Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 70

Ðề tài: Các Nhà Ngoại Cảm đi Tìm Mộ

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Các Nhà Ngoại Cảm đi Tìm Mộ

    BBC làm phim về các nhà ngoại cảm

    Đài BBC vừa hoàn thành và cho trình chiếu trên tivi bộ phim tài liệu nói về việc đi tìm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm ở Việt Nam.
    Bộ phim Psychic Vietnam vừa được chiếu trên kênh BBC Two ở Anh hôm 18-5-2006.

    Tại Việt Nam, cho đến hôm nay, việc tìm hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính trên mộ liệt sĩ vô danh vẫn là công việc vô cùng khó khăn.
    Trong khoảng một thập niên vừa qua, có một hiện tượng là nhiều gia đình đã nhờ đến những người được nói là có khả năng ngoại cảm để giúp tìm mộ người thân.
    Các nhà làm phim Psychic Vietnam đã đến Việt Nam, và đi theo hai nhà ngoại cảm ở miền Bắc và miền Nam trong quá trình tìm mộ của hai chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.
    Theo những ước tính thận trọng nhất, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hơn ba triệu người Việt, trong đó có khoảng một triệu người lính Bắc Việt.


    Sau 30 năm, hơn một nửa vẫn thuộc trong diện mất tích.

    Hy vọng
    Một số nhà ngoại cảm đã trở thành những người mang hy vọng cho nhiều gia đình, muốn được có cảm giác khép lại một trong những chương đẫm máu nhất của thế kỷ 20.

    Ông Nguyễn Khắc Bảy được nói là đã tìm thấy 500 hài cốt trong năm 2005

    Có thể phải mất cả một năm để có cuộc hẹn gặp với ông Nguyễn Khắc Bảy.
    Mỗi ngày lại có hơn chục gia đình đến căn gác nhỏ của ông, vì họ tin rằng ông có khả năng liên lạc với người đã khuất.
    "Đừng nói gì cả cho đến khi tôi hỏi," ông cất lời, nhìn thẳng vào gia đình ngồi đối diện.
    Đột nhiên, ông Bảy bừng tỉnh: "À, có rồi."
    Ông cầm một bức bản đồ tự vẽ. Quan trọng hơn cả, nó có một vòng tròn màu đỏ, chỉ đến cái mà ông nói là nơi an nghỉ cuối cùng của người mất tích.
    Gia đình sau đó nhận ra đó là bản đồ của một vùng trong thời chiến, đã hơn 30 năm tuổi.
    Ông Bảy trực thuộc Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người ở Hà Nội, có người phụ trách ở đây là tướng Nguyễn Chu Phác.
    Ông đã tiến hành kiểm tra hàng trăm người tự nhận là có khả năng ngoại cảm. Theo ông, nhiều người chỉ là lừa mà thôi.
    Vì thế, ông tập hợp lại những người mà ông tin là những nhà ngoại cảm giỏi nhất của đất nước cho Dự án TK05, một nghiên cứu về cách thức người sống liên lạc với người đã khuất.
    Thành lập từ năm 1987, các nhà ngoại cảm của trung tâm nói là họ đã xác định được hàng ngàn hài cốt liệt sĩ, nhưng khó có được sự xác nhận cụ thể.
    Việc kiểm tra DNA nằm ngoài tầm với của đa số người Việt Nam, vì để làm được cần cả tiền bạc và ảnh hưởng.
    Nhưng một số cán bộ như ông Bảy đã giúp thực hiện độc lập một số kiểm tra DNA. Kết quả cho thấy những sự tương hợp.

    Liên lạc
    Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, một nhà ngoại cảm khác, hoạt động một mình, là bà Vũ Thị Minh Nghĩa, được biết đến với danh xưng Năm Nghĩa.


    Bà Năm Nghĩa tin mình liên lạc được với người đã khuất

    Ngôi nhà của bà cũng là nơi thờ khoảng 4000 người lính mà bà tự nhận là mình đã tìm ra.
    Các bức hình của họ choáng hết khoảng trống trong nhà. Bên dưới là một số quan tài, chờ người đến nhận.
    Hơn 400 thi thể khác được đặt ở một nghĩa trang tư nhân.
    Giống như ông Bảy, bà Nghĩa giải thích bà có được khả năng ngoại cảm sau một lần ốm suýt chết.
    Bà nói mình được linh hồn các liệt sĩ dẫn đường, và thấy họ hiện ra rõ ràng như người sống.
    Ba ngày trong tháng, bà làm các buổi gọi hồn cho thân nhân những chiến sĩ mất tích.
    Giữa làn khói hương, bà Nghĩa gọi hồn của người lính Vũ Công Trạch. Người vợ của ông, và con trai cùng con dâu có mặt trong buổi gọi hồn này.
    Gia đình ông Trạch đã trải qua gần 40 năm để tìm kiếm hài cốt của ông. Bà Năm Nghĩa là hy vọng cuối cùng của họ.
    Nhà ngoại cảm chỉ có duy nhất một tấm giấy báo tử cho biết nơi hy sinh: "Miền Nam".
    Trong 10 phút sau đó, những gì gia đình được nghe khiến họ hoàn toàn tin tưởng.
    Con trai ông Trạch khóc và nói: "Thông tin bà nói về ngôi nhà tôi ở, địa hình, các loại cây ở đấy, quá chính xác."
    Người gọi hồn cũng nhắc đến lần người con dâu bị sảy thai, một điều mà gia đình chưa nói với ai.
    Cuối chiều hôm ấy, gia đình họ đi tìm ngôi mộ. Các chỉ dẫn có vẻ chính xác.
    Đối với gia đình, cuộc tìm kiếm nay kết thúc.
    Người vợ góa của người lính, nay đã tóc bạc phơ, nói: "Bây giờ tôi mới được thanh thản. Đây là tất cả những gì tôi muốn. Tôi có thể chết thanh thản."
    Còn đối với ông Nguyễn Khắc Bảy, ông nói sau khi giúp một gia đình tìm ra hài cốt người đã khuất, ông cảm thấy mình "giúp đóng góp một phần cho việc giảm bớt buồn đau ở đất nước này."
    Quý vị có thể xem lại trọn vẹn bộ phim tài liệu một giờ đồng hồ này bằng cách vào trang This World của BBC. Chương trình sẽ tồn tại trên trang web trong vòng bảy ngày.


    ================

    Đây là toàn bộ cuốn phim dài hơn 1 giờ mà đài BBC đã trình chiếu. Tuy nhiên phim cũng khá mờ

    Phim rất hay và chân thực

    Mời các bạn xem bằng Window Media

    http://www.mediafire.com/?cybolzzzy24
    __________________

    http://timnguoithan.net/Video/TimNgu...hicVietnam.wmv

    --------------------------------


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.

    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.

    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.

    đây là clip đã được gắn vào web mọi người bấm xem luôn cho tiện :D
    Last edited by Bin571; 12-11-2010 at 10:29 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Những người làm "khoa học kỳ lạ"

    TTCN - “Ngày xưa Galillée đã “điên” khi nói Trái đất tròn, nhưng bây giờ Trái đất tròn thật. Nếu nghiên cứu khoa học mà chỉ bảo thủ tin vào những gì đang có, đang giải thích rõ ràng được thì có lẽ 100 năm, thậm chí 1.000 năm sau, khoa học vẫn chỉ giậm chân tại chỗ”.

    GS-TS Đào Vọng Đức - nguyên viện trưởng Viện Vật lý Hà Nội, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người UIA- đã nói như thế về công việc của mình và đồng nghiệp. Phóng sự này phản ánh thực tế nỗ lực của họ, còn kết quả như thế nào thì như lời của chính họ đã nói: “Cứ dấn thân vào đi, rồi sự thật sẽ sáng tỏ”.


    GS-TS Đào Vọng Đức -
    nguyên viện trưởng Viện
    Vật lý Hà Nội, giám đốc Trung tâm
    Nghiên cứu tiềm năng con người

    Căn phòng 107 nhỏ bé lọt thỏm trong khu nhà đồ sộ của Viện Vật lý ở số 10 Đào Tấn, Đống Đa, Hà Nội. Vật dụng đơn sơ với vài chiếc tủ hồ sơ, máy vi tính, bàn ghế cũ kỹ. Không gian quạnh quẽ, mốc thếch mùi thời gian, ít ai tin nổi đó lại là trụ sở của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Một cơ quan thuộc Liên hiệp Các hội khoa học - kỹ thuật VN bao gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học và những người có khả năng khác thường chuyên đi tìm câu trả lời cho những việc mà... hiện nay chưa trả lời được.

    Trồng lúa bằng...nhân điện

    Trong hàng loạt đề tài “kỳ lạ” trung tâm này nghiên cứu, gần đây có một đề tài “Nghiên cứu tác động nông nghiệp đối với cây” mà nói rõ hơn là “trồng lúa bằng nhân điện” đã và đang được rất nhiều người chú ý. Chúng tôi tìm gặp GS-TSKH Lê Xuân Tú, trưởng bộ môn năng lượng sinh học của trung tâm, kiêm chủ nhiệm đề tài này, không khó. Hình như ông cũng muốn công việc “kỳ lạ” của mình và cộng sự được rõ ràng hơn trước lắm ý kiến khen, chê ngược xuôi.

    “Đó là phương pháp trồng lúa mà chỉ bón phân, chăm sóc bằng ánh mắt”. GS-TSKH Tú ngồi đối diện chúng tôi với đôi mắt nhìn thẳng nghiêm túc sau tròng kính cận. Ông kể chương trình nghiên cứu này đã được thực hiện hơn hai năm tại các cánh đồng ở Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc... Khởi đầu phương pháp này cũng không hề khác truyền thống với giống má, thửa ruộng, đất đai, nước...

    Điểm khác biệt chỉ là cách trồng lúa truyền thống phải bón phân, phun thuốc trừ sâu, còn lúa trồng bằng năng lượng sinh học (nhân điện) thì hoàn toàn không cần trợ lực bởi các “ngoại vật” này. Hằng tuần, những người thực hiện (người có khả năng truyền năng lượng sinh học) sẽ đến nhìn lúa trên thửa ruộng đó khoảng 1-2 phút. “Tất cả chỉ có thế thôi, chẳng bí thuật, bí quyết gì cả. Nhưng không phải ai cũng làm được”. Ông Tú nhấn mạnh và cho biết đó là những người phải qua tập luyện đạt đến mức độ thu nhận, phát truyền được năng lượng sinh học của vũ trụ.

    Giáo sư Lê Xuân Tú

    Theo ông, nhận thức cũng như thực hành về năng lượng sinh học ở VN còn ít nhiều tranh luận, nhưng trên thế giới nó đã tồn tại từ lâu. Đây là nguyên khí của vũ trụ có nhiều ảnh hưởng về sinh học lên sinh vật. Ở Ấn Độ, Pháp, Nga, Mỹ, Trung Quốc... đều có các trung tâm nghiên cứu, thực hành và bộ môn giảng dạy hẳn hoi. Nếu con người không có những dạng năng lượng sinh học khác nhau làm sao người ta đo được điện não đồ, tâm đồ...

    Trở lại ứng dụng trong nông nghiệp, ông Tú cho biết cụ thể các ruộng lúa “bón bằng mắt” đã được thử nghiệm ở các địa phương Đan Thầm, Mỹ Hưng, Duyên Thái, Song Phượng, tỉnh Hà Tây; Châu Phong, Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc... Song song với các thửa ruộng trồng lúa bằng nhân điện, nhóm nghiên cứu cũng thuê luôn đất ruộng ở sát bên và trồng theo phương pháp truyền thống để so sánh. Kết quả là lúa “bón bằng mắt” vẫn lên xanh tốt như lúa trồng bón phân, xịt thuốc, năng suất đạt 5-6 tấn/ha. Nhưng cái hơn rõ ràng là lúa “năng lượng sinh học” cho ra thóc sạch, gạo sạch, lâu thiu, còn độ thơm dẻo thì như bình thường.

    Trong quá trình trồng, người tò mò, chờ đợi kết quả nhiều, người phản bác cũng không ít. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu vẫn kiên trì công việc “lạ đời” của mình. Ngay từ đầu, họ đã mời các nhà khoa học nông nghiệp đến tham quan, kiểm tra tại ruộng. Sau thu hoạch, hạt gạo cũng được gửi đến Viện Công nghệ sau thu hoạch, Viện Cơ điện để phân tích cho kết quả tốt. Đặc biệt, Viện Thổ nhưỡng tham gia nghiên cứu cũng cho thấy đất trồng lúa “năng lượng sinh học” vẫn đảm bảo độ phì nhiêu như đất trồng lúa thường sau hai vụ “trồng chay” và thu hoạch.

    Trả lời câu hỏi của chúng tôi là đến nay có thể khẳng định kết quả đề tài như thế nào, GS-TSKH Tú cho biết một hội đồng khoa học sẽ nghiệm thu trong tháng 1-2005. Riêng ông khẳng định đã đi đúng đường và gặt hái kết quả tốt. “Đó là tiền túi, công sức của cả một tập thể. Ban đầu chỉ thử nghiệm trên 2m2, sau đó tăng 200m2, 900m2, rồi lên đến 20.000m2 sau bốn vụ...”.

    Tâm sự với chúng tôi, ông Tú rất hi vọng vào kết quả cuối cùng được thừa nhận, khi ấy sẽ góp phần phát triển bền vững nền nông nghiệp quốc gia. “Phương pháp đơn giản. Vấn đề lớn nhất là con người thực hiện, và chúng tôi đang đào tạo những con người này. Nếu thành công, chắc chắn chúng tôi không chỉ áp dụng trên cây lúa”.

    Tìm hài cốt liệt sĩ từ xa

    Chuyện những người có khả năng ngoại cảm tìm kiếm, xác minh hài cốt thật sự đã rộ lên suốt hai thập niên qua ở VN với nhiều tên tuổi khắp Bắc - Trung - Nam. Kéo theo đó là hàng loạt người tin, hàng loạt cuộc tìm kiếm có kết quả cũng như... hàng loạt ý kiến phản bác. Ngay từ khi ra đời năm 1996, các nhà khoa học của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người đã xác định đây là một nhiệm vụ trọng tâm mà họ phải lý giải trên cơ sở khoa học và các chứng minh thực nghiệm.

    Nó thuộc bộ môn nghiên cứu cận tâm lý do tiến sĩ - thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ nhiệm. Năm nay đã gần 80 tuổi nhưng ông vẫn cùng các cộng sự Dương Mạnh Hùng, Phan Thị Bích Hằng, Lê Khắc Bảy, Thẩm Thúy Hoàn... lặn lội khắp đất nước để thực nghiệm và tìm hiểu sự thật trong một loạt đề tài TK05, TK06, TK07...

    Trong nhóm họ, Dương Mạnh Hùng là lương y ở Hà Nội. Năm 20 tuổi, anh chết sau một trận sốt cao và đã được tẩm liệm (gia đình anh còn lưu giữ các bức ảnh này). Ông bác ở quê ra trễ nên lật tờ giấy bản trên mặt cháu để được nhìn lần cuối cùng. Bỗng thấy tờ giấy lay động, ông gọi người nhà nhanh chóng đưa vào Bệnh viện Việt - Đức cấp cứu.

    Sau lần thoát chết ấy, anh Hùng tiếp tục học nghề thuốc và đi chữa bệnh. Một lần, trong lúc bắt mạch người bệnh, trong đầu anh tự nhiên như hiện lên cả một đoạn phim về gia đình bệnh nhân cả người còn sống lẫn người đã mất. Trong đầu thấy gì, miệng anh cứ thốt lên như thế, người bệnh ngạc nhiên đến hốt hoảng, còn anh cũng thấy sợ chính mình. Sau đó anh liên tục phát xuất khả năng này mỗi khi bắt mạch thái tố cho bệnh nhân... Riêng Thẩm Thúy Hoàn mới sinh năm 1977 nhưng cũng có khả năng nhìn thấy những điều người khác không thể thấy được như anh Hùng ngay từ năm cô mới... 11 tuổi.

    Trong quá trình đi tìm kiếm hài cốt, họ thường phối hợp với nhau, thậm chí mời thêm cả các cộng tác viên như nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, Nguyễn Văn Nhã cùng tham gia từ xa để kiểm chứng mức độ chính xác. Đây cũng là điểm khác biệt với những người đi tìm hài cốt riêng lẻ để có thể đối chiếu, so sánh, tổng kết các kết quả khoa học. Có đề tài họ đi tìm người đã mất theo nguyện vọng của người còn sống. Nhưng có đề tài họ “thấy và nghe được” người chết vô danh để tìm kiếm thân nhân còn sống.

    Ở nghĩa trang Mường Thanh, nhóm nghiên cứu (gồm tướng Nguyễn Chu Phác, Hàn Thụy Vũ, nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy) sau khi đọc điếu văn và làm lễ tạ ơn các liệt sĩ, đã chia thành hai tốp xuống các ngôi mộ vô danh. Ở một ngôi mộ, anh Hùng bỗng “thấy và nghe” một người nói: “Tôi là liệt sĩ La Đình Hưởng, quê ở Bắc Cạn, năm 1952 hi sinh ở đường 6, trận Pheo, Hòa Bình. Tôi có bạn thân tên Nguyễn Nguyên Huân, học viên khóa 4, Trường lục quân Trần Quốc Tuấn, hiện vẫn còn sống ở số nhà 66 Triệu Việt Vương...”.

    Sau đó, anh Hùng về Hà Nội xác minh và gặp đúng ông Huân xác nhận có bạn là liệt sĩ La Đình Hưởng. Ngoài ra, anh Hùng còn “thấy và nghe” được một liệt sĩ khác tự xưng tên là Trần Văn Chính, nhắn lời hỏi thăm đồng đội Trần Thọ Vệ hiện còn sống ở thôn Phú Điền, xã Phú Hộ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Sau này khi nghe anh Hùng chuyển lời hỏi thăm, ông Vệ đã khóc và cho biết liệt sĩ Chính cùng quê với ông. Cả hai là dân công hỏa tuyến...

    Trao đổi với chúng tôi, GS-TS Đào Vọng Đức cho biết các nhà ngoại cảm thành viên hoặc cộng tác viên của trung tâm có nhiều đặc điểm khác nhau. Người thì “thấy” khi bắt mạch cho người bệnh. Người thì “thấy” khi đến tận nơi, thậm chí nhiều người còn “thấy” ở cách xa khi có người nhà thật tâm nhờ tìm kiếm. Khả năng này lúc mạnh, lúc yếu, thậm chí có lúc “mất sóng” hoàn toàn, nhưng mỗi người trong họ đều đã tìm kiếm thành công ít nhất hàng trăm trường hợp. Trong đó có nhiều liệt sĩ vô danh tập trung ở các nghĩa trang liệt sĩ lớn như Mai Dịch, Đông Kim Ngưu (Hà Nội), Kim Tân (Thanh Hóa), Phú Long (Ninh Bình)...

    Tuy nhiên, những trường hợp được đưa vào đề tài nghiên cứu đều phải qua kiểm chứng, xác minh, phản biện rất kỹ, bởi nội dung chính của đề tài là “nghiên cứu độ tin cậy về khả năng tìm mộ của các nhà ngoại cảm”. Ngoài việc đã tìm kiếm được hơn 1.000 hài cốt liệt sĩ và nhân dân, các nhà ngoại cảm của trung tâm còn tham gia giúp đỡ tìm kiếm những người mất tích, chữa cai nghiện ma túy...

    Vĩ Thanh

    “Bởi chúng tôi đang cố gắng lý giải những vấn đề mà khoa học hiện nay chưa có khả năng trả lời cụ thể, nên ai muốn nói đúng cũng được, nói sai cũng được. Nhưng đến giờ chúng tôi có thể khẳng định là hoàn toàn thanh thản với những gì mình đã làm...”.

    GS-TS Đức nhẹ nhàng tâm sự với chúng tôi và cho biết nguyên tắc hàng đầu của trung tâm là phi lợi nhuận không ai có lương từ đây. Ông không khẳng định tất cả những gì mình và đồng nghiệp làm là đúng hoặc tương lai sẽ hoàn toàn đúng, “nhưng những nhà khoa học chúng tôi cảm thấy sẽ có lỗi với thế hệ sau nếu không làm...”.

    Qua phóng sự này, chúng tôi chỉ muốn kể về những con người đang “đốt đuốc lao vào đêm tối”. Họ có thể tìm được con đường đi tới ánh sáng hay họ có thể vấp ngã, nhưng ít ra họ đã dám dũng cảm đốt đuốc để dấn bước...

    Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người ( UIA) được thành lập theo giấy phép số 572 ngày 9-3-1996 của Bộ Khoa học - công nghệ & môi trường. Các bộ môn nghiên cứu chính của trung tâm là cận tâm lý do tiến sĩ - thiếu tướng Nguyễn Chu Phác làm chủ nhiệm; năng lượng sinh học do GS-TSKH Lê Xuân Tú làm chủ nhiệm; dự báo và thông tin tư liệu do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải làm chủ nhiệm; cảm xạ học do lương y Nguyễn Hồng Quang làm chủ nhiệm...

    QUỐC VIỆT - ĐỨC BÌNH
    Last edited by Bin571; 09-11-2007 at 02:10 PM.

  3. #3

    Mặc định

    NHỊP CẦU NỐI 2 CÕI

    1: Người sợ chính mình

    Tại ngôi nhà ở Hà Nội, anh Dương Mạnh Hùng kể cho tôi nghe về cái chết của mình:

    - Năm ấy tôi 20 tuổi. Sau 1 trận sốt cao, tôi qua đời. Xác đã niệm ( Gia đình còn lưu trữ bức ảnh này ). Ông bác tôi ở quê ra không kịp, nên lật tờ giấy bản để nhìn mặt cháu lần cuối. Bỗng thấy tờ giấy lay động. Và cả nhà tá hỏa đưa tôi vào hồi sức cấp cứu ở bệnh viện Việt Đức. Sau đó tôi tỉnh lại. Đến đời bố tôi thì gia đình tôi có 3 đời làm nghề thuốc, cả bên nội và bên ngoại. Cụ tôi là Ngự Y triều đình Huế, từng chữa bệnh cho bà Từ Dũ và được bà tặng 1 giò Lan, đến bây giờ vẫn sống. Bố tôi quyết định truyền cho tôi nghề thuốc, cả Nho, Y, Lý, Số. Vừa học Mỹ Thuật Công Nghiệp, tôi vừa học trường Tuệ Tĩnh.

    Bỗng 1 ngày bắt mạch cho 1 người bệnh, tự nhiên tôi nói vanh vách về ông ta cùng thân nhân, gia cảnh….Ông này ngạc nhiên vô cùng. Tôi còn ngạc nhiên hơn cả ông ta bởi từ đấy trở đi, rất nhiều lần ( không phải là tất cả ), mỗi khi bắt mạch chữa bệnh là tôi lại nghe thấy những tiếng vọng, từ lờ mờ đến rõ nét. Có khi còn nhìn thấy hình người qua làn khói thuốc lá của mình và nói ra tên người đó. Khi gia đình bệnh nhân có sự cố gì đặc biệt như mất mộ, gia đình có người điên, vợ chồng bất hòa… thì thông tin đến với tôi rất rõ. Tôi cứ ngỡ mình nằm mơ, lấy cốc nước nóng áp lên má thì vẫn thấy có cảm giác, mới biết là thật. Nhưng tôi không dám tự nghiên cứu mình. Càng biết thêm lĩnh vực nào ( như Thiền, Phong thủy…) tôi càng sợ bởi thông tin về quá khứ, hiện tại và tương lai của người bệnh cứ hiện rõ mồn một, trừ khi cơ thể tôi không được khoẻ.

    Nhưng tôi xác định chữa bệnh là chính, có biết thêm điều gì thì chỉ hỗ trợ cho việc chữa bệnh, để hoàn thiện thêm ý nguyện làm phúc cho mọi người. Làm phúc cho mọi người đến đâu thì làm, không thể lạm dụng kiếm tiền mà rồi con cái trả nợ muôn đời không hết. Bố tôi thường dặn : Chữa bệnh cứu người phải là Vương đạo chứ không thể là Bá đạo.

    2: Nhịp cầu nối 2 cõi

    Câu chuyện tiếp theo đây của anh Hùng cho biết, lần đầu tiên anh làm nhịp cầu nối này như thế nào.
    “ Khoảng năm 1980 , tôi vào Sài Gòn thăm 1 người bạn. Tự nhiên tôi nhìn thấy hình bảnh 1 người lính mặc đồ rằn ri hiện lên. Anh ta nói: Tôi là Nguyễn Hoài Nhơn, nhờ anh đưa về nhà tôi ở phố Cộng Hòa.
    Tôi hỏi anh Nhơn:
    - Thê người nhà anh tên gì ? Số nhà bao nhiêu ?
    - Chị tôi là Nguyễn Thị Cúc, số nhà 256/2
    Rồi anh đi mất.
    Sáng hôm sau tôi đi tìm theo chỉ dẫn của anh Nhơn. Nhưng phố Cộng Hòa bây giờ đã đổi tên, tôi hỏi thăm mãi mới tới. Đúng là có chị Cúc. Chị dẹ dặt hỏi tôi đến có việc gì ?
    Tôi hỏi lại : Chị có em tên là Nhơn phải không ?
    - Có nhưng đã chết rồi
    - Tôi muốn báo tin anh Nhơn

    Lúc này chị Cúc mới mời tôi vào nhà. Tôi bắt mạch cho chị Cúc thì anh Nhơn xuất hiện. Tôi hỏi anh là có phải chị Cúc đây không ? thì anh Nhơn xác nhận đúng là chị Cúc, rồi anh đặt tay lên vai chị ( tôi nhìn thấy ). Rồi anh kể mình bị chết trận ở Chu lai , trong vườn dừa nhà Út Tám như thế nào. Tôi nói lại cho chị Cúc nghe, chị khóc và nhờ tôi tìm mộ em mình. Lại theo chỉ dẫn của chính anh Nhơn , tôi tìm thấy hài cốt của anh dưới gốc dừa, phủ tăng, còn nguyên đôi giầy. “

    Tại Hội thảo khoa học về những khả năng tiềm ẩn về con người do Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp hội KHKT VN tổ chức ngày 12,13/11/2004, nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng có 1 báo cáo gây xúc đọng cả khán phòng. Anh nói về việc mới đây anh cùng nhóm nghiên cứu trong bộ môn Cận tân lý của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người do TS – Nguyên Thiếu Tướng Chu Phác làm trưởng đoàn lên định tên cho mộ Liệt sỹ vô danh tại Điện Biên Phủ. Tên đề tài là “ Người chết đi tìm người sống” . Một cái tên lạ, lần đầu tiên có , từ trước chỉ qua người sống tìm người chết.

    Nhóm nghiên cứu gồm : Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Chu Phác, phó chủ nhiệm Hàn Thụy Vũ, 2 nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng và Nguyễn Khắc Bẩy, cùng 2 thư ký của đề tài là Kim Chi và Hồ Thu.


    NNC Dương Mạnh Hùng đang "nói chuyện " tại NT Mường Thanh,Điện Biên, và bát hương " Hoá" đùng đùng khi các NNC vừa khấn xong
    Liệt sỹ La Đình Hửơng






    Tâm sự với chúng tôi, anh Hùng cứ nhắc đi nhắc lại 1 điều tâm nguyện của anh và tất cả các nhà ngoại cảm khác rằng: Mong sao tất cả mọi linh hồn khi về cõi âm đểu được siêu thoát….

    NGỌC ANH ( Tri Thức Trẻ)
    Last edited by Bin571; 14-11-2007 at 10:42 AM.

  4. #4

    Mặc định

    Chào mọi người,

    Tình cờ có 1 tập tài liệu do 1 gia đình đã từng nhờ các nhờ ngoại cảm tìm mộ viết lại khá hay

    Đây là tường thuật của GS Trần Phương ,kể lại toàn bộ câu chuyện tìm mộ người thân của gia đình mình.



    GS Trần Phương tên thật là Vũ Văn Dung, sinh năm 1927. Là GS kinh tế, nhà giáo tại Đại Học Quốc Gia. Đã từng có thời là Bộ Trưởng Bộ Nội Thương và Phó Thủ Tướng.

    Khi về nghỉ hưu ở tuổi 65, Từ năm 1996, ông đứng ra thành lập trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội.

    Hiện nay đang là Hiệu Trưởng trường này.

    Tại sao tôi muốn giới thiệu sơ qua tác giả như vậy , là để cho các bạn thấy ông là 1 nhà khoa học, có địa vị nhất định với XH, do vậy những gì ông kể lại là do chính người trong cuộc thực hiện,hoàn toàn khách quan, trên tinh thần khoa học . Không phải là báo chí đăng tin.



    Thân ái



    =============================

    TÌM HÀI CỐT NGƯỜI THÂN

    MỘT HÀNH TRÌNH ĐẦY BÍ ẨN

    Tôi có cô em gái kém tôi 2 tuổi ( sinh năm 1929 ), tên là Vũ Thị Kính, thử nhỏ gọi là Cánh, từ hồi kháng chiến chống Pháp được biết đến với tên bí danh là Trần Thị Khang. Cô tham gia hoạt động bí mật năm 16 tuổi, tỏ ra là 1 giao liên gan dạ, một cán bộ phụ trách có uy tín. Năm 1950, cô là Huyện ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ, Bí thư Phụ nữ cứu quốc Huyện, người tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong Huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt được cô từ hầm bí mật, đưa về bốt La Tiến ( Bốt đóng ngay trên bến đò La Tiến, là 1 bót khét tiếng tàn ác, một đồn binh lớn án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Thái Bình và phía Tây tỉnh hải Dương). Chúng biết em tôi là ai, vì vậy đã dùng mọi cực hình tra tấn hòng buộc cô khai báo và đầu hàng. Trước khí tiết không nay chuyển của cô, chúng đã giết chết và vứt xác xuống sông Luộc. Sau ngày cô hy sinh , đội nữ du kích Hoàng Ngân của Huyện đã phát động “ Tuần lễ giết giặc , trả thù cho chị Khang”. Chính phủ đã truy tặng cô Huân chương kháng chiến hạng Nhì.



    Huyện ủy và đội nữ du kích hàng Ngân đã tổ chức đi tìm xác cô nhưng không thây. Đây là nỗi day dứt sót sa của gia đình tôi suốt mấy chục năm, mà vẫn biết rằng người chết thì mọi nỗi đau rồi cũng chấm rứt. Mẹ tôi , hồi còn sống thỉnh thoảng lại hỏi tôi : Có tìm thấy xác em không?
    Tôi trả lời an ủi : Bao giờ hết chiến tranh, con sẽ tổ chức việc tìm kiếm, chắc là được, mẹ ạ. Cả 1 dòng sông Luộc mênh mông như thế trôi ra biển cả, biết tìm nơi đâu?.

    Mươi năm trở lại đây , nghe tin nhiều người tìm được hài cốt người thân bằng gọi hồn, ngoại cảm, bằng thấu thị… tóm lại là bằng những phương pháp được xem là thần bí, chưa giải thích được. Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần khoa học thực nghiệm, cái gì chứng minh được thì mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Trong đời tôi chưa bao giờ tin có linh hồn, thần thánh , ma quỉ. Ngay cả những ngày Giỗ bố mẹ, tôi cũng không làm cơm cúng, không thắp hương, chỉ sửa 1 lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy mà khi nghe những tin trên, trong tôi vẫn lóe lên 1 niềm hy vọng monh manh: Biết đâu đấy? nếu bằng phương pháp thần bí mà tìm được hài cốt của em tôi thì có gì phải câu nệ ? Miễn là có cái gì đó để nhận biết hài cốt đó đúng là em tôi. Và điều này mới chính là điều khó nhất. sau 50 năm trôi dat, hài cốt có còn gì không để nhận ra em tôi ? Nếu còn thì may ra còn được hàm răng không nhuộm đen. Đã có lần , bạn bè mách cho tôi 1 bộ hài cốt vô thừa nhận mà các đặc điểm là răng không nhuộm đen. Lúc đó chính tôi đã phân vân : Nhận 1 bộ hài cốt mà trong lòng nghi hoặc mỗi khi tưởng niệm thì phỏng có ích gì? Còn khám nghiệm ADN ? Đó là chuyện xa vời. Trong tình cảnh bất lực của chính mình và của khoa học thực nghiệm thì bất cứ phương pháp nào giải tỏa được nỗi day dứt trong tôi và gia đình tôi đều phải được xem trọng. Nghĩ thế , tôi bèn tìm cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có tiếng tăm. Một số thông tin bảo rằng hài cốt vẫn còn, nhưng chưa có ai chỉ rõ được nơi chôn cất.
    Last edited by Bin571; 11-11-2007 at 02:16 PM.

  5. #5

    Mặc định


    VẼ MỘ

    Chú em tôi – chú Quỳnh – ăn chực nằm chờ ở nhà ông Nguyễn Văn liên ( Tứ kỳ - Hải Dương ) hơn 1 tháng, cuối cùng được ông vẽ cho 1 bản đồ phần mộ. Nhưng mộ lại nằm ở huyện Khoái Châu là nơi cách La Tiến đến mấy chục cây số về phía thượng lưu. Suy luận rằng chú em út chưa hẳn đã đủ thân thiết với cô chị, vì vậy mà ‘ thông tin” không được chính xác, bản thân tôi tìm đến ông Liên , nhưng chờ mãi ,ông vẫn chưa nhận được thông tin gì để mách bảo cho tôi.

    Giữa lúc ấy tôi gặp chị Tuyết Nga là người đã nhờ ông Liên mà tìm lại được mộ bà mẹ bị thất lạc từ những năm 60. Chị khuyên tôi nên tìm đến bạn chị là anh Nguyễn Văn Nhã, một người nổi tiếng ở Miền Nam vì đã tìm thấy nhiều mộ thất lạc.

    Sáng sớm hôm sau, ngày 25/7/1999, tôi gặp anh Nhã. Anh chưa đến 50 tuổi, là 1 kỹ sư Hóa, nhiều năm làm công tác Đoàn thanh niên ở TP HCM. Theo anh nói thì anh mới có khả năng này từ trước Tết và không được ai huấn luyện cả. Anh đã vẽ hơn 600 ngôi mộ tỉ lệ trúng đạt 60 %. Có những trường hợp trúng đến mức chính anh cũng phải kinh ngạc. “ Thông tin “ đến với anh như thế nào thì anh vẽ như thế đấy, còn thông tin từ đâu đến, trúng hay trật, đối với anh cũng là điều bí ẩn.

    Trong căn phòng làm việc của tôi, không có hương khói gì cả, anh hỏi vợ chồng tôi mấy thông tin đơn giản: Cô em tên là gì ? Sinh năm nào ? Hi sinh ngày nào , ở đâu ? người đi tìm tên là gì. Anh lại hỏi bến đò La Tiến thuộc xã nào, huyện Phù Cừ thuộc tỉnh nào, bến đò ấy có cây cầu không ( chứng tỏ anh không biết gì về vùng đất đó cả). Rồi anh lấy 1 tờ giấy to và mấy cây bút mầu ra vẽ bản đồ, vẽ 1 cách thư thả, lưu loát, không gạch xóa gì cả. Mọi việc chỉ diễn ra trong vòng 10 phút.

    Nhìn vào bản đồ , tôi thấy anh vẽ con sông uốn lượn, đường to, đường nhỏ giao nhau, rồi ghi : Từ bến đò La Tiến đi về hướng Đông nam thấy 1 trường học, đi chừng 1,6 km thì đến 1 ngã tư, phía trái ngã tư thấy 1 quán tạp hóa có cửa mầu xanh dương, lúc đó rẽ tay phải, thấy 1 cái đình, đi chừng 1 km thì rẽ trái vào 1 con đường nhỏ, đi chừng 60 m thì rẽ phải, đi chừng 45 m nữa thì đến mộ. Mộ nằm trên đất cô Nhường 47 tuổi. Đối diện với mộ về hướng Tây Nam là quán ông An 56 tuổi. Mộ chôn đầu về hướng Tây, cách 1 gốc cây đổ 4 m, trên mộ có 1 khúc cây dài 4 tấc , 1 cục gạch vỡ mầu nâu đỏ và 5 cây cỏ dại có hoa mầu tím nhạt.

    Rồi anh hỏi tôi : Bao giờ thì đi tìm mộ ? Tôi trả lời : Để chuẩn bị thì cũng phải 2 tuần nữa. Anh nói : Chậm quá, nên đi sớm. Tôi quyết định: 3 ngày nữa thì đi.
    Anh nói : Tôi phải cho anh 1 tín hiệu để tìm . Hai con bướm nhé ?
    Tôi nói : Hai con bướm thì sợ khó tìm.
    Anh ngẫm nghĩ mấy giây rồi nói; Vậy thì 1 bé gái nhé ?
    Rồi anh ghi tiếp vào bản đồ : 13g30 ngày thứ tư 28/7 sẽ có 1 bé gái chừng 11 tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần mộ. ( Tôi thật không hiểu anh làm cách nào mà điều được cho tôi 1 cô bé đến vào ngày đó, giờ đó ? ).

    Rồi anh dặn : Nếu anh đến sớm thì 5 cây cỏ dại có 10 bông hoa tím , nếu anh đến muộn thì chỉ còn 5 bông.

    Ngạc nhiên quá, tôi hỏi anh: Anh không biết gì về vùng đất ấy, vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ ra bản đồ chi tiết như vậy.?

    Anh nói: Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ ra như vậy, tôi cũng chẳng hiểu nữa.
    Tôi lại hỏi anh: Còn tên những người kia ? Tại sao lại là đất cô Nhường, là quán ông An?
    Anh nói: Tôi thấy trong tai tôi có những âm thanh ấy. Có thể là Nhương, Nhường hay Nhượng gì đó, cũng có thể là 47 hay 87 tuổi. Còn An thì cũng có thể là Am. Anh còn dặn thêm : Có thể phải xem cái bản đò này từ Âm bản. Lời dặn lúc này tôi không để ý lắm.
    Vẽ bản đò và trao đổi chừng nửa tiếng xong, anh Nhã chia tay tôi để vội vã bay về TP HCM , nơi anh đang phải điều hành 1 công ty tư vấn.

    Về phần tôi, tin hay không vẫn phải làm theo chỉ dẫn của anh . Còn cách nào khác đâu ?.




    Tìm mộ - ngày thứ nhất

    Đúng hẹn ngày 28/7, cả gia đình tôi phóng xe về bến đò La Tiến, cách Hà Nội chừng 100 km. Chúng tôi chia nhau làm nhiều ngả, đối chiếu với bản đồ mà tìm. Tất cả các ngả đều không tìm thấy dấu hiệu khớp với bản đồ, trừ 1 ngả hướng thẳng vào giữa làng La Tiến, hướng này do anh Đạt, một cán bộ về hưu có cái quán giải khát ở bến đò, chỉ dẫn. Khi xem bản đồ, cụ Yên , cũng đang ngồi ở quán giải khát, nói: Cái bản đồ này vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi, có mâý đoạn đã được nắn lại. Tuy nhiên, dường từ bến đò đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn, chỉ bằng 1/3 cự ly trong bản đồ. Tôi dùng điện thoại di động hỏi anh Nhã, anh trả lời: Miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi, nhất là 4 dấu hiệu nơi phần mộ, còn cự ly thì có thể do anh ước lượng không chính xác.

    Lần theo các hướng trong bản đồ và các dấu hiệu trên đường ( trường học, đình, quán tạp hóa có cửa mầu xanh nước biển, đến ngã tư rẽ phải, rồi rẽ trái, rồi lại rẽ phải – tất cả đều đúng ), chúng tôi đến đất nhà ông Điển, một nông dân kiêm thợ nề trên 60 tuổi. Cả hai vợ chồng đều gầy gò ốm yếu nhưng tốt bụng. Ông bà sẵn sàng cho chúng tôi tìm, bới hài cốt , mặc dù không tin rằng đất trong đê lại có hài cốt. Ông bà Điển cũng như những người khác đều chỉ chúng tôi ra dải đất bãi phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ ( gọi thế là vì có nhiều quạ bay tới để ăn xác chết bị cuốn vào vụng ) mà từ nhà ông Điển nhìn ra từ hướng Đông, chưa đến nửa cây số. Cạnh vụng Quạ vẫn còn 3 cái mộ vô thừa nhận. Chúng tôi đến đó xem xét rất kỹ, nhưng không thấy 1 dấu hiệu nào như anh Nhã đã cho, đành quay lại nhà ông Điển, theo đúng bản đồ.

    Giữa mảnh đất rộng chừng 2 sào, có 1 ngôi nhà gạch hướng Đông Nam, trước nhà là sân gạch, tường hoa, một dải vườn hẹp lơ thơ mấy vạt dây lang rồi đến 1 cái ao to, tiếp đó là đường làng, một cái đầm sen mênh mông, rồi đến con đê sông Luộc chạy dài từ Tây sang Đông. Sau nhà là 1 vườn chuối được dọn sạch sẽ, không 1 ngọn cỏ. Đầu hồi phía Đông là đường vào ngôi nhà. Vậy chỉ còn tìm kiếm ở đầu hồi phía Tây. Vườn ở phía này rất rộng, trồng táo và mít um tùm , dưới gốc cây cổ đại, toàn 1 loại hoa bằng hạt thóc, màu tím nhạt. Tìm 1 ngàn cây thì được, chứ tìm 5 cây thì biết chọn cây nào? Còn cành cây khô và mả gạch vỡ thì bừa bãi, đâu cũng có. Sục tìm 1 hồi lâu, chúng tôi đành thất vọng quay ra.

    Đứng trước cửa nhà, nhìn về chân đê sông Luộc, chếch về phía Tây, là ngôi nhà anh An, 45 tuổi. Nhà xây gạch, để ở, chứ không bày biện như 1 sạp hàng. Anh cho biết: Vợ anh có 1 gian bán lòng lợn ở chợ La Tiến , hàng ngày gánh hàng đến đó, nhưng có ai cần mua tại nhà thì vẫn dành lại để bán. Như vậy thì nhà anh có đáng gọi là quán hàng không? Tôi phân vân nhưng cứ tạm cho là được đi.

    Còn đất bà Nhường? Cả làng không có ai tên là Nhường hay Nhượng. Chỉ có 1 bà tên là Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà này thì tôi biết vì cùng hoạt động với em gái tôi. Chính bà trước đây , thông qua bà Tiến, đã nhắn với tôi về nhận 1 bộ hài cốt vô thừa nhận mà căn cứ vào hàm răng trắng, bà cho là hài cốt của cô Khang.

    Dấu hiệu dẫn đến ngôi mộ thì có đủ, nhưng dấu hiệu của chính ngôi mộ thì không thấy. Tôi đành chờ đến 13g30. Vào giờ này , giữa trưa hè oi ả, ở cái làng hẻo lánh giáp đê sông Luộc này thì kiếm đâu ra 1 bé gái mặc áo hoa xanh ? mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn chia nhau đón các ngả đường dẫn đến nhà ông Điển. Đường xá vắng tanh. Cả vùng như ngừng thở dưới ánh nắng chói chang. Quá 10 phút, rồi 15 phút. Bỗng 1 tốp thiếu niên ồn ào đạp xe từ cuối làng tới. Nhưng tất cả đều là con trai. Mấy phút sau, có 1 tốp con gái cũng từ cuối làng đi bộ tới. Chúng tôi giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần ngã tư , sau cái đình. 3 em săng sái dẫn chú em tôi tới đó, còn 1 em không muốn đi mà đứng lại. Em mặc áo mầu xanh lá cây, có 2 bông hoa to in trước ngực. Em khai 15 tuổi, nhưng vóc dáng thì nhỏ hơn tuổi. Hỏi về mấy ngôi mộ vô thừa nhận, em chỉ mấy ngôi ở gần chùa ngay cạnh đó. Chúng tôi biết đây là mộ của những người chết đói năm 45. Em lại chỉ 3 ngôi mộ phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ. Chúng tôi đã đến đó vào sáng nay. Em đứng lại với chúng tôi chừng nửa tiếng bên bờ ao to trước nhà ông Điển mà không mục đích gì cả, phải chăng đó là tín hiệu mà anh Nhã đã “ điều” cho tôi ?. Nhưng khai thác được gì ở em thì không được gì cả.

  6. #6

    Mặc định

    Xế chiều, gần như mất phương hướng, tôi lại gọi điện cho anh Nhã. Anh hỏi: Có thấy cái lạch nước không? Có thấy cái cống không? ( Dường như từ Sài Gòn, anh nhìn thấy các thứ đó ) Rồi anh bảo tôi đi tìm ngôi nhà mà 4 mặt đều sơn trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ.

    Cái cổng lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, xế nhà ông Điển, thì chính tôi đã ngồi trên đó để hỏi chuyện bé gái. Còn cái lạch nước, hỏi ông Điển hồi lâu mới biết: ba chục năm trước đây, chính cái đầm sen là 1 vùng ruộng trũng, ở giữa có 1 con đường bờ vùng chạy song song với 1 con lạch, dẫn nước qua cổng cửa chùa vào vùng ruộng mạ , mà nay là đất của ông và mấy nhà xung quanh . Cuối những năm 60 , để lấy đất bồi đắp con đê sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng trũng thành cái đầm sen bây giờ, nó chạy dài gần 1 km ven đê và rộng chừng vài trăm mét. Con đường và cái lạch nước cũng biến mất trong lòng cái đầm sen ấy.

    Chúng tôi ngó nghiêng khắp làng để tìm “ ngôi nhà mà 4 ,mặt đều sơn mầu trắng lốp” Chẳng có cái nào cả. Mọi nhà đều quét vôi vàng hoạc xám. Bỗng anh Tân Cương ( một cộng sự của tôi đã từng nhiều lần đi tìm mộ ) chỉ vào cái quán ven đường: hay là cái này ? Đó là cái quán nước mà chúng tôi vẫn qua lại từ sáng đến giờ. Quán nhỏ và thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê 1 cái gường và 1 cái chõng bày bán mấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây, cả 4 mặt đều quét vôi trắng xóa. Một cái quán nhỏ cũng có thể xem là 1 cái nhà được chứ ? tạm cho là như vậy. Nhưng còn hoa đỏ ? Tìm đâu ra ở cái quán nghèo nàn mới xây ấy những cây hoa đỏ ? Tìm hồi lâu , anh Tân Cương chỉ cho tôi cái đầm sen trước mặt. Giữa mùa hè , đầm sen là cả 1 biển hoa mầu đỏ. Có thể là như vậy chăng ?

    Chủ quán là 1 bà lão hom hem. Nhà cụ giáp nhà ông Điển, về phía Tây. Cụ xây cất quán ngay cạnh đường làng, lối đi vào nhà cụ mà cũng là cái bờ ao nhà ông Điển. Hỏi tên tuổi thì cụ cho biết tên là Mân, đó là tên chồng, còn tên của cụ là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuổi.
    Sục sạo đến tối mịt, chúng tôi đành quay về Hà nội. Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo : Tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Cự ly so với bến đò có ngắn hơn, không sao. Có trường học, có ngã tư, có quán mầu xanh dương, có cái đình rồi. Có cái cống không? Có cái lạch nước không? ( tôi có báo cáo cho anh biết kết quả điều tra được ) Anh động viên , nên tìm kiếm liên tục. Hôm nay chưa thấy thì mai lại đi, “ Chỉnh mộ “ là 1 quá trình vất vả lắm đấy,không thể một lần mà trúng được ngay.

    Rồi anh chỉ dẫn cho tôi ngày mai làm gì.
    - 8 giờ sáng phải có mặt ở quán trắng. Tôi hoặc con tôi ( phải là người ruột thịt của cô Khang ) thắp 20 nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8 giờ, 8g30, có 1 con chó vàng nâu đến cách đó chừng 10 mét, nó nhìn mình xem mình có còn đi theo nó không. Hãy đi theo nó, giữ 1 khoảng cách. Nó sẽ đi hơn 100 mét, rồi dừng lại, ngửi và bới. Nhớ lấy chỗ đó, rồi quan sát, tìm những dấu hiệu phần mộ như đã nghi trên bản đồ.
    - Nếu tín hiệu trên không xuất hiện, thì chờ đến 8g30 hay 9.00, tìm kiếm quanh vùng sẽ thấy 1 con chó vàng nằm 1 chỗ như ốm. Đánh dấu lấy chỗ đó mà đào. Đào thấy thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì gọi lại để anh chỉ dẫn tiếp.


    Tìm mộ - ngày thứ hai

    Chúng tôi lại đến làng La Tiến, làm đúng những việc mà anh Nhã dặn. Chúng tôi chia nhau đi các ngả xem có con chó vàng nâu nào tiến về phía quán trắng không. Quá 8 g30 mà vẫn không thấy tín hiệu thứ nhất xuất hiện, chúng tôi liền chia nhau đến các nhà quanh vùng. Nhà nào cũng nuôi chó vàng, thấy người lạ vào chúng liền nhẩy ra sủi inh ỏi, không có con nào “ nằm 1 chỗ như ốm “ . Cô em tôi mấy lần vaò nhà cụ Nhờ, ngó nghiêng mọi xó xỉnh. Cuối cùng , có phát hiện phía sâu bên trong gian nhà phụ, dưới gầm giường , có 1 con chó vàng nằm ệp. Chúng tôi lần lượt vào ngó, nhưng nó vẫn nằm im, chỉ ngước nhìn mà không sủa. Hỏi chủ nhà thì biết nó chửa, chê cơm mấy hôm nay. Tôi liền điện cho anh Nhã. Anh bảo : Tìm kiếm trong vòng bán kính 10 mét xem có dấu hiệu của phần mộ không.

    Từ chỗ con chó vàng nằm, tôi vạch 1 vòng tròn có bán kính 10 mét. Hầu hết vòng tròn bao lấy nhà và sân gạch của cụ Nhờ, chỉ 1 mẩu nhỏ lấn sang dải vườn hẹp trước tường hoa nhà ông Điển. Dải vườn này, hôm trước chúng tôi đã đi qua mà không thèm để ý đến mấy vạt rau lang. Hôm nay, tập chung vào 1 diện tích hẹp, anh Tân Cương là người đầu tiên phát hiện ra 1 gốc cây đổ vùi lấp dưới lớp dây lang, gốc cây to bằng bắp chân, dài hơn gang tay, nằm sát đất, trên thân cây lơ thơ mấy cái chổi cằn cỗi. Ông Điển cho biết, đó là cây nhót mà ông đã chặt đi năm ngoái, nhưng chưa kịp đánh gốc. Cách gốc cây nhót về phía Đông chừng 2 mét, chúng tôi thấy nửa viên gạch vỡ màu nâu đỏ nằm cạnh 1 cành cây khô to bằng cổ tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về hướng Đong chừng 3 mét nữa, dưới tán cây cam thấp lùn, chúng tôi reo lên khi thấy có 1 dãy hoa mầu tím nhạt, vượt lên đám rau lang, đếm được đúng 5 gốc, mỗi gốc mang 2 bông hoa to và dài bằng ngón tay. Cây hoa mọc theo 1 đường thẳng dài 3 mét từ tường hoa ra đến bờ ao. Ông Điển cho biết mấy năm trước ông trồng làm cảnh, sau chán, vứt ra vườn.

    Bà Điển vội vã rút cho tôi 1 chiếc đũa, rồi chạy vào ổ gà lấy quả trứng mới đẻ. Nhìn chiếc đũa tre còn mới, tôi thầm nghĩ : nghèo quá, đến chiếc đũa tre cũng khẳng khiu ! Với chiếc đũa này, lão Nhã đánh đó mình đây. Rồi tôi suy luận: chẳng lẽ xác cô em mình lại có súc hút mạnh hơn trọng lực trái đất ư ? Vấn đề ở chỗ ngắm cho thật cân , và không được xúc động .

    Tôi loay hoay mãi với quả trứng. Ngắm nghía thật lâu rồi mới đặt xuống nhiều lần như vậy. Đặt nằm rồi lại đặt đứng. Nó vẫn lăn bo bo xuống đất. người tôi vã mồ hôi. Mấy chục người xung quanh dán mắt vào quả trứng như nín thở. Tôi nghĩ : chỉ tại cái đũa chết tiệt! Tiết diện nhỏ quá mà lại không phẳng thì tài gì mà đặt được quả trứng cho cân.

    Tôi bèn lùi lại nửa mét, mặt hướng vào tường hoa. Cầm chiếc đũa thật thẳng rồi nhẹ nhàng đặt quả trứng xuống như mọi lần. Kỳ lạ quá, nó nằm im , tựa như có chất keo gắn vào đầu đũa. Tôi không tin có sự can thiệp gì của cô em tôi ( vì làm gì có linh hồn mà can thiệp? Mà nếu có thì đâu phải là 1 lực tác đọng vật chất ) nhưng vẫn thở phào nhẹ nhõm, vì nếu không qua được thử thách này , thì không thể đi bước tiếp theo.

    Tôi gọi điện hỏi anh Nhã, Anh bảo : Lấy quả trứng làm tâm, vẽ 1 hình chữ nhật dài 2m, rộng 1,2 mét, rồi đào sâu xuống 1,5 m cho đến hết lớp cát đen, hài cốt không nằm sâu hơn lớp cát đen đó.

    Lúc đó đã gần trưa. Chúng tôi tạm nghỉ , ra bến đò La Tiến ăn cơm hàng. Trời đang nắng gắt bỗng ập xuống 1 cơn mưa như trút nước kèm theo gió to, kéo dài gần 1 tiếng. Chúng tôi bảo nhau phen này thì đền quả trứng của bà Điển là cái chắc. Khi quay về thì lạ quá, quả trứng vẫn yên vị trên đầu đũa. Chẳng lẽ khi mưa, bao giờ cũng có 2 giọt nước rơi cân bằng xuống 2 đầu quả trứng? Còn gió to nữa, chẳng lẽ nó không tác động đến quả trứng ?

    Để chuẩn bị cho thợ đào đất, tôi gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa. Hai tay tôi cảm thấy 1 sức hút nhẹ. Phải chăng nước mưa đã làm dãn nở quả trứng và chiếc đũa tre, khiến cho vỏ trứng gắn chặt vào đầu đũa?.

    Hai tốp thợ thay nhau đào. Sâu 1,2 mét thì hết lớp đất mầu nâu là lớp “ vượt thổ ” , đến lớp bùn đen pha cát. Vừa đào, chúng tôi vừa xét từng xẻng đất lên xem có hài cốt không ? Đến đọ 1,5 mét vẫn không thấy gì cả.

    Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: phát triển về hướng nam và đào sâu thêm 4 tấc nữa. Chiều rộng của cái hố được mở thêm nửa mét ra phía bờ ao và đến tối mịt thì chiều sâu đạt 2,8 mét. Vẫn không thấy gì cả. Chúng tôi quay về Hà Nội.

    Tôi gọi cho anh Nhã. Anh bảo : thử đào sâu thêm vài tấc nữa. Thực ra thì cái hố đã được đào sâu quá mức ấy rồi. Tôi cảm thấy “ Thầy “ đã hết phép. Mặc dù vậy , tôi vẫn quyết định ngày mai đi tiếp.


    Tìm mộ - ngày thứ ba

    Qua 2 ngày, dậy từ 4 giờ sáng , mãi tới 11 giờ khuya mới về đến nhà, cái tuổi 72 của tôi đã cảm thấy đuối sức. Tôi ủy nhiệm cho các con cùng bà chị tôi và anh Tân Cương đi tiếp. Tôi dặn: Không đào sâu thêm nữa làm gì, chỉ soát lại đống cát đen đào xới lên, họa may tìm được mảnh hài cốt nào đó thì đem về. Nếu không thì “ thu dọn chiến trương ‘ mà về. Họ làm đúng như thế.

    Thấy chúng tôi không thu được kết quả gì, nhiều cụ già, nhất là các cụ về hưu , xúm lại bài bác: Đã bảo mà ! tìm ở ngoài đê, quanh cái vụng Quạ thì không, lại đi tìm ở trong đê ! Làm gì có xác trôi sông lại vượt qua được con đê để vào tận trong đồng ! Chị Tiến và chị Nhượng cũng có mặt, hai chị khuyên tôi nhận lấy bộ hài cốt răng trắng chôn ở gốc đa phía trên bến đò.

    Duy có anh Thìn, con cụ Giám , hiện là Hiệu trưởng trường cấp II, thì nói: bố anh hồi ấy có vớt được 3 cái xác – 2 nữ, 1 nam – kéo qua đê, rồi chôn ở cánh đồng này. Cụ Giám, theo dân làng nói, là người rất nghèo ( làm nghề đơm dó và đánh dậm ) nhưng bạo gan, nhà ai có việc đào huyệt, bốc mộ thì đều nhờ đến cụ, cả những cháu bé bị chết, cụ cũng sẵn sàng vác vai đem đi chôn giúp. Từ hồi Kháng chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở vụng Quạ, làng nào cũng giao cho cụ vớt lên chôn cất. Cụ Yến xác nhận rằng cụ Giám được làng phụ cấp để làm việc đó, nếu có xác chết chôn ở đây thì chỉ nhờ tay cụ Giám thôi. Cụ Trọng thì nhất thiết bài bác: làm gì có chuyện đó ! Anh Thìn đưa ra thông tin trên là do đựa vào tiết lộ của cụ Giám. Nhưng cụ Giám đã chết cách đây 18 năm. Hồi còn sống, cụ đã được tặng bằng khen vì những thành tích trong Kháng chiến chống Pháp.

    Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh nói: Nghe gia đình báo cáo đã tìm đầy đủ các dấu hiệu thì tôi cũng tin, tuy rằng cự ly có phần không đúng. Bây giờ thì phải lật lại bản đò xem từ âm bản. Tôi hỏi: như vậy có nghĩa là phần mộ sẽ nằm ở bên kia sông, tức trên đất Thái Bình ? Anh nói : Phải vậy đó, Rồi anh chỉ dẫn tiếp : Phải tìm đến 1 vụng xoáy – một cái vụng do nước xoáy vào bãi sông mà tạo thành - ở đó có 1 xóm mới, dân mới ra đó ở khoảng 20 năm, trong đó có cô Nhường, có ông An. Mộ nằm trên đất cô Nhường, trên mộ vẫn là những dấu hiệu như đã chỉ.

  7. #7

    Mặc định

    Tìm mộ - Ngày thứ Tư và thứ Năm

    Các con tôi, vốn đã không tin vào phương pháp thần bí, đều không muốn đi tiếp. Các lão già (chị và các em tôi) thì đều đã mệt mõi. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững lòng tin vì chính anh đã nhờ vào những bà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên. Anh nhận giúp tôi tìm kiếm tiếp. Anh cùng với anh Đạt, vượt bến đó La Tiến sang đất Thái Bình, đi dọc sông để tìm cái vụng xoáy, chốc chốc lại gọi điện thaọi di động về. Xế chiều cách bến đò La Tiến chừng mười tám cây sô, một cụ già bảo anh: Phía Thái Bình không có vụng xoáy đâu. Vì nước sộng ở đoạn này quật sang đất Hưng yên. Cụ chỉ sang vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. Gọi thế vì bà Khán Mỹ nhiều năm sinh sống trên vụng đó bằng thuyền đánh cá. Vậy lại qua sông để trở về đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên bãi đất có một xóm mới, trong đó có một chị tên Nhường, một anh tên An, có mấy ngôi mộ vô thừa nhận, nhưng chẳng có dấu hiệu nào khớp với bản đồ mà anh Nhã cho.

    Anh Tân Cương đi tiếp một ngày nữa, từ vụng bà Khán Mỹ ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ vô thừa nhận là anh đến nhưng chẳng tìm thấy dù những dấu hiệu anh Nhã đã cho.

    Cuộc tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây xem như tắc tỵ. Cánh tính hoài nghi khoa học của tôi lại trỗi dậy! Tôi nghi: Lão Nhã này hắn đánh đố mình! Hắn bày ra một “Trận đồ bát quái” nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người, tên đất, rồi bảo mình phải tìm cho đủ. Lục tìm cả nước này, chưa chắc có nơi nào khớp với “trận đồ bát quái” của hắn!

    Nghĩ thế rồi lại tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận đi theo “thầy” Nhã mà tỉ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì lý gì lại thắc mắc khi trường hợp của mình lại rơi vào 40% kia? Đã chấp nhận đến con đường thần bí như nguồn hi vọng cuối cùng thì lý gì phải đòi hỏi phải lý giải “trận đồ bát quái” kia?


    GỌI HỒN

    Theo đuổi hai nhà ngoại cảm nổi tiếng, đã vẽ trúng hàng trăm ngôi mộ liệt sĩ, nhưng đến lựot mình thì “không có duyên”, tôi bàn với anh Tân Cương chỉ còn tìm cách đến những người có khả năng gọi hồn. Theo tin của anh thì có Phan Thị Bích Hằng đã mất khả năng đó vài năm nay rồi, anh giúp tôi liiên hệ với bà Cẩm giàng và một bà ở Hải Phòng. Chị Tuyết Nga cũng khuyên tôi nên tìm theo hướng đó. Chị cho tôi một địa chỉ điện thoại mà điều tra thì đó chính là địa chỉ của cô Bích Hằng. Trong quá trình tìm một, tôi thường hay kể lại với bạn bè khi rảnh rỗi. Tình cờ một hôm, anh Trần Công Bảy biết tôi có ý định gọi hồn, liền nhận giúp tôi liên hệ với cô Bích Hằng. Cô nhận lời giúp tôi vào chiều ngày 9/8/1999.

    Ngày 9/8/1999 - Tiếp xúc với linh hồn:

    Qua cô Bích Hằng, tôi hy vọng có được một thông tin về phần mộ em tôi, nhưng điều quan trọng hơn là: kiểm nghiêm xem có phải thực sự linh hồn còn tồn tại sau khi người ta chết hay không. Tôi lục tìm trong trí nhớ xem những vụ mà chị tôi và em tôi biết, để kiểm tra xem có thật là linh hồn em tôi đang nói chuyện với tôi không. Dự buổi gọi hồn chỉ có chị và em gái tôi, nhưng tôi vẫn dặn không ai được nói chuyện, đề phòng hớ hênh, để lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”

    Bích Hằng là một cô gái nhỏ nhắn, xinh xắn và thuỳ mị, năm nay 27 tuổi, tốt nghiệp đại học kinh tế quốc dân, hiện đang làm kế toán cho công một công ty xây dựng quân đội, đồng thời đang theo học lớp đào tạo thạc sĩ quản lý kinh doanh do trường đại học Oxford (Anh) tổ chức tại Hà Nội.



    Giáo sư Phương và nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng.


    Tôi hỏi cháu có khả năng đặc biệt này từ bao giờ, cô nói:
    - Từ khi cháu đang còn học phổ thông, sau khi bị chó dại cắn, lên cơn nhưng không chết. Cô bạn cháu cũng bị chó dại cắn thì chết. Một hôm giỗ bà nội, cháu nhìn lên bàn thờ thấy bà ngồi cũng hai đứa bé, cháu hỏi ông nội: "Hai cậu bé ngồi cùng ông nội là ai?" Sau một hồi kinh ngạc, ông giải thích: "Người con thứ nhất của bà được hơn một tuổi thì chết, người con thứ ba – sau bố cháu - được hơn hai tuổi thì chết". Từ đó trở đi, khi đi ngang qua nghĩa địa, cháu nhìn thấy vô số là vong hồn, người nằm người đứng, khi tỏ khi mờ giống như nhìn vào cái màn hình bị nhiễu. Mới đầu thì rất sợ, sau cũng quen dần đi.

    Tôi hỏi cô:
    - Có tin nói khả năng đặc biệt của cháu suy giảm rồi, có đúng không?
    Cháu trả lời:
    - Khi cháu có bầu và sinh con, cháu phải lấy cớ đề từ chối. Bây giờ con cháu đã mười bốn tháng, cháu mới nhận giúp bác.

    Khác với anh Nhã, cháu Hằng yêu cầu đặt lên bàn một cốc nước, một cốc gạo để cắm hương, một ngọn nến và một bức ảnh cô Khang… theo cháu nói là để nhận được vong hồn được triệu về có đúng là cô không. Cháu mang theo một sắp tiền đặt lên bàn.

    Thắp hương và đốt nến xong, cháu khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ tưởng chừng như cô đang ngồi trước mặt.

    Rồi quay sang nói với tôi:
    - Ở căn phòng này bác không thờ cúng bao giờ, có lẽ bác không tin.

    Nghe Hằng nói tôi đâm ra lo. Chẳng những không thờ bao giờ mà hơn mười năm nay tôi không ở nhà nay. Nhìn quanh cửa kính đóng kín mít (để mở máy điều hoà) thì mùi hương bay đi đâu mà cô nhận biết được? Cháu Hằng có lời mời nhưng cô ở đâu mà nghe thấy được? Nếu nghe thấy thì tìm sao nổi đến địa chỉ này giữa thành phố ồn ào bát ngát? Nếu tìm thấy địa chỉ thì lách qua kẽ hở kia mà vào được?

    Một phút chờ đợi căng thẳng trôi qua. Cháu Hằng vẫn dán mắt vào tấm ảnh. Rồi hai phút, ba phút, bỗng cháu Hằng hớn hở:
    - Chào cô ạ, cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi cô hài cốt của cô hiện ở đâu?



    Rồi Hằng quay sang tôi hạ giọng nói:
    - Có một người đàn ông, một thanh niên đi cùng với cô.
    Tôi ngồi im cố đoán người đó là ai?

    Cháu Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại” “vâng .. à, thế ạ, .. cái gì .. Ngân, cô Ngân hay cái gì?

    Qua phiên dịch của cháu Hằng,


    cô Khang nói: Người thanh niên đi cùng chính là anh Sơn đấy. Anh vẫn thường xuyên đến gặp em ..
    (Anh Sơn thật ư? Người anh, người bạn, người đồng chí thân thiết nhất của tôi! Tôi muốn reo lên thật to gọi tên anh. Nhưng tôi cố nén mình lại, chờ xem sao). Anh không có duyên rồi, anh đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến với em. Từ hôm anh đến, mấy chị em trong đội Hoàng Ngân của em cứ bảo sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm cách chỗ em đào ba bước chân soải ra phía bờ ao


    (Tôi hỏi: Vậy em nằm trên vườn hay dưới ao?)

    -Đến bờ ao cũng còn ba bước chân nữa. Phía trên em chừng hai met là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội nữ du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cách chỗ em nằm chừng hai met về phía Đông là nam, bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên, ba cái một gần như nằm trên một cái đường thẳng. Hai người kia cùng bị giết một ngày với em. Chúng cột tay ba người lại rồi vứt xuống sông vào nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng thấy. Mãi mấy ngày sao xác em mới nổi lên. Dân vớt được - thực ra dân cũng là dân phòng giả dạng thôi – đưa về đây chôn, vì thế mà cả ba cái mộ gần sát nhau. Xa hơn còn mấy người nữa. Chỗ này có cả thảy bảy người cơ. Mấy người nổi lên trước thì dân còn lo cho được manh chiếu, còn nổi lên sau thì manh chiếu cũng không có nói gì quan tài (vì cháu Hằng hỏi cô chôn có quan tài không?)

    Rồi cô chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm, với cách đặc điểm cây cỏ xung quanh, bắt đầu từ cây nhãn góc vườn mà tôi nhận ra ngay. Đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, tôi đã ngồi ở đó để theo dõi việc đào mộ…

    Tôi hỏi em có biết chỗ em nằm thuộc về đất của ai không? của bà nào không?



    Cô đáp: Em cũng không biết nữa.

    Cháu Hằng hỏi: Hài cốt của cô có còn nguyên vẹn không?

    Cô nói: Chúng đánh em gẫy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải, gãy hai chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện nay vẫn còn nhưng đã mủn, vì chôn có quan tài đâu. Hàm dưới cũng đã rụng ra nhưng hàm trên thì vẫn còn nguyên.

    Tôi hỏi để kiểm tra: răng của em bây giờ màu gì?

    Cô nói: bây giờ màu đen

    Tôi vội cãi: nhưng trước đây răng em trắng cơ mà.

    Cô nói: Em chưa nói hết. Đen là đen xỉn do bùn đất ngấm vào, chứ không phải đen hạt na. Ngày xưa các anh hay trêu em là có hàm răng đẹp nhất, tươi tắn nhất đội du kích. Rất may là hàm răng em vẫn còn, nó chĩ đánh gẫy của em hai cái răng thôi. Ở đây có mấy chị, nếu anh đào nhầm sang mồ của chị khác thì anh vẫn có thể nhận ra ngay. Vì hàm răng của em không thể lẫn được, cả khuôn mặt em cũng vậy. Tuy gò má có bị dập nhưng cả khuôn mặt thì vẫn còn. Anh có thể dễ dàng nhận ra em. Nhưng khi đào anh phải cẩn thận, vì chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngày.

    Mặc dù chỉ được nhắc đến một cách kín đáo nhưng tôi nhận ra ngay những nét đặc trưng của em tôi. ÔI! Người con gái lìa đời năm mươi năm mà vẫn không quên niềm tự hào về nhan sắc của mình được các chàng trai ngưởng mộ. Nghĩ thề mà lòng tôi xót xa.

    Cô dặn tiếp khi đào chú ý cổ tay em còn cái vòng (Cháu Hằng hỏi: Vòng bằng bạc hay bằng gì? )
    – Vòng bằng sắt. Thực đó là cái còng, chúng khoá tay em cùng với tay người đàn ông bị bắt ở Hải Dương.

    Tôi hỏi nếu tìm được hài cốt em thì đưa về quê mình, cạnh mộ của bố mẹ hay đưa em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện nơi anh Sơn nằm?

    Cô nói: - mẹ bảo em: Con là phận gái, về với bố mẹ để sau này con cháu còn tiện thăm viếng, hương khói cho con. Nhưng anh Sơn thì bảo: em đã đi theo đội nữ du kích Hoàng Ngân. Em cứ về nghĩa trang liệt sĩ. Tổ quốc ghi công cơ mà, em về nghĩa trang liệt sĩ có anh có em.Anh Sơn hôm nay cũng về với em đấy.

    Cả nửa tiếng im lặng anh Sơn bây giờ mới lên tiếng. Tôi không kìm được nữa thốt lên như muốn khóc: Trời! Anh Sơn!

    ======================================

    Lưu ý: chữ mầu xanh biển là người âm nói
    Last edited by Bin571; 11-11-2007 at 02:13 PM.

  8. #8

    Mặc định

    Anh Sơn hơn tôi bốn tuổi. Anh từng là uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ Hưng yên, Sơn Tây, Hà Đông, được điều vào bộ đội khi thành lập Đại đoàn 320, làm trưởng ban tuyên giáo của đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh tháng 6/1951.

    Tôi đưa cháu Hằng bức ảnh thủ sẵn trong túi, định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn về người này. Nếu linh hồn không nhận ra người này thì hẳn là chuyện tào lao. Cháu Hằng xem ảnh, bảo đúng, nhưng trông bác già hơn và gầy hơn trong ảnh. Thực vậy, bước ảnh chụp năm 1948, trong tư thế rất “bảnh trai”, khi anh tôi đang công tác ở Sơn tây.


    Anh nói: chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu. (Tôi xin lỗi anh. Nhưng trong bụng thầm nghĩ: oan cho em quá, em đâu có biết anh vẫn còn tồn tại?). Lần sau chú báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Người trên này có tâm đấy, nhưng mò kim đáy bể biết chỗ nào mà đào? Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông hơi cong lại, xác em mình dạt vào, nếu không thì trôi tuột đi rồi.

    Mẹ thì khóc thương em nhiều lắm, cứ muốn em về bên mẹ để ôm ấp. Còn anh thì khuyên mẹ về nghĩa trang liệt sĩ. Vì đấy là vinh dự của em mình cơ mà. Tổ quốc ghi công đời mình, họ thắp hương cho mình, chứ đâu chỉ có con cháu trong gia đình mình. Vả lại, đời anh chị em mình đã vậy, chú đến đời thằng An thì nó biết gì!
    . (Tôi giật mình vì “Thằng An” chính là con tôi, 10 năm sau khi anh tôi hy sinh nó mới ra đời).Hôm nay khi đưa em Khang về nghĩa trang liệt sĩ, chú cũng cần nói lại với ba mẹ như thế.

    Bỗng cháu Hằng nói như ra lệnh: “Pha chén nước chè!”

    Tôi hỏi nhỏ cháu: sao làm như vậy?

    Hằng nói- Bác Sơn bảo:
    Nói chuyện khan thế này thôi à?

    Cháu Hằng đứng dậy đi ra ngoài, rồi lại vào ngồi cạnh tôi. Một lát, cháu đứng dậy đi ra cửa, đỡ lấy hai chén trà nóng đặt lên bàn,
    Cháu Hằng quay sang tôi nói. Bác Sơn bảo:
    Ơ kìa thằng An! Nó vào mà không chào Bác..

    Cháu Hằng và tôi đều quay lưng ra cửa, không để ý ai đã hé của đưa chén trà vào cho Hằng. Sau mới biết là cháu An nó mói đi làm về.

    Bác Sơn nói tiếp: Các cháu hậu sinh nó không biết đấy thôi. Người âm không giúp gì được nhiều, nhưng có lúc đỡ được. Có lần, chỉ cần anh đến chậm một tí thì cháu Trang gặp nguy hiểm rồi (Tôi kinh ngạc khi anh nhắc đến tên cháu Trang, con của cháu An).
    Tôi hỏi anh bảo sẽ dẫn đường cho em, làm cách nào mà em nhận biết được?


    Anh nói: Anh không thể nắm tay chú, nhưng anh sẽ tìm một con vật nào đấy – ong bướm chẳng hạn – sai khiến nó để nó dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm khó đấy, nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật chú gọi nó lại, rồi đi theo nó, đến chỗ nó đậu.

    Một lúc lâu cháu Hằng không dịch mà trao đổi gì đó. Tôi chỉ nghe cháu nói “Cháu còn con nhỏ .. vâng, cháu sẽ cố”. Sau này hỏi lại, Hằng nói: cô Khang thuyết phục cháu đi đến tìm mộ cô để nói chuyện với cháu, chỉ cho cháu chỗ đúng cô nằm, kẻo lại đào lệch như lần trước. Bác Sơn cũng dỗ cháu,

    bác bảo: “Chú Phương chú ấy quen tác phong chỉ huy, ra lệnh. Còn bác thì nhờ cháu”.
    Bác Sơn bác ấy vui tính lắm. Hễ bác ấy nói là thấy không khí vui vẻ, phấn khởi ngay, còn cô Khang thì có vẻ hơi buồn.
    Cháu Hằng lại hỏi: Bác Phương muốn biết ngày giỗ chính xác của cô. Bác ấy chỉ biết vào khoảng 20/6 dương lịch. Rồi Hằng nói tiếp-


    Cô cười bảo: Đối với anh Phương thì ngày nào giỗ mà chả được, em bị chúng nó bắt, có được bóc lịch đâu mà biết ngày. Chỉ nhớ có một hôm mười tám hay mười chín gì đó, thằng quan tư bảo “Bọn mày cứng đầu! đến ngày 24 mà không khai thì bắn bỏ”. Anh cứ lấy ngày đó là được. Còn ngày âm thì em không biết là ngày nào.
    Anh Sơn bổ xung. Cứ qua ngày giết sâu bọ là em Khang lại bảo anh: Sắp đến ngày giỡ em rồi đấy.


    Sau này tôi tra lịch thì biết ngày 24/6/1950 là ngày mười sáu tháng năm âm lịch (Canh Dần).

    Rồi anh nói tiếp: Hôm này đi tìm mộ em Khang, các cô kiếm ít hoa quả thắp hương cho mỗi chị em, người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em minh thì người ta tủi. Phía trên mộ cô Khang là mộ chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương (cô Khang nhắc là Nguyễn Thị Bê) nên bảo gia đình chị ấy đến mà tìm. Chú Phương kiếm cho anh mấy cái bao (cháu Hằng hỏi bao gì ạ, vâng ạ) Bao Capstan để anh mời anh em. Bây giờ anh cũng chỉ huy trung đoàn đấy.

    Bỗng cháu Hằng nói như ra lệnh: Đốt tiền đi sắp đi rồi đấy.
    Tôi hỏi cháu: “Sao làm vậy?”
    Cháu nói:
    Bác Sơn bảo.

    Chúng tôi vội hỏi đôi điều về đời sống của anh tôi và em tôi.

    Cô Khang nói: có lần em về thăm chị Nghĩa, chỉ đừng ngoài mà không vào được (Chị Nghĩa là chị lớn nhất trong nhà của tôi).

    Anh Sơn nói: Em bị chết trôi sông, đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ nào cũng đòi vào. Bận sau đi với anh. Bây giờ, công việc ở đây đã xong, đi với anh đến nhà Quỳnh chơi (Quỳnh là em út của chúng tôi, tui là út nhưng đã thành ông lão ngoại 60 rồi. Chỉ riêng cách xưng hô đó cũng đủ nói lên vị thế và tình cảm của người anh cả đối với thằng em út).

    Nói rồi biến mất, cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa hết.



    Tôi nghe lại băng ghi âm nhiều lần. Quả thật, có nhiều điều bí ẫn do chính anh tôi nói mà tôi không kịp hỏi lại, nhưng qua tên những người trong gia đình được nhắc lại một cách ngẫu nhiên qua cách xưng hô, sự hiểu biết về tính cách từng người lúc còn sống, cách tâm sự và tâm tư tình cảm của người nói, tôi nhận ra đúng là anh tôi và em tôi. Người khác dù biết rõ gia đình tôi đến mấy cũng không thể sáng tác một kịch bản như thế, huống hồ là cháu Hằng, người tôi mới gặp lần đầu. Cháu chỉ đơn thuần đóng vai một người phiên dịch, chăm chú lắng nghe, hỏi lại cho đúng rồi nói lại. Cháu hỏi han vâng, dạ, trao đổi với người chết như nói chuyện với người sông đang ngồi trước mặt, hoàn toàn không phải là cô đồng nửa tỉnh nửa mê.
    Nếu thừa nhận người đang nói chuyện đúng là anh trai tôi và em tôi thì không thể không thừa nhận: sau khi người ta chết đi vẫn còn lại cái gì đó mà ta quen gọi là linh hồn. Nhưng linh hồn là gì, tôi tự hỏi. Nó phải tồn tại dưới dạng vật chất nào đó thì cháu Hằng mới nhìn thấy và nhận diện được qua tấm ảnh. Nó phải phát ra tiếng nói ở một tần suất nào đó thì cháu Hằng mới nghe thấy và nói lại cho tôi. Đối với tôi nó là vô hình nhưng đối với cháu Hằng thì nó lại hữu hình. Đối với tôi nó là câm lặng, nhưng đối với cháu Hằng thì nó lại phát ra những âm thanh có thể nghe thấy được, những âm thanh chuyển tại đủ cả những sắc thái sống động của tình cảm, của tư duy, hệt như tiếng nói của người sống vậy.
    Nếu linh hồn là một dạng vật chất có hình thức và khả năng phát âm thanh thì nói theo triết học – nó thuộc phạm trù “tồn tại” mang tính khách quan, chứ không phải thuộc về phạm trù “ý thức” mang tính chủ quan.. Nhận biết được nó hay không nhận biết được nó tuỳ vào khả năng của từng người. Cháu Hằng có khả năng nhận biết được nó mà tôi có quyên phủ nhận sự tồn tại của nó? Đối với tất cả những gì mà ta chưa có đủ khả năng nhận biết được đều vất cào cái sọt rác mê tín dị đoan, thì khoa học còn gì để làm, còn gì để khám phá.? Lâu nay tôi đinh ninh mình là duy vật, hoá ra chính mình lại là duy tâm chủ quan: “Cái gì ta cho nó tồn tại thì nó tồn tại, cái gì ta cho nó không tồn tại thì nó không tòn tại”, chỉ là mê tín dị đoan.
    Lần đầu tiên trong đời tiếp xúc với linh hồn, tôi nhận ra như thế, hoặc suy ra như thế. Tuy nhiên cũng phải còn chờ vào kết quả cuộc đào bới kế tiếp mới kiểm nghiệm được những thông tin do linh hồn cung cấp là đúng hay sai.
    Vùng đào bới tiếp lại trùng với vùng đào bới do anh Nhã chỉ dẫn. Vì vậy cũng là một dịp để kiểm nghiệm lại trận đồ bát quái của anh.
    Hy vọng và hoài nghi lẫn lộn, tôi nóng lòng chờ đến hẹn của chàu Hằng để cùng đến La Tiến. Cuối cùng ngày ước hẹn cũng đã ấn định 17/8/1999.

  9. #9

    Mặc định

    Ngày 17/8/1999 - Cuộc đào bới lần thứ hai.

    Ngay sau khi nhận được điện của cháu Hằng, tức là bốn ngày trước khi tiến hành cuộc đào bới lần thứ hai, tôi cử chú Quỳnh cùng anh Tân Cương và bà Tiến làm các công việc chuẩn bị. Khi còn cách La Tiến 40 cây số, anh Tân Cương gọi điện cho anh Nhã. Anh rất mừng khi biết Hằng vào cuộc. Lần này anh cho anh Tân Cương một tín hiệu mười giờ hôm đó sẽ có hai con bươm bướm màu bay lượn quanh mộ rồi đậu lại , đánh dấu chỗ đó.

    Đến nhà ông Điển đúng hẹn, anh Tân Cương ra gốc nhãn ngồi. Cái hố mà chúng tôi đào hôm trước nay đã đựoc lấp bằng. Một lát hai con bướm đen đốm hoa bay đến, rồi một con bay đi, một con đậu lại trên cành nhãn. Anh Tân Cương chiếu thẳng cành nhãn xuống đất, cắm một cây que đánh dấu lại, cành que cách chỗ tôi đặt quả trứng hôm trước hai mét ra phía bờ ao. Ông Điển đứng bên tường theo dõi, tủm tỉm cười. Vào trong nhà ông mới lể, sau lần đào bới hôm trước, ông mời “thầy” về cúng, “thầy” bảo mộ cô cũng nằm chỗ cây que đó.

    Nghe anh Tân Cương thuật lại, tôi chỉ biết ghi nhận. Tất cả còn phải chờ kết quả cuộc đào bới kế tiếp. Nhưng nếu đúng thì thật kỳ lạ. Anh Nhã ơ tận Sài Gòn, làm sao điều đông được con bứom đến một điểm chỉ cách thành hố một mét? Điểm ấy đúng như anh chỉ đạo lần trước là phát triển về hướng nam, nhưng không phải về hường nam nửa mét như tôi thực hiên, mà xa hơn. Còn bà “thầy” vườn? Chẳng nhẽ đất nước này cũng có nhiều người có tài năng kì bí chứ không phải rặt một hạng người buôn bán thần thánh nhảm nhí.

    Trong những việc tôi nhờ anh Tân Cương, có việc điều tra xem danh sách liệt sĩ của xã, có ai tên Nguyễn Thị Bê. Anh thất vọng kể lại, chẳng những lục sổ sách, mà còn đi hỏi rất nhiều cụ già trong làng, không đâu biết có một cái tên như thế, đối với tôi thì sự thất vọng càng lớn. Vậy là em gái tôi nói sai, cả anh tôi nữa, thậm chí cón nói cụ thể là chị ấy là liên lạc, là cấp dưỡng của đội du kích. Em gái tôi và anh trai tôi thì tôi biết là không thể nghi ngờ đựơc. Vậy dấu hỏi phải đặt vào người nói: có thật người nói là em gái tôi và anh tôi không?

    Tối hôm 16/8 tôi không quên thắp hương và báo cáo với anh rằng sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ về La Tiến tìm mộ em Khang.



    Đến nơi chị tôi theo đúng lời dặn của anh Sơn, bày hoa quả vào mâm đặt lên tường hoa, cháu Hằng khấn vái mời. Khấn xong, cháu cầm bó hương đi theo ra gốc vải (Cách gốc cây nhãn sáu met về hướng đông cả hai cây đều sát bờ ao), ngắm nghía rồi cắm hương xuống đất. Lấy bó hương là tâm, cháu vạch một cái hố hình chữ nhật để đào. Sau này cháu bảo tôi: khi cháu đang khấn thì thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải, cô vẫy cháu rồi chỉ chi cháu chỗ cắm hương, đầu và chân ngôi mộ.

    Nhìn bó hương của Hằng tôi thấy nó cách bó hương cũ ba mét về phía bờ ao, nhưng lại lui về hướng tây đông như cái hố hôm trước mà đầu về hướng tây bắc, chân về hướng đông nam, sát gốc cây vải, nghĩa là gần như vuông góc với cái hố hôm trước. Cái hố mới nằm ngoài hình tam giác hôm trước, cạnh của nó là đáy của hình tam giác nối dài ra phía bờ ao.

    Trong khi thợ đào chuẩn bị làm việc, Hằng đặt ảnh cô Khang dưới gốc cây vải nói:
    - Thưa cô, chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo cô chỉ. Còn hài cốt thì như hiên trạng cháu nhìn thấy thì còn lại rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không lấy được đầy đủ thì xin cô cũng thông cảm cho. (Sau này, tôi hỏi cháu nhìn thấy :hiện trạng hài cốt thật ư? Hằng nói: cháu nhìn thấy, hồi năm 1994, tìm hài cốt của 13 liệt sĩ ở núi Non Nước – Ninh Bình, cháu nhìn thấy hài cốt bị chôn vùi dưới lớp đất sâu 4,5m. Khi đào đến độ sau 3m không thấy gì mọi người đã nản. Nhưng cháu yêu cầu đào thêm vì cháu nhìn thấy hài cốt dưới độ sâu ấy)


    Cô Khang nói :lần này nhìn thấy cậu Quỳnh là chị phấn khởi rồi, cậu Quỳnh mà đi thì chắc là được (lần trước Quỳnh không đi, Quỳnh là người tin vào trời phật). Còn anh Dung (tên thật tôi là Vũ Văn Dung) thì thần thánh anh ấy chẳng sợ, có khi chỉ nhiễu quan trần, còn quan âm chẳng ai giúp mình. Anh Sơn tức anh Nhung nhà mình (tên thật anh tôi là Vũ Văn Nhung) cũng ở đây suốt từ sáng. Anh cứ bảo mãi sau cháu Quỳnh chưa đến, anh trách cháu An, nếu nó mà kiên trì, bình tĩnh thì đã đưa cô về từ lần trước rồi (cháu An được uỷ nhiệm đi tìm mộ ngày thứ ba lần trước – “để thu dọn chiến trường” )

    Cháu Hằng hỏi: Ai là Hậu? Cô gọi chị Hậu. Chị tôi vội chạy trong nhà ra,

    cô Khang nói tiếp: - Chị xuống đây với em mà không ra với em, mà cứ ngổi trong ấy, hài cốt em thì không còn nguyên vẹn. Nhưng chị hốt cho em một nắm đất về quê mình thì em cũng mừng rồi. Ở đây tuy có nhiều chị em đồng đội nhưng không phải là ruột thịt, cả năm cũng chẳng có ai đến thắp cho một nén hương. Chẳng nhẻ ở đây quây quả nhà ông An mãi!

    Bác Sơn nói cứ hốt cho bằng hết dù ít dù nhiều thì cũng là máu thịt em mình. Không bỏ vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho em. Cái con Uyên là người hợp với cô nhất, được cô cho nhiều lộc nhất, đang lẽ hôm nay nó phải đi mới phải
    (Uyên là con gái út tôi, nó đã đi hôm đầu tiên.
    Anh Tân Cưong hỏi: Cô biết cháu là ai không?


    Cô Khang nói tiếp: Nếu tôi không biết anh Cương thì hoá ra tôi vô tình quá. Anh lăn lộn với tôi nhiều.
    Bác Sơn bổ xung: Thằng Tuấn Anh chưa chắc đã lăn lộn với cô bằng anh Cương

    (Tuấn Anh là thằng con thứ hai của tôi, nó sinh ra mấy ngày sau khi anh tôi hy sinh).
    Tân Cương hỏi lại: Ai an táng cô cô có biết không? Nhiều người không tin là thi thể cô có thể trôi dạt vào đây. Cô vừa nói đến ông An vậy ông An là ông nào, ở đâu?


    Cô Khang nói: Nếu có cách nào làm cho cụ Đặng Đình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi mất công tìm kiếm. Rất tiếc là cụ đả ở âm phủ mất rồi. Em bị chúng nó ném xuống sông, khi xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh được cụ Giám vớt lên, kéo qua một cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo: mấy vị chết ở đây, nếu đói khát, khi nào nhà ông An lên hương thì vào xin lộc.

    Được chị động viên Quỳnh kể về quá trình tìm hài cốt của chị, trong đó có đoạn: Chị Tiến và chị Nhương báo cho gia đình mình đến nhận bộ hài cốt chôn ở gốc đa phía trên bến đò. Người ta bảo cô Chử Thị Dung ở Thái Bình đã tìm thấy bộ hài cốt của bố cô chôn cùng với người phụ nữ đó. Để xác mình em đã theo cô ấy từ Thái Bình lên tân Vũng Tàu. Nhưng cô ấy nói rằng chính cô ấy chưa tìm thấy hài cốt của bố cô ấy.

    Nghe xong cô Khang nói: chị nói cho em biết cái mộ ở gốc cây đa ấy nếu là một nữ du kích mà nhận là chị thì còn được, đằng này không phải mộ một nữ du kích sau ngộ nhận thế được! Còn Chử Thị Dung, chính bố cô ấy kể với chị rằng em đã tìm gặp cô ấy. Ông nhờ chị nhắn với em nhắn với cô ấy đến tìm mộ bố mình. Bố cô ấy cũng nằm ở đây.

    Rồi cô chỉ ngôi mộ dưới chân cái hố sắp đào. Đó chính là ngôi mộ của người đàn ông bị bắt từ Hải Dương về. (Sau này Hằng kể lại: người đàn ông lúc ấy đứng bên cạnh cô Khang, xưng tên và nói mấy câu, nhưng nói nhỏ quá, cháu nghe không rõ. Khi cô Khang nói lại cháu nghe mới rõ. Khi cô chỉ ngôi mộ cháu nhìn xuống thì không có đầu)


    Đến đây cháu Hằng nói tiếp xin phép cô cho bắt đầu.

    Đào hết lớp đất “vựợt thổ” thì cháu Hằng bảo ngừng đào. Cháu nhảy xuống hố lấy dầm gạt nhẹ những lớp cát đen. Chỉ hơn một gang thì vướng vào “thanh củi mục”. Nạy lên, thả vào nước thì nhận ra đó là khúc tre già, thịt tre đã bị phân huỷ hết nhưng đốt tre và xơ tre thì vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, đường kính tương đối lớn, không thể tra vừa bất cứ loại xẻng nào hay cuốc nào, chỉ có thể tra vừa cái thuổng, có thể loại thuổng hình lưõi mai (mặt phẳng, bề ngang nhỏ hơn lưõi xẻng nhưng dầy hơn lưõi xẻng)

    Mọi người đều kinh ngạc khi biết thông tin về cái thuổng đã được thông báo trước. Riêng tôi thì mừng khôn xiết, vậy là thông tin đáng tin cậy nhất để nhận biết nấm mộ này đích thực là em gái tôi. Cái thuổng đã được vùi chôn dưói đất 50 năm, người đời không thể nguỵ tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại đựoc linh hồn mách bảo cho tôi chín ngày trước khi mộ được khai quật, người đời không ai nhìn thấy mà mách bảo được. Còn sư chính xác đạt đến mức chi tiết. Thú thật khi nghe anh tôi nói đến cái thuổng tôi nghi ngờ, hoặc là anh tôi nhận định sai hoặc là cháu Hằng dịch sai. Vì người ta đào huyệt phải dùng mai, xẻng, cuốc, chứ ai lại dùng thuổng? Lúc ấy tôi nghĩ đến loại thuổng thông dụng nhất là loại hình vũm để đào gốc cânhưng, chứ không nghĩ đến loại thuổng hình mai dùng để đào đất, tác dụng giống như cái mai nhưng khoẻ hơn cái mai. Loại thuổng này cũng có nơi gọi là mai.

    Sau khi tìm thấy cái thưổng, chỉ cần gạt vài lớp cát mỏng là thi hài em tôi hiện ra. Khi chôn người ta đặt em tôi nằm nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu hướng về phía Tây Bắc, chân hướng về phía đông nam. Trên sọ là một mảng tóc đen nhánh, rồi đến đốt xương cổ rất rõ. Nhưng gặp không khí thì tóc vụn ra ngay nhưng đốt xương nguyên vẹn gãy ra như những chiếc bánh quy ngấm nước. Cháu Hằng hỏi cô Khang: Răng cô đâu, để cháu mang đi đãi. Cuối cùng thu được năm chiếc răng. Tôi xem đúng là răng trắng nhưng do ngâm trong bùn nên ngả màu xám và đen xĩn. Theo đúng mệnh lệnh của anh Sơn, chúng tôi bốc tất cả số bùn mang theo hình người nằm cong bỏ vào túi mang về. Cháu Hằng tìm mãi không thấy chiếc còng sắt, cháu hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. Tôi nhận định có thể nó đã rỉ ra thành đất sau 50 năm ngâm trong bùn.

    Lúc này cháu Hằng không dịch, nhưng hôm sau cháu nói với tôi: Lần này đi tìm mộ cô Khang, cháu thương cô quá. Lúc tìm được răng rồi, mấy người trên miệng hố nhắc cháu tìm móng tay. Cháu bèn hỏi móng tay cô chỗ nào, cô chỉ cho cháu.

    Cô giơ hai bàn tay lên trước mắt cháu nói: chúng rút hết móng tay cô rồi còn đâu mà tìm!

    Tôi vô cùng kinh ngạc vì điều này chỉ mình tôi biết. Sau khi em tôi bị giặc sát hại, huyện uỷ Phù Cừ có gửi riêng cho tôi một báo cáo gửi lên cấp trên (trước đó tôi là phó bí thư tỉnh uỷ Hưng Yên, có nhiều gắn bó với huyện Phù Cừ) kể rõ em tôi bị bắt, tra tấn và bị giết như thế nào. Trong những cực hình mà địch sử dụng có việc dùng kìm rút hết móng tay em tôi rồi cắm kim vào đó, đí diện vào hai đầu vú, thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây mà đấm đá. Tôi không muốn một ai khác trong gia đình phải chịu cảnh thương xót như tôi, vì vậy đã dấu kín những tin này. Nay được cháu Hằng kể lại tôi mói tin chắc đích thực người nằm dưới mộ là em gái tôi.

    Cháu Hằng lúi húi dưới hố chỉ đạo mấy người giúp việc, thỉnh thoảng lại nhô đầu lên nói chuyện với những người trên miệng hố. Bỗng Hằng nói có một cụ cứ tủm tỉm ngồi nhìn, không biết phải cụ Giám hay không, rồi cháu Hằng cất giọng lễ phép nói: - Cháu chào cụ ạ. Cụ cho phép cháu được biết quý danh.

    Lắng nghe hồi lâu Hằng nói như reo lên:

    - Cụ An!

    Rồi Hằng giới thiệu về mình cùng với gia đình tìm hài cốt cô Khang, đề nghị cụ giúp đỡ.


    Cụ An nói: Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ đê bên kia dầm, lần nào các bác về đây tôi mà chả biết. Tôi nhớ đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà tôi hỏi mựon cái mai. Tôi hỏi để làm gì, ông Giám: “suỵt, để chôn người chết trôi”. Tôi nhìn ra thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách mạng. Ở chỗ kia kìa, có cái rãnh nước, ông Giám kéo mấy cái xác vào rãnh nước, đến đây là chân ruộng mạ. Ông Điển mới ra ở đấy thôi, chứ ngày ấy ruộng mạ thuộc người khác.


    Cháu Hằng đưa ảnh cô Khang hỏi cụ có nhận ra người chết không.
    Cụ An nói: Bà này là thân nhận của một ông cán bộ trước là tỉnh uỷ ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào, thì cả tôi, cả ông Yên, ông Trọng đều không biềt gì đâu. Chỉ có ông Giám mới bíêt thôi, để tôi đi tìm giúp ông Giám.

    Một lúc lâu, cụ An đi cùng với cụ Giám về, Hằng nói nhỏ: cụ này già thế nhỉ. Rồi Hằng tự giới thiệu và nêu ra lời đề nghị nhận diện người chết qua tấm ảnh, cái còng để chỗ nào?

    Cụ Giám nói: Đêm tối tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi, mặt mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn lên như thế này đâu mà cắt ngang gáy như cô bây giờ. Nhưng xoã xựot dưới nước. Lần ấy tôi đem về đây không phải một người, mà ba người cơ. Tôi kéo người phụ nữ lên trước cứ thấy vướng. Thì ra tay trái cô ấy xích vào tay phải người đàn ông. Khi chôn thẳng chẳng lẽ lại chôn hai người một hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn người đàn ông thì ở chỗ đằng kia. Sức tôi chỉ kéo được đến thế. Khi chôn thì xác bị chói đã cứng, không nắn thẳng ra được đành đặt hơi nghiêng, mặt hường ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra gốc nhãn) nhưng bây giờ đã tụt xuống ao rồi. Hình như lúc chết bà ấy có chửa.

    Tân Cương nói: Một số người không thể hiểu nổi tại sao xác chết trôi sông lại có thể trôi vào được đến đây.

    Cụ Giám nói: Con mẹ Tiến cứ mồm năm, miệng mười, chứ làm sao nó biết được bằng tôi. Ở ngoài kia nước cả, không đem vào đây vùi thì làm sao đựơc?

    Cụ nói tiếp: Điều này thì tôi nghe phong thanh thôi. Tụi lính dõng đồn bảo người phụ nữ bị giết đêm hôm đó là bà bé của tay xếp bốt.

    Cụ An cãi lại: Ông chỉ được cái ăn no vác nặng, chẳng hiểu gì hết. Có lần chôn một anh bộ đội ông lại bảo là thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông nhưng chuyện này thì tôi biết rất rõ. Có mtộ người [hụ nữ du kích bị bắt, thằng xếp Bách dụ làm vợ bé không được nó đã giết đi. Ở bốt này có một thằng quan thầy ngưòi Pháp, còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng được goị là xếp, thằng Bách lấy vợ người La Tiến nên dân làng biết rõ về nó.


    Trời đã xế chiều. Mọi ngưòi hối hả thu dọn.

    Hằng nói:
    - Bác Sơn bảo còn cái chân của cô, moi sâu mà bốc. Bác bảo cứ bình tình! Sáng giờ bác đã giải quân canh phòng từ đầu làng rôi, không cho phép quấy rối (Tôi không biết thực hư thế nào nhưng lần đào bới trước có cả trăm người vây vòng trong vòng ngoài, còn hôm nay chỉ thấy có mấy đứa trẻ)Bác bảo được bà chị xuống với em chẳng được việc gì chỉ ngồi khóc.

    Hằng cải chính: - Bác Sơn nói đến bà chị - Bác Nghĩa. Từ nãy giờ bà già cứ ngồi khóc lóc: nhà có sáu chị em gái ai nấy đều có phận, đâu đến nỗi nào, riêng em tôi giỏi giang xinh xắn nhất thì đến nổi này! Không tìm được xác em tôi, tôi chết cũng không nhắm mắt được. Bây giờ tìm được em thì mình cũng là người thiên cổ rồi.

    Bất chợt nghe thấy con số sáu, tôi vội bấm đốt ngón tay: sáu hay năm nhỉ? Đúng là sáu.


    Bác Sơn như hiểu ý anh Tân Cương nói: Cho cái cô Năm nhà tôi xuống đây chỉ được cái bù lu bù loa, chẳng cho ai làm gì, tính con ấy nó vậy!

    Cô Khang nói: sau lần gặp em, ông anh tôi đã về bốc cátlập ngay thành bảy bát hương, mỗi người một bát! Đúng là một cuộc cách mạng với ông anh tôi! Em Khang cảm động ghi nhận tấm lòng của anh Phương và chị Thuỷ.

    Cụ An nói: Bà cô là liệt sĩ sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?

    Bác Sơn nói hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp. Hôm nào đưa về nghĩa trang liệt sĩ của Huyện làm lễ truy điệu.

    Cô Khang nói: Cậu Quỳnh còn giữ giấy tờ, bằng khen của chị không?

    (Quỳnh đáp: bằng khen và huân chương của chị em vẫn còn giữ). Hôm này làm lễ truy điệu của chị cậu nhớ mang theo.

    Tôi thật không ngờ người chết năm mươi năm mà vẫn còn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần thế.!
    Hằng nói:
    - Cô cười bảo: Cụ Giám ạ, cụ nói oan quá, đã được làm bé ngày nào đâu! (mọi người ai cũng cười). Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng gọi là cô Khang tóc dài, nhưng khi bắt chúng cắt hết tóc. Trong việc chôn cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công nhất. Chúng tôi rất biết ơn cụ.

    Công việc thu vét gài cốt xong xuôi thì mặt trời sắp lặn. Mọi người vây quanh gốc vải, nơi đặt bàn thờ tạm. (Sau này Hằng kể lại: suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó, buổi chiều thì bác Nghĩa cũng ngồi đó ôm lấy tấm ảnh, cụ An và cụ Giám thì ngồi xa hơn về phía tường hoa)

    Cô Khang nói lời cảm ơn với gia đình ông Điển, nhờ bác Đạt chuyển lời hỏi thăm đến chị Nhường, chị Tiến.


    - Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh tôi, nằm lại đây chỉ còn lại một bộ hài cốt, gia đình người ta sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không có gì. Nhờ bác Điển hương khói cho vong hồn chị, chị sẽ phù hộ cho, Hồi đi hoạt động chị lấy tên là Nguyễn Thị Bê nhưng tên thật là Nguyễn Thị Út (mấy người làng ồ lên! thế mà tìm mãi!)

    Chúng tôi đưa hài cốt em về nhà và hai hôm sau, đưa về nghiã trang liệt sĩ của huyện, có mặt đông đủ họ hàng nội ngoại. Sự xúc động sau khi đón ngưòi thân sau năm mươi nam cách biệt xen lẫn với niềm tự hào về người em gái của dòng họ đã hiến cuộc đời mình cho cuộc sống ngày hôm nay.

    ==============================

    Lưu ý: chữ mầu xanh biển là người âm nói

  10. #10

    Mặc định

    MÒ TÌM TRONG BÍ ẨN

    NHỮNG THÔNG TIN ĐÁNG TIN CẬY

    Từ hôm gặp được anh Nhã đến hôm bốc được hài cốt là một hành trình mò tìm trong bí ẩn. Những thông tin do anh Nhã đưa ra đối với anh cũng là điều bí ẩn; trúng hay trật chính anh cũng không biết. Còn linh hồn, chỉ có cháu Hằng nhìn thấy và nghe thấy. Cháu nói lại những điều cháu nghe, còn thực hư thế nào cháu đâu có biết.

    Cuộc hành trình đầy bí ẩn đã buộc tôi phải nhờ đến hai nhà ngoại cảm nổi tiếng, mỗi người một phương pháp: vẽ mộ và gọi hồn. Cả hai đều đưa tôi đến cùng một kết quả.
    Hai mươi bốn ngày mò tìm trong bí ẩn, chỉ đến ngày cuối cùng – ngày bốc mộ - mới kiểm chứng được những thông tin. Tập hợp các thông tin lại, tôi được một hệ thống thông tin đáng tin cậy, một số có thể xem là vật chứng, bằng chứng.

    Những thông tin thu đươc qua các linh hồn:

    1. Điều đầu tiên đặt ra với tôi: Có đúng là những linh hồn người thân đang nói chuyện với tôi không? Cháu Hằng nhận dạng được các linh hồn, cả những lúc cười, cả vẻ buồn vui. Linh hồn cô Khang và bác Sơn được cháu Hằng nhận diện qua ảnh, còn tôi không nhìn thấy, tôi kiểm tra bằng những điều linh hồn nói ra.
    Hôm đầu tiên gọi hồn, lòng tôi đầy nghi ngờ, tôi thủ sẵn trong túi tấm ảnh của anh Sơn, định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn, Nhưng ngay khi nhìn thấy cô Khang, cháu Hằng đã nói với tôi là có một người đàn ông, một thanh niên đi cùng với cô. Nếu là một cô đồng gà mờ thì dại gì mà “đẻ số” cho chính mình như thế? Tiếp đến, cô Khang nói ngay người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Vậy là tôi đã kiểm tra được linh hồn cô Khang qua anh Sơn và không những thế nhờ cháu Hằng nhận diện cả hai linh hồn qua ảnh.
    Ngày đầu tiên, hai linh hồn nhắc đến năm người trong gia đình tôi, với sự hiểu biết rất chính xác về tình cách của từng người. Ngày thứ hai tức ngày 17, hai linh hồn nhắc đến mười người trong gia đình tôi, cũng với sự hiễu biết chính xác như thế. Cũng cách xưng hô cũng thể hiện rất đúng vị thế, thái độ, và tình cảm của người nói và người nhắc đến.
    Các con tôi, có ý kiến nói: Bích Hằng đã điều tra về gia đình mình từ trước rồi. Sự nghi ngờ đó, tôi đã biết vô căn cư, mặc dù cò điều tra đi nữa cũng không thể đặt vào miệng người nói mà không phạm sai lầm.
    Ngoài những người trong gia đình cô Khang nhắc đến chị Tiến, chị Nhương là những người quen biết cũ, nhắc đến anh Tân Cương, anh Đạt là những người không quen biết nhưng đã góp sức vào việc tìm mộ gần đây.
    Ngày 17, xuất hiện bốn linh hồn nữa. Lần này thì không có ảnh để nhận diện. Nhưng những điều mà linh hồn nói ra phải thừa nhận là đúng như người chết đang nói. Bà già ngồi một chỗ khóc than kể lễ về sáu chị em gái, đúng là chị cả của tôi - chị Nghĩa. Cụ An là người cho mựơn cái mai và chứng kiến cuộc chôn cất, cụ Giám là người chôn cất, mỗi cụ nói ra những điều mà thể hiện đúng tư cách của mình, Cả linh hồn của người đàn ông họ Chử, tuy nói không nghe rõ, nhưng nhờ cô Khang dịch lại nói với chú Quỳnh nhắn với con gái ông ở Vũng Tàu. Khớp lại nhừng điều mà linh hồn đã nói ra thì đều xác nhận hài cốt bốc lên đúng là em gái tôi.

    2. Cái thuổng là một vật chứng xác nhận thông tin, mà linh hồn anh tôi cung cấp đồng thời xác nhân ngôi mộ đúng là mộ em tôi.
    3. Răng trắng chuyển sang màu đen xỉn là một vật chứng xác nhận thông tin của linh hồn em tôi, đồng thời xác nhận đúng là hài cốt em tôi.

    4. Thông tin của em tôi về chị Nguyễn Thị Bê, khi biết được tên thật là Nguyễn Thị Út, đã được xác nhận, chị nằm trong danh sách liệt sĩ của xã.

    5. Thông tin của em tôi bề cái còng sắt khoá tay em tôi với tay người đàn ông đã được xác nhận qua lời cụ Giám, tuy nhiên vật này đã bị rỉ ra thành đất

    6. Thông tin của em gái tôi về vị trí ngôi mộ cách cái hố đào lần trước 3 bước chân. soải dài ra bờ ao đã đựơc xác nhân trên thực tế. Thông tin của em tôi về ba ngôi mộ sát gần nhau, gần như nằm tern6 được thẳng, trong đó mộ em tôi nằm giữa, điều này khớp với chỉ dẫn của cụ Giám.

    7. Thông tin về người dân vớt xác “thực ra là dân phòng giả dạng”, điều này khớp với thành tích kháng chiễn mà cụ Giám nhận được, đồng thời khớp với lời kể của cụ yến về vai trò mà làng giao cho cụ Giám.

    8. Buổi sáng (ngày 17), khoảng mười giờ cô Khang nói rằng người vớt xác là cụ Đặng Đinh Giám, thì buổi chiều khoảng ba giờ, chính cụ Giám xuất hiện, kể về việc cụ đã vớt và chôn thế nào.

    9. Buổi sáng cô Khang kể lại việc cụ Giám dừng lại bảo: “khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc”, rồi thì buổi chiều cụ An xuất hiện nói về cụ Giám vào mượn cái mai, rồi kéo cái xác qua ruộng mạ như thế nào.

    10. Khi xem ảnh cụ Giám bảo người phụ nữ mà cụ chôn cất không để tóc dài như trong ảnh mà tóc đến gáy như cô Bích Hằng. Cô Khang đã xác nhận đúng là bọn địch đã cắt tóc cô. Mớ tóc mà trùm lên sọ chúng tôi thấy được cũng là tóc ngắn.

    11. Cụ Giám tả lại khi chôn cụ đã đặt cái xác hơi nghiêng vì không nắn thẳng ra được, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Trước đó, chúng tôi tìm thấy hài cốt ở tư thế ấy.

    12. Cô Khang kể với cháu Hằng về móng tay cô. Điều này đối với tôi là một bằng chứng vô cùng quý giá để khẳng định hài cốt là em tôi.

    13. Cô Khang kể với cháu Hằng về việc ông anh bốc cát lập bảy bát hương. Điều này tuy chỉ là tiểu tiết nhưng chứng tỏ linh hồn em tôi biết việc tôi làm, kể cả việc tôi nhồi cát vào bảy bát hương trước đó.

    Nhìn lại cái “trận đồ bát quái” của anh Nhã:

    Với những thông tin đáng tin cậy thu nhập đựoc qua các linh hồn, kết hợp với thông tin do dân làng cung cấp qua cuộc điều tra của chúng tôi, tôi nhìn lại trận đồ bát quái của anh Nhả. Mọi thông tin anh cho đều đúng, nhưng không sắp xếp theo một trật tự logic nên khó hiểu, rối mù như một trận bát quái. Bây giờ việc đã thành tôi hiểu nó như sau:

    1.Trước tiên phải tìm cái vụng xoáy. Chính nhờ cái vụng này mà xác em tôi khi còn chìm dưới đáy sông, đã bị cuốn vào. Cuối tháng sáu đang là mùa nước, mực nước sông Luộc chưa lên đến mức báo động, thường cách mặt đê chỉ vài mét. Lúc xác nổi lên gặp lúc triều cường thì không trôi tuột đi mà trôi vào một khúc quanh của đê. Cái vụng xoáy đó chính là vụng Quạ. Khúc quanh của con đê cũng ở đó.
    Vào mùa nước thì giải đất bãi ngoài đê, kể cả cây côi đều ngập chìm dưới nước. Không thể chôn trên đất bãi đựoc, mà kéo xác qua đê vào đồng. Nhưng đến chân đê lại là một vùng nước trũng, tháng sáu đang là mùa mưa, ruộng trũng bị ngập nước, vì thế phải kéo xác vào vùng chân mạ cao hơn.

    2. Ông Giám kéo ba cái xác qua đê không mấy khó khăn gì, vì mặt nước gần sát mặt đê. Nhưng nhà ông ở mãi cuối làng, cách đó một cây số, ông phải tạt vào nhà ông An để mượn cái mai. Khi dừng lại ông nói với cái xác vhết về việc xin lộc. Ông An mà anh Nhã nói tôi, không phaỉ là anh An – con đã tiếp chúng tôi mà là ông An bố, tức cụ An, cụ đã mất cách đây bốn mươi năm. Cái quán ông An không phải là cái nhà anh An bây giờ, ảnh chỉ mới ra đó chừng mười năm nay thôi. Bố mẹ anh vẫn ở cách đó ba trăm mét, sát mép có cái đầm sen về phía tây. . Ông làm ngề lái đò ở La Tiến, còn bà làm hàng xáo và bán bánh đúc. Cái nhà tranh lụp xụp của ông bà đồng thời là cái quán bán bánh đúc.

    3. Mượn được cái mai rồi ông Giám đi trên con đường bờ vùng, còn xác thì kéo trên cái lạch nước gần nhà ông An, đến cái cống ở cửa chùa, để đến vùng chân mạ nay là đất của cụ Nhờ và ông Điển. Con đương bờ vùng và cái lạch nước nay đã biến mất trong vùng cái đầm sen. Cái cống lấy nước vào ruộng mạ thì nay vẫn còn, nhưng dân làng đã ngăn cách nó với cái đầm sen, nó không còn tác dụng lấy nước vào ruộng mạ nữa.

    4. Hồi cải cách ruộng đất vợ chồng bà Nhờ được chia một mảnh ruộng mạ của địa chủ mà nay là đất của ông bà Điển. Năm 1969, ông Điển được hợp tác xã chia cho một mảnh đất để làm nhà ở. Mấy nam sau bà Nhờ và nhiều nhà trong vùng được chia đất ở. Đó chính là cái xóm mới dân mới ra ở khoảng 20 năm. Mộ nằm trên đất cô Nhương, đúng ra là cô Nhờ. Cái Âm mà Nhã nghe lơ lớ là như Nhường, Nhượng, Nhương thực ra là Nhờ - một cái tên rất quê nhưng cũng rất ít gặp.
    Đường xá mà anh Nhã vẽ trên bản đồ thì anh Đạt và cụ Yến nhận ra ngay nhưng cụ Yến nhận xét nó được vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi.

    5. Tât cả những thông tin đến với anh Nhã đúng như cách diễn đạt cách đây năm năm, sớm nhất cũng là hai mươi nam, Những thông tin đến với anh không theo trình tự thời gian và cũng chẳng có mối liên kết nào giữa các hiên tượng, thành thữ có lúc tôi nghĩ đó chỉ là “trận đồ bát quái” do anh nghĩ ra.

    6. Những dấuhiệu và tín hiệu cũng rất đúng, nhưng lại là hiện tượng mới xảy ra, đang sảy ra hoặc sắp xảy ra. Cái gốc cây đổ là cây nhót mà ông Điển mới chặt, nhưng chưa đánh gốc. Năm cây cỏ dại và mười bông hoa màu tím nhạt thì sớm nhất cũng chỉ cho ra hoa được một tuần trước đó. RỒi bé gái mặc áo xanh, con chó vàng nằm một chỗ như ôm, rồi cái nhà 4 mặt đều sơn trắng lốp, trươc nhà đầy hoa đỏ… TẤt cả đều đúng, nhưng tại sao anh Nhã lại trúng thế, chính anh cũng không hiểu thì làm sao tôi hiểu được.

    7. Cái bản đồ anh Nhã vẽ sau này tôi mới hiểu chỉ dùng để định hướng thôi, không xem là bản đồ địa chính. Có những chỗ rất đúng, vẽ chi tiết, rẽ trái 60m, rồi rẽ phải 45 mét. Nhưng cái quán ông An thì không nằm cạnh đường cũngkhông nằm cạnh ngã tư, mà nằm ở bên kia một cái ao to, tuổi tác của cô Nhường, ông An cũng chỉ áng chừng không chính xác.

    8. Địa điểm của ngôi mô rất đúng nhưng chỉ đúng trong một hình vuông có cạnh năm năm. Ngoài hình vuông đó sẽ chạm vào hai ngôi mộ khác Trong khoảng diện tích 25m2 đó phải đào một cái hố rộng 2,5m2 quả là không dễ gì trúng ngay. Khi vẽ bản đồ anh ghi mộ nằm cách cây đổ bốn met. Nếu đào như thế về hướng đông đông nam thì trúng. Nhưng anh hướng dẫn về hình tam giác thì chỉ còn cách gốc cây đổ 1,5m. Khi chỉnh mộ anh bảo phát triển về hướng đông đông nam. Lần thứ hai với sự chỉ dẫn của đôi bướm màu, thì tiến về phía đông nam là đúng hướng. Nhưng nếu đào phần cuối thì mới chạm đến đầu hài cốt. Phải đào một cái hố thứ ba quay ngang theo hướng tây ( không đọc rõ chữ) đông nam, và lùi hẳn về hướng đông hai met, lấy dây hoa tím chiếu thẳng ra bờ ao làm cạnh hố, mới trúng được hài cốt. Qua đây tôi hiễu tại sao anh Nhã nói: chỉnh mộ là một quá trình khó khăn đấy”. Thực tình nếu phải đào thêm cái hố thứ hai thì niềm tin bà hy vọng mong manh của tôi tin vào con đưòng thần bí sẽ bốc hơi hết, không còn gì để đào tiếp cái hố thứ ba! Không nhờ được cháu Hằng theo con đường gọi hồn thì bao nhiêu công sức của anh Nhã và của tôi đều bỏ phí, xem nhơ rơi vào tỉ lệ trật.

    9. Về độ sâu cái hố phải đào thì chỉ dẫn của anh Nhã rất đúng. Chính ở độ sâu 1,5m chúng tôi bốc được hài cốt. Nhưng khi chỉnh mộ anhlại yêu cầu đào sâu hơn nữa, phải chăng chính anh cũng đang mò mẫm sự bí ẩn?

    KHÁM PHÁ SỰ BÍ ẨN

    Hài cốt em tôi đã đựoc đưa tìm thấy nhưng những con đường đưa đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn. Khám phá những điều bí ẩn ấy không phải dễ dàng. Tôi chỉ qua thể nghiêm của riêng mình mà đễ tìm một số vấn đề, một số câu hỏi để nhưng chuyên gia về lĩnh vực ấy xem xét.

    1. Tôi có căn cứ để tin rằng đã gặp linh hồn anh tôi, em tôi, chị tôi cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất và linh hồn cụ An là người chứng kiền. Cháu Hằng đã nhận dạng được linh hồn qua tấm ảnh, thậm chí nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưói dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý, hoá học, sinh học, với những phương diện quang học và điện tử tinh vi hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?

    2. Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn có những biểu hiện tình cảm, vui, buồn, quan tâm, ước muốn (thậm chí giận dữ như cụ Giám, tranh cãi với cụ An), vẫn nhớ và kể lại những việc đã qua, kể cả việc đã xảy ra sau khi thể xác đã chết, vẫn theo dõi và đánh giá được những việc mà người sống đang làm. Như vậy linh hồn không phải là những vật vô tri, vô giácc mà là những vật thể sống, có tình cảm, có tư duy. Điều này đặt ra một loạt câu hỏi: Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới con người đang sống không? Thế giới linh hồn hoạt động như thế nào, có khả năng tác động gì vào thế giới con người đang sống? Để đáp ứng mong muốn của linh hồn người thân, người sống dâng đồ cúng lễ, tiền bạc, đồ dùng hàng ngày (Dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hồn có tiêu vong đi không hay tồn tại mãi mãi? Tìm lời giải đáp cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào những suy luận xuông thì dẫn đến những tranh cãi bất tận. Vấn đề là chứng minh.

    3. Hầu hết mọi ngưòi đều không tin có khả năng nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh hồn, nhìn thấy hài cốt vùi dưới đất dầy mấy mét. Chỉ một số ítngười cháu Hằng có khả năng đó, khả năng đặc biệt ấy do cấu tạo sinh lý nào vậy? Y học nên quan tâm tìm ra lời giải đáp.

    4. Nếu khả năng nhìn thấy linh hồn và nghe được tiếng nói của linh hồn có thể quy về cấu tạo đặc biệt về sinh lý của một số người thì khả năng nhận biết đựơc những thông tin bí ẩn của anh Nhã, anh Điển và một số người khác càng khó khám phá hơn nữa. Nhưng một khả năng giúp cho nhận dân tìm được hàng ngàn hài cốtliệt sĩ, chẳng lẽ không đáng bõ công tìm hiểu và khám phá?

    5. Trong khi chờ đợi nghiên cứu thành công, thì cần có một chính sách, chế độ để những ngưòi có khả năng đặc biệt ấy phát huy tài năng nhiều hơn nữa vào việc tìm kiếm các hài cốt liệt sĩ là nguyện vọng tha thiết của hàng chục vạn gia đình. Tránh những lời bổ báng vội vã, tránh vơ đũa cả nắm, nhập cục tất cả vào số người buôn thần bán thánh, lợi dụng mê tín dị đoan. Càng nên tránh những thái độ thô bạo như: cấm đoán, bắt bớ, giam cầm. Mới chỉ cách đây năm mươi năm thôi, nhiều nhà nghiên cứu khoa học Liên Xô chỉ vì nghiên cứu gen di truyền mà đã bị tống vào nhà thương điên. Trên con đường khúc khửu của khoa học xảy ra biết bao nhiêu sự kiện đau lòng như thế, chẳng nên lấy đó làm răn ư?

    THAY LỜI KẾT LUẬN

    Trên đây tôi đã thuật lại câu chuyên như nó diễn ra, với những nguyên liệu thô của nó, tấtnhiên có gạt bỏ đi một số chi tiết rườm rà, một số câu nhắc đi nhắc lại. Tôi là việc này là vì:

    Khi biết tôi tìm được được hài cốt em tôi (mà nhiều người biết vì gương hy sinh anh dũng của cô), nhiều bạn bè, người thân đến chúc mừng tôi và thắp hương cho người quá cô. TẤt nhiên là tôi phải thuật lại chuyện, dù tóm tắt cũng khá dài. Tôi bèn nảy ý định viết thành văn để người nói và người nghe tiết kiệm được nhiều thời gian mà câu chuyện thì không bị cắt xén, giữ được tính chân thực.

    Khi viết gần xong thì tình cờ tôi có dịp làm quen với Giáo sư Đào Vọng Đức, Thiếu tướng – Phó giáo sư Nguyễn Chu Phác là những người phụ trách trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Biết được mục tiêu nghiên cứu của anh tôi sẵn sàng gửi câu chuyện gia đình của tôi cho các anh, để trung tâm sử dụng như một tài liệu tham khảo. Với ý nghĩa đó tôi viết thêm đoạn – “Khám phá sự bí ẩn?” – hy vọng những lời bàn chầu rìa của những người ngoại đạo về lĩnh vực này (tôi chĩ là một nhà kinh tế) có chút gì bổ ích cho công việc của các anh chăng?


    Hà Nội tháng 12 năm 1999

    Giáo sư Trần Phương


    ===============================================

    Dưới đây là Ghi âm bài phát biểu tham luận của GS Trần Phương tại Trung tâm UIA đầu năm 2006.

    http://www.4shared.com/file/4815320/...hu_tuong_.html

    Khoảng 40 phút , 23mb

  11. #11

    Mặc định

    Video về các nhà Ngoại cảm tại Nghĩa trang Liệt Sỹ Điện Biên

    Các NNC Dương Mạnh Hùng, Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bẩy tiếp xúc với người Âm tại Nghĩa trang Liệt Sỹ Điện Biên

    Phần:a.

    http://www.youtube.com/watch?v=FEUTg7OmtKI

    Phần:b.

    http://www.youtube.com/watch?v=lTh_uSSeAiA

    Phần:c.

    http://www.youtube.com/watch?v=2X7EXj1rmo0

  12. #12

    Mặc định

    Xin chào mọi người,

    Bài này đã có ghi âm và VCD từ lâu rồi, nhưng những 80mb lên không thể đưa lên để load trực tiếp do đa số các trang cho upload tối đa 50mb thôi, nên ít người nghe đc. Nay vớ đc bản đã chuyển đổi sang chữ viết lên đưa lên cho mọi người tham khảo.

    Thân ái

    -------------------------------

    Dưới đây là bài nói chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng tại Câu lạc bộ tiềm năng con người ngày 28/08/2004 , được ghi lại từ VCD


    Thật ra đến dự buổi nói chuyện hôm nay, tôi cũng không biết bắt đầu từ đâu, bởi vì quá trình làm việc của tôi đã 14 năm, rất nhiều lần trong các hội nghị, tôi đã phát biểu và nói chuyện về những việc tôi đã làm. Năm 1989, sau một tai nạn hy hữu, tôi đã vượt qua được cõi chết trở về và tự nhiên có những khả năng đặc biệt. Sau quá trình tìm hiểu gần 1 năm, đến năm 1990, tôi phát hiện ra khả năng của mình không phải là ảo giác, mà là sự thật qua nhiều cuộc kiểm nghiệm của bản thân cùng những người thân trong gia đình.

    Đó là một khả năng khoa học chưa lý giải dược, gọi dễ hiểu là giác quan thứ 6. Kể từ tháng 4 năng 1990, sau sự kiện tìm lại được ngôi mộ ông tổ 4 đời của tôi, cả đại gia đình cũng như xóm làng họ tộc mới khẳng định cô bé này không bị di chứng sau bệnh dại, không phải thần kinh hoang tưởng, mà là một con người hoàn toàn bình thường. Cái không bình thường tôi nhìn thấy, nghe thấy là khả năng tiềm ẩn của con người. Nói nôm na như dân gian thì như thế là được trời cho lộc. Những ngày đầu tôi cũng gặp nhiều cay đắng, lộc đâu chẳng thấy.

    Cho đến bây giờ, để được đứng trước câu lạc bộ có các cô các chú, các anh, các chị, được sự mến mộ của nhiều người, đem lại niềm vui cho một số gia đình, tôi phải trải qua một quá trình không dễ dàng tự phấn đấu khẳng định bản thân, vượt qua mặc cảm với cộng đồng xã hội, đấu tranh với nội tộc người thân. Bố mẹ tôi có những cảm giác khó tả khi sinh ra người con không phát triển theo quy luật tự nhiên, trải qua những tháng ngày rất căng thẳng, đau khổ, không ít những đêm thức trắng vì con mình lớn lên chuẩn bị đến trước cổng trường đại học lại bị một tai nạn như vậy, rồi lại âm âm dương dương không hiểu thế nào.

    Hôm nay, tôi cũng chỉ muốn đề cập đến hiện tượng tôi đã thấy và làm trong mười mấy năm qua, tôi không dám tham vọng buổi nói chuyện này có thể giải thích hiện tượng đó là gì. Cơ chế của hiện tượng, bản chất ra sao là một câu hỏi lớn với tất cả chúng ta, không những Bộ môn Cận tâm lý, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, mà còn rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Tôi từng được rất nhiều tổ chức nước ngoài mời phỏng vấn để hy vọng tìm ra cơ chế hiện tượng nhưng cho đến thời điểm này, vẫn chỉ là sự ghi chép tổng hợp chứ chưa có lời giải thích nào hợp lý.

    Năm 1990, tôi bị chó dại cắn trong 1 tai nạn xảy ra với 2 người. Tôi là người đầu tiên. Người thứ 2 là cô bạn cùng tuổi học cùng lớp, vì cố tình đánh đuổi con chó, che chở cho tôi. Tôi bị cắn vào chân trái, còn bạn bị cắn vào bàn tay trái. Ở tuổi 17, hai đứa thấy hoàn toàn bình thường, quên ngay việc bị chó cắn, coi như không có chuyện gì xảy ra. Tôi chỉ mong bạn được đi học đại học vì tôi đã được gọi vào trường rồi. Sau thời gian khoảng gần một tháng, bạn tôi có triệu chứng lên cơn sốt, co giật và nhiều triệu chứng khác. Chúng tôi sinh ra ở một vùng nông thôn tỉnh Ninh Bình, điều kiện đến bệnh viện bấy giờ không phải khó khăn, nhưng cha mẹ mải làm việc, thêm nữa nghĩ chúng nó đang tuổi mới lớn, chuyện sứt sẹo chân tay là chuyện thường không ai để ý đến. Ngày cuối cùng tôi gặp lại bạn, bạn tôi không nói được nữa, hàm răng cứng lại thì lại nghĩ là đau răng, đi nha khoa kiểm tra nhưng hoàn toàn không phải. Về đến nhà, có một bác sĩ ở bệnh viện quân y 5 Ninh Bình nói tất cả biểu hiện của cô bé này cho thấy là người bị bệnh dại. Đứng cạnh bác sĩ, nghe thấy như vậy, hơn ai hết, chỉ tôi biết bạn bị chó cắn, và cảm thấy tử thần bắt đầu nắm tay mình. Tôi chỉ nói với bác sĩ được một câu “Đúng như vậy”. Bác sĩ hỏi tại sao, tôi trả lời “Vì cháu cũng bị chó cắn. Hai đứa bị cùng một lúc”. Khi tôi ngất đi rồi tỉnh lại, bạn tôi đã qua đời. Lúc ấy, mọi người mới biết, tay tôi chỉ buộc rất đơn giản chiếc khăn mùi xoa, vết thương vẫn chưa khỏi, bị nhiễm trùng vì làm những việc khác.

    Gia đình đưa đi chữa nhiều nơi nhưng họ đều lắc đầu bệnh này không thể chữa khỏi từ xưa đến nay. Đến nhà một ông thầy lang theo Thiên Chúa Giáo, ông nói câu đầu tiên “Chúa lòng lành sẽ che chở cho con”. Ông nói với người con trai ra nghĩa đĩa lấy ngay một mảnh ván thô của người bốc mộ ngày hôm qua, thêm một vài vị thuốc bào chế cho tôi. Để giành giật giữa cái sống với cái chết, cái gì tôi cũng uống, cái gì tôi cũng ăn, hy vọng lấy 1 phần nghìn sự sống. Uống thuốc rồi, ông dặn sau ba tiếng đồng hồ, cháu sẽ cảm thấy nóng khắp người, lên cơn sốt mê man, lên cơn sảng, thậm chí lên cơn điên cắn xé, xong thì hết cơn, theo dõi nếu 3 ngày sau cháu hết cơn thì ông bà yên tâm con mình sống, còn nó lên cơn trở lại thì cháu không sống được nữa, tôi rất muốn cứu cháu nhưng khả năng của tôi chỉ đến thế. 7 giờ tối tôi uống thuốc, 9 giờ tối tôi lên cơn đúng như lời ông thầy lang, khoảng 11h đêm tôi thiếp đi. Ngày thứ nhất, ngày thứ hai không thấy triệu chứng gì. Ngày thứ ba, ông anh cô bạn từ bên Đức nghe tin em mất về, tôi cùng gia đình ra mộ bạn thắp hương vì từ hôm bạn mất, tôi không được ra mộ. Tạm biệt bạn từ ngôi mộ quay trở lại, cách ngôi mộ độ 30 met, tôi cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Tôi nói: “Đưa nhanh em về, em bị điên rồi”, từ đấy không biết gì nữa.

    Đến lúc 1h đêm, gia đình không còn tia hy vọng, tôi hoàn toàn tắt thở. Ở quê, những người trẻ được khâm niệm rất nhanh, không bao giờ tổ chức lễ tang kèn chống, bởi ông nội còn, bố mẹ còn. Có một ông cụ, là ông thầy dạy chữ nho ở làng, rất giỏi tử vi, sau một hồi tính toán, ông bảo: thứ nhất, chưa qua giờ Thìn, không được khâm niệm cháu; thứ hai, cứ để nó nằm như thế, không được thắp hương. Bác sĩ nói tốt nhất đậy mặt lại, để gia đình đi chuẩn bị cho cháu, tại sao cụ lại nói như vậy để người ta nuôi một hy vọng bệnh hoạn. Ông cụ nói: Các anh thì cả một nền ý học hiện đại, tôi thì chỉ tàn hương nước thánh, nhưng tôi khẳng định nó không thể chết. Cả gia đình tôi rất hoang mang. Năm đó thị trường chưa như bây giờ, việc mua đồ rất khó khăn. Mọi người ai đi mua gỗ cứ đi, ai ngồi chờ cứ chờ. 1 giờ đêm, tôi chính thức tắt thở.

    Bố tôi công tác ở xa. Trong những ngày tôi khắc khoải chờ chết sau sự ra đi của bạn, tôi hỏi bố tôi năm 1988 tổng bí thư Lê Duẩn mất, họ bắn 7 loạt đại bác để làm gì, bố tôi trả lời để linh hồn mau siêu thoát. Tôi nói, khi con mất, con không vinh dự được bắn đại bác, bố bắn cho con bảy phát đạn, con cũng mau siêu thoát để trở về với bố mẹ. 7 giờ sáng, bố tôi về. Bố tôi khóc, có bao nhiêu đạn trong bao ông bắn hết. Tôi nghe tiếng nổ tỉnh dậy, phản xạ đầu tiên là lao ra phía đó, gọi “Bố ơi!”. Tôi đạp phải những các tút bật lại và ngã xuống sân. Mọi người đưa vào trong phóng. Sau khoảng nửa tiếng, tôi tỉnh lại hoàn toàn, cảm giác không trọng lượng, như đang bay, nhìn mọi người như ở một thế giới khác. Trong 30 phút bất tỉnh vì ngã đập đầu xuống sân, tôi thấy bà nội và bà ngoại, cả hai người đã mất, gọi tôi. Tôi đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, bà ngoại bên kia vẫy tay, bà nội thì đứng bên bờ bên này kéo lại. Bên kia còn có rất nhiều người đang đón mà không biết là ai. Tôi tuột khỏi tay bà, hốt hoảng vì sợ ngã nên gọi “Bà ơi!”, đó cũng là câu mọi người nghe tôi nói đúng lúc tỉnh dậy.

    Tâm trạng trong gia đình vẫn nghĩ sự tỉnh lại chỉ là tạm thời. Tất cả mọi người sẵn sàng chuẩn bị tinh thần đón chờ cái chết sẽ đến với tôi. Bản thân tôi cảm thấy hoàn toàn bình thường, mọi sinh hoạt đều trở lại bình thường như cũ, không có gì thay đổi.

  13. #13

    Mặc định

    Khi nhìn mặt những người xung quanh mình, tự nhiên tôi cảm giác cuộc sống của họ còn được bao nhiêu. Vài tháng, tôi đi lăng nhăng, thấy ai sắp chết là tôi nói cho họ biết, không ít lần bị ăn đòn, ăn chửi. Trong làng có ông Vũ Văn Trác nhà ở gần trường học, mới hơn 50 tuổi, khỏe mạnh, quý tôi, đi đâu về nhìn thấy cũng bảo “Chào cô giáo ạ!”, cái gì có cũng cho tôi. Tôi là con nhà giáo, ngày nhỏ học rất giỏi. Một hôm, tôi nhìn ông bảo: “Ông ơi, chắc là ông sắp chết rồi. Thôi ông đừng đi làm nữa cho khổ! Ông về đi!”. Ông sững sờ:” Cô giáo nói tôi cái gì đấy?”. “Cháu bảo là ông sắp mất rồi, đừng đi làm nữa!”. Sẵn cái roi đánh trâu đi cày về, ông quay lại:” À, tưởng là con cô giáo mà tao không dám đánh à? Bố mày có là đại tá, chứ là đại tướng thì hôm nay tao cũng phải cho mày một trận, láo toét!”. Tất cả mọi người ở làng hai bên đường chứng kiến ông này rất quý con bé này sao hôm nay lại đuổi đánh nó dữ dằn thế. Tôi vừa chạy vừa quay lại bảo: ”Không, ông chết thật mà.” Đến nhà, ông nội tôi chắp tay: ”Tôi lạy ông! Cháu nó bị dở dở ương ương, nhà tôi đã khổ lắm rồi. Thôi, ông đừng làm cháu khổ thêm nữa, ông đừng đánh nó, ông biết nó hâm rồi mà.” Ông kia quyết không tha: “Tại sao nó rủa tôi sắp chết? Tôi không tha cho con này, tôi phải đánh cho nó một trận.” Ông đánh được mấy cái, tôi đau, tức, khóc những vẫn bảo: “Cháu bảo ông chết thật rồi ông không tin cháu à? Thử mấy ngày nữa thì sẽ biết, chỉ từ nay đến 15 tháng 7 thôi…”. Cuộc sống cứ như thế trôi qua, đến ngày truyền thanh 3 cấp của xã đọc tin cáo phó cụ Vũ Văn Trác chết hồi 2 giờ chiều ngày 15/7, cả làng ngã ngửa ra. Thời gian tôi nói và thời gian ông mất quá gần.

    Tiếp đến là chú Bùi Văn Chai (Trai?), chủ nhiệm hợp tác xã thêu xuất khẩu xã Khánh Hòa nơi tôi sống, bạn rất thân của mẹ tôi. Đó là năm 1989. Tôi bảo chú, giữa hội trường ủy ban nhân dân xã, rất nhiều người chứng kiên, đến tháng giêng là chú chết đấy, có bao nhiêu hợp đồng xuất khẩu chú bàn giao lại hết đi, nếu không đến lúc đấy chết lại không kịp. Chú nói: “Anh chị phải về dạy bảo con. Cứ để nó luyên thuyên như thế là không được.” Đầu tháng giêng, chú bị đau bụng, đi khám bệnh và được phát hiện bị hoại tử đường ruột. 24 tháng giêng chú mất. Người ta bảo tôi bị ma ám, nói ai là người ấy chết, tốt nhất là tránh đi.

    Bố mẹ tôi, ông tôi, tất cả người thân trong gia đình đều đau khổ. Mẹ tôi là giáo viên dạy giỏi nhiều năm, các phụ huynh học sinh trước đây rất tin tưởng phấn khởi cho con học lớp mẹ tôi, giờ lại tự động chuyển con sang lớp khác. Tôi ra sức thuyết phục gia đình, tôi hoàn toàn bình thường, những cái đó là tôi nhìn thấy thật, nhưng không ai tin, kể cả bố mẹ. Sau đó, tôi được đưa đi hết bệnh viện này bệnh viện khác, khám thần kinh rồi đủ thứ, đưa đi ông thầy nọ bà thầy kia cúng bái, chuyển mộ.

    Tôi phán đoán được tình trạng sức khỏe người ta như thế nào, rồi phán đoán được suy nghĩ của người ta. Tôi ước gì một ngày nào đấy ngủ một giấc dậy quên khả năng ấy đi. Nhiều người suy nghĩ rất tốt, nhưng những suy nghĩ xấu xa lại nhiều hơn.

    Tôi ao ước nhìn thấy bà nội và bà ngoại, những người tôi yêu quý. Bà nội tôi mất lúc tôi mới 10 tuổi, hình dáng tôi vẫn nhớ. Đúng ngày giỗ bà nội mồng 6 tháng 10, tôi thấy bà nội về, mang theo 2 đứa trẻ, một đứa đang bế, một đứa dắt tay. Ông nội tôi bảo đó là 2 đứa con của ông, đã mất lúc 8 tháng và 3 tuổi, thế này thì không thể không tin lời tôi. Có lẽ trời cho ăn lộc hay thế nào đây?

    Làng tôi có ngôi chùa bà Huyền Trân Công Chúa đã tu. Ở Chiêm Thành về, bà không lấy chồng nữa mà về tu ở đấy. Gia tộc họ Trần, ông Trần Thái Tông và một số công thần nhà Trần cũng về đấy. Cả một bãi rộng mênh mông mà bây giờ là sân vận động bóng đá từng gọi là Mả Nhà Trần. Tôn thất nhà Trần chết đi đều chôn ở khu vực này. Nhà ông chú ruột tôi ai cũng bị bệnh kỳ lạ, teo một bên chân, ngoẹo một bên đầu, hoàn toàn về bên phải. Tôi bảo chú, ngày xưa tôi chơi ú tim trẻ con buổi tối rất hay nhìn thấy bóng người trong vườn nhà chú. Hai chú cháu ra đào bới, thấy một lớp ngói, như ngói lợp của một cái lăng lâu năm đã mục, gạt ra thấy một lớp đất đỏ, gạt lớp đất đỏ thấy một cỗ quan tài đồ sộ. Người ta nghiên cứu lớp vỏ bên ngoài là vỏ hến, vôi, mật trộn lẫn với nhau, không phải bê tông nhưng vô cùng rắn. Bên trong có một quan tài chạm trổ óng ánh rất đẹp, bật nắp ra thấy hình một người đàn ông nằm dọc, nước vàng khánh. Tôi là người đầu tiên nhảy xuống thò tay sờ thấy tan hết ra toàn xương người với những đồng tiền, một vài vật dụng linh tinh. Ủy ban xã vào lập biên bản, cán bộ văn hóa đến làm việc. Ở cơ quan cấp huyện, cấp xã, họ cũng chỉ dừng lại ở mức độ đó. Ngôi mộ được xác định là của một ông tướng đời Trần, có thể cách đó khoảng 700 năm. Tôi rất tiếc, nếu ngày ấy nhận thức của tôi sâu hơn, rộng hơn một chút, báo cho cơ quan văn hóa tỉnh, khảo cổ ngôi mộ sẽ thu lại rất nhiều di vật. Rốt cục, những con chó đá, những vật nhỏ xíu trong quan tài, mỗi người đến xem lấy một thứ. Những đồng tiền bị bốc đi, mài, bẻ vì tưởng là vàng, nhưng nó là hợp chất gì đó, chẳng phải đồng, chẳng phải vàng, hình tròn, đục lỗ xuyên vào nhau.

    Sau sự kiện trên, đến nhà nào tôi cũng hỏi có mất mộ không, hễ mất tôi xin tìm giúp. Dân làng cũng thử nhờ tôi xem sao. Sau vài lần tìm thấy, người ta gọi tôi là “cô”, thấy tôi đi qua bèn chắp tay “Lạy cô ạ”, “Xin cô”.

    Chính bản thân gia đình tôi cũng mất mộ cụ tứ đời, bao nhiêu lần bố tôi đưa cả đại đội bộ đội về đào mà không thấy. Đúng ngày giỗ cụ 12 tháng tư, tôi thử đi tìm. Trớ trêu, ngôi mộ nằm trên đường đi, tôi rủ thêm người anh trai ra đào. Mấy chú bảo vệ ở xã nhìn thấy bảo: Con ông bộ đội đi ra phá đường. “Không, cháu nhìn thấy có mộ ở đây”. “À, thế thì đem xẻng cuốc ra đây thử đào xem con dở hơi này nó nói có đúng không?”. Sâu gần 2 met, tôi với tay lên mới tới mặt đất thì thấy một tấm bên trên khảm chữ không đọc được. Hai anh em đem rửa, cả họ đang ăn cỗ. Ông nội tôi hơn 80 tuổi được gọi, chạy ra đến nơi, đọc một bên là “Ẩm thủy quy nguyên”, một bên là “Vinh quy bái tổ”. “Đúng mộ ông nội tôi đây rồi”, ông lăn ra khóc.

    Hồi đó, rất đông người đến nhờ tôi nhưng bị bố tôi đuổi. Bố tôi thậm chí xin nghỉ công tác ở nhà canh con gái, sợ nó làm việc gì không phải với bà con làng xóm. Từ đây tôi bớt bị sự kìm kẹp của bố tôi.

    Đấy cũng chỉ là một phần rất nhỏ những ngày đầu tiên tôi có khả năng. Tâm trạng gia đình, bản thân tôi, của thầy cô bạn bè khó tả lắm, cho đến vài năm sau còn chưa hết ngỡ ngàng. Khi tôi tìm thấy cụ tứ đời, tìm cho bà con trong làng, mọi người xác nhận đây là khả năng có thật, không phải luyên thuyên, không phải hoang tưởng di chứng bị chó dại cắn.

    Trước đấy, mọi người còn bảo tôi học chuyên, học nhiều nên bị ngộ chữ. Tôi xin bố mạnh dạn cho tôi đi thi, xem con có học được không, nếu con quên hết kiến thức văn hóa, bảo con thần kinh thì con chịu, nếu không bố phải cho con học, không được giữ con ở nhà. Bố tôi đồng ý. Là dân khối xã hội, nhưng cố tình chứng minh cho bố, tôi quay ngoắt sang thi khối A, Đại học kinh tế quốc dân. Tôi chỉ có 15 ngày, từ lúc thuyết phục được bố cho đến khi tôi thi. Quá quyết tâm, tôi đỗ với kết quả không ngờ, gần 24 điểm.

    Trong thời gian đi học, tôi cũng có làm cho rất nhiều người, ví dụ các thầy các cô ở các trường đại học biết. Bố tôi ra điều kiện, ai đến nhờ, để lại cho ông chứng minh thư hoặc sổ hộ khẩu, đưa tôi đi, phải có một người đi theo, làm việc xong đưa tôi về nhà báo cáo kết quả xong ông trả lại. Sau khi xin nghỉ hưu, bố tôi được bầu làm bí thư đảng ủy xã, chủ tịch hội cựu chiến binh. Nhà tôi đông khách kinh khủng, xã bực mình, đem bố tôi ra kiểm điểm, kỷ luật, định khai trừ khỏi đảng. Trong một năm ở nhà, tôi cũng làm trưởng ban tổ chức thiếu niên nhi đồng, phó bí thư xã đoàn, sau đó lên bí thư xã đoàn. Tôi học đối tượng đảng, thi rất xuất sắc được 10 điểm, nhưng không ai cho kết nạp đảng vì mê tín dị đoan. Khi đưa bố tôi ra kỷ luật, tôi xin gặp ủy ban kiểm tra đảng, những người làm quyết định kỷ luật, nói: Tôi đã 18 tuổi, đủ tư cách pháp nhân và năng lực hành vi để chịu mọi trách nhiệm về hành động của mình. Không có lý do nào việc tôi làm bố tôi phải chịu. Mà tôi là quần chúng trong đoàn thể thôi, không phải đảng viên. Nếu tôi là đảng viên, bố tôi là bí thư chi bộ thì rõ rang kỷ luật bố tôi. Thế là người ta yêu cầu tôi làm gì đó để chứng minh tôi có khả năng thực sự đem lại lợi ích cho quê hương làng xã.

    Hồi đó, tôi đang cộng tác với Viện Khoa học thể dục thể thao, do bác Nguyễn Văn Cừ làm viện trưởng. Bác Cừ, một số anh trong ban quản lý di tích lịch sử, nhất là anh Nguyễn Văn Chiến, trợ lý của bác Cừ,cầm máy ghi âm theo tôi nhiều lần để nghiên cứu. Anh Chiến rất giỏi tử vi, một chân hơi tập tễnh vì bị tật từ nhỏ. Ở Bộ văn hóa có chú Phí Đình Thiệm, cô Hoàng Thị Vân và nhiều người ủng hộ nhiệt liệt, về động viên bố mẹ tôi. Bố tôi bảo, nếu các bác các chú tin cháu nó có khả năng thì cứ việc nghiên cứu nhưng phải lưu lại trên báo cáo giấy tờ để sau này có cái trình bày với các cơ quan đoàn thể.

    Tôi đi cộng tác trong thời gian khá dài, khoảng 6 tháng. Tôi xin các bác các chú cho người giúp tôi về khảo sát lại di tích lịch sử chùa Dầu quê tôi từ đời nhà Trần, 700 năm nay. Tôi về khám phá, kiểm nghiệm thông tin, nói chuyện, tiếp xúc với những nhân vật đã xây dựng chùa, tất nhiên là chết cách đây 700 năm rồi, trong đó có cả bà Phan Thị Vinh, nhũ mẫu của Huyền Trân Công Chúa, họ nhiều đời của nhà tôi. Chùa bị giặc Pháp đốt, phá tan tành, những bát hương đá bị vùi xuống đất. Người xưa cho tôi biết tòa sen như thế nào, bát hương ra sao, có bao nhiêu sắc phong chứng chỉ từ các đời vua. Những gì tôi thu thập được xác nhận hoàn toàn đúng bởi ban văn hóa. Huyện trình lên tỉnh, tỉnh trình lên bộ. Chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Kết quả để bố tôi không bị kỷ luật đảng chính là những thông tin tôi mò mẫm lấy được từ cõi âm.

  14. #14

    Mặc định

    Những ngày ấy tôi làm việc hết sức khó khăn. Để nói chuyện được cũng không đơn giản. Lúc đầu tôi không biết nói chuyện, chỉ nhìn thấy người, hình dáng họ như thế nào, họ già, họ trẻ, họ đen, họ trắng, họ béo, họ gầy. Có trường hợp nhìn giống nhau dẫn đến sự nhầm lẫn. Tôi có tìm cho một gia đình bác ấy là liệt sĩ chống Pháp, chết ở trận Chùa Cao - Ninh Bình. Tôi tìm thấy bác ở một bờ ruộng gần bốt Chùa Cao. Ừ đây mặt vuông chữ điền này, râu quai nón này, giống anh con trai duy nhất của bác, đúng ngôi mộ này rồi. Gia đình đắp đất lên, để đấy chuẩn bị về chôn vào nghĩa trang. Tôi rất phấn khởi vì thành tích của mình đạt được, đến tối ngủ tự nhiên thấy có một bác bộ đội giật giật chân dậy và ở đó có 2 người. “Này này, dậy! Cậu dậy đây tớ bảo cái này. Hôm nay cậu làm thế là cậu làm không được nhé. Cậu nhầm. Cậu chỉ mộ cậu liên lạc của tớ. May mà vợ con tớ chưa đem về đấy. Nếu mà đem về có phải tớ vẫn còn nằm lại mà cậu liên lạc lại được cả nhà tớ kêu bằng bố.” Tôi bảo: “Cháu không hiểu” Bác ấy nói:” Đây này nhìn đây này, cậu liên lạc nó mới chỉ 23 tuổi, còn bác đã ba mấy tuổi rồi. Bác có cái mụn ruồi ở mũi, cháu nhìn thấy chưa, rất là to. Ngày xưa bố vợ suýt không đồng ý vì báo cái mụn ruồi đấy là chết yểu, chết non, con gái ông ý sẽ góa chồng sớm. Dù mụn ruồi nhưng tớ vẫn đẹp giai nên tớ vẫn lấy được. Đây này, bây giờ nhìn nhé. Ở cái chỗ đất đây này, bác ném cành hoa vạn thọ ở chỗ này nhé. Mai cháu nhớ phải lên sớm không trẻ con nó nghịch nó làm mất.” Hôm sau, sáng dậy sớm, một mình tôi đi xe xuống chỗ mô đất nhà người ta đắp, vẫn còn thấy chân hương, hoa cắm, đồ cúng thì trẻ con lấy hết rồi. Tôi nhìn ra cách đấy khoảng 5 mét. Mặc dù là mùa đông nhưng tôi vã mồ hôi. Trên nền cỏ ướt đâm sương muối, một cành cúc vạn thọ nằm ngay thẳng. Đầu hoa thì vào đầu ống ấy còn cuống hoa thì vào chân. Tôi về báo tin cho gia đình ngay. Thật ra lúc ấy rất khó nói. Tôi phải mạnh dạn xin lỗi gia đình là tôi nhầm. “Như thế là thế nào? Lấy gì làm bằng chứng? Hôm qua đã cả hình cả dáng đúng như thế rồi…” “Cháu nhìn thấy ông ấy có cái mụn ruồi trước cửa mũi này này, cái mụn ruồi cảm giác nó che lấp cả lỗ mũi ấy.” Bà cụ òa lên khóc: “Đúng chồng tôi rồi”. Gia đình họ lại chuẩn bị xe pháo đi cùng tôi xuống vị trí để nhận. Chỉ có từng này đất đã đến hài cốt của bác dưới ruộng hàng ngày vẫn chồng cấy lúa mà người ta không biết. Sau đó, bác được gia đình đưa về quê, còn cậu liên lạc được đưa vào nằm trong nghĩa trang Chùa Cao. Phải 5 năm sau, khoảng 1995, khi tôi bắt đầu khả năng nói chuyện, tôi quay trở lại đúng địa điểm đó, hỏi chú tên là gì, quê quán ở đâu để tôi về báo cho gia đình chú. Chú trả lời:” Lúc ấy chú nói nhiều lắm mà cháu không nghe thấy. Chú tên là Đỗ Viết Định, ở làng Vũ Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Bây giờ nhà chú chẳng có ai đâu, vì nhà chuyển đi ra ở thị xã Ninh Bình rồi. ” Làng Vũ Lâm có hành cung Vũ Lâm của nhà Trần. Tôi lần mò về, người ta bảo ông này liệt sĩ từ lâu rồi, giờ hỏi ông ấy làm gì. Người ta chỉ tôi ra thị xã Ninh Bình tìm người thân xuống nhận. Lúc ấy chỉ có bố mẹ chú thôi, chú chưa có vợ có con, anh em thì mỗi người đi làm ăn một nơi.

    Trường hợp đầu tiên để tôi phát hiện ra khả năng nghe nói là trường hợp của mẹ giáo sư Mai Hữu Khuê, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Khi tôi đi tìm, thấy có một bà cụ, nghe như có tiếng nói, cái miệng lắp bắp mà không hiểu nói gì. Chỗ đấy là một vũng nước rất bẩn. “Cụ ơi cụ, cụ nói cái gì đấy”. Tôi nghe thấy cụ gọi “Cháu ơi!”, tim tôi muốn vỡ ra. Tôi sướng quá, tôi nghe được rồi. “Bà tên là Kình, nhắn hộ cho bà, mộ bà ở đây mà các con bà về tìm mãi không thấy”. Con bà là Khuê. Tôi quay ra nói với dân làng. Dân làng bảo con bà ấy làm to lắm. Đúng rồi, bà Kình mẹ ông Khuê. Nhà bác Tạ Thị Thược ở làng Thành Mỹ, Hoa Lư, Ninh Bình nói biết ông Khuê mà hình như còn là họ hàng gọi là cậu, nhắn tin cho gia đình về nhận ngôi mộ của bà cụ.

    Từ đấy chuyển sang một giai đoạn dở hơi tiếp. Tôi đi hỏi hết các ngôi mộ xem họ nói gì. Về hỏi người nhà mình thì chuyện gì mình cũng biết rồi, cứ ba đời bốn đời nhà người ta lôi ra kể, nói chuyện. Nhưng tôi vẫn chưa tin khả năng nghe của mình. Mãi đến đợt tôi giúp gia đình đại tá Tạ Doãn Địch ở 24A Tăng Bạt Hổ tìm được mười mấy ngôi mộ. Sau khi giúp xong cũng nói chuyện với các cụ nhưng rất ít, bởi tôi chỉ nói mình tôi hay chứ không dám cho mọi người biết rằng mình biết nói. Đêm hôm ấy, một cô bé chạy về, ôm mặt khóc: “Tại sao lại không tìm tôi, tìm hết mọi người thiếu mỗi mình tôi?”. “Cô là ai?”. Cô dắt tay ra chỉ vào đống đá :”Đây này, cháu lên cháu sẽ nhìn thấy đống đá hộc (?). Cô tên là Đóa”. “Cô người nhà ai?”. Cô bảo: “Người nhà mà hôm qua cháu vừa đi tìm mộ xong”. Hôm qua tôi chỉ tìm đúng cho nhà bác Tạ Doãn Địch. Tôi viết thư lên, nhà bác nói đấy chính là bà cô chết lúc hơn mười tuổi. Gia đình về khai quật, vứt hết đá ra, dưới lớp đất lấy được hài cốt của một cô bé hơn mười tuổi, bây giờ xấy mộ lại rồi. Tôi phát hiện thêm một điều, khi mình làm nhầm cho người ta, lập tức người ta phản hồi lại ngay. Tôi rất mừng, có sự phản hồi mới biết mình đúng hay không, nếu không thì cứ u u mê mê thế thôi. Chí ít đến lúc đấy có 2 trường hợp người ta phản hồi lại là sai. Một người là nhầm lẫn, một người là thiếu sót. Ở cõi âm là như thế, người ta rất rõ ràng, ranh giới giữa sự thật và không thật không bị mập mờ. Tôi cảm thấy họ rất trọng tình nghĩa, chỉ có một chút quan hệ dây mơ rễ má, họ sẵn sàng nhắn nhủ cho nhau. Ví dụ, cháu gặp người này cháu nói chuyện, tìm mộ xong rồi ông lại bảo: “Này, cho bác nhắn này, nhà bác còn một bà…” họ như này như này mất mộ nằm ở chỗ này chỗ này. Nói đùa, như thế đâm ra tôi bị vạ lây, đáng lẽ chỉ phải tìm mỗi một người, tự nhiên phải tìm bao nhiêu người. Những ngày đầu tiên tôi chưa có kinh nghiệm, người ta nói đến lúc nào tôi phải nói đến lúc đấy, người ta nhắn gì tôi cũng phải nghe, nhất là đi ra nghĩa trang liệt sĩ thì cứ ngồi mấy tiếng đồng hồ không bao giờ ghi hết nổi. Đến giờ, tôi biết cách ngắt vì sức khỏe mình đến mức độ nào thôi. Không nói được nữa thì cháu xin lỗi cụ, hôm khác cháu sẽ gặp lại. Những năm tháng đầu tiên ấy, tôi tìm được rất nhiều liệt sĩ nhắn nhủ như vậy, có khi họ là đồng đội. Ví dụ, “Chú có thằng bạn chết trong Bình Dương”, về gặp chú bảo mộ nó đang nằm ở chỗ đấy, lô cao su số mấy, ai là người phụ trách lô cao su ấy, hàng ngày đi cạo mụ cao su. Tôi báo cho gia đình về tìm được. Đó là trường hợp tìm cho liệt sĩ Nguyễn Văn Nhợi ở Vĩnh Phúc. Tôi được cho biết, đi lên lô cao su ấy, của nông trường ấy, có một chị đang cạo mủ cao su, có đặc điểm là bao giờ cũng đi cùng con, mẹ đi trước con theo sau. Gia đình họ vào tìm, bảo cả nông trường có cô này không có chồng nhưng có một đứa con, đi đấu cũng dắt theo lẽo đẽo. Bác bảo ở lô cao su ấy, cái bát cạo mủ gần gốc cây bác nằm bị mẻ…

    Năm ngoái, bộ môn chúng tôi nghiên cứu đề tài TK06, có nghĩa là “Tìm ngược”, người chết tìm người sống. Bình thường thì người sống chúng ta đi tìm lại ông bà cha mẹ, anh em ruột thịt bị mất. Vừa rồi, đề tài TK06 làm ngược lại. Chúng tôi đã tìm, bước đầu có kết quả khả quan đáng vui mừng. Người âm nhắn đi đến địa chỉ này, địa chỉ kia, tìm cho tôi cháu này, con này, cuối cùng đều tìm được tất cả, thậm chí thân nhân của những người chết đói, chết bom ở Hợp Thiện, nhất là tìm liệt sĩ thì khá nhiều, về các vùng quê tìm mộ cho các gia đình cụ nọ nhắn cho cụ kia cũng tương đối nhiều.

    (còn tiếp)

  15. #15

    Mặc định

    Hay quá cuối cùng thấy Blog này đăng upload MP3 đây rồi


    Bạn có tin có một thế giới của những người đã khuất? Hãy nghe những người trong cuộc: các nhà ngoại cảm có khả năng giao tiếp với các vong linh: bạn tải về và nghe các file Audio sau (hơi bị lớn, bạn nên dùng thêm các trình hỗ trợ và tăng tốc download).


    -----------------------------
    2004_08_28 Phan Thi Bich Hang (Ngoai cam).rar
    (file nén 45MB, giải nén 77MB)


    http://files.myopera.com/12p2-85/blo...i%20cam%29.rar

    2004_08_28 Phan Thi Bich Hang, MP3 18 mb

    http://www.4shared.com/file/4718489/...rsptbhang.html
    -----------------------------------------------------------

    2006_01_22 Phan Thi Bich Hang (Ngoai cam).mp3
    (32MB)


    http://files.myopera.com/12p2-85/blo...i%20cam%29.mp3

    -----------------------------------------------------------

    2006_01_22 Nguyen Chu Phat (TS - Thieu tuong - Chu nhiem bo mon Can tam ly).rar
    (file nén 24MB, giải nén 39MB)


    http://files.myopera.com/12p2-85/blo...am%20ly%29.rar
    --------------------------------

    2006_01_22 Tran Phuong (Giao su).mp3
    (23MB)


    http://files.myopera.com/12p2-85/blo...ao%20su%29.mp3

    ----------------------------------
    2006_01_22 Tran Van Ha (Giao su).rar
    (file nén 23MB, giải nén 36MB)


    http://files.myopera.com/12p2-85/blo...ao%20su%29.rar

    -----------------

    Tuy nhiên để chân thực tôi để nguyên trạng các bài nói chuyện. Do vậy có 1 số từ ngữ liên quan đến chính trị , quân đội 2 Miền ... mong mọi người tập trung vào cốt lõi của câu chuyện là tâm linh, chứ không phải là chính trị.

    Thân ái

  16. #16

    Mặc định

    Hành trình tìm mộ chị gái của gia đình thiếu tướng Trần Độ

    Câu chuyện về hành trình tìm mộ nữ liệt sĩ Tạ Thị Câu được bắt đầu bằng những dòng hồi ức buồn, đầy tâm trạng của ông Trần Toàn Thắng, con trai cả của tướng Trần Độ...

    Ký ức tuổi thơ

    "Bác Câu tôi hy sinh được 13 năm, tôi mới cất tiếng khóc chào đời. Nhưng hình ảnh của bác, cuộc đời hoạt động cách mạng đầy chông gai và cả cái chết đầy thương cảm của bác vẫn mãi sống trong tâm trí tôi qua lời kể của bà, của cha. Tôi vẫn nhớ như in hồi còn nhỏ ở với bà, vào những đêm trăng sáng, bà thường kể cho tôi nghe về bác Câu. Có những chuyện bà kể đi kể lại nhiều lần như một niềm thôi thúc. Lần nào cũng thế, câu chuyện đều bị bỏ giữa chừng vì tiếng khóc tắc nghẹn của bà. Bà vừa nghẹn ngào khóc vừa xót xa kể lể: bác Câu tôi từ lúc còn sống cho đến lúc chết, chưa một ngày được an nhàn, sung sướng. Một tẹo tuổi đầu đã phải lam làm suốt ngày để giúp mẹ nuôi các em. Lớn lên đi theo cách mạng rồi biền biệt không về. Rồi tù đày, bị đánh đập tra tấn dã man. Đến lúc chết cũng cô độc một mình trong tù. Mồ mả mất tích nơi nào chẳng ai rõ. Khổ thân bác, không chồng con, chẳng ai hương khói. Tiếng khóc tắc nghẹn của bà khiến tôi cũng sụt sùi khóc theo. Nghĩ mà thương bà, xót thương cho bác Câu quá. Tôi an ủi bà: "Bà ơi! Bà đừng khóc nữa. Sau này lớn lên, cháu sẽ đi tìm mộ bác Câu về cho bà". Thế mà cũng phải ngót 50 năm sau, lời hứa ấy, tôi mới thực hiện được".

    Bà nội tôi sinh hạ được 4 người con. Bác cả Tạ Thị Chí. Chị thứ hai giáp cha tôi là bác Tạ Thị Câu. Cha tôi, tướng Trần Độ (tên thật là Tạ Ngọc Pháp - PV). , thứ ba. Cô Tạ Thị Xuyên là út. Ông nội mất sớm, bà ở vậy, một nách nuôi 4 con. Bác Câu hơn cha tôi 4 tuổi, thường đi buôn bán ở chợ xa. Bác Câu yêu quý cha tôi lắm, thường mua quà và kèm cặp cha học hành. Bác hay khoe với bạn bè về cha tôi với một niềm tự hào rất lớn. Ngay từ năm 17 tuổi, khi phong trào dân chủ vừa nổ ra, bác đã tham gia hoạt động cách mạng. Cho đến năm 1939, bác đã là Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Thái Bình. Chính bác là người đã dìu dắt cha tôi đến với cách mạng, trực tiếp thử thách, khuyến khích rồi giới thiệu cha tôi vào Đảng. Năm 1940, ở làng tôi (thôn Thư Điền, xã Tây Giang, hiuyện Tiền Hải, Thái Bình) nổ ra cuộc mít tinh ở cánh đồng Đông Lang. Bị lính phủ và tuần phiên khủng bố đẫm máu, bác Câu và cha tôi vượt cánh đồng đi làm cách mạng. Nghe đâu, bác làm việc cho Xứ uỷ Bắc Kỳ, nhưng cụ thể làm gì thì tôi không được rõ.

    Năm 1941, cha tôi bị địch bắt, chịu án 15 năm tù, rồi bị đày lên Sơn La. Cũng thời gian đó, bác Câu bị bắt. Giặc giam bác ở nhà tù Hoả Lò cùng với nhiều chiến sĩ kiên trung, trong đó có bác Nguyễn Thị Minh Thái (vợ trước của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), bác Trương Thị Mỹ (sau là Chủ tịch Liên đoàn Lao động Việt Nam) và bà Nguyễn Thị Hằng (sau này lấy cha tôi). Trong suốt mấy năm trời, hai chị em vẫn thường xuyên liên lạc thư từ. Và bác Câu vẫn là người chị thảo hiền, yêu em hết mực, thỉnh thoảng vẫn gửi quà và xẻ áo của mình khâu những chiếc khăn gửi lên cho em để chống chọi với cái giá lạnh miền sơn cước. Thế rồi, năm 1944, trên đường bị giặc giải từ Sơn La về Hoả Lò (Hà Nội) để đày đi Côn Đảo, cha tôi được chi bộ nhà tù tổ chức cho trốn thoát. Từ đấy, hai chị em bặt tin nhau. Sau này, cha tôi nghe mọi người kể lại, bác Câu bị ốm chết trong nhà tù Hoả Lò. Giấy báo tử của chính quyền Pháp gửi cho bà nội tôi ghi: mất ngày 29/9/1944. Cái chết của bác khiến cả nhà khóc thương, nhất là cha tôi. Ông xót xa bảo: Nếu bác Câu sống thêm mấy tháng nữa, bác sẽ được chứng kiến ngày cách mạng thành công. Bác chết trẻ quá, 25 tuổi đời, hình như trong đời chưa một lần được yêu. Càng xót xa hơn khi không biết giặc chôn hài cốt bác nơi nào?

    Thực hiện lời hứa

    Chưa kịp đi tìm mộ bác thì cả nước lại bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, bụi trường chinh cuốn cha đi. Thỉnh thoảng, cha về, cả nhà lại sụt sùi khóc nhớ thương bác. Cha bảo: "Bác Câu bị ốm đau chết trong tù, chắc là Pháp chôn qua quýt ở đâu đó. Rất có thể là ở khu vực trường bắn của Pháp ở Hoàng Mai, nơi bác Hoàng Văn Thụ bị bắn". Sau này, vào đầu những năm 1990, khi những thông tin về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của các nhà ngoại cảm Việt Nam đăng trên các báo đài, nhất là khi được nghe GS Trần Phương kể lại tường tận hành trình đi tìm mộ người em gái vốn là đội trưởng Đội nữ du kích Hoàng Ngân, cha tôi và cả gia đình mới loé lên hy vọng tìm thấy mộ bác Câu. Tôi nhớ, khoảng năm 1997, qua một người quen giới thiệu, cha tôi đã liên lạc được với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, người đang nổi tiếng với việc chỉ dẫn tìm kiếm hàng ngàn hài cốt liệt sĩ. Qua điện thoại, cha tôi nói: "Tôi có một người chị gái bị tù ở Hoả Lò rồi ốm chết trước cách mạng tháng Tám. Không biết bây giờ mộ ở đâu?" Anh Liên bảo: "Còn mộ đấy, có thể tìm được. Ông đứng trước cửa Hoả Lò, chiếu thẳng về hướng Nam, cách khoảng 2 km, mộ sẽ nằm ở đó. Nhưng tôi sợ bây giờ nhà cửa của người dân xây san sát như thế, mộ nằm phía dưới sẽ rất khó tìm đấy". Cha tôi đối chiếu bản đồ, thấy rõ khu vực ông Liên chỉ là vùng Bạch Mai, Hoàng Mai bây giờ. Cha tôi sực nhớ đến Thiếu tướng Chu Phác, đồng đội cũ, hiện là Chủ nhiệm bộ môn Cận Tâm lý (Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người). Ông quen biết khá nhiều nhà ngoại cảm nổi tiếng như Nguyễn Văn Liên, Phan Thị Bích Hằng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thuý Hoàn, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thị Phương... Cha tôi liền tìm đến Thiếu tướng nhờ giúp đỡ. Ông vui vẻ nhận lời và lên kế hoạch tìm mộ gồm hai bước. Bước một, nhờ một số nhà ngoại cảm hoạt động độc lập bằng khả năng đặc biệt, rất riêng của mình, thu nhận thông tin về bác Câu. Sau đó, sẽ đối chiếu các thông tin ấy với nhau, tìm ra một đáp số chung nhất. Bước hai, từ đáp số chung ấy, sẽ tiến hành làm các thủ tục khai quật. Khi khai quật, vẫn phải có sự tham gia của các nhà ngoại cảm trực tiếp hoặc gián tiếp (qua điện thoại), theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh cho đến khi tìm được hài cốt.

    Ngày 4/8/2000, Thiếu tướng Chu Phác cùng nhà ngoại cảm Nguyễn Khắc Bảy đến nhà tôi ở đường Trần Hưng Đạo (Hà Nội). Anh Bảy ngồi đối diện với cha tôi, chăm chú nhìn vào trán ông, miệng hỏi, tay vẽ sơ đồ. Anh Bảy cho biết: Mộ bác Câu tôi hiện vẫn còn, nằm gần mộ ông Hoàng Văn Thụ, trong vùng bãi bắn Hoàng Mai. Mộ bác ở cạnh một vũng nước, trong khu vực có nhiều mộ. Có những bộ hài cốt đã chuyển đi. Khu vực này có những công trình kiến trúc lớn như đình, chùa, trường học, xưởng máy, đường xá vào đó khá ngoằn ngèo.

    Ngày 25/11/2000, Thiếu tướng Chu Phác lại dẫn một nhà ngoại cảm khác là Dương Mạnh Hùng đến gặp cha tôi. Anh Hùng sinh ngày 15/6/1959 trong một gia đình làm nghề Đông y lâu đời ở 35 Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm (Hà Nội). Anh từng tốt nghiệp Trường Trung cấp Y học Tuệ Tĩnh,có tay nghề bốc thuốc, được ông cha truyền thủ thuật bắt mạch bệnh nhân, đặc biệt là bắt mạch thái tố. Bắt mạch thái tố cho cha tôi, anh hỏi: "Trong nhà bác có người phụ nữ nào chết từ lúc còn rất trẻ không?". Cha tôi trả lời: "Có anh ạ! Đó là chị tôi. Hiện tôi đang muốn tìm mộ chị ấy". Cha tôi vừa nói dứt lời, anh Hùng đã nhìn xoáy vào góc phòng, miệng lẩm bẩm: "Đã xuất hiện rồi". Cha tôi sốt sắng hỏi: "Anh nói cái gì? Ai xuất hiện cơ ạ?". Anh Hùng vẫn khẽ khàng: "Chị gái bác". Nói đoạn, anh bảo cha tôi đưa cho một tờ giấy trắng và cây bút rồi phác thảo ngay một khuôn mặt phụ nữ. Cha tôi nhìn, giật mình thấy khuôn mặt trong giấy giống chị Câu như đúc. Từ đấy, anh Hùng cứ nắm chặt cổ tay cha tôi, mắt nhìn chăm chú vào góc phòng và bắt đầu trò chuyện. Tóm tắt những thông tin thu được là: Bác câu là một người con gái trẻ đẹp, to cao, bị ốm phù nề rồi chết. Mộ bây giờ ở nơi giống bãi tha ma. Muốn đi tới đó phải qua những con đường ngoằn ngèo có tên là Bạch Mai, Trương Định, Hoàng Mai. Mộ ở gần một ngôi chùa và đình, gần một hàng nước mà ông chủ hàng là một ông già độ 60 tuổi tên Trúc, có bà vợ tên Thu. Bác Câu hay về nhà ông Trúc. Dân quanh vùng làm nghề đậu phụ, gần một cái chợ. Gần mộ bác Câu có một cây hoa râm bụt đỏ, một hoa trinh nữ cây trắng, cạnh một bãi phẳng như sân bóng... Bác Câu chết vào năm Giáp Thân (1944), vào mùa thu, tháng 8, đêm 26 rạng ngày 27 âm lịch. Cứ như trí nhớ của mẹ tôi (bà Nguyễn Thị Hằng - PV), người đã ở tù cùng bác Câu thì một buổi sáng, mẹ đến làm vệ sinh cho bác đã thấy bác nằm chết cứng. Có thể, bác chết lúc gần sáng. Bác chết năm trước thì năm sau Nhật đảo chính Pháp. Vì thế, mẹ cứ tiếc bác Câu tôi không sống thêm mấy tháng để trốn khỏi nhà tù. Năm sau là năm 1945, vậy năm trước đúng là năm 1944 (Giáp Thân). Anh Hùng cho biết thêm: Hài cốt bác Câu còn một chứng tích, đó là hàm răng đen của bác bị gãy một cái.

    Thực địa đã được xác tin

    Trong suốt hai ngày 26 và 27/11/2000, Tiếu tướng Chu Phác đã đưa ba nhà ngoại cảm là Nguyễn Khắc Bảy, Dương Mạnh Hùng và Thẩm Thúy Hoàn đi thực địa. Họ đến làng Hoàng Mai, tìm đến chùa Nga My và ngôi đình làng thờ tướng quân Trần Khát Chân, ra khu vực nghi ngờ có mộ bác Câu tôi. Điều kỳ lạ là tất cả những gì hiện hữu trước mặt lúc ấy đềy trùng khớp với những thông tin mà các nhà ngoại cảm đã cung cấp từ trước. Đình, chùa, bãi đất phẳng như sân bóng, một khu đất trống rộng chừng mấy chục mét vuông có rất nhiều mộ. Mộ bác Câu tôi nằm bên cạnh một vũng nước, cách cây hoa đại trắng chừng 3-4m. Cây đại cao hơn bức tường bao quanh, cạnh một bụi cỏ khô mọc trên một chiếc thùng phuy đã hoen rỉ. Mộ chỉ là một mô đất cao 10-20cm, bên cạnh con đường xi măng nhỏ, phía sau đình và gần chùa. Nhà ngoại cảm Thẩm Thúy Hoàn còn cung cấp thêm thông tin: Mộ bác Câu nằm chếch, đầu gối vào cột trụ, bị cột trụ đè lên một ít, chân hướng về phía đường đi.

    Cũng trong ngày 26/11, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đã có cuộc "trò chuyện" với bác Câu tôi tại Văn phòng của Bộ môn Cận Tâm lý ở số 46 Nguyễn Văn Ngọc (Hà Nội). Thông tin Bích Hằng nhận được là: đến làng Hoàng Mai, hỏi chùa Nga My, cách một khu vườn vài chục mét. Mộ nằm ở nơi đất bằng phẳng, cạnh gốc cây chuối gần chùa Nga My và đền thờ Trần Khát Chân. Có cây hoa đại. Mộ nhìn lên hàng rào dây thép gai ở đầu nhà dân. Bác Câu mặt bị sưng to và nằm nghiêng, sâu độ 70-90cm. Mộ không có tiểu, khi đào phải cẩn thận.

    Như vậy, các thông tin mà các nhà ngoại cảm thu nhận được về phần mộ bác Câu tôi khá đầy đủ, chi tiết. Điều đặc biệt là tuy các nhà ngoại cảm làm việc độc lập với nhau song các tín hiệu đưa ra có nhiều điểm trùng hợp. Điều đó khiến cả nhà tôi vui mừng và tràn đầy hy vọng, nhất là cha tôi. Ngày 13/12/2000, cha tôi điện thoại vào TP Hồ Chí Minh, yêu cầu tôi thu xếp công việc ra Hà Nội để thay cha tìm mộ bác. Cha tôi lúc này đã 78 tuổi, lại đang ở vào giai đoạn cuối của bệnh tiểu đường nên sức khoẻ sa sút trầm trọng. Trước khi lên máy bay, Thiếu tướng Chu Phác có điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi liên lạc với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã ở TP Hồ Chí Minh. Qua điện thoại, anh Nhã cung cấp thông tin:

    - Vị trí mộ đúng như các nhà ngoại cảm ở Hà Nội đã xác định,

    - Cách mộ hơn 3m về phía Tây có một cây hoa đại trắng cao hơn 3m,

    - Cách mộ chừng 1,5m có bụi cỏ khô cao hơn 1m,

    - Trên mộ có ba mảnh thủy tinh hoặc sành lấp lánh,

    - Mộ gần vũng nước,

    - Năm ngày nữa anh đến, cách mộ mấy mét có con gà trống kiếm ăn ở đó.

  17. #17

    Mặc định

    Trở về

    Đặt chân đến Hà Nội hôm trước, ngày hôm sau tôi xuống thẳng Hoàng Mai để khảo sát địa hình, đồng thời để kiểm chứng tính xác thực của những thông tin mà các nhà ngoại cảm Bích Hằng, Dương Mạnh Hùng, Nguyễn Khắc Bảy, Thẩm Thúy Hoàn, Nguyễn Văn Nhã... cung cấp. Tôi thấy mộ bác Câu tôi là một mô đất đen, nằm cạnh con đường xi măng nhỏ, gần một vũng nước dài đến 2m, rộng chừng 1m. Mộ nằm trong khoảnh đất trống rộng độ 30 m2, xung quanh là nhà dân với tường bao quanh che kín hết. Muốn ra mộ, tôi phải đi qua nhà chị Ngà. Gia đình chị ở đây đã lâu nên quá quen thuộc với những cuộc tìm kiếm, bốc mộ. Chị đã cho tôi nhiều lời khuyên bổ ích. Quan sát kỹ, tôi thấy mảnh đất mấy chục mét vuông này còn rất nhiều ngôi mộ khác, trong đó có chừng 10 ngôi đã dựng bia. Bất chợt, mắt tôi bị hút vào cây đại nhô lên từ bức tường hướng Tây, cách mộ bác Câu hơn 3m. Tôi thấy cả lùm cỏ khô ở trên cao hơn 1m vì lùm cỏ này mọc trên một cái ống xi măng dựng đứng. Điều đặc biệt là ngày 18/12/2000, tức là đúng 5 ngày sau cuộc điện đàm với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã, tôi cùng thiếu tướng Chu Phác xuống thực địa lần nữa thì bất ngờ gặp một con gà trống mào đỏ au đang tha thẩn đào bới kiếm mồi ở gần mộ bác Câu. Kỳ lạ hơn nữa khi chị Ngà cho biết, con gà này là của chị, vốn thường ngày chị nhốt ở trong chuồng. Nhưng không hiểu sao, sáng nay, đã bảnh mắt rồi mà nó cứ đập cánh gáy ran rồi lồng lộn trong chuồng. Bực mình, chị mở cửa chuồng cho nó ra, đúng lúc tôi và thiếu tướng Chu Phác đến. Tôi vô cùng ngạc nhiên về chuyện này. Điều đó càng khảng định thêm độ chính xác cho thông tin của anh Nhã.

    Đến lúc này, gia đình tôi xác định với thiếu tướng Chu Phác vị trí mộ bác Câu chính xác đến hơn 90% rồi. Tất cả những thông tin của các nhà ngoại cảm về địa hình, địa vật, đường dẫn đến ngôi mộ... hầu hết trùng khớp, tuy cách diễn đạt có khác nhau và có đôi chút sai lệch. Cần phải tổ chức bốc mộ sớm vì đã năm cùng tháng tận, vả lại, tôi cũng không thể ở Hà Nội lâu được. Sau khi cân nhắc kỹ, gia đình tôi quyết định chọn ngày 27/12 (tức mồng 2 tháng chạp âm lịch) sẽ tiến hành khai quật mộ bác Câu.

    Chờ đợi 9 ngày trời mà sao tôi thấy dài đằng đẵng như 9 năm. Để khỏi sốt ruột, gia đình tôi về làm việc với huyện Tiền Hải, Thái Bình, đào và xây sẵn mộ trong nghĩa trang liệt sĩ của huyện, chuẩn bị cho lễ truy điệu bác Câu. Cuối cùng, ngày 27 cũng đến. Tôi vẫn nhớ, trời hôm đó tuy cuối đông nhưng rất ấm áp, nắng vàng như mật. Cả gia đình tôi kéo xuống làng Hoàng Mai. Cha tôi tuy đau yếu cũng cố đi. Cha muốn tận tay thắp hương và khấn người chị yêu quý của mình. Những thủ tục tâm linh cần thiết đều làm trọn vẹn. Đúng 9 giờ sáng, những nhát cuốc đầu tiên bập vào ụ đất thấp lè xè bên đường. Bỗng dưng, tôi thấy hoang mang lạ. Vì lúc này, không có một nhà ngoại cảm nào bên cạnh chúng tôi. Bích Hằng thì đang ở tít tận Tây Nguyên. Các nhà ngoại cảm khác, người bận đi học, người thì đi công tác. Tìm hiểu về các vụ tìm mộ trước đó, tôi biết, không phải trường hợp nào cũng tìm thấy hài cốt. Bởi khi đào thực địa, có thể có những sai lệch. Biết đâu, trường hợp bác Câu tôi cũng thế thì sao?

    Đào bới chừng hơn một tiếng đồng hồ thì tốp thợ buộc phải dừng lại vì Mặt trời đã lên gần đỉnh đầu, ánh nắng quá rực rỡ sợ làm tổn thương hài cốt. Chờ đến tận 4 giờ chiều, công việc khai quật mới lại tiếp tục. Hố đào sâu chừng 70cm rồi mà vẫn chưa thấy dấu tích gì. Nước mạch tràn vào ào ạt khiến tốp thợ phải hì hục vừa đào vừa tát. Thiếu tướng Chu Phác vội điện thoại cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Nhã. Từ TP HCM, anh Nhã chỉ dẫn: "Đào sâu thêm 60-70cm nữa. Đào chếch về phía người thợ mặc áo xanh nhạt. Đào về phía rãnh nước". Anh Nhã còn nhắc nhở cần phải khấn các vong linh xung quanh đó phù hộ cho bớt nước ở các mạch tràn vào huyệt. Tôi vội vàng thắp hương khấn vái. Kỳ lạ thay, chừng 10 phút sau, lượng nước chảy giảm hẳn, công việc đào bới trở nên thuận lợi rất nhiều.

    Cũng qua điện thoại, nhà ngoại cảm Thẩm Thúy Hoàn chỉ dẫn thêm: "Đào về phía rãnh nước. Đào sâu đến 2m. Đào vuông thành sắc cạnh, đừng đào lòng chảo".

    Thực hiện đúng như chỉ dẫn, tốp thợ đào đến 21h30', độ sâu chừng 2m thì lưỡi xẻng chạm vào một tiểu sành. Tôi càng hoang mang. Vì trước đó, không một nhà ngoại cảm nào nói bác tôi nằm trong tiểu. Bích Hằng chỉ nói bác tôi chết trong tình trạng bị phù, chôn trong tư thế nằm nghiêng. Các nhà ngoại cảm khác, người thì nói bác tôi được chôn trong hòm gỗ, người thì bảo không có hòm. Cha tôi còn hoang mang hơn. Ông suy luận: khoảng những năm 1940, thân phận một người tù, hơn thế, một người tù cộng sản như bác tôi, không thể được chôn cất chu đáo, tử tế như thế. Cùng lắm thì được chôn trong chiếc quan tài bằng gỗ tạp, còn thường thì bó chiếu. Bởi vậy, cha tôi nghĩ, hài cốt bác Câu chỉ là những mẩu xương nằm lẫn trong bùn đất đen. Khi tìm thấy, phải nhặt kỹ càng cho bằng hết.

    Bỗng dưng, tôi chợt nhớ đến lời anh Nhã nói qua điện thoại khi tôi ở sân bay chuẩn bị ra Hà Nội: "Tôi linh cảm thấy hài cốt của bác Câu còn nguyên vẹn vì tín hiệu phát ra mạnh lắm. Chính vì tín hiệu mạnh này mà nhiều nhà ngoại cảm đều có thể tìm thấy mộ".. Tôi vội vàng điện thoại ngay cho anh Nhã, thông báo đã chạm tiểu. Anh bảo: "Đúng là hài cốt của bác Câu rồi. Trước đây, có một gia đình đã đào để tìm mộ nhưng thấy nhầm lẫn nên họ đã đưa hài cốt của bác Câu vào tiểu và chôn cất lại cẩn thận. Đó là nghĩa cử thường thấy ở nhiều địa phương". Những người dân xung quanh đứng xem từ chiều đến giờ cũng khảng định: ở khu đất trống này, do có nhiều mộ nên chuyện đào nhầm thường xảy ra. Để tạ lỗi với người đã khuất, bao giờ khổ chủ cũng đưa hài cốt vào tiểu sành chôn lại tử tế. Trường hợp bác Câu không phải là cá biệt.

    Chiếc tiểu đựng hài cốt bác Câu tôi có tuổi thọ khá tốt. Vùi sâu dưới lòng đất mấy chục năm rồi mà thành tiểu vẫn rắn như đanh. Khi mở nắp tiểu, tôi đã bật khóc vì xúc động và sung sướng khi thấy hài cốt của bác gần như còn nguyên vẹn. Xương sọ còn nguyên. Những người thợ đào nhận xét, xương chân tay to thế này chứng tỏ người mất rất cao lớn. Cha tôi gật đầu xác nhận. Và khi đưa ảnh của bác Câu cho họ xem để đối chiếu với xương sọ, họ bảo rất khớp. Đây đúng là mộ bác Câu. Riêng tôi, có một bằng chứng khiến tôi hoàn toàn tin tưởng đây chính là hài cốt của người bác ruột mình. Đó là hai hàm răng đen còn gần như nguyên vẹn, chỉ thiếu duy nhất một chiếc, đúng tín hiệu mà nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng đã cung cấp.

    22h30', việc chuyển hài cốt bác tôi sang tiểu mới, có rửa nước thơm, ướp trà thơm, bọc trong vải đỏ đã xong. Tôi và Quang - người em ruột, vội về nhà lấy ảnh, bia khắc sẵn và bát hương rồi ngay đêm hôm ấy, đưa bác tái về Tây Giang, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, về chính mảnh đất mà bác tôi đã sinh ra và lớn lên. Ngày 28/12/2000, lễ truy điệu bác tôi được cử hành trọng thể và hài cốt được đưa vào yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ của huyện, chấm dứt 56 năm bơ vơ nơi đất khách quê người.

    Ông Trần Toàn Thắng: Qua hành trình tìm mộ liệt sĩ Tạ thị Câu, tôi thấy khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là có thật. Tuy nhiên, các thông tin đưa ra không thể lúc nào cũng chính xác 100% vì sự thu nhận của họ (trông thấy và nghe thấy) có nhiều yếu tố thời gian và không gian tác động. Bởi vậy, Bộ môn Cận Tâm lý đã có một cách làm rất khoa học, đó là lựa chọn những thông tin trùng khớp nhau của nhiều nhà ngoại cảm để tìm ra những thông tin gần với sự thật nhất. Việc làm của họ có ý nghĩa rất lớn, giúp bao gia đình xoa dịu nỗi đau vì mất người thân. Tôi thấy, đó là những năng lực lớn. Tôi ủng hộ họ và ủng hộ cách làm có tính chất khoa học dựa vào các tiềm năng con người vì con người.

    (Hoàng Anh Sướng. Thế Giới Mới số 713 ra Thứ Hai 27/11/2006)

  18. #18

    Mặc định

    Nhà ngoại cảm ĐOÀN VIỆT TIẾN - giải mã thông tin bằng năng lượng cảm xạ


    Đoàn Việt Tiến với tác phẩm chân dung Hồ Chí Minh vẽ ngược lên mặt sau của kính thủy tinh

    Đôi mắt sâu thẳm, dáng người nhỏ nhắn, thích nơi yên tịnh, trầm tư ít nói, làm việc bất kể thời gian sớm tối, không có thời gian cho riêng mình, tưởng chừng như nhà ngoại cảm Đoàn Việt Tiến là người rất khó gần gũi, nhưng những ai một lần gặp anh đều cảm nhận nơi anh một trái tim nhân hậu và tấm lòng cởi mở bao dung.

    Hiện anh là chuyên viên tìm mộ bằng phương pháp ngoại cảm, chăm sóc sức khỏe cộng đồng bằng liệu pháp tâm lý và năng lượng sinh học, nghiên cứu khoa học năng lượng cảm xạ và dịch lý, nghiên cứu tiềm năng của con người. Nhờ khả năng ngoại cảm của anh, mà có rất nhiều liệt sĩ vô danh được trả lại tên và tìm được người thân. Ngoài ra, anh còn góp thêm sắc màu cuộc sống với những bức tranh tuyệt tác mà không phải bất cứ họa sĩ nào cũng thực hiện được. Anh đã vẽ rất nhiều chân dung của các lãnh tụ và danh nhân thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nữ tướng Nghuyễn Thị Định, Bồ tát Thích Quảng Đức, Carl Marx, Lenin, Fidel castro… Ngày 1-1-2005, anh được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục là họa sĩ việt Nam duy nhất vẽ tranh bằng tay trên kính. Nhân ngày hội ngộ các kỷ lục gia lần thứ 06 do Báo Giác Ngộ tổ chức và Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam tổ chức, PV Báo Giác Ngộ đã có cuộc trao đổi ngắn với anh.

    - Xin anh cho biết khả năng đặc biệt của anh có phải là do thiên phú?

    Chỉ một chút thôi. Tôi có khả năng như ngày hôm nay phần lớn là do sự khổ luyện. Để vẽ được một tác phẩm hoàn hảo, tôi đã phải luyện vẽ trong 10 năm. Trong thời gian dài khổ luyện đó, một người duy nhất luôn bên cạnh cùng thức khuya dậy sớm giúp tôi trong mọi việc, đó là người mẹ kính yêu của tôi. Mẹ thường thức khuya soi đèn dầu cho tôi vẽ và chỉnh sửa từng nét vẽ trong tranh cho tôi. Tôi có được khả năng như vầy là nhờ vào một phần rất lớn sự hy sinh của mẹ. Khả năng ngoại cảm của tôi cũng phải do công phu tu tập. Để duy trì được khả năng ngoại cảm, tôi cũng phải ngồi thiền, tịnh tâm mỗi ngày.

    - Từ khi nào anh phát hiện ra khả năng ngoại cảm của mình?

    Vào đêm 26-3-2003, trong lúc ngủ thiếp đi sau khi mệt lả vì vẽ tranh để kịp triển lãm, tôi thấy mình được truyền một nguồn năng lượng lạ rất mạnh đến nỗi tôi cảm nhận một sự đau đớn thể xác tột độ. Sáng dậy, tôi phát hiện ra mình có khả năng vẽ hai tay cùng một lúc và có thể làm hai việc khác nhau cùng một thời điểm. Lúc đó tâm tôi hết sức hoang mang, tôi liền tới một ngôi chùa xin quy y và được đặt pháp danh là Thiện Thông. Sau 100 ngày bị hành hạ thể xác, sau một cơn mưa dông dữ dội ở Bến Tre, tôi thấy mình hết đau đớn và bắt đầu có khả năng ngoại cảm. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy rằng quá trình khổ luyện vẽ tranh bằng tay đã giúp tôi rất nhiều trong việc rèn luyện khả năng tâm thức nhạy cảm của mình.

    - Được biết anh đã sử dụng khả năng ngoại cảm của mình để đi tìm kiếm mộ liệt sĩ, vẽ chân dung người đã mất từ người trực diện, khám chữa bệnh... Anh có thể cho biết rõ hơn về cách thực hiện những công việc này?

    Tôi nhận được thông tin bằng cách giải mã các tần sóng năng lượng. Trong vũ trụ có 12 kênh tần số sóng năng lượng (tần số âm) chính và hằng hà sa số tần số phụ, mỗi kênh có một ngôn ngữ riêng và chuyển động theo hình tròn hoặc hình răng cưa ngược chiều kim đồng hồ. 12 tần số âm (các electron) chuyển động để tạo ra tần số dương (neutron) chuyển động theo chiều kim đồng hồ. Các thiết bị máy điện tử chỉ đo được tần số dương này, đó là sự chuyển động của neutron và nó được biểu hiện ra bên ngoài qua 5 thức giác quan. Khi giải mã thông tin thì tâm thức dựa vào sự chuyển động của các tần số sóng để biết thông tin nhận được là đúng hay sai. Nếu tần số sóng chuyển động tròn cho đáp án thông tin là đúng, còn nếu chuyển động theo hình răng cưa hay hình sin thì thông tin đó là không chính xác. Ví dụ, khi có một người nhờ tôi tìm mộ bị thất lạc thì qua giọng nói của người đó, tôi nhận được tín hiệu tần sóng gene di truyền của người đó. Mỗi người đều mang trong mình một hệ gene di truyền. Hệ gene này là một tích hợp gene của cha mẹ ông bà nội ngoại tổ tiên. Như các bạn cũng biết, gene do các nhiễm sắc thể tạo thành, nhiễm sắc thể do các phân tử tế bào tạo nên, phân tử do các nguyên tử hợp thành, và mỗi nguyên tử được cấu tạo bởi các electron (điện cực âm) và một neutron (điện cực dương). Chính sự chuyển động của các electron và neutron tạo ra năng lượng sinh học, hay còn gọi là trường sinh học. Nên khi nhìn hay nghe một người nói, tôi bắt được tần số sóng năng lượng sinh học của người đó, từ tần số sóng năng lượng này, tâm thức tôi lên lập trình mở mã số lệnh để tìm kiếm đối tượng muốn tìm, khi ấy tôi dùng năng lượng rà tìm tần số sóng của người thân mà người này muốn tìm vì họ có cùng hệ tần số sóng trường sinh học. Khi rà được tần số sóng rồi, tôi phóng năng lượng về hướng đó thì có hiện tượng năng lượng bức xạ để giải mã theo hệ âm dương. Từ sự giải mã này, tôi có thể khoanh vùng không gian theo từng mã vùng từ vĩ mô tới vi mô, như từ tỉnh tới huyện, tới xã rồi tới thôn ấp... để xác định vị trí ngôi mộ. Việc vẽ chân dung người đã khuất cũng tương tự như vậy.

    - Vâng, quả là một việc làm rất khoa học vô cùng thú vị, và đầy ý nghĩa. Vừa rồi anh có nhắc tới việc ngồi thiền tịnh tâm để duy trì khả năng ngoại cảm, anh có thể giải thích rõ hơn không?

    Như tôi đã nói, hệ số tần sóng âm chuyển động tịnh, ngược chiều kim đồng hồ và hệ s
    Last edited by Bin571; 14-10-2007 at 03:04 PM.

  19. #19

    Mặc định

    Cậu Liên tìm mộ

    Một đêm, ông bố tự dưng mơ thấy con về, quần áo tả tơi, dính đầy máu, bước vào trong nhà và nói: "Con đói lắm!". 4 năm sau, gia đình nhận được giấy báo tử. Từ đó, những giấc mơ kỳ lạ luôn đến với những người thân của liệt sĩ Bường trong những giấc ngủ chập chờn...

    Năm 1994, anh Bông, em trai liệt sĩ Bường ngủ mơ ngồi trên xe ôtô, đi về phía tây khoảng một giờ đồng hồ. Đường đá ong không được tốt lắm. Bên phải đường có một nghĩa trang nhỏ trên một quả đồi, xung quanh trồng bạch đàn, đang được san ủi rộng ra. Mộ anh Bường chuyển về từ quả đồi nhỏ, cách khoảng 500m vào nghĩa trang vừa được mở rộng ra, gần phía đường đi.


    Anh Trần Xuân Bường sinh năm 1951 ở xã Tây Tiến, Tiền Hải, Thái Bình, là kế trưởng của một chi họ Trần. Anh Bường đi bộ đội tháng 9/1968, sau đó vào Nam chiến đấu. Một vài bức thư của anh được gửi về gia đình trong những tháng đầu tiên nhập ngũ, lá thư cuối cùng, anh cho biết: "Con đóng quân ở tỉnh Quảng Đà", rồi bặt tin...

    Một đêm năm 1972, bố anh tự dưng mơ thấy anh về, quần áo tả tơi, dính đầy máu, bước vào trong nhà và nói: "Con đói lắm!". 4 năm sau, gia đình nhận được giấy báo tử: "Liệt sĩ Trần Xuân Bường đã hy sinh ngày 6/7/1972 (tức ngày 26/5 âm lịch) tại tỉnh Long Khánh, mộ liệt sĩ mai táng ở gần mặt trận".

    Nỗi đau mất con khiến mẹ anh Bường gày rộc hẳn đi, sau đó phát bệnh tưởng không qua khỏi. Từ đó, bà luôn canh cánh một điều: tìm cách đưa hài cốt của con trai về quê hương an táng. Nghe phong thanh có người nào biết tin về con trai mình, bà đều bảo chồng con đưa đến tận nơi hỏi han. Một người bạn cùng chiến đấu với anh Bường và là người cùng xã cho biết: "Anh Bường thuộc Sư đoàn 2, Trung đoàn 338, tiểu đoàn K8, đại đội 4. Đóng quân và chiến đấu tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Đà. Anh Bường là xạ thủ B40, bị mất tích trong một trận đánh vào ban đêm, không xác định được ở xã nào. Do chiến tranh ác liệt, ba ngày sau đơn vị và tôi đi tìm song không thấy. Thời gian đó tôi không nhớ ở tháng nào, nhưng đó là ngày đầu tháng âm lịch vì chúng tôi đi tìm anh Bường đều phải đi vào ban đêm, mấy đêm đó trăng còn rất mảnh".

    Năm 1994, anh Bông, em trai liệt sĩ Bường ngủ mơ ngồi trên xe ôtô, đi về phía tây khoảng một giờ đồng hồ. Đường đá ong không được tốt lắm. Bên phải đường có một nghĩa trang nhỏ trên một quả đồi, xung quanh trồng bạch đàn, đang được san ủi rộng ra. Mộ anh Bường chuyển về từ quả đồi nhỏ, cách khoảng 500m vào nghĩa trang vừa được mở rộng ra, gần phía đường đi.

    Tháng 5/1995, nhân chuyến công tác chuyến công tác thành phố HCM - Hà Nội, anh Bông vào Sở lao động thương binh xã hội và Bộ Chỉ huy quân sự các tỉnh từ Quảng Ngãi ra đến tỉnh Quảng Trị, tìm danh sách mộ chí song không thây tên anh trai mình nhưng tình cờ lại tìm thấy 9 ngôi mộ liệt sĩ là người cùng quê.

    Em rể của anh Bông là Phạm Xuân Hải ở thành phố Đà Nẵng, trước cùng chiến đấu trong sư đoàn và trung đoàn với anh Bường. Hải xem hồ sơ lưu trữ ở Quân khu 5 và tìm được một thông tin: "Anh Bường hy sinh ngày 25/7/1972 (tức 15/6 âm lịch), tại thôn 5 xã Phú Thọ, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng.

    Tất cả thông tin vẫn chỉ có thế. Cuộc tìm kiếm dường như rơi vào bế tắc...

    Cuối năm 1995, bố của liệt sĩ Bường ốm nặng. Trước khi qua đời, ông chảy nước mắt dặn dò vợ: "Bà cố tìm và đưa thằng Bường về nhé!".

    Tâm nguyện của người cha già lại thúc đẩy anh Bông tiếp tục cuộc tìm kiếm. Trong hai năm tiếp theo, rất nhiều đơn nhờ tìm mộ liệt sĩ của gia đình anh được gửi đi các cơ quan chức năng, các phương tiện thông tin đại chúng... nhưng một lần nữa, hy vọng lại tiêu tan khi gia đình lần lượt nhận được những thư phúc đáp không có thông tin gì cụ thể hoặc chỉ là: "Liệt sĩ Trần Xuân Bường có thể nằm trong nghĩa trang, trong số mộ Vô Danh...".

    Cùng thời gian này, một số tạp chí báo đài bắt đầu nói về hiện tượng ông Nguyễn Văn Liên có khả năng tìm mộ liệt sĩ mà không cần đến thông tin của người mất. Một tia hy vọng loé lên, bà mẹ già sốt sắng, nhất nhất bắt con trai đi Hải Dương nhờ "cậu" Liên.



    Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên đang vẽ bản đồ thể hiện khả năng tìm mộ từ xa trước sự chứng kiến của Hội đồng khoa học. Ảnh do UIA cung cấp.

    Đến nhà cậu Liên, anh Bông đã thấy hàng dãy dài người xếp hàng ngồi chờ đến lượt được diện kiến và nhờ vả cậu. Chờ đợi đến ngày thứ 3 thì "cậu Liên phải đi Hà Nội thể làm chương trình trắc nghiệm tìm 100 ngôi mộ ngẫu nhiên do Liên Hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng tổ chức, được Phó Thủ tướng Nguyễn Khanh cho phép", anh Bông báo về nhà cho mẹ. Bà mẹ quyết tâm phải gặp bằng được nhà ngoại cảm, một mình lên Hà Nội. Ở đây, bà lại gặp rất đông người đến nhờ tìm mộ, trong khi cậu Liên đang làm chương trình trắc nghiệm. Biết không thể chờ được, bà đành ra về. Phải mất đến hai lần đi mà không gặp được như thế, gia đình anh Bông bắt đầu nản...

    Cuối tháng 9/1997, sau những ngày dài chứng kiến bà mẹ già buồn phiền, âu sầu vì ước nguyện cuối cùng mãi không thực hiện được, anh Bông đành mua vé máy bay đưa mẹ vào nghĩa trang xã Phú Thọ huyện Quế Sơn, dù chỉ để thắp mấy nén hương và nhìn thấy mảnh đất nơi đứa con đứt ruột của bà ngã xuống năm nào. Bà ở trên mảnh đất ấy nửa tháng mới chịu về... Nhưng từ đó, hằng đêm, bà thao thức không tài nào ngủ được. Những giấc mơ chập chờn luôn ám ảnh trong đầu. Nhìn đâu bà cũng thấy bóng dáng đứa con như đang kêu gọi bà... Bà khóc và bảo các con: "Phải tìm bằng được cậu Liên để đưa anh chúng mày về...".

    Cuối tháng 5 năm 1998, bà lặn lội sang nhà cậu Liên, cùng hàng chục người khác ngồi chờ đến lượt mình nói chuyện với cậu. 9 ngày sau, một ngày hè nóng nực, oi ả, bà được cậu Liên gọi tên. Cậu hỏi luôn: "Bà tìm mộ liệt sĩ phải không?". Bà trả lời lập bập: "Vâng!". "Liệt sĩ họ gì?", cậu hỏi tiếp. "Dạ họ Trần". "Anh này hy sinh ngày 5/5 âm lịch, bây giờ tôi vẽ, bà phải đi tìm mộ ngay mới được. Tôi biết, bây giờ bà chưa có tiền, phải thu hoạch mùa xong bà mới có tiền. Không thì bà phải bảo con trai bà sang đây!". Tất cả chỉ có thế, nài nỉ thế nào cậu Liên cũng không nói thêm gì nữa. Bà lão trở về, lòng nặng trĩu. Quả thật, trong lúc này bà không có tiền. Biết tin này, anh Bông gọi điện về động viên mẹ và chuẩn bị cả tinh thần và vật chất để đi tìm hài cốt của anh trai. Một số người trong nhà thì tỏ ra không tin lắm, phân vân: "Ông ấy giỏi thế kia à?"...

    Lúa mùa thu hoạch xong, bà mẹ gom góp và cùng các con sang nhà câu Liên lần nữa. Chờ đến ngày thứ 2, một anh con trai nản quá đòi về. Bà vẫn kiên nhẫn chờ. Sang ngày thứ 3, cậu Liên gọi đến tên mẹ anh Bông. Cậu Liên bảo: "Người ra chờ ở đây có người hơn 3 tháng mà chưa gặp được tôi, con bà ở đến ngày thứ 2 đã bỏ về, một thằng còn nói xấu tôi đấy!", khiến ai nấy đều bất ngờ...

    Cậu bắt đầu vẽ sơ đồ, viết ở góc dòng chữ: "Tìm con trai cả, kế trưởng, liệt sĩ chống Mỹ cứu nước thuộc Liên khu V. Tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, huyện Quế Sơn, xã Quế Thọ...". Sơ đồ cậu vẽ nghĩa trang nằm ở xã Quế Sơn. Lúc chỉ dẫn (được người nhà ghi âm lại) cậu có nói: "Hỏi đến xã Quế Sơn, huyện Quế Phong, nó ở trên Quế Thọ... Tôi xếp nhầm tên xã... từ đường 1 rẽ vào hơn 30 km. Mộ được chuyển vào nghĩa trang có gần 300 ngôi. Mộ ở hàng thứ 3, ngôi thứ 2, bên phải đường vào Kỳ đài... Phải trình giấy tờ xã, chịu khó một chút thôi, tìm thấy hẳn hoi, đưa về nhà. Xương cốt thì: đầu còn 1/4, hai xương đùi còn nguyên, xương tay chỉ có một thôi, xương không còn được đầy đủ".

    Do sơ đồ và chỉ dẫn có nhiều địa danh không thống nhất nên anh Bông rất băn khoăn. Anh điện vào bưu điện Quảng Nam thì được trả lời: "Huyện Quế Sơn có xã Phú Thọ, xã Quế Phong, không có xã Quế Sơn, huyện Quế Phong". Anh Bông nghĩ cậu đã ghi nhầm tên xã thành tên huyện, xã Phú Thọ ghi nhầm thành Quế Thọ. Một số trường hợp nhờ cậu Liên tìm mộ cũng xảy ra chút ít sai sót, chưa ai được suôn sẻ cả.

    Về kinh nghiệm đi tìm mộ, anh Bông cũng được ông Vũ Giảng hướng dẫn 2 cách: tìm bằng nhẫn vàng và thử trực tiếp máu vào xương. Một người bạn còn mách nước: "Trong số các ngôi mộ mà anh thắp hương, nếu ngôi nào hương tắt giữa chừng thì đó là ngôi mộ của người nhà mình".

    Cả nhà anh Bông háo hức chuẩn bị cho một chuyến đi lịch sử. Theo đường 1, cả nhà vào đến Quảng Nam. Đến xã Quế Sơn, điểm chọn đầu tiên là xã Phú Thọ vì theo hồ sơ Quân khu V ghi anh Bường mất tại đây, hơn nữa mọi người trong nhà anh Bông nghĩ có thể cậu Liên ghi nhầm là xã Quế Thọ.

    Nhưng sau khi xem xét, thấy nghĩa trang ở đây ghi khác hẳn, những dãy mộ phía đầu đều là người của địa phương, có danh và được xây rất cẩn thận, đẹp đẽ, mộ ở đây có hơn 500 ngôi. Anh Bông điện về để cậu chỉ dẫn cho nhưng không tài nào điện được. Đoàn tiếp tục đi bào huyện Quế Sơn, gặp nghĩa trang nào cũng dùng lại tìm song đều giống như ở nghĩa trang xã Phú Thọ cả. Đến thị trấn Quế Sơn, anh Bông lại gọi điện cho cậu Liên nhưng máy toàn báo bận. Trời đã về chiều, mọi người đành vào phòng Thương binh xã hội Quế Sơn để xem bản đồ và liên hệ chỗ nghỉ.

    Quế Phong là điểm hy vọng cuối cùng của đoàn song cũng chẳng khác gì những nghĩa trang mà đoàn đã tìm đến trước đây. Thất vọng, buồn bã, mọi người nhìn nhau không ai nói gì... Bỗng nhiên một người trong đoàn băn khoăn: "Sao không xuống xã Quế Thọ? Xã đó mới được tách ra từ Quế Sơn chuyển sang huyện Hiệp Đức được mấy năm nay". Cả nhà mừng lắm, dù lúc này đã gần tối nhưng vẫn quyết tâm đi tiếp. Đến nghĩa trang xã Quế Thọ, anh Bông chợt có một linh cảm đặc biệt, nghĩa trang này giống hệt như trong giấc mơ của anh dạo trước và cũng giống y như nghĩa trang cậu Liên vẽ. Một người đi đếm, cả nghĩa trang có 290 ngôi mộ, ngôi mà cậu Liên vẽ ghi là Liệt sĩ vô danh. Một vài người xúc động òa khóc, thắp hương rồi tạm ra về...

    Tối đó, anh Bông lại tìm mọi cách liên lạc với cậu Liên để cậu chỉnh mộ nhưng không hiểu vì sao vẫn không thể nào gọi được. Ngồi chờ ở bưu điện 4 tiếng đồng hồ để gọi, anh chẳng biết làm gì lại lôi bản đồ mà cậu vẽ và băng ghi âm ra nghe lại. Trên bản đồ ghi 3 địa danh thì rất chính xác, 2 địa danh khác bị chữa lại, viết đè lẫn lên nhau. Riêng Quế Thọ thì còn nguyên, lại cách đường 1 khoảng 30 km, đúng như chỉ dẫn, ở góc sơ đồ, cậu cũng ghi là xã Quế Thọ, trong băng ghi âm cậu cũng nói: "Nó ở trên Quế Thọ, mãi trên đằng này". Theo sơ đồ thì từ đường đi, ngã 3, cống, trường học đều chính xác vô cùng. Ở sơ đồ Quế Thọ có một ô vuông, ô vuông này đúng là nghĩa trang xã, có lẽ đây chính là nghĩa trang cậu đã định vẽ nhưng lại bỏ qua. Về nhà khách huyện Quế Sơn, anh Bông đem suy luận của mình ra trao đổi với mọi người và mọi người rất đồng tình.

    Sáng hôm sau, anh Bông lại điện về để hỏi cậu xem có đúng là ngôi mộ đã thắp hương hôm qua không, song mọi cố gắng liên lạc đều vô ích. Đoàn lại lên nghĩa trang, đến ngôi mộ số 2, hàng thứ 3 thì thấy có một nén hương thắp từ chiều hôm qua bị tắt ở giữa, còn lại thì đều cháy hết cả. Anh Bông bèn tiến hành tìm mộ bằng phương pháp cổ điển lưu truyền, buộc chiếc nhẫn vàng bằng một sợi tóc dài khoảng 20cm vào mọt chiếc đũa mang ở nhà đi. Anh Bông nắm chặt vào trong bàn tay một lúc, nhấc chiếc nhẫn lên khỏi bàn tay đặt lên ngôi mộ, Thật là kỳ diệu, chiếc nhân quay vòng khoảng 2 phú thì dừng lại và cứ hướng đúng vào anh Bông. Điều đó có nghĩa đây là ngôi mộ của người thân mình, anh Bông mừng lắm, báo cho mọi người tới cùng chứng kiến.

    Ngay sau đó, khi xin phép UBND xã cho phép đào ngôi mộ đó, cả gia đình bàng hoàng khi được biết đó chính là ngôi mộ được chuyển từ thôn 5, xã Phú Thọ vào nghĩa trang xã Quế Thọ, đúng như những gì cậu Liên chỉ dẫn.

    Trong lúc đó, bà mẹ già bao nhiêu năm đi tìm con cứ ngồi ôm ngôi mộ thắp hương và khấn: "Mẹ đã bao nhiêu năm mong mỏi, đi tìm con. Nay mẹ đã vào đây, nếu con nằm ở đúng ngôi mộ này thì con hiên lên con vật gì để báo cho mẹ biết". Khi thắp hương cho các ngôi mộ xung quanh xong, bà quay lại thì thấy có một con gián đang bò loanh quanh bát hương trên ngôi mộ mà cậu Liên vẽ.

    Anh Bông lòng bồi hồi xúc động lên kỳ đài thắp hương cho các liệt sĩ an nghỉ tại đây. Trời lặng gió vậy mà 7 nén hương đang âm ỉ cháy bỗng bùng lên như vui mừng, mách bảo anh đã tìm đúng ngôi mộ của anh trai mình. 11h trưa, cả nhà bắt đầu đào mộ. Xúc được vài xẻng là thấy xương ngay. Xương được vùi ngay dưới đất một cách sơ sài, ráp xương lại thì thấy cậu Liên nói cực kỳ chính xác: chỉ còn 2 xương chân và xương tay, xương sọ thì còn một mảnh khoảng 1/5. Anh Bông chích máu ở tay mình nhỏ vào xương thì thấy đông ngay trước sự chứng kiến của gia đình và chính quyền xã.

    Trước đó, anh Bông tìm mọi cách để điện về gặp cậu Liên nhưng không thể nào gặp được nên lúc này, anh quyết định thu hài cốt và chuyển về quê. Chiếc xe chở đoàn người mọi ngày không được tốt lắm, hay bị pan, hỏng, vậy mà suốt quá trình đi tìm mộ xe chạy bon bon như có một sự trợ giúp vô hình.

    6h sáng hôm sau, xe đến Nam Định. Anh Bông gọi điện lại cho cậu Liên lần nữa. Gặp ngay. Anh nói: "Xin cậu cho biết trường hợp ở Tiền Hải, Thái Bình đi tìm mộ ở Quảng Nam đã đào đúng mộ chưa ạ?". Cậu Liên nói ngay: "Chuyển rồi, đã chuyển mộ rồi còn gì nữa. Qua phà nữa là đến nhà mình rồi còn gì". Nước mắt của người thân liệt sĩ rơi ướt đẫm trên con đường về quê hương...

    Thời gian sau này, gia đình có tìm hiểu thông tin từ nhân dân xã Quế Thọ và được biết trường hợp mất tích của anh Bường như sau: Đêm 15/6/1972, tức (5/5 âm lịch), anh Bường cùng đơn vị đóng quan ở QUế Thọ (là vùng đã được giải phóng), xuống Quế Sơn đánh địch. Do bị bom hoặc pháo, anh bị phạt từ hông trở lên vì vậy không ai nhận được ra anh. Anh được đưa về an táng tại thôn 5. Năm 1994, hài cốt anh được quy tập về nghĩa trang xã Quế Thọ với mộ chí ghi là Liệt sĩ vô danh.

    Hành trình tìm mộ chí của liệt sĩ Trần Xuân Bường suốt 26 năm qua đã không biết bao lần đi vào ngõ cụt nhưng nhờ khả năng ngoại cảm của ông Nguyễn Văn Liên, anh Bường đã tìm được về với quê hương và gia đình.

    Đôi nét về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên
    Sinh năm 1963 ở thôn Mỹ Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương trong một gia đình nông dân. Do hoàn cảnh khó khăn nên chỉ được đi học hết cấp II, về thể lực, học lực, nhận thức, hiểu biết cũng bình thường.

    Từ năm 1977, Nguyễn Văn Liên bị đau ruột thừa suýt chết, sau lại bị nấm lao cóc và năm 1983 bị ngã gãy tay, gần nào cũng bị nặng gần kề cái chết. Sau khi hết bệnh, Nguyễn Văn Liên thấy sự hiểu biết của mình có chiều hướng phát triển, thông minh hơn trước. Ngoài nhận thức bình thường về cuộc sống của con người, Nguyễn Văn Liên còn nhận được những thông tin khác thường từ thế giới của những người đã mất. "Mỗi khi nghe được điều gì, nhìn thấy điều gì về ai thì tôi tìm cách mách bảo cho người ta. Thấy đúng, người này bảo người kia đến hỏi tôi về gia sự, mồ mả. Tôi biết được thông tin đến đâu thì mách bảo mọi người đến đó", nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên nói.

    Năm 1997, theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Khánh, một hội đồng khoa học đã được lập ra để nghiên cứu và trắc nghiệm về khả năng tìm mộ liệt sĩ từ xa của ông Nguyễn Văn Liên trong 5 tháng. Mục tiêu của trắc nghiệm là xem ông Liên có khả năng đặc biệt thật hay chỉ là trò mê tín, dị đoan, đồn đại... Kết quả trắc nghiệm cho thấy khả năng tìm mộ liệt sĩ của ông Liên là có thật. Tỷ lệ tìm thấy mộ tương đối cao (khoảng 70%). Số vụ tìm thấy được trong thời gian thử nghiệm là 154/219 vụ. Trong mỗi vụ, ông Liên đưa ra trung bình khoảng 40-50 thông tin mà trong quá trình tìm mộ phải xác định đúng sai của các thông tin này. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ số thông tin đúng trong từng vụ khoảng 70-80%.

    (Bài viết sử dụng thông tin do UIA cung cấp)

    N.H

  20. #20

    Mặc định

    Tìm mộ từ khoảng cách 60 km

    Trong lúc mọi người xếp hài cốt của cụ Thịnh vào tiểu sành, anh Sướng vẫn bấm điện thoại hỏi nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên xem mình phải làm gì nếu tìm được mộ. Từ cách đó gần 60 km, ông Liên nói luôn: "Anh đã xếp xương cụ vào tiểu rồi còn hỏi gì tôi nữa!".



    Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên đang báo cáo tại Hội nghị giao lưu thông tin về liệt sĩ. Ảnh do UIA cung cấp.

    Tại hội nghị giao lưu thông tin về thương binh liệt sĩ giữa năm 1997, các cử tọa đã hết sức hồi hộp và bất ngờ khi đại diện của Liên hiệp khoa học công nghệ và tin học ứng dụng (UIA) báo cáo về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ bằng ngoại cảm, trả lại tên tuổi cho hàng nghìn liệt sĩ vô danh. Các chương trình nghiên cứu về khả năng tìm mộ của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Văn Liên... với tỷ lệ thành công rất cao. Cũng tại buổi hội thảo này, tiến sĩ Bùi Văn Sướng, Thứ trưởng Bộ giao thông vận tải, đã kể lại hành trình tìm di hài của người cha tên là Bùi Văn Thịnh, mất tích cách đây hơn 50 năm trong một cuộc vượt ngục ở Hà Nội dưới sự hướng dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên, một nông dân ở Hải Dương, lúc đó mới 35 tuổi.

    Cuộc tìm kiếm 40 năm

    Cụ Bùi Văn Thịnh (bí danh Thơ Lanh) quê xã Gia Trấn, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình, tham gia cách mạng từ trước năm 1930. Năm 1931 ông bị bắt giam ở nhà tù Sơn La, rồi Hỏa Lò. Đầu năm 1935, do phong trào đấu tranh dân chủ, thực dân Pháp phải cho ông ra tù và quản thúc tại địa phương. Đầu năm 1943, ông bị địch bắt lại. Sau khi địch biết một số tù chính trị vượt ngục bằng đường cống ngầm từ phòng giam của ông, chúng đã tra tấn ông đến chết.

    Trước đó, ngay tại hội nghị, tất cả mọi người đã theo dõi khả năng tìm mộ ngay tại chỗ của ông Liên, theo yêu cầu của một người bất kỳ. Một đại biểu yêu cầu ban tổ chức cho phép ông Liên chỉ dẫn tìm hài cốt của người anh ruột hy sinh trong một cuộc chiến đấu tại tây nam Ninh Bình năm 1953. Nguyễn Văn Liên chưa hề đặt chân lên mảnh đất này nhưng ngay lập tức đã dựng lên sơ đồ mộ chí. Các thông tin do Nguyễn Văn Liên nói ra đã được vị đại biểu các nhận là chính xác:
    - Liệt sĩ là con trưởng, chưa lập gia đình.

    - Liệt sĩ ở đơn vị trung đội 115, dư đoàn 320.

    - Liệt sĩ đã bị thương lần đầu tiên và tháng 6/1953. Đến cuối năm này thì hy sinh trong một trận đánh chiếm một quả đồi do quân Pháp đóng giữ.

    - Khi hy sinh, liệt sĩ năm trong tư thế nằm nghiêm, tay trái bỏ thẳng, đặt trên một tấm cánh cửa tháo của một nhà giàu trong vùng. Hai người khiêng nay vẫn còn sống là bà Mè và ông Thuận. Ông Thuận 76 tuổi, có hai vợ và là em bà Mè.

    Trong sơ đồ ông Liên vẽ, quả đồi nơi có liệt sĩ nằm có tảng đá chông chênh như sắp rơi, nằm gần còn có hai đồng đội nữa. Quả đồi ở gần dốc Giá, từ huyên lỵ Nho Quan đến đó là 7km.

    Dự đoán của Nguyễn Văn Liên rất tỉ mỉ, chi tiết và có nhiều chi tiết đúng được vị đại biểu xác định ngay tại chỗ, củng cố quyết tâm và hy vọng cho người em lên đường tìm anh trai.


    Các đồng chí còn lại trong tù đã mang chôn ông ở khu nghĩa trang Bạch Mai gần Đông Dương học xá cũ tức ĐH Bách Khoa ngày nay.

    Suốt 40 năm qua, khi khôn lớn, anh Bùi Văn Sướng đã bằng mọi cách đi tìm cha nhưng không được, có lẽ do phúc phận chưa tới.

    Cho đến ngày chủ nhật 16/3/1997, nhờ một nhà ngoại cảm địa phương kết hợp với các thông tin thu thập được từ các đồng đội và nhân dân, anh Sướng đã tìm thấy hài cốt của anh trai mình, liệt sĩ Bùi Quốc Tưởng, hy sinh năm 1951 ở Nghĩa Lộ, trong một hố chôn không có quan tài, giữa sân trường cấp I bản Nậm Kiệt, xã Nậm Lành, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sau đó anh nhờ người có khả năng đặc biệt ấy về Hà Nội tìm bố, rồi lại thêm một nhà ngoại cảm khác nhưng không thành công. Đang lúc buồn, anh Sáng tình cờ đọc được bài báo của tác giả Phạm Quang Đẩu đăng trên tờ Thế Giới Mới ngày 12/5/1997 giới thiệu Nguyễn Văn Liên - một khả năng ngoại cảm đặc sắc". Bằng nhiều cách, anh đã tiếp cận được với ông Liên vào tối ngày 10/6/1997.

    Ngay đêm gặp gỡ tại nhà anh Liên, chỉ nói tên bố, anh Hiệp đã lấy giấy bút vẽ ngay bản đồ nơi chôn liệt sĩ Bùi Văn Thịnh. Ông Liên khẳng định: "Mộ ông Thịnh vẫn nằm ở Hà Nội chứ chưa chuyển lên Yên Kỳ Bất Bạt. Theo bản đồ, hài cốt đặt tại bãi đất cao có cây lá nhỏ hoa đuôi vàng, sát tường bờ đậu. Nằm cạnh một cống ngầm thoát nước ở độ sâu 1,75m. Phần mộ trông ra đầu sân vận động, dãy nhà C, tháp nước, chợ Bách Khoa, đối diện với nhà bà Hòa và cách miệng hố bom từ 13 đến 19m".

    Ông Liên còn nói thêm: "Ông phải tìm ngay đi, nếu để muộn công trường người ta sắp xây nhà lên sẽ không tìm được nữa đâu".

    Cầm tấm bản đồ, ở góc có những ký tự rất lạ, lòng đầy nghi hoặc. Anh Sướng nhờ công an phường Bách Khoa để xác định tọa độ thì thật bất ngờ tất cả đều đúng.

    Trường Bách Khoa đã xây cất biết bao nhà vậy mà vẫn còn một bãi đất hoang trông ra sân vận động, chợ, tháp nước cũ kỹ, nhà C... Đo từ vị trí đặt mộ đến miệng hố bom đúng được 13,5m. Nơi đây một công ty xây dựng của Sở nhà đất đang khoan nhồi để xây trụ sở phường. Từng đống bê tông để ngổn ngang, hàng rào lưới thép bao quanh.

    Điều đặc biệt lý thú và anh Sướng đã nhận ra hướng đường cống thoát nước ngầm từ sân vận động, nơi năm 1958, anh và các sinh viên khoa xây dựng trường ĐH Bách Khoa đã làm sau khi từ công trường Bắc Hưng Hải về.

    Rất tin tưởng vào nhà ngoại cảm, 7h sáng chủ nhật, trong mưa gió, ông Sướng đã tổ chức khai quật để tìm mộ bố. Đến 12h trưa, nhát cuốc chạm trúng cống thoát nước, cách mặt đất khoảng 70cm. Kiên trì đào trên diện rộng 6m2, đến 4h chiều ngày hôm sau thì phát hiện quan tài nằm dưới ống cống, song song với con đường nối nhà C và nhà D...


    Tìm được quan tài đúng như chỉ dẫn, mở ra thấy đầy đủ xương cốt, nhưng câu hỏi " Liệu đây có đúng là hài cốt của ông Thịnh trong khi ta chưa có điều kiện giám định bằng gen?". Giáo sư, tiến sĩ Lã Ngọc Khuê có mặt ở hiện trường bằng kinh nghiệm tiến hành thí nghiệm ngay để xác định huyết thống: trích máu ở tay anh Sướng nhỏ giọt trên xương ống. Giọt máu vo tròn không lan tỏa. Tiếp tục nhỏ máu lên các mảnh xương khác không trơn láng hơn, máu bị hút hết vào trong, xương không còn vết tích. Anh Sướng xúc động ngập lòng, run rẩy khi chiếc răng bằng bạc được tìm thấy. Anh bùi ngùi kể: "Hồi bé, tớ thường ngồi trên bụng bố, tay mân mê nghịch chiếc răng bằng bạc này".

    Sự cảm động lan tỏa sang khắp những người có mặt khi anh Sướng tìm thấy một viên đạn. Khi còn sống, tướng Đinh Đức Thiện, người cùng bị tù, chứng kiến cái chết và đi chôn người đồng đội Bùi Văn Thịnh, có lần kể với anh Sướng: "Người cai ngục khi chôn bố cháu đã ném vào quan tài một viên đạn để gia đình sau này biết mà tìm".

    Không còn nghi ngờ gì nữa, anh Sướng và người nhà bắt đầu xếp xương cốt vào tiểu. Trước sự chứng kiến của hàng trăm người dân và nhiều giáo sư tiến sĩ trường ĐH Bách Khoa, anh Sướng đã gọi điện thoại của Nguyễn Văn Liên, lúc này đang ở thị xã Hải Dương (cách Hà Nội gần 60 km). Anh Sướng hỏi: "Anh Liên ơi, tôi đã tìm thấy quan tài của bố tôi rồi, anh cho tôi biết phải làm gì bây giờ?". "Ông đã sếp xương của cụ vào tiểu rồi, còn hỏi gì nữa!", Nguyễn Văn Liên trả lời và nói tiếp: "Nhưng cánh thợ đã làm vỡ một mảnh xương sọ của cụ bằng đít cái thìa, ông cho con cháu xuống tìm ở gần giữa huyệt sẽ thấy!".

    Rụng rời chân tay, anh cháu nội lập tức nhảy xuống huyệt mò, y như rằng tìm ngay thấy mảnh xương, lắp vừa đúng vết vỡ trên sọ ông cụ.

    "Anh Liên ơi, trong mộ còn gì nữa?", anh Sướng hỏi. "Còn một đôi dép cao su nhưng chỉ còn quai, đế đã mục". "Đúng thế", anh Sướng đáp lại. "Quan tài làm bằng gỗ vối đã mục, ông xem các mảnh mà các cháu vớt lên có đúng là có mùi thơm không?", Nguyễn Văn Liên nói. Nhiều người xô đến, người cầm, người đưa lên mũi ngửi, quả là có mùi hắc của gỗ vối.

    "Có đúng mộ cụ nằm chéo góc với đường thoát nước nhưng song song với đường đất bên cạnh không", ông Liên hỏi tiếp. Mọi người có mặt đều thấy rõ điều đó nhưng anh Sướng nói chệch đi: "Ở đây chỉ có đường nhựa chứ không có đường đất". "Tôi đánh cuộc với ông đấy. Đây là đường đá gạch lổn nhổn chứ không có đường nhựa", nhà ngoại cảm từ xa khẳng định. Đến lúc này thì anh Sướng chỉ còn biết khóc mà cảm ơn nhà ngoại cảm tài giỏi và cùng người nhà đưa hài cốt cha về.

    Đôi nét về nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên

    Sinh năm 1963 ở thôn Mỹ Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương trong một gia đình nông dân. Do hoàn cảnh khó khăn nên chỉ được đi học hết cấp II, về học lực và nhận thức, hiểu biết cũng bình thường hay gọi là chậm phát triển cũng được, về sự phát triển của cơ thể cũng vậy. Từ năm 1977, Nguyễn Văn Liên bị đau ruột thừa suýt chết, sau lại bị nấm lao cóc và năm 1983 bị ngã gãy tay gần chết. Sau khi hết bệnh, Nguyễn Văn Liên thấy sự hiểu biết của mình có chiều hướng phát triển, thông minh hơn trước. Ngoài nhận thức bình thường về cuộc sống của con người, Liên còn nhận được những thông tin khác thường từ thế giới của những người đã mất. "Mỗi khi nghe được điều gì, nhìn thấy điều gì về ai thì tôi tìm cách mách bảo cho người ta. Thấy đúng, người này bảo người kia đến hỏi tôi về gia sự, mồ mả. Tôi biết được thông tin đến đâu thì mách bảo mọi người đến đó", nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên nói.

    Năm 1997, theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Khánh, một hội đồng khoa học đã được lập ra để nghiên cứu và trắc nghiệm về khả năng tìm mộ liệt sĩ từ xa của ông Nguyễn Văn Liên trong 5 tháng. Mục tiêu của trắc nghiệm là xem ông Liên có khả năng đặc biệt thật hay chỉ là trò mê tín, dị đoan, đồn đại... Kết quả trắc nghiệm cho thấy khả năng tìm mộ liệt sĩ của ông Liên là có thật. Tỷ lệ tìm thấy mộ tương đối cao (khoảng 70%). Số vụ tìm thấy được trong thời gian thử nghiệm là 154/219 vụ. Trong mỗi vụ, ông Liên đưa ra trung bình khoảng 40-50 thông tin mà trong quá trình tìm mộ phải xác định đúng sai của các thông tin này. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ số thông tin đúng trong từng vụ khoảng 70-80%.

    (Bài viết sử dụng thông tin do UIA cung cấp)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •