kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: CÁCH NGHỀ NGHIỆP - NHỮNG SAO BÁ NGHỆ (st)

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định CÁCH NGHỀ NGHIỆP - NHỮNG SAO BÁ NGHỆ (st)

    1. Những nghề liên quan đến văn học:

    a. Nghề dạy học

    + Nói giỏi:
    Lưu Hà: chỉ sự lưu loát của ngôn ngữ, sự phong phú của tư tưởng, sự ngăn nắp của bố cục, sự linh mẫn của lý luận, sự hấp dẫn của nội dung ...

    Thái Tuế: chỉ sự nói nhiều, khả năng biện luận, khuynh hướng đấu lý.

    Tấu Thư: chỉ sự khôn khéo trong ngôn ngữ, sự thanh nhã của ý tưởng, sự mềm mỏng của cách trình bày và hiệu lực thuyết phục sâu sắc.

    Hóa Khoa: chỉ sự thông thái của tư tưởng, sự cao kiến của học thức, sự khúc chiết của cách trình bày.

    Thiên Hình: chỉ khả năng phân tích sắc bén, sự sáng sủa của tư tưởng và của lối nói, lối viết, sự tinh vi của lý luận.

    + Học giỏi: Văn Xương, Văn Khúc, Văn Tinh - Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Khoa - Thái Dương, Thái Âm sáng sủa - Cự Môn, Thiên Cơ ở Mão, Dậu - Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất - Long Trì, Phượng Các, Bác Sỹ.

    Hai năng khiếu nói giỏi và học giỏi là căn bản cho nhiều nghề khác nữa như chính trị gia, thương thuyết gia, sĩ quan tâm lý chiến, cán bộ dân vận, ứng cử viên tranh cử, cổ động viên, quảng cáo, môi giới, hòa giải. Điều cần lưu ý là xem số giáo sư, nên để tâm nhiều hơn vào cung Nô, vì đa số thày giáo giỏi có cung Nô rất tốt.


    b. Nghề hành luật:
    Thái Tuế, Quan Phù, Quan Phủ: Thái Tuế bao giờ cũng tham chiếu với Quan Phù còn Quan Phủ lại đồng nghĩa với Quan Phù. Bộ sao này điển hình cho ngành luật, mọi chuyện liên quan đến luật pháp từ kiện tụng, tù ngục, điều tra, thưa gửi, khiếu nại, bắt bớ đến truy tố, xét xử, bênh vực, tranh chấp ...

    Thiên Hình: cũng chỉ nghề luật, đặc biệt là tư cách bị cáo, bị án, bị điều tra, bị gọi làm nhân chứng ... Trong trường hợp hành nghề luật thì ý nghĩa tích cực ưu thắng: đương sự chuyên xử, truy bắt, bỏ tù, kết án kẻ khác. Trong một lá số tốt, Thiên Hình có nghĩa làm luật, cầm luật.

    Cự Môn, Hóa Kỵ: chỉ sự đa nghi, cạnh tranh trước pháp luật, vừa chỉ các vấn đề liên hệ đến luật pháp, từ việc nghiên cứu luật pháp, học luật pháp cho đến dạy luật pháp và hành xử luật pháp. Tư cách nạn nhân của một vụ tranh chấp trước pháp luật cũng được bao hàm, nhất là khi gặp vị trí hãm địa và không hành nghề luật chính tông.


    c. Nghề chính trị:
    Phục Binh: chỉ thủ đoạn, chỉ sự rắp tâm mưu hại kẻ khác, đồng thời cũng có nghĩa là mình mưu hại bằng thủ đoạn. Có Thái Tuế đi kèm thì càng rõ nghĩa. Đương sự phải chịu nhiều búa rìu của dư luận, đồng thời cũng sử dụng lại dư luận để đập lại đối thủ hay địch thủ. Những năng khiếu đi liền với Phục Binh tất phải có, từ sự lừa lọc, gài bẫy cho đến việc đánh úp, bôi nhọ, thanh lọc, kiềm chế, bế tỏa, ngăn trở, chèn ép, chụp mũ ...

    Thiên Không: gần như đồng nghĩa với Phục Binh, chỉ tư chất lưu manh của hành động, mánh khóe, xảo thuật ứng dụng để loại trừ đối thủ hoặc để tự vệ, chống đỡ phản đòn của họ cũng bằng các thủ đoạn đó.

    Bạch Hổ - Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa: Bạch Hổ chỉ xu hướng hoạt động chính trị của phái nam, đồng thời chỉ sự hùng biện, sự khích động, sự lôi cuốn thiên hạ bằng ngôn ngữ có tâm huyết, có khí phách, có tác dụng xách động, có dụng tâm cổ võ tranh đấu. Thiên Khốc, Thiên Hư cũng đồng nghĩa. Nếu được đắc địa thì xu hướng chính trị có triển vọng, ngôn ngữ đắc dụng và có hiệu quả. Nếu hãm địa thì có khuynh hướng sai ngoa, xuyên tạc nhiều hơn, tuy không hẳn có nghĩa thất bại.
    Ngoài ra, nghề chính trị đòi hỏi cung Nô tốt hoặc là có nhiều sao chỉ nhân lực trợ giúp. Có như thế, chính trị gia mới có tập đoàn ủng hộ và dân chúng hậu thuẫn, giúp cho sự tiến đạt và thành công dễ dàng và bền vững.


    d. Nghề viết văn:
    Thiên Tướng: chỉ cây bút, chỉ con người thấy sự bất bình không nhịn được, phải cải người, sửa đời. Tuy nhiên, phải có thêm sao khác để đủ diễn tả tư cách viết văn.

    Tấu Thư, Đà La, Ân Quang, Thiên Quý: Tấu Thư là giấy, Đà La là mực, Ân Quang Thiên Quý là bài vở. Ngoài ra, Tấu Thư còn chỉ sự sắc bén, tế nhị của lời văn, ngòi bút. Ân Quang, Thiên Quý chỉ sự tha thiết, hoài bão cải tạo con người cho tốt thêm.

    Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Khoa: chỉ ngành và nghề dịch thuật vì Khoa chỉ học vấn đi với Tả, Hữu có nghĩa là biết nhiều ngoại ngữ. Tả Hữu có thể đi với Văn Xương, Văn Khúc hay Văn Tinh ... để chỉ nghề dịch, người thông ngôn.


    2. Những nghề liên quan đến kinh, thương:

    a. Nghề thương mại: hầu hết đều có đặc tính chung là: liên quan đến tiền bạc, sự tham lam, óc tính toán và tài tháo vát:

    + Tính tham do các sao dưới đây mô tả:
    Tham Lang: điển hình cho con buôn, có óc kinh doanh và hám lợi vì thế đi với bất cứ tài tinh nào đều có nghĩa kiếm lời bằng hình thái này nọ, đặc biệt là trục lợi trong thương trường. ở thế đắc địa, tính hám lợi thường gặp may mắn, dễ làm giàu, nhất là từ 30 tuổi về sau. Người có Tham đắc địa dám mưu sự lớn lao, đầu tư vào các lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế, có óc mạo hiểm táo bạo. ở thế hãm địa như Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi, lòng tham càng dữ dội hơn khả dĩ đi đến chỗ thất tín, bất nhân. Đây là thế của gian thương đầu cơ, tích trữ, lũng đoạn kinh tế, không quan tâm đến đạo đức xã hội, dù là tối thiểu.

    Phá Quân hãm địa: ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Phá Quân vô cùng hám lợi. Riêng ở Tỵ, Hợi đi với Vũ Khúc sự tham tiền này đi tới chỗ bất lương. Duy cách này thường gặp phá sản, khánh tận hoặc buôn bán khổ nhọc ở phương xa.

    + óc tính toán và mưu trí trong thương trường được mô tả bởi những bộ sao sau:
    - Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão, Dậu
    - Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung
    - Thiên Đồng, Thiên Lương đồng cung
    - Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung ở Ngọ
    những bộ sao này không nặng tính tham mà thiên về mưu trí, sự tinh xảo trong nghề buôn, sự hiểu biết rõ ràng thương trường, tài buôn bán. Hầu hết là phúc tinh cho nên việc thương mại tương đối lương thiện. Ngoài ra, tất cả các sao nói lên trí thông minh đều ứng dụng được trong doanh thương.

    Thiên Mã, Lộc Tồn: Mã chỉ sự tháo vát, lanh lợi, đa tài, tinh thần xông pha, lăn lóc - các đức tính rất cần thiết cho nghiệp vụ thương mại. Vì thế, Mã đi với bất cứ tài tinh nào cũng đều đắc lợi và có ý nghĩa buôn bán, nhất là khi tọa thủ ở cung Tài hay cung Thân, Mệnh, Quan. Riêng ở Hợi thì phải cực nhọc mới kiếm lời được. Tốt nhất là ở Dần, Tỵ rồi mới đến Thân. Vì Mã chỉ sự lưu động cho nên các nghề buôn của sao này liên hệ đến ngành vận tải, đường bộ hay đường hàng không hoặc là các ngành môi giới, giao thiệp lưu động, nghiên cứu thị trường ở nhiều nơi. Lộc Tồn đồng nghĩa với Thiên Mã, nhưng không có ý nghĩa lưu động. Cả hai kết hợp thì rất đặc sắc cho việc buôn.

    + Tinh thần cạnh tranh cũng là đức tính thương mại. Những sao liên hệ gồm có: Quan Phù, Quan Phủ - Phục Binh, Hóa Kỵ: chỉ óc thi đua, cạnh tranh thường đi đôi với mưu mẹo, lừa gạt, nói dối. Hóa Kỵ vừa có nghĩa đó kỵ, sợ người khác hơn mình, vừa có nghĩa miệng lưỡi, môi miếng. Phục Binh là sao thủ đoạn. Cả bốn sao đều đắc dụng cho doanh thương, duy phương cách cạnh tranh không mấy gì ngay thẳng, thường đưa đến sự mưu hại lẫn nhau một cách ngấm ngầm.

    + Vấn đề tiền bạc: phải có nhiều sao tài hội tụ vào cung Quan, Tài, Mệnh, Thân.

    b. Nghề kỹ nghệ:
    Hạng công nhân kỹ nghệ có các sao và bộ sao sau miêu tả: Phá Quân ở Dần, Thân, Thìn, Tuất - Thất Sát, Kình Dương - Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung - Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung - Thiên Cơ, Thiên Hình, Kiếp Sát - Kình Dương, Hỏa hay Linh Tinh - Liêm Trinh, Phá Quân đồng cung. Những bộ sao trên không đắc địa, gần như có nghĩa bần hàn, cực khổ, thích hợp cho hạng công nhân.

    Đối với hạng chủ nhân, chuyên viên, kỹ sư, tư bản hoạt động trong ngành kỹ nghệ, họ phải có sao học vấn cao hoặc là những bộ sao trên nhưng sáng sủa nhờ Tuần, Triệt hay ở vị trí đắc địa, đồng thời cũng phải có những bộ sao của nghề thương mại. Trong ngành kỹ nghệ nói riêng có hai sao dưới đây đáng lưu ý:

    Thiên Cơ: chỉ tất cả các loại máy móc lớn nhỏ của ngành kỹ nghệ, chỉ sự tinh xảo trong nghề nghiệp. Hai ý nghĩa này ghép lại chỉ người chuyên môn về máy móc. Đắc địa thì là kỹ sư, hãm thì là thợ máy. Thiên Cơ, Hỏa Tinh hay Linh Tinh: chỉ máy hay lò luyện sắt thép, nấu quặng, hoặc máy tạo hơi nóng, máy sấy, máy phát điện. Thiên Cơ, Thái Âm hay Thiếu Dương, Thiếu Âm chỉ máy điện và tất cả máy móc sử dụng điện, cũng có thể là máy điện tử. Thiên Cơ, Thiên Mã chỉ máy xe các loại hay phi cơ, tàu thủy.

    Thiên Hình: chỉ dao, kéo hay cơ khí, nói chung các sản phẩm kỹ nghệ bằng kim khí.


    3. Những nghề liên quan đến khoa học ứng dụng:

    a. Nghề điện: Thái Dương, Thái Âm - Thiếu Dương, Thiếu Âm - Hỏa Tinh, Linh Tinh

    b. Nghề nha: Tuế Phá chỉ bộ răng. Thiên Hình hay Kiếp Sát chỉ sự mổ xẻ, chắp vá. Tấu Thư hay Hồng Loan chỉ khéo tay, tinh xảo.

    c. Nghề dược: Thiên Y chỉ thuốc men. Hóa Kỵ chỉ các dung dịch, hóa chất bào chế.

    d. Nghề y:

    + Về mặt cứu độ:
    Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ sự làm việc nghĩa. Người có cách này có thiên tính, hay giúp đỡ kẻ khác, có khuynh hướng xã hội rất cao, hay làm phúc, tạo phúc và có cơ hội tích phúc. Đây là bộ sao cần thiết cho y sĩ.

    Thiên Tướng: biểu tượng cho vị cứu tinh của nhân loại, mang lại công bình, hạnh phúc cho nhân thế trong tinh thần cứu nhân độ thế.

    Thiên Y: trực tiếp nói về y học. Người có Thiên Y tính sạch sẽ, vệ sinh và có năng khiếu về thuốc men. Ngoài ra, Thiên Y cũng có nghĩa cứu giải bệnh tật và có nghĩa hay dùng thuốc khi có bệnh.

    Những sao trên cần đóng ở cung Mệnh, Thân hay Quan mới có điều kiện cứu độ của một y sĩ, mới có triển vọng hành nghề. Nếu đóng ở Tài thì y sĩ này có xu hướng lý tài, trục lợi, bóc lột bệnh nhân mặc dù ở cung đó, tài lộc sẽ được dồi dào hơn ở vị trí khác.

    Ngoài ra, còn có những sao trợ y: Ân Quang, Thiên Quý - Thiên Quan, Thiên Phúc - Tả Phù, Hữu Bật. Ân Quang, Thiên Quý chỉ cái phúc do Trời ban cho. Đi với bộ sao bác sỹ, ông này sẽ được nổi tiếng nhờ mát tay, nhờ hên may, được linh thiêng phù trợ, soi sáng dẫn dắt trong vấn đề trị liệu. Đồng thời, Quang Quý cũng nói lên tinh thần vị tha cao độ của một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, yêu nghề, tin nơi nghề và được nghề đãi ngộ xứng đáng, lấy việc cứu người làm lẽ sống cao cả, ít quan tâm đến khía cạnh tiền bạc của nghề thuốc. Thiên Quan, Thiên Phúc nói lên xu hướng xã hội của y sĩ. Với 4 sao này, y sĩ hay bố thí, cứu người không lấy tiền, làm việc với sự tận tâm và vị tha nhờ đó mà được nổi danh. Tả Phù, Hữu Bật trong cách y sĩ cũng có nhiều ý nghĩa cứu độ làm phúc nhưng thông thường, hai sao này nặng ý nghĩa đắc thời, có sự nghiệp y dược lớn, cụ thể như có bệnh viện riêng, được bác sỹ, y tá trợ giúp.

    Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần: có hiệu lực hóa giải bệnh tật. Người có bệnh gặp ba sao này thì mau hết bệnh vì gặp thầy, gặp thuốc còn y sĩ có ba sao này thì cứu mạng và chữa trị rất công hiệu cho bệnh nhân.

    + Về năng khiếu chuyên khoa:
    - Những chuyên khoa có tính kỹ thuật do những sao dưới đây biểu diễn:
    Thái Âm, Thái Dương: bác sỹ chiếu điện hay chụp hình hoặc là sử dụng các phương pháp chữa trị băng điện, bằng quang tuyến hay tia phóng xạ.

    Thiếu Âm, Thiếu Dương: tương tự như trên nhưng yếu tố âm dương cực nhỏ cho nên đồng hóa với điện tử.

    Thiên Hình, Kiếp Sát: bác sỹ giải phẫu, chắp vá, thay thế bộ phận thiên nhiên bằng bộ phận nhân tạo.

    - Những chuyên khoa trong cơ thể bao gồm các ngành đặc biệt dưới đây:
    Thái Âm, Thái Dương: hai mắt và là bộ thần kinh đồng thời cũng là tâm linh con người.

    Tuế Phá: chỉ bộ răng - bác sĩ nha khoa

    Phượng Các, Long Trì, Phá Toái: bác sĩ Tai-Mũi-Họng

    Mộc Dục, Thai hay Đào Hoa, Hồng Loan: bác sỹ phụ khoa, sản khoa.

    Hỷ Thần: chuyên về trĩ

    Thiên Riêu, Kình Dương: chuyên khoa sinh dục nam

    Bạch Hổ, Địa Kiếp: bệnh ung thư

    Thiên Hình, Kiếp Sát: bác sĩ châm cứu

    Đào Hoa, Hồng Loan, Hoa Cái: chuyên khoa thẩm mỹ, chuyên sửa sắc đẹp

    Thiên Mã hay Kình Dương, Đà La: ngành chỉnh hình.

    Nếu không có chuyên khoa mà có Hóa Kỵ thì là bác sĩ trị liệu tổng quát.

    Nếu có thêm Thái Tuế, Lưu Hà, Hóa Khoa, Văn Xương, Văn Khúc thì có dạy và sáng tác về y khoa. Nếu có thêm Khôi, Việt thì trong ngành chuyên môn, đương số rất nổi danh.


    e. Ngành kiến trúc:

    Long Trì, Phượng Các - Thái Âm: Long, Phượng chỉ nhà cửa và cảnh trí trong nhà, trong vườn. Thái Âm chỉ bất động sản.

    Tấu Thư, Hồng Loan: chỉ hoa tay hay năng khiếu mỹ thuật, mỹ nghệ nói chung, thích hợp cho người vẽ kiểu nhà, kiểu lăng tẩm, dinh thự.


    4. Những nghề liên quan đến nghệ thuật: bất luận nghề nào cũng phải có Tấu Thư hoặc Hồng Loan hoặc Thiên Cơ. Nếu không, đó chỉ là một sự hiểu biết hay sở thích chứ không phải nghề.

    a. Nghề nhạc: phải có đủ 3 sao: Tấu Thư (chỉ sự linh mẫn, tế nhị và cả ngón cần thiết), Hóa Lộc (nghệ thuật, sự sành điệu, biết chơi, biết thưởng thức, biết ứng dụng) và Phượng Các (lỗ tai hay thính giác). Với 3 sao này, đương số sẽ là nhạc sĩ, sống về âm nhạc hoặc là chuyên viên âm thanh trong kịch trường hoặc phim trường. Nếu có thêm sao khoa giáp thì đương số sẽ là giáo sư âm nhạc hay nhà khảo cứu về âm nhạc, âm thanh.

    b. Nghề họa: Ngoài Tấu Thư hoặc Thiên Cơ, đương số phải có sao Hồng Loan chỉ hoa tay. Nếu có thêm Long Trì, Phượng Các cũng được.

    c. Nghề nữ công: Ngoài Tấu Thư, Hồng Loan hay Thiên Cơ, phải có Kiếp Sát hay Thiên Hình (thêu, may, cắt và vẽ kiểu áo thời trang, chế mốt thời trang ...)

    d. Nghề nấu ăn: Ngoài Hóa Lộc, Tấu Thư, Hồng Loan còn phải có Long Trì hay Hóa Kỵ và Thiên Trù.

    e. Nghề kịch: các sao của nghề nhạc, nghề họa đều có thể ứng dụng cho nghề kịch. Nếu có thêm Đào Hoa, Vũ Khúc, Thiên Hỷ, Hỷ Thần thì càng hay. Nghề kịch chỉ hiển vinh nếu các sao đắc địa và có thêm Văn Xương, Văn Khúc hay Thái Âm sáng sủa. Nếu có thêm Thiên Khôi, Thiên Việt thì xuất chúng.

    f. Nghề ca: ngoài các sao của nghề kịch, phải có Phá Toái hay Phượng Các.

    g. Nghề vũ: có sao của nghề kịch là đủ. Nếu có thêm Thiên Mã thì rõ ràng hơn nhưng phải có sao Hoa Cái (làm dáng, sự quyến rũ bằng điệu bộ kiểu cách).

  2. #2

    Mặc định

    có ai biết làm cầu thủ đá banh thì có những sao gì ko? :D

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi eplsd Xem Bài Gởi
    có ai biết làm cầu thủ đá banh thì có những sao gì ko? :D
    tình cờ đọc trên trang tuvylyso, thấy nói các sao sau đây:

    Kình thì bứt phá, sắc, nhọn, khỏe, Hỏa Linh thì nôm na chắc hiểu nó là "nóng, nóng bỏng, nhanh ", Phục Binh, Thiên Mã thì đúng rồi, Long Hà cũng uốn lượn...Chính tinh chắc có Thiên Đồng, Thiên Cơ...

    :D

  4. #4
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,405

    Mặc định

    Vài cá tính đặc biệt

    A. Cách ghen:

    Cự Môn:
    chỉ sự nghi ngờ, thắc mắc, bất mãn đưa đến dò xét, giám sát, theo dõi cử chỉ, lời nói và hành động của người bị tình nghi. Nếu hãm địa, xu hướng quá khích sẽ rõ ràng hơn. Đối tượng bị bao vây chặt chẽ, bị theo bén gót, bị điều tra từng bước, bị hạch sách từng cử chỉ.

    Hóa Kỵ:
    Ngụ ý nghi ngờ, thắc mắc như Cự Môn nhưng lại thêm tính đố kỵ, sợ người khác lấn lướt hoặc thay chân mình. Thường nông nổi và dục động, dễ bị xao xuyến vì những chỉ dấu nhỏ nhặt, nhưng cũng dễ nguôi, dễ quên để rồi dễ nhớ, dễ ghen trở lại. Hình thái điều tra của Hóa Kỵ là thẩm vấn, dò hỏi, gợi chuyện chặn đầu.

    Quan Phù, Quan Phủ:
    chỉ sự cạnh tranh, thù vặt, thù dai thường bắt nguồn từ một chỉ dấu bị phản bội nào đó. Đến giai đoạn Quan Phù, sự hiềm khích xuất hiện, tác giả bắt đầu dấn thân đối phó với một tình địch đã được nhận dạng, với người chồng/vợ đã có bằng cớ hai lòng.

    Thiên Hình:
    là nết ghen sâu sắc của một người thông minh, biết dò xét, biết lý luận để khám phá những điểm lạ trong thái độ, cử chỉ, ngôn ngữ, nếp sống của người kia. Bắt mạch rất mau, hành động rất lẹ. Hình thái trả đũa của Thiên Hình thường có tính cách vũ phu, mạnh bạo.

    Thiên Cơ:
    cũng chỉ nết ghen của người có mưu trí, tinh quái, theo kiểu Hoạn Thư. Thông minh trong lúc điều tra, Cơ cũng khôn ngoan khi đối phó, thường là có kế hoạch tinh vi và ít khi thất bại.

    Liêm Trinh:
    chỉ sự khó tính, khắt khe trong tình yêu, trong cuộc sống gia đạo. Liêm ghen vì thấy vợ/chồng phạm vào các nguyên tắc căn bản của hạnh phúc, xáo trộn các tiêu chuẩn mà họ tự vạch ra để duy trì hạnh phúc. Liêm có thể bao dung những hành động bay bướm nhỏ nhặt, nhưng không tha thứ cái gì quá đáng phạm vào các nguyên tắc bất dịch của hạnh phúc. Do đó, hình thái trả đũa thường là gián đoạn khá dễ dàng như chấm dứt tình yêu chẳng hạn.

    Tham Lang:
    nết ghen rất mạnh và thiếu suy nghĩ, có hình thái quá khích và vũ phu, bất chấp hậu quả. Nết ghen nông nổi và cuồng nhiệt, hành động theo bản năng nhất thời, nông cạn vì vậy sự đổ vỡ khó tránh. Càng hãm địa, tính chất cực đoan càng mạnh.

    Phá Quân:
    ghen tuông có tính phá hoại, nhằm trả đũa gấp rút bằng hành động mau lẹ và mạnh mẽ, đôi khi tàn nhẫn, tương tự như Tham Lang.

    Thiên Tướng, Tướng Quân:
    ghen tuông rất dữ dội, vì không nhẫn nhịn được trước sự bất bình, phải ra tay can thiệp ngay. Cả hai cùng chỉ sự nóng tính như lửa, nhất là Tướng Quân, vừa nóng lại vừa liều, làm càn, làm bạo, dám đi đến những hành động quyết liệt ăn thua đủ, nhất là khi bị khiêu khích. Tự ái của hai sao này rất lớn.

    Phục Binh, Thiên Không:
    trong việc đối phó, chỉ sự rắp tâm, có chuẩn bị kỹ lưỡng để ra tay bất ngờ, dùng nhiều thủ đoạn trá ngụy, gian hiểm như tổ chức theo dõi, bắt ghen tại trận chứ không chịu cản trở suông. Cách ghen đó chạm tự ái nạn nhân rất nặng nề, đi đến đổ vỡ dễ dàng. Nếu bị Tuần, Triệt có thể bắt ghen hụt.

    Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân:
    có ý nghĩa cô đơn, cô độc, ít giao thiệp, tình cảm hướng nội và bị dồn ép, kén chọn bạn trăm năm vì thế không có lợi cho hôn nhân. Khi có gia đình, ba sao này có nghĩa ghen tuông một cách ích kỷ, nhỏ mọn, hay gắt gỏng vì những chuyện vặt, thường là thúc thủ đau khổ ngầm, không giãi bày được với ai. Sự dồn ép dày vò đương sự có khi đưa đến một phản ứng rất bất ngờ khó lường, tự mình hành động tay đôi với tình địch hoặc tự mình rút lui âm thầm.

    Hóa Quyền:
    chỉ người tự ái lớn, thích chỉ huy, không chấp nhận lép vế trong địa vị độc tôn của mình. Hóa Quyền ghen phần lớn do tự ái nhiều hơn là do tình yêu. Chính vì vậy, phản ứng của Quyền khá mạnh bạo và kiên trì cho đến khi khuất phục được đối thủ mới thôi. Nếu xoa dịu và gãi trúng chỗ tự phụ của Quyền, nết ghen tuông sẽ giảm đi nhiều, khả dĩ chấp nhận tính bay bướm của bạn trăm năm, miễn là đương số vẫn giữ ưu thế đối với người bạn trăm năm và với tình địch. Phái nam mà có Quyền, bao giờ cũng phải dứt khoát, không chấp nhận thành phần thứ ba trong cuộc sống lứa đôi

    B. Cách nóng nảy
    Bản Mệnh hỏa, Cục hỏa đều là bừng chứng của sự nóng nảy. Nếu Bản Mệnh hỏa gặp Cục mộc thì tính nóng nhiều hơn. Có thể chia các sao hỏa chỉ sự nóng nảy làm hai hạng, dựa trên tính chất hung hay cát của sao:

    a. Hạng nặng:
    - Địa Không - Phục Binh - Quan Phù

    - Địa Kiếp - Phi Liêm - Quan Phủ

    - Hỏa Tinh - Đại Hao - Thái Tuế

    - Linh Tinh - Tiểu Hao - Tử Phù

    - Thiên Không - Lực sỹ - Điếu khách

    - Kiếp Sát - Phá toái - Bệnh

    - Thiên Hình - Tuế Phá

    b.Hạng vừa:
    - Thái Dương - Thiên Quan - Nguyệt Đức

    - Liêm Trinh - Thiên Phúc - Đẩu Quân

    - Thiên Khôi - Thiên Đức - Văn Tinh

    - Thiên Việt - Thiếu Dương

    - Thiên Mã - Hỷ Thần

    Các sao hạng vừa là những quý tinh, văn tinh, phúc tinh vì là sao tốt nên hình thái nóng nảy tương đối nhẹ hơn hung sát hao bại tinh.Tuy nhiên, không phải chỉ có sao hỏa mới nóng nảy. Có nhiều sao thuộc 4 hành khác cũng đồng nghĩa. Chẳng hạn như Tướng Quân (Mộc), Thất Sát, Trực Phù, Kình Dương, Đà La (Kim), Thiên Tướng, Tham Lang, Phá Quân, Hóa Quyền, Thiên Sứ (Thủy), Thiên Thương, Thiên La, Địa Võng, Tuyệt (Thổ).

    C. Cách tự ái
    Liêm Trinh:
    chỉ sự khó tính, khắc nghiệt, tự ái lớn, bắt nguồn từ sự nóng nảy cố hữu hoặc từ những nguyên tắc xử thế mà đương số xem là bất di, bất dịch phải có trong mối tương quan giữa mình và kẻ khác. Hãm địa, mức độ sẽ cao.

    Hóa Quyền:
    đúng là tính tự phụ, tự đắc, mạnh hơn nữa là tự cao tự đại, kiêu ngạo, khinh bạc kẻ khác, xem mình như cao hơn người, coi rẻ người dưới, óc tranh quyền cao, không chấp nhận lép vế. Đối với con người có quyền tước, niền tự ái này càng lớn, thường có xu hướng độc tôn, độc tài và hình thái rất lộ liễu.

    Lâm Quan:
    chỉ sự khoe khoang, tự đề cao, tự kỷ ám thị, thích quảng cáo mình, thích được khen tặng. Vì ý nghĩa tương đối không đẹp nên Lâm Quan nhiều khi chỉ hình thái tự ái không có căn bản như tự ái hão, không đúng chỗ, lúc nào cũng tự xem mình cao hơn người, trịch thượng một cách lố bịch mà chính đương sự không biết, không nhận thức được.

    Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân:
    chỉ sự tự ái ngầm, hoặc dưới hình thức tự trọng hoặc dưới hình thức tự kìm chế không bộc lộ. Cả ba hội tụ nhau chỉ sự khó tính, ít giao thiệp, ít cởi mở, thúc thủ vì không ai ăn ở vừa ý mình, chung cuộc chỉ có mình mới vừa ý mình. Theo nghĩa khác, ba sao này chỉ sự nhút nhát, khắc kỷ.

    Tướng Quân, Thiên Tướng:
    chỉ nóng nảy hơn là tự ái, nhưng đó cũng là một hình thái tự ái lớn, do sự thiếu nhẫn nhục khi bị va chạm, xu hướng can thiệp vào những chuyện bất bình dù là của kẻ khác nhưng bị cho là xúc phạm đến mình. Thiên Tướng thì đôn hậu hơn trong khi Tướng Quân thì xông xáo, tích cực, hiếu thắng. Đứng riêng, hai sao này chỉ sự tự ái đúng chỗ, khi nào bị va chạm, hoặc bị kẻ khác vi phạm vào những quy tắc xử thế bất công. Nếu đi chung, hai sao này biểu lộ niềm tự ái lớn vô cùng.

    Thiên Khôi, Thiên Việt:
    chỉ tinh thần lúc nào cũng ganh đua và cạnh tranh, ít khi chấp nhận thua kém, dù là thua kém chút ít. Tự ái của Khôi Việt chính đáng và hướng thượng.

    Quan Phù, Hóa Kỵ:
    tự ái của hai sao này nhỏ mọn hơn, tinh thần cạnh tranh thiên về đố kỵ, ghen ghét, bực tức. Phù và Kỵ không có khả năng thi đua, tranh thắng bằng thiên hạ mà chỉ có tinh thần ganh tỵ, thường biểu lộ bằng nhiều thái độ không mấy quang minh, chính đại.

    Sát, Phá, Liêm, Tham:
    đây là cách tự ái của con nhà võ, bén nhạy, dễ bị khích động vì cá tính của Sát, Phá, Liêm, Tham rất mạnh, bao giờ cũng chực áp đảo, lấn át kẻ khác. Nếu đắc địa thì hình thái nhẹ.

    D. cách ích kỷ
    Không, Kiếp hãm địa (ở Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu và Tuất ): trong một lá số gian phi, cao độ ích kỷ chưa từng thấy vì đương sự đang tâm chiếm đoạt tư hữu của thiên hạn bỏ túi mình, thậm chí dùng thủ đoạn phi nhân, phi pháp và ám muội để làm lợi cho mình. Đây là tính ích kỷ bất nhân, bất lương, làm giàu phi nghĩa, coi thường đạo đức, dư luận, luật pháp, sinh mạng. Nếu đắc địa, tính ích kỷ họa chăng sáng suốt hơn, tùy trường hợp, tùy người mình giao thiệp, nhưng tựu trung không mất được tính chất vị kỷ.

    Vũ, Tham:
    chỉ nết tham tiền, hám lợi, nhiều khi bất chấp sự phải chăng, nết của hạng ích kỷ con buôn, trục lợi, chỉ biết vét tiền, ít chịu xuất tiền cho ai hoặc cho ai vay mượn, chỉ biết có thu vào thôi. Những bộ sao liên hệ có thể kể: Tham Lang Hóa Lộc, Tham Lang Lộc Tồn, Tham Lang Đại Tiểu Hao ...

    Hóa Kỵ, Cự Môn:
    tính nhỏ nhen, đố kỵ, ganh tỵ của sao này là biểu hiện của tính ích kỷ, không muốn ai hơn mình.

    Quan Phù, Quan Phủ:
    ý nghĩa cạnh tranh, ganh đua, câu chấp, đố kỵ, coi nặng quyền lợi của mình.

    Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân:
    ba sao này chỉ tính nết khó khăn, không dung hợp được với bạn bè, nặng về mình, ít chiều chuộng, ít giao thiệp, thúc thủ, chỉ biết sống cho mình: đó là những nét cá tính của sự ích kỷ. Ngoài ra, đối với tiền bạc, ba sao này hà tiện, tiêu xài kỹ lưỡng, suy tính nhiều nên ích kỷ về tiền bạc.

    Sao Tử:
    chỉ sự suy xét tính toán quá kỹ lưỡng trước khi hành động, cái gì cũng mang ra bàn tính hơn thiệt do đó không hào sảng hay quảng đại.

    Lộc Tồn:
    là cách chặt chẽ về tiền bạc, do sự tính toán cân nhắc trước khi tiêu xài, chưa kể sự chắt mót, hà tiện khả hữu.

    E.Cách đa ngôn
    Thái Tuế:
    là sao điển hình cho tính đa ngôn, ngồi lê đôi mách, lúc nào cũng có đề tài phiếm luận, thường nói về người khác hơn là về mình. Là một khía cạnh của sự hùng biện nếu Tuế đi liền với sao văn học. Trái lại, nếu ở lá số xấu, Tuế thường chỉ họa vì lời nói, vạ miệng khẩu thiệt, xuyên tạc, thêm bớt.

    Lưu Hà:
    chỉ sự nói nhiều, đôi khi nhảm nhí. Đi với khoa tinh thì hùng biện, giống nghĩa như Thái Tuế với sao văn học.

    Hóa Kỵ:
    nặng về phê bình kẻ khác với ít nhiều ác ý, ghen ghét

    .Đà La, Thái Tuế:
    lời nói sai ngoa, ngang bướng, bất chấp lẽ phải, có tác dụng để cãi lộn hơn là lý luận tranh biện. Tuế, Đà là hạng người mỏng môi, bép xép, lải nhải không dứt, gây sự chán ghét, tạo ra vạ miệng, đôi co, khích bác.

    Phục Binh:
    chỉ sự nói xấu, xuyên tạc, hại người khác bằng vu cáo, gièm pha với nhiều tiểu tâm.
    (Sưu Tầm)
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Sống Chết Sự Đại
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Đạo Phật
    Trả lời: 34
    Bài mới gởi: 04-02-2012, 09:05 AM
  2. Kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
    By 123456789 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 21-04-2011, 09:56 PM
  3. Năm Cam - Canh Bạc Cuộc Đời (st)
    By thích tùm lum in forum Những vụ án nổi tiếng 1 thời
    Trả lời: 8
    Bài mới gởi: 25-03-2011, 12:39 PM
  4. Tại sao cơ thể có thể vận động?
    By zigary in forum Thiền Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 07-09-2010, 11:10 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •