NGƯỜI HỌC MẬT TÔNG CÓ ĐƯỢC PHÉP CHỮA BỆNH CỨU NGƯỜI KHÔNG ? ( Bài phản biện ý kiến Sư Huynh Hùng Sơn . )
Nguyên văn bài của Huynh Hùng Sơn : " Huynh kthvcth quí mến .

Mật Tông là một pháp môn tu để giải thoát cho chính mình trong một kiếp . Các hành giả Mật Tông tu trì còn để giải thoát toàn thể chúng sanh ra khỏi bể khổ luân hồi.

Bởi vậy Mật Tông không hề có những bùa phép trị bệnh , hoặc đòi tiền , bắt ghen v.v.... Những anh thầy bùa thường không hiểu gì về Mật Tông nên đem hai chữ Mật Tông ra hủ thiên hạ . Thật là tội lỗi . . . tội lỗi . . .

thân ái
Hùng Sơn ".
" Huynh Dienbatn quí mến .

Có lẽ vì lời nói vụng về nên tại hạ phát biểu sai ý nghĩ của mình chăng . vậy xin được minh xác lại !

Quả thực trong Mật Tông có những pháp trị bệnh như trong kinh của Đức Phật Dược Sư . Hoặc những phép đuổi tà sua quỉ khỏi thân người bị quỉ nhập .Song không phải là những bùa chú để cho các vị lạt ma ban cho tín đồ của mình dùng làm phép trị bệnh như các môn phái khác . Điều mà tại hạ muốn nói là đã gặp quá nhiểu người dủng hai chữ Mật Tông để " hành nghề cứu nhân độ thế " . . . . một cách bịp bợp !

Phải hiểu là một hành giả không thể nào học hỏi một thời gian nào đó mà có thể nói là dùng Mật Tông để trị bệnh được . Đây phải là những vị đã đắc Phật Quả thì mới có cái tài đó ! Thí dụ như Đức Phật Dược Sư chẳng hạn . Hoặc ít nhất thì cũng phải là các vị Phật tái sanh mà thôi .
Những điều huynh Dienbatn nói ở trên theo tại hạ thì hoàn toàn đúng trong tầm nhìn bao quát của tại hạ . Vì chắc chắn còn những điều cao thâm hơn mà tại hạ chưa tu tới nên không biết . Vậy có lẽ đây cũng là mục đích của diễn đàn này . Chúng ta dùng nơi đây để học hỏi lẫn nhau . Và hy vọng huynh dienbatn mở một topic nói về những điều này thì hay quá . Tại hạ rất vui mừng được học hỏi thêm.

thân ái
Hùng Sơn
" .


PHẦN PHẢN BIỆN CỦA DIENBATN

PHÁT NGUYỆN :
Con không xin vào Niết bàn ,
Mà nguyện hướng về Địa ngục .
Cầu cho ngọn lửa ngục hóa Sen vàng .
Con không xin vào cõi Phật ,
Mà nguyện hướng về đao sơn ,
Cầu cho gươm giáo hóa Đạo tràng .
Con không vào Tịnh Quốc ,
Mà nguyện làm chiếc đò ngang ,
Ngày đêm chở hết nỗi trái oan ,
Tâm như Đại hải ,
Tâm như Kiều thuyền .
Con nguyện ở lại .
Cõi Ta Bà lửa ngút máu oan khiêm ...
Trải lòng thương xót khắp nẻo ưu phiền .
Địa ngục xuống lên ,
Luân hồi qua lại ,
Quán Kỳ âm thanh - Con nguyền tự tại .
Xem tiếng kêu mà phiền não độ qua .
Bao giờ Địa ngục còn ma ,
Muỗi mòng còn khổ - Ta Bà còn QUÁN ÂM .

Trước hết , để có thể trả lời vấn đề này một cách cơ bản , rốt ráo , chúng ta nên đi từ những khái niệm ban đầu về hai chữ : MẬT TÔNG .
" Tôn này thuộc về Ðại-thừa, thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai (Tì Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).

Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Uĩy Tam tạng và Ngài Kim Cang Trí Tam tạng.

Vào đầu đời Ðường, hai Ngài Vô Uĩy và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.

Ngài Vô Uĩy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Ðại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả truyền cho Ngài Không Hải là một Ðại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.

Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Ðông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật.

Kinh điển của Mật tôn.- Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh Kim Cang Ðảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du ký và Yếu lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.

Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Ðỏa) băng phương pháp quán đảnh đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn này. " ( HT. Thích Thiện Hoa - Nguồn http://www.buddhahome.net/phatphap/m...ong(thhoa).htm ) .
" Lịch sử Mật tông

Mật giáo được thành lập vào thế kỷ thứ VII ở vùng Nam Ấn với sự xuất hiện của bộ Kinh Đại Nhật (Mahàvairocana sùtra). Đây là bộ Kinh căn bản của Mật tông. Ở Ấn Độ, giai đoạn mà Mật giáo phát triển mạnh mẽ nhất là dưới thời các vương triều Pàla (750 - 1150) ở Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ VII), người đã nhiệt thành ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm trung tâm truyền bá Mật giáo.

Ngài Long Thọ (Nagarjuna, 600 - 650) được coi là vị Tổ sư của Mật giáo. Ngài thuộc dòng Bà la môn, thọ giới tại Nalanda, sau đó đến Vương Xá tu 12 năm đắc thánh quả Đại thủ ấn tất địa (Mahamudràsiddhi). Theo truyền thuyết, có lần Ngài gặp đứa trẻ chăn cừu giúp Ngài qua sông; để đền ơn, Ngài thi triển thần thông giúp đứa trẻ làm vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ quanh đầu. Phật giáo Tây Tạng cho rằng Long Thọ (thế kỷ VII) và Long Thọ luận sư (thế kỷ II) là một, tức Long Thọ đầu thai trở lại. Ngài có đệ tử truyền pháp là Long Trí.

Long Trí (Nagabodhi) là truyền nhân của Ngài Long Thọ. Ngài dòng dõi Bà la môn, nhưng lại thường đi ăn trộm, khi Ngài Long Thọ đang ở Tinh xá Suvarna, Long Trí đến rình xem thấy Ngài Long Thọ đang ăn bằng một cái bát vàng, bèn nảy ý trộm lấy cái bát. Ngài Long Thọ biết tâm ý của Long Trí, liền ném cái bát cho Ngài. Ngài kinh ngạc và cảm phục bèn xin đi theo tu học. Ngài Long Thọ làm phép quán đỉnh cho Ngài nhập môn. Sau 12 năm tu luyện, Ngài chứng ngộ thánh quả.

Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 663 - 723) người Nam Ấn, tu học ở Nalanda. Năm 15 tuổi qua Tây Ấn học về Nhân Minh luận với Ngài Pháp Xứng, sau đó tham học về Luật, Trung Quán luận, Du già luận, Duy Thức luận,... sau cùng tu học và nghiên cứu Kim Cương Đỉnh (Vajra Sekhàra) và các Kinh Mật giáo với Ngài Long Trí ở Nam Ấn 7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa, đến Lạc Dương truyền bá Mật giáo. Ngài được coi như vị Tổ đầu tiên của Mật tông Trung Hoa đồng thời với Ngài Thiện Vô Úy.

Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 750 - 774) là đệ tử xuất sắc của Ngài Kim Cương Trí. Ngài người Bắc Ấn, thọ Sa di năm 15 tuổi, theo Thầy đến Lạc Dương thọ Tỳ kheo giới năm 20 tuổi. Tu học 12 năm thông suốt Mật giáo. Sau khi Thầy mất, Ngài cùng với các đệ tử qua Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh Du già và Đại Nhật thai tạng. Trở về Trường An với số Kinh điển đồ sộ, Ngài khởi công dịch thuật. Ngài Bất Không Kim Cương là Quốc sư của ba triều vua Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông.

Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637 - 735) là đệ tử của Ngài Long Trí, tức là huynh đệ với Ngài Kim Cương Trí, từng là vua xứ Orissa, tu học ở tu viện Nalanda, thâm hiểu Du già, chân ngôn và ấn quyết. Ngài đến Trung Hoa năm 716, đời vua Huyền Tông, trước Ngài Kim Cương Trí 4 năm và cũng được coi là vị Tổ sư của Mật tông Trung Hoa, được vua Huyền Tông trọng đãi. Ngài dịch nhiều Kinh quan trọng của Mật tông như Đại Nhật Kinh, Tô Tất Địa Yết La Kinh,... Đệ tử của Ngài có các Ngài Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí, Nghĩa Lâm,...

Ngài Nhất Hạnh (638 - 727) quê quán ở Thuận Đức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là người tinh thông Tam luận, Thiền học, Thiên Thai,... đặc biệt tinh thông cả Thiên văn học. Khi Ngài Thiện Vô Úy đến Trung Hoa, Ngài được truyền pháp "Thai tạng giới" của Mật giáo. Ngài cùng với Thầy dịch Kinh Đại Nhật và trước tác bản sớ Đại Nhật Kinh. Sau đó, Ngài cũng học với Kim Cương Trí, được truyền cho nghi quỹ của Kim Cương giới. Ngài được lãnh hội cả hai phái của Mật giáo Ấn Độ.

Mật giáo Ấn Độ được khởi xướng và truyền bá do các cao Tăng như Long Thọ, Long Trí, Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy. Trên mặt giáo nghĩa và hành trì thì chia làm hai phái Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa theo tư tưởng của hai bộ Kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Qua Trung Hoa, cả hai dòng hợp lưu ở Nhất Hạnh, đường lối Mật tông Trung Hoa tổng hợp của lý luận và thực tiễn. Mật tông phát triển mạnh và đã tạo nhiều ảnh hưởng đến nền văn hóa nghệ thuật Trung Hoa, được các triều vua ủng hộ nên rất hưng thịnh. Công đức truyền bá Mật giáo Trung Hoa do các Ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không, Nhất Hạnh, Vô Hành,...

Mật giáo được truyền vào Tây Tạng thế kỷ VIII do Ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), người Ấn Độ, sống cùng thời với vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755 - 797). Ngài đến Tây Tạng, đem Mật giáo truyền bá và sáng lập tông phái Ninh Mã (Nyingmapa), một trong bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là Đức Phật Thích Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ, thiên tai và các giáo phái. Ngài xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và trước tác nhiều tác phẩm quan trọng như bộ Tử thư,... Ngài là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.

Sự truyền thừa của Mật tông Tây Tạng không rõ nét và rất phức tạp; những bậc đại sư nổi bật đóng góp làm hưng thịnh và sáng rỡ Phật giáo Tây Tạng sau Liên Hoa Sinh có Atisa (A Đề Sa, 982 - 1054), thế kỷ X, Ngài người Đông Ấn, được mời sang Tây Tạng và sống ở đó 12 năm, đóng góp rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng nói chung và Mật giáo Tây Tạng nói riêng. Ngài sáng lập ra trường phái Kadampa (Cam Đan) ảnh hưởng lớn Phật giáo Tây Tạng, trước tác Bồ Đề Đạo Đăng luận, đặc biệt công trình sắp xếp hệ thống Kinh sách Phật giáo Tây Tạng, lấy triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng, điều đó ảnh hưởng đến các hệ tư tưởng Mật giáo Tây Tạng rất lớn.

Người cải cách nổi tiếng của Mật giáo Tây Tạng là Tông Khách Ba (1357 - 1419), Ngài sinh tại Amdo, thuộc vùng Đông Bắc Tây Tạng. Xuất gia khi còn nhỏ, tham học với nhiều vị đại sư khác nhau, tư tưởng của Ngài ảnh hưởng của Atisa. Ngài sáng lập tông phái Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một tông phái quan trọng nhất của Tây Tạng hiện nay. Ngài chủ trương xét lại toàn bộ Kinh điển và tổng kết thành hai tác phẩm chính: Lamrin Chenmo (Bồ đề đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo, Ngagrim Chenmo (Chân ngôn đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập của Mật giáo. Phật giáo Tây Tạng được chấn chỉnh và phát huy rực rỡ nhờ Tông Khách Ba. Trước khi mất, Ngài phó chúc cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama, tức Đạt lai Lạt ma và Ban thiền Lạt ma; theo truyền thuyết thì hai vị này chuyển sinh để tiếp tục cai trị Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật sống. Mật tông được Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các nơi khác không phát triển mấy. " ( Giới Thiệu Về Mật Tông (Kim Cương Thừa)
Thích Viên Giác - Nguồn http://daitangkinhvietnam.org/index....=407&Itemid=66