kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Báu vật của Vua Hàm Nghi

  1. #1

    Mặc định Báu vật của Vua Hàm Nghi

    Báu vật của Vua Hàm Nghi

    Hơn 120 năm qua, không biết bao nhiêu người đã cố công kiếm tìm nhưng chưa ai thấy được những báu vật của Vua Hàm Nghi. Không ngờ rằng, một phần các báu vật lại được lưu giữ tại một vùng quê nghèo khó miền sơn cước.


    Từ câu chuyện lịch sử, Vua Hàm Nghi và các triều thần yêu nước, rời kinh thành Huế ra các tỉnh miền núi phía bắc miền Trung, khởi hịch Cần Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên phò vua, giúp nước chống Pháp từ năm 1885 đến 1888, trong dân gian từng lưu truyền nhiều giai thoại về các báu vật đức vua mang theo được cất giấu bí mật trên những nẻo đường.

    Hơn 120 năm qua, không biết bao nhiêu người đã cố công kiếm tìm nhưng chưa ai thấy được những báu vật của Vua Hàm Nghi.

    Không ngờ rằng, một phần các báu vật lại được lưu giữ tại một vùng quê nghèo khó miền sơn cước có tên gọi là thôn Phú Hòa, làng Phú Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh - nơi có thành Sơn Phòng từng được Vua Hàm Nghi đặt đại bản doanh “thủ đô kháng chiến” trong phong trào Cần Vương.

    Những báu vật

    Hơn 120 năm về trước, khi được hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phò lên làm vua, đức vua Hàm Nghi không thể ngờ rằng, những tháng năm vương triều tuy ngắn ngủi nhưng oanh liệt của mình, không chỉ để lại hình ảnh bất tử của vị quân vương yêu nước gắn liền với phong trào Cần Vương chống Pháp, mà còn làm cho lòng dạ nhân gian nhuốm màu huyền sử về những báu vật mà ngài mang theo trên những chặng đường kháng chiến nơi sơn dã vùng bắc miền Trung.

    Từ trước đến nay, dù hao tổn công sức trong sự vô vọng, nhưng việc tìm kiếm báu vật đã diễn ra tại vùng rừng núi Minh Hóa, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình, nơi được xem là căn cứ địa cuối cùng của Vua tôi Hàm Nghi. Không ai hay rằng, một số báu vật huyền thoại ấy lại được lưu giữ trong một ngôi làng hẻo lánh ở vùng Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, một địa danh giáp giới với hai huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa của đất Quảng Bình!

    Tôi không bao giờ quên giây phút nhà thơ Võ Hồng Hải, Phó giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tĩnh, với nét mặt nghiêm trang nói với tôi:

    - Hôm nay tôi và nhà văn Đức Ban - Giám đốc Sở sẽ dành cho anh một món quà năm mới Đinh Hợi. Đó là sẽ đưa anh đi gặp các báu vật của Vua Hàm Nghi ở huyện Hương Khê, mà ngay cả chúng tôi đây cũng chưa bao giờ được nhìn thấy!...

    Hương Khê! Miền đất tôi đã in dấu chân 10 năm qua, chỉ với một ý niệm những mong tìm lại hình ảnh tháng năm thiếu sinh quân của người cha yêu dấu, lại là nơi cất giấu báu vật của Vua Hàm Nghi? Tôi không dám tin vào những gì anh Võ Hồng Hải nói! Nhưng mọi tồn nghi trong tôi đã bắt đầu chìm khuất dưới tiếng trống của dân làng Phú Gia vang lên khi xe đưa chúng tôi vượt qua đường Hồ Chí Minh, luồn sâu vào ngõ làng thôn xóm Phú Hòa.

    Đón chúng tôi ngay từ trước ngõ, là một cụ già có khuôn mặt hiền từ trong tà áo dài tím. Cụ già làm tôi ngỡ ngàng như gặp lại một cựu binh Cần Vương hiện về giữa làng quê Phú Gia. Đó chính là Đạo chủ Trần Văn Nhung, 78 tuổi, người được dân làng Phú Gia giao phó trách nhiệm lưu giữ báu vật của Vua Hàm Nghi!

    Tôi bước vào ngôi nhà tranh vách nứa, cảm thấy sự linh thiêng khi nhận ra trên bàn thờ đơn sơ một bát hương nghi ngút khói và một linh ảnh Vua Hàm Nghi uy nghiêm.

    Trước bàn thờ nhuốm màu huyền bí của miền sơn cước ấy, cụ Trần Văn Nhung cử hành những nghi lễ với tiếng chiêng thanh tao, tiếng trống u trầm, hòa quyện lời nguyện cầu linh thiêng, không phải cho gia đình, cũng không phải cho làng Phú Gia, mà cho quốc thái dân an.

    Sau nghi lễ, cụ Trần Văn Nhung bước vào gian thờ, kính cẩn nâng trên tay một cặp song kiếm hoen bụi thời gian. Cặp kiếm dài chừng nửa mét, lưỡi kiếm sắt, chuôi gỗ chạm hình phượng sơn son. Một nỗi niềm xúc động dâng trào khi đôi tay tôi đón nhận cặp kiếm. Ôi đức vua Hàm Nghi! Vị quân vương yêu nước 120 năm trước đã từng cầm thanh kiếm này trên tay, khởi hịch Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và con dân đứng lên phò vua giúp nước đuổi giặc!

    Dưới trướng của đức vua là đại thần Tôn Thất Thuyết, là anh hùng Phan Đình Phùng vang bóng thời gian bởi khí phách hùng cường ở căn cứ địa Vũ Quang!

    Chưa hết sửng sốt vì đôi kiếm, tôi lại bàng hoàng khi nhìn thấy cụ Trần Văn Nhung, được sự trợ giúp của bà con dân làng, tiếp tục bày lên sạp chiếu đặt trước bàn thờ nhiều báu vật khác.

    Trong chiếc hộp thiếc, 3 con voi hiện ra, hai vàng một đồng. Voi bằng đồng được đúc theo tư thế voi đang lâm chiến, vòi dài uốn cong vào tai phải, đuôi quặt mông cùng chiều bên phải, tai áp sát cổ, ngà cụt. Thân hình voi gầy, toàn thân lấm chấm lông. Voi vàng tạc theo tư thế đứng nhàn nhã, vòi buông thẳng, ngà nhọn, mắt tròn, có nịt cổ và mang ngai vàng trên lưng.

    3 con voi tuy kích thước nhỏ, con lớn nhất cao 4 cm, dài 7cm, lưng rộng 2,5 cm; con nhỏ nhất cao 2,5 cm, dài 3 cm, lưng rộng 1 cm, nhưng đều toát lên dáng vẻ uy nghi vì nét chạm trổ sinh động. Chỉ với nghệ thuật chạm trổ tinh xảo như vậy, 3 con voi đã xứng danh là báu vật quốc gia chứ chưa nói đến giá trị lịch sử.

    Người làng kể lại, vào năm 1936, một trong 2 con voi vàng bị Lê Yêm, con trai của cố đạo chủ giữ báu vật Lê Triết, mang sang Lào bán để lấy tiền mua đàn bò. Nhưng trên đường trở về, Lê Yêm đã bị một con bò húc vào bụng chết ngay tại chỗ! Chưa hết! Người bạn đồng mưu với Lê Yêm là Lưu Duyên ở nhà bỗng nhiên phát bệnh điên, đem con đẻ của mình bỏ vào nồi nước sôi.

    Kinh hãi vì thấy cảnh ấy, người vợ của Lưu Duyên đã chết đứng! Người Lào nghe chuyện, hoảng sợ làm lễ mang voi vàng trả lại cho dân làng Phú Gia.

    Sau 3 con voi, là nghê đồng và chuỗi lục lạc 35 cái gắn màn gấm dành cho Vua Hàm Nghi. Nằm nghỉ trong chiếc màn lục lạc này, Vua Hàm Nghi xưa kia đã có bao nhiêu giấc ngủ an lành hay bao nhiêu đêm suy tư vì nợ non sông chưa báo đáp!

    Thời gian đã phôi pha màu đồng nguyên chất của từng hạt lục lạc nhưng lạ thay vẫn còn những bộ áo mũ triều thần, đặc biệt là 2 chiếc áo hoàng bào và chiếc áo lót của đức vua vẫn nguyên màu vàng tươi. Không một chút tì vết hay sờn mòn, mọi đường kim mũi chỉ thêu hoa văn rồng bay, phượng múa như vừa mới rời khỏi bàn tay thêu thùa của tỳ nữ nào đó, ánh lên sắc vàng lấp lánh trong chiều tà buông xuống hiên nhà.

    Áo này Vua từng mặc khi lâm triều. Đạo chủ Trần Văn Nhung, dường như không cho tôi mải mê cảm xúc huyền sử, lại mang ra sạp chiếu lấy ra một loạt lò hương, cờ lộng, tàn quạt và 37 đạo sắc phong rực rỡ hoa văn. Đó là những đạo sắc phong có từ thời Vua Minh Mạng đến Khải Định phong cho các vị thần ở miếu Trầm Lâm và đền Công Đồng.

    Trong những đạo sắc phong ấy, có một đạo sắc làm tôi chú ý vì không có hoa văn trang trí như thông lệ. Hỏi ra mới biết đó là sắc phong của chính Vua Hàm Nghi phong thần cho “Hầu công kiến quốc nguyên Huân Dương chính tướng quân”. Sắc phong ghi rõ: Hàm Nghi nguyên niên, cửu nguyệt, nhị thập ngũ nhật. Trên dòng chữ niên hiệu vua, không đóng đại triện hình vuông như thường thấy, mà chỉ đóng tiểu triện hình bầu dục nhỏ!

    Hàm Nghi nguyên niên, cửu nguyệt, nhị thập ngũ nhật! Ngày 25/9/1885, vậy là 122 năm 5 tháng 13 ngày trôi qua, tôi mới được đón nhận ân huệ đọc được ý niệm của đức vua qua những dòng chữ tôn vinh những tấm lòng xả thân vì nước! Ngày đó, giữa muôn trùng gian khó giữa rừng sâu bủa vây quân thù, nhưng Vua vẫn không quên những tấm lòng tận tụy vì nước vì dân mà ban sắc phong này cho Dương tướng công - vị tướng trấn ải vùng biên cương Tổ quốc thời Lê!

    Trước tấm lòng cung kính của dân làng Phú Gia, về giá trị lịch sử của những báu vật tôi như vẫn bàng hoàng chưa tin rằng, chính đôi mắt mình đã thấy, chính đôi tay mình đã cầm và vì làm thế nào nơi này, cách trở núi sông, trong ngôi nhà tranh vách nứa của một người dân quê mùa lại lưu giữ báu vật của Vua Hàm Nghi?

    Bảo tàng trong lòng dân

    Sử chép, sau khi từ kinh thành Huế xuất bôn ra Tân Sở, Quảng Trị, Đại thần Tôn Thất Thuyết và các triều thần tiếp tục phò giá Vua Hàm Nghi, lặn lội theo đường thượng đạo Trìm - Trẹo, vượt đèo Quy Hợp, về lưu trú tại Hương Khê.

    Tại đây, Vua Hàm Nghi chọn thành Sơn Phòng làm đại bản doanh và ban bố hịch Cần Vương lần 2. Thành Sơn Phòng chính là tòa thành bằng đất nằm ở làng Phú Gia.

    Gần Sơn Phòng có miếu Trầm Lâm, tục gọi là miếu Trăm Năm, thờ phụng “Đức Thánh Mẫu Trầm Lâm kiêm lục quốc thanh y anh linh diệu linh ứng thiên thần”, vị thần từng được các triều vua Lê - Nguyễn phong là “Thượng Thượng đẳng tối linh thần”. Cùng với miếu Trầm Lâm, còn có đền Công Đồng thờ “Đô Đô thống chế hùng thắng đại tướng quân”, vị tướng trấn ải vùng biên cương Tổ quốc và “Đức bẩm linh thông tổng quản Ngọc Khê hầu” tức Dương tướng công, vị tướng được tôn làm Thành hoàng bản xứ làng Phúc Ấm.

    Theo truyền ngôn của dân làng, vào đêm 20/9/1885, một đêm trời không trăng sao, Vua Hàm Nghi vừa chợp mắt liền được nữ thần Thanh Y báo mộng rằng, bọn bạch quỷ (quân Pháp) đang đưa quân bao vây, cần phải định liệu rút ngay. Tỉnh dậy, Vua sai Tôn Thất Thuyết vào tạ lễ ở miếu Trầm Lâm.

    Năm ngày sau, ngày 25/9/1885, trước khi rời đến vùng Minh Hóa Quảng Bình, Vua Hàm Nghi đã ra sắc phong và ban tặng nhiều phẩm vật quý giá để các vị thần, bày tỏ lòng tri ân người dân địa phương đã phò vua, giúp nước.

    Cảm tạ giấc mộng huyền thoại của Vua Hàm Nghi! Những bảo vật Vua ban cho miếu Trầm Lâm và đền Công Đồng, chính là những báu vật được trưng bày tại nhà đạo chủ Trần Văn Nhung, thành Sơn Phòng. Miếu Trầm Lâm, đền Công Đồng nay đã hoang phế trong mắt nhân gian, nhưng vẫn như thuở nào vua tôi đùm bọc nhau trong cảnh binh đao, 120 năm qua, dù bao thăng trầm thời đại đổi thay với bao phen binh lửa, đói kém mùa vụ, người dân Phú Gia vẫn kiên trung lưu giữ báu vật mà từ trước đến nay người đời chỉ biết trong huyền sử.

    Theo truyền thống, dân làng Phú Gia hàng năm bầu chọn người lưu giữ luân phiên với thời gian 1 năm cho một gia đình. Người được lựa chọn phải có nhân cách đạo đức tốt, trung thành và chịu trách nhiệm bảo quản. Mỗi dịp Xuân sang, khi chuyển giao cho nhà khác, dân làng lại tổ chức lễ nghi phơi cúng và rước báu vật đến nơi ở mới cùng bàn thờ linh ảnh của Vua Hàm Nghi.

    Hơn 120 năm qua, nhờ lòng thành của người dân, các bảo vật của Vua Hàm Nghi vẫn y nguyên nhưng tiếc rằng, do cách bảo quản còn thô sơ trong thùng gỗ nên một số báu vật đồ vải và giấy bắt đầu có hiện tượng hư hỏng. Trao đổi với tôi, nhà văn Đức Ban và anh Sáng - Phó chủ tịch huyện Hương Khê cho biết, mặc dù đã biết tin mấy năm nay nhưng đây là lần đầu tiên được thấy trực tiếp những báu vật này.

    Thật may mắn khi Sở Văn hóa - Thông tin và tỉnh Hà Tĩnh đang tiến hành dự án bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích thành Sơn Phòng, đền Cống Đồng và miếu Trầm Lâm nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng - một trong những lãnh tụ của phong trào Cần Vương. Trong dự án này, vấn đề giúp người dân bảo tồn báu vật của Vua Hàm Nghi được đặt lên hàng đầu với sự tham gia trực tiếp của người dân Phú Gia.

    Cụ Trần Văn Nhung chậm rãi nói: “Bảo vệ di vật của vua, là bảo vệ tín vật của giang sơn đất nước chứ đâu phải bảo vệ của cá nhân ai! Dân làng chúng tôi tự hào là không quên vua, không quên ơn nước nhà"


    Văn Cầm Hải

  2. #2

    Mặc định

    Trình báo về 4 giếng vàng của vua Hàm Nghi
    Ông Lê Ổn (80 tuổi, đại tá quân đội về hưu) vừa thông báo cho UBND Quảng Bình 4 giếng giấu vàng sâu khoảng 8 m. Theo ông, đây là nơi giấu vàng của vua Hàm Nghi sau khi đem quân tới trú trong khu vực thành Nhà Ngo (thành Chăm) để chuẩn bị đi tiếp lên vùng núi Tuyên Hóa.

    UBND tỉnh Quảng Bình vừa tiếp nhận thông tin về các giếng giấu vàng của vua Hàm Nghi ở xã Liên Thủy (Lệ Thủy) từ ông Lê Ổn, phường Bắc Nghĩa, Đồng Hới.

    Theo ông Ổn, năm 15 tuổi ông đã tận mắt thấy một giếng ở làng Uẩn Áo, xã Liên Thủy, mà theo các cụ từ đời cố sơ của ông truyền lại chính là các giếng giấu vàng của vua Hàm Nghi. Trước đây có rất nhiều tấm đá màu đen và nhiều tượng ngoài đá trắng, trong đá đen tại khu vực này.

    Cách đây hơn 10 năm, một tốp người ở Huế ra đào bới giếng và lấy lên nhiều gạch đá từ một đám ruộng, nhưng chính quyền địa phương ngăn chặn nên họ đã bỏ cuộc.

    (Theo Tuổi Trẻ)


    ---------------------

    4 giếng vàng của vua Hàm Nghi qua lời vị đại tá


    Năm 15 tuổi, trong một lần đi chăn trâu, đại tá Lê Ổn được một người dân trong làng nhờ xuống xem một cái giếng đang đào giữa ruộng. Dưới đáy có một tảng đá màu đen, vuông vức, trông rất lạ. Sau đó ông Ẩn về kể với ông nội và được biết đó là nơi đánh dấu giếng giấu vàng của vua Hàm Nghi.


    Ông Ổn đang kể về giếng vàng. Ảnh: Tiền Phong.
    Năm 1945, ông Lê Ổn vào bộ đội, năm 1985 ông về hưu. Bây giờ ông sống trong căn nhà nhỏ ở phường Bắc Nghĩa, thành phố Đồng Hới (Quảng Bình). Đã bao năm qua, ông nghe được nhiều điều về số vàng của vua Hàm Nghi giấu ở quê mình - làng Uẩn Áo (xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy).

    “Từ tháng 3 đến 8/2006, tôi ốm một trận tưởng chết. Nghĩ chết là sẽ mang đi hết những bí mật về vàng vua Hàm Nghi mà tôi biết được, nên đã quyết định báo với chính quyền...” - ông Lê Ổn thổ lộ.

    Sinh ra ở làng Uẩn Áo, tuổi nhỏ ông thường chăn trâu cắt cỏ khắp các cánh đồng làng, bên những di tích còn lại của thành Nhà Ngo thời Chăm. Trong đó ông nhớ mãi những chuyện người xưa đã kể về đoàn quân của vua Hàm Nghi khi chạy giặc đã trú lại ở thành Nhà Ngo, trước khi ngược lên miền Tuyên Hóa, Minh Hóa lập căn cứ chống Pháp. Trong những câu chuyện ấy, chuyện về bốn cái giếng giấu vàng làm ông nhớ rất dai.

    Năm ông Ổn 15 tuổi, trong một lần đi chăn trâu, ông được một người dân trong làng nhờ xuống xem một cái giếng đang đào giữa một đám ruộng. Ông kể: “Tôi còn nhớ là người đó nói không biết mắc vô hòn đá chi ở phía dưới mà không đào tiếp được nữa. Lúc đó độ sâu của cái giếng đã khoảng 6-7m. Ông này mới nhờ bọn trẻ trèo xuống. Tôi xuống thấy ngay dưới đáy giếng có một tảng đá màu đen, vuông vức, nhẵn bóng, trông rất lạ. Sau đó tôi về kể với ông nội và cha thì các ông nói đó là nơi đánh dấu có giếng giấu vàng của vua Hàm Nghi”.

    Cùng chứng kiến chuyện xuống giếng này với ông là hai người bạn chăn trâu: ông Bảo (nay đã mất), còn một người nữa tên là Nhừng (đang sống ở TP HCM). Cả ba ông đều là đại tá quân đội về hưu. Theo ông cố sơ truyền lại cho ông Ổn, ngày xưa nhà vua đã từng đứng trên một tảng đá màu đen để nói chuyện với dân làng và quân sĩ.

    “Nghe đời cố, nội, cha tui truyền lại là có bốn giếng. Thời xưa vào mùa hè, ở chỗ các giếng này không có cây cối chi mọc lên được. Đến nay không biết là ở đó còn có hiện tượng này hay không”, ông Ổn nói tiếp.

    Ngoài ra, ông còn được truyền lại rằng tại một vùng trồng những bụi tre đằng ngà rất to trước đây ở làng Uẩn Áo cũng là điểm nhận biết về giếng giấu vàng. “Tôi sẵn sàng chỉ lối đến vùng có các giếng này, vì đó là làng tui sinh ra mà. Tuy nhiên bây giờ chắc là nó thay đổi nhiều lắm rồi”.

    Cách đây khoảng mười năm, có một người ở Huế ra xin ở lại làng Uẩn Áo làm nghề thợ mộc. Sau đó một đêm, có một tốp khoảng mười người cũng từ Huế ra đã đào bới trên một đám ruộng. Họ lấy lên nhiều gạch như loại gạch xây thành cổ Đồng Hới và vứt đầy ra ruộng. Người làng sau đó ra nhặt gạch về xây nhà cửa. Không ai biết họ đào tìm cái gì, khi trời sáng thì họ bỏ đi mất.

    Bí mật về một cái giếng giữa đỉnh đồi

    “Tại vùng đường 12 (đi cửa khẩu quốc tế Cha Lo, huyện Minh Hóa hiện nay) cũng có một giếng giấu vàng của vua Hàm Nghi. Tôi đã tận mắt thấy giếng này và tận tai nghe người dân tộc ở bản quanh đó kể lại”, ông Ổn cho biết thêm. Đó là vào năm 1955.

    Khi đó ông Ổn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 229, bộ đội biên phòng đóng ở vùng núi Cha Lo. Một hôm, sau chuyến trinh sát về, mấy người lính đã mách với ông là trên một đỉnh đồi có một cái giếng sâu, rất lạ, xung quanh trồng nhiều bưởi.

    Ông Ổn kể: “Lúc đó tôi không tin vì giữa rừng núi hoang vu như vậy mà lại có giếng nước?”. Hôm sau cánh trinh sát cầm về cho ông ba quả bưởi to để chứng minh. Lúc đó ông mới quyết định lên đồi tìm hiểu thực hư.

    Ông Ổn nhớ lại: “Đó là một ngọn đồi cao, cây cối rậm rạp. Bên trên ngọn đồi rất bằng phẳng. Giếng nước này nằm ngay trên đỉnh đồi. Xung quanh trồng khoảng 25-30 cây bưởi, gốc to lắm. Quả bổ ra có màu đỏ, ăn ngọt lừ. Nhìn xuống giếng thấy cây cối mọc chen chúc nên không biết được là sâu bao nhiêu mét, có cái chi bên dưới. Mới đầu cũng nghĩ chỉ là một cái hang thôi, sau vạch lá ra nhìn kỹ mới thấy xung quanh thành được xếp bằng đá rất đều nên mới chắc chắn đó là một cái giếng”.

    Theo ông Ổn, ngọn đồi này được người dân gọi là núi Kà Ai. Thời đó, cách chân núi không xa có một bản của đồng bào dân tộc ít người sinh sống, còn gọi là bản Kà Ai.

    Ông Ổn kể tiếp: “Thấy giếng lạ, lại nhớ đến những chuyện đời xưa kể về giếng giấu vàng của vua Hàm Nghi, nên tôi tìm gặp đồng bào ở bản hỏi về cái giếng này. Một già bản 95 tuổi, kể rằng cái giếng do một đoàn quan quân bắt người dân trong bản lên đào hơn nửa tháng mới xong. Già bản này cũng là một trong số những người làng bị bắt đi đào giếng”. Già bản nói rằng, đoàn quan quân đã đào giếng để giấu vàng.

    Vùng núi này đến nay ông Ổn vẫn còn nhớ, nhưng ông cũng không chắc là đến được chính xác ngọn đồi có giếng ấy. Qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, bom đạn đổ xuống, có thể đã làm thay đổi hình dáng của ngọn đồi xưa.

    "Một tháng nữa dân gặt xong. Lúc đó vị trí của các giếng vàng sẽ lộ rõ và có muốn khai quật cũng bớt đi sự đền bù thiệt hại. Tôi sẽ cùng các cấp chính quyền đến tận nơi và nếu có thể sẽ tiến hành khai quật. Bây giờ phương tiện hiện đại rồi, muốn kiểm chứng xem dưới giếng có vàng không và có bao nhiêu, tôi nghĩ không phải là quá khó", Ông Ổn nói.

    Cũng theo ông Ổn, sau Tết, ông đã báo cáo thông tin này cho Văn phòng UBND tỉnh và có gọi điện thoại cho Chủ tịch UBND tỉnh. Chuyên viên văn phòng đã thông báo thông tin trên cho Chủ tịch UBND huyện Lệ Thủy.

    Ông Võ Khắc Hòa, Chủ tịch UBND huyện Lệ Thủy thừa nhận có nghe Văn phòng UBND tỉnh thông tin về giếng vàng trên. Nhưng ông Hòa khẳng định rằng qua các lần kiểm tra xác minh, người dân trong vùng không hề biết chuyện đào trộm giếng vàng như ông Ổn nói.

    (Theo Tuổi Trẻ, Tiền Phong)

  3. #3

    Mặc định

    Kho báu của vua Hàm Nghi : Giai thoại hấp dẫn, sự thật đáng ngại!
    SGGP:: Cập nhật ngày 18/04/2007 lúc 16:12'(GMT+7)

    Những ngày gần đây, dư luận nóng lên về thông tin một người dân cung cấp nguồn tin của 4 giếng vàng cho UBND tỉnh Quảng Bình. Trước sự việc này, những tay đào trộm cổ vật - lâu nay hoạt động lặng lẽ - đã chuẩn bị ồn ào cho cuộc tìm kiếm mới. Thông tin về kho báu Vua Hàm Nghi lại được khuấy động…

    Những giai thoại “có cánh”


    Tráp gỗ sơn son của Vua Hàm Nghi được lưu giữ tại nhà cụ Nhung ở Hương Khê, Hà Tĩnh

    Trong dân gian hai huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa hiện nay vẫn tồn tại câu chuyện khi đoàn quan quân Vua Hàm Nghi đến tổng Thanh Lạng, bô lão và chức sắc đã đến diện kiến nhà vua. Tại đây người ta chứng kiến một tốp đông người khiêng hơn 50 gánh hành lý lớn (sau này nhiều người đoán trong đó chứa các vật quý). Thoạt đầu, vua ở nhà ông Đinh Hiền, sau đó đến Khe Ve - cách thị trấn Quy Đạt của huyện Minh Hóa ngày nay 5km.

    Những năm 1960, một người đi rừng ở Dân Hóa (Minh Hóa) phát hiện hai đống kim loại màu vàng nằm cách nhau một chiếc đòn gánh, ông lấy về lát hiên nhà thay cho gạch, sau mới biết đó là vàng. Ít lâu sau, mưa lũ làm bật gốc một cây cổ thụ để lộ rất nhiều vàng. Lúc đó, Ty Văn hóa Quảng Bình cho người lên thu lại. Thông tin này chỉ qua lời kể, chưa có cơ quan chức năng nào có ý kiến xác nhận chính thức nhưng dân gian lại cứ đồn thổi làm cho không biết bao nhiêu người cất công đi tìm.

    Người ta còn kể rằng, ở cầu Đò Vàng xã Thạch Hóa, huyện Tuyên Hóa, trước đây dòng sông Khe Nét chảy xiết đã nhấn chìm một đoàn thuyền gần mười chiếc chở đầy vàng của Vua Hàm Nghi khi đi qua đây. Vì sự tích này nên người dân đổi tên bến đò Khe Nét thành bến đò Vàng.

    Một số phát hiện ngẫu nhiên

    Cứ ngỡ thông tin kho báu Vua Hàm Nghi có thể đã lui vào dĩ vãng, nhưng vào năm 2003, tại nơi tiếp giáp giữa hai huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, trong một hang lèn, các trẻ chăn trâu phát hiện ra một số cổ vật, trong đó có cái tráp gỗ và một chìa khóa. Ban đầu mọi người nghi ngờ rất có thể đây là hướng tìm mới của kho báu Hàm Nghi.

    Một người trong ngành văn hóa xin giấu tên kể rằng có 1 tráp kim loại bằng bạc, một hộp kim loại hình trụ, 6 mặt chạm nhiều Hán tự, ngoài ra còn có 3 tráp gỗ lớn bé lồng vào nhau, cái ngoài cùng bị phân hủy, cái thứ 2 có vẽ một sơ đồ với 5 điểm chấm. Có người cho đó là sơ đồ kho báu, có người cho đó là sơ đồ bố trí hệ thống canh gác của nghĩa quân Cần Vương. Sau đó một năm, 2004, trên cánh đồng Nghèn (xã Thạch Hóa, huyện Tuyên Hóa), một số người dân đào phế liệu đã phát hiện khoảng 2 tấn tiền cổ trong hơn 20 cái chum sành. Số người này nhanh chân tẩu tán hết cổ vật, cơ quan chức năng đến chỉ “mót” được 4kg tiền cổ với 14 loại.




    Một hố tìm kho báu do Nguyễn Hồng Công đào đã gần 20 năm nay

    Những thông tin về những hiện vật của Vua Hàm Nghi cứ thế xuất hiện, chính vì thế mà diễn ra những cuộc tìm kiếm liên tục trong mấy thập niên qua.Vào khoảng năm 1954, tại xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, trong một trận mưa lớn dài ngày, người dân thiểu số trong vùng ra suối đã phát hiện đất đá rơi tuột đã để lộ vô số những tấm kim loại nhỏ ánh màu vàng khắc các chữ Hán “tiểu, trung, đại”, những lá trầu vàng, quả cau vàng, gươm, đồ nữ trang… rất đẹp.

    Họ đã đưa về nhà từng gùi. Sau đó, tỉnh, huyện cử đội công tác đặc biệt về tuyên truyền, vận động nhân dân nộp lại vàng bạc vì đó là tài sản của quốc gia. Đồng bào đã nộp hết cho chính quyền, không tơ hào một miểng. Người xác định thông tin trên có thật là ông Phạm Quang Lịch, nguyên Giám đốc Sở Tài chính Quảng Bình. Ông Lịch cho biết kết quả cuộc vận động này, người dân đã đem nộp 240,5kg vàng.

    Những cuộc tìm kiếm

    Vào khoảng thời gian 1930-1934, người Pháp đánh hơi thấy có nguồn lợi kho báu ở đây, đã mở cuộc tìm kiếm đại quy mô. Kết thúc, người Pháp dùng hơn hai chục xe bịt kín trần chạy vào ban đêm rất bí hiểm. Không biết đó có phải là vàng, là kho báu của Vua Hàm Nghi hay không. Đến nay vẫn chưa một ai biết sự thật. Một cán bộ ngành VHTT tỉnh Quảng Bình cho biết, những năm 1990, có một đơn vị vào đào bới trong lòng sông Son đoạn từ phà Xuân Sơn đến trước của động Phong Nha để tìm vàng.

    Kết quả cuộc thăm dò bí ẩn này, người dân thấy ban đêm từng đoàn xe gần chục chiếc đóng kín thùng ra vào nơi thăm dò nườm nượp trong vòng bốn đêm liền, sau đó rút hẳn. Đó là người dân nói, còn phía địa phương không nói lời gì. Thực tế chỉ thấy vụ đào bới này đã làm gãy một cột thạch nhũ rất đẹp, làm lấp cửa động. Tỉnh đã phải chi 150 triệu đồng, tương đương 75 cây vàng lúc đó, để địa phương khai thông cửa động.

    Vào năm 1987, tỉnh Bình Trị Thiên cũ tổ chức cuộc họp báo với nhân vật chính là Nguyễn Hồng Công, quê Thanh Hóa, cư ngụ tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, giới thiệu về chương trình tìm vàng ở Hóa Sơn, Minh Hóa. Năm 1989, Bình Trị Thiên tách tỉnh, Nguyễn Hồng Công tiếp tục xin Quảng Bình được phép ở lại đào tìm kho báu. 20 năm qua, ông Công đã một mình đào không biết bao nhiêu đất đá giữa núi rừng Minh Hóa với niềm tin sẽ mở được cánh cửa kho báu. Địa phương đã nhiều lần cấm nhưng ông vẫn đào chui, đào trộm.

    Đến nay, ông Công khẳng định khoảng 3 năm nữa sẽ đào được kho báu. Những mốc thời gian 3 năm đã được ông đưa ra từ… năm 2000! Kho báu đâu không thấy, chỉ thấy ông mắc bệnh lao, một mình giữa rừng sâu núi thẳm.

    Cho đến nay, người ta chỉ mới xác nhận đuợc một số báu vật của Vua Hàm Nghi ở Hà Tĩnh. Tại nhà cụ Trần Văn Nhung, ngoài 80 tuổi, ở thôn Phú Hòa, xã Phú Gia, huyện Hương Khê còn lưu giữ những báu vật của Vua Hàm Nghi ban tặng người dân bản địa: các chiếu sắc phong thêu gấm và viết trên giấy dó; cặp kiếm quý với những đường chạm trổ tinh ở chuôi và bao kiếm hình rồng…


    Minh Phong

  4. #4

    Mặc định

    Ngôi làng gìn giữ bảo vật… bằng chuyền tay

    TP - Lịch sử làng kể lại rằng cuối thế kỷ 19 vua Hàm Nghi đã từng lưu lạc đến đây và hiện tại làng đang gìn giữ những bảo vật quý giá cùng nhiều truyền thuyết ly kỳ về vị vua yêu nước này. Hơn thế, nó còn được bảo vệ bằng cách khá đặc biệt: Chuyền tay nhau. Đó là làng Phú Hòa, xã Phú Gia, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh.


    Ngôi nhà gìn giữ bảo vật
    Thánh mẫu làng báo mộng cho Vua

    Xưa nay, sử sách rất ít nhắc đến việc vua Hàm Nghi từng đến Hà Tĩnh, lại càng ít bàn về tích Thánh mẫu làng báo mộng giúp Vua thoát khỏi cuộc vây bắt của giặc Pháp.Thế nhưng với người dân “miền sơn cước ngàn ngạt nước phù sa” này, thì đó là cả trang sử dài.

    Theo những cố lão của làng kể lại, thì vào năm 1885, Vua Hàm Nghi và cận thần đã đến ngôi làng này. Nhận thấy đây là vùng “địa linh nhân kiệt”, Vua đã quyết định xây thành kháng Pháp. Nhà Vua cử Tôn Thất Thuyết ra hịch Cần Vương kêu gọi nhân dân đấu tranh.

    Cũng chính tại làng này, Vua đã có cuộc gặp gỡ nhà sĩ phu yêu nước Phan Đình Phùng. Hiện, đó là thành Sơn Phòng.Từ lâu trong làng thờ một vị Thánh mẫu, tương truyền đó là vị thần trời phái xuống giúp dân. Đền Thánh mẫu nằm cách thành Sơn Phòng chừng 800m và rất linh thiêng.

    Một đêm Vua nằm mộng thấy vị Thánh mẫu hiện lên và nói rằng: “Đất là của Vua, Vua ở đâu cũng được. Nhưng ta báo tin rằng, bọn bạch quỷ (chỉ giặc Pháp) sắp theo chân đến đây, nếu Vua ở lại thì sẽ sát dân, hãy mau định liệu”.

    Tỉnh mộng, Vua vội vã triệu họp quần thần làm lễ xuống đền tạ ơn. Nhằm ghi nhớ công ơn Thánh mẫu, Vua bèn phong tặng cho bà chức “Thượng thượng thượng đẳng tối linh tôn thần” (một chức sắc lớn của thần linh).

    Không những vậy, Vua còn dâng nhiều bảo vật để nhân dân thờ cúng bao gồm: Hai con voi vàng, 1 con voi đồng, 1 con nghê, 2 thanh bảo kiếm cùng với 8 bộ áo mũ triều thần.

    Ngay sau đó, theo lời báo mộng Vua cùng quần thần rút vào vùng rừng núi Quảng Bình tiếp tục chống Pháp. Làng lại như xưa và các bảo vật vua để lại được dân làng thay nhau bảo vệ.


    Di ảnh Vua Hàm Nghi cùng nhiều bảo vật giá trị
    Gìn giữ bảo vật theo... lệ làng

    Trải qua bao thời kỳ lịch sử, bao thế hệ đã đi qua, dân làng Phú Hòa vẫn bảo vệ nguyên vẹn các bảo vật quý giá. Và cách bảo vệ cũng hết sức đặc biệt: Đó là chuyền tay!

    Làng bầu ra người đứng đầu gọi là cố đạo, người trực tiếp bảo vệ cổ vật. Cố đạo trước hết phải là người làng, có tuổi, liêm khiết, cẩn thận, con cháu thảo hiền. Đặc biệt cả hai ông bà đều đang sống.

    Người giữ chức cố đạo không chỉ nhận được sự tín nhiệm từ phía dân làng mà phải được sự đồng ý từ các vị thần linh của làng. Làng bầu ra 3 người xứng đáng nhất sau đó tổ chức lễ Hạ Nguyên (xin keo). Mỗi năm tổ chức bầu Cố đạo một lần vào mồng 7 tháng Giêng, gọi là lễ Rước sắc.

    Nếu không tìm được Cố đạo mới thì Cố đạo cũ tiếp tục công việc và gọi là Nguyên lưu.Trường hợp tìm được Cố đạo mới thì Cố đạo cũ có trách nhiệm kèm cặp, hướng dẫn, cố vấn trong vòng 6 tháng. Đó là luật lệ do các cụ cao tuổi của làng ban ra, cứ như vậy không biết làng đã có bao nhiêu Cố đạo.

    Ai được bầu làm Cố đạo được xem là người đứng đầu làng, rất được người làng tôn trọng. “Làm Cố đạo trách nhiệm lớn lắm, không chỉ giữ gìn sự an toàn cho các bảo vật mà còn lo cho đời sống tinh thần của làng” - Cố đạo đương nhiệm Trần Văn Nhung tâm sự.

    Cố Nhung năm nay đã 80 tuổi và làm Cố đạo được 2 năm sau một lần Nguyên lưu, vẫn còn minh mẫn và chu đáo, cẩn thận. Cố đã từng là Thanh niên cứu quốc và được Nhà nước phong tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba.


    Cố đạo đương nhiệm Trần Văn Nhung
    Giá trị của các cổ vật là rất lớn, gồm: Hai con voi bằng vàng, 1 con nặng 27 đồng cân và một con nặng 17 đồng cân (mỗi đồng cân tương đương với 1 chỉ vàng).

    Kèm theo là con voi đồng và 2 thanh bảo kiếm cùng nhiều thứ giá trị khác. Để gìn giữ các bảo vật cho đến ngày hôm nay, làng đã trải qua bao nhiêu biến động thăng trầm và chỉ có cái tâm trong sáng của dân làng mới bảo vệ được.

    Lịch sử làng sẽ không bao giờ quên Cố đạo Phan Đình Giơn, người được xem là có thời gian gìn giữ bảo vật lâu nhất: 11 năm 6 tháng. Đó là vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Cố được dân làng tín nhiệm giao giữ chức Cố đạo.

    Nhà quá nghèo, nhiều lúc phải ăn trái mít xanh để sống qua ngày, nhưng Cố vẫn bảo vệ an toàn bảo vật dù nhiều kẻ hám lợi rủ rê đem bán. Trong suốt thời gian dài gìn giữ, Cố luôn hoàn thành dù không được đồng lương nào.

    Dân làng thương người cho củ khoai, củ sắn.Và rồi những cố Thể, cố Trự..., những người đã trở thành biểu tượng và niềm tự hào của làng về tấm lòng sắt son trong việc gìn giữ bảo vật.

    Làng không có lệ nào quy định trả công cho người gìn giữ bảo vật, mọi người đều vì cái tâm mà chung sức bảo vệ cho đến ngày hôm nay. Người Cố đạo dù nghèo đến mấy cũng quyết tâm bảo vệ bằng được bởi đó là vinh dự lớn lao.

    Cũng theo lệ làng, hàng năm các cụ cao tuổi tổ chức kiểm tra bảo vật nhằm gìn giữ một cách tốt nhất. Vào các ngày lễ tết, nhân dân khắp nơi đổ về thắp hương tưởng nhớ đến công ơn Thánh mẫu và tinh thần yêu nước của Vua Hàm Nghi. Ai cũng biết ơn và khâm phục công lao của toàn thể dân làng.

    Lệ làng và phép Vua cùng gìn giữ

    Việc bảo tồn bảo vật của các Cố đạo và nhân dân làng Phú Hòa lan truyền đi khắp nơi. Chính quyền xã chung tay bảo vệ cùng dân làng. Dù điều kiện kinh tế khó khăn, không có vốn ngân sách, thế nhưng một Ban quản lý di tích được thành lập.

    Dân làng đã tự nguyện đóng góp công sức và vật chất để bảo tồn. Mặt khác, chính quyền xã và làng Phú Hòa nhận được sự đóng góp từ các tấm lòng hảo tâm của nhân dân khắp nơi. Có những trường hợp như anh Nguyễn Thanh Bình –người con của làng hiện làm ăn ở TP HCM, đã ủng hộ làng tới 345 triệu đồng để góp phần gìn giữ bảo vật.

    Nhận thấy giá trị to lớn của các bảo vật, chính quyền xã đã làm hồ sơ chuyển lên cấp trên. Tháng 12/2001, thành Sơn Phòng, Miếu Trầm Lâm và Đền Cộng Đồng được công nhận là Quần thể di tích lịch sử cấp quốc gia.

    Ông Lê Khắc Tính - Trưởng ban quản lý di tích, cho biết: “Đây là niềm tự hào của toàn thể dân làng. Công lao to lớn của họ đã được ghi nhận”. Từ đây các bảo vật được bảo vệ trong lòng dân và bảo đảm hết sức an toàn.

    Các Cố đạo trực tiếp bảo vệ tại nhà, bên cạnh đó có sự giúp đỡ của chính quyền. Hiện các ban ngành Trung ương đã về kiểm tra và đang nghiên cứu nhằm tìm ra các hóa chất để bảo vệ các bảo vật một cách tốt nhất.

    Trải qua hai cuộc kháng chiến cùng thời kỳ đất nước khó khăn, thế nhưng làng Phú Hòa vẫn gìn giữ bảo vật cho đến ngày hôm nay. Đó không chỉ đơn thuần là truyền thống của một ngôi làng, mà còn là cái duyên của làng đối với vị Vua yêu nước Hàm Nghi.Và làng Phú Hòa đáng được ghi nhận công lao trong việc bảo tồn các giá trị lịch sử.

    Hoàng Anh
    K27 – Báo chí, ĐHKH Huế
    Last edited by Bin571; 13-11-2007 at 11:06 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •