Thánh Mẫu Với Tây Hồ

Đương lúc cao hứng ngâm vinh về Tây Hồ, họ lồng tâm tư của mình vào xã hội đương thời - Thế kỉ XVI, chiến tranh giữa nhà Mạc và Lê - Trịnh.Họ muốn cuộc sống thanh bần, không quị luỵ mưu cầu công danh giàu sang trong thời buổi nhiễu nhương,

Khi ấy Phùng Khắc Khoan đi xứ phương Bắc mới về trông coi việc bộ Lại. Việc quan bận rộn giấy tờ chất đống suất ngày không lúc nào được thư thái. Tuy vậy có lúc ông nhớ lại những danh lam cổ tích đã đi qua như Động Đình, lầu Hoàng Hạc, lầu Nhạc Dương, sông Xích Bích…là thắng cảnh của Trung Quốc, lại luyến tiếc buổi phóng khoáng và ngán ngẩm cảnh phiền nhiễu quan trường ông nhớ câu thơ của Sầm Lấu Tử:



“ Soa lạp duyên hồ vinh bội ấn

Tang ma hề đá thắng phong hầu ”

( Tơi nón dạo chơi bên hồ thúi hơn cảnh làm quan

Cùng với dâu gai đồng nội vui hơn được phong hầu )

Ngẫm lời thơ khiến Phùng Công tính chuyện nhàn du cho tinh thần khuây khoả. Ông cùng cử nhân họ Ngô, tú tài họ Lý đến Tây Hồ dạo chơi. Hôm ấy là ngày đầu hạ, trời trong sáng, mây lững lờ trôi, ba người thăm cảnh Hoàng đình thuỷ tạ, lại ngắm dài “Thượng Lâm ” và phút chốc tới Tây Hồ, nhân cản hứng, tú tài liền bảo Phùng Công:

- Ngài học giầu năm xe, tài cao bẩy thước sao gặp lúc trời quang cảnh đẹp lại không thi hứng?

Phùng Công nghe bạn nói liền ngâm:

“ Danh lợi bôn ba nhất phiến trần

Tây Hồ thốn bộ hốt nhân thân

Bồng Lai phương thượng giai hư huyền

Thuỷ tín Tiên phàm tống tại nhân ”

( Danh lợi bon chen một lẽ đời

Tây Hồ phóng bộ nhàn dạo chơi

Cảnh Tiên chốn Phật đều hư ảo

Tiên phàm cốt chỉ sống thảnh thơi ),

Nghe song Ngô cử nhân tiếp lời :

“ Oánh nhiên phương thốn tục trần vô

Bao khoát càn khôn nhất hoạ đồ

Tễ nguyệt quan phong tuỳ sái lạc

Mục trung hà xứ bất Tây Hồ ”,

( Những mong quets sạch bụi trần nhơ

Thâu tóm đát trời chung hoạ đồ

Trăng trong gió mát chiều du khách

Nào đâu hơn cảnh chốn Tây Hồ ”

Lý tú tài nghe thơ song tiếp tục ngâm :

“ Hoa nghinh khách điếm liễu nghinh thuyền

Tận nhật Tây hồ tận tuý miên

Tỉnh khởi thi đàm kinh tứ hoạ

Thử thân ưng thị trích thần tiên ”

( Hoa cầo khách đến liễu mừng thuyền

Ngày đẫy Tây Hồ ngủ triền miên

Tỉnh giấc bàn thơ tin khắp chốn

Thân này ví tựa tiểu thần tiên ).

Nghe song thơ của hai bạn, Phùng Công vui vẻ nói:

- Thơ Ngô huynh thanh kì, tứ thơ của Lý huynh phóng dật, tuy vậy khí hai huynh có khác nhau, nhưng đều là tuyệt diệu, đáng là thiên tài vậy!

Ngô và Lý đều nói :

- Tứ thơ của lão đại thâm trầm lỗi lạc, chính là phong cách đại gia. Chúng tôi thuộc hàng vãn bối, bắt chiếc chưa nổi có đâu xứng dáng với lời quá khen của ngài.

Tuy vậy cung quảng không xa, cành quế lại gần, biết đâu Hằng Nga lại đem lòng yêu kẻ sĩ si tình này vậy ?

Nghe vậy cả ba người đều phá lên cười vui vẻ, rồi lại tiếp tục bách bộ ven hồ. Bỗng thấy một toà “ tửu lâu ” dưới bống hoè, cùng hàng trúc. Trước quán có biển đề : “ Tây Hồ Phong Nguyệt ”, bên cửa có câu đối:

“ Hồ trung nhàn nhật nguyệt

Thành hạ tiểu càn khôn ”

( Ngày thánh an nhàn cùng bầu rượu

Dưới thành như thu nhỏ vùng trời ).

Trong quán thấp thoáng bóng người mặc áo đỏ xinh tưoi đứng cạnh cửa sổ,Lý sinh đứng trước tửu lâu hỏi:

- Đây là nơi nào? Chúng tôi quá bước nhầm cõi, muốn nhờ quí trang mượn làm nơi tháng hội “ Lan Đình ” liệu có được phép chăng ?

Người trong quán thưa:

Đây là quán hàng của Liễu Nương, các vị là người thi tửu ngồi chốc lát hẳn có hại gì .

Nói song liền sai thị nữ cuốn rèm cửa, ba người đĩnh đạc bước vào ngồi ở cửa sổ phía nam dùng rượu, bước đầu họ cảm nhận sự trang nhã trong quán, trước thềm còn có chim oanh vũ líu lo, trên tường còn treo một bức tranh cổ và những cổ thi đường nét tuyệt diệu. Hương sen thoảng đua từ hồ vào gây cảm giác thơm mát dễ chịu.

Liễu Sinh đưa mắt nhìn bài thơ tứ tuyệt ở tường phía đông:

“Điểm phương môn nội chiếu minh nguyệt

Thời chính nhân bàng lập thổ khuê

Khách hữu tâm tinh cầu nguyện đới

Huệ nhiên nhất mộc lưỡng nhân đề ”.

Lý Sinh có ý hỏi Phùng Công ý bài thơ, Phùng suy ngẫm chưa trả lời thì Lý Sinh đem bốn câu tứ tuyệt đoán triết thành chữ : “Điểm phương nhân - Thời chính khai – Khách hữu tâm - Huệ nhiên lai ”.

Tạm dich:

Quán đương rỗi

Ngày rất tốt

Khách có lòng

Mời tới chơi .

Đoán chữ song, nhân ngà ngà chén rượu Lý Sinh nói lớn :

- Chủ nhân có lòng mời khách đến chơi, nay khách đã đầy nhà mà để ngồi xuông vậy sao ?

Nói vừa dứt thì thị nữ mang một bức hoa tiên đến nói :

Chủ nhân tôi nghèo không có gì kính tặng, nay có bài thơ dâng rong khi tửu hứng, nếu quí khách không tiếc lời vàng ngọc hẳn là cuộc đàm thoại nhân ngày gặp gỡ.

Lý Sinh tiếp lấy đề thi, xem ra bài thơ “Tây Hồ quan ngự ” ra vẻ suy nghĩ, Phùng Công nói lớn :

Chúng tôi xin tiếp nhận nhã ý của chủ nhân, xin sẽ liên ngâm, hiểm vì tài non thơ kém, muốn có điều “ dương xuân ” do chủ nhân mở đầu liệu có được chăng :

“ Tây hồ biệt chiếm nhất hồ thiên ”

Lý Sinh tiếp :

“ Túng mục kiền khôn tân khoát nhiên,

Cổ thụ nhiều trang thanh mịch mịch ”

Phùng Công ngâm tiếp :

“ Kim ngưu thoát thuỷ lục quyền quyên

Sinh nhai hà xứ sổ gian ốc ”

Ngô Sinh :

“ Hoạt kế thuỳ gia nhất chích thuyền

Các trúc sơ ly văn khuyến phệ ”,

Rồi ba người nói tiếp xướng hoạ …cuối cùng Phùng Công xướng câu: “ Văn chung xa giác tâm vi Phật ”,

Bỗng trong lầu có người tiếp câu :

“Đắc nguyệt ưng tri ngã thị Tiên ”.

Ba người đều khen :

Thật là câu kết hay .

Tạm dịch bài thơ như sau :

Hồ Tây riêng chiếm một vùng trời

Phong cảnh thiên nhiên tự đầy vơi

Cổ thụ quanh nhà xanh xanh thẳm,

Trâu vàng vùng vẫy nước trắng ngời

Vài gian nhà nhỏ che mưa nắng

Một chiếc thuyền câu kế mưa sinh

Ấm trà bên vách nghi ngút khói

Cánh giậu cài thưa chó sủa rinh

Chèo quế thênh thang nhè nhẹ đẩy

Tơi nón đó đây vẫn lướt hoài

Văn cảnh Động Đình kìa Phạm Lãi

Cưới bè Trương Khiên đến mọi nơi

Nghìn tầm nông sâu đều đã rõ

Vật vờ bốn phía cảnh chơi vơi

Vững chèo khoan nhặt lau lách lướt

Hò khoan tiếng hát sú vẹt trôi

Bạn cùng cò cốc trên bãi cát

Lại đó diều hâu mặt biển khơi

Mấy khúc hát ca trên biển cả

Một đôi mắt trắng phớt sự đời

Kìa ai lã súng hái làm tiền

Nón thả mặt hồ rau chẳng héo

Giỏ ngâm dưới nước cá vẫn tươi

Chén rượu trong hoa say say khướt

Gác chèo bóng liễu tựa gối mềm

Say rồi quẳng giỏ trên hồ nước,

Tắm gội song rồi hóng nắng mai

‘ Mục đồng trẻ kia là bạn mới

Tiều phu vốn biết lẽ nào quên

Ôm gối chờ xem dời “ giành giật ”

Ngọc trai lắm kẻ hám rình thèm

Lưới trời lồng lộng đâu có sót

Lưỡi thẳng mồi ngon lại chẳng màng

Trời dẫu sang hè còn ưa nắng

Đông dù đã hết năm vẫn dài

Công danh ví đổi cùng mây khói

Thanh cao không mắc tục luỵ xiềng

Sống vị Thuỷ chẳng nghe lời bói

Nghe chuông luống tưởng tâm là Phật

Trăng tỏ mới tường Tiên Nữ đây !

Đương lúc cao hứng ngâm vinh về Tây Hồ, họ lồng tâm tư của mình vào xã hội đương thời - Thế kỉ XVI, chiến tranh giữa nhà Mạc và Lê - Trịnh.Họ muốn cuộc sống thanh bần, không quị luỵ mưu cầu công danh giàu sang trong thời buổi nhiễu nhương, nhưng họ vẫn yêu quí thiên nhiên đất nước và tràn ngập tâm hồn thi sĩ, hướng tới chân, thiện, mỹ của dân tộc. Bỗng có người đem cá đến, rồi chủ quán sai người đem cá làm gỏi,chừng nửa tiếng sau đã có người bưng mâm ra và người vhur quán mặc áo hồng xinh đẹp ra ngồi xuống ghế nhẹ nhàng thưa :

Được các thi nhân tới thăm, quán tôi xin có món ăn nhỏ đáp lại thịnh tình, mong chư vịu thông cảm.

Thấy vậy Ngô Sinh nói :

Chúng tôi tự tiện đến chỗ tôn nghiêm, thực lòng thấy sợ hãi và hổ thẹn.

Lý Sinh vội ngắt lời bạn và đem chuyện ngư nhân đem giỏ cá đến lại ngâm bài thơ hỏi củu quán. Chủ quán nhẹ nhàn triết lý, khiến ba người khâm phục và đoán nàng có lẽ là người trời chăng ?

Lại khi nghe người Tiên ra vế đối :

“ Tam ngư Tiên khoái, lầu tiền hội chứng khoán tâm nhân ”

( Ba cá làm gỏi trước quán cùng mời ba vị khách ).

Phùng Công đối:

“ Lưỡng cá chúc diện, hồ thượng diên bằng khan lưỡng nguyệt ”

( cùng mâm tiệc trúc trên hồ mời bạn ngắm trăng )

Còn Lý Sinh lại đọc:

“Nhất nguyệt sắc trừng minh hứng thử chỉ kham thành nhất đối ”

( Ba ngàn dặm xa cách nhìn thôi tưởng đã phúc ba đời ) .

Đọc song người đẹp vái chào lời vạn phúc rồi đi vào trong quán. Ba người cũng tạm biệt ra về, mang trong lòng suy tư về một tửu quán kì lạ, một bà chủ quán đẹp xinh lại uyên thâm siêu phàm thật đáng kính nể.

Ít ngày sau ba người trở lại Tây Hồ, thì chỉ thấy hồ nước mênh mông, lâu dài, quán cũ không thấy và trên thân cây có đề dòng chữ :

“ Nhất đại sơn nhân ngọc Quỳnh Hoa ”

Nghĩa là:

Chủ quán Tấy Hồ hôm trước là người Tiên tên là Quỳnh Hoa.

Thấy vậy Phùng Công liền kể cho hai bạn nghe chuyện gặp Công Chúa Liễu Hạnh khi đi sứ về qua Lạnh Sơn