Tôn Giả ANAN Nhập Diệt

Khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài truyền thừa “y” “bát” lại cho tôn giả Đại Ca Diếp. Rồi 20 năm thắm thoát trôi qua, bây giờ Đại Ca Diếp đã hơn 100 tuổi. Biết mình sắp ra đi, tôn giả bèn đem gia nghiệp Phật pháp dặn dò trao lại cho A Nan, lúc ấy cũng gần 80 tuổi. Đại Ca Diếp sau khi phú chúc cho A Nan thì ôm “bát” vào núi Kê Túc mà nhập diệt. Tôn giả kế thừa dòng pháp cũng là điều tự nhiên như hoa đến kỳ nở nhụy và đó cũng chính là niềm hy vọng của Đức Thế Tôn.

Nếu nhìn lại thì Phật pháp được phát triển rất rộng rãi từ thời Đức Phật thành đạo cho đến thời vua A Xà Thế. Nhưng sau khi Đại Ca Diếp nhập diệt thì về sau hàng đệ tử thân cận với Đức Thế Tôn chỉ còn lại A Nan mà thôi. Tôn giả tuy lãnh đạo tăng đoàn nhưng tuổi tác mỗi năm mỗi cao. Một hôm nọ trên đường đi, lúc đó tôn giả đã 120 tuổi, Ngài nghe một thầy tỳ kheo trẻ tụng bài kệ rằng:

Nếu người sống trăm tuổi,

Không thấy thủy lão hạc.

Chẳng bằng sống một ngày,

Mà được thấy hạc ấy.

A Nan nghe qua, thấy bài kệ bị tụng sai lầm một cách tệ hại như râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên tôn giả bèn lập tức cải chánh. Bài kệ phải tụng như thế này:

Nếu người sống trăm tuổi,

Không hiểu pháp sanh diệt.

Chẳng bằng sống một ngày,

Mà được hiểu rõ ràng.

Thầy tỳ kheo kia nghe A Nan dạy xong liền trở về thưa lại với sư phụ, chẳng dè sư phụ của thầy nổi sùng nói rằng:

- Ông đừng nghe A Nan nói bậy, năm nay A Nan đã quá già thành ra lú lẩn. Ta dạy ông không sai đâu.

Thầy tỳ kheo trở lại đem lời sư phụ nói lại với A Nan. Tôn giả định đi tìm ông ta để hỏi tại sao lại nói những lời ngu si như vậy? Nhưng suy đi nghĩ lại thì con người đã thốt ra lời ấy có nói chưa chắc đã chịu nghe, nên thôi. Một vị trưởng lão ôn hòa như A Nan, một vị thống lãnh giáo đoàn đương thời và nắm trong tay giáo quyền tối thượng mà vẫn áp dụng lối xử sự nhún nhường.

Tuy vậy, một bậc trưởng lão thánh tăng đã 120 tuổi thì việc đời không còn chút lưu luyến, nhưng sau khi gặp chuyện trên lại càng chán ngán cho thế gian. Đức Thế Tôn nhập diệt chưa bao lâu mà có người đã hiểu sai Phật pháp cho nên sau nầy trong giáo đoàn sẽ có những điều tà kiến thì làm sao tránh khỏi. Ta vì Phật tụng lại giáo pháp mà mọi người lại chấp chặt vào kiến chấp của họ chứ không chịu theo đúng pháp mà làm. Vậy ta còn ở lại nơi đây để làm gì?

Nghĩ ngợi như vậy khiến tôn giả tự nhiên nhớ đến Đức Phật, rồi liên tưởng đến các vị đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…Càng nhớ lại ngày xưa làm tôn giả càng suy tư triền miên:” Ôi! Những vị ấy, như chim bay theo gió, một lúc mà tất cả đã vào cõi thánh. Trong bao nhiêu vị thánh bây giờ chỉ còn mình ta, như rừng cây bị đốn sạch chỉ còn sót lại một cây cổ thụ không đủ che mưa đỡ gió. Cõi nhân gian nầy thật trống rỗng, đã đến lúc ta nhập diệt mà thôi.

Suy nghĩ xong, tôn giả quyết định đem Phật pháp trao phó lại cho Thương Na Hòa Tu rồi ôm bát hương về hướng sông Hằng mà đi. Lúc bấy giờ vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà đang khai chiến với Tỳ Xá Ly. Tôn giả nghĩ rằng:” nếu nhập diệt ở nước Ma Kiệt Đà thì di thể không được chia cho nước Tỳ Xá Ly còn như tôn giả đến Tỳ Xá Ly nhập diệt thì họ cũng không chia phần cho Ma Kiệt Đà, cho nên tôn giả quyết định chọn sông Hằng là biên giới của hai nước và ở trên không mà nhập diệt.

Vua A Xà Thế nghe tin A Nan sắp nhập diệt thì choáng váng muốn xỉu liền tức tốc mang binh mã đuổi theo. Khi chạy đến sông Hằng thì thấy tôn giả đã lên thuyền ra giữa sông. Nhà vua bèn quỳ mọp sát đất mà lớn tiếng kêu:

Đức Phật tối thắng tự tại! Xin Ngài từ bi. Tôn giả đã ban an lành cho chúng con! Tôn giả là đèn sáng của ba cõi! Xin Ngài hãy quay trở lại.

Còn sông bên kia thì dân chúng Tỳ Xa Ly cũng tụ tập bên bờ và kêu réo như A Xà Thế. A Nan ở trong thuyền bèn nói lớn:

- Ta đã suy xét, chính vì sự oán hận giữa hai nước các ông ta mới đặc biệt đến giữa sông Hằng mà nhập diệt. Cầu mong cho các ông được hòa bình thân thiện.

Tôn giả nói xong, bèn ngồi giữa hư không nhập hỏa quang tam muội khiến di thể rơi xuống hai bên cho hai nước xây tháp cúng dường. Một tháp được xây ở giảng đường Đại Lâm phía Bắc nước Tý Xá Ly và một tháp được xây ở cạnh tịnh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá. Do nhân duyên nhập diệt của tôn giả khiến hai nước cởi mở oán thù, không còn gây chiến với nhau cứu được biết bao mạng sống của nhân dân. Sự hy sinh của tôn giả thật cao quý lớn lao vô cùng.

Tôn giả A Nan nhập diệt rồi thì công lao của Ngài đối với Đức Phật cũng như sự cống hiến cho Phật pháp thật là bao la vô tận. Khi biết giáo pháp thì phải nghĩ đến A Nan. Một A Nan ôn hòa từ mẫn, khiêm tốn nhân nhượng như là một ngọn đuốc soi sáng vào trong tâm của tất cả Phật tử ngàn đời về sau.

Cập nhật cuối (Thứ 6, 16 Tháng 10 2009 19:21)