Tụng Kinh Trì Chú Niệm Phật

Tâm Minh

Lời thưa: Trong chương trình Phật Pháp của Đoàn sinh cũng như Huynh trưởng có nhiều đề tài mà ai nấy đều cho là “khó” giảng dạy; xin đưa ra vài ví dụ cụ thể như:
Lịch Sử đức Phật Thích Ca, khi nói đến chuyện hoàng hậu Ma Gia sinh thái tử Tất Đạt Đa ở nơi hông trái, không phải như những bà mẹ bình thường ở thế gian này.
Cõi nước của đức Phật A Di Đà ở phương Tây; ở đó, không khí và cảnh vật rất thanh tịnh, đẹp đẽ; ở đó có chim nói Pháp rất hay; ai sinh qua đó sẽ tu thành đạo quả. Muốn được sinh qua đó phải nhất tâm niệm Phật A Di Đà; người được đến cõi này sẽ sinh ra trong một hoa sen, chứ không phải sinh trong bào thai mẹ như bình thường chúng ta thấy ở cõi Ta Bà.
Niệm Phật, trì chú, tụng kinh cầu ở tha lực của chư Phật, chư Bồ Tát. Những mẫu chuyện tiền thân…v.v... và v.v...
Những đề tài trên đây được gọi khó dạy không phải vì người Huynh trưởng chúng ta thiếu niềm tin nhưng vì thế hệ trẻ hôm nay cái gì cũng đòi “mắt thấy tai nghe” mới cho là có lý; mặc dù họ vẫn hiểu rằng mắt tai của con ngưòi có khả năng rất hạn hẹp: những màu sắc mà mắt ghi nhận được không ngoài dải 7 màu: đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím (lam = màu xanh nước biển). Ngoài 2 giới hạn màu đỏ và màu tím thì mắt ta không thấy được nữa! Tai cũng vậy, những âm thanh quá nhỏ, ví dụ nhỏ hơn cả tiếng lá rơi, lỗ tai người sẽ chịu thua ngay (nhưng con chó có thể nghe được), hay những âm thanh quá lớn cũng làm tai ta đau nhức.
Ngoài ra, đôi khi còn có hiện tượng chính bản thân người huynh trưởng cũng không đồng ý về cầu nguyện ở tha lực, về những chuyện thần thoại trong lịch sử đức Phật. Đã nói về tôn giáo tất nhiên phải nói đến đức tin; mặc dù đức tin ở mọi người có nhiều sắc thái khác nhau, nên khi diễn đạt cũng sai khác. Ở đây, chúng ta không bàn đến cách hiểu, cách nhìn Kinh, Chú… từ góc cạnh nào để đưa đến kết luận nào… chúng ta chỉ muốn giới thiệu với anh chị em huynh trưởng một cách nhìn, một lối suy nghĩ về những vấn đề trên đây của một số huynh trưởng trẻ, và họ đã tìm cách áp dụng vào cuộc sống. Xin mời các bạn tham dự buổi pháp đàm của 3 huynh trưởng trẻ A, B và C, trao đổi với nhau kinh nghiệm thực tập, về đề tài: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật
A: Kinh thực sự có nghĩa là gì hở các bạn? Và tụng Kinh để làm gì?
B: Kinh là những lời dạy của đức Phật. Phương pháp chủ yếu của Kinh là khiến ta thay đổi cách nhìn, từ đó dẫn ta tới sự thay đổi về nhân sinh quan và vũ trụ quan. Tụng Kinh là đọc thành tiếng, một mình hay tập thể, để được nghe, được nhắc nhở về những lời dạy đó, để thân tâm được trong sạch, sáng suốt.
C: Tại sao tụng Kinh thì tâm được trong sạch, sáng suốt?
B: Tại vì Kinh dạy ta nhìn từ chân lý bất biến, nhìn theo cái nhìn của Phật. Xin lấy một ví dụ: từ lâu chúng ta quen nhìn mọi sự vật, hiện tượng theo cái ưa-ghét, lấy-bỏ của mình, như: chim bồ câu đẹp, cú mèo xấu, mùa Xuân ấm tốt, mùa Đông lạnh xấu, thích vui, ghét buồn v.v... Phật dạy (Kinh dạy), chúng ta phải nhìn mọi sự vật hiện tượng “như- nó-” (as-it-is) với tâm bình đẳng; không thêm thắt, không khởi tâm ưa ghét hay mong cầu. Như vậy thì tâm mình thanh tịnh, sáng suốt, không bị ô nhiễm vì tham muốn hay ghét bỏ. Mà thay đổi cái nhìn tức là thay đổi cách sống, cách suy nghĩ, v.v... một sự thay đổi rất cơ bản đối với người mới tu như chúng ta. Do đó, tụng Kinh cũng là một cách học Phật Pháp thực hành, cũng thuộc về một nghệ thuật sống sao cho tâm được thanh tịnh.
A: Thật là hay đó! Nhưng mà nhân sinh quan là gì? Vũ trụ quan là gì?
B: À, xin lỗi, nếu dịch ra tiếng Anh là bạn hiểu ngay. Nhân sinh quan Phật giáo chẳng hạn, là quan điểm của Phật giáo về con người, về đời sống con người, v.v... còn vũ trụ quan là quan điểm về thế giới, về vũ trụ, về sự hình thành và tan rã của nó. (Nhân sinh quan của Phật giáo = Opinion of Buddhism about human life; vũ trụ quan của Phật giáo = Opinion of Buddhism about the Universe)
C: Và đức Phật dạy ta những gì về nhân sinh quan và vũ trụ quan? Nghĩa là Kinh đã dạy những gì?
B: Kinh dạy con người là một tập hợp của 5 uẩn: sắc uẩn (body), thọ uẩn (feelings), tưởng uẩn (perception), hành uẩn (mental formation) và thức uẩn (consciousnous). Như vậy, sắc uẩn là Thân và 4 uẩn còn lại là Tâm. Vì vậy, thân này không chắc thật, sống chết vô thường; tâm cũng vậy, luôn luôn biến đổi, dao động, khi ma khi Phật, không đáng tin cậy !
A: Hay ghê! Hèn gì hôm bữa đọc bài Kinh gì mà có câu “Thân như bọt nước, do gió thổi mà thành; niềm vui nỗi khổ của chúng sanh cũng thế, có rồi không. Tưởng thì như ánh nắng nơi cánh đồng xa kia, nhìn thì đẹp nhưng đến nơi có khi nắng đã tắt”, v.v... mình không hiểu gì cả, nay nghe B nhắc lại lời dạy của đức Phật về 5 uẩn một cách rõ ràng ngắn gọn, thật là dễ hiểu.
B: Cảm ơn! Vậy là chúng ta đã nắm được ý nghĩa Kinh là gì và đọc tụng Kinh được lợi ích gì rồi phải không?
C: Phải rồi, nãy giờ chúng ta chưa tụng Kinh mà vẫn thấy rất rõ diệu dụng của Kinh rồi đó, phải không các bạn?
A: Đồng ý, chúng ta có thể đi qua phần thứ hai là Chú rồi. Chú là gì? Trì Chú là gì? Và tại sao ta cần phải trì Chú?
B: Chú, tiếng Sanskrit là Dharani, chúng ta thường gọi theo Tàu dịch là Đà La Ni, hay chân ngôn (Mantra).
C: Chú nói đầy đủ là thần chú, là một câu hay một nhóm âm... có sức mạnh thần bí (theo Phật giáo Mật Tông).
B: Đúng, thần chú chứa đựng sức mạnh đặc biệt của vũ trụ hoặc biểu hiện của một khía cạnh nào đó của Phật tánh; đây cũng là một phương tiện trợ giúp tâm thức của hành giả.
A: Nghe nói đọc thần chú là gây được rung động cùng tần số (frequency) với thần linh phải không?
B: Phải rồi! Vì Đà La Ni còn được coi là “tổng trì”, nghĩa là thâu nhiếp tất cả trong một câu kinh ngắn mang sức mạnh siêu nhiên. Ngoài ra, trong ba cửa: thân, miệng, ý thì Mantra thuộc về miệng và tác động thông qua luồng âm thanh rung động do sự tụng niệm Mantra phát sinh. Hành giả luôn luôn vừa đọc Mantra, vừa quán tưởng một đối tượng và tay giữ một “ấn”. Theo Mật Tông Tây Tạng, chức năng của các Mantra tùy theo thứ bậc (cao thấp khác nhau); người trì chú có thể thấy các linh ảnh, có thể tránh những tai hoạ sắp xảy ra, v.v... người ta thường dùng chữ “không thể nghĩ bàn” để chỉ về những diệu dụng của sự trì tụng thần chú.
A: Các bạn chưa định nghĩa “Trì chú” là gì?
B: Trì là nắm giữ một các chắc chắn; Trì chú là niệm Chú một cách tinh tấn, và đúng cách như sau:
Lúc đọc Mantra, đừng quá gấp rút; đừng quá chậm rãi; đọc đừng quá to tiếng; đừng quá thì thầm; không phải lúc nói năng; không để bị loạn động.
C: Đúng rồi đó, mà bạn B này, bạn hay dùng chữ “hành giả” là ai vậy?
A: Là người thực hành thiền định, thực hành Phật Pháp, người tu tập như chúng ta đây, phải không?
B: Phải rồi, đạo Phật là đạo để thực hành, không phải để thảo luận suông, nên Phật tử chân chính là người biết đem những giáo lý của đức Phật dạy ra thực hành, ta có thể thực hành bất cứ pháp môn nào (Phật có tới 8 vạn 4 ngàn pháp môn!) cũng đều được gọi là “hành giả” để phân biệt với “học giả” là những người chỉ nghiên cứu đạo Phật, viết về đạo Phật nhưng có thể không phải là Phật tử và không thực hành giáo lý Phật đà.
C: Cảm ơn bạn, vậy bây giờ ta trở lại vấn đề đi, sau khi biết Chú là gì, trì Chú là gì rồi, ta hãy trả lời câu hỏi “Vì sao phải trì Chú?” đi ! B: Chú có công năng phi thường như vậy, nên nếu hành giả thành tâm trì Chú thì sẽ thấy được hiệu lực ngay và nhiều lợi lạc không thể tưởng tượng được (nói cách khác là “không thể nghĩ bàn”).
A: Các Bạn có thể nói sơ ý nghĩa của các Chú mà anh chị em mình thường đọc tụng như chú Đại Bi, chú Vãng sanh, chú Lăng Nghiêm, chú Chuẩn Đề, chú Cát Tường, chú Thất Phật diệt tội, v.v... hay không?
C: Mình chỉ biết sơ ý nghĩa chú Đại Bi là do mình được đọc “Đà La Ni xuất tượng”, trong đó giải thích rằng cứ mỗi âm hoặc mỗi nhóm âm đều là một danh hiệu Phật, Bồ Tát, chư Long Thần Hộ Pháp, Quỷ thần, hay Càn Thát Bà, v.v... đại ý là tất cả những vị đó đều hứa bảo hộ, che chở, giúp đỡ cho hành giả được thân tâm an lạc, tai nạn tiêu trừ để có thể tinh tấn tu hành đạo giải thoát. Nhưng mà nhớ là họ chỉ bảo hộ mình làm việc Đạo, lợi ích cho mình và cho mọi người, chứ còn nếu làm việc hại người thì họ không giúp !! Bạn B chắc còn biết ý nghĩa các Chú khác, nói choJ Jđâu đó nha! chúng mình nghe đi !
B: Chú Vãng sanh có hiệu lực giúp hành giả sám hối chân thật, để tội chướng, nghiệp chướng được tiêu trừ tận gốc rễ, sớm ngày vãng sanh về cõi Tây phương Cực lạc. Chú Lăng Nghiêm thì giúp hành giả trí tuệ tăng trưởng, vượt thắng những chướng ma bên ngoài và cả bên trong lòng mình để thân tâm an lạc, không bị ràng buộc vướng bận vào ái dục. Nhớ trong Kinh Lăng Nghiêm, lúc ngài A Nan gặp nạn Ma Đăng Già, đức Thế Tôn sai Ngài Văn Thù đem thần chú đi cứu A Nan, không biết có phải là thần chú này không. Chú Chuẩn Đề được xem là thần Chú diệt trừ tà ma, quỷ quái, v.v... không chỉ bên ngoài mà còn những thứ ma dễ sợ nhất, khó trừ nhất, vẫn là năm mươi mấy thứ ma ở ngay trong tâm mình: ma lười biếng, ma ngã mạn, ma đố kỵ, ma sân hận, ma si mê, v.v... (đức Phật đã giảng rõ ràng trong Kinh Lăng Nghiêm). Chú Cát Tường có hiệu lực giúp thân tâm an lạc, tai nạn tiêu trừ hay tránh xa, ngày đêm an lành gặp mọi điều may mắn. Còn chú “Thất Phật diệt tội chân ngôn” là thần chú gồm tên bảy vị Pháp vương có công năng giúp hành giả trong việc diệt trừ tội lỗi trong nhiều đời nhiều kiếp do vô minh gây ra. Ngoài ra, có nhiều chân ngôn như chân ngôn của Bồ Tát Quán Thế Âm “Om Mani Padme Hum” (chúng ta thường nghe Tàu phiên âm “Án Mani Bát Di Hồng” đó). Thần chú này chỉ có 6 âm nhưng có công năng diệt trừ 6 cảm giác độc hại, đã kéo chúng sanh vào 6 nẻo luân hồi; làm trong sạch hoá (purify) tâm ta; 6 độc đó là: tham, sân, si, ngã mạn, đố kỵ, ái dục. Thần chú có năng lực chuyển hoá chúng trở về trạng thái thanh tịnh ban đầu của chúng.
A: Thiệt là hay quá ! Thế các bạn có kinh nghiệm gì trong việc trì Chú không? Kể cho chúng mình cùng nghe đi !
C: Mình thấy trì Chú giúp mình có định lực mạnh hơn rất rõ. Nhờ chú tâm cao độ để đừng “ăn” mất chữ, đừng nhầm lẫn đoạn trên với đoạn dưới, v.v... mình dần dần luyện được sự nhất tâm; khi trì Chú, mình không nhớ nghĩ những chuyện đời thường. Nói cách khác, tâm mình không “bay nhảy” như khỉ, như vượn được nữa.
B: Ngoài ra, có nhiều khi trì chú giúp mình vượt qua những trở ngại (về tâm) một cách đáng ngạc nhiên; hồi đó mình bắt chước đức Thế Tôn rải tâm Từ ra cho mọi loài chúng sanh; bắt đầu bằng cách rải tâm Từ đến những người thân, bà con, bạn bè..., nhưng mình gặp chướng ngại khi nghĩ đến những người “dễ ghét” ! Mình cảm thấy rất xấu hổ khi biết nguyên nhân của chướng ngại này; nhưng mình vẫn thực tập. Cho đến một hôm mình thấy “đối tượng” đó không còn “dễ ghét” nữa và tâm mình bằng lòng rải tâm Từ đến đối tượng; từ đó, mình cảm thấy rất rõ diệu dụng của Kinh, Chú, cũng như diệu dụng của sự thực hành tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú đó các bạn ạ. Đến nay mình cảm thấy rất hạnh phúc là mình đã tiến bộ, mình không còn thấy ai “dễ ghét” hết, hay nói cách khác mình có thể “yêu thương tất cả”. Tất nhiên là ở mức độ thấp nhất, cho nên mình còn phải tu tập nhiều nhiều.
A: Chết, chúng mình còn một phần nữa, đó là “niệm Phật”. Pháp môn này thì mình cũng hiểu và thực hành hằng ngày; mình nói các bạn nghe thử có phải không nha! Niệm Phật là tưởng nhớ đến Phật, hình dung tướng mạo trang nghiêm của Phật, các đức hạnh của Ngài (từ bi, trí tuệ, tinh tấn, thanh tịnh, hỷ xả) để noi theo gương sáng của Ngài và làm hiển hiện vị Phật ở trong tâm ta (Phật tánh) một ngày gần đây.
C: Đúng rồi đó, niệm Phật cũng giúp ta thanh lọc tư tưởng: Trong khi niệm Phật, nhớ nghĩ đến danh hiệu của Ngài ta không còn để tâm “niệm ma” nữa (ma là ma trong chính nội tâm mình, ma tham sân, ma si mê, ma ngã mạn, ma đố kỵ, ma ích kỷ, v.v... là những “con ma” đáng ghê sợ nhất). Các bạn thường niệm danh hiệu các đức Phật hay các vị Bồ Tát nào?
B: Niệm danh hiệu đức Phật hay Bồ Tát nào cũng được; điều cần thiết là phải thành tâm, chú tâm theo dõi từng chữ, từng âm trong câu niệm; ví dụ “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” hay “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, v.v... Lúc niệm danh hiệu Đức Bổn Sư, hành giả quán hạnh tinh tấn của Ngài, lúc niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, ta chiêm ngưỡng hạnh từ bi của Ngài và cố gắng noi theo; người tu pháp môn Tịnh Độ thì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà cầu vãng sanh; người muốn mong cầu thoát khỏi một căn bệnh hiểm nghèo thì cầu đức Dược Sư, cũng có người muốn niệm danh hiệu đức Phật Di Lặc, v.v... một cách tổng quát, chúng ta có thể niệm hồng danh của bất cứ vị Phật hay vị Bồ Tát nào, chỉ cần phải nhất tâm niệm Phật, đừng để cho tâm khởi lên một ý niệm gì ngoài câu niệm Phật.
A: Điều này mới thật là khó đó !
C: Tất nhiên rồi ! Có như vậy thì 3 nghiệp (thân, miệng, ý) mới không còn tác hại người khác, nghĩa là 3 nghiệp được thuần thiện, thuần lành.
B: Nhưng thật không phải dễ đâu nha! Sử dụng 3 nghiệp sao cho đạt đến chỗ “bất hại” (không có khả năng làm hại ai cả) thì đó đúng là một nghệ thuật sống cao thượng đáng khâm phục.
A: Bạn có thể nhắc lại cho mình biết tại sao cần phải niệm Phật không?
B: Niệm Phật là nhớ nghĩ đến hạnh lành của chư Phật và chư Bồ Tát, là “cột” cái tâm lại nơi tiếng niệm Phật, không để nó chạy lang thang như con trâu chạy lung tung đạp nhằm lúa mạ của người ta, đem đến khổ đau phiền não cho mình và cho người. Như vậy, mình luôn sống trong chân lý, tâm mình an trú trong chân lý, nghĩa là mình có an lạc và làm cho mọi người chung quanh đều an lạc.
C: Vậy là cả 3 thứ tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật đều giúp hành giả phát triển định lực cả phải không?
B: Đúng thế, ngoài ra tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật còn giúp ta thanh tịnh tâm ý, cho ta những kinh nghiệm quý báu về nội tâm của mình. Chúng ta không thể nào hiểu được những điều này nếu chúng ta không thực hành.
C: Phải rồi, không những thực hành các pháp môn này, mà ta còn phải thực hành những lời Phật dạy trong Kinh nữa đó nha! Nếu không, thì chúng ta sẽ biến thành những con vẹt đó !
A: Chí lý, chí lý ! Chúc các bạn thực tập tốt bài học này, còn bây giờ phải chấm dứt ngang đây vì đã hết giờ rồi ! Xin chào, và tạm biệt nha!
B và C: Tạm biệt !

VÀI LỜI TÂM SỰ

Sau khi Thầy Thích Viên Đức viên tịch, để lại một sự mất mát to lớn trong sự truyền bá Mật giáo, vì Thầy là một trong những người đầu đàn, đứng ra truyền bá về Mật giáo vào hậu bán thế kỷ 20. Sự ra đi của Thầy để một sự mất mác to lớn trong sự truyền thừa Tông Mật và cũng đã để lại trong lòng của biết bao nhiêu người sự xúc động, sự âu lo v.v…-dù vẫn biết đó chỉ là hiện tượng tự nhiên, vô thường- dù đệ tử tại gia, xuất gia, hay đệ tử cầu pháp cũng như với rất nhiều người biết đến Phật Pháp đương thời cho đến hiện bây giờ.
May mắn thay! Lúc đó đã có Thầy Thích Quảng Trí xuất hiện, đứng ra thay thế người đi trước để đem đôi vai nhỏ bé gánh vác trọng trách quá quan trọng- đó là tiếp nối sự truyền bá Tông phái Bí Mật . Như tâm nguyện nhỏ nhoi của gia đình chúng tôi, những người nào làm lợi ích cho Phât giáo, cho chúng sanh, cho xã hội v.v… Chúng tôi sẽ xin được đóng góp đôi tay để ủng hộ, tán thán….Bài Nghi thức “Căn Bản Hành Trì Chân Ngôn” xin được đem ra đây để dâng cúng cho những người hữu tâm cầu tu học để dấn thân trên bước đường Giải thoát và cũng để tri ân tấm lòng từ bi bao la cùng trí tuệ rộng lớn của Thầy Thích Quảng Trí đã đang miệt mài nghiên cứu, dịch kinh và phổ biến Mât giáo cho tất cả chúng sanh.

Nay kính
Cư sĩ Liên Hoa



VÀI LỜI TÂM SỰ

Sau khi Thầy Thích Viên Đức viên tịch, để lại một sự mất mát to lớn trong sự truyền bá Mật giáo, vì Thầy là một trong những người đầu đàn, đứng ra truyền bá về Mật giáo vào hậu bán thế kỷ 20. Sự ra đi của Thầy để một sự mất mác to lớn trong sự truyền thừa Tông Mật và cũng đã để lại trong lòng của biết bao nhiêu người sự xúc động, sự âu lo v.v…-dù vẫn biết đó chỉ là hiện tượng tự nhiên, vô thường- dù đệ tử tại gia, xuất gia, hay đệ tử cầu pháp cũng như với rất nhiều người biết đến Phật Pháp đương thời cho đến hiện bây giờ.
May mắn thay! Lúc đó đã có Thầy Thích Quảng Trí xuất hiện, đứng ra thay thế người đi trước để đem đôi vai nhỏ bé gánh vác trọng trách quá quan trọng- đó là tiếp nối sự truyền bá Tông phái Bí Mật . Như tâm nguyện nhỏ nhoi của gia đình chúng tôi, những người nào làm lợi ích cho Phât giáo, cho chúng sanh, cho xã hội v.v… Chúng tôi sẽ xin được đóng góp đôi tay để ủng hộ, tán thán….Bài Nghi thức “Căn Bản Hành Trì Chân Ngôn” xin được đem ra đây để dâng cúng cho những người hữu tâm cầu tu học để dấn thân trên bước đường Giải thoát và cũng để tri ân tấm lòng từ bi bao la cùng trí tuệ rộng lớn của Thầy Thích Quảng Trí đã đang miệt mài nghiên cứu, dịch kinh và phổ biến Mât giáo cho tất cả chúng sanh.

Nay kính
Cư sĩ Liên Hoa


NGHI THỨC CĂN BẢN HÀNH TRI CHÂN NGÔN
Sa môn Thich Quảng Trí biên soạn và truyên bá

( Trích trong Bộ Quán Thế Âm Bồ Tát A-Lợi-Đà-la Đà-la-ni Kinh thuộc tủ sách Mật tạng do Dịch giả: Sa môn Thích Quảng Trí dịch từ Hán ra Việt và do Gia đình Cư sĩ Liên Hoa ấn tống năm 1981)


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Xưa Đức Như Lai giáng sinh, đem Đạo Pháp giáo hoá mọi người, xiển dương Đại Thừa, dẫn dắt quần mê, mở bày ra muôn Pháp, mục đích duy nhất là làm thế nào để chúng sanh đạt đến bờ Giác ngộ, giải thoát.
Về phần nghiên cứu giáo Pháp của Đức Thế Tôn thì đã sẵn có Tam thừa giáo lý, Mười hai Bộ chân kinh bí điển, tùy trí tuệ mà tham học.
Về phần thực hành cũng có sẵn tám vạn bốn ngàn diệu pháp chánh truyền, tùy căn cơ mà tu tập.
Vì vậy, có người niệm Phật, tụng Kinh, tham thiền, trì chú v.v…nhưng gần đậy, số người hành trì Chân ngôn Mật giáo một ngày một nhiều, không kém số người niệm Phật , tham thiền của Tịnh độ tông và Thiền tông.
Hành trì Chân ngôn thực ra phải theo đúng Nghi quỹ, Đàn pháp nhất định mới đạt được kết quả Tất địa viên mãn. Nhận thấy một số hành giả trì tụng Chân ngôn mà không y theo một nghi thức nào nhất định, có lẽ vì gia duyên ràng buộc, thiếu thốn phương tiện, không thể tu tập theo những Nghi thức dành cho các bậc thượng căn như trong Mật tạng qui định. Vì vậy, chúng tôi cố gắng làm hết sức mình để cho tập “Nghi thức căn bản hành Chân ngôn” ra đời hầu giúp quý hành giả có một nghi thức phổ thông, tổng quát, giản lược nhưng vẫn đầy đủ, dùng chung cho tất cả Chân ngôn, thông cả năm Bộ, lại dễ hiểu, dễ thực hành, ngoại trừ những Nghi thức đặc biệt.
Sách Pháp Uyển viết: “Kẻ đạo, người tục tụng kinh, trì chú không được công hiệu hoặc vì văn tự thiếu sót, hoặc tiếng đọc không đúng cách”. Vì vậy, trong Nghi thức nầy, chúng tôi ghi chép Chân ngôn đúng theo Phạm âm hầu mong quý hành giả tu tập mau được linh nghiệm. Phần ấn khế của Chân ngôn, chúng tôi không ghi chép ra nơi đây, vì nhận thấy quý vị phần đông là Phật tử tại gia, thiếu phương tiện lập Đàn, lập thất để tu tập đầy đủ ấn chú, nên Nghi thức nầy có thể trì tụng tại bàn Phật trong gia đình mà không phải sợ vi phạm các điều cấm kỵ trong Chân ngôn, Ấn chú.
Phàm tu Chân ngôn, hành giả phải định thời khoá nhất định, hoặc 1 thời, 2 thời, 3 thời, 4 thời cho đến 6 thời, tùy theo phương tiện của mình để sự tu tập không bị gián đoạn.
Lại nữa, trước khi vào Đàn tu tập phải tắm rửa, súc miệng, lòng chí thành vì lục đạo chúng sanh mong cầu giải thoát, phát tâm Bồ đề, tinh tấn dũng mãnh không bỏ qua một thời khoá nào. Khi hạ thủ công phu tu tập, dầu thấy các cảnh giới lạ cũng không nên phô bày với người khác. nếu với đồng đạo mà không vì danh lợi, kính khen thì có thể trình bày chút ít.
Trong thời Mạt pháp nầy, căn cơ chúng sanh thấp kém, nghiệp chướng sâu dày, nếu không nhờ vào tha lực của Chân ngôn hay Hồng danh của chư Phật thì khó có thể ra khỏi biển sanh tử, đạt đến bờ Giác ngộ. Ngưỡng mong chư Phật tử, chư hành giả vì đường sanh tử mà cố gắng tinh tấn trì chú, niệm Phật, trước độ mình, sau nữa độ chúng sanh, cùng nhau tiến dần đến cảnh trí an lạc, hầu khỏi phụ hoài bảo xuất thế độ sanh của Đức Phật và công phu giáohoá của Lịch Đại Tổ Sư.
Xin nguyên đem công đức nầy hồi hướng cho nhất thiết pháp giới chúng sanh đồng ngộ Phật tâm, đồng thành Phật đạo.
NAM MÔ THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT MA HA TÁT

Kính đề
Tỳ kheo THÍCH QUẢNG TRÍ
LIỂU QUÁN TỰ
629/128 Lạc Long Quân - Tân Bình



NGHI THỨC CĂN BẢN HÀNH TRÌ CHÂN NGÔN

* Thiết lập Đạo tràng, thiêu hương tán hoa, tu pháp Chân ngôn nào thì thờ Bổn tôn của Chân ngôn đó. nếu không đủ, thì thờ một Tượng Phật nào cũng được.
* hành giả phải tắm rửa sạch sẽ trước khi vào đạo tràng. trước Tôn tượng Bổn tôn ý chí phải kiên thành tưởng như có Bổn tôn trước mặt, tưởng như vậy xong chí thành đảnh lễ Tam Bảo. Trước ần phải đọc :

1)- TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN :

- Om- Rôm ( 7 lần )
2)- TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN :

- Om- Xoa-ba-va Sút-đa Sạt-va Đạt-ma Xoa-ba-va Xút-độ Ham ( 7 lần )

3)- AN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN :

- Na-ma Sa-măn-tá Bút-đa-nâm. Om- Đờ-rịt Thi-vi-dê Xoá-ha ( 7 lần )

4)- PHỔ CÚNG DƯỜNG CHÂN NGÔN :

- Om- Ga-ga-na Sam-ba-ra Vắc-ra Hốc ( 7 lần )

Khi đọc chú nầy, tưởng hương hoa, đồ ăn uống dâng cúng biến ra rất nhiều cúng dường tất cả chư Phật, Hiền Thánh và lục đạo trong mười phương.

5)- PHỔ LỄ CHÂN NGÔN

- Om- Vắc-ra Vít ( 7 lần )

Khi đọc chú nầy, tưởng than mình ở khắp các cõi nước mười phương đương đảnh lễ Chư Phật, Bồ tát v.v…

6)- ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT, BỔN TÔN, TAM BẢO :

hành giả đảnh lễ xong, ngồi bán già hoặc kiết già trước Bổn Tôn, khởi công niệm tụng Đại Luân Kim Cang :

- Na-mát Xơ-tờ-ri-da Đi-vi-ca-nâm Ta-tha-ga-ta-nâm Am-vi-ra-ti Vi-ra-ti Ma-ha Chắc-cờ-ra Vắc-ra Xa-ta Xa-ta Xa-ra-tê Xa-ra-tê Tô-ra-di Tô-ra-di Vi-đa-ma-ni Xâm-bam-ra-ni Tờ-ra-ma-ni Xít-đa Gai-da Tô-ra-ni Xoá-ha ( 7 lần )

7)- KẾT ĐÀN CHÚ :

- Om- Vắc-ra Chắc-cờ-ra Hùm, Rắc Hùm , Vam Hốc ( 7 lần )

Khi đọc tụng 2 chú trên thì trên hư không Chư Phật sẽ vì hành giả kết Đàn , nếu không đủ phương tiện sắm sửa cúng dường ….đọc Chú nầy sẽ đầy đủ, mau thành sở nguyện.

8)- TỐC TẬT THÀNH TỰU NHẤT THẾ CHÂN NGÔN :

- Om- Ta Ta Tu Ti Ti Ti Ti , Tu Tu Tu Tu Vắc-ra Xắc-đô Rắc Hùm Vam Hốc, Hờ-rịt Hắc Hùm Phạt Hùm ( 21 biến )

Tụng Chú nầy thì tu Chân ngôn mau thành tựu .

9)- GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN :

Hành giả hai tay nâng chuổi để trước ngực .

- Om- Vairocana Mala Svaha ( 7 lần )

10)- CĂN BẢN CHÚ :

Đến đây, hành giả tự một Chân ngôn nào nhát định mà hành trì . Có thể đó là Đại-bi Chú, Ngũ Bộ chú, Chuẩn-Đề v.v… tụng nhiều ít, tuỳ thời gian của mình. mỗi biến, Mỗi hột chuổi.

11)- PHỤNG TỐNG CHÂN NGÔN :

- Om- Vắc-ra Múc-cờ-xá-múc ( 7 lần )

Niệm tụng xong, tụng Chú nầy đưa Bổn-Tôn Hiền Thánh trở về Bổn cung.
Hành giả nếu kiêm niệm Phật thì tới đây, bưng chuổi mà niệm. Bằng không đứng dậy phát nguyện hồi hướng mà ra Đạo tràng