LỜI TỰA


Ban đêm nhìn lên trời ta thấy vô số tinh tú nhưng quan trọng nhất là Sao Bắc Đẩu, nó rất hữu ích cho người đi biển nhắm hướng mà vượt trùng dương.

Hòn núi cao chứa vô số đá, cát vôi, tuy vật nào cũng hữu dụng, nhưng người ta chỉ tìm được một vài hột kim cương đắc giá mà thôi.

Rừng rậm có muôn vàng cổ thụ, nhưng danh mộc như Trắc, Cẩm Lai thì rất hiếm.

Chúng tôi muốn đề cập đến nhân loại trên quả địa cầu có hàng mấy tỉ dân chúng nhưng bậc danh nhân thì đếm trên đầu ngón tay.

Một quốc gia có nhiều trí thức nhân tài, nhưng tìm một ông Nghè, ông Trạng nhà đại đức chơn tu cũng không phải dể.

Sự phát triển tư tưởng bằng văn xuôi, văn vần, thi thơ, truyện sử, tiểu thuyết v.v…từ cổ chí kim sách vở chất chồng, nhưng tìm đặng “Lời Vàng Tiếng Ngọc” mới đáng để đời lưu truyền hậu thế.

Bởi thế chúng tôi ra công sưu tầm những lời dạy của các danh nhân, các học giả, các đại đức, nhất là các Đấng Thiêng Liêng để ghi vào một quyển hầu làm tài liệu học Đạo, gẫm cũng hữu ích cho đời sống tâm linh của những trang tìm chơn lý mà trở về với Đại Từ Phụ.

Nhờ Thánh Giáo chúng ta học được huyền vi của cõi vô hình, những văn chương uyên thâm thánh thoát của các bậc tinh anh đoạt Đạo, các diệu lý cao xa để tiến hóa tâm linh hầu đoạt cơ giải thoát ra khỏi cõi trần ô trược nầy.

Con sâu hóa bướm, con cá hóa rồng, con gà hóa phụng đặng thì tức nhiên con người hóa Thần Tiên gẫm cũng không khó. Khó chăng là do mình cương quyết chịu gian khổ, bền chí trao luyện để đoạt mụch đích cùng không. Vậy học Đạo là học phép trở về với Chí Tôn nhờ những lời giáo huấn quí báu, rất quí hơn vàng ngọc.

Đời thì mua quan bán tước đặng chớ Đạo phải hiểu trước và sau, thực hành theo sự hiểu biết cho tinh tường, lấy giọt cam lồ rửa trong bợn tục mới đặng.

Nhờ Lời Vàng Tiếng Ngọc làm nấc thang cho chơn linh leo lần về nẻo Thánh rất cần thiết cho hành giả trên đường thiên lý.



Giãi Tâm thực hiện ngày 10-12 Ất Sữu (1986)



1.- Nguyễn Du
giáng cơ ngày 30-8-1934:

Bậc thanh tâm tái nhân đời hằng ít có.
Đắc thời thì cầm nhíp chánh hóa dân,
Thất thế nắm văn chương tô điểm tục.


2.- Cử Đa
giáng cơ ngày 11-9-1934

a)
Lễ nơi mình là khuôn viên trọng thể.
Lễ nơi nước là phép trị an,
Lễ nơi toàn cầu là đại đồng thế giới.


b)

Hễ giáo thì phải hóa,
Hóa thì phải tùng,
Tùng thì phải nhẫn,
Nhẫn thì phải hiền,
Hiền thì phải Thánh,
Thánh thì phải từ,
Từ thì phải ái,
Ái thì phảii thiện.


c)
Quan giả vì phụ mẫu chi dân,
Sư giả vì phu thân chi đệ.


3.- Hồ Xuân Hương
giáng cơ năm 1933

Cửa ngục thái công lì đài cát,
Hồ nhục hay gội mát anh hùng.
Đã toan lãnh phận kiếm cung,
Đường tên mũi đạn để dùng bia danh.


Còn tiếp