối với thế giới hiện nay, khi mà ly dị thường được coi là giải pháp bình thường cho những khó khăn hoặc thất bại trong đời sống hôn nhân. Quả thực, đối với nhiều trường hợp, chung thuỷ là một thách đố lớn lao và phải cậy dựa vào ơn Chúa, vì chỉ nhờ sức riêng của mình mà thôi thì không đủ. Trong đời sống hôn nhân, đôi vợ chồng cần nhớ rằng sự liên kết với nhau không phải chỉ do quyết tâm của họ mà còn là kết quả của ơn Chúa. “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Hội Thánh không ngừng cầu nguyện cho các đôi vợ chồng được trung thành với nhau suốt đời. Ngược lại, chính Hội Thánh cũng được nâng đỡ luôn trung tín với Chúa Giêsu nhờ sự chung thuỷ của các đôi vợ chồng.
    3. Hiệu quả bí tích Hôn phối
    “Do hôn nhân hợp pháp, giữa vợ chồng phát sinh một mối dây ràng buộc vĩnh viễn và độc nhất tự bản chất. Hơn thế nữa, trong Kitô giáo, vợ chồng được Thiên Chúa tăng sức và thánh hiến bằng một bí tích riêng biệt, để chu toàn những bổn phận và sống xứng đáng bậc sống của mình.”
    Bí tích Hôn phối đem lại hai hiệu quả:
    3.1. Dây hôn phối
    “Sự ưng thuận tự do, qua đó đôi phối ngẫu tự trao hiến và tiếp nhận nhau, được chính Thiên Chúa đóng ấn. Từ hôn ước của họ phát sinh một định chế. Định chế này đã được chính Thiên Chúa ấn định và có giá trị trước mặt xã hội. Hôn ước được liên kết với giao ước Thiên Chúa ký kết với nhân loại: Tình yêu vợ chồng đích thực được hoà nhập trong tình yêu Thiên Chúa.”
    “Dây hôn phối do chính Thiên Chúa liên kết, nên hôn nhân thành sự và hoàn hợp, giữa hai người đã được rửa tội, không bao giờ được tháo gỡ. Dây liên kết này là kết quả của việc hai người tự nguyện kết hôn và do sự hoàn hợp của hôn phối. Đây là một thực tại không thể đảo ngược, và trở thành một giao ước được Thiên Chúa trung tín bảo đảm. Hội Thánh không có quyền nói ngược lại sự an bài khôn ngoan của Thiên Chúa.”
    3.2. Ân sủng của bí tích Hôn phối
    Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn phối kiện toàn tình yêu vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ. “Nhờ ân sủng này, họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái”.
    “Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng đặc biệt này. Như xưa, Thiên Chúa đến gặp Dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành, thì ngày nay, Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Hội Thánh cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Ngài ở lại với họ, ban cho họ sức mạnh để họ vác thập giá theo Ngài, để họ chỗi dậy mỗi khi sa ngã, để họ tha thứ cho nhau, mang gánh nặng cho nhau, “phục tùng nhau trong sự kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21), và yêu thương nhau với một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và phong phú. Trong khi họ vui hưởng tình yêu và cuộc sống gia đình, Ngài ban cho họ, ngay từ đời này, được nếm trước hạnh phúc Nước Trời.”
    Hôn nhân Công giáo và vấn đề ngừa thai, phá thai
    • Ngừa thai:
    Giáo hội Công giáo quan niệm rằng, sinh sản là quyền năng của Thiên Chúa, con người chỉ cộng tác vào sứ mệnh này qua bí tích hôn nhân. Ngừa thai là hình thức tự mình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi sứ mệnh ấy. Do đó, Giáo hội không cho phép sử dụng mọi biện pháp tránh thai nhân tạo mà chỉ được dùng cách tính theo chu kì kinh nguyệt, mọi biện pháp có sự can thiệp từ tác nhân bên ngoài đều bị cấm. Tuy ngăn cấm quyết liệt việc ngừa thai nhân tạo (đặt vòng, dùng thuốc...) và việc phá thai, nhưng Giáo hội cũng khuyến khích giáo dân sinh sản có trách nhiệm, nghĩa là trước khi có ý định sinh con thì cha mẹ nên có đủ điều kiện để chăm sóc cho con cái cả về mặt vật chất cũng như tinh thần.
    • Phá thai:
    Giáo hội Công giáo quan niệm rằng, phá thai cũng là một hình thức giết người, vì vậy lên án gay gắt việc phá thai và coi đó là trọng tội theo điều răn thứ năm, có thể dẫn đến vạ tuyệt thông cho người phạm phải. Do vậy đây là vấn đề đang gây tranh cãi gay gắt giữa Giáo hội và nhà nước dân sự về vấn đề kiểm soát dân số.

     GHI NHỚ :
    1. H. Hôn nhân Công giáo là gì?
    T. Hôn nhân Công giáo là bí tích Chúa Giêsu đã lập, để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ, thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh, cùng ban ơn giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của mình.
    2. H. Hôn nhân Công giáo có những đặc tính nào?
    T. Hôn nhân Công giáo có hai đặc tính này:
    - Một là đơn nhất, nghĩa là một vợ một chồng.
    - Hai là bất khả phân ly, nghĩa là trung thành yêu thương nhau trọn đời.
    3. H. Bí tích Hôn phối ban cho vợ chồng những ơn nào?
    T. Bí tích Hôn phối ban ơn giúp các đôi vợ chồng yêu thương nhau, như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, kiện toàn tình yêu tự nhiên, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly và thánh hoá họ trong đời sống siêu nhiên.
     GỢI Ý SUY NGHĨ :
    1. Khi nhìn vào tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh, anh chị học được điều gì cho tình yêu của anh chị?
    2. Trung thành với nhau đến chết phải chăng là một thách đố?
    3. Ân sủng bí tích Hôn phối mang lại điều gì cho đời sống hôn nhân?
     CẦU NGUYỆN :
    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương Hội Thánh đến độ đã hiến mình vì Hội Thánh để Hội Thánh được xinh đẹp lộng lẫy, thánh thiện tinh tuyền. Chúng con đang đứng trước ngưỡng cửa ơn gọi hôn nhân và gia đình, xin cho chúng con biết đến với Chúa, lắng nghe Lời Chúa, nhìn ngắm mẫu gương của Chúa, để học biết yêu thương như Chúa. Xin đổ Thánh Thần Tình yêu của Chúa xuống trên chúng con để chúng con có đủ can đảm bước theo con đường Chúa đang mời gọi chúng con. Amen.
    KẾT LUẬN
    Qua các phần trình bày trên, cho chúng ta thấy rằng:

    - Mỗi tôn giáo trên quan niệm về Thiên đàng khác nhau, vì thế không có chuyện lên Thiên đàng như nhau. Nhưng lấy lí trí lành mạnh nhận xét, người ta thấy Thiên đàng trong đạo Công giáo có những điều tích cực, đó là đích điểm đáng ham ước. Lại có những phương thế trong Giáo hội để đạt đích trên.

    - Người khôn nên chọn đạo tốt nhất, nghĩa là đạo do Ông Trời đã chỉ dạy. Đạo có bảo đảm do thế giá Ông Trời. Đạo có giáo lý rõ ràng. Mọi tín đồ biết rõ con đường mình đang đi về đâu: Thiên đàng hay hỏa ngục?

    - Có người hãnh diện về đạo Công giáo của họ, và họ muốn nhiều người cũng nhận ra và sống theo đạo này để chắc chắn lên Thiên đàng sau khi chết.

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Chieuthanhnghia;
    ...
    Thiên Chúa đã phán các lời này:
    1.Điều Răn Nhất: "Ta là Yavê Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đem ngươi ra khỏi đất Ai cập, khỏi nhà tôi mọi, Ngươi không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta và ngươi sẽ không có những thần khác trước nhan Ta...ngươi sẽ không thờ lạy chúng... Ngươi chỉ thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.

    2.Điều răn hai: Ngươi sẽ không kêu Danh Yavê cách bất kính (use My Name in vain),Ngươi không được dùng danh thánh Chúa cách bất xứng,Chớ kêu Tên Đức Chúa Trời vô cớ

    3.Điều răn ba: Ngươi phải giữ ngày Sabát (tức ngày Chúa Nhật),Ngươi hãy nhớ đến ngày lễ nghỉ để thánh hoá (make it holy) ngày đó.
    4.Điều răn bốn:Hãy trọng kính(respect) cha mẹ ngươi.
    5.Điều răn năm: Ngươi không được hãm hại người khác
    Chớ giết người(murder),
    6.Điều răn sáu: Ngươi không được dâm dục,ngoại tình (commit adultery),
    7.Điều răn bảy: Ngươi không được trộm cắp(steal)
    Chớ lấy của người
    8.Điều răn tám: Ngươi không được làm chứng gian (accuse falsely) cáo tội đồng loại,
    9.Điều răn chín: Ngươi không được chiếm đoạt vợ chồng của người khác.Ngươi sẽ không mê muốn vợ của đồng loại, tớ trai, tớ gái, bò lừa hay bất cứ vật gì của nó...
    10.Điều răn mười: Ngươi không được ham muốn chiếm đoạt của cải người khác, chớ tham của người.
    Ngươi sẽ không tham muốn (desire) nhà cửa của đồng loại.
    ...
    Bạn chieuthanhnghia mến,

    Ở đây câu hỏi rất vắn tắt là "Làm thế nào để vào được nước Chúa"
    Bạn cut và paste một đống quá kinh hoàng, đọc không nổi, và rối tung lên.

    1) Bây giờ bạn giải thích cho tôi phần 10 điều răn ở trên, có thật đúng như Thánh Kinh viết không? Bạn dẫn chứng là viết ở đoạn nào? Các phần khác từ từ chúng ta bàn tiếp
    2) Làm thế nào để vào được nước Chúa ?.

  20. #20

    Mặc định

    Cám ơn bạn rất nhiều đã đưa lên mạng để giải thích phần nào đó về Thiên Chúa...nhưng dài quá chẳng ai đọc đâu, chỉ cực thân mà không có lợi ích gì

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Cõi Vô Hình
    By Bin571 in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 55
    Bài mới gởi: 25-03-2015, 02:01 AM
  2. tu bồ tát đẹo thì hãy vào xem
    By Cầu Trí Bát Nhã in forum Đạo Phật
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 14-01-2012, 08:00 PM
  3. Tác động của TG vô hình vào cõi giới con người
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 03-01-2011, 10:11 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •