kết quả từ 1 tới 20 trên 21

Ðề tài: 18 Chư Vị A La Hán

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định 18 Chư Vị A La Hán

    18 Chư Vị A La Hán

    Tác Giả: Thích Hằng Đạt

    1. Tân Ðâu Lô Bạt La Ðọa Xà (S: Pindolabharadvàja):
    Vị A La Hán cỡi nai. Vị tôn giả này cùng 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu.



    Ngài xuất thân từ gia đình Bà La Môn, là một vị quan lớn trong triều đình của một tiểu quốc ở Ấn Độ, và rất được nhà vua tín cẩn. Ngày nọ, Ngài chợt quyết định xuất gia, không muốn nghe những lời nài nỷ của nhà vua. Thế rồi, Ngài rời bỏ quan vị, vào một ngôi chùa ở trong vùng núi sâu. Hôm nọ, Ngài cỡi nai đi đến trước cung điện. Nhận dạng ra Ngài, các vệ sĩ trở vào bẩm trình với vua. Nhà vua bèn đích thân ra nghinh tiếp Ngài, và nói rằng Ngài có thể trở về làm quan như xưa nếu muốn. Ngài từ chối và nói rằng Ngài trở về để khuyến khích nhà vua xuất gia. Đàm luận một hồi lâu và đưa ra những ví dụ về sự tạo nghiệp của xác thân cũng như lòng tham, cuối cùng nhà vua nghe theo Ngài, nhường ngôi cho thái tử, mà xuất gia.

    Ngài là một trong những đại đệ tử của Phật. Ngài có âm thanh hùng hồn như sư tử rống, dẹp tan luận nghị ngoại đạo, xiển dương chánh pháp. Tuy nhiên, yếu điểm của Ngài là hiển hiện những thần thông trước tất cả mọi người, và đôi khi với những mục đích không lợi lạc. Theo kinh Tạp A Hàm 23, lần nọ con gái ông trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh Phật và chư thánh tăng đến xứ Phú Lâu Na Bạt Đà Na thọ trai. Các vị thánh tăng đều dùng thần thông bay trên hư không mà đến, còn Tôn Giả thì dùng sức thần thông hiệp các núi lớn lại đến thọ thỉnh, nên bị đức Thế Tôn quở phạt ở lại đời để hộ trì chánh pháp, không được nhập Niết Bàn. Lần khác, theo những sự ghi lại trong kinh tạng Pali và tạng Luật, để thị hiện thần thông, Ngài bay lên hư không, lấy một bình bát bằng gỗ chiên đàn trên một cột cây cao, rồi bay lơ lững trên đầu của những người kính mộ một hồi lâu. Việc này khiến đức Phật quở trách Ngài, và cấm dùng bình bát bằng gỗ trầm hương. Vào dịp đó, đức Phật quở phạt Ngài rằng không được nhập Niết Bàn mà phải ở lại cõi Ta Bà để hộ trì Phật pháp cho đến khi Phật Di Lặc ra đời. Tuy nhiên, đôi khi Ngài cũng thị hiện thần thông vì mục đích tốt, như dùng thần thông để cảm hóa một bà chưa tin chánh pháp.

    Ngài trụ thế từ thời đức Phật còn tại thế gian, và đã nhiều lần hiển hiện khuyến tấn những Phật tử thuần thành vì đạo. Ở Ấn Độ đã từng có phong tục cúng dường chư tăng và thỉnh mời Ngài. Tuy không thể thấy Ngài, nhưng một cánh cửa được dành riêng cho Ngài vào. Sự thị hiện của Ngài chỉ được biết qua sự hiển hiện của những bông hoa hay tấm thảm dành riêng cho Ngài. Khi vua A Dục cung thỉnh chư thánh tăng 60,000 vị, Ngài đang ở trên ngọn núi Kiền Đà Ma Lợi (Gandhamali hay Gandhamadana). Được cung thỉnh nhập vào thánh chúng, Ngài bay như hạc đến dự trong thánh chúng và được đề cử làm chủ tọa vì là bậc trưởng thượng. Lúc ấy, Ngài là một vị thánh tăng trưởng lão; vì lông tóc dài bạc phơ, Ngài phải cầm giữ để mắt thấy rõ ràng. Phật tử Trung Hoa thường biết đến Ngài qua tên “Trường Mi Tăng”; nghĩa là vị thánh tăng có lông mi dài. Vào đời Đông Tấn, Ngài thị hiện sang Trung Quốc, ấn chứng sự hoằng pháp Luật học của Luật Sư Đạo Tuyên. Từ đời Đường về sau, các Trai Đường (phòng ăn) đều an trí tượng Ngài. Đại sư Thiền Nguyệt Quán Hưu đời Đường, họa tượng Ngài ngồi theo thế ky tọa, trên sườn núi, tay trái cầm gậy, tay phải duỗi ra, tựa vào vách núi, trên đầu gối có quyển kinh, mắt nhìn về phía trước. Ở Nhật Bổn, thánh tượng của Ngài được an trí ở hành lang trước tự viện, và có tín ngưỡng xoa vuốt tượng Ngài để cầu hết bịnh, gọi là Phủ Phật.

    Tần Đầu Phả La Đọa hán dịch nghĩa là Lợi Căn Bất Động, còn tiếng Tây Tạng dịch nghĩa là Ứng Cúng. Tuy nhiên, danh từ đó có thể được dịch âm tiếng hán “Tần Đầu”, do có liên hệ đến tên của một ngôi làng Kosala vào thời đức Phật.

    Một trong những đời tiền kiếp, Ngài đã từng làm một người con bất hiếu và ác độc. Do nghiệp đó nên Ngài chịu khổ địa ngục rất lâu, như phải ăn gạch đá. Ngay cả sau khi chứng quả A La Hán có thần thông diệu dụng, Ngài vẫn còn tập khí ăn “gạch đá”. Có nhiều tranh ảnh miêu tả Ngài một tay cầm sách, một tay cầm bình bát, hoặc cả hay tay cung kính cầm sách, hoặc mở sách đặt trên đầu gối và tích trượng được dựng kế bên.

    2. Ca Nặc Ca Phạt Sa (S: Kanakavatsa):
    Hoan Hỷ A La Hán: Vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La.



    Ngài là một vị luận sư nổi tiếng. Khi được hỏi về hạnh phúc là gì, Ngài đáp rằng niềm hạnh phúc đó được cảm nghiệm qua năm căn. Khi được hỏi về niềm an lạc là gì, Ngài đáp rằng niềm an lạc không phát xuất từ năm căn, mà từ tâm an lạc thâm sâu, như cảm thấy có Phật trong tâm. Ngài thường tươi cười trong những lần luận nghị, và rất nổi tiếng về pháp Hoan Hỷ. Thế nên, Ngài được gọi là Hoan Hỷ A La Hán. Ngài thấu suốt được tất cả lý nhân quả lành xấu thâm sâu.

    Ngài được Phật dạy trụ ở thế gian để hộ trì chánh pháp, làm lợi ích cho chúng sanh. Tô Đông Pha làm bài tán rằng:

    “Tuổi lớn đâu già
    Cười khì trẻ lại
    Tôi biết tâm ông
    Phật chẳng cười bậy
    Mừng giận dù huyễn
    Cười thì không giận
    Ban vô ưu này
    Cho vô số người”.

    3. Ca Nặc Ca Bạt Ly Ðọa Xà (S: Kanakabharadvàja):
    Vị tôn giả này cùng 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Ðông Thắng Thân châu.

    Ngài là vị tăng khất thực, thường khất thực bằng cách đưa bình bát lên. Sau khi chứng quả A La Hán, Ngài được gọi là Cử Bát A La Hán.



    4. Nan Đề Mật Tra (Nandimitra): Cử Tháp A La Hán.

    Vì là một trong những đệ tử cuối cùng của đức Phật, nên đi đâu Ngài cũng cầm ngọn tháp nhỏ trong bàn tay, để nhớ công đức của đức Thế Tôn cũng như pháp thân của Phật thường trụ, mãi mãi bất diệt.



    5. Nặc Cự La (S: Nakula hay Vakula):
    Thiền Định A La Hán: Vị tôn giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú tại Nam Thiệm Bộ châu.

    Theo truyền thuyết, Ngài vốn là một võ sĩ tráng kiện. Ngài từ bỏ cuộc đời đánh đấm giết chóc để xuất gia tu đạo, và cuối cùng chứng quả thánh nhờ thường tu thiền định. Tuy nhiên, vì xưa kia vốn là một võ sĩ, Ngài vẫn vận dụng sức lực ngay cả những lúc hành thiền. Theo truyền thuyết, sự gia trì của Ngài rộng khắp xứ Ấn Độ, và được xem là một trong những vị đại đệ tử của Phật. Đôi khi, Ngài có hình ảnh của một vị thầy, tay cầm tràng chuỗi, với một chú tiểu đứng cạnh. Đại sư Thiền Nguyệt vẽ tượng Ngài ngồi trên phiến đá, hai tay cầm cây Như Ý có hình dáng như đứa bé, đặt trên vai trái, dáng như đang gãi lưng. Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hìng tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá, tay phải nắm lại, đặt trên ngực, tay trái cầm phất trần đặt trên gối. Danh tánh của Ngài thường được đề cập đến trong kinh điển. Tuy chứng quả A La Hán, Ngài sống đời đơn độc, ít muốn biết đủ, không có đệ tử, và chưa bao giờ thuyết một bài pháp nào. Ngài chưa từng có thân bịnh, và sống rất lâu. Khi đến thăm ngọn tháp của Ngài, vua A Dục chỉ cúng dường một xu vì tâm không tôn kính Ngài. Do đó, Ngài chẳng nhận sự cúng dường đó.



    6. Bạt Ðà La (S: Bhadra), hay Bồ Đề Đa La (Bodhidruma):
    Vị tôn giả này cùng 900 vi A-la-hán, phần lớn cư trú tại xứ Tích Lan hay Nam Dương.

    Vì Ngài được sanh ra dưới cội cây Bồ Đề nên mới có danh tánh Bồ Đề Đa La (Bodhidruma). Theo truyền thuyết, Ngài có công hoằng hóa ở vùng Đông Ấn, và từ đó Ngài theo thương thuyền vượt biển sang những xứ Nam Dương hay Tích Lan hoằng pháp. Ngoài ra, theo kinh điển, Ngài vốn là anh em họ và cũng là đại đệ tử của Phật. Ngài là một vị luận sư, thuyết giảng lời Phật dạy rõ ràng rành mạch. Do đó, Ngài có hình ảnh tay cầm kinh điển để biểu hiện sự thuyết giảng.




    7. Ca Lý Ca (S: Kàlika): Vị A La Hán cỡi Voi:
    Vị tôn giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tăng Già Trà châu.

    Ca Lý (Kali) tiếng Phạn nghĩa là voi, và Ca Lý Ca tiếng Phạn nghĩa là nài voi hay người cỡi voi. Vì loài voi có sức lực mạnh mẽ, nên trong đạo Phật, chúng được biểu trưng cho đại hạnh. Ngài vốn là một vị chăn voi, nhưng xuất gia, tu đạo chứng quả A La Hán. Để nhớ đến nghề nghiệp xưa của Ngài, hình ảnh Ngài thường có một con voi đi cùng.

    Ngoài ra, Ngài còn được gọi là Sư Tử Vương Kala, rất được vua Tần Bà Sa La kính trọng. Ngài thường có hình ảnh ngồi đọc kinh hay ngồi thiền, hoặc tay cầm lá cây.




    8. Phạt Xà La Phất Ða La (S: Vajraputra):
    Sư Tử Hỷ A La Hán: Vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu.

    Trước khi xuất gia, Ngài vốn là thợ săn sư tử. Sau khi chứng quả thánh, một con sư tử con đến đùa nghịch bên cạnh Ngài, vì cảm nhận và tri ơn Ngài đã từ bỏ cuộc đời săn sư tử; nghĩa là tha tánh mạng cho sư tử cha, mẹ, anh, chị em của nó. Từ đó, Ngài và chú sư tử con không bao giờ tách biệt. Sư tử tượng trưng cho trí huệ trong đạo Phật, vì tiếng rống của nó làm muôn loài đều sợ hãi. Do đó, trước các cổng chùa thường có một cặp sư tử bằng đá canh gác. Theo kinh Thị Giả, Trung A Hàm 8, sau khi đức Phật nhập Niết Bàn không lâu, một hôm Ngài ngồi dự trong hàng thính chúng để nghe ngài A Nan thuyết pháp. Ngài nhập định thấy ngài A Nan chưa ly dục, liền xuất định thuyết kệ cho ngài A Nan. Vì vậy, ngài A Nan nhân đó thọ giáo với Ngài và rời đại chúng, tinh tấn tu hành đến khi chứng quả A La Hán.



    9. Thú Bát Ca (S: Jìvaka), hay Nhung Bác Ca, hay Cù Ba Ca (Gobaka), hay Oa Ba Ca:
    Khai Tâm A La Hán: Vị tôn giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Hương Túy.

    Ngài là một hoàng tử của một tiểu quốc ở Ấn Độ. Khi Ngài được đăng quang làm thái tử thì hoàng đệ đem quân phản kháng. Tuy nhiên, Ngài trấn an ông hoàng đệ rằng Ngài muốn xả bỏ vương vị để xuất gia vì Ngài có một tượng Phật trong tim của mình. Để chứng minh, Ngài cởi áo, vạch ngực cho ông hoàng đệ xem, và quả thực có một vị Phật ngay trong tim của Ngài. Ông hoàng đệ từ đó tin tưởng Ngài và không còn phản kháng. Sau đó Ngài xuất gia và qua Trung Quốc hoằng pháp vào khoảng đời Đường.

    Last edited by Bin571; 14-11-2007 at 10:00 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •