Báu vật của Vua Hàm Nghi

Hơn 120 năm qua, không biết bao nhiêu người đã cố công kiếm tìm nhưng chưa ai thấy được những báu vật của Vua Hàm Nghi. Không ngờ rằng, một phần các báu vật lại được lưu giữ tại một vùng quê nghèo khó miền sơn cước.


Từ câu chuyện lịch sử, Vua Hàm Nghi và các triều thần yêu nước, rời kinh thành Huế ra các tỉnh miền núi phía bắc miền Trung, khởi hịch Cần Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên phò vua, giúp nước chống Pháp từ năm 1885 đến 1888, trong dân gian từng lưu truyền nhiều giai thoại về các báu vật đức vua mang theo được cất giấu bí mật trên những nẻo đường.

Hơn 120 năm qua, không biết bao nhiêu người đã cố công kiếm tìm nhưng chưa ai thấy được những báu vật của Vua Hàm Nghi.

Không ngờ rằng, một phần các báu vật lại được lưu giữ tại một vùng quê nghèo khó miền sơn cước có tên gọi là thôn Phú Hòa, làng Phú Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh - nơi có thành Sơn Phòng từng được Vua Hàm Nghi đặt đại bản doanh “thủ đô kháng chiến” trong phong trào Cần Vương.

Những báu vật

Hơn 120 năm về trước, khi được hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phò lên làm vua, đức vua Hàm Nghi không thể ngờ rằng, những tháng năm vương triều tuy ngắn ngủi nhưng oanh liệt của mình, không chỉ để lại hình ảnh bất tử của vị quân vương yêu nước gắn liền với phong trào Cần Vương chống Pháp, mà còn làm cho lòng dạ nhân gian nhuốm màu huyền sử về những báu vật mà ngài mang theo trên những chặng đường kháng chiến nơi sơn dã vùng bắc miền Trung.

Từ trước đến nay, dù hao tổn công sức trong sự vô vọng, nhưng việc tìm kiếm báu vật đã diễn ra tại vùng rừng núi Minh Hóa, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình, nơi được xem là căn cứ địa cuối cùng của Vua tôi Hàm Nghi. Không ai hay rằng, một số báu vật huyền thoại ấy lại được lưu giữ trong một ngôi làng hẻo lánh ở vùng Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, một địa danh giáp giới với hai huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa của đất Quảng Bình!

Tôi không bao giờ quên giây phút nhà thơ Võ Hồng Hải, Phó giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tĩnh, với nét mặt nghiêm trang nói với tôi:

- Hôm nay tôi và nhà văn Đức Ban - Giám đốc Sở sẽ dành cho anh một món quà năm mới Đinh Hợi. Đó là sẽ đưa anh đi gặp các báu vật của Vua Hàm Nghi ở huyện Hương Khê, mà ngay cả chúng tôi đây cũng chưa bao giờ được nhìn thấy!...

Hương Khê! Miền đất tôi đã in dấu chân 10 năm qua, chỉ với một ý niệm những mong tìm lại hình ảnh tháng năm thiếu sinh quân của người cha yêu dấu, lại là nơi cất giấu báu vật của Vua Hàm Nghi? Tôi không dám tin vào những gì anh Võ Hồng Hải nói! Nhưng mọi tồn nghi trong tôi đã bắt đầu chìm khuất dưới tiếng trống của dân làng Phú Gia vang lên khi xe đưa chúng tôi vượt qua đường Hồ Chí Minh, luồn sâu vào ngõ làng thôn xóm Phú Hòa.

Đón chúng tôi ngay từ trước ngõ, là một cụ già có khuôn mặt hiền từ trong tà áo dài tím. Cụ già làm tôi ngỡ ngàng như gặp lại một cựu binh Cần Vương hiện về giữa làng quê Phú Gia. Đó chính là Đạo chủ Trần Văn Nhung, 78 tuổi, người được dân làng Phú Gia giao phó trách nhiệm lưu giữ báu vật của Vua Hàm Nghi!

Tôi bước vào ngôi nhà tranh vách nứa, cảm thấy sự linh thiêng khi nhận ra trên bàn thờ đơn sơ một bát hương nghi ngút khói và một linh ảnh Vua Hàm Nghi uy nghiêm.

Trước bàn thờ nhuốm màu huyền bí của miền sơn cước ấy, cụ Trần Văn Nhung cử hành những nghi lễ với tiếng chiêng thanh tao, tiếng trống u trầm, hòa quyện lời nguyện cầu linh thiêng, không phải cho gia đình, cũng không phải cho làng Phú Gia, mà cho quốc thái dân an.

Sau nghi lễ, cụ Trần Văn Nhung bước vào gian thờ, kính cẩn nâng trên tay một cặp song kiếm hoen bụi thời gian. Cặp kiếm dài chừng nửa mét, lưỡi kiếm sắt, chuôi gỗ chạm hình phượng sơn son. Một nỗi niềm xúc động dâng trào khi đôi tay tôi đón nhận cặp kiếm. Ôi đức vua Hàm Nghi! Vị quân vương yêu nước 120 năm trước đã từng cầm thanh kiếm này trên tay, khởi hịch Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và con dân đứng lên phò vua giúp nước đuổi giặc!

Dưới trướng của đức vua là đại thần Tôn Thất Thuyết, là anh hùng Phan Đình Phùng vang bóng thời gian bởi khí phách hùng cường ở căn cứ địa Vũ Quang!

Chưa hết sửng sốt vì đôi kiếm, tôi lại bàng hoàng khi nhìn thấy cụ Trần Văn Nhung, được sự trợ giúp của bà con dân làng, tiếp tục bày lên sạp chiếu đặt trước bàn thờ nhiều báu vật khác.

Trong chiếc hộp thiếc, 3 con voi hiện ra, hai vàng một đồng. Voi bằng đồng được đúc theo tư thế voi đang lâm chiến, vòi dài uốn cong vào tai phải, đuôi quặt mông cùng chiều bên phải, tai áp sát cổ, ngà cụt. Thân hình voi gầy, toàn thân lấm chấm lông. Voi vàng tạc theo tư thế đứng nhàn nhã, vòi buông thẳng, ngà nhọn, mắt tròn, có nịt cổ và mang ngai vàng trên lưng.

3 con voi tuy kích thước nhỏ, con lớn nhất cao 4 cm, dài 7cm, lưng rộng 2,5 cm; con nhỏ nhất cao 2,5 cm, dài 3 cm, lưng rộng 1 cm, nhưng đều toát lên dáng vẻ uy nghi vì nét chạm trổ sinh động. Chỉ với nghệ thuật chạm trổ tinh xảo như vậy, 3 con voi đã xứng danh là báu vật quốc gia chứ chưa nói đến giá trị lịch sử.

Người làng kể lại, vào năm 1936, một trong 2 con voi vàng bị Lê Yêm, con trai của cố đạo chủ giữ báu vật Lê Triết, mang sang Lào bán để lấy tiền mua đàn bò. Nhưng trên đường trở về, Lê Yêm đã bị một con bò húc vào bụng chết ngay tại chỗ! Chưa hết! Người bạn đồng mưu với Lê Yêm là Lưu Duyên ở nhà bỗng nhiên phát bệnh điên, đem con đẻ của mình bỏ vào nồi nước sôi.

Kinh hãi vì thấy cảnh ấy, người vợ của Lưu Duyên đã chết đứng! Người Lào nghe chuyện, hoảng sợ làm lễ mang voi vàng trả lại cho dân làng Phú Gia.

Sau 3 con voi, là nghê đồng và chuỗi lục lạc 35 cái gắn màn gấm dành cho Vua Hàm Nghi. Nằm nghỉ trong chiếc màn lục lạc này, Vua Hàm Nghi xưa kia đã có bao nhiêu giấc ngủ an lành hay bao nhiêu đêm suy tư vì nợ non sông chưa báo đáp!

Thời gian đã phôi pha màu đồng nguyên chất của từng hạt lục lạc nhưng lạ thay vẫn còn những bộ áo mũ triều thần, đặc biệt là 2 chiếc áo hoàng bào và chiếc áo lót của đức vua vẫn nguyên màu vàng tươi. Không một chút tì vết hay sờn mòn, mọi đường kim mũi chỉ thêu hoa văn rồng bay, phượng múa như vừa mới rời khỏi bàn tay thêu thùa của tỳ nữ nào đó, ánh lên sắc vàng lấp lánh trong chiều tà buông xuống hiên nhà.

Áo này Vua từng mặc khi lâm triều. Đạo chủ Trần Văn Nhung, dường như không cho tôi mải mê cảm xúc huyền sử, lại mang ra sạp chiếu lấy ra một loạt lò hương, cờ lộng, tàn quạt và 37 đạo sắc phong rực rỡ hoa văn. Đó là những đạo sắc phong có từ thời Vua Minh Mạng đến Khải Định phong cho các vị thần ở miếu Trầm Lâm và đền Công Đồng.

Trong những đạo sắc phong ấy, có một đạo sắc làm tôi chú ý vì không có hoa văn trang trí như thông lệ. Hỏi ra mới biết đó là sắc phong của chính Vua Hàm Nghi phong thần cho “Hầu công kiến quốc nguyên Huân Dương chính tướng quân”. Sắc phong ghi rõ: Hàm Nghi nguyên niên, cửu nguyệt, nhị thập ngũ nhật. Trên dòng chữ niên hiệu vua, không đóng đại triện hình vuông như thường thấy, mà chỉ đóng tiểu triện hình bầu dục nhỏ!

Hàm Nghi nguyên niên, cửu nguyệt, nhị thập ngũ nhật! Ngày 25/9/1885, vậy là 122 năm 5 tháng 13 ngày trôi qua, tôi mới được đón nhận ân huệ đọc được ý niệm của đức vua qua những dòng chữ tôn vinh những tấm lòng xả thân vì nước! Ngày đó, giữa muôn trùng gian khó giữa rừng sâu bủa vây quân thù, nhưng Vua vẫn không quên những tấm lòng tận tụy vì nước vì dân mà ban sắc phong này cho Dương tướng công - vị tướng trấn ải vùng biên cương Tổ quốc thời Lê!

Trước tấm lòng cung kính của dân làng Phú Gia, về giá trị lịch sử của những báu vật tôi như vẫn bàng hoàng chưa tin rằng, chính đôi mắt mình đã thấy, chính đôi tay mình đã cầm và vì làm thế nào nơi này, cách trở núi sông, trong ngôi nhà tranh vách nứa của một người dân quê mùa lại lưu giữ báu vật của Vua Hàm Nghi?

Bảo tàng trong lòng dân

Sử chép, sau khi từ kinh thành Huế xuất bôn ra Tân Sở, Quảng Trị, Đại thần Tôn Thất Thuyết và các triều thần tiếp tục phò giá Vua Hàm Nghi, lặn lội theo đường thượng đạo Trìm - Trẹo, vượt đèo Quy Hợp, về lưu trú tại Hương Khê.

Tại đây, Vua Hàm Nghi chọn thành Sơn Phòng làm đại bản doanh và ban bố hịch Cần Vương lần 2. Thành Sơn Phòng chính là tòa thành bằng đất nằm ở làng Phú Gia.

Gần Sơn Phòng có miếu Trầm Lâm, tục gọi là miếu Trăm Năm, thờ phụng “Đức Thánh Mẫu Trầm Lâm kiêm lục quốc thanh y anh linh diệu linh ứng thiên thần”, vị thần từng được các triều vua Lê - Nguyễn phong là “Thượng Thượng đẳng tối linh thần”. Cùng với miếu Trầm Lâm, còn có đền Công Đồng thờ “Đô Đô thống chế hùng thắng đại tướng quân”, vị tướng trấn ải vùng biên cương Tổ quốc và “Đức bẩm linh thông tổng quản Ngọc Khê hầu” tức Dương tướng công, vị tướng được tôn làm Thành hoàng bản xứ làng Phúc Ấm.

Theo truyền ngôn của dân làng, vào đêm 20/9/1885, một đêm trời không trăng sao, Vua Hàm Nghi vừa chợp mắt liền được nữ thần Thanh Y báo mộng rằng, bọn bạch quỷ (quân Pháp) đang đưa quân bao vây, cần phải định liệu rút ngay. Tỉnh dậy, Vua sai Tôn Thất Thuyết vào tạ lễ ở miếu Trầm Lâm.

Năm ngày sau, ngày 25/9/1885, trước khi rời đến vùng Minh Hóa Quảng Bình, Vua Hàm Nghi đã ra sắc phong và ban tặng nhiều phẩm vật quý giá để các vị thần, bày tỏ lòng tri ân người dân địa phương đã phò vua, giúp nước.

Cảm tạ giấc mộng huyền thoại của Vua Hàm Nghi! Những bảo vật Vua ban cho miếu Trầm Lâm và đền Công Đồng, chính là những báu vật được trưng bày tại nhà đạo chủ Trần Văn Nhung, thành Sơn Phòng. Miếu Trầm Lâm, đền Công Đồng nay đã hoang phế trong mắt nhân gian, nhưng vẫn như thuở nào vua tôi đùm bọc nhau trong cảnh binh đao, 120 năm qua, dù bao thăng trầm thời đại đổi thay với bao phen binh lửa, đói kém mùa vụ, người dân Phú Gia vẫn kiên trung lưu giữ báu vật mà từ trước đến nay người đời chỉ biết trong huyền sử.

Theo truyền thống, dân làng Phú Gia hàng năm bầu chọn người lưu giữ luân phiên với thời gian 1 năm cho một gia đình. Người được lựa chọn phải có nhân cách đạo đức tốt, trung thành và chịu trách nhiệm bảo quản. Mỗi dịp Xuân sang, khi chuyển giao cho nhà khác, dân làng lại tổ chức lễ nghi phơi cúng và rước báu vật đến nơi ở mới cùng bàn thờ linh ảnh của Vua Hàm Nghi.

Hơn 120 năm qua, nhờ lòng thành của người dân, các bảo vật của Vua Hàm Nghi vẫn y nguyên nhưng tiếc rằng, do cách bảo quản còn thô sơ trong thùng gỗ nên một số báu vật đồ vải và giấy bắt đầu có hiện tượng hư hỏng. Trao đổi với tôi, nhà văn Đức Ban và anh Sáng - Phó chủ tịch huyện Hương Khê cho biết, mặc dù đã biết tin mấy năm nay nhưng đây là lần đầu tiên được thấy trực tiếp những báu vật này.

Thật may mắn khi Sở Văn hóa - Thông tin và tỉnh Hà Tĩnh đang tiến hành dự án bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích thành Sơn Phòng, đền Cống Đồng và miếu Trầm Lâm nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng - một trong những lãnh tụ của phong trào Cần Vương. Trong dự án này, vấn đề giúp người dân bảo tồn báu vật của Vua Hàm Nghi được đặt lên hàng đầu với sự tham gia trực tiếp của người dân Phú Gia.

Cụ Trần Văn Nhung chậm rãi nói: “Bảo vệ di vật của vua, là bảo vệ tín vật của giang sơn đất nước chứ đâu phải bảo vệ của cá nhân ai! Dân làng chúng tôi tự hào là không quên vua, không quên ơn nước nhà"


Văn Cầm Hải