Trang 1 trong 4 1234 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 62

Ðề tài: Lịch sử Chư Phật địa cầu - Chánh Giác Tông (Buddhavamsa)

  1. #1

    Lightbulb Lịch sử Chư Phật địa cầu - Chánh Giác Tông (Buddhavamsa)

    Chánh Giác Tông
    (Buddhavamsa)

    Hòa thượng Bửu Chơn

    Tam Bảo Tự, Đà Nẳng
    In lần thứ nhất: 1954
    In lần thứ hai: 1966


    http://buddhanet.net/budsas/uni/u-chanh-giac-tong/chanh-giac-01.htm

    TIỂU TỰA
    Người tu Phật ai ai cũng có đức tin, nhưng nếu không rõ được rành mạch những lịch sử hoặc những hành vi của các vị Bồ tát phải hành thế nào để thành được một bậc Chánh Đẳng Chánh Giác và do nhờ pháp Ba-la-mật (PÀRAMITA) nào đưa các ngài qua tới bờ giác ngạn là Niết Bàn, thì đức tin ấy có khi cũng mơ hồ và có khi cũng lầm lạc.

    Vì vậy nên tôi không nệ tài hèn học kém, ráng sao lục tóm tắt theo Tam Tạng Pàli (TIPITAKA) bộ kinh Chánh giác tông (BUDDHAVAMSA) và quyển Chư Bồ tát vị lai (ANÀGATAVAMSA) để đem lại một vài tia sáng cho các nhà tu Phật. Ai là người có chí muốn thành một bậc Chánh Biến Tri, hãy noi theo gương lành của các Ngài và thực hành theo mới mong chứng quả được.

    Trong quyển kinh này có nhiều đoạn hơi khó hiểu hoặc không thể tin được vì oai lực và pháp Ba-la-mật của một vi Phật Tổ khác Thường xuất chúng và thời đại cũng khác nhau vượt qua khỏi trình độ suy nghĩ hoặc hiểu biết của phàm nhơn.

    Nên độc giả xem quyển kinh này nên dùng đức tin mà hiểu biết rằng: "Muốn thành 1 vị Phật Tổ không phải dễ, không phải ai cũng muốn được, và không phải chuyện bịa đặt ra, mà trái lại phải thực hành cho đúng theo thời hạn và điều kiện nhất định và tròng đủ pháp Ba-la-mật mới thành một vi Phật Tổ được."

    Với lòng Bác ái,
    NÀGA THERA (Tỳ Khưu Bửu Chơn),
    Đà Nẳng 1954.

    -ooOoo-

    [01]

    [COLOR="rgb(139, 0, 0)"]CHÁNH GIÁC TÔNG[/COLOR]

    NAMATTHU RATANA TAYASSA
    Xin nghiêm Thân, Khẩu, Ý trong sạch để làm lễ Tam Bảo.

    NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMÀSAMBUDDHASSA (3 lần)
    Tôi xin thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A-la-hán Vô thượng,
    đã đắc quả Chánh Biến Tri, Tam-miệu Tam-bồ-đề.

    PHẬT NGÔN

    DHAMMO HAVE RAKKHATI DHAMACÀRIM
    DHAMMO SUCINNO SUKHAMÀ VAHATI ESÀNISAMSO
    DHAMMESUCINNE NA SUGGATIM GACCHATI DHAMMACÀRÌ

    Người thực hành theo Pháp Bảo, thì Pháp Bảo hộ trì.
    Người hằng tích trử Pháp lành thì được đến sự an vui và lợi ích .
    Người thực hành theo Pháp Bảo, thì không sanh vào cảnh khổ.

    [COLOR="rgb(139, 0, 0)"]THẬP ĐỘ BA-LA-MẬT[/COLOR]

    Trước khi giải về pháp Chánh giác tông tôi xin giải tóm tắt về pháp Thập Độ tín dụng (DASAPÀRAMÌ) là pháp của chư Bồ-tát (chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh; BODHISATTA) quá khứ, vị lai và hiện tại nguyện thành một bậc Chánh Biến Tri (SAMMÀ SAMBUDDHA) đều phải thực hành theo cho tròn đủ và cho đúng thời kỳ nhất định mới chứng quả vị được.

    [COLOR="rgb(139, 0, 0)"]DASAPARÀMÌ: Mười pháp Ba-la-mật hay Thập Độ là:

    1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí Ba-la-mật (Đáo bỉ ngạn tới bờ bên kia Niết Bàn).

    2. SÌLA PÀRAMÌ: Trì giới Ba-la-mật.

    3. NEKKHAMMA PÀRAMÌ: Xuất gia Ba-la-mật

    4. PANNÀ PÀRAMÌ: Trí tuệ Ba-la-mật

    5. KHANTÌ PÀRAMÌ: Nhẫn nhục Ba-la-mật

    6. VIRIYA PÀRAMÌ: Tinh tấn Ba-la-mật

    7. SACCA PÀRAMÌ: Chân chánh Ba-la-mật

    8. ADHITTHÀNA PÀRAMÌ: Nguyện vọng Ba-la-mật

    9. METTA PÀRAMÌ: Bác ái Ba-la-mật.

    10. UPEKKHÀ PÀRAMÌ: Xả Ba-la-mật
    [/COLOR]

    Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3 bực là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 bực là:

    1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí bực hạ.

    KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ PUTTA DÀRASSA PARICÀGO DÀNA PÀRAMÌ NÀMA.

    Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí của cải, vợ, con, gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ.

    2. DÀNA UPPA PÀRAMÌ: Bố thí bậc trung.

    KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ ANGA PARICÀGO DÀNA UPPAPÀRAMÌ NÀMA.

    Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh vì lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí tay, chân, thịt, mắt, mũi, mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung.

    3. DÀNA PARAMATTHA PÀRAMI: Bố thí bậc thượng.

    KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ JIVITA PÀRICÀGO DÀNA PARAMATTHA PÀRAMÌ NÀMA.

    Người rành mạch trong lúc tâm minh phát sanh lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí mạng sống (là cắt đầu hoặc mỗ lấy tim mình mà cho kẻ khác) gọi là bố thí Ba-la-mật bậc thượng.

    Còn 9 pháp kia khi thực hành cũng mường tượng như trên.

    Chỗ nói đúng thời kỳ nhất định là: Phải biết chư Bồ-tát (là chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh, chớ không ai gọi là Phật Bồ-tát bao giờ), chia làm 3 bậc:

    1- PANNÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về huệ lực, phải tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.

    2- SADDHÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tín lực là có nhiều đức tin, phải tu trong 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

    3- VIRIYÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát thuộc về tấn lực và nhiều sự tinh tấn, phải tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.

    Nói về sự nguyện vọng của mỗi vị Bồ-tát chia ra làm 3 thời kỳ:

    1. Chư Bồ-tát thuộc về Huệ lực:

    a. Thời kỳ nguyện trong tâm không nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ.
    b. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 9 A-tăng-kỳ .
    c. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

    2. Chư Bồ-tát thuộc về Tín lực:

    a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 14 A-tăng-kỳ
    b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp Đức Phật thọ ký là 8 A-tăng-kỳ.
    c. Thời kỳ gặp một vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

    3. Chư Bồ-tát thuộc về Tấn lực:

    a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 28 A-tăng-kỳ.
    b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp một vi Phật thọ ký là 36 A-tăng-kỳ .
    c. Thời kỳ gặp 1 vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

    -oOo-

    Tất cả chư Bồ-tát trên đây nếu nói tóm lại thì chỉ còn có hai bậc là:

    1/ ANIYATA BODHISATTA: Bất Thường Bồ-tát là chư Bồ-tát chưa thành tựu được nguyện vọng, là chư Bồ-tát nào đã nguyện trong tâm hoặc nói ra nhưng mà chưa gặp được một vị Phật tổ nào thọ ký cho thì chưa chắc sẽ thành một bậc Chánh giác được.

    2 / NIYATA BODHISATTA: Thường trụ Bồ-tát là chư Bồ-tát đã thành tựu được nguyện vọng là Bồ-tát đã được truyền hoặc một vị Phật tổ thọ ký, chắc chắn sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai.

    -oOo-

    SAMODHÀNA DHAMMA: 8 pháp tròn đủ.

    Chư Bồ-tát phải có tròn đủ 8 pháp:

    1- MANUSSATTAM: Phải là loài người chớ không phải trời hay thú.

    2- LINGA SAMPATTI: Phải là nam nhơn chớ không phải là phụ nữ hay là bán nam bán nữ.

    3- HETU: Có đủ duyên lành để đắc quả Alahán trong kiếp ấy (ví dụ như đạo sĩ Sumedha là Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích Ca)

    4- SATTHÀRA DASSANAM: Gặp được Đức Phật ra đời và được làm một điều phước thiện nào tới Đức Phật ấy.

    5- PABBAJJÀ: Phải là người xuất gia.

    6- GUNA SAMPATTI: Phải đầy đủ những pháp của bậc cao nhơn là có ngũ thông và bát thiền.

    7- ADHIKARO: Đã được làm phước báu cao thượng là bố thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho thành Chánh giác.

    8- CHANDATÀ: Phải có ý nguyện đầy đủ quyết cho thành một bậc Chánh giác dầu cho khó khăn, khổ sở thế nào cũng không nao núng và thối chuyển.

    Chư Bồ-tát nào có tròn đủ 8 pháp trên đây, thì mới được chư Phật thọ ký cho và từ ấy mới gọi là NIYATA BODHISATTA, là Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác không sai.

    -oOo-

    BUDDHA BHÙMI: 4 Pháp căn cứ của chư Bồ-tát đã được thọ ký.

    1) USSÀHA: Rất siêng năng dõng mãnh trong sự làm điều thiện.

    2) UMMAGGA: Có trí tuệ phân biệt thiện ác, để xa lánh điều dữ và hành theo điều lành.

    3) AVATTHANA: Có chí quả quyết và cứng rắn là khi đã làm một điều thiện nào không hề thối chuyển và ráng làm cho tới thành tựu.

    4) HITACARIYÀ: Khi làm một việc nào toàn là việc hữu ích cho mình và cho kẻ khác.

    Chư Bồ-tát đã được thọ ký một khi làm một việc chi đều lấy 4 pháp trên để làm căn cứ cho tâm mình.

    -oOo-

    AJJHÀSAYA: 6 khuynh huớng của Bồ-tát

    Chư Bồ-tát đã được thọ ký đều có 6 khuynh hướng.

    1) ALOBHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không tham, và luôn luôn có tác ý muốn dứt bỏ của cải mình để làm việc hữu ích cho kẻ khác.

    2) ADOSAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không sân, và luôn luôn có tâm từ bi đối với kẻ khác.

    3) AMOHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng không si, và có trí tuệ suy xét rõ rệt rồi mới tin.

    4) NEKKHAMMAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn xuất gia, và có ý dứt bỏ các sự quyến luyến.

    5) PAVIVEKAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng ở nơi thanh vắng, và có ý muốn xa lánh các bè bạn và nơi hội hợp đông đảo.

    6) NISSARANAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng muốn giải thoát khỏi ái dục, phiền não và sự khổ não của cõi thế gian.

    Chư Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì luôn luôn có những tư cách và nết hạnh đã kể trên.

    -oOo-

    ACCHARIYA DHAMMA: 7 pháp xuất chúng của chư Bồ-tát đã được thọ ký.

    1) PÀPPATIKUTHA CITTO: Có tâm gớm ghê điều xất xa tội lỗi, là tâm của Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì hổ thenï và ghê sợ điều tội lỗi cũng như người bị phỏng lửa thấy lửa ghê sợ vậy.

    2) PASÀRANA CITTO: Có tâm vui thích theo điều thiện, là tâm của Bồ-tát lúc nào cũng vui tươi thỏa thích đến điều lành việc phải, một khi đã làm điều thiện nào thì sốt sắng vui vẻ làm cho đến khi được thành tựu không bao giờ bỏ dỡ.

    3) ADHIMUTTA KÀLAKIRIYÀ: Tâm nguyện ngưng tuổi thọ đã nhứt định, là khi Bồ-tát sanh về cõi trời làm cho ngưng trệ sự tạo pháp Ba-la-mật để độ chúng sanh ở thế gian, ngài bèn nguyện cho tuổi thọ ở cõi trời ấy cho giảm đi để sanh xuống trần gian độ đời, liền khi ấy tuổi thọ giảm bớt và sanh liền xuống cõi thế gian.

    4) VISESAJANATTAM: Là một bậc khác thường hơn tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ, vì tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ thì ngồi chồm hổm, hai tay nằm lại đở càm, mặt day vào lưng mẹ, đầu đội đồ mẹ mới ăn vào, mình ngồi trên vật thực cũ dơ dáy gớm ghê, còn Bồ-tát thì ở trong bụng mẹ rất sạch sẽ, mặt day ra phiá trước ngồi xếp bằng như vị pháp sư.

    5) TIKÀLANNÙ: Có sự nghi nhớ và biết rõ 3 thời kỳ, khi kiếp chót sẽ thành đạo thì: khi đầu thai vào lòng mẹ, biết rõ ta đầu thai vào lòng mẹ, khi ở trong bụng mẹ cũng biết rõ đương ở trong bụng mẹ, lúc sanh ra khỏi lòng biết rõ đương sanh ra khỏi lòng. Còn chư Phật Độc Giác và hai Thượng Thinh văn thì chỉ biết trong hai thời kỳ, trừ lúc ra khỏi lòng mẹ thì không biết, còn 80 vị đại A-la-hán thì chỉ biết có một thời kỳ là lúc vào thai bào mà thôi.

    6) PASÙTIKÀLO: Khi sanh ra thì Phật mẫu đứng sanh. Lúc ấy Bồ-tát xuôi hai tay xuống và tuột ra, cũng như vị pháp sư từ trên pháp tọa đi xuống vậy.

    7) MASSUNA JATIYO: sanh ra trong loài người là tất cả chư Bồ-tát khi kiếp cuối cùng sẽ thành Chánh Giác thì sanh ra làm người, chớ không phải trời hoặc là súc sanh. Nếu sanh làm trời mà thành đạo thì loài người lại thối thoát kiếm cớ cho là trời mới tu thành Phật được, còn nếu sanh làm súc sanh thì loài người cho thấp hèn hơn mình cũng không chịu tu theo, nên chư Bồ-tát mới sanh ra làm người để độ chư thiên, loài người và súc sanh cũng được. Hơn nữa khi làm người lúc nhập Niết Bàn mới có Xá Lợi lại cho chư thiên và nhân loại lễ bái cúng dường.

    7 pháp trên đây là xuất chúng (lạ thường) của chư Bồ-tát đã được thọ ký.

    Tất cả chư Bồ-tát đã giải trên đây đều phải thực hành theo 10 pháp Ba-la-mật đúng theo khuôn khổ nhất định của thời kỳ và đã được một vị Phật tổ thọ ký, tiên tri cho biết trước rằng còn bao nhiêu năm, tháng, ngày v..v... sẽ thành môt vị Phật tổ, chừng ấy mới gọi là "Thường trụ Bồ-tát" và thế nào cũng đắc quả Chánh Biến Tri "A-nậu-la tam-miệu tam-bồ-đề" không sai vậy.

    -oOo-

    GIẢI VỀ A-TĂNG-KỲ: ASANKHÀYA

    Một hôm có vị Tỳ khưu bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, 1 A-tăng-kỳ là bao lâu? Phật giải rằng: Không thể nói là bao nhiêu năm được, chỉ ví dụ cho hiểu thôi.

    Theo trong Tam tạng (quyển 32 chương 86): Ví dụ như có 1 khối đá vuông vức 1 do tuần (16 cây số) trong 1 trăm năm có 1 vị Chư thiên xuống, lấy tấm lụa thật mõng quét khối đá ấy, rồi cách một trăm năm sau cũng quét như thế, cho tới khi nào khối đá ấy bằng mặt đất thì mới gọi là 1 A-tăng-kỳ. Hoặc ví dụ như 1 cái thùng vuông vức 1 do tuần đầy hột cải, trong 1 trăm năm mới có 1 vị Chư thiên tới lấy ra 1 hột, rồi cách 1 trăm năm sau lấy ra 1 hột nữa, lần lượt như thế cho đến khi lấy hết những hột cải trong thùng ấy mới gọi là A-tăng-kỳ.

    Hay là viết 1 con số 1 rồi thêm 140 con số không (zéros) nữa cũng gọi là 1 A-tăng-kỳ, đây là A-tăng-kỳ của kiếp trái đất chớ không phải làm năm.

    KIẾP (KAPPA): 1 thời gian

    Chổ nói kiếp có 4 là : Thành, Trụ, Hoại, Không

    1) Bắt đầu từ khi quả địa cầu cấu tạo đầu tiên như bọt nước rồi dần dần đặc lại như bột và cứng như đất thật lâu, không thể kể là bao nhiêu năm tháng nhưng chưa có ai ở (sanh) trên mặt địa cầu gọi là kiếp Thành.

    2) Bắt đầu từ khi có 1 người đầu tiên sanh vào quả địa cầu cho tới khi người ta sanh ra vô số như hiện nay gọi là kiếp Trụ.

    3) Bắt đầu từ khi trên mặt địa cầu không còn ai ở (sanh) nữa cho tới khi nước bể cả khô khan vì sức nóng của ánh thái dương rồi cháy luôn quả địa cầu đi gọi là kiếp Hoại.

    4) Bắt đầu từ khi quả địa cầu đã tiêu hoại chỉ còn khí hư, u u, minh minh, không không vô cùng vô tận tạo nên quả địa cầu khác gọi là kiếp Không.

    4 kiếp kể trên đây nhập lại thành 1 đại kiếp, mà chư Bồ-tát phải thực hành pháp Ba-la-mật cho đúng thời kỳ nhất định của những đại kiếp ấy.





    [02]

    NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ GIẢI THÍCH VỀ CHÁNH GIÁC TÔNG

    Một hôm đại đức Xá Lợi Phất ở trên núi Kỳ xà quất (GIJJHAKUTA) tại xứ Vương Xá (RAJÀGAHA) cùng 560 vị Tỳ khưu đều là bậc A-la-hán cả, thấy Đức Phật đang dùng phép thần thông hoá đường đi kinh hành bằng ngọc trên hư không gần thành Xá Vệ (KAPILAVASSU), trong người Phật phóng hào quang 6 màu sáng ngời rực rỡ, có cả Chư thiên và Phạm thiên trong 10 ngàn thế giới ta bà đang chầu chực tại chổ Đức Phật đi kinh hành.

    Đại đức Xá Lợi Phất nghĩ rằng: Đức Phật vô cùng oai hùng và cao thượng hơn tất cả Chư thiên và Phạm Thiên, không biết oai lực quý báu của chư Phật quá khứ ra sao? Ông bèn mời 500 vị A-la-hán cùng đi với ông đến xin Đức Phật giảng giải cho biết oai lực của chư Phật quá khứ, liền khi ấy 500 vị A-la-hán cùng ông dùng thần thông bay tới chổ Đức Phật đi kinh hành và bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài mở lòng bác ái giảng giải về oai lực của chư Phật quá khứ để đem lại đức tin và sự lợi ích cho tất cả Chư thiên và nhân loại... Tùy lời hỏi, Đức Thế Tôn bèn giảng như sau:

    28 VỊ PHẬT QUÁ KHỨ

    Đức Phật giảng rằng: Nầy Xá Lợi Phất! Trong một thời gian quá khứ, trải qua 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời tế độ sanh linh, môt hôm có 1 ngưới lái thuyền tên MÀTUDÀRA MÀNAVA bị thuyền đắm giũa bể khơi, y rán sức cõng mẹ trên lưng lội dưới bể trong 7 ngày, mặc dầu mệt nhọc vô cùng, vẫn can đảm hy sinh vì mẹ, làm cảm động một vị Đại phạm thiên. Ngài bèn xuôi khiến cho người lái thuyền phát tâm trong sạch nguyện thành môt bực Chánh Giác để độ chúng sanh thoát khỏi sông mê bể khổ. Từ đó người lái thuyền trở thành 1 vị Bồ-tát, để tập sự nguyện trong tâm trọn 7 A-tăng-kỳ rồi phát nguyện bằng lời nói, tu tập thêm 9 A-tăng-kỳ cho tới khi gặp Đức Phật Nhiên Đăng (DIPANKÀRA) thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu nữa sẽ thành một vị Chánh Đảng Chánh Giác tên GOTAMA. Đức Bồ-tát trên đây là tiềân thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà chúng ta đang học và hành theo giáo lý của ngài vậy.

    CHUYỆN BỒ-TÁT THÍ SINH MẠNG

    Có 1 kiếp Bồ-tát tu làm đạo sĩ, cùng 500 học trò ẩn tu nơi rừng núi. Một hôm ngài ra mé núi thấy dưới hố sâu có con cọp mẹ gầy ốm, đương dợm ăn cho con đỏ đói. Vị đạo sĩ thấy vậy động lòng thương xót, liền kiếm cớ biểu học trò về, rồi ngài gieo mình xuống hố, thí thân cho cọp mẹ ăn. Khi người học trò lớn trở lại kiếm, biết thần mình đã bố thí thân mạng cho cọp ăn, cũng nhảy theo xuống hố làm mồi cho cọp. Người học trò ấy tức là Đức Phật Di Lặc trong ngày vị lai.

    Cách đây độ 20 A-tăng-kỳ, có 1 người em gái của Đức Phật PURÀNA DIPANKÀRA, có lòng trong sạch đem dầu cúng dường Phật, rồi nguyện thành 1 vị Chánh giác và xin Phật thọ ký cho. Phật giải rằng: vì em là phụ nữ nên không thể nguyện thành Phật được, chờ 16 A-tăng-kỳ nữa em sẽ thành đàn ông rồi chừng ấy sẽ có Phật thọ ký cho.

    Nhân đó Đức Phật mới giảng cho các thầy Tỳ khưu nghe 4 điều khó là:

    1- Khó sanh được làm người.
    2- Phụ nữ khó sanh làm nam nhân.
    3- Làm nam nhân khó được xuất gia.
    4- Khó gặp Phật ra đời.

    Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.

    Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân, vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới.

    Khó sanh làm người, vì phải tạo nhiều phước báu cao thượng, mà chúng sanh lại ưa làm tội hơn làm phước, bởi tội dễ làm hơn phước. Trong kinh có câu: Vạn kiếp nan sanh đắc cá nhân - Muôn kiếp khó sanh được làm người.

    Khi được phước lành cấu tạo sanh ra đàn ông thì lại quên căn lành, say đắm theo ngũ trần lục dục, quyến luyến theo vợ con gia đình nên khó mà ly gia cắt ái để xuất gia tu hành cho được.

    -oOo-

    CÁC VỊ PHẬT THỜI QUÁ KHỨ

    Đức Thích Ca Mâu Ni giảng giải cho Đại đức Xá Lợi Phất rằng: cách đây 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp có 4 Đức Phật tổ nối tiếp ra đời trong quả địa cầu. Vị Phật thứ nhất là TANHANKARA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, đắc đạo dưới gốc cây bông sứ, sau 7 ngày hành đạo, tuổi thọ 10 muôn năm.

    Vị Phật tổ thứ 2 tên MEDHANKARA, tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong nữa tháng đắc đạo quả, dưới cây Vông đồng, tuổi thọ 9 muôn năm.

    Vị Phật tổ thứ 3 tên SARANANKARA, tu 8 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, hành đạo trong 1 tháng, đắc đạo quả, dưới cây cẩm lai. Tuổi thọ lúc ngài còn ở thế gian là 7 ngàn năm, tuổi thiệt không rõ là bao nhiêu vì trong kinh không thất nói tới.

    Bồ-tát tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh ra đều có gặp 3 vị Phật tổ trên đây, nhưng chưa được lời tiên tri của vị nào thọ ký cho.

    -oOo-

    Vị Phật tổ thứ 4 tên DIPANKÀRA ra đời, tại xứ RAMMAVATÌ, cha ngài tên ATISARASUDEVA, mẹ tên SUMEDHÀ, vợ tên PADUMÀ, con trai tên USABHAKHANDHA, lúc còn ở thế có 3 muôn cô hầu.

    Một hôm đi dạo ngoài thành thị thấy 4 điềm là: người bịnh, già, chết và người tu rồi chán nản xuất gia hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 10 muôn nam, 40 muôn Thinh Văn đệ tử của ngài đều đắc lục thông, luôn luôn theo hầu ngài.

    Đại đức SUMANGALA là Thượng thinh văn phía mặt, Đại đức MAHATISSA là Thượng thinh văn phía trái. Tỳ khư ni NANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên mặt. Tỳ khưu ni SUNANDÀ là nữ Thượng thinh văn bên trái. Đại đức SAGATA là đệ tử hầu hạ luôn theo Phật. Có hai đại thiện nam là TAPUSSA và BHALLIKA, và hai đại tín nữ là SIRIMÀ và SONÀ. Phật cao 40 thước tây (80 hắc tay), có 32 tướng tốt và 80 tướng phụ. Ngài độ Chư thiên và nhân loại đắc đạo quả Niết Bàn vô số kể.

    Khi đúng tuổi thọ, ngài nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA. Người ta làm một bảo tháp cao 36 do tuần để thờ xá lợi ngài, và một bảo tháp nữa thờ 8 món cần thiết của ngài như : 3 lá y, 1 bát, 1 sợi dây lưng, 1 bình lọc nước, 1 con dao nhỏ để cạo tóc hoặc cắt móng tay, và 1 ống đựng kim tại cây sơn chổ ngài thành đạo.

    Ngài thuộc dòng vua, tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.

    Sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp ngài lưu truyền được 100.000 năm. Bảo tọa chỗ ngài thành đạo bề cao 26 thước (53 hắc tay).

    Thuở ấy đức Bồ-tát SUMEDHÀ, tiền thân của Phật Thích Ca, sanh làm con của một đại phú bà-la-môn. Khi cha mẹ qua đời, Bồ-tát thừa hưởng một gia tài tích trữ 7 đời. Thấy của cải vô số, Bồ-tát bèn suy nghĩ: "Ông bà, cha mẹ ta dày công lập ra một sự nghiệp đồ sộ, mà khi lâm chung chẳng một ai đem theo một đồng một cắt nào, của thế đành để lại cho thế gian. Ta đây cũng vậy, một ngày kia rồi cũng chết để lại của cải này. Rất uổng công tìm kiếm miên trường, thà đem của cải này làm việc phước thiện gieo trồng âm đức cho kiếp vị lai". Nghĩ xong, bèn vào tâu vua, xin đem hết tài sản ra bố thí cho người nghèo khó, rồi xuất gia vào non tuyết lãnh cố công tu hành, không bao lâu đắc được các cõi thiền luôn cả các pháp.

    Khi Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) ra đời, và thừa dịp dân chúng trong xứ RAMMAVATI sửa sang đường xá để thỉnh Đức Phật và 40 muôn tăng chúng quang lâm đến chùa SUDASSANA MAHÀVIHÀRA dự lễ trai tăng, đức Bồ-tát bay đến xin lãnh một phần công việc. Biết Bồ-tát có nhiều thần thông dân chúng bèn lựa những chổ khó khăn, hư hỏng đầy những bùn lầy, đạo sĩ vẫn vui lòng lãnh lấy vì nghĩ rằng nếu ta dùng thần thông mà làm công việc thì không mấy gì được phước nhiều, vậy ta nên dùng sức lực mới có công đức nhiều hơn. Nghĩ xong Bồ-tát bèn ra công lấp đường, cặm cụi làm mãi, đến giờ Đức Phật và chư tăng ngự tới thì còn một khoảng chưa xong. Trong thấy 32 tướng tốt và 80 phụ tướng, hào quang sáng rỡ của Đức Phật, Bồ-tát bèn phát tâm trong sạch nghĩ rằng: lúc này là lúc ta nên bố thí mạng sống ta cho Đức Phật và chư tăng. Nghĩ rồi liền nằm chổ khoảng đường làm chưa xong và bạch với đức Phật xin bố thí thân mạng cho ngài và Chư tăng đi trên mình và nguyện thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai để tế độ chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ.

    Lúc ấy Đức Phật DIPANKÀRA ngự tới đứng trước đầu đạo sĩ SUMEDHA, thọ ký và tiên tri cho rằng, vị đạo sĩ nguyện bố thí thân cho Như Lai đây, sau này trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA, tại xứ Ca bì la vệ (Kapilavattu) cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAYA,v.v... sẽ hành đạo trong 6 năm mới thành chánh quả dưới cội cây bồ đề. Khi Bồ-tát được nghe lời thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng, ngài bèn lấy 8 cành hoa cúng cúng dường cùng chư tăng đi chung quanh mình Bồ-tát, chư thiên cùng dân chúng cũng cúng dường rất long trọng.

    Sau khi Đức Phật DIPANKÀRA nhập diệt rồi, một thời gian 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

    -oOo-

    Kế đó Đức Phật KONDANNA đã tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, giáng sanh tại xứ RAMMAVATI, cha tên SUNANDA mẹ tên SUJÀTÀ, giòng vua, khi ngài cuất gia đi bằng xe có cả trăm triệu đòng xuất gia đi theo ngài hành đạo trong 10 tháng đắc đạo dưới gốc cây thị bảo tọa bề cao 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Phật 44 thước.

    Đại đức ANURUDDHA là đệ tử hầu hạ bên cạnh Đức Phật, đại đức BHADDA và đại đức SUBHADDA là Thượng thinh văn, tỳ khưu ni TISSÀ và UPATISSÀ là Thượng thinh văn phái nữ.

    Trong thời kỳ ấy đức Bồ-tát, tiền thân Phật tổ Thích Ca sanh làm chuyển luân vương tên là VIJITÀVÌ, xuất của cải ra thật nhiều cúng dường đến Đức Phật và chư Tăng, Đức Phật bèn tiên tri cho biết rằng, còn 3 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, Bồ-tát sẽ thành 1 vị Phật tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật KODANNA nhập Niết bàn, giáo pháp ngài lưu truyền 10 muôn năm mới mãn.

    Sau khi Đức Phật KODANNA nhập diệt rồi thì trong thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời cả.

    -oOo-

    Sau thời kỳ đó có 4 vị Phật tổ, lần lượt ra đời trên một trong quả 3 địa cầu.

    Vị thứ nhất tên SUMANGALA, ngài tu 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, cha tên là UTTARARÀJA, mẹ tên UTTARÀ. Khi từ cung trời Đâu xuất đầu thai vào lòng mẹ thì hào quang chiếu sáng cả ngày và đêm lối 5 thước chung quanh mình Phật mẫu luôn luôn. Từ khi vào thai bào, thì chư thiên luôn luôn gìn giử cho đúng 10 tháng tới khi sanh. Lớn lên có 9 ngàn cung phi mỹ nử hầu hạ. Ngài ở thế làm vui 9 ngàn năm rồi mới xuất gia, lúc ra đi cởi ngựa có cả 30 triệu người xuất gia theo. Ngài hành đạo trong 8 tháng đắc quả dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi bề cao 29 thước. Hào quang trong mình Đức Phật phóng ra luôn luôn sáng cả ngày lẫn đêm tới 10 ngàn thế giới sa bà đều vàng ánh. Ngài bề cao 40 thước, tuổi thọ chín muôn năm.

    Đức Bồ-tát kiếp ấy sanh làm bà-la-môn đại phú tên là SURUCI phát tâm trong sạch thỉnh Đức Phật và 1 trăm ngàn triệu Chư tăng, trai tăng trong 7 ngày, cất rạp lớn 16 do tuần vuông vức. Sau 7 ngày rồi, Đức Phật SUMANGALA tiên tri rằng còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa người sẽ thành một vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi Bồ-tát nghe được lời thọ ký của Đức Phật rất vui mừng, rồi xin xuất gia tu hành theo Phật. khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, người ta thiêu xác ngài rồi làm một bảo tháp cao 30 do tuần để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài hưng thạnh đến 9 muôn năm mới mãn.

    -oOo-

    Phật tổ thứ nhì tên SUMANA giáng sanh tại xứ MEKHATA, cha tên SUDATTA, mẹ tên SIRIMÀ, ngài xuất gia đi bằng tượng có 300 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 10 tháng thì đắc quả, thành đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi cao 15 thước, chư Tăng luôn luôn 8 muôn triệu theo tùy tùng tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 45 thước.

    Lúc ấy Bồ-tát sanh làm Long vương tên là ATULANÀGA có thần thông quảng đại, dẫn hết cả tùy tùng mình lên làm lễ Phật và Chư tăng xong rồi xin dâng y thần cho Phật và Chư tăng. Đức Phật tiên tri cho biết rằngcòn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành một vĩ Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ thì Đức Phật SUMANA nhập Niết Bàn tại chùa ANGÀRÀMA, người ta thiêu xác ngài rồi làm một bảo tháp cao 4 do tuần để thờ xá lợi ngài, sau khi nhập diệt rồi, giáo pháp ngài được hưng thạnh đến 9 muôn năm.

    -oOo-

    Phật tổ thứ 3 tên REVATA giáng sanh tại xứ SUDHANNAVATI, cha tên VIPULA, mẹ tên VIPULAYA. Lúc còn Bồ-tát có tới 33 ngàn mỹ nữ hầu hạ, ngài hưởng ngôi vui 6 ngàn năm. Thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc xuất gia đi bằng xe giá, có 10 muôn triệu người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo 7 tháng, đắc đạo dưới cây mù u, bảo tọa ngài ngồi bề cao 25 thước, tuổi thọ 6 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.

    Lúc ấy Bồ-tát sanh vào dòng bà-la-môn tên ATIDEVA, khi vào nghe pháp, phát tâm trong sạch quy y và thọ trì ngũ giới rồi dâng y cho Phật.

    Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật REVATA nhập Niết Bàn còn để lại giáo pháp tới 6 muôn năm mới mãn.

    -oOo-

    Đức Phật thứ tư tên SOBHITA giánh sanh tại xứ SUDHAMMAø, cha tên DHAMMAJÀTAø, mẹ tên SUDHAMMÀ, ngài hành pháp Ba-la-mật đã được 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Lúc còn thái tử có 7 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi mới chán nãn xuất gia, hành đạo trong 7 ngày rồi đắc đạo dưới cội cây bồ đề.

    Lúc ngài xuất gia, nguyện cho đền đài đều bay theo ngài, tới gốc cây bồ đề rồi hạ xuống, Đức Phật khi đắc đạo cũng ở trong đền ấy. Hào quang trong mình Phật chiếu sáng rãi ra khắp nơi tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 29 thước.

    Lúc ấy Bồ-tát sanh ra trong dòng bà-la-môn tên SUJÀTA, vào nghe pháp rồi quy y giữ giới và bố thí, trai tăng cho Đức Phật và chư tăng 7 ngày, Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn 2 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ. Khi đúng tuổi thọ rồi Đức Phật SOBHITA nhập Niết Bàn tại chùa SIHÀRÀMA giáo pháp ngài không có để lại.

    Sau khi Đức Phật SOBHITA rồi cách một thời gian sau 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có vị Phật tổ nào giáng sanh độ thế.

    -oOo-

    Sau đó trên một quả địa cầu khác có 3 vị Phật ra đời là: ANOMADASSÌ, PADUMA, NÀRADA.

    Vị thứ nhất tên ANOMADASSÌ, tu trong 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Ngài giáng sanh tại xứ CANDAVATÌ, cha tên YASAVÀ, mẹ tên YASODHARÀ. Trong lúc giáng sanh vào lòng mẹ thì hào quang phóng ra 40 thước chung quanh mình hoàng hậu vô số kể. Khi lớn lên làm vua có 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi đi dạo vườn hoa thấy 4 điềm rồi xuất gia, có 30 triệu người đồng lượt xuất gia theo ngài, hành đạo trong 10 tháng mới đắc đạo dưới gốc cây gòn rừng, bảo tọa cao 19 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.

    Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm chúa Dạ xoa (YAKKHA) có 10 ngàn Dạ xoa khác tùy tùng hầu hạ. Nghe Đức Phật ra đời bèn trong sạch hoá thần thông thành ra đền đài bằng 7 thứ ngọc, rồi thỉnh Phật và chư Tăng cúng dường trong 7 ngày. Đức Phật tiên tri rằng còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Đức Phật ANOMADASSÌ hào quang luôn luôn phóng ra chung quanh mình Phật 12 do tuần cả ngày và đêm. Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, xá lợi ngài không có bể nhỏ ra mà còn dính nguyên nhau như tượng hình Đức Phật bằng vàng vậy, người ta tạo một bảo tháp cẩn bằng 7 thứ ngọc bề cao 25 do tuần để thờ xá lợi ngài tại BUDDHÀRÀMA.

    -oOo-

    Đức Phật thứ nhì tên PADUMA, giáng sanh tại xứ CAMAPAKA, cha tên ASAMA, mẹ tên ASAMÀDEVÌ. Khi lớn lên làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc đi bằng xe giá có 10 triệu người xuất gia theo, hành đạo trong 8 tháng thì đắc quả dưới gốc cây mã tiền, bề cao bảo tọa 19 thước, hào quang của Phật luôn luôn phóng ra lối 29 thước sáng ngời như ngọc cho tới khi ngài nhập diệt.

    Thuở ấy Bồ-tát sanh làm chúa sư tử gặp Đức Phật nhập đại định phát tâm trong sạch đứng hầu Phật trong 7 ngày đêm nhịn ăn uống. Khi xả định, Phật tiên tri với chư tăng rằng. Con sư tử hầu này còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ rồi ngài nhập Niết Bàn và nguyện cho xá lợi tiêu tan ra tro bụi hết nên không có tạo tháp để thờ và cụng không để giáo pháp lại.

    -oOo-

    Đức Phật thứ 3 tên NÀRADA, tu 10 pháp Ba-la-mật trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp giáng sanh tại xứ DHANNAVATÌ, cha tên VÌJITAVÀ làm chuyển luân vương, mẹ tên ANOMA. Khi chưa thành đạo ngài làm vua 9 ngàn năm, có 120 cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia, lúc ra đi có cả quân binh 4 hạng tuỳ tùng, ngài hành đạo trong 7 ngày, đắc đạo dưới cây Gáo, bảo tọa cao 29 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước. Hào quang ngài phóng ra luôn luôn 1 do tuần cả ngày đêm chung quanh Phật.

    Thuởû ấy Bồ-tát tu hạnh đạo sĩ nơi tuyết lãnh sơn (Hy mã lạp sơn), Đức Phật ngự đến, đạo sĩ bèn hoá thần thông cho tịnh xá rộng lớn đủ chổ thỉnh Phật và chư Tăng làm phước trai tăng 7 ngày đêm (ngài hay qua xứ Bắc Cừu-lưu Châu đem vật thực về) khi đúng 7 ngày rồi, Bồ-tát nghe pháp xong dâng trầm hương cho Đức Phật.

    Đức Phật tiên tri cho biết rằng, còn 1 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa thì người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ 9 muôn năm ngài nhập đại Niết Bàn tại chùa SUDASANÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo tháp bề cao bằng 4 lằn chim bay để thờ xá lợi ngài, giáo pháp ngài lưu truyền đến 9 muôn năm.

    Khi Đức Phật NÀRADA nhập diệt rồi, cách môt thời gian 1 A-tăng-kỳ kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

    -oOo-

    Kế sau đó 1 quả địa cầu chỉ có 1 vị Phật tổ tên PADUMUTTARA giáng sanh tại xứ HAMSAVÀTÌ, cha tên ANANDA, mẹ tên SUJÀTÀ, khi lớn lên còn ở thế gian 9 ngàn năm có 10 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi thấy 4 điềm rồi thì chán nản, suy nghĩ để xuất gia. Lúc ấy đền đài ngài đang ngự bổng bay lên không trung, khi tới cây bồ đề hạ xuống ngài bèn xuất gia nơi ấy, ngài hành đạo 49 ngày, thành đạo dước gốc cây dương, bảo tọa cao 19 thước. Mỗi khi Đức Phật ngự đi đâu đều có bông sen mọc lên đỏ bàn chân ngài, nên người gọi ngài là Đức Phật hoa sen (Bửu liên Phật).

    Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm bá hộ JATILA, thỉnh Phật và Chư tăng thọ thực dâng y cho Phật và chư tăng, nghe Đức Phật thuyết pháp, khi dứt thời pháp Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật PADUMUTTARA nhập Niết Bàn tại chùa NANDÀRÀMA, xá lợi ngài không bể rời ra mà đóng lại thành khối như vàng ròng, người ta tạo một bảo tháp bằng 7 thứ báu cao 12 do tuần để thờ xá lợi ngài.

    Sau khi Đức Phật PADUMUTTARA nhập Niết Bàn rồi thì một thời gian 7 muôn đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

    -oOo-

    Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tên là SUMEDHA giáng sanh tại xứ SUDASSANA, cha tên SUDASSARÀJA, mẹ tên SUDATTÀ, khi còn ở thế 9 ngàn năm làm vua trị vì thiên hạ, có 4 muôn 8 ngàn cung phi mỹ nữ hầu ha. Khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng tượng (voi) có cả 1000 triệu người đồng lòng xuất gia 1 lượt. Ngài hành đạo trong 8 tháng, khi đúng rằm tháng tư ngài thành đạo dước gốc cây sầu đông, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao 44 thước hào quang trong người Phật phóng ra lối 1 do tuần luôn luôn cả ngày đêm như ngọc ma ny.

    Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm người đại phú hộ tên là UTTARA gặp Phật nghe pháp rồi phát tâm trong sạch bố thí của cải 800 triệu để làm phước trai tăng đến Đức Phật và Chư tăng. Phật thọ ký cho biết rằng còn ba muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết Bàn tại chùa MEDHÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi tiêu tan hết, nên không có tạo bảo tháp để thờ.

    -oOo-

    Vị Phật thứ nhì tên SUJÀTA, giáng sanh tại SUMANGALA. Cha tên UGGATTA, mẹ tên PABHÀVATÌ. Khi còn ở thế gian 9 ngàn năm, làm vua có cả 23 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ, khi ngài thấy 4 điềm rồi xuất gia. Lúc đi ra bằng ngựa có cả 10 triệu người xuất gia theo 1 lượt với ngài, hành đạo trong 9 tháng đắc đạo duớc bụi tre ngà, bảo tọa bề cao 16 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 25 thước.

    Thửơ ất Bồ-tát sanh làm Chuyển luân vương có 7 báu, nghe Đức Phật ra đời trong sạch đến nghe pháp, khi nghe xong liền dâng cả 7 báu và của cải để làm tứ vật dụng cho Đức Phật và Chu Tăng, rồi xuất gia tu hành theo Phật. Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 3 muôn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SELÀRÀMA, người ta tạo 1 bảo trháp bề cao 12 cây số để thờ xá lợi ngài.

    Sau khi Đức Phật SUJÀTA nhập diệt rồi, có 1 thời không gian 1 muôn 6 ngàn đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

    -oOo-

    Sau đó có 1 quả địa cầu, có 3 Đức Phật ra đời. Vi thứ nhất tên PIYADASSÌ giáng sanh tại xứ SUDHANNAVATI, cha tên SUDATA, mẹ tên CANDÀDEVÌ. Lúc còn ở thế có 33 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe, tất cả quan quân tùy tùng đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 6 tháng, đắc đạo dưới cây Cầy (bràyong) bảo tọa cao 26 thước, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.

    Thuởû ấy bà-la-môn tên KASSAPA đại phú gia, vào nghe pháp phát tâm trong sạch bỏ của cải ra 1000 triệu để cất chùa dâng cho Đức Phật và Chư Tăng rồi quy y tam bảo, thọ trì ngũ giới, Đức Phật tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ ngài nhập Niết Bàn tại chùa ASSATTHÀRÀMA. Nguời ta tạo một bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài, không bể mà đóng khối thành một hình Phật đẹp như vàng ròng, giáo pháp ngài còn lại 9 muôn năm mới mãn.

    -oOo-

    Vị Phật thứ nhì tên là ATTHADASSÌ giáng sinh tại xứ SOBHANA, cha tên SÀGARA, mẹ tên SUDASSANÀ khi còn ở thế 1 muôn năm lên làm vua có 33 ngàn cung phi mỹ mữ hầu hạ, khi thấy 4 điềm phát sanh chán nản đi xuất gia. Lúc ra đi có 4 hạng quan binh cả thảy 9 triệu đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 8 tháng, hành đạo dưới cây Cầy, bề cao 26 thướùc, tuổi thọ 10 muôn năm, Phật bề cao 40 thước, hào quang phóng ra luôn luôn 1 do tuần xung quanh ngài.

    Thuở ấy Bồ-tát sanh ra dòng bà-la-môn đại phú gia SUSÌMA, xuất của cải ra bố thí cho dân chúng hết rồi xuất gia tu đạo sĩ, khi hay Đức Phật ra đời bèn bay xuống nghe pháp xong trong sạch bay lên cõi trời hái bông rãi xuống như mưa cúng dường chổ Phật ngự, ngài tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa ANOMÀRÀMA, ngài nguyện cho xá lợi ngài bể nhỏ và hóa thành bảo tháp xá lợi khắp nơi cho quần chúng chiêm bái tới mãn thời kỳ Phật pháp.

    -oOo-

    Vị Phật thứ ba tên DHAMMADASSÌ giáng sanh tại xú SARANA, cha tên SABBA LOKA SARANA, mẹ tên SUNANDÀ, khi còn ở thế đến 8 ngàn năm lên làm vua có cả 120 ngàn cung phi hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia vừa lúc tâm ngài vừa tính xuất gia thì đền đài ngài đương ngự liền bay bổng lên rồi bay tới chổ cây (kram buk) bèn hạ xuống, thì tất cả cung phi mỹ nữ đều chạy ra khỏi đền. Ngài bèn xuất gia nơi ấy có cả 1 triệu người đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 7 ngày khi đến ngày thứ 8 thọ cơm trộn sữa bề của cô VICIKOLIYÀ dâng cho. Tối hôm ấy hành đạo dưới cây Bibijala và đắc quả Phật. Bề cao bảo tọa 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, lúc còn ở thế vợ tên VICIKOLÌ, con trai tên PUNNAVADANA.

    Đại đức PADUMA là Thượng thinh văn bên hữu.
    Đại đức PUSSADEVA là Thượng thinh văn bên tả.
    Tỳ khưu ni KHEMÀ là Thượng thinh văn bên hữu.
    Tỳ khưu ni SACCANAMÀ là Thượng thinh văn bên tả.
    Đại đức SUNETTA là đệ tử hầu hạ Đức Phật.
    2 ông SUBHADDA và KATISSAHA là đại thiện nam.
    2 cô SÀLIYA và KALIYÀ là đại tín nữ.

    Thuở ấy Bồ-tát sanh làm Ngọc hoàng Thượng đế (Trời Đế thích) SAKADEVARÀJA bay xuống luôn cả chư thiên tùy tùng đãnh lễ Đức Phật. Ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng: còn 1 muôn 4 ngàn đại kiếp nữa người mới thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Đúng tuổi thọ Đức Phật nhập đại Niết Bàn tại xứ SALÀVATÌ. Khi người ta thiêu xác ngài xong thì xá lợi ngài dính nhau lại thành 1 tượng Phật như vàng ròng. Người ta làm 1 bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp ngài lưu truyền đến 10 muôn năm mới mãn.

    Khi Đức Phật DHAMMADASSI nhập diệt rồi thì có một thời không gian 1 muôn 3 ngàn 907 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời cả.

    -oOo-

    Mãi sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên SIDDHATTHA giáng sanh tại xứ VEBHÀRA, cha tên UDENA, mẹ tên SUPHASSÀ, khi tuổi được 1 muôn năm, lên ngôi trị vì thiên hạ, có 48 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc ra đi bằng xe có 1 triệu người tùy tùng đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong 10 tháng, đắc quả dưới cây Gòn rừng (KANNIKA). Bảo tọa cao 26 thước, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 30 thước.

    Thuở ấy Bồ-tát sanh làm Bà-la-môn đại phú gia tên MANGALA bố thí hết của cải cho dân chúng rồi xuất gia tu đạo sĩ nơi rừng núi, khi hay tin Đức Phật đã ra đời dạy đạo liền đến đãnh lễ ngài và nghe pháp. Khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong, phát tâm trong sạch bay đi hái trái mận ở nơi ranh giới quả địa cầu thật nhiều rất thơm tho, ngon ngọt đem về dâng cho Đức Phật và chư Tăng. Khi độ xong Đức Phật thọ ký và cho biết rằng còn 92 đại kiếp nữa người sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật SIDATTHA nhập Niết Bàn tại chùa ANOMARÀMA. Người ta tạo 1 bảo tháp để thờ xá lợi ngài cho dân chúng chiêm ngưỡng đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là mười muôn năm.

    -oOo-

    Kế đó có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh tên là: TISSA và PUSSA.

    Đức Phật TISSA giáng sinh tại xứ KHEMA, cha tên JANASANDHA, mẹ tên PADUMÀ, khi còn ở thế có đến 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi ngài thấy bốn điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi có 4 vạn quan binh tùy tùng, có 10 triệu người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong nữa tháng, đắc quả dưới cây Cẩm lai (ASANA), bảo tọa bề cao 20 thước, tuổi thọ 10 muôn năm. Bề cao ngài 30 thước.

    Thuở ấy Bồ-tát sanh làm vua tên SUJÀTA, sau chán nản sự ràng buộc vợ con của cải, danh lợi, ngài bèn xuất gia tu đạo sĩ ở nơi Hy mã lạp sơn đắc được các pháp thần thông. Khi hay tin Đức Phật ra đời, bèn bay xuống nghe pháp rồi phát tâm trong sạch bay đi hái bông trên cung trời về kết thành cây long thật đẹp như ngọc mani dâng cho Đức Phật. Ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 91 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SUNANDÀRÀMA. Người ta thiêu xong làm 1 bảo tháp bề cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài cho đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là 10 muôn năm.

    -oOo-

    Vị Phật thứ 2 tên PUSSA, giáng sanh tại xứ KÀSIKA, cha tên JAYASENA, mẹ tên SIRIMÀ, khi ở thế tuổi được 9 ngàn năm, lên làm vua có 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe giá có 10 triệu quan quân tùy tùng đồng xuất gia theo ngài hết. Ngài hành đạo trong 6 tháng 7 ngày, đắc đạo dưới cây Tầm ruột rừng, bề cao bảo tọa 9 thước, tuổi thọ ngài 9 muôn năm, bề cao ngài 29 thước.

    Thời kỳ ấy Bồ-tát sanh làm vua tên VIJITAVI, khi vào nghe pháp phát tâm trong sạch thỉnh Phật và chư Tăng vào đền trai tăng, xong xin xuất gia đầu Phật. Phật thọ ký cho và tiên tri cho rằng: còn 91 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài nguyện xá lợi rãi rác khắp nơi cho người chiêm ngưỡng.

    -oOo-

    Kế tiếp, quả địa cầu có 1 vị Phật ra đời tên là VIPASSÌ, giáng sanh tại xứ BANDHUMAVATI, cha tên BANDHUMA, mẹ tên BANDUMATÌ. Khi sanh ra mọi người đều không bịnh hoạn và lo sợ tai hại chi cả, đến khi tuổi đúng 8 ngàn năm lên làm vua có 43 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia. Lúc ra đi bằng xe giá, có đến 84 ngàn người đồng xuất gia theo ngài, hành đạo trong 8 tháng, đắc đạo dưới cây Cẩm lai, bề cao bảo tọa 25 thước, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước. Hào quang trong người Phật túa ra luôn luôn 1 do tuần xung quanh.

    Thuởû ấy Bồ-tát sanh làm Long vương NÀGA, có thần thông quảng đại biết hóa 1 căn phòng thật lớn bằng 7 thứ báu rồi thỉnh Phật và chư Tăng tới để trai tăng bố thí. Xong rồi dâng bảo tọa bằng 7 thứ ngọc báu cho Đức Phật ngài thọ ký và tiên tri cho biết rằng còn 90 đại kiếp sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật nhập Niết Bàn tại chùa SUMITTÀRAMA, xá lợi ngài không bể nhỏ ra mà dính lại thành 1 tượng Phật thật đẹp, người ta làm 1 bảo tháp cao 7 do tuần để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp để lại 8 muôn năm mới mãn.

    Khi Đức Phật VIPASSÌ nhập diệt rồi có một thời không gian là 59 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

    -oOo-

    Kế đó quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời.

    Vị thứ nhất tên là SIKHÌ giáng sanh tại xứ ARUNAVATÌ, cha tên ARUNAVATTA, mẹ tên PABHAVATÌ. Khi tuổi được 7 ngàn năm lên làm vua, có cả 24 ngàn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ ngôi vua xuất gia. Lúc ra đi bằng tượng có 7 muôn người hầu hạ theo ngài rồi xuất gia hết, hành đạo trong 8 tháng, đắc quả dưới gốc cây Xoài tượng, bảo tọa bề cao 12 thước,tuổi thọ 7 muôn năm, bề cao ngài 35 thước. Hào quang ngài luôn luôn túa ra 3 do tuần, sáng ngời rực rở, che lấp ánh mặt trời mặt trăng.

    Thuởû ấy đức Bồ-tát sanh làm vua tên là ARINDAMA, tại xứù PARIBHUTTA, khi Đức Phật ngự tới xứ ấy, đức vua hết sức trong sạch đến đãnh lễ dưới chân ngài rồi thỉnh Phật và chư Tăng ngự trong thành làm phước trai tăng trong 3 tháng. Khi đúng 3 tháng rồi dâng cà sa và các món phụ tùng nhà sư. Đức Phật thọ ký và cho biết còn 30 đại kiếp nữa sẽ thành 1 vị Phật tổ tên là GOTAMA.

    Khi đúng tuổi tho,ï ngài nhập Niết bàn tại chùa ASSÀRÀNA, người ta tạo 1 bảo tháp cao 3 do tuần để thờ xá lợi ngài, giáo pháp hưng thạnh đến 7 muôn năm.

    -oOo-

    Đức Phật thứ 2 tên VESSABHÙ giáng sanh tại xứ ANUPAMA, cha tên SUPPATITA, mẹ tên YASAVATI. Khi được 6 ngàn năm thì kên ngôi vua có 3 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ ngôi vua đi xuất gia, lúc ra đi có quan quân xe giá tùy tùng, 7 muôn người đều xuất gia theo ngài, hành đạo trong 6 tháng đắc quả dưới cây Long thọ (SALÀ) bảo tọa bề cao 20 thước.

    Có đại đức SONA là đại thinh văn bên hữu, đại đức UTARA là Thượng thinh văn bên tả, đại đức UPASANTA là đệ tử hầu cận, có tỳ khưu ni tên RAMÀ và SAMÀLÀ là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ, có ông SOTTIKA và RAMBHA là đại thiện nam và cô GOTAMÌ và SIRIMÀ là đại tín nữ.

    Thuở ấy đức Bồ-tát của chúng ta sanh làm vua tại sứ SARABHAVATI, ngài tên là SUDASSANA, khi Đức Phật ngự tới xứ ấy, đức vua vào đãnh lễ ngài và nghe pháp, khi nghe pháp xong phát tâm trong sạch thỉnh Phật và Chư tăng làm phước trai tăng xong, cất 1 tịnh thất bằng cây trầm hương dâng Đức Phật rồi xin xuất gia hành đạo theo Phật. Ngài rất sốt sắng hành cả 13 pháp đầu đà, rất vui thích trong sự học hỏi Tam tạng, Đức Phật bèn thọ ký tiên tri cho biết rằng, còn 30 đại kiếp nữa sẽ thành Phật tổ GOTAMA.

    Khi đúng tuổi thọ 6 muôn năm, ngài nhập Niết bàn tại chùa KHEMÀRÀMA, xá lợi ngài bể nhỏ và chia rãi rác khắp nơi cho người chiêm bái.

    Sau khi Đức Phật VESSABHÙ nhập diệt rồi có 1 thời không gian 29 đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời dạy đạo cả.

    -oOo-

    Cho tới quả địa cầu chúng ta đương ở hiện tại đây, có 5 vị Phật tổ giáng sanh (3 vị quá khứ, 1 vị hiện tại và 1 vị lai). Ba vị quá khứ là KAKUSANDHA, KONÀGAMANA và KASSAPA. Vị hiện tại là GOTAMA. Vị tương lai là METTEYYA (Di Lặc).

    Đức Phật KAKUSANDHA giáng sanh tại xứ KHEMAVATI, cha tên AGGIDATTA dòng bà-la-môn, làm thái sư cho đức vua KHEMANKARA, mẹ tên VISÀKHA. Khi tuổi được 4 muôn năm ngài hưởng cả gia tài của cha là bà-la-môn, làm quan thái sư cho đức vua mà có quyền hành hơn vua, vì làm thầy dạy dỗ vua. Lúc còn là Bồ-tát có 3 muôn mỹ nữ luôn luôn hầu hạ, và 4 muôn người trai trẻ tùy tùng. Khi ngài thấy 4 điềm rồi phát tâm chán nản đi xuất gia, có 4 muôn người tùy tùng đưa người đi xuất gia theo ngài, hàng đạo trong 8 tháng, khi thọ cơm sữa dê của cô VAJIRINDHA, đi đến gốc cây Sung (Sirisa), lãnh 8 bó tranh của SUBHADDA, rồi trãi dưới gốc cây đắc quả, bảo tọa bề cao 17 thước. Ngài hành đạo nơi ấy tuổi thọ 4 muôn năm, bề cao ngài 20 thước, hào quang ngài luôn luôn tủa ra chung quanh ngài 10 do tuần.

    Bồ-tát lúc ấy sanh làm vua tên KHEMA, trong sạch làm phước trai tăng tới Đức Phật và Chư tăng, lại yêu cầu hộ độ 4 món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men, thật lâu, mãi sau lại bỏ ngôi xuất gia theo Phật, thọ trì tam học rất siêng năng hành đạo. Đức Phật bèn thọ ký và tiên tri cho biết rằng: thầy Tỳ Khưu này sẽ thành 1 vị Phật tổ thứ 4 tên là GOTAMA trong quả địa cầu này vậy.

    Đức Phật KAKUSANDHA có 2 vị đại đức là VIDHURA và SANJIVA là Thượng thinh văn hữu tả, có hai vị tỳ khưu ni tên là SÀMÀvà CAMPAKÀ là hữu và tả Thượng thinh văn phái nữ. Có đại đức BUDDHIJA là đệ tử hầu cận Phật, có 2 đại thiện nam là ACCUTA và SUMANA, có 2 đại tín nữ là NANDÀ và SUNANDÀ.

    Khi đúng tuổi thọ, Đức Phật nhập Niết bàn tại chùa KHEMÀRÀMA. Người ta làm 1 bảo tháp bề cao 4 cây số để thờ xá lợi ngài. Giáo pháp ngài hưng thạnh tới 4 muôn năm mới mãn.

    Sau khi ấy tuổi thọ chúng sanh dần dần giảm bớt xuống tới 10 tuổi hoặc hơn chút ít, vì lòng hung dữ độc ác của chúng sanh, khi chán nản đến tội ác, lại quay về làm điều thiện thì tuổi thọ lần lần tăng lên đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới già chết.

    -oOo-

    Rồi lần lần hạ xuống cho tới thời gian tuổi thọ chúng sanh còn 3 muôn năm. Khi ấy Đức Phật KONAGÀMANA giáng sanh tại xứ SOBHAVÀTÌ, cha tên là YANNADATTA dòng bà-la-môn làm quan thái sư và thầy dạy dỗ đức vua SOBHAVÀTÌ, mẹ tên UTTARÀ. Khi Bồ-tát tuổi được 3 ngàn năm, thì được lãnh trọn cả gia tài của cha mẹ, có 3 tòa lâu đài và 16 ngàn mỹ nữ hầu hạ, vợ tên RUCIGATTÀ, con trai tên SATTAVÀHA. Khi Bồ-tát thấy 4 điềm rồi bỏ đi xuất gia, đi bằng tượng có 3 muôn người tùy tùng theo ngài đều xuất gia theo hết, hành đạo trong 6 tháng, đắc đạo dưới cây Sung, bảo tọa cao 10 thước, tuổi thọ 3 muôn năm, bề cao ngài 15 thước.

    Bồ-tát lúc ấy sanh làm vua tên PABBATA tại xứ MITHILÀ. Khi nghe Đức Phật đã ra đời bèn đến nơi đãnh lễ thỉnh Đức Phật và Chư tăng trai tăng bố thí trong 7 ngày và thỉnh Phật nhập hạ 3 tháng. Ngài hết lòng hộ độ 4 món vật dụng đến khi ra hạ làm lễ dâng casa cho Phật và Chư tăng. Đức Phật bèn thọ ký và tiên tri cho biết rằng, còn cách 1 vị Phật tổ cũng trong kiếp này thì người cũng thành 1 vị Phật tổ tên GOTAMA.

    Đức Phật KONÀGAMANA có 2 vị đại đức tên BHIYYOSA và UTTARÀ là Thượng thinh văn tả hữu, có hai vị tỳ khưu ni tên SAMUDDÀ và UTTARÀ là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ. Có đại đức SOTTHIJÀ là đệ tử hầu cận Đức Phật. Có 2 đại thiện nam là UGGA và SOMMADEVA, có 2 đại tín nữ là SIVALÀ và SÀMÀ, là người hộ trì Phật Pháp.

    Khi đúng tuổi thọ 3 muôn năm ngài nhập Niết bàn tại chùa DHAMMA SABHÀRÀMA, xá lợi ngài nguyện cho bể nhỏ ra và bay khắp nơi cho mọi người chiêm bái.

    -oOo-

    Sau khi ấy tuổi thọ chúng sanh lần giảm xuống còn 10 tuổi hoặc hơn, rồi lần lần trở lên cho tới tuổi 1 A-tăng-kỳ rồi hạ xuống lần lần tới thời đại chúng sanh tuổi thọ được 2 muôn năm thì Đức Phật KASSAPA giáng sanh tại xứ BÀRÀNASÌ, cha tên là BRAHMADATTA, dòng bà-la-môn làm quan thái sư và thầy chỉ dạy đức vua. Khi Bồ-tát tuổi được 2 ngàn năm thì gia tài cha mẹ, 3 tòa lâu đài, có cả 48 ngàn mỹ nữ hầu hạ. Khi dạo vườn thấy 4 điềm chán nản xuất gia. Lúc ấy cả đền đài ngài đang ở, bay tới gốc cây da hạ xuống. Ngài bèn xuất gia nơi ấy, có cả 10 triệu người đồng xuất gia theo ngài hành đạo trong 7 ngày, thành đạo dưới gốc cây Da, bảo tọa bề cao 25 thước, tuổi thọ ngài 2 muôn năm, bề cao ngài 10 thước.

    Ngài có 2 đại đức tên TISSA và BHÀRADVÀJA là Thượng thinh văn tả hữu, và 2 vị tỳ khưu ni tên ANULÀ và URUVELÀ là Thượng thinh văn tả hữu bên phái nữ. Có đại đức SABBÀMITTA là đệ tử hầu cận Đức Phật, có 2 đại thiện nam hộ độ ngài là SUMANGALA và GHÀTIKARÀ, có 2 đại tín nữ là VIJITASENÀ và cô BHADDÀ hộ độ ngài.

    Lúc ấy Bồ-tát sanh làm JOTIPÀLA thông suốt ba bộ kinh Phệ đà. Khi vào nghe pháp trong sạch, xin xuất gia tỳ khưu, rất siêng năng thọ trì tam học và thuộc nằm lòng Tam tạng. Đức Phật thọ ký và tiên tri cho biết rằng, người sẽ thành 1 vị Phật tổ kế Như Lai tên là GOTAMA vậy.

    Khi đúng tuổi thọ Đức Phật KASSAPA nhập Niết bàn tại vườn SETAPYA, người ta làm 1 bảo tháp thờ xá lợi ngài cho người chiêm bái, đến khi mãn thời kỳ Phật pháp là 2 muôn năm.

    -oOo-

    ĐỨC PHẬT TỔ GOTAMA

    Rồi đức Thích Ca Mâu Ni liền thuyết pháp cho đại đức Xá Lợi Phất nghe rằng: "Tất cả 28 vị Phật tổ đã qua Như Lai đều gặp Phật cả, nhưng chỉ có được 25 vị là từ Đức Phật Nhiên Đăng (DIPANKARA) thọ ký cho đến Đức Phật Ca Diếp (KASSAPA) là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, Như Lai đã thực hành theo 10 điều Ba-la-mật (PARÀMI) đã tròn đủ. Khi kiếp chót sanh lên cung trời Đâu Suất (TUSITA), chư thiên 10 ngàn thế giới tới thỉnh Như Lai giánh sanh để độ đời, Như Lai nhận lời bèn coi có đủ 5 điều mà chư Phật quá khứ và vị lai cũng đều xem xét y nhau cả rồi mới giáng sanh. 5 điều ấy là:

    1) Ngài xem coi xứ sẽ giáng sanh, không ngoài xứ Trung Ấn Độ.

    2) Ngài xem coi châu nào sẽ giáng sanh, không ngoài Nam thiện bộ châu. (JAMPÙDIPA).

    3) Ngài xem coi dòng nào ngài sẽ giáng sanh, không ngoài 2 dòng bà-la-môn và vua.

    4) Ngài xem coi tuổi thọ chúng sanh: là không quá 10 muôn, không dưới 100 tuổi, nếu chúng sanh tuổi sống dai hơn 10 muôn thì không thấy cái khổ già đau chết, còn dưới 100 tuổi thì nhiều ái dục phiền não lắm khó mà độ được.

    5) Coi tuổi Phật mẫu, khi sanh ngài ra rồi, trong 7 ngày phải thăng hà, về hưởng phước báu trên cung trời, vì 1 vị Phật mẫu khi sanh Bồ-tát ra rồi thì không ai được làm lem lấm tình dục nữa.

    Các vị Bồ-tát xem đủ điều trọn vẹn rồi mới giáng sanh. Khi Bồ-tát hứa với Chư Thiên rồi bèn giáng sanh xuống xứ KAPILAVATTHU trung Aán Độ (hiện nay tại xứ Nepal), tên là Sĩ Đạt Ta (SIDHATTHA), cha tên SUDHODANA, mẹ tên MAHÀ MAYÀ. Lúc ngài giáng sanh, thì có 7 điềm khác cũng sanh ra 1 lượt với ngài là

    1. Đại đức ANANDA
    2. Cô YASODHARÀ là vợ ngài
    3. CHANDRA, người giữ ngựa.
    4. KÀLUDÀYI, quan hầu
    5. Ngựa KANTHAKA
    6. Cây Bồ Đề.
    7. Những hầm của 7 báu.

    Khi sanh ra đúng ngày rằm tháng tư, ngài đi 7 bước, tay chỉ thiên, tay chỉ địa và nói:

    --"Trên trời dước đất chỉ có mình ta là cao thượng đáng tôn kính, kiếp này là kiếp chót của ta vậy".

    Khi lớn lên, vua cha làm 3 tòa lầu, có 4 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Đúng 16 tuổi thì cưới công chúa Da du đà la (YASODHARÀ) và được nhường ngôi vua cho. Ngài hưởng ngôi vua 13 năm, đúng 29 tuổi thì hoàng hậu trổ sanh thái tử tên Ra hầu la (RAHULA). Khi ngài đi dạo ngoài vườn thành thấy 4 điềm là: người già, người bịnh, người chết và 1 thầy tu, chán nản bỏ ngôi vua đi xuất gia. Lúc đi ra cởi ngựa,hành đạo trong 6 năm khổ hạnh còn da bọc xương.

    Một hôm ngài nghĩ rằng, con đường khổ hạnh không thể nào đắc quả được, ngài bèn bỏ con đường ấy mà thực hành theo con đường trung đạo, đến ngày rằm tháng tư, ngài thọ cơm trộn sửa dê của cô SUJÀTÀ, rồi thành đạo dưới cây Bồ Đề. Canh đầu ngài đắc Túc mạng minh, biết rõ tiền kiếp của mình và chúng sanh. Canh giữa ngài đắc Thiên nhãn minh, thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh tùy theo duyên nghiệp lôi cuốn mãi mãi. Canh chót ngài đắc Lậu tận minh, là thấy rõ các pháp trầm luân (Àsava) và diệt tận cả ái dục phiền não. Đúng hừng sáng thì ngài hoàn toàn thành 1 bực Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Ngài hưởng đạo quả Niết bàn 49 ngày. Rồi trời Phạm thiên xuống thỉnh ngài đi thuyết pháp độ đời. Ngài nhậm lời bèn đi đến vườn lộc giả ISIPATANA MIGGADÀYAVANA chuyển pháp luân đầu tiên độ 5 thầy Kiều trần như, và 180 chư thiên và Phạm thiên, đều đắc đạo quả . Pháp Ngài thuyết là phải lánh xa 2 con đường là khổ hạnh và lợi dưỡng, là phải thực hành theo con đường bát chánh là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, và thấy rõ cái khổ, thấy rõ ái dục là nguyên nhân phát sanh cái khổ, thấy rõ Niết bàn là nơi diệt khổ, thấy rõ bát chánh đạo thực hành theo để diệt khổ.

    Trong 45 năm trường vẫn thuyết pháp độ đời, tuổi thọ ngài chẳn đúng 80, ngày rằm tháng tư mới nhập Niết bàn tại xứ KUSINÀRÀ dưới bóng 2 cây Song long thọ (SÀLA). Bề cao ngài 6 thước, tuổi thọ chẳn 80, bảo tọa bề cao 20 thước, hào quang túa lối 1 sải. Có 2 vị đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là Thượng thinh văn tả hữu, có đại đức ANADA là đệ tử hầu cận, có 2 vịâ tỳ khưu ni là KHEMÀ và UPPAVANNA là Thượng thinh văn tả hữu về phái nữ, có 2 ông CITTAKA và HATTHALAVAKA là đại thiện nam, có 2 cô NANDÀMADA và UTTARÀ là đại tín nữ.

    Sau khi ngài nhập diệt xá lợi ngài chia ra tám phần cho người tại bảo tháp để thờ, giáo pháp ngài còn hưng thạnh đến 5 ngàn năm mới mãn.

    -ooOoo-

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  2. #2

    Lightbulb

    [03]

    CHƯ PHẬT VỊ LAI CÓ MƯỜI VỊ

    Nguyên nhân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về 10 vị Phật tổ giáng sanh trong ngày vị lai là: một hôm bà GOTAMI là dưỡng mẫu của Đức Phật, chính là em ruột của hoàng hậu MAHÀ MAYÀ, tự tay bà quay chỉ dệt, may và nhuộm lấy 2 tấm y cà sa thật quý định đem dâng cho Đức Phật. Ngài chỉ lãnh lấy 1 lá y, còn 1 lá y ngài bèn bảo đem dâng cho Chư tăng, bà đem dâng từ vị đại đức cho tới chót không ai dám nhận vì nghĩ rằng: nếu không ai dám lãnh thì bà sẽ đem dâng lại cho Đức Phật, khi tới sau cùng có 1 vị tỳ khưu mới tu, ông thọ lãnh tấm y và tính đem dâng lại cho Đức Phật, các vị còn phàm có ý khi dễ vì cho rằng người không đức tin thì và không tôn kính.

    Bà GOTAMÌ có ý buồn vì dâng cho vị mới tu, sợï mình ít phước. Đức Phật hiểu ý bèn giảng giải rằng: "Ai có lòng trong sạch dâng cúng đến chư Tăng thập phương thì sẽ được nhiều phước báu hơn dâng đến Như Lai".

    Khi xong lễ, vị tỳ khưu ấy tên là ÀSAJJÌ bèn đem tấm y ấy vào nơi Phật ngự mà dâng cho ngài, và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ trong ngày vị lai. Đức Phật cười chúm chiếm, lúc ấy 2 cái răng nhọc túa haò quang thấu đến cung trời Phạm thiên, 2 cái ở hàm trên thấu xuống tới cõi địa ngục A tỳ. Đại đức ANANDA thấy vậy bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: "Có điều chi lạ mà Đức Thế Tôn cười rõ rệt?" (vì chư Phật không bao giờ cười mà không có nguyên nhân), Phật bèn đáp rằng: - Này ANANDA. tỳ khưu ASAJJÌ đây sau này sẽ thành 1 vị Chánh Đẳng chánh giác kế vị Như Lai tên là Di Lặc Phật (METTAYYA). Đức Phật chỉ nói tóm tắt có bao nhiêu rồi vào tịnh thất yên nghỉ.

    Lúc ấy chư Tăng đang tụ hội tại giảng đường bàn bàn luận luận với nhau, không biết chư Phật tổ vị lai oai lực và giáo pháp như thế nào. Những lời bàn luận ấy lọt vào nhĩ thông Đức Phật, ngài bèn ra ngự nơi giảng đường, lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất bèn quỳ xuống bạch Phật rằng: xin ngài mở lòng bác ái giảng giải cho biết oai lực và giáo pháp của Phật vị lai. Nhân đó mà Đức Phật mới giảng giải về 10 vị Phật vị lai.

    -oOo-

    Đức Phật bèn giảng rằng: Này Xá Lợi Phất, sau khi Như Lai nhập diệt rồi thì có 5 điều tiêu hoại là:

    1 - ADHIGAMA ANTARADHÀNA: là tiêu hoại đạo quả. Đúng 1 ngàn năm sau khi Như Lai nhập diệt thì không còn có ai đắc đạo quả A-la-hán, luôn cả lục thông và huệ phân tích thuộc nằm lòng Tam tạng nữa.

    2 - PARIYATTI ANTARADHÀNA: là tiêu hoại về pháp học, là khi đúng 2 ngàn năm không có ai thuộc nằm lòng Tam tạng và mất lần lần và bắt đầu mất tạng Luận, Kinh rồi mới tới Luật (vì Luật mà mất thì đạo cũng không còn, vì Luật là nền tảng của Phật giáo - VINAYO SÀSANAMULAM). Thật vậy, hiện nay ít có ai chú trọng mà học cho nằm lòng tạng Luận vì khó nhớ và lý luận sâu xa lắm.

    3 - PÀTIPATTI ANTARADHÀNA: mất pháp hành, vì khi đúng 3 ngàn năm thì ít ai mến pháp hành, vì thực hành theo là 1 điều khó, mà thật vậy, hiện nay Phật pháp mới qua gần 2498 năm mà rất ít nhà sư ưa mến sự hành đạo giải thoát.

    4 - LINGA ANTARADHÀNA: mất tăng tướng, khi đúng 4 ngàn năm thì chư Tăng lúc bấy giờ như người thế, vì hội nhau lại bàn rằng, mặc y xùng xình khó bề làm công việc rồi đồng lòng bỏ y cà-sa, chỉ mặc quần áo như kẻ thế mà lấy một miếng vải vàng (ca-sa) cột vào cổ tay hoặc vắt trên vai, hoặc dắt mép tai cho biết người tu thôi, vì bận việc làm ruộng rẫy bán buôn như người thế tục. Trong lúc ấy có ít người tu đi hóa trai (trì bình khuất thực), chỉ lấy hai cái quảo (thúng nhỏ lớn hơn cái ô) thoa dầu chai, đề lên 2 cái giống, quảy đi khuất thực như người gánh đồ đi bán (Tam tạng, quyển 28 trang 226).

    5 - DHÀTU ANTARADHÀNA: là tiêu hoại xá lợi, hiện nay xá lợi rãi rác khắp nơi cho chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi đúng 5 ngàn năm thì tất cả những xá lợi ấy bay về đóng thành khối, hoá thành 1 vị Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng (BUDDHAGAYA) tại Trung Ấn Độ, thuyết pháp độ chúng sanh đắc thành đạo quả vô số kể trong 7 ngày rồi lửa tự nhiên trong kim thân phát cháy tiêu Xá lợi. Kể từ ấy, giáo pháp ngài hoàn toàn tiêu diệt.

    Sau khi mãn thời kỳ Phật pháp rồi, tâm chúng sanh không phân biệt tội phước chi cả, lần lần hung dữ độc ác, tuổi thọ lại giảm lần lần xuống cho đến khi 10 tuổi hoặc ít hơn chút ít. Như hiện nay ai biết lo tu hành, đức hạnh hiền từ, thì người ta khen ngợi, trái lại lúc ấy chúng sanh ai hung dữ độc ác, bất lương thì người lại khen (mà ác thì dễ làm hơn thiện) nên con người càng ngày càng hung dữ, nhìn nhau như các loài thú dữ muốn cắn nhiều xé ăn thịt nhau. Lúc ấy sanh lên một trận tàn sát lẩn nhau (SATTHANTARA KAPPA - Tam tạng quyển 18, chư Thiên, trang 148), thây chết đầy đặc trên quả địa cầu, chỉ còn lại ít người lương thiện không ưa thích sự sát hại, chạy trốn vào rừng sâu núi thẩm, khi yên trận tàn sát ấy rồi, ra ngoài gặp ai còn sót lại, cũng đồng xin đừng sát hại lẫn nhau nữa (đã giữ được 1 giới sát sanh) nên con những người ấy tuổi lên được 20 hoặc 25 tuổi, rồi lại hứa không lấy của ai (lại giữ giới không trộm cắp) những người con cháu lại thêm tuổi lên đến 50 năm, cứ thế mãi lần lần giữ cả ngũ giới là không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói láo, uống rượu thì tuổi thọ của những con cháu sau sau ngày càng càng thêm lên mãi cho đến tuổi 1 A-tăng-kỳ năm mới chết.

    Sống mãi không chết cũng chán, mới có 1 hạng người nói rằng mình làm theo ông bà hoài nên không thấy ai chết hết, lại bắt đầu sát sanh nên con cháu lại hạ xuống còn nữa A-tăng-kỳ rồi lần lần bỏ bớt giới hạnh thì tuổi lại càng hạ xuống mãi mãi cho đến khi chúng sanh tuổi còn 10 muôn năm.

    Lúc ấy Đức Phật Di Lặc mới giáng sanh dạy đạo. Ngài giáng sanh tại xứ KETU METTÌ, cha tên SUBRAMA, mẹ tên BHRAMAVATÌ, lúc ở thế có 30 muôn cung phi mỹ nữ hầu hạ. Khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, lúc xuất gia thì bay cả lâu đài có vô số vua, chư hầu và quan quân đồng xuất gia theo ngài hành đạo, trong 7 ngày thì đắc quả dưới cây Mù u, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 44 thước. Ngài dòng Bà-la-môn, hào quang ở nơi ngực, hai bàn tay và đầu gối ngài sáng ra cả ngày và đêm thấu đến 10 thế giới sa bà, người ta không thể phân biệt ngày đêm vì hào quang che lắp cả mặt trời và mặt trăng, người ta chỉ thấy bông nở hoặc tàn, hoặc là nghe tiếng gà gáy mà phân biệt ngày đêm luôn luôn cho đến khi ngài nhập diệt. Ngài đã thực hành tu 10 pháp Ba-la-mật 16 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.

    Này Xá Lợi Phất, Như Lai chỉ kể về 1 pháp Ba-la-mật của Ngài là: có 1 kiếp sanh làm Chuyển luân vương tên SANGHA CAKKA. Bồ-tát có 7 báu trị vì thiên hạ 101 nước chư hầu trên thế giới, khi hay tin một vị sa di cho hay rằng có Đức Phật, Pháp, Tăng đã ra đời, Ngài vui mừng đến ngất người ba lần, sau lại bố thí ngôi báu, cho ông sa di ấy, bèn đi chân không đến nơi Phật ngự, đi một ngày đầu lỡ cả hai chân, máu chảy ròng ròng đi không được nữa, qua ngày sau ngài bò bằng hai tay và hai đầu gối, được 1 ngày cũng chảy máu cả, qua ngày sau ngài bò không được bèn trường đi bằng ngực, lả ngực máu chảy ròng ròng, không thể trường được nữa, nhưng chưa gặp Đức Phật, chỉ mới nữa đường.

    Lúc ấy Đức Phật SIRIMATTI biết được bèn hóa ra người đánh xe chạy tới bảo tránh, Bồ-tát nói tôi không thể nào tránh được vì mình mẩy lở hết. Đức Phật bèn hỏi người đi đâu. Bồ-tát nói tôi muốn đi gặp Phật. Đức Phật nói: thôi để tôi đưa dùm cho. Rồi ngài xuống xe bồng Bồ-tát để lên xe giả. Đánh xe 1 chút thì nói đây tới cửa chùa, mời ông xuống, lúc ấy có vị trời Đế Thích biết được bèn mang 1 gói cơm và 1 bầu nước tới cho, phần thì bịnh và đói nên lảnh cơm nước, khi thọ thực xong thì tất cả vết thương đều lành lại hết và khỏe mạnh lại như thường. Bèn vào yết kiến Phật nhằm lúc đang thuyết pháp người ta hằng vạn vạn, nhưng êm như tờ. Bồ-tát vào đãnh lễ xong xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe, khi nghe được một câu kệ lại bạch Phật xin ngừng để ngài bố thí pháp. Ngài bèn lấy móng tay nguyện bén như gươm rồi cắt lấy đầu mình để trên hai bàn tay mà cúng dường cho Pháp bảo, sau khi Phật thuyết xong thì ngã xuống chân ngài mà chết. Nầy Xá lợi phất, vì Bồ-tát không kể đến thân mình bò trường đến lở hết, nên khi thành chánh quả có hào quang túa ra nơi ngực, hai bàn tay và hai đầu gối luôn luôn thấu đến 10 ngàn thế giới và không tiếc mạng sống, dám bố thí cho pháp bảo nên khi thành chánh quả tuổi thọ đến 8 muôn năm.

    Sau khi Đức Phật Di Lạc nhập diệt rồi thì tuổi thọ chúng sanh càng ngày càng giảm xuống cho tới khi tuổi chỉ còn 10 năm là già rồi, lần lần không còn chúng sanh nào sanh lên quả địa cầu cả. Trước khi 100.000 năm tới kiếp hoại thì chư thiên bay trên không trung kêu la báo tin cho biết còn mấy năm nữa thì sẽ tiêu hoại quả địa cầu. Khi ấy chúng sanh sợ sệt chán nản, ai ai cũng ráng lo tu hành lần lần sanh về cõi trời dục giới, chư thiên ở cõi trời nầy cũng hải hùng kinh khủng quả địa cầu cháy thì cũng cháy luôn cả 6 từng trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới là: PÀRISAJJÀ và POROHITTA nữa, nên kinh sợ rồi ráng tham thiền cho đắc các cõi thiền bực trên, cho đến khi sanh về hết trên cõi trời sắc giới. Khi quả địa cầu không còn ai ở nữa thì mặt trời lần lần mọc lên 2 mặt trời, 1 thời gian thật lâu, lại mọc lên 3, 4, 5, 6, 7 mặt trời thì lúc ấy bấy giờ nước biển khô khan không còn 1 giọt. Chừng ấy, lửa phát lên cháy cả quả địa cầu rồi tiêu hoại và cháy luôn cả 6 cung trời dục giới và 2 cõi trời sắc giới từng dưới chót. Kể từ đó chỉ còn khí hư u minh cho đến khi cấu tạo quả địa cầi mới khác. Từ đó 1 thời không gian là A-tăng-kỳ kiếp không có vị Phật tổ nào ra đời dạy đạo cả.

    -oOo-

    Kế sau đó có quả địa cầu có 2 vị Phật tổ giáng sanh là: RÀMADEVA và DHAMMARÀJÀMUNI.

    Vị thứ nhất tên RÀMADEVA khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới gốc cây thị, tuổi thọ 9 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang túa ra sáng khắp cả thế giới luôn luôn ngày đêm chớp nháng tới lui trên hư không chẳng ngừng nghỉ. Do nhờ pháp Bà-la-môn có cây Như ý thọ (Kàlabriksa) mọc lên rất nhiều để cho chúng sanh cần dùng. Cây như ý thọ này có mãnh lực phi thườøng, là bất cứ ai muốn điều chi, như y phục, vật thực, đồ trang điểm chi chi... lại tới cây ấy ước thì sẽ được theo như ý muốn. Đây là nhờ pháp nguyện lực Ba-la-mật của Đức Phật. Cho nên, chúng sanh lúc ấy khỏi cực nhọc nên ai ai cũng đều tu hành, vì chúng sanh nào sanh ra kịp Phật thì ngài độ tận chúng sanh, ít lắm cũng được sanh về cõi trời hết thảy.

    Nói về 1 pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp sanh ra tên là NÀRADA gặp Đức Phật KASSAPA (Ca diếp) ra đời, vào nghe pháp thấy hào quang trong mình Đức Phật phóng ra sáng ngời rực rở bèn phát tâm trong sạch bố thí mạng sống mình, cúng dường cho Phật và nguyện cho thành 1 vị chánh giác có nhiều hào quang như ngài. Nguyện xong liền lấy miếng vải nhúng dầu quấn vào mình đốt lên cúng dường cho Đức Phật. Khi lửa cháy lên thì mùi bay lên thơm bát ngát. Khi cháy xong chổ ấy mọc lên 1 bông sen bằng ngọc, mọi người đều cho là ông NÀRADA sẽ thành một vị Phật tổ như ý nguyện.

    -oOo-

    Kế sau đó, Đức Phật DHAMMARÀJÀ-MUNI (chính là đức vua Ba tư nặc, PASEMANDI KOSALA) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn năm, bề cao ngài 8 thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe mọc lên đở bàn chân ngài, khi ngồi thì có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc lên làm bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà có cây Như ý thọ mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ thực phẩm và đồ trang sức.

    Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp ngài sanh làm người nghèo khổ lắm, tên là SUDDHÀ MÀNAVA, ở mướn coi giữ ao sen cho người. Họ cho phép mỗi bữa chỉ được hái 2 bông sen đổi gạo mà chỉ độ thôi. Một hôm đang đem 2 bông sen đi bán gặp Đức Phật KONÀGAMANA, Đức Phật thấy bèn chúm chiếm cười. Y liền bạch Phật tại sao ngài cười. Phật đáp: Người là em ta, vì ta đã thành Chánh giác, còn người sẽ thành Chánh giác trong ngày vị lai vậy. Nghe xong hết sức vui mừng, tính nhịp đói bữa đó để đem 2 bông sen dâng cho Phật và nguyện cho thành Chánh giác như ngài. Đức Phật thọ lấy bông sen và trãi ra ngồi lên trên. Thấy nắng lắm ngài bèn nguyện cho đừng nắng Đức Phật . Liền khi ấy có 4 cây mọc lên và 2 khổ vãi kết thành một tấm trần che Đức Phật cho khỏi nắng. Đức Phật bèn cầu chúc và thọ ký cho. Khi ấy tất cả chư thiên và phạm thiên nghe Đức Phật cầu chúc thì đều đồng nhau hoan hô và cầu chúc theo, tiếng nghe rền vang inh ỏi cả trời. Do sự hy sinh nhịn đói ấy nên khi thành chánh quả có cây như ý thọ mọc lên có đủ vật thực cho chúng sanh dùng và bố thí bông sen cho Phật, nên sau thành chánh quả, đi mỗi bước đều có bông sen mọc lên đở bàn chân ngài.

    -oOo-

    Kế tiếp, quả địa cầu sau có 1 vị Phật tổ ra đời tên là DHAMMASÀMI (chính là Ma vương thành Phật vậy) khi còn Bồ-tát thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây long thọ (SALA) tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật luôn luôn phóng ra sáng ngời như mặt trời mặt trăng, luôn luôn chớp nhoáng tới lui không ngớt. Do nhờ pháp Ba-la-mật, khi Đức Phật đi, đứng nằm ngồi đều có cây lọng bề cao 16 do tuần che ngài luôn, và có hầm vàng hầm bạc mọc lên để cho chúng sanh cần dùng.

    Nói về một pháp Ba-la-mật: khi ấy tiền kiếp ngài sanh lên tên là BODHINÀMA làm quan đại thần. Một hôm Đức Phật Ca Diếp (KASSAPA) nhập đại định, đức vua trong xứ ấy hay bèn cho quan quân canh giữ không cho ai được phép làm phước tới Đức Phật khi ngài xả định, nếu ai phi phép thì bị xử trảm. Lúc ấy vị đại thần BODHINÀMA bèn biểu vợ con sửa soạn thực phẩm và 1 lá y định đem dâng cho Đức Phật. Sáng ra ông đem vật thực và lá y tới trước chùa thấy quân lính bao vây dày đặc, thấy ông đem đồ lại thì hỏi ông thì ông nói thật rằng đem đồ dâng cho Phật, quân lính liền bắt ông đem về cho vua, vua truyền lịnh xử trảm. Lúc ấy Đức Phật vừa xả định biết được liền phóng hòa quang ra cho vị ấy thấy ngài ở trước mặt, ông rất mừng và đem vật thực và lá y dâng cho Phật, Đức Phật có vỗ đầu ông và nói xin cho nhà ngươi vô hại, rồi ngài thọ thực. Vị quan ấy dâng xong nguyện cho thành được 1 bậc chánh giác trong thời vị lai. Đức Phật thọ ký cho vừa xong thì quân lính đem ông ra xử trảm. Lúc chém ông thì mặt đất rung rinh làm cho đền đài nhà vua đều sụp đổ. Vua sợ hải bèn truyền lệnh cho đóng mấy cửa thành. Lúc ấy chỗ chém Bồ-tát liền mọc lên một tòa lâu đài bằng 7 thứ ngọc có 1 ngàn tiên nữ chầu chực và 16 hầm vàng bạc mọc lên 4 góc thành và cây Như ý thọ cũng mọc lên do oai lực phước báu của Bồ-tát. Còn vị quan ấy thì sống lại như thường, tuổi được 5 trăm, có cả vợ con và quan quân hầu hạ. Do phước báu liều mạng sống dâng cơm cho Phật, khi sanh ra kiếp nào cũng có thứ lúa sali mọc lên hằng hà sa số cho bá tánh gặt, cần dùng bao nhiêu cũng không hết.

    -oOo-

    Sau khi ấy, có 1 quả địa cầu có 2 vị Phật tổ ra đời. Vị thứ nhất tênlà NÀRADA (chính là RAHULA ASURIN là chúa của bọn ATULA thành Phật). Khi ấy thấy 4 điềm rồi chán nản bỏ nhà xuất gia, đắc đạo dưới cây trầm hương, bề cao ngài 60 thước. Hào quang phóng ra luôn luôn như chớp nháng, có thứ hào quang hình như bông sen sáng ngời phóng ra quanh quẩn luôn chung quanh Đức Phật. Do phước Ba-la-mật của Đức Phật mà mặt địa cầu trở thành thực phẩm, có 7 vị ngọt ngon chúng sanh móc lấy mặt đất mà dùng như vật thực.

    Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh ra làm vua tên SIRIGUTTA có 8 vị Bà-la-môn tới nghe về pháp nguyện thành một Bà-la-môn cho vua nghe, rồi xin ngài cho ngôi vua, đức Bồ-tát cho hết rồi dẫn vợ và 2 con đem ở trên núi và thọ trì 6 giới theo các đạo sĩ và ẩn tu nơi ấy. Lúc ấy, có 1 con Dạï xoa bề cao 60 thước, tới trước mặt Bồ-tát xin 2 đức con để về ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đức con và nói tôi đã ăn 7 con tượng, 14 con ngựa, 20 con thú rừng mà còn đói lắm xin ngài tội nghiệp cho 2 đứa con để ăn thịt. Bồ-tát liền cho 2 đứa con cho chằng rồi nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Lúc ấy mặt địa cầu rung rinh, rúng động, tất cả chư thiên và phạm thiên đều vỗ tay hoan nghênh sự toàn thắng của Bồ-tát, tiếng nghe vang rền cả trời, lại giông mưa sấm chớp gầm thét nghe inh ỏi. Vừa lúc con Dạï xoa đem 2 đức con ra sau sala ngài mà ăn tươi nuốt sống, vừa cho Bồ-tát ngó thấy, nhưng ngài không buồn giận, lại vui thích với phước báu ngài đã làm (lời soạn giả, chúng ta phần đông đều nói từ bi, tội nghiệp mà chỉ từ bi với vợ con mình thôi, còn vợ con người có điều chi khổ sở, mình chỉ lấy con mắt ngó mà cười, chớ không tội nghiệp. Đừng nói chi tới bố thí vợ con cho người, mà dầu có ai rũ đi xuất gia tu hành, thì nói tôi vì lòng từ bi, tội nghiệp vợ con bỏ đi không đành, nói nghe cho cao thượng, chớ không lẽ nói mình vì quyết luyến hoặc vì ái tình mà dứt bỏ đi không được thì sợ thẹn. Còn trái lại các vị Bồ-tát ngài không vì từ bi, tội nghiệp vợ con mình, mà lại từ bi thương xót tất cả chúng sanh hơn là thương mình và vợ con mình. Vì thấy cái khổ chúng sanh chịu không được rồi không nghĩ tới mình hoặc vợ con mình mới dứt bỏ mà bố thí được).

    -oOo-

    Kế sau đó Đức Phật RANGSI MUNI (chính là SONABRÀHMA), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây sơn, tuổi thọ 5 ngàn năm, bề cao ngài 30 thước. Hào quang trong mình Phật phóng ra luôn luôn, lúc ban ngày thì màu vàng, ban đêm thì màu xanh, sáng ngời như ngọc, nhờ hào quang của Đức Phật nên chúng sanh khi ấy màu da đẹp như vàng ròng, không dơ bẩn. Nhờ pháp Ba-la-mật của Phật mà chúng sanh chỉ lấy hột bông cải trồng xuống rồi mọc lên đủ thứ vật thực phẩm và đồ vật dụng đủ thứ không thiếu món chi.

    Nói về một pháp Ba-la-mật của ngài: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm người lái buôn tên MÀGHA MÀNAVA rất thông thạo về nghề buôn bán một lời mười, nhưng 4 lần bị tai hại là bị chìm thuyền, nhà cháy, cướp giựt, sau lại bị nhà vua tịch thâu gia sản. Bồ-tát chán nản, bỏ đi chỉ lấy được 1 lá y vàng và 10 muôn lượng vàng đem theo để làm vốn. Gặp một vị tỳ khưu Thượng thinh văn của Đức Phật KAKUSANDHA nhập đại định 7 ngày, MÀGHA MÀNAVA trong sạch đem y và của bố thí hiến cho ngài và nguyện cho thành vị Phật tổ để độ tận chúng sanh. Vị A-la-hán cầu chúc xong chổ ấy bèn mọc lên một cây như ý thọ có 1 cái đền bằng ngọc cho ông ở nơi ấy.

    -oOo-

    Kế quả địa cầu sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên DEVADEPA (chính là SUBHA BRAHMA) khi thấy 4 điềm bèn chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Cầy, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước, hào quang trong mình Phật túa ra luôn luôn màu vàng rực rở do nhờ phước Ba-la-mật của Phật mà bụi trần trên mặt đất biến thành gạo sali và cây như ý thọ mọc lên có đủ thực phẩm cho chúng sanh dùng.

    Nói về 1 pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm tượng (voi chúa) tên là CHADANTA có 6 ngà, gặc xác một vị A-la-hán nhập Niết bàn gần chổ ở, bèn nguyện cưa trên hư không rớt xuống rồi cưa ngà làm chổ để thiêu xác vị A-la-hán ấy và làm phước trong 7 ngày rồi nguyện cho thành Phật tổ, sau khi mãn kiếp ấy liền sanh về cung trời Đâu suất.

    -oOo-

    Kế sau đó Đức Phật NARASI MUNI (chính là TOTÌ BRAHMA thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, thành đạo dưới cây cẩm lai, tuổi thọ 80 năm, bề cao ngài 30 thước, hào quang trong kim thân Phật túa ra luôn ban ngày ánh sáng như ngọc mani trắng, ban đêm thì màu vàng rực rở. Do phước Ba-la-mật của ngài, có lúa sali và cây như ý thọ mọc lên để cho bá tánh cần dùng, người ta lúc ấy do hào quang của Phật mà màu da như vàng ròng. Khi Đức Phật ngự nơi nào đều có cây lọng bằng bảy thứ ngọc báu cao 3 do tuần luôn luôn ở trên hư không, che Đức Phật.

    Nói về một pháp Ba-la-mật: có 1 kiếp Bồ-tát sanh làm NANDA MÀNAVA, gặp Đức Phật độc giác bèn phát tâm trong sạch đem y cà sa đáng giá 100.000 đồng, dâng cho ngài và nguyện cho thành 1 bực chánh giác để độ tận chúng sanh.

    Sau khi Đức Phật NARASI MUNI nhập diệt rồi có 1 thời không gian là 1 A-tăng-kỳ đại kiếp không có Đức Phật nào ra đời.

    -oOo-

    Kế sau đó có 2 vị Phật tổ ra đời, vị thứ nhất tên là TISSA (chính là voi NÀLÀGIRI thành đạo), khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây da, tuổi thọ 8 muôn năm, bề cao ngài 40 thước.

    Hào quang trong mình Phật phóng ra đủ thứ, có thứ sángrực như lữa cả ngày và đêm, có thứ trắng xóa nhìn giống như chiếc thuyền, có thư như cây lọng, có thứ như cây phướn, có thứ túa ra theo 1000 lông mày của ngài, luôn luôn quay cuộn theo ngài. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ý thị mọc lên có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùng theo ý muốn.

    Nói về một pháp Ba-la-mật: Có 1 kiếp ngài sanh làm vua tên DHAMMA SENA một hôm đi dạo vườn hoa với 2 con và vợ, có hai con Dạ xoa tới xin đứa con, khi về gần tới thành có 1 ông già lụm cụm tới xin hoàng hậu. Đứùc vua cho luôn, ông than mình nghèo khổ không có chi nuôi bà, vua bèn cho cả ngôi báu cho ông già ấy. Khi tôn vương xong, đức Bồ-tát bèn xuất gia theo đạo sĩ, đắc các pháp thần thông.

    Một hôm nghe tin Phật KONÀGAMANA ra đời bèn bay tới đãnh lễ nghe pháp. Khi Đức Phật thuyết được một câu kệ thì ông xin Phật nghỉ, để ông bố thí pháp bảo, bèn lấy móng tay, nguyện cho bén như gươm cắt đầu bố thí pháp và nguyện cho thành 1 vị Phật tổ để độ chúng sanh thoát khỏi khổ, lúc ấy toàn thể địa cầu đều rung rinh lạ lùng ghê gớm.

    -oOo-

    Kế sau đó, có 1 vị Phật tổ ra đời tên là SUMANGANA (là voi tượng PÀLILÀYA thành đạo) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia dưới cây Mù u, tuổi thọ 10 muôn năm, bề cao Đức Phật 30 thước, hào quang Đức Phật phóng ra luôn luôn quanh quẩn theo ngài, ban đêm thì màu trắng ngời như bạc, ban ngày thì màu sáng ánh như vàng ròng. Do phước Ba-la-mật của ngài có nhiều cây như ý thọ mọc lên, có đủ thực phẩm và đồ trang sức cho chúng sanh dùm không thiếu món chi, người ta lúc ấy sung sướng vô cùng, nhu cảnh trời vui mừng hát múa theo những tiếng nhạc du dương khi gió cuốn đưa chạm vào lá những cây như ý thọ ấy.

    Nói về 1 pháp Ba-la-mật: khi ngài còn làm Bồ-tát, có 1 kiếp sanh làm chuyển luân vương, Bồ-tát có báu giàu sang trong 4 biển. Một hôm vua sai vị bá hộ bảo đi tìm vàng ngọc, ông đi tới một nước kia, khi hay tin Đức Phật KAKUSANDHA, đã ra đời, ông bèn vẽ hình Phật và về tâu cho vua nghe tự sự, vua hềt sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại ngài bèn nhường ngôi cho vị bá hộ ấy vì có công cho ngài hay tin Đức Phật ra đời, rồi ngài đi chân không tới 1 cây đại thọ ngồi nghỉ, rồi thành tâm đãnh lễ Đức Phật từ phương xa và nguyện 8 món đồ xuất gia bay tới cho ông. Đức Phật biết được tâm ông bèn sai 8 món phụ tùng bay đi tới chổ vua nghĩ, vua rất vui mừng và thọ lãnh xuất gia tại chổ ấy. Đoạn ông lấy mão ngọc thảy lên không trung và sai đi bạch Phật rằng: ông đã xuất gia và đi đến đãnh lễ Phật. Mão ấy bay đến nơi Phật ngự và bạnh y như lời vua sai, rồi đức vua lần vào xóm đi khuất thực xin ăn, độ xong, tham thiền và đắc thiền, rồi bay tới nơi Phật ngự. Khi tới chùa gặp Phật, hết sức vui mừng đến chết giấc 3 lần. Khi tỉnh lại xin Đức Phật thuyết pháp cho nghe được 1 câu kệ, bèn xin Đức Phật ngưng thuyết để cho ông bố thí pháp bảo, vì pháp bảo quý giá, vô giá, rồi ông lấy móng tay nguyện cho bén như gươm cắt đầu mình để lên 2 bàn tay mà bố thí pháp cho Đức Phật và nguyện xin cho đắc thành chánh quả để độ tận chúng sanh, Đức Phật thọ ký cho.

    -oOo-

    Đức Phật Thích Ca bèn giảng giải thêm cho Xá Lợi Phất rằng: - Này Xá Lợi Phất, nếu ai chưa đắc đạo quả trong giáo pháp của Như Lai thì nguyện cho đắc đạo quả trong thời kỳ của 10 vị Phật tổ sau này sẽ được y như nguyện không sai vậy.

    (Theo Chú giải, như ai tạo được phước lành là bố thí, trì giới, thì nên nguyện như vầy: IDAM VATTA ME PUNNAM ÀSAVAKKHAYO VAHAM HOTU ÀGÀGATE; nghĩa: do sự phước báu mà tôi đã làm đây xin kết được duyên để diệt tận các pháp trầm luân trong ngày vị lai. Khi đã nguyện như thế thì thế nào cũng gặp được 1 Đức Phật trong ngày vị lai chẳng sai vậy.)

    Này Xá Lợi Phất, chư Bồ-tát đã được thọ ký 10 vị còn 500 vị nữa pháp Ba-la-mật chưa tròn đủ nên chưa có Đức Phật nào thọ ký cho.

    10 HUỆ LỰC

    Tất cả chư Phật đều có 10 huệ lực như nhau, có 32 tướng lạ in nhau, có 3 ân đức và 8 cái minh (cái giác) và 15 cái hạnh in nhau hết thảy.

    10 huệ lực ấy là:

    1- THÀNÀTHÀNA NÀNA: huệ biết rõ cái nhân để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ đúng theo sự thật.

    2- VIPÀKA JÀNANA NÀNA: huệ biết rõ cái quả của chúng sanh trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều do nghiệp lành hoặc dữ mà trả quả.

    3- SABBATTHA GÀMINÌ PATIPADÀ NÀNA: huệ biết rõ tất cả các pháp hành-vi thế nào để đưa chúng sanh đến chổ vui hoặc khổ trong tam giới.

    4- NÀNÀDHÀTU JÀNANA NÀNA: huệ biết rõ tất cả nguyên chất khác nhau là: chất đất, nước, gió, lữa, hư không và chất thức v.v....

    5- NÀNÀDHIMUTTI NÀNA: huệ biết rõ tất cả chúng sanh có căn cơ thấp hèn hay cao thượng.

    6- PAROPARIYA NÀNA: huệ biết rõ biết rõ tất cả chúng sanh đều có tư cách và trình độ khác nhau.

    7- JHÀNA VIMOKKHA SAMÀPATTI NÀNA: huệ biết rõ tất cả sự trong sạch hay dơ bẩn các sắc thiền và sự giải thóat.

    8- PUBBENIVÀSÀNUSSATI NÀNA: huệ biết rõ tất cả những tiền kiếp của mình và của chúng sanh tới vô lượng vô biên kiếp, khi sanh ra dòng giống thế nào, tên họ chi, hình dáng ra sao, vui khổ thế nào đều biết rõ không sai v.v...

    9- CUTÙPAPÀTANNÀNA: có huệ nhãn biết rõ tất cả sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do theo duyên nguyện lành dữ cấu tạo.

    10- ÁSAVAKKHAYA NÀNA: huệ biết rõ tất các các pháp trầm luân (là pháp làm cho chúng sanh chìm đắm mãi mãi không thoát khỏi khổ) và diệt tận các pháp ấy, không cho phát sanh lên nữa.

    32 TƯỚNG LẠ:

    1 - SUPATITTHITA PÀDÀ: hai lòng bàn chân bằng phẳng, phần đông phần bàn chân đều hủng (trủng vô) người lòng bàn chân ít hủng là người ít phiền não.

    2 - ÀHIKO PANASSA PÀDATALESU CAKKÀNI: 2 lòng bàn chân đều có 2 bánh xe có 1000 cây căm.

    3 - AYATAPANHI: gót chân thật dài bằng 3 lần của người bậc trung.

    4 - DÌGHANGULI: ngón tay và ngón chân thật dài và nhọn lần như dùi trống.

    5 - MUDUTARUNA HATTHAPADO: bàn tay và bàn chân thật mềm mại.

    6 - JALA HATTHAPÀDO: 2 bàn tay và bàn chân có chỉ lẫn lộn như lưới giăng thật đẹp.

    7 - USSANKHAPÀDO: cổ chân nổi lên rõ rệt trên lưng bàn chân.

    8 - ENIJANGHO: ống quyển dài và tròn như ống chân con nai.

    9 - THITAKOVA ANOMAMANTO: 2 cánh tay thật dài, ngài đứng không cuối xuống nhưng 2 bày tay rờ tới đầu gối

    10 - KOSOLITA VATTHAGUYHO: ngọc hành (dương vật) ẩn vào trong bọc da (như dương vật con bò).

    11 - SUVANNO VANNA: màu da ngài sáng như vàng ròng (kim thân)

    12 - SUKHUMACCHAVI: da thịt mịn, bụi rớt không dính được.

    13 - EKEKALONG: mỗi lỗ chân lông chỉ mọc 1 sợi lông đều nhau mỗi lỗ.

    14 - UDDHAGGA LOMO: tất cả sợi lông đều dựng đầu trở lên toàn màu xanh như bông biếc (người thườøng thì sợi lông đều thòng xuống)

    15 - BRAHMUJUGATTO: thân hình ngay thẳng giống như mình trời Phạm thiên (đều đặn và ngay thẳng).

    16 - SUTTUSSADO: có 7 chỗ thịt đều bằng phẳng là: thịt cần cổ, thịt hai lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, và 2 chả vai đều bằng thẳng đầy đủ chớ không hủng.

    17 - SIHAPUBBADDHA KÀYO: có thân hình phía trước giống như thân hình sư tử hẩu.

    18 - PÌTANTARAMSO: thịt giữa khoảng hai chả vai đều bằng phẳng.

    19 - NIGRODHA PARIMANDALO: thân hình ngài giống như cây da (là sải tay dài bao nhiêu là thân hình cũng cao in như vậy).

    20 - SAMAVATTHAKKHANDHO: cần cổ đều và tròn trịa

    21 - RASAGGA SAGGÌ: có 700 sợi gân thật nhỏ châu đầu lại cuốn lưỡi ở cần cổ để lãnh lấy vị trần khi để vô lưỡi liền đem khắp châu thân.

    22 - SIHAHANU: có cằm tròn như cằm sư tử hoặc giống như trăng bữa 12.

    23 - CATTÀLÌSA DANTO: có 40 cái răng (hàm trên 20, hàm dưới 20)

    24 - SAMADANTO: những cái răng ấy đều đặn và bằng nhau.

    25 - AVIVARADANTO: những răng ấy đều khít nhau cả

    26 - SUSUKKHA DATHO: 4 cái răng nhọn trắng và sạch.

    27 - PAHUTAJIVATO: có lưỡi mềm thật dài và lớn, có thể le ra che đậy cả mặt, hay là xỏ vào lỗ mủi hoặc lổ tai.

    28 - BRAHMARASO: tiếng nói trong trẻo êm dịu như tiếng đại Phạm thiên hay là chim KÀKAVEKA.

    29 - GOPAKHUMO: những lông nheo giống lông bò con.

    30 - ABHINÌLA NETTO HOTI: tròng con mắt xanh đậm như mắt bò con.

    31 - UNNÀ BHAMUKKHANATARO JÀTA: những lông mày màu trắng, nghi thức mềm mại như bông gòn.

    32 - UNHISASISO: cái trán và cái đầu tròn trịa và tóc bao phủ đều khoanh lại phái nghi thức mặt coi như là đội mão.

    CÁC PHÉP LẠ TỰ NHIÊN TRONG LÚC BỒ-TÁT GIÁNG SANH

    Tất cả Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại, khi giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót đều tự nhiên có những phép lạ xảy ra.

    Khi Bồ-tát từ trên cung trời đâu xuất giáng sanh vào lòng Phật mẫu thì toàn cả quả địa cầu đều rung rinh chuyển động và hào quang sáng ngời chiếu cả 10 ngàn thế giới sa bà, làm cho tất cả chúng sanh thấy nhau rõ ràng.

    Có chúng sanh khi vào lòng mẹ, biết ta đương vào lòng mẹ, nhưng khi ở trong bựng mẹ và khi lọt lòng mẹ thì không biết mình, có chúng sanh khi vào cũng biết, khi ở trong bụng mẹ cũng biết. Còn tất cả chư Bồ-tát thì khi vào lòng mẹ, khi ở trong bụng và khi lọt ra khỏi lòng mẹ đều biết mình cả. Lúc ở trong lòng mẹ thì luôn có 4 vị chư thiên hộ trì gìn giữ.

    Chúng sanh khi ở trong bụng mẹ thì 2 tay nắm lại đở cằm, mặt day vào lưng mẹ, còn Bồ-tát ở trong bụng mẹ thì day mặt ra phía trước, ngồi xếp bằng như vị pháp sư.

    Khi Bồ-tát giáng sanh vào lòng mẹ rồi thì từ ấy Phật mẫu không muốn người đàn ông nào gần gũi, chán nản tình dục và tự nhiên nguyện giữ ngũ giới và thân thể hằng được an vui mạnh khỏe. Khi Bồ-tát ở trong lòng thì Phật mẫu thấy rõ ràng như ở ngoài, chúng sanh ở trong lòng mẹ khoảng 8, 9 tháng hoặc là 9 tháng 10 ngày, còn chư Bồ-tát thì chẳn 10 tháng mới ra khỏi lòng. Khi ra khỏi lòng thì cũng như vị pháp sư từ trên pháp tọa ngay hai chân ra rồi đi xuống (là khi sổ lòng hai chân ra trước). Đây là sự tự nhiên khi Bồ-tát lọt ra khỏi lòng chưa rớt tới đất thì có 4 vị Phạm thiên ở trên cung SUDDHÀVASA xuống đở lấy Bồ-tát ẳm đem lại trước mặt Phật mẫu mà tâu rằng: Ngài đây là con cao thượng quý báu của ngài đã trổ sanh, rồi mới để xuống đất. Bồ-tát đứng vững xong rồi đi 7 bước đều có bông sen mọc đở lên bàn chân, day mặt về hướng bắc, nhìn khắp nơi, chỉ tay thiên, chỉ tay địa và nói:

    AGGOHAMASMI, JETTHOHAMASMI, SETTHOHAMASMI LOKASSA AYAMANTIMÀ ME JÀTI NATTHIDÀNI PUNABBHAVOTI.
    Trên trời dưới đất chỉ có ta đây là lớn, cao thượng và quý báu, kiếp này là kiếp chót của ta vậy.

    Rồi mới tới mấy cô hầu rữa ráy cho.

    Phần đông phụ nữ khi sanh con, nằm nghi thức hoặc ngồi sanh cũng có, còn Phật mẫu thì vẫn đứng hái bông như thườøng rồi sanh Bồ-tát ra, khi sanh ra thì có 2 giọt nước nóng và mát từ trên hư không chảy xuống cho Phật mẫu và Bồ-tát tắm rữa.

    Chúng sanh khi sanh ra thì thân thể dơ bẩn, còn Bồ-tát thì thân mình sạch sẽ như cục ngọc mani mà thợ đã trau dồi rồi để trên tầm lụa đỏ vậy. Khi lọt ra khỏi lòng thì toàn quả địa cầu đều rung rinh chuyển động cả núi sông và hào quang chiếu sáng khắp nơi, vô lượng vô biên thấu cả trong tam giới.

    Tự nhiên sau khi Phật mẫu sanh được 7 ngày thì thăng hà (từ trần) đặng sanh về cõi trời Đâu xuất để hưởng sự thanh nhàn hơn trần gian, đây là các pháp tự nhiên khi chư Bồ-tát giáng sanh đều in như hết thảy.

    BA ÂN ĐỨC CỦA PHẬT

    Tất cả chư Phật đều có ân đức vô lượng vô biên không ai có thể nào kể cho hết được, nhưng nói tóm lại có 3 ân đức là:

    1) PARISUDDHI GUNA: Có ân đức là hoàn toàn trong sạch cả thân, khẩu, ý, dầu trước mặt hay sau lưng người cũng vậy.

    2) KARUNÀ GUNA: có lòng bi mẫn thương xót tất cả chúng sanh như mẹ thương con (Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử, còn thường nhơn thì thương yêu tội nghiệp vợ hơn là thương xót đến chúng sanh khác).

    3) PANNÀ GUNA: có ân đức là trí tuệ hoàn toàn sáng suốt không có vật chi che án trí tuệ ngài, thông cả tam giới thấu cả 4 loài, biết rõ ái dục phiền não, biết rõ nguyên nhân sanh ra ái dục phiền não, biết rõ nơi diệt tận ái dục phiền não, biết rõ phải thực hành thế nào để diệt tận ái dục phiền não. Ngài có 3 ân đức ấy mới có thể hóa độ chúng sanh luôn Chư thiên và nhân loại một cách dễ dàng được.

    MINH VÀ HẠNH CỦA ĐỨC PHẬT

    Tất cả chư Phật đều có 8 Minh hay là Giác và 15 Hạnh (sự hành vi) in nhau.

    8 MINH HAY 8 GIÁC (VIJJÀ):

    1) VIPASSANÀ NÀNA: Minh sát minh là tuệ biết rõ 10 pháp minh sát.

    2) MANO MAYIDDHI: Hóa tâm minh là biết biến hóa tâm mình ra nhiều người hoặc nhiều người ra 1 nguời.

    3) IDDHIVIDHANNÀNA: Thần thông minh là biết biến hóa các pháp thần thông.

    4) DIPASOTANNANÀ: Thiên nhĩ minh là có lỗ tai nghe được những tiến nói xa hoặc gần của người và Chư thiên.

    5) PAROPARIYANNÀNA: Tha tâm thông là biết rõ tâm của kẻ khác hoặc là tham, sân, si vv....

    6) PUBBE NIVÀSÀNUSATI NÀNA: Túc mạng minh là biết rõ những tiền kiếp mình và tất cả chúng sanh.

    7) CUTTOPAPÀTANNÀNA: Sanh tử minh là có nhãn thông thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh đều do theo duyên nghiệp mà cấu tạo.

    8) ÀSAVAKKHAYA NÀNA: Lậu tận minh là huệ biết rõ các pháp trầm luân mà diệt tận.

    15 HẠNH (CARANA)

    1) SÌLA SAMVARO: Thu thúc theo giới hạnh.

    2) INDRIYA SAMVARO: Thu thúc lục căn cho thanh tịnh là không cho tâm vui hay buồn, khi lục căn tiếp xúc với lục trần.

    3) BHOJANE MATTANNUTÀ: Tư cách biết tiết độ trong vật thực (chỉ ăn một buổi ngọ thôi).

    4) JÀGARIYÀNUYOGO: Luôn luôn thức tỉnh ít mê ngủ.

    5) SADDHA: Có đức tin chân chánh theo lý nhơn quả và Bồ đề giác.

    6) SATI SAMPAJJANNA: Luôn luôn có sự ghi nhớ và biết mình.

    7) HIRI: Hổ thẹn tội lỗi.

    8) OTTAPPA: Ghê sợ tội lỗi.

    9) BÀHUSACCA: Sự nghe nhiều học rộng.

    10) VIRIYA: Sự tinh tấn đúng theo pháp Tứ chánh cần

    11) PANNÀ: Trí tuệ thấy rõ lý Tứ diệu đế.

    12) PATTHAMA JHÀNA: Rành mạch trong Sơ thiền.

    13) DUTIYA JHANÀ: Rành mạch trong Nhị thiền.

    14) TATIYA JHÀNA: Rành mạch trong Tam thiền

    15) CATTUTHA JHÀNA: Rành mạch trong Tứ thiền.

    Viết xong tại Tam Bảo Tự, Đà Nẳng
    mùa thu 15-10-1954 -- Phật lịch 2498

    -ooOoo-

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  3. #3

    Mặc định

    Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân, vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới.

    Tại vì sao???PHẬT kỳ thị nữ giới vậy ngày xưa chính vì câu này mà tỷ từng hỏi .sư thầy
    Nếu như không có nữ giới thầy có thân tứ đại này không?đọc trong bài hồi hướng có đoạn:THẾ THẾ thường hành bồ tát đạo
    Nguyện sanh tây phương tịnh độ trung
    Cửu phẩm LIÊN HOA vi phụ mẫu
    Hoa khai kiến PHẬT ngộ vô sanh
    Nếu như ai cũng đồng tu không có ai lập gia thất ,không có nam đồng không có nữ sự sanh diệt ắc không còn ,vậy lúc đó mình đâu có thân tứ đại đúng ko?
    Vậy hãy suy ngẫm xem PHẬT ở đâu?Phật phát xuất từ đâu sanh,PHẬT có phải từ chữ ko mà có hay không ?đệ hãy giải thích đi
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  4. #4

    Mặc định

    HAHA. Câu hỏi của bạn cũng thú vị đó. nhưng đó chỉ là hí luận mà thôi.câu hỏi này cũng giống câu hỏi 'trứng và con gà cái nào có trước?"những câu hỏi dạng này chỉ đưa đến bàn cải mà thôi không đưa đến giải thoát. Bạn nên nhớ rằng có vọng động nên mới có thân này. nếu không vọng động sẽ từ hoa sen hóa sanh rồi.đức Phật thị hiện cũng chỉ khai ngộ chúng sanh nhập vào biển tuệ của chư Phật thôi. nếu tất cả chúng ta không vộng động thì ta bà thành tịnh độ.vậy lúc đó có cần thân tứ đại này nữa không bạn?
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

  5. #5
    phanhabanh
    Guest

    Mặc định

    Một số lỗi cơ bản khi chúng ta Nạp mực máy in

    Nguồn: http://www.seoquangcao.com/dang-tin/...ap-muc-may-in/
    Qua một thời gian làm về lĩnh vực nạp mực máy in lazer,mình rút ra được một vài kinh nghiệm đơn giản mong anh em tham khảo góp ý thêm.
    1. Bản in trắng bản :
    -Lỗi do trục từ gây ra, cụ thể là do lò xo ở đầu trục từ bị gãy một nửa, lệch vòng xoay, biến dạng hoặc gãy hoàn toàn
    Cách khắc phục: Bạn cần tháo hộp mực ra, kiểm tra lại lò xo, nếu lệch, méo quay bị lệch các bạn nên nắn lại lò xo, nếu gã hoặc rời ra thì nên thay trục, vì lò xo này được hàn trực tiếp vô đầu trục, gãy ra là không nối lại được
    2. Bản in đen cả trang:
    -Lỗi là do trục cao su và đế trục cao su gây ra, Ngoài ra còn thêm nguyên nhân do Hộp Quang của máy bị bẩn, trường hợp này ta phải tháo hộp quang của máy ra để lau chùi vệ sinh lại sạch sẽ
    -Lỗi thứ hai là do gạt lớn yếu ta cần phải thay gạt lớn
    3. Bản in có vết sọc đen :
    -Với bản in khi in ra có vết sọc kẻ chỉ kéo dài từ trên xuống, trường hợp này là do Gạt mực bị xước bị lỗi này ta cần phải thay gạt mực. Trường hợp lỗi do gạt mực gây ra còn có thêm hiện tượng bị các vết kẻ ngang đậm khi ta in ra bản in nữa, lỗi này do khi ta nạp mực máy in không bôi lại một lớp mực lên lưỡi gạt, ta chỉ cần tháo ra bôi một lớp mực lên lưỡi gạt là xong
    -Với bản in có vết sọc đen to từ đầu đũa trở lên kéo dài từ trên xuống, trường hợp này là do Gạt từ bị yếu, mềm, ta cần phải thay nó
    4. Bản in bị mờ 1 bên
    -Hiện tượng này chỉ do duy nhất một loại hộp mực gây ra là loại 12A của HP và 303 của Canon, bị hiện tượng này là do lò so giữ 2 mảng hộp mực chưa được lắp vào
    5. Bản in bị lem ở 1 bên mép giấy hoặc cả 2 bên kéo dài từ trên xuống
    -Lỗi này là do đầu trống đã bị mòn hỏng ta cần thay trống.
    -Thứ 2 là do nắp nhựa ở đầu trục từ bị rách hoặc rơi mất, nếu bị cả 2 mép thì do 2 nắp nhựa chụp ở 2 đầu trục từ rách hoặc rơi mất
    6. Bản in bị 1 chấm đen
    Trường hợp này ta cần kiểm tra :
    -Thứ nhất: Kiểm tra xem chấn đen đó có tuần hoàn thứ tự trên bản in hay không, xem khoảng cách các chấm đen đó có cách đều nhau không.., nếu cách đều nhau, ta ước lượng khoảng cách đó bằng đường kính của Trống (Drum) hay đường kính của Trục cao su, từ đó để kết luận cần thay thế linh kiện nào
    -Thứ hai: nếu các chấm đen đó xuất hiện lung tung, không theo thứ tự tuần hoàn nào thì có 2 linh kiện gây ra. Thứ nhất là do Trống (Drum), thứ 2 là do Bao lụa (Lô sấy) bị rách, bị thủng nhiều lỗ
    7. Bản in có hiện tượng bị lem ở giữa, ở mép, hoặc ở bất cứ đâu giống như bị dính nước
    -Hiện tượng này do Bao lụa (Lô sấy) bị rách
    8. Khi in bị kẹt giấy
    -Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, Giấy in quá mỏng, bị ẩm, lô sấy quá nóng… Ta cần kiểm tra lại bộ sấy và bao lụa của máy, kiểm tra xem Bao lụa có bị rách, hay mòn ở mép không, kiểm tra lại Rulô sấy có bị nhăn quá không hay bị rách.. từ đó đi đến công việc cần làm, nếu Rulô sấy không vấn đề gì mà khi ta in nó vẫn bị như vậy thì cần phải thay Bao lụa (Lô sấy hoặc áo sấy)
    9. Không đá được giấy khi in
    -Trường hợp này chỉ có do hệ cơ cuốn giấy bị lỗi, cao su kéo giấy bị mòn, quả đào cuốn giấy quá bẩn hoặc quá trơn…, việc cần làm là lau sạch các cơ đá và quả đào cuốn giấy. nếu như không được cần thay quả đào hoặc miếng cao su đá giấy mỏng đằng sau quả đào
    10. Bản in bị một vệt trắng ở giữa hoặc gần giữa
    Khi thấy bản in bị một vệt trắng ở giữa hoặc gần giữa mà 2 bên lại rất rõ, ta chỉ cần biết đơn giản
    là nó hết mực thôi, cách khắc phục là nạp mực máy in.
    11. Đánh lệnh in, máy in không in
    Trước tiên ta cần kiểm tra xem, máy in đã được bật nguồn điện chưa, cáp kết nối USB hoặc LPT được nối vào máy tính chưa, , khi đánh lệnh in đã chọn đúng máy in cần dùng để in hay chưa, hoặc cũng có thể dó Driver máy in bị lỗi, khả năng Hệ Điều hành bị lỗi kiểm tra lại thấy không có vấn đề gì thì các bạn thử khởi động lại máy rồi in lại xem.
    Tham khảo dịch vụ nạp mực máy in tại: http://www.seoquangcao.com/dang-tin/chuyen-bom-muc-may-in-tai-nha-nap-muc-may-in-tan-noi-gia-re-hcm/
    ----------------------------

  6. #6

    Arrow

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân, vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới.

    Tại vì sao???PHẬT kỳ thị nữ giới vậy ngày xưa chính vì câu này mà tỷ từng hỏi .sư thầy
    Nếu như không có nữ giới thầy có thân tứ đại này không?đọc trong bài hồi hướng có đoạn:THẾ THẾ thường hành bồ tát đạo
    Nguyện sanh tây phương tịnh độ trung
    Cửu phẩm LIÊN HOA vi phụ mẫu
    Hoa khai kiến PHẬT ngộ vô sanh
    Nếu như ai cũng đồng tu không có ai lập gia thất ,không có nam đồng không có nữ sự sanh diệt ắc không còn ,vậy lúc đó mình đâu có thân tứ đại đúng ko?
    Vậy hãy suy ngẫm xem PHẬT ở đâu?Phật phát xuất từ đâu sanh,PHẬT có phải từ chữ ko mà có hay không ?đệ hãy giải thích đi

    --------------------------


    Này tỷ Minh Đài,

    Nguyên một bài văn viết rất hay rất nhiều chi tiết về chư Phật mà không hỏi, lại đi hỏi chuyện kỳ thị nữ giới làm phá vỡ ý nghĩa của quá trình tu thành Phật. Câu hỏi này Hoa Sen (HS) đã từng trả lời nhiều lần cho tỷ Minh Đài mà lâu ngày thành ra quên lãng, nay hỏi nữa, làm HS phải ngồi trả lời lại vì không trả lời thì sợ có người kém hiểu biết sẽ hiểu lầm, hiểu quấy về công đức và những điều kiện tu thành Phật mà trở nên phỉ báng chư Phật sẽ tạo ác nghiệp chận đứng con đường tu tập của người đó. Tuy nhiên, câu hỏi này của tỷ cũng trùng hợp với câu hỏi của một anh bạn mới tìm hiểu Phật giáo, nên HS hôm nay gởi bài trả lời cho tỷ Minh Đài và những ai không có hiểu biết tường tận lý do tại sao người nữ không thể tu thành Phật, còn bài kệ Hoa Sen hoá sanh kia, HS sẽ trả lời sau cùng. Vì đây là chủ đề của chuyên mục Phật giáo Nguyên thuỷ (Nam tông) cho nên chỉ đề cập tới những lời giảng của Phật Thích Ca Mâu Ni và quan điểm nhìn nhận về chư Phật có lịch sử cụ thể có ghi trong Kinh Tạng Pali, các vị này đã giáng sinh trong thế giới nhân loại chúng ta mà không đề cập tới các vị Phật nào của Bắc truyền (Bắc tông) vốn có nhiều điểm khác biệt trong quá trình truyền giáo và hoằng pháp.

    Trước hết chúng ta phải xác định rõ là chúng ta đã đề cập về vấn đề gì, đó là vấn đề về Lịch sử chư Phật và những điều kiện để trở thành 1 vị Phật, chứ không phải trở thành 1 vị Thinh Văn Giác, cần phải làm rõ phân vùng quả vị để khẳng định chủ trương đúng đắn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong phạm trù tu thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác chứ không phải tu thành Thánh A La Hán (Thinh Văn Giác). Ngày xưa cũng có những vị nữ tu sĩ trong Phật giáo Nam tông ôm ấp suy nghĩ cho rằng Đức Phật kỳ thị người nữ nên phải tu thành nam rồi mới thành Phật được, đã hiểu sai và tạo tiền đề cho những người nữ đi sau rơi vào tà kiến với Đức Phật. Thật là sai lầm vì không chịu tìm hiểu cho kỹ lưỡng trước khi lên tiếng phỉ báng như vậy là thiếu khôn ngoan.

    Trong đoạn trích của tỷ Minh Đài, HS dẫn lại nguồn trích để mọi người hiểu rõ nguyên nhân của câu hỏi này. Đề nghị tỷ Minh Đài có trích dẫn thì nên lưu ý mạch văn, không nên cắt một đoạn nhỏ của một ý lớn mà nói kẻo làm chướng ngại cho người kém hiểu biết không sao tường tận ý nghĩa câu hỏi mà còn có nguy cơ hiểu sai đại ý bài viết nữa, là không nên:

    ... Cách đây độ 20 A-tăng-kỳ, có 1 người em gái của Đức Phật PURÀNA DIPANKÀRA, có lòng trong sạch đem dầu cúng dường Phật, rồi nguyện thành 1 vị Chánh giác và xin Phật thọ ký cho. Phật giải rằng: vì em là phụ nữ nên không thể nguyện thành Phật được, chờ 16 A-tăng-kỳ nữa em sẽ thành đàn ông rồi chừng ấy sẽ có Phật thọ ký cho.

    Nhân đó Đức Phật mới giảng cho các thầy Tỳ khưu nghe 4 điều khó là:

    1- Khó sanh được làm người.
    2- Phụ nữ khó sanh làm nam nhân.
    3- Làm nam nhân khó được xuất gia.
    4- Khó gặp Phật ra đời.

    Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.

    Còn phụ nữ khó sanh làm nam nhân, vì phải có nhiều duyên lành phước báu mới có thể sanh làm đàn ông được, phụ nữ không thể nào nguyện thành 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Độc giác Phật, hoặc là Chuyển Luân Vương Bồ-tát được. Phụ nữ muốn sanh làm nam nhân phải rán tu hành tinh tấn, thọ trì ngụ giới, bát quan trai giới hoặc xuất gia trọn đời xa lánh tình dục, gìn vẹn trinh tiết, rồi nguyện cho thành nam giới....

    Đề nghị tỷ Minh Đài xem lại đoạn ý thứ nhất trước đoạn ý tỷ cắt ra để thấy là đoạn ý thứ hai tỷ hỏi là phần diễn giải cho đoạn ý thứ nhất:

    - Khó gặp Đức Phật ra đời, vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định thì mới mong thành 1 vị Phật Tổ được.

    Cách giảng giải của Hoà thượng Tổ sư đã nói rất rõ lý do tại sao người tu thành 1 vị Phật Tổ phải là người nam rồi, đâu có kỳ thị người nữ mà chẳng qua người nữ có thể làm như người nam chăng? [...vì muốn nguyện thành 1 vị Phật phải có sự can đảm đại hùng đại lực, ví dụ như, những lưỡi gươm bén để đầy đặt trên mặt địa cầu, hoặc ví như mãnh sắt thật bén dựng chật cả địa cầu, hoặc như những khúc sắt cháy đỏ đầy trên địa cầu, người có đủ can đảm sấn mình hoặc chạy vào cho tới trung tâm quả địa cầu, hoặc dám lóc thịt bố thí cho Dạ xoa để đầy những quả địa cầu, hoặc cắt đầu mình mà bố thí nhiều hơn những cục đá trong trái núi, hoặc khoé mắt mình bố thí nhiều hơn sao trên trời, và phải hành theo pháp Thập độ cho đúng theo thời hạn nhất định...]

    HS xin trở lại câu hỏi của anh bạn mới tìm hiểu Phật giáo như sau: Phật nói là con người bình đẳng đúng ko?vậy sao trong kinh gì đó có nói là tu bao nhiêu kiếp thì mới được làm đàn ông như vậy là có quan niệm ko bình đẳng rồi.

    - Câu trả lời của Hoa Sen như sau: Cái quan niệm con người bình đẳng trong cách nhìn của Đức Phật ông hiểu sai rồi, bình đẳng là bình đẳng khả năng Giác ngộ trong tất cả các chúng sanh nhất là con người; bình đẳng trong phương diện máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn; bình đẳng về mặt nhân vị tức là con người không có giai cấp đều có vị trí ngang bằng nhau, đều được hưởng những điều ưu đãi như nhau; chứ ko cứ là bình đẳng giới tính bởi có những trình độ tâm linh giới tính của người nữ và bản tính của người nữ không thể đáp ứng khả năng thành tựu. Người nữ không thể làm cực thiện hay cực ác như người nam được. Có bao nhiêu người nữ làm Vua hoặc Đại đế lâu dài mà ko bị chuyện chồng con, gia đình, phong tục tập quán của xã hội trói buộc? Có bao nhiêu người nữ có thể làm Đại đế như Nữ hoàng Võ Tắc Thiên (Trung Quốc) hay là Nữ hoàng Victoria (Anh quốc)? Có bao nhiêu người nữ đủ sức mạnh như đàn ông, số lượng lực sĩ nữ chiếm bao nhiêu % so với số lực sĩ nam trên toàn thế giới ? Nếu chia tỷ lệ đầu người thì trên thế giới số lượng người nữ có khả năng trở thành Lực sĩ như người nam là rất ít. Những nghề nghiệp đáng lý thuộc về quyền sở hữu của người nữ như đầu bếp, thợ làm tóc, thợ trang điểm, thợ cắm hoa, thợ may, hoạ sĩ, nhạc sĩ thành danh ở Vn và trên thế giới đều là đàn ông. Như vậy thử nói xem, tại sao? Tại vì đàn ông có điểm khác biệt mạnh mẽ hơn người phụ nữ là "luôn khao khát ham muốn chiến thắng kẻ khác" và khi đạt được rồi thì không dừng lại ở đó mà cứ muốn tiến lên tới nhiều đỉnh cao xa hơn của sự chiến thắng đó nên thành công hơn, còn người nữ không ham muốn chinh phục mạnh hơn người nam và dễ có xu hướng thoả mãn với những gì đã đạt được. Một cách hiểu khác là cái Tôi của người nam mạnh hơn cái Tôi của người nữ, người nam bao đời nay luôn có xu hướng thích khẳng định cái Tôi tức là cái bản lĩnh thể hiện của mình ra trước đám đông (xã hội) hơn là người nữ, nhưng ở người nữ thì thích thể hiện sự sở hữu cái Của Tôi nên không có ham muốn ganh đua quyết liệt một mất một còn như người nam. Do vậy mới nói là người nữ không thể cực ác cực thiện như người nam được, người nữ dù cứng rắn cỡ nào nhưng trong tính cách vẫn có chút mềm mỏng của bản chất nữ tính. Người nữ dễ bị định kiến xã hội trói buộc, cản trở đi tới thành công hơn người nam như là người nữ học không cần cao như người nam, người nữ không phải nặng nhọc kiếm sống như người nam, người nữ không có ý chí tại bốn phương nhiều như người nam, người nữ không cần thể hiện bản lĩnh với đời như người nam, người nữ ít trở thành trụ cột gia đình như người nam, thể lực người nữ ít khi phải đương đầu với những công việc nặng nhọc như người nam. Đức Phật dạy có 4 vị trí ng nữ ko làm được:

    1- cực Ác là Ma Vương, Ác Ma (quỷ Satan của đạo Công Giáo)

    2- cực Thiện của loài người phàm phu: Chuyển Luân Thánh Vương (quyền năng cao hơn Đại Đế).

    3- quả vị Phật Độc Giác

    4- quả vị Phật Toàn Giác

    Hiểu theo Phật giáo Nam tông thì, Ma Vương (tiếng Pali là Māra [đọc là Ma-rá] ) có 5 ý nghĩa (tóm tắt) là:

    a- Phiền não ma vương (Kilesa māra).

    b- Ngũ uẩn ma vương (Khandha māra).

    c- Pháp hành ma vương (Abhisankhāra māra).

    d- Tử thần ma vương (Maccu māra).

    e- Chư thiên ma vương (Devaputta māra)

    - Ma Vương mà chúng ta nói tới trong bài này là Chư thiên ma vương, đây là một loại Ma Vương khác biệt so với 4 loại ma vương phía trên - vốn chỉ là danh tư nhân cách hoá của các thực trạng của đời sống chúng sanh trong thế gian tam giới này. Ma Vương này là một vị chư thiên sống trên cõi trời thứ 6 của Dục giới chư thiên là cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên, vị chư thiên này có uy lực và sự độc ác chiếm cứ một vùng lãnh thổ để trị vì và thống lãnh một lượng chư thiên có tà kiến và độc ác chống đối lại vị Thiên vương chánh kiến ủng hộ Đức Phật và Giáo pháp. Ma Vương tuy là chư thiên có nhiều uy lực do quả báo tu tập nhiều hạnh lành trong tiền kiếp nhất là tu thiền đạt Cận Định nên tái sanh về cõi trời này thọ hưởng phước báo, nhưng với tâm tà kiến và ích kỷ ganh tỵ nên nhiều lần bày mưu tính kế hãm hại Đức Phật và chư Thánh Tăng, tiền thân của ngài Mục Kiền Liên là Ma Vương có tên là Dusi là cậu của Ma Vương hiện tại vì đã cố ý giết chết một vị Thánh thượng thủ hầu cận Đức Phật Quá khứ Câu Lưu Tôn (Kankusandha) và do ác quả này phải đoạ ngay vào A Tỳ địa ngục. Đây là biểu trưng cho tính cách một con người cực ác, sẵn sàng làm việc ác bất chấp hậu quả.

    - Chuyển luân Thánh vương là một vị Vua lớn, có thể hiểu với danh từ Vĩ đại hơn Đại Đế, không dùng bạo lực mà dùng chánh pháp và đức hạnh để trị dân nên được tán tụng là Thánh vương. Chuyển luân là bánh xe hay chiếc xe vận chuyển bằng bánh xe. Trong ngày đăng quang lên ngôi vua sẽ xuất hiện một cỗ xe báu trên hư không, cỗ xe này tự hạ xuống và nhà vua dùng cỗ xe này bay đi khắp mọi nơi không bị trở ngại, bay tới đâu thiên hạ quy phục tới đó mà không phải gây ra chiến tranh như các vua thông thường sau này, cho nên gọi là Chuyển luân vương hoặc Chuyển luân thánh vương. Chuyển luân vương có 4 loại từ cao đến thấp căn cứ theo tính chất của xe báu là:

    1- Kim luân vương cai quản 4 châu thiên hạ (Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiệm bội châu, Bắc câu lư châu) trên bờ và các đại dương.

    2- Ngân luân vương cai quản 3 châu thiên hạ

    3- Đồng luân vương cai quản 2 châu thiên hạ

    4- Thiết luân vương cai quản 3 châu thiên hạ

    Ngoài ra về tài sản còn có xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu.

    Do phước báu trong sạch tu tập trong nhiều đời nhiều kiếp nhất là các phước báu liên quan tới Ba la mật Giải thoát mà Chuyển luân thánh vương cũng có đầy đủ 32 tướng tốt như Đức Phật. Trong thời Đức Phật Tương Lai Di Lạc sẽ có 2 nhân vật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp y như nhau, là Đức Phật Di Lạc và Vua Chuyển luân vương của thời ấy sẽ xuất gia và chứng quả A La Hán. Đấy là thời cực kỳ thiện của nhân loại. Nói thêm, người có 32 tướng tốt nếu xuất gia sẽ trở thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương, ngoài ra không còn sự chọn lựa nào khác.

    - Phật Độc Giác hay là Độc Giác Phật (Paccekabudhha), Bích Chi Phật, Duyên Giác, là sự khai minh giác ngộ đơn độc của một người tự lực cố gắng tiến đến Đạo Quả Giải thoát, không nhờ một ai dạy dỗ hay giúp đỡ. Vì đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư Phật Độc Giác không dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ bằng lối đơn độc giác ngộ được. Các Ngài chỉ nêu gương đức hạnh và trí dũng. Hơn nữa, chư Phật Độc Giác chỉ ra đời trong lúc không có Phật Pháp. Số lượng Phật Độc Giác không phải chỉ có một trong một thời kỳ riêng biệt, như trường hợp của bậc Toàn Giác hay là Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammasambuddha) như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - mặc dù đã viên tịch nhưng bao giờ Giáo Pháp của Đức Phật còn tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ thì không thể có một vị Phật Độc Giác ra đời trên thế gian này. Độc Giác Phật không đạt được các năng lực như Nhất thiết trí (sarvajñatā) hay Mười lực (daśabala) của một vị Phật Toàn Giác. Độc Giác Phật được xem như bậc ở quả vị giữa A La Hán và Phật. Danh hiệu Duyên giác được gán cho các ngài khi người đời sau cho rằng các ngài giác ngộ nhờ đã đạt tri kiến về mười hai nhân duyên trong kiếp sống cuối cùng ấy.

    Do tính chất tự giác một mình, cuộc sống không thể dựa dẫm vào người khác, tự lực cánh sinh nên bản tính người nam phù hợp hơn bản tính người nữ, và về pháp ba la mật thì Độc Giác Phật phải thành thục 20 pháp ba la mật tức là có thể bố thí cả thân thể và các bộ phận sống động trong suốt một thời gian 2 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất.

    Tóm lại, trong vấn đề giác ngộ thì không có chuyện phân biệt nam-nữ nhưng trong phân biệt đặc tính quả vị thỉ có sự rõ ràng bản tính con người nào có thể thành tựu được. Bậc thánh A La Hán Thinh Văn Giác có thể thành tựu cho người nam và nữ, với thời kỳ tu tập từ 100.000 đại kiếp đến 1 A tăng kỳ kiếp trái đất, nhưng những người không có ước nguyện chứng đắc các Ân đức cao thượng như:

    1- A La Hán Tối thượng : chư Phật nào cũng chỉ có 4 vị Tối thượng về Trí tuệ + Thần thông: 2 Tăng, 2 Ni

    Đối với chư Đại Thánh Thinh Văn thì có số lượng không xác định.

    2- A La Hán Đại Đệ Tử
    3- A La Hán Lục Thông
    4- A La Hán Tam Minh

    thì có thể chứng đắc thành A La Hán Nhất Minh tức là chỉ chứng Lậu Tận thông (hay Lậu Tận minh) để Giải thoát sinh tử luân hồi, hạng này không đợi phải được 1 vị Phật thọ ký mà khi nào 10 ba la mật thành tựu liền chứng quả ngay. Trình độ này gọi là Thường Thinh Văn, còn 4 trường hợp kia gọi là Đại Thinh Văn - phải được 1 vị Phật thọ ký cho thành tựu ước nguyện để thành tựu 10 ba la mật trong suốt thời gian quy định, tương tự với quả vị Độc Giác Phật và Toàn Giác Phật.

    PHẦN TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI PHỤ:

    -
    Nếu như không có nữ giới sư thầy có thân tứ đại này không? Nếu như ai cũng đồng tu không có ai lập gia thất ,không có nam đồng không có nữ sự sanh diệt ắc không còn,vậy lúc đó mình đâu có thân tứ đại đúng ko?
    --> Câu này xin hỏi ngược lại, nếu không có nam giới thì sư thầy cũng như sư bà đều không thể có mặt trên đời này. Sự kết hợp nam nữ chỉ có xảy ra trong 2 loài chúng sanh là noãn sanh (trứng) và thai sanh mà thôi, sẽ không cần yếu tố kết hợp tinh cha, huyết mẹ ở loài thấp sanh (dòi, bọ...) và ở loài hoá sanh (chư thiên, phạm thiên). Một điểm nữa cần lưu ý với tỷ Minh Đài là khi tỷ dùng danh từ 'thân Tứ đại' này thì phải hiểu là dùng chung cho cả 4 chủng loại: noãn, thai, thấp, hoá không chỉ dành cho loài người và loài thú. Đấy là điểm không chuẩn của câu hỏi này.

    -
    Vậy hãy suy ngẫm xem PHẬT ở đâu? Phật phát xuất từ đâu sanh, PHẬT có phải từ chữ ko mà có hay không
    --> Câu này lại là câu hỏi có đa nghĩa, ở đây xin trả lời 2 nghĩa:

    a- "Phật" xét trên phương diện thai sanh là con người có cha có mẹ, lớn lên tu hành thành Phật thì đã trả lời phía trên và nguyên cái topic này cũng đã quá chi tiết, xem lại và suy xét kỹ nhá.

    b- "Phật" xét theo ý nghĩa sự Giác ngộ thì là sự Giác ngộ tối thắng không ai giác ngộ tới mức này của Phật, vì trong thời kỳ Giáo pháp của 1 vị Phật thì không bao giờ có vị Phật thứ 2 cho nên ai mà cho rằng đã đắc quả thành Phật trong thời kỳ hiện tại này đều là dóc tổ, láo toét hết trọi ! "Phật" mà hiểu theo nghĩa Giác ngộ thì cũng chỉ giác ngộ theo cái mà người ta đã chỉ ra cho mình thôi, người chỉ ra là Phật Thích Ca cho nên người thời nay học của người thời trước rồi thực hành dẫn tới giác ngộ, nên chỉ là hàng hậu học mà thôi, cũng chỉ được xếp vào hạng Thánh Đệ tử chứ không thể làm bậc Đạo Sư được. "Phật" xét theo ý nghĩa Giác ngộ vô cùng tận thì không còn là 1 trong 4 loại chúng sanh nữa, không còn là chúng sanh bị 5 loại Ma vương theo ám ảnh nữa nên gọi là Đấng Chiến Thắng Ngũ Ma, phiền não đã tận, phạm hạnh đã thành, đã thực chứng cả 2 loại Niết Bàn là Phiền Não Niết Bàn và Ngũ Uẩn Niết Bàn, không còn trở lui lại trên cõi đời này nữa.

    Nguyện sanh tây phương tịnh độ trung
    Cửu phẩm LIÊN HOA vi phụ mẫu
    Hoa khai kiến PHẬT ngộ vô sanh
    --> Ý nghĩa: chúng sanh có đủ Tín, Hạnh, Nguyện được vãng sinh vào Hoa Sen mang thân bảy báu của cõi tịnh để rồi khi hoa sen nở thì được giác ngộ, "ngộ Vô sanh" chính là giác ngộ Niết bàn để thấy rõ sự chấm dứt sinh tử luân hồi của chính chúng sanh ấy, đó chính là quả vị Thánh A La Hán, Độc Giác Phật, Toàn Giác Phật - đấy là một cách hình tượng hoá sự hoá sanh của chúng sanh có nhiều phước đức tương đương sự hoá sanh của chư thiên trong các cõi trời, sánh với cách vãng sinh mà không phải thông qua con đường thai sanh của tinh cha huyết mẹ như con người; không phải về cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà theo quy luật thọ hưởng tham ái nhục dục mà là quy luật nhân quả của quá trình tu tập hạnh lành tích trữ phước đức, chứ không phải hiểu theo ý nghĩa thân xác con người là kết quả của ái dục tham ái của cha mẹ . xin vui lòng đọc cho kỹ và suy ngẫm cho sâu câu trả lời dưới đây của các bậc tôn túc:

    -- Tông Tịnh độ nói đến “Liên hoa chín phẩm”, với ngụ ý có nhiều mức độ tu tập và sở chứng trong đường lối tu Tịnh chứ không phải chỉ một bậc “thấp lùn”, nhất nhất nương tha lực mà thôi. Nói như thế, cũng có nghĩa là mọi căn cơ đều có: từ bậc ngộ đạt sâu mầu vào nguồn cội chân tâm trong sạch “niệm Phật, niệm tâm, tâm niệm Phật; tham thiền, tham tánh, tánh tham thiền” cho đến người ngu phu ngu phụ mới cải tà quy chánh. Tịnh độ nhiếp hết các căn từ người đại tâm ngộ đạt, vút cao, trải rộng đến cảnh giới Pháp thân Phật cho đến người chân chất quê mùa ít chữ nghĩa với Thánh hiệu, Hồng danh làm nơi nương tựa. Dù kẻ tài sơ trí thiển, còn nương Thánh hiệu nhưng vẫn phải tự lực mình kiên cố hành trì, chứ phước phần đâu sẵn bên ngoài ban ra.

    http://www.buddhistedu.org/viet/phat...vang-sinh-tnh-

    -- Hoa Sen trong cõi Tịnh Độ tiêu biểu cho nhân quả tu hành của những người có niềm tin vào pháp môn Tịnh Độ. Tùy theo Tín, Nguyện, Hạnh của người niệm Phật mà cảm ứng hoa sen ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Mỗi khi hành giả phát khởi niềm tin và thiết tha niệm Phật thì ở cõi Tây Phương tự nhiên “Cảm ứng tùy thời hiện” một đóa hoa Sen ở ao thất bảo. Nếu như ở cõi Sa Bà, chúng sinh thác sinh vào trong thai tạng bằng nghiệp lực ô nhiễm thì ở Tây Phương Cực Lạc chúng sinh được sinh ra trong bản tính thanh tịnh của hoa Sen. Từ bản tính thanh tịnh mà sinh ra thì cả nhân hạnh trong cuộc đời mới được gắn liền với quốc độ, báo độ của sự thanh tịnh. Từ đó hành giả một đường đi lên đến quả vị giác ngộ viên mãn. Theo công phu tu tập của hành giả, hoa Sen ngày càng lớn lên theo phẩm vị của người trì niệm danh hiệu Phật. Và quả vị giải thoát ở Tịnh Độ tông được minh chứng ở “Cửu Phẩm Liên Hoa”. Hành giả được vãng sinh về thế giới Tây Phương thác sinh trong thai tạng của hoa Sen. Tịnh độ tông xây dựng giáo nghĩa của mình trên hình ảnh hoa sen.

    http://www.hoalinhthoai.com/forum/showthread.php?t=6413


    Hỏi nhỏ nè, Tỷ nói tỷ vượt qua tất cả pháp môn tu tập rồi tâm đã vắng lặng, tâm không sanh nữa rồi (đại học) mà sao còn hỏi những câu của trình độ phàm phu (lớp mẫu giáo) nữa vậy? bộ tỷ tu Tâm mà không tu Tuệ hay sao mà đụng tới đâu bể tới đó vậy HẢ ???
    Last edited by hoasenngancanh; 02-07-2012 at 09:29 AM.

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    --------------------------


    Này tỷ Minh Đài,

    Nguyên một bài văn viết rất hay rất nhiều chi tiết về chư Phật mà không hỏi, lại đi hỏi chuyện kỳ thị nữ giới làm phá vỡ ý nghĩa của quá trình tu thành Phật. Câu hỏi này Hoa Sen (HS) đã từng trả lời nhiều lần cho tỷ Minh Đài mà lâu ngày thành ra quên lãng, nay hỏi nữa, làm HS phải ngồi trả lời lại vì không trả lời thì sợ có người kém hiểu biết sẽ hiểu lầm, hiểu quấy về công đức và những điều kiện tu thành Phật mà trở nên phỉ báng chư Phật sẽ tạo ác nghiệp chận đứng con đường tu tập của người đó. Tuy nhiên, câu hỏi này của tỷ cũng trùng hợp với câu hỏi của một anh bạn mới tìm hiểu Phật giáo, nên HS hôm nay gởi bài trả lời cho tỷ Minh Đài và những ai không có hiểu biết tường tận lý do tại sao người nữ không thể tu thành Phật, còn bài kệ Hoa Sen hoá sanh kia, HS sẽ trả lời sau cùng. Vì đây là chủ đề của chuyên mục Phật giáo Nguyên thuỷ (Nam tông) cho nên chỉ đề cập tới những lời giảng của Phật Thích Ca Mâu Ni và quan điểm nhìn nhận về chư Phật có lịch sử cụ thể có ghi trong Kinh Tạng Pali, các vị này đã giáng sinh trong thế giới nhân loại chúng ta mà không đề cập tới các vị Phật nào của Bắc truyền (Bắc tông) vốn có nhiều điểm khác biệt trong quá trình truyền giáo và hoằng pháp.

    Trước hết chúng ta phải xác định rõ là chúng ta đã đề cập về vấn đề gì, đó là vấn đề về Lịch sử chư Phật và những điều kiện để trở thành 1 vị Phật, chứ không phải trở thành 1 vị Thinh Văn Giác, cần phải làm rõ phân vùng quả vị để khẳng định chủ trương đúng đắn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong phạm trù tu thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác chứ không phải tu thành Thánh A La Hán (Thinh Văn Giác). Ngày xưa cũng có những vị nữ tu sĩ trong Phật giáo Nam tông ôm ấp suy nghĩ cho rằng Đức Phật kỳ thị người nữ nên phải tu thành nam rồi mới thành Phật được, đã hiểu sai và tạo tiền đề cho những người nữ đi sau rơi vào tà kiến với Đức Phật. Thật là sai lầm vì không chịu tìm hiểu cho kỹ lưỡng trước khi lên tiếng phỉ báng như vậy là thiếu khôn ngoan.

    [/SIZE]
    Đều này đệ đừng trách tỷ ,khi tỷ hỏi ắc phải có nguyên do ,kinh thuyết của PHẬT đã trãi qua trên 2500 năm ,thời đức PHẬT là thời trọng nam khinh nữ ,tỷ chỉ dựa vào kinh điển để hỏi ý kiến của đệ suy nghỉ ra sao so với thời điểm hiện tại
    1= để cho các phật tử được thông hiểu dẫu rằng tỷ dư sức giảng được phần này ,nhưng tỷ muốn đệ giảng rõ làm sáng tỏ phần kinh của mình có những cái nên phải hiểu ,
    2=đệ biết kinh đọc là để hiểu chân lý của PHẬT ,tụng là để thông qua kinh điển phát huy trí tuệ nhưng không phải nhất nhất bám chấp trụ hiểu sai được đây cũng tạo đều kiện cho đệ lập công đức ,phước vô tận khi giảng kinh điển mà thôi.
    Tỷ muốn đệ giảng giải là để cho các phật tử ai muốn vào tìm hiểu chứ không phải giảng cho tỷ nghe đâu
    Last edited by minh đài; 02-07-2012 at 10:02 AM.
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    --------------------------



    Do tính chất tự giác một mình, cuộc sống không thể dựa dẫm vào người khác, tự lực cánh sinh nên bản tính người nam phù hợp hơn bản tính người nữ, và về pháp ba la mật thì Độc Giác Phật phải thành thục 20 pháp ba la mật tức là có thể bố thí cả thân thể và các bộ phận sống động trong suốt một thời gian 2 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất.

    [/SIZE]
    Tỷ còn nhớ lịch sử PHẬT ghi lại trước PHẬT THÍCH CA đã có NHIÊN ĐĂNG PHẬT thọ ký cho người thành PHẬT ,VỊ PHẬT đầu tiên trong vũ trụ là TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT ,như vậy PHẬT THÍCH CA lúc đó đã có các vị PHẬT rồi .
    Nói tóm lại người nữ sở dĩ không thành PHẬT được là thiếu đi sức mạnh kiên trì của mình ,nếu như một người nữ tu hành đủ 6 pháp BA LA MẬT .
    Giới ,định ,tuệ,bố thí ,nhẫn nhục ,tham thiền thì thân nữ đã chuyển thành nam ,đã trong một kiếp đã có trí tuệ có thể thành PHẬT mà không cần qua quả vị A LA HÁN ,đây cũng là ý của tỷ còn theo đệ nghỉ sao?
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  9. #9

    Talking

    Tỷ càng nói càng tỏ ra tỷ không đủ kiến thức, trình độ để giảng dạy cho bất kỳ ai. kinh điển xưa nay đã có nhiều nguồn tham khảo, tỷ nói như thể là tỷ có khả năng đọc được những bản kinh gốc lưu truyền lại không bằng, tỷ không có bất cứ khả năng nào trong những vấn đề thuộc lĩnh vực Pháp học và cả Pháp hành. Sư Thầy của tỷ có lẽ không phải không biết nhưng e rằng ông ấy làm biếng phải trả lời những câu hỏi bập bềnh bèo dạt mây trôi của tỷ.

    Tỷ cũng là Phật tử tại gia vậy sao tỷ nói ai là Phật tử, nếu tỷ là Ni Sư xuất gia thì có quyền người tại gia là Phật tử, vì có Cụ túc giới để làm Thầy chúng sanh, còn đẳng này tỷ chỉ là Cư sĩ có 5 giới mà dám gọi những người cư sĩ như tỷ là đệ tử, là "phật tử" (không viết hoa là biểu lộ sự xem thường); còn nói giảng cho phật tử nghe nữa, như vậy càng tỏ ra tỷ có tâm Ngạo mạn rất lớn. E rằng ngay cả 5 giới tỷ còn chưa giữ vững nữa là, ngay cả Giới của đệ còn hơn tỷ mấy bậc thì thử hỏi tỷ trên đã không thông, dưới cũng không thạo, tỷ đủ trình độ dạy ai hay là học của đệ, của các huynh khác rồi đi giảng lại cho những người mà tỷ gọi họ là đệ tử ? Sách của đệ tặng lúc trước tỷ coi mà còn không thông, nghe mà còn không hiểu nổi thì làm sao mà giảng dạy ai cho nổi?

    Tỷ nên nhớ trong Phật giáo thì chỉ có chư Tăng, Ni mới có đủ Giới hạnh mà thọ nhận sự cung kính, lễ bái, cúng dường của người tại gia, còn người tại gia cho dù là bậc Thánh cũng không được nhận sự cung kính, lễ bái, cúng dường như tư cách bậc xuất gia ấy. Tỷ nếu không dừng lại thì một lúc nào sẽ bị tổn phước rất nguy hiểm.

    Qua thời gian tiếp xúc thấy tỷ càng ngày càng tệ, làm sao mà dạy nổi ai? làm Thầy mà còn phải đi hỏi người không phải là Thầy, thì quá tệ !
    Last edited by hoasenngancanh; 02-07-2012 at 10:51 AM.

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  10. #10

    Talking

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Tỷ còn nhớ lịch sử PHẬT ghi lại trước PHẬT THÍCH CA đã có NHIÊN ĐĂNG PHẬT thọ ký cho người thành PHẬT ,VỊ PHẬT đầu tiên trong vũ trụ là TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT ,như vậy PHẬT THÍCH CA lúc đó đã có các vị PHẬT rồi .
    Nói tóm lại người nữ sở dĩ không thành PHẬT được là thiếu đi sức mạnh kiên trì của mình ,nếu như một người nữ tu hành đủ 6 pháp BA LA MẬT .
    Giới ,định ,tuệ,bố thí ,nhẫn nhục ,tham thiền thì thân nữ đã chuyển thành nam ,đã trong một kiếp đã có trí tuệ có thể thành PHẬT mà không cần qua quả vị A LA HÁN ,đây cũng là ý của tỷ còn theo đệ nghỉ sao?
    - Xin lỗi tỷ, đấy là quan điểm của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa không phải của chính tông Phật giáo, nên đệ miễn bàn, tỷ nên nhớ tỷ đang nói ở đâu nhé, đây là PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY nếu muốn post ý nghĩa này thì đi qua box kia mà post. 6 ba la mật sao mà bằng 30 ba la mật mà ngồi đó khoe ?

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  11. #11

    Mặc định

    Đề nghị Minh Đài chịu khó vận thần thung bay wa bài "một số Bài kinh Bảo hộ của nam tông" mà coi phần trả lời của Hoa Sen về quan điểm Phật giáo Nguyên Thủy, trước khi tiếp tục post lạc đề nữa nghen !

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  12. #12

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    Tỷ càng nói càng tỏ ra tỷ không đủ kiến thức, trình độ để giảng dạy cho bất kỳ ai. kinh điển xưa nay đã có nhiều nguồn tham khảo, tỷ nói như thể là tỷ có khả năng đọc được những bản kinh gốc lưu truyền lại không bằng, tỷ không có bất cứ khả năng nào trong những vấn đề thuộc lĩnh vực Pháp học và cả Pháp hành. Sư Thầy của tỷ có lẽ không phải không biết nhưng e rằng ông ấy làm biếng phải trả lời những câu hỏi bập bềnh bèo dạt mây trôi của tỷ.

    Tỷ cũng là Phật tử tại gia vậy sao tỷ nói ai là Phật tử, nếu tỷ là Ni Sư xuất gia thì có quyền người tại gia là Phật tử, vì có Cụ túc giới để làm Thầy chúng sanh, còn đẳng này tỷ chỉ là Cư sĩ có 5 giới mà dám gọi những người cư sĩ như tỷ là đệ tử, là "phật tử" (không viết hoa là biểu lộ sự xem thường); còn nói giảng cho phật tử nghe nữa, như vậy càng tỏ ra tỷ có tâm Ngạo mạn rất lớn. E rằng ngay cả 5 giới tỷ còn chưa giữ vững nữa là, ngay cả Giới của đệ còn hơn tỷ mấy bậc thì thử hỏi tỷ trên đã không thông, dưới cũng không thạo, tỷ đủ trình độ dạy ai hay là học của đệ, của các huynh khác rồi đi giảng lại cho những người mà tỷ gọi họ là đệ tử ? Sách của đệ tặng lúc trước tỷ coi mà còn không thông, nghe mà còn không hiểu nổi thì làm sao mà giảng dạy ai cho nổi?

    Tỷ nên nhớ trong Phật giáo thì chỉ có chư Tăng, Ni mới có đủ Giới hạnh mà thọ nhận sự cung kính, lễ bái, cúng dường của người tại gia, còn người tại gia cho dù là bậc Thánh cũng không được nhận sự cung kính, lễ bái, cúng dường như tư cách bậc xuất gia ấy. Tỷ nếu không dừng lại thì một lúc nào sẽ bị tổn phước rất nguy hiểm.

    Qua thời gian tiếp xúc thấy tỷ càng ngày càng tệ, làm sao mà dạy nổi ai? làm Thầy mà còn phải đi hỏi người không phải là Thầy, thì quá tệ !
    Đây chính là sự khác biệt của người đã có thành tựu và người chưa được thành tựu,tỷ là người nhìn thẳng trực TÂM không còn dựa vào những bài học của đệ đưa ra .
    Đệ nên nhớ sự tinh túy của ĐẠO là không phải trên sự xuất sứ hay nơi tu tập ,mà là người có hành được hay không?tỷ không cần biết đệ đã tu thời hạn là bao lâu ,hành trì những gì ,tu tập cái gì ,và đã giữ bao nhiêu giới những thứ đó chỉ là phương tiện mà thôi ,quan trọng tỷ HỎI:ĐỆ ĐÃ HÀNH THỰC TIỄN ĐẠT ĐƯỢC BAO NHIÊU?
    Cách đối xử cách ăn nói và hành động là kết quả biết người tu đến đâu ,qua lời đối thoại đệ nên xem lại tỷ không cần nói và cải chi cho mệt
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  13. #13

    Arrow

    minh đài
    Cám ơn sư đệ ,nhưng tỷ muốn trao đổi một số pháp môn của phái NAM TÔNG ,
    Có phải phái NAM TÔNG là chánh tông của chư PHẬT để lại đúng không?theo như sư đệ nói NAM TÔNG truyền không hề có thần chú ,chuyên về thiền ,vậy ngay thời đức PHẬT tại thế không có thần chú nào cả ,nhưng hiện nay có các câu chú như .
    Án tam xóa ha ,án tam xóa ha án ta phạ bà phạ,truật đà ta phạ bà phạ truật độ hám .
    Chú đại bi ĐÀ LA NI ,chú LĂNG NGHIÊM vì sao lại có các thần chú này xuất hiện .và theo thời phật không có ấn nhưng ngày nay lại có ấn sử dụng trong nghi lễ giáo như cúng kiến ,chùa chiền thường dùng .
    Nhiều người lại lấy thần chú để luyện tập lại không hiểu thần chú ,dụng thần chú vào thay thế kinh truyền gốc của PHẬT ,khiến nhiều người nghỉ phật dùng thần chú ,
    Như chú chuẩn đề ,chú phật tổ ...v...v...theo đệ nghỉ sao về vấn đề này ,đồng thời tỷ muốn trao đổi một số thiền ,nhiều người rơi vào cảnh vô minh mà không hay biết ,để tỷ trao đổi sau về thiền
    http://www.thegioivohinh.com/diendan...d.php?t=154496

    ------------------

    Thưa bà Minh Đài "lẩm cẩm",

    Vì đây là chủ đề của chuyên mục Phật giáo Nguyên thuỷ (Nam tông) cho nên chỉ đề cập tới những lời giảng và bài kinh của Phật Thích Ca Mâu Ni và quan điểm nhìn nhận về chư Phật có lịch sử cụ thể có ghi trong Kinh Tạng Pali, các vị này đã giáng sinh trong thế giới nhân loại chúng ta mà không đề cập tới các vị Phật nào của Bắc truyền (Bắc tông) vốn có nhiều điểm khác biệt trong quá trình truyền giáo và hoằng pháp.

    Và trong truyền thống Nam tông thì chỉ có DUY NHẤT 1 PHẬT THÍCH CA MÂU NI và hệ thống chư Thánh Tăng Ni sắp theo trật tự 4 quả Thánh mà thôi. Lịch sử chư Phật giáng sanh trên địa cầu (theo bài Chánh giác tông đã post).

    - Không có khái niệm Thần chú Đại Bi, Lăng Nghiêm, An Thổ Địa, Tịnh Tam Nghiệp (Án tam xóa ha ,án tam xóa ha án ta phạ bà phạ,truật đà ta phạ bà phạ truật độ hám), Tiêu tai kiết tường... gì hết.

    - Không có hệ thống các Phật và Bồ tát: Di Đà, Dược Sư, Tỳ Lô Giá Na..., Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng, Chuẩn Đề, Tara Xanh - Đỏ - Trắng..., Địa Mẫu, Ngọc Hoàng, Thần Tiên, Đại La Kim Tiên, Thượng Tiên, Trung Tiên, Phật Bà, mẹ, má, mẫu, cha trời mẹ đất gì hết.

    - Không có kinh Lăng Nghiêm, Bi Hoa, Hoa Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Di Đà, Kinh Hồng Danh Bửu Sám, Phẩm Phổ Môn, Dược Sư...

    Cho nên làm ơn hiểu giùm là không có những khái niệm này nên không có những phương cách tu tập như vầy. Thiền của Nam tông cũng không giống thiền của Bắc tông. Ngay cái cơ bản này mà còn không hiểu được thì đừng nói gì tới chuyện tu hành không còn chấp thủ, không hiểu biết khác không chấp thủ !

    Làm ơn học giùm và suy nghĩ kỹ trước khi post bài trong mục PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY !

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    Đề nghị Minh Đài chịu khó vận thần thung bay wa bài "một số Bài kinh Bảo hộ của nam tông" mà coi phần trả lời của Hoa Sen về quan điểm Phật giáo Nguyên Thủy, trước khi tiếp tục post lạc đề nữa nghen !
    Không cần đâu ,tỷ không xem nhưng đã hiểu đệ đừng bận lòng nữa
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  15. #15

    Talking

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    Đây chính là sự khác biệt của người đã có thành tựu và người chưa được thành tựu,tỷ là người nhìn thẳng trực TÂM không còn dựa vào những bài học của đệ đưa ra .
    Đệ nên nhớ sự tinh túy của ĐẠO là không phải trên sự xuất sứ hay nơi tu tập ,mà là người có hành được hay không?tỷ không cần biết đệ đã tu thời hạn là bao lâu ,hành trì những gì ,tu tập cái gì ,và đã giữ bao nhiêu giới những thứ đó chỉ là phương tiện mà thôi ,quan trọng tỷ HỎI:ĐỆ ĐÃ HÀNH THỰC TIỄN ĐẠT ĐƯỢC BAO NHIÊU?
    Cách đối xử cách ăn nói và hành động là kết quả biết người tu đến đâu ,qua lời đối thoại đệ nên xem lại tỷ không cần nói và cải chi cho mệt
    --------------

    Thôi không tranh cãi nữa, quá nhiều thời gian để tranh cãi rồi, mấy năm nay òi không phải ít. Cứ cái bệnh nan y mãn tính của tỷ, đang nói chuyện kinh sách nhảy qua cảm xúc phân biệt. Uổng công viết bài cho tỷ. Mệt. Nản. Mai mốt không mất công viết nữa... ai tu nấy chứng ai học nấy hiểu ai ăn nấy no... mệt mỏi...

    Mai mốt đừng có gọi điện, nhắn tin, chat chít gì nữa hết nhé, tu giỏi tu hay thì tu một mình đi, cũng đừng có phóng từ trường qua dòm lén nữa nhé, người ta tu đường đường chính chính thì cứ suy diễn lung tung, post cho nguyên xi kinh kệ người ta tu tập thì tỏ vẻ coi thường không thèm coi, đúng thiệt là càng già càng cố chấp ! Mệt. đi ngủ còn sướng hơn, càng tu càng trẻ ra Minh Đài càng tu càng xấu thấy rõ ! vậy thừa biết ai tu thực tiễn tới đâu òi nghen.
    Last edited by hoasenngancanh; 02-07-2012 at 11:20 AM.

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    --------------

    Thôi không tranh cãi nữa, quá nhiều thời gian để tranh cãi rồi, mấy năm nay òi không phải ít. Cứ cái bệnh nan y mãn tính của tỷ, đang nói chuyện kinh sách nhảy qua cảm xúc phân biệt. Uổng công viết bài cho tỷ. Mệt. Nản. Mai mốt không mất công viết nữa... ai tu nấy chứng ai học nấy hiểu ai ăn nấy no... mệt mỏi...

    Mai mốt đừng có gọi điện, nhắn tin, chat chít gì nữa hết nhé, tu giỏi tu hay thì tu một mình đi, cũng đừng có phóng từ trường qua dòm lén nữa nhé, người ta tu đường đường chính chính thì cứ suy diễn lung tung, post cho nguyên xi kinh kệ người ta tu tập thì tỏ vẻ coi thường không thèm coi, đúng thiệt là càng già càng cố chấp ! Mệt. đi ngủ còn sướng hơn, càng tu càng trẻ ra Minh Đài càng tu càng xấu thấy rõ ! vậy thừa biết ai tu thực tiễn tới đâu òi nghen.
    violent105violent105 cái tội tự ái nè ,tỷ không xấu tánh như đệ đâu :silly:hi...hi....
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  17. #17

    Talking

    HUNG DỮ WÁ !

    tâm dữ đã lộ ra tướng òi. Nghỉ chơi. Bo bo xì... đàn bà càng tu chỉ càng đắc cái hung dữ. đời nào mà thành Phật cho nổi !

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  18. #18

    Mặc định

    rose4
    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    HUNG DỮ WÁ !

    tâm dữ đã lộ ra tướng òi. Nghỉ chơi. Bo bo xì... đàn bà càng tu chỉ càng đắc cái hung dữ. đời nào mà thành Phật cho nổi !
    rose4rose4rose4CHÚC ĐỆ THÀNH TỰU TRÊN PHÁP TU cám ơn đệ nhiều rose4rose4tặng đệ nè
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  19. #19

    Arrow CHÚ GIẢI LỊCH SỬ CHƯ PHẬT - Dịch giả: TỲ KHƯU THIỆN MINH

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
    Theravāda

    CHÚ GIẢI LỊCH SỬ CHƯ PHẬT

    Nguyên Tác: BUDDHAVAMSA
    Bản Pāli Ngữ: BUDDHATTA THERA
    Bản Dịch Anh Ngữ: I.B. HORNER
    Bản Dịch Việt Ngữ: TỲ KHƯU THIỆN MINH

    PL. 2551 - DL.2007


    Lời Giới Thiệu

    Hội Thánh Ðiển Pāli đã tồn tại gần trăm năm. Cho đến thời điểm, năm 1976, hội đã xuất bản hầu như toàn bộ các tác phẩm kinh điển viết bằng tiếng Pāli ngoại trừ các tác phẩm Vô Ngại Giải Ðạo (Paṭisambhidāmagga), Thí Dụ Kinh (Apadāna), Bộ Song Ðối (Yamaka) và một phần tác phẩm Paṭṭhāna. Nhng cho đến nay chỉ xuất bản được bốn tập Chú giải mà thôi: đó là các tập Chú giải về Tiểu tụng Khuddakapāṭha[1], Pháp cú Dhammapada[2], Dhammasaṅgaṇi[3] và Thuyết luận sự Kathāvatthu[4]. Nhằm kỷ niệm sinh nhật thứ một trăm vào năm 1981 Hội Thánh Ðiển Pāli đã thiết lập một dự án dịch thuật các tập Chú giải (Aṭṭhakathā). Mục tiêu của dự án này nhằm xuất bản càng nhiều bản dịch Anh Ngữ càng tốt, ngay sau khi đã sẵn sàng, chứ không đợi phải đến ngày kỷ niệm một trăm năm mới thực hiện. Tôi cảm thấy một vinh dự lớn lao vì bản dịch tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (Bhudhavaṃsa) (BvA) của tôi có tên gọi là Mahuratthavilāsinī hay ý nghĩa ở Anh Ngữ là Người Khai Sáng Ý Nghĩa Ngọt Ngào (Clarifier of the sweet meaning) (CSM) là tác phẩm đầu tiên được đưa vào in ấn trong dự án này. Ðiều đó có nghĩa là hầu như tác phẩm đã gần hoàn tất trước khi dự án được hình thành, điều này đã tạo cho tôi một lợi thế lớn so với các bạn dịch thuật đồng nghiệp của tôi.

    Và như vậy, tôi nắm bắt cơ hội này để thực hiện một số nhận xét chung, ngắn gọn bao quát có thế; trước tiên về nguồn gốc tập Chú giải, rồi đến chức năng và cuối cùng là một số vấn đề liên quan đến phương pháp thực hiện. Tôi hy vọng công việc này sẽ giúp đưa ra những đường nét hướng dẫn cho những nghiên cứu trong tương lai, khi ta nhắm tới cấu trúc và tổ chức Chú giải như một khối toàn diện, không loại trừ công việc nghiên cứu những điểm dị đồng và bất đồng có thể phát hiện tồn tại nơi các Tập Chú giải và giữa các Tập Chú giải với các nhóm nghiên cứu.[5] Thí dụ như các tác phẩm BvA, Jātakanidāna, VvA, PvA. CpA và ApA có thể giải thích cho rằng có liên quan nhiều hơn với việc Chú giải những vấn đề truyền thuyết hơn là các giới luật tu trì (Vinaya), các chủ đề học thuyết và rất nhiều các điểm khác về (Sutta Kinh Phật), hay những khái niệm triết học siêu hình (Abhidhamma Vi Diệu Pháp).

    Vì các tập Chú giải họp thành một ngành quan trọng trong văn chương Pāli, căn bản đối với việc giải thích chính xác về Phật Pháp. Không phải vì thế mà chúng không thu hút chú ý của một số vị có thẩm quyền đáng tin cậy trong lãnh vực nghiên cứu văn bản Pāli. Nổi bật nhất trong mối tương quan này ta thấy nổi lên E.W. Adikaram[6], ông đại khái đã chia các tư liệu của mình thành hai nhóm: những khác biệt có liên quan đến các Tập Chú giải (Aṭṭhakathās) và Kinh điển (Canon) và những khác biệt giữa tập Chú giải (Aṭṭhakathās) với những gì còn lại. Tất cả những gì ông đề cập đến đều đáng cho chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng và đắn đo suy xét. Những nhận định do Thiền sư ṇamoli thực hiện về các công vụ[7] Chú giải và nhiệm vụ của các tập Chú giải[8] cũng rất ư là sáng suốt và hữu ích, tuy có ngắn hơn đôi chút. Tác phẩm vừa xuất bản mới đây của M. Winternitz[9] và của B.C. Law,[10] cả hai công trình nghiên cứu này đều đề cập đến những vấn đề chung chung liên quan đến xuất xứ Chú giải, sự tăng trưởng, mục tiêu và nội dung[11] của các tác phẩm Chú giải Kinh Phật.

    Những gì tiếp theo sau đây tôi muốn đề cập đến các tập Chú giải với những đường hướng khác hơn và cách tiếp cận những phương pháp Chú giải tôi đã đưa ra trong Chương III trong phần nhập đề này, được thực hiện toàn khối từ những góc độ tôi chưa thấy được thảo luận cho đến giờ phút này. Nhưng trước tiên, những nguồn tư liệu của các tập Chú giải (ctys) phải được tái khẳng định, bất chấp toàn bộ những gì đã được đề cập đến rất nhiều về vấn đề này. Hình như vẫn còn nhiều điều chưa được làm sáng tỏ và còn gây hiểu lầm. Thứ hai, mục tiêu hay đối tượng của các Tập Chú giải (ctys) cũng cần được xác định trở lại một lần nữa, chủ yếu là đưa ra những điểm nhấn mạnh đúng đắn về lý do và sự cần thiết trong việc biên soạn ra chúng. Thế rồi, trong đoạn III có một số phương sách đặc trưng được sử dụng trong qui trình làm sáng tỏ những điểm trên cũng được thẩm tra lại. Không ít khi công việc làm sáng tỏ dễ hiểu này lại còn trở nên hữu ích trong việc truyền đạt kiến thức cho ta nữa.

    -ooOoo-

    I. NGUỒN TƯ LIỆU CÁC TẬP CHÚ GIẢI

    Việc biên soạn các tập Chú giải dưới dạng chúng ta đang có trong tay hiện nay chủ yếu do Budhaghosa và Dhammapāla thực hiện và tới một mức độ ít hơn cũng do Buddhadatta thực hiện nữa, tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) được gán cho vị này. Cả ba người đều là các vị tỳ khưu và đều sống ở thế kỷ thứ năm sau CN, và đều sinh sống tại Ấn Ðộ rồi chuyển sang Mahāvihāra tại Thành Phố Anurādhapura bên quốc đảo Sri Lanka để theo đuổi công việc dịch thuật tại đó với sự đồng ý của các nhà sư sở tại. Rất có thể đã có nhiều hơn một nhân vật có tên là Buddhaghosa và Budhadatta và cũng rất có thể lại có đến bốn nhân vật có tên là Dhammapāla[12]

    Nói một cách chính xác, chẳng có ai trong ba nhân vật kể trên là tác giả của bất kỳ tập Chú giải nào đã được truyền lại cho chúng ta được ghi tên các vị này cả. Trừ trường hợp họ chỉ là dịch giả và là nhà biên tập chủ yếu tham gia công việc biến đổi các tác phẩm này theo một thứ tự khả dĩ dễ chấp nhận và tinh vi hơn về các tư liệu họ đã phát hiện tại Sri Lanka dưới danh nghĩa là các tập Chú giải. Rất có thể bắt nguồn từ Ấn độ (cũng rất có thể lại xuất phát từ chính Ðức Phật) rồi trưởng lão Mahinda đã đem các tập Chú giải này sang Sri Lanka dưới dạng ngôn ngữ Māgadhī, rồi cũng chính tại đảo quốc này các tập Chú giải này đã được dịch sang tiếng Sinhale (Tích Lan). Và chính vì thế cho nên các tập Chú giải này đã còn tồn tại. Một số các tập Chú giải này đã tồn tại khoảng chín trăm năm trước khi chúng được chuyển sang một ngôn ngữ ngày nay, chúng ta gọi là Tiếng Pāli, cũng như do một số người mà ngày nay chúng ta gọi là các bậc Chú giải đã sắp xếp và biên tập lại, trong đó có Buddhaghosa và một số người khác mà tên tuổi của họ đã được ghi lại trong các tác phẩm này cho đến ngày hôm nay. Nhưng họ thực sự chỉ là dịch giả và biên tập các tác phẩm này mà thôi,[13] chớ không phải là tác giả và biên soạn nguyên thủy của các tác phẩm này. Chính Buddhaghosa, hay như chúng ta có thể tin tưởng, đã đề cập rất nhiều trong các đoạn kệ giới thiệu mỗi tác phẩm dài viết về bốn tập Bộ Kinh Pāli Nikāya, cũng như trong các tác phẩm viết về VA[14] và về Asl[15]. Chỉ nghiên cứu các tập Chú giải các Bộ Kinh Pāli đầu tiên, chúng ta thấy ngài Buddhaghosa đã nói rằng:

    “Các tập Chú giải đã được tụng ngay trong Hội Nghị Ðầu Tiên[16] do năm trăm vị Trưởng Lão và sau này lại được tụng trở lại tại (đại hội thứ hai và đại hội thứ ba[17]), đã được mang sang đảo quốc Sīhala[18] do Māha-Mahinda và sau này được dịch sang tiếng Sihāḷa nhằm đem lại lợi ích cho các cư dân sống trên đảo Sri Lanka. Loại bỏ tiếng Sīhala khỏi các tập Chú giải và dịch sang ngôn ngữ[19] đẹp, dẹp bỏ những thiếu sót, làm cho ngôn ngữ này thích hợp với văn phong bản văn Kinh Phật Pāli[20] mà không đi ngược lại với truyền thống của các vị Trưởng Lão đang trụ trì trong vùng Mahāvihāra, các ngài là những ngọn đèn theo dòng giõi các vị trưởng lão, là các chuyên gia trong mọi quyết định, ta sẽ chuyển đổi làm cho ý nghĩa trở nên rõ ràng, loại bỏ những nhắc đi nhắc lại không cần thiết, nhằm đem lại phấn chấn cho chúng sanh và nhằm giúp Phật Pháp tồn tại vĩnh viễn.”

    Buddhaghosa đã nói, như đã được ghi lại trong phần giới thiệu bản dịch sang tiếng Pāli phần Chú giải Bộ Luật (Vinaya) như sau:

    “Vì tập Chú giải này được biên soạn bằng ngôn ngữ đảo quốc Sihala, thế nên không thể phục vụ cho chư vị tỳ khưu và bá tánh tại hải ngoại. Chính vì thế giờ đây ta sẽ bắt đầu dịch tập Chú giải này cho khớp với văn phong bản văn Kinh Phật. Trong phần mở đầu tập Chú giải này ta sẽ dựa trên điều đó đối với tác phẩm Ðại Chú giải (Mahā-aṭṭhakathā) và không loại bỏ bất kỳ ý nghĩa chính xác nào cùng những khoản luật giới đã đưa ra trong Mahāpaccari và một số tập Chú giải nổi tiếng khác như tập Kurundi đã được truyền thống các vị Trưởng Lão chấp nhận... Chính vì thế ta sẽ tránh được những cách Chú giải không chính xác (viết sai) được truyền lại trong các tập này. Ðể từ đó, chỉ loại bỏ sự khác biệt ngôn ngữ[21] và cô đọng lại các phần Chú giải đã được kéo dài thêm, không loại bỏ bất kỳ quyết định nào đồng thời cũng không đi lệch hướng so với bất kỳ truyền thống bản văn nào... (ta sẽ Chú giải tác phẩm Luật (Vinaya)[22]

    Còn nữa, theo Bà Rhys Davids lưu ý. Chính Buddhaghosa đã đề cập đến trong các đoạn kệ giới thiệu tác phẩm Chú giải Bộ Pháp tụ (Atthasālini)”[23] “Tập Chú giải[24] Vi Diệu Pháp, ngài Ðại ca diếp (Mahākassapa) cùng với các đại Thánh tăng khác đã tụng trước tiên trong Ðại Hội Lần thứ nhất và sau này các vị Thánh tăng khác đã tụng tại đại hội thứ hai và đại hội thứ ba và rồi Trưởng Lão Mahinda, đã được chuyển tới quốc đảo tráng lệ này và đã được viết thành ngôn ngữ các cư dân trú ngụ tại đây. Loại bỏ khỏi tập Chú giải này ngôn ngữ của những cư dân tại Tambapaṇṇi[25], dịch tác phẩm này sang một ngôn ngữ hoàn hảo và được viết bằng một loại văn phong bản văn Kinh Phật Pāli, làm sáng tỏ và giải thích các quyết định của các cư dân sống trong vùng Mahāvihāra không pha tạp và không bị tha hóa do các quan điểm của các giáo phái khác, và chỉ nghiên cứu những gì cần phải nghiên cứu được trích ra từ các Bộ Kinh Pāli (Nikāya) và các tác phẩm Chú giải, Ta sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa và làm cho người trí hoan hỷ.”

    Thật không thể khẳng định rõ ràng hơn được nữa, mối bận tâm to lớn của ngài Buddhaghosa chính là rút ra từ một đống các tập Chú giải cổ xưa đồ sộ đó, để đem lại hình thái có hệ thống và có lý hơn, dễ dàng thấu hiểu đối với một số lớn các vị tỳ khưu và đồng thời loại bỏ những tư liệu không cần thiết được tìm thấy trong đó. Ngài còn quyết định trung thành tuyệt đối với cách tiếp cận với phương pháp Chú giải không thể không nắm giữ đối với Giáo Pháp của các vị Trưởng lão và hay truyền thống Nam Tông, được cất dấu trong đó. Ngoài ra rất ít khi ngài đưa ý kiến riêng của mình vào các tác phẩm đó, ngài chỉ biên dịch từ tiếng Sihale sang tiếng Pāli mà thôi, và đó là những gì ngày nay chúng ta đang có trong tay được coi như là các tác phẩm Chú giải Pāli vậy.

    Câu truyện truyền thống cũng cung cấp thêm một vài chi tiết cho trong Mhvs[26] chỉ là theo lời khuyên của vị trưởng lão Revata trụ trì tại Bodh-gayā, là một cậu bé Bā-la-môn (sau này có tên là Buddhaghosa) đã nhận được lệnh pabbajjā, hay “xuất gia” như là một điều chuẩn bị cần thiết để sang Sri Lanka hầu có thể hoàn thành lời ước để thực hiện một cuộc nghiên cứu sâu rộng về Tam Tạng cùng với những tập Chú giải về kinh này. Vì ở đây, tại Jambudipa, (Ấn độ) theo lời Hoà Thượng Revata giải thích, “chẳng tồn tại bất kỳ một tập Chú giải nào cả” n’atthi aṭṭhakathā idha. đặt chân đến Mahāvihāra, Buddhaghosa đã yêu cầu có được “toàn bộ các bản chép tay” để ngài có thể biên soạn một tập Chú giải. Nhằm thử khả năng của ngài Buddhaghosa với tư cách là một nhà tổ chức biên soạn bản văn và cũng như là một dịch giả (từ tiếng Sinhale sang tiếng Māgadhas[27]) và để xác định được kiến thức của ngài về các tư liệu ngài chờ đợi để triển khai, các vị tỳ khưu sở tại, vô cùng kinh ngạc trước hiểu biết và kiến thức của ngài, liền đưa cho ngài hai đoạn kệ và nói: “Hãy tỏ rõ khả năng của ngài với các đoạn kệ này, khi nào chúng ta nhìn thấy khả năng của ngài, chúng ta sẽ đưa cho ngài toàn bộ các bản chép tay” tác phẩm Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga) là kết quả của các cuộc nghiên cứu của ngài về các bản văn Kinh Phật Pāli và các tập Chú giải cổ viết bằng tiếng Sinhale. Cho dù chính ngài đã viết, đây chỉ là một tác phẩm nguyên bản ở mức độ ngài đã hệ thống hoá và điều phối hợp các tư liệu Chú giải cổ xưa biến thành ít phổ biến và một hình thức cô đọng hơn các hình thái nguyên bản, hầu như vẫn chiếm ưu thế hơn trong các tập Chú giải[28] này. Ở mức độ đó tác phẩm nguyên bản” khác được gán cho Buddhaghosa, có tên gọi là ṇodaya, chỉ được biết đến dưới dạng một vài Ms hay một phiên bản của nó không ngờ lại được đưa ra ánh sáng.[29] Rất tiếc chẳng có tập Chú giải nổi tiếng Pāli nào còn tồn tại, những tập Chú giải đó được Buddhaghosa biên tập” và chuyển ngữ, rồi đến ngài Dhammapāla và tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) lại do Buddhadatta thực hiện. Nhưng hình như Buddhaghosa đã sử dụng hầu hết tên các tác phẩm đó, đặc biệt là trong tác phẩm VA, và chính ngài đã truyền xuống đến chúng ta thông qua các tác phẩm Mahā- hay Mulā- aṭṭhakathā, Mahāpaccari, Kurundī. Và Andhakaṭṭhakathā và cả một số tác phẩm khác nữa.[30]

    Ðôi khi những tác phẩm này chỉ được trích dẫn, đôi khi lại được phê chuẩn, đôi khi ngài còn phê phán ngược lại như trong Tác phẩm VA và ở một số tác phẩm khác[31]. Như vậy chứng tỏ cho thấy ngoài việc làm một dịch giả, ngài còn quan tâm nhiều đến việc biên tập nữa. Cũng như vậy đối với Dhammapala và Buddhadatta trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) không đích danh đề cập gì đến các tác phẩm cổ xưa này. Tuy nhiên[32] cách diễn tả “trong các bản chép tay”, potthakesu rất có thể ám chỉ về các tác phẩm này.

    Cũng vậy, và ngay cả sống trước thời các vị biên soạn các tác phẩm cổ này, có các vị Porāṇas, là các vị học giả, “không còn gì phải nghi ngờ họ là các vị thiền sư thuộc hạng niên trưởng và họ đã chiếm một vai trò quan trọng trong việc hình thành và ổn định trường phái Nam Tông[33].” Adikaram cũng thuận theo ý kiến cho là ngay cả nếu như họ không được biết đến tại Ấn độ đích danh là các vị Porāṇas, ấy vậy mà quan điểm và những giải thích Giáo Pháp của họ lại được kết hợp chặt chẽ trong một tác phẩm Chú giải cổ (như đã được đề cập đến ở trên) khi tác phẩm Mahā-aṭṭhakathā và các tác phẩm Chú giải khác đã được biên soạn, được phổ biến với tên gọi là Porāṇaṭṭhakathā.[34]

    Tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) hầu như không thể chứng tỏ cho thấy có các vị Porāṇas tồn tại và gán cho họ một đoạn kệ được trích dẫn[35] ít nhất trong mười một tác phẩm Chú giải khác. Hơn thế nữa, trong bản Chaṭṭhasaṅgyan viết bằng tiếng Miến về tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) cũng gán đoạn kệ sau đây với một câu chú thích cho là bản dịch tiếng Sinhale đã bỏ qua cả đoạn kệ lẫn việc qui kết của tác phẩm[36] này:

    Một Vị Phật xuất hiện trong Kiếp Sāra, trong Kiếp Maṇḍa có hai vị Chiến Thắng xuất hiện.

    Trong Kiếp Vara xuất hiện ba Vị Phật, Kiếp Sāramaṇḍa có bốn Vị Phật xuất hiện.

    Năm Vị Phật xuất hiện trong Bhadda Kiếp; chẳng còn vị Chiến Thắng nào nhiều hơn thế nữa xuất hiện đâu.

    Hơn thế nữa, trong khi đưa ra tám lý lẽ thường dùng nêu lên lý do tại sao đức Thế Tôn lại được gọi là Vị Như Lai, cho dù tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) có trích dẫn ba đoạn kệ[37] mà hầu như trong các Chú giải khác đã đồng nhất với nhau về cùng một chủ đề được qui cho Porana. Ðiều này không phải như vậy. Còn nữa, có một đoạn kệ mà ít nhất bốn tập Chú giải khác đều mô tả như vậy, nhưng cả tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)[38] hoặc giả UdA 403 đều làm như vậy. Tôi chẳng tìm thấy bất kỳ đoạn kệ nào trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) lại mô tả về họ cả. Phải chăng chỉ có tập Chú giải (cty) là không làm như vậy sao?

    Ngoài một số hiểu biết về các vị Poranas, tức các vị cao niên là những người tiền nhiệm mình, các vị Chú giải (ctys) cũng đã ý thức được về những vị này, rất có thể là những người đồng thời với mình, và đôi khi họ cũng đề cập đến các vị này như là “họ” (they: được hiểu là như vậy), api paṭhanti, họ cũng đã giải thích”[39]; đôi khi như là aññe hay là apare[40], là những người khác; và thường xuyên hơn là keci, tức là một số. Rất có thể, trong một số đoạn “những người này” cũng được hiểu một cách hoàn toàn khác. Thí dụ như, một đoạn về nirāmisa trong tác phẩm PṭsA bắt đầu nói rằng, “trong bản chép tay họ (hiểu ngầm) viết là ‘sāmisañ ce’. Điều đó “không khá hơn” potthake sāmisañ ce ti likhanti. Likhanti,tam na sundarataram[41]. Vậy nó đã đưa ra ba bội đôi trong việc xác định và phủ định, phải thông hiểu hay hiểu ngầm trong việc giải thích nirāmisa và sāmisa. Ngữ cảnh trên được giải thích trước tiên trong những danh từ hay những ý niệm (liên kết với từ gotra-bhū), trước tiên giải thích anne sau đó keci. Cả hai sự giải thích đó dẫn đến không thoả đáng. Và một lần nữa, ví dụ trong UdA 116 253 428 đều mà kesi nói, vanneti vadanti, pathanti, được người ta nói như là tam na sundaram, “điều đó chưa đúng”. Việc nghiên cứu của họ cũng thấy loại bỏ trong UdA 34, tan akāranam, và 431, n’attha’idam kāranam “ đó là điều nhầm lẫn”, cũng có thể trong UdA 44, nhưng không cần thiết ở trong UdA 51. Thực vậy, Tiến sĩ Lily de silva tìm thấy sự khác biệt đó đối với huynh hướng của keci có nghĩa xấu, Kesi thì trú ở Abhayagirins và cũng có thể trú ở utara vihara, quy định điều này không có nhất quán[42] mà theo DPPN hoàn toàn chấp nhận cả hai là đúng[43]. Tuy nhiên điều đó chúng ta nên ghi nhận rằng dường như vấn đề đó tỷ lệ đọc hiểu hay nói chính xác (vadanti) quy cho kesi thu nhận mà không có bất kỳ sự phê bình nào ca[44], do đó sự giải thích này thường không có nghĩa là bị phản đối như người không đúng vững. Nhưng cho đến thời điểm này, nhìn bao quát sự khác nhau các bản chú giải đối với Kesi đã biên soạn, nó có thể chỉ trích dẫn một vài công trình nghiên cứu ở nơi này, nơi nọ trong một phương pháp lung tung.

    Như vậy, điều đó dường như khả quan hơn cho việc trình bày chỉ một số trường hợp nhỏ khi Phật tông quy cho việc đọc khác nhau đối với kesi phát biểu đồng ý hay không đồng ý, hoặc ra mắt đồng ý, hay xác định không đồng ý. Nhưng chúng tôi hy vọng con số nhỏ này sẽ là đủ đánh dấu sự quan trọng bộ Phật tông gắn liến với Kesi. Liên quan đầu tiên trong ba phân loại này chính là đoạn văn sau đây: gavapānena ti idam vuttam eva, ghatapānenā ti pi pathanti keci[45]. Hoặc một lần nữa, atthamī ti atthan gato, kesi attham gato ti pathanti[46] Và, yavavipulo ti vipulayaso... keci tatth’ āsi vipulo rukkho ti pathanti- “bao quát là nổi tiếng... một số người đọc ‘đã có một cây lớn ở đó’[47].

    Nhưng chúng tôi cũng chấp nhận: cando tāragane yathā ti... kesi cando pannaraso yathā ti pathanti – “ như mặt trăng ở giữa các vì sao... một số người đọc ‘ như mặt trăng vào ngày 15”. Việc đọc này dường như không được chấp nhận như trong Phật tông đã nói, so uttānattho va, “ ý nghĩa này hoàn toàn rõ ràng[48].

    Trái lại, ở đây có đoạn kinh văn: sabbakilesānī ti sabbakilese, lingavipariyāsam katvā vuttaṃ kesi tattha sabbakilesehī ti pathanti –“ tất cả phiền não có nghĩa là tất cả phiền não, ý muốn nói đã được thay đổi giống. Một số người đọc ‘ ở đó ( ví dụ như cây giác ngộ của nārada)bằng tất cả những phiền não’’’[49], điều đó không đúng vì không ghi nhận điều này. Tuy nhiên, điều kesi nói, vadanti, về sự hiện hữu tám phẩm chất đặc biệt”, dứt khoát không chấp nhận cho sự không đồng ý có hay thích hợp bản văn, tam pāliyā na sameti[50] . Ðây là điều thật tế đối với “một số người” lầm lẫn khi giải thích những phẩm chất này liên quan với những vị ẩn sĩ mà những vị này có thể cung ứng tám điều hạnh phúc, nơi đó hạnh phúc được tiếp nhận liên quan với trạng thái tâm của các vị sa môn: tỉnh thức, thanh tịnh, trong sáng, không nhuợc điểm, không phiền não, nhẹ nhàng và thoải, thích hợp, không lay động[51].

    Một vài từ ngữ ở đây nói về kesi có thể cho chúng ta những biểu hiện quan tâm bên ngoài đối với Phật tông đã chú giải và dịch thuật. Thật vậy, nó được nói thêm ở đây rằng có một số người bị phản đối vì họ viết sai trong kinh điển: mayi pabbajite ti mayi pabbajitabhāvam upagete. Mama pabbajitam santan ti potthakesu likhanti, so pamādalekho ti veditabbo[52]. Khi tôi xuất gia có nghĩa là khi đó tôi đạt được trạng thái của một người xuất gia. Họ đã viết trong kinh văn ‘ ở đó có sự xuất gia của tôi’; điều này phải hiểu ngầm là viết sai [53].

    -ooOoo-

    II. CHỨC NĂNG MỘT TẬP CHÚ GIẢI

    Mục tiêu căn bản nhất của mỗi Tập Chú giải chính là giải thích ý nghĩa các từ, các cụm từ nơi các đoạn Kinh Phật được rõ ràng, dứt khoát và còn phải là điều giải thích chung cuộc nữa, “để khám phá” theo như lời[54] E. Hardy, và hầu như vượt qua mọi nghi ngờ và mọi tranh luận. Ðể bảo toàn tối đa Giáo lý của đức Phật theo ý nghĩa đã được trù liệu từ trước, và đã được các vị luận sư truyền đạt lại một cách liên tục, ācariyaparampara[55]. Lúc nào cũng vẫn có những người nói xuyên tạc, luôn vẫn có và sẽ còn có nhiều người cải tiến” sẵn sàng đưa ra những nhận định của riêng mình. Thông qua cả bạn lẫn thù luôn có những thay đổi độc hại và việc làm giảm giá trị lời của Ðức Phật vẫn thường xen vào trong một thời gian dài bất tận. Các vị Chú giải đóng vai trò là áo giáp để bảo vệ và chống lại những tình huống như vậy. Vì họ chiếm một vị thế độc nhất đó là những người duy trì và giải thích Phật Pháp đích thực. Ðiều thiết yếu không những là chỉ hiểu họ, nhưng còn phải theo dõi họ một cách cẩn thận và chấp nhận ý nghĩa họ gán cho một từ một cụm từ mỗi lần họ Chú giải. Giờ đây họ rất “gần gũi” với Kinh Pāli. Họ không thêm vào bản văn hoặc bớt đi điều gì còn phải được nghiên cứu thấu đáo. Và chẳng có tập Chú giải nào được viết ra vào những thời điểm sau này có thể được ghi thêm vào đó. Với các ṭikàs hay những tập Chú giải phụ giải thích những điểm trong các tập Chú giải “cần phải được làm sáng tỏ thêm phần giải thích chính xác hay đôi khi chỉ là thêm vào những thông tin”[56] là điều chúng ta không quan tâm đến ở đây.

    -ooOoo-

    III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHÚ GIẢI

    Các tập Chú giải chính là một kho tàng về kiến thức sắp loại từ kiến thức tột đỉnh để đạt đến tư tưởng Phật Giáo. Ví dụ như Tam Bảo, Ngũ Uẩn,(khandha), Giới (dhātu), các Xứ (āyatana), y tương sinh (paṭiccasamuppāda). Các quyền (indriya), Chánh Ðạo (magga) và tám thành tố cấu tạo thành chánh đạo gọi là Bát Chánh Ðạo, Thiền (jhāna) và các chứng đắc (samāpatti), các điềm báo (tướng) hiện tượng hiện hữu (lakkhaṇa), giải thoát (vimutti), níp-bàn và các từ đồng nghĩa khác, thông qua những khái niệm triết học và tâm lý học ít được đề cao, đến các vấn đề quen thuộc như: nơi chốn, cây cối. Gia súc hay súc vật.

    Trong tập Chú giải này tác giả đã thường xuyên lưu ý đến Ngữ Pháp; những thay đổi thì và giống cách này cách khác cũng được tác giả thay thế dần và cũng được lưu ý đến một cách đặc biệt như ta đã thấy xuất hiện trong thực tế được ghi lại trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) và vấn đề này được gọi là cách sử dụng ngữ pháp hay các qui tắc Ngữ pháp (lakkhaṇa[57]).

    Các tác giả cũng sử dụng rất nhiều cách ví von và các ẩn dụ được kể lại và dùng làm đối kháng cũng như các câu chuyện thường xuyên được nói đến để minh hoạ một điểm nổi lên và đưa ra một số viễn cảnh cho toàn bộ vấn đề. Một vài điểm này có liên quan đến quá khứ, rất có thể là những điều cổ xưa hoặc giả là những chuyện cổ tích, có những lúc là những biến cố không mấy xa xưa. Câu chuyện có thể được kể dưới dạng chuyện Kinh Bản Sinh, số khác được coi như là có thực và không quá xa xưa, rất có thể là những sự kiện đang diễn ra và sự xuất hiện có thể liên quan đến những vấn đề như thuộc lãnh vực chính quyền địa phương. Các phong cách hay tập tục nổi cộm và cách thức ứng sử lại được công bố là tốt hay xấu, nghiêm túc hay không nghiêm túc cả hai đều có liên quan đến những hậu quả xã hội và kết quả nghiệp chướng nữa. Nhưng vấn đề này không thể truyền đạt trong một khuôn khổ hạn chế bài giới thiệu và ở đây chỉ đưa ra một đường nét bao quát bản chất vấn đề, luôn luôn là mối quan tâm lịch sử đáng cho chúng ta lưu ý. Không còn nghi ngờ gì nữa toàn bộ những tập Chú giải đã sử dụng tư liệu này như là một loại tác dụng phụ của các từ ngữ và các đoạn văn đang được Chú giải cách đặc biệt nhằm làm rõ điều cốt lõi những vấn đề này và đầu tư với tính xác thực đáng tin cậy. Tuy nhiên toàn bộ các từ và các đoạn văn này hầu như là vô tận có thể tìm thấy trong các chi mục ở hầu hết các ấn bản của Hội Thánh Ðiển Pāli (PTS).

    Các nhà Chú giải, với sự trợ giúp của trí nhớ không chê vào đâu được, chắc chắn đã chế ngự được toàn bộ các công trình Kinh Phật, nếu không muốn nói là tất cả. Bằng không thì, với sự trợ giúp của việc giải thích Chú giải bằng cách nào họ đã có thể rút ra từ các tác phẩm này một cách thích đáng và đi thẳng vào vấn đề khi có cơ hội yêu cầu[58] hoặc trình diễn một cách tài tình giáo lý lỗi lạc và tiềm tàng chứa đựng[59] bên đó?

    Lẽ đương nhiên nội dung các tác phẩm Chú giải này có khác nhau giữa Luật Tạng, Kinh tạng và Vi diệu pháp. Các nội dung này còn thay đổi tùy bản chất và rất có thể còn tùy tầm quan trọng chủ yếu nó truyền tải, nếu có bất kỳ tác phẩm Kinh Phật đặc biệt nào đang được Chú giải. Như vậy theo Ngài Hoà Thượng ṇamoli thuật lại trong tác phẩm KhA[60] “Mức độ quan trọng trong việc nhấn mạnh chung cuộc lại nằm ở bản văn viết về Từ Tâm được coi là căn bản để đạt đến hạnh phúc tột đỉnh Níp-bàn đã được khai thác triệt để trong tập Chú giải.

    Các nội dung các tập Chú giải có thay đổi là điều tự nhiên. Tuy nhiên các nội dung này cũng tương ứng và phù hợp với nhau đặc biệt trong các từ không thể tránh khỏi và luôn được lặp đi lặp lại xem ra chỉ nhằm nhồi nhét trong Giáo Pháp. Kết quả là, những cách giải thích Chú giải cho thấy có rất ít hoặc không có sự bất đồng đáng kể nào không chỉ trong một hoặc hai tác phẩm Chú giải mà hầu như toàn bộ các tập Chú giải đó như trong các đoạn văn song hành hoặc có thể đem ra so sánh với nhau được, mặc dù đôi khi độ dài đoạn văn có thay đổi và không tương đồng với nhau. Thí dụ như, tất cả các tập Chú giải đều sử dụng từ Như Lai hầu như chính xác hoàn toàn gồm tám lý do tại sao Ðức Phật lại được biết đến[61] như là một vị Như Lai. Ðây không phải là từ có hai nghĩa. Cũng tương tự như vậy, hình như chỉ có một cách giải thích duy nhất về từ caturaṅgika-sannipāta[62], tức là Tăng Ðoàn Tứ Phần các vị tỳ khưu (four factored Assembly of the bhikkhus). Hay chúng ta có thể quay trở lại với một tập Chú giải khá dài và rất giống với tập Chú giải pāṇtipāta. t nhất đã diễn ra trong năm tác phẩm Chú giải,[63] hay đối với những giải thích về các từ tiếp theo rất đa dạng trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 1051 tt., AA v 7-9, hay duvidhaṃ hi kammaṭṭhānaṃ, trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 721-4. MA I 275-8, hay một số loại paññā ghi trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 931-3, MA iv. 82-6, SA i. 119-122. rõ ràng đây chỉ là tất cả những nhắc lại được lấy ra, nếu không phải trong tác phẩm Chú giải đã được sửa soạn và đã được sẵn sàng trước đó, rồi trích từ một số nguồn thông thường khác. Mặt khác, lại có những trường hợp khi các tác phẩm Chú giải có những từ giống nhau và có thay đổi một cách đáng kể. Một ví dụ rõ ràng về điểm này có thể tìm thấy trong các tập Chú giải về các thần linh bhassara, Subhakiṇha và Vehapphalā nh trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 37. MA i. 35 và Chú giải Tăng Chi Bộ iv 27. Vì cho dù một số ít chỉ là cách diễn tả loại suy có thể được sử dụng, toàn bộ những điểm này đều có một điểm chung. Hoặc giả ít nhất cũng có hai các định nghĩa khác nhau về từ bhikkhu, một cách xuất hiện trong tác phẩm Padabhājaniya[64] hay tập Chú giải cổ về các Luật Giới bản[65] còn định nghĩa khác lại xuất hiện trong Niddesa[66]. Cả hai từ này đều được biết bằng tiếng Pāli và mặc dù ngay từ lúc đầu các tác phẩm Chú giải đều được chấp nhận cho là Kinh Pāli trước khi được “đóng lại”.

    Hơn nữa, một từ Kinh Phật rất có thể không được Chú giải ngay trong chính tác phẩm Chú giải đó, cho dù việc Chú giải đó có thể xuất hiện tại nơi nào khác, tuy nhiên, tính cách đáng tin cậy của việc chuyển đổi vị trí giải thích từ tác phẩm Chú giải này sang tác phẩm Chú giải khác cũng có thể đặt ra vấn đề và đôi khi không được chấp nhận[67]. Tuy nhiên hình như thường xảy ra những trường hợp gần như diễn ra thường xuyên. Thí dụ, BvAC tr. 33 Chú giải từ deva-cakkhu cho là deva-cakkhu nghĩa là hiểu biết siêu phàm, abhiññā, chỉ nổi lên do sự gia tăng thêm ánh sáng, lokavaḍḍhana; rất có thể điều này không nói lên cho chúng ta biết nhiều. Nhưng tác phẩm ItA ii. 28 lại coi dibba-cakkhu có nghĩa là, đang tăng thêm ánh sáng kasina, kasiṇalokaṃ vaḍḍhetvā. có ánh sáng kiến thức xuất hiện giống như thiên nhãn, dibbacakhuññaṇassa. Mặc dù có liên quan đến It và ItA liệu cho là Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) cũng đã yên lặng ám chỉ kasiṇa này chăng? Nhiệm vụ của dibbacakhu được giải thích khác đi trong Ndi tr. 255tt.

    Hay, một ví dụ khác, có ý nghĩa liên quan và chính vì thế lại được gán cho từ dukkha trong tác phẩm Chú giải Tăng Chi Bộ ii 96, 203, 208 v.v... lại chính là từ vaṭṭadukkha, nỗi thống khổ do phải tái sanh nơi vòng luân hồi trong khi đó nơi tác phẩm Chú giải Tăng Chi Bộ ii 263, iii. 182 dukkha được giải thích có liên quan đến bốn chân đế.[68] Tuy nhiên, những chân đế này đã bao trùm cả vaṭṭadukkha và việc chấm dứt đau khổ này thể theo Chân Ðế thứ ba. Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) tr. 63 và Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) tr. 41. trong một lời khẳng định dài về từ dukkha, đã cắt nghĩa chân đế này không theo bất kỳ cách nào trong hai cách trên. Nhưng có những từ khác đã xác định rõ ràng các ý nghĩa[69] như thể vedenā[70] rất có thể đã được gộp lại trong một ý nghĩa khác trong năm ý nghĩa hai tác phẩm này đã thừa nhận để đưa ra một chỉ số đối với việc phổ biến dukkha trong cuộc sống chúng ta. Chính vì thế, dukkha, đã trở thành một ví dụ một từ được giải thích ngắn gọn do một số tác phẩm Chú giải. Ðược thực hiện một cách kỹ càng hơn ở các tác phẩm khác, cho dù ngay cả không phải luôn luôn đều có cùng một ý nghĩa rõ ràng. Nhưng một khi, Phật Pháp “sâu xa, khó lòng nhận ra, khó lòng hiểu thấu... lại khả dĩ dễ hiểu đối với kẻ khôn ngoan.”[71] Lại được am hiểu tường tận, đặc tính liên quan và chính xác của ý nghĩa này đã trở nên rõ ràng.

    Tuy nhiên rất nhiều nội dung chính trong các tác phẩm Chú giải có thể thay đổi từ cách này sang cách khác[72], phương pháp Chú giải căn bản và bất biến như ngày nay chúng ta đã nắm bắt được lại phải được thực hiện theo một tuần tự liên tiếp trong khi nó xuất hiện. Ấy vậy, ta không thể nào Chú giải được hết toàn bộ các từ trong Kinh Phật. Có đôi khi chúng ta phải đánh giá với sự trợ giúp Chú giải chẳng có điều gì là sẵn sàng cả. Rất có thể hoặc ý nghĩa đó đã bị thất lạc ngay cả do thời gian các tập Chú giải cổ xưa được biên soạn. Hay từ đã được am hiểu đầy đủ, lúc đó không còn hay không với đặc tính chính xác và chắc chắn nữa.

    Ngoài ra phương pháp Chú giải cơ bản này được theo dõi suốt do tất cả các tập Chú giải. Chúng xuất hiện chung nơi một số các phương tiện Chú giải rõ nghĩa khác nữa. Không nhất thiết phải sử dụng trong mọi lúc, nhưng khi nào có nhu cầu nổi lên, lúc đó các phương pháp này sẽ quay trở lại với nhau, hay đôi khi chúng sẽ trở thành những công cụ tích cực.

    Cho dù những công cụ này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hiểu biết ngày càng lớn lao và chính xác hơn về cấu trúc xét một cách toàn diện. Song chỉ một phần nhỏ thuộc chủ đề rộng lớn này được trình bày ở đây, và chẳng có yêu sách nào được thực hiện ở đây nhằm đạt đến mục đích hoặc hiểu biết về bất luận điều gì hay bằng bất kỳ cách nào. Tuy nhiên, toàn bộ những gì được trình bày dưới đây về những phương pháp Chú giải có thể được thêm vào và ta có thể đem ra tranh cãi về các phương pháp khác. Song giống như vị biên soạn Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), vì sợ phải trình bày tác phẩm quá dài dòng, thế nên tôi chủ chương không trình bày quá dài theo những chỉ số một số phương pháp Chú giải được các tác giả Chú giải sử dụng.

    III 1. Những trích dẫn Kinh Ðiển

    Mỗi tập Chú giải, đặc biệt khi cố gắng vượt qua toàn bộ những tranh cãi, thì cũng có thể đưa ra rất nhiều trích dẫn trong các tác phẩm Kinh Phật. Cho dù thường xuyên có thể đề cập đến đích danh các tác phẩm này[73] hay đưa ra những gì hiện nay ta thường hiểu là những trích dẫn chính xác. Tác phẩm đó có thể đưa ra trích dẫn bằng các từ sau. vuttaṃ pi c’etaṃ. Hay vuttaṃ (pi) h’etaṃ.” Chúng ta có thể nói về điều này”; hay với cách diễn tả, yath[74]’āha hay ten’āha, như người ta đã nói.” Ðôi khi còn thêm vào “do Ðức Phật đã dạy”[75] hay “do các vị Poranas”[76] hay do một số người khác. Nhưng không nhất thiết phải đưa ra tên nguồn tài liệu. Hay một vị Chú giải có thể chỉ đưa ra những mô tả nguồn cung cấp, tỷ như một người bà la môn có kiến thức, chẳng có bất kỳ biểu thị nào cho thấy những trích dẫn đó có thể xuất hiện rải rác trong các tác phẩm Kinh Phật.[77]

    III 2. Những cách giải thích khác

    Có nhiều cách “giải thích khác”, pātha, có thể được đưa ra và xuất hiện tuy không mấy thường xuyên trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)[78] Khi một cách giải thích khác nhau được ghi nhận, ta có thể nói rằng, ayam eva vā pātho[79], “hoặc đây chính là cách giải thích”. Hay có thể nói,... vā pātho[80] hay (chữ này chữ kia) là cách giải thích”, chủ yếu khi có một sự biến đổi ý nghĩa nhất định[81], cách giải thích khác thường này hay bị bác bỏ vì không đúng hay chính xác[82], hay cũng có thể được chấp nhận. Trong trường hợp này ta có thể nói đó là “có cùng một ý nghĩa”, “ý nghĩa là hoàn toàn giống nhau.” Ý nghĩa giống nhau”, so yev’attho, hay, ayam ev’attho[83]. Cũng có những trường hợp trong đó một tác phẩm Chú giải, sau khi đã đưa ra một cách giải thích khác đi và khẳng định điều đó có nghĩa là gì và thêm “ý nghĩa này tốt hơn” hay chính xác hơn ayaṃ sundarataro[84].

    Một đoạn văn rất thú vị trong KhA tr. 78 chứng tỏ cho thấy việc chuyển giao Chú giải một cách tỉ mỉ về vấn đề này như sau: “Và ở đây trong đoạn “một là gì?” (ekam nāma kiṃ) cách giải thích theo hai cách đó là kim và ki ha. Ở đây theo cách giải thích ở tiếng Sinhale là kī ha, vì những người Sinhale thường nói kī ha khi phải nói là kiṃ. Một số (keci) khẳng định ha chỉ là một tiểu từ, và cũng như vậy trong chính cách giải thích[85] theo truyền thống các vị trưởng lão. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp ý nghĩa vẫn hoàn toàn giống nhau và có thể được giải thích tuỳ theo ý thích.”[86] Ðây không phải là điều độc nhất. Các đoạn khác như đã được đề cập đến ở trên cho thấy có một chút thay đổi trong chính ý nghĩa nữa. Như vậy điều này cũng tốt thôi.

    Có hai trường hợp rất thú vị được trích trong UdA[87] trong đó người ta đưa ra nhiều cách giải thích: (1) Kya nu’ atthā ti, katamāya nu bhavatha? Kāya notthā ti pi pāli: so ev’attho. Kāya nvetthā ti pi paṭhanti: tassā katamāya nu etthā ti attho. (2) Na khv’etam ti, na kho etaṃ. Ayam eva vā pāṭho: - na kho tan ti pi paṭhanti, na kho etam icc’ eva padavibhāgo.

    Ngược lại đối với Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), như ta đã ghi nhận, lại đưa ra các cách giải thích khác. Hình như MA viết về Mstas 51-100[88] thí dụ, lại đưa ra rất ít nếu không nói là chẳng đưa ra bất kỳ tham khảo nào về những điểm này cả. Ðiều này hình như cũng đúng trong rất nhiều trường hợp được ghi trong những điều còn lại trong MA, với rất ít ngoại lệ. Ðó là trong MA I tr. 137 khó có thể được kể là điều này xuất phát từ cách mô tả có sẵn (stock) về nhiều ý nghĩa từ agga-sadda, từ ‘agga’. Nhưng lý do đàng sau sự thiếu xót này trong các cách giải thích khác chỉ có thể được phỏng đoán mà thôi. Liệu vị biên soạn tập MA có biết được những khác biệt đó và nghĩ rằng đây là điều không cần thiết đem gộp lại chăng, và tuy nhiên rất có thể lại phán đoán chắc điều đó không mấy khả thi được suy luận rằng tập MA đã có kích cỡ quá lớn rồi chăng? hay liệu ngài biên soạn đó, chủ yếu chỉ mới sử dụng có một nguồn tư liệu chăng? Hoặc giả rất có thể còn có thể xuất hiện nơi các mối liên quan khác, sự cố ý loại bỏ những quan điểm không chính thống về đặc tính chính thống chăng?”

    III 3. Những Liệt Kê

    Một hình thức làm sáng tỏ việc Chú giải lại gồm trong việc liệt kê ra các loại khác nhau nơi cùng một tiết mục duy nhất, toàn bộ điều này có thể có một số liên quan với các từ kinh điển. Thí dụ như, trong MA (Chú giải trung bộ Kinh) ii 112 đặc tính liên quan với từ Kinh Phật. Thí dụ như, trong MA ii 112 qui trình làm dịu đi toàn bộ cấu trúc. Sabbasaṅkhāra-samatha, được giải thích theo hai giai đoạn: trước tiên, bằng cách khẳng định rằng do rung động, lắc lư và dằn vặt các saṅkharas. thì cách làm dịu đi đã đem lại kết quả. Và thứ hai, bằng cách nói đến việc loại bỏ sang một bên cũng một tiết mục.  đây có bốn upadhi. Cụ thể là một căn bản dẫn đến tái sanh. Chính vì thế từ upadhi xuất hiện ở đây bốn lần như là yếu tố cuối cùng của một từ ghép: Khandha-upadhi, kilesa-, abhisaṅk-, hāra-. Và pañcakmaguṅa-upadhi[89]. Toàn bộ những phương thức (chấp thủ) này phải được loại bỏ vì chúng cản trở chống lại việc chứng đắc Níp-bàn. Upadhis được giải thích hầu như đầy đủ hơn trong SA i. 31 và SnA 44 theo thứ tự nghiệp chướng, khandha, kilesa. abhisaṅkhāra. Chúng là trong số ba vivekas, tránh khỏi được liệt kê như là kāya, citta, và upadhi.[90]

    Nhng ví dụ khác trong đó việc liệt kê được dùng để giải thích đó là mariyādā trong MA iv. tr. 89 trong đó có hai loại được đưa ra và rồi lại hai loại nữa; có hai loại; thuộc đồng ruộng. Khetta, ba loại trong MA iv. 114, Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 9; thuộc loại biến mất. Antaradhana. Năm loại trong Chú giải Tăng Chi Bộ 1 87 nhưng chỉ có ba loại trong MA iv. 115. VbhA 431; thuộc về Níp bàn chung cuộc, có ba loại trong MA iv. 116 - hai loại cuối này nằm trong giải thích về apubbam acarimaṃ; về sư tử, sīla, có bốn loại trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii 827. Chú giải Tăng Chi Bộ iii 65, SnA 125; bàn về thế đứng của sư tử, sihaseyyā, có bốn loại ghi trong UdA 403; về thu thúc, saṃvara, có năm loại ghi trong ItA i 110[91], về bài nói chuyện, kathā, về các Vị Phật, có hai loại được ghi trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii 382, KvA 34, cụ thể là sammuti và paramattha; về bài nói chuyện (bình thường), có ba loại được ghi trong MA ii. 258 có tên là ekanālikā, caturassā, nisinnavatthikā. Thế rồi trong tác phẩm KhA vẫn còn bốn loại nói chuyện khác nữa, có tên là catubbidhā, bốn thứ có tên và ví dụ của mỗi loại cũng được đưa ra; cũng lại có ba loại vivekā, tức là tách rời hay viễn ly. Và ba loại thế gian. loka, được nhắc đến dưới đây[92] và nhiều loại khác nữa. Ðiều đương nhiên là con số không được hiểu theo nghĩa đen nhưng đôi khi lại có nghĩa là “các loại” như trong các ví dụ vừa mới nêu ra trên đây; và ôi khi lại là “lý do để” một điều rất rõ ràng được nhận ra trong phần liệt kê bốn loại suttanikkhepa. Những lý do để thực hiện một bài thuyết pháp.[93] Trong mọi trường hợp thường được nói là loại nào đã được nhắm tới ở đây, trong đó “ở đây” có nghĩa là đoạn văn hiểu theo văn cảnh kinh điển đã được làm sáng tỏ.

    Hơn thế nữa, một vị Chú giải có thể chọn ít đề tài hơn trong số một tổng đề tài bao la, hay một số lớn hơn có thể được thêm vào con số ít hơn. Ðiều này một lần nữa mang tính chất chứng tỏ và về đặc tính uyển chuyển nơi các tác phẩm Chú giải lẫn chú ý đã được dành cho việc biên soạn các tập Chú giải này. thí dụ, như chúng ta đã thấy trong Chú giải Tăng Chi Bộ I 87 đã đếm từng antaradhaāna, tức là lần biến mất”tức là năm lần... Điều này có thể thực hiện được bằng cách thêm vào ba lần được kể đến ở nơi khác. Cũng như vậy KhA 120 thêm vào ba loại huyên náo, Kolāhala đối với loại đó KhA 272 và SA I 130 lại ám chỉ như vậy, những điều không thể thích hợp với nhu cầu của họ. Như vậy đối với KhA kolāhala là năm lần, pañcavidha. Còn đối với Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) và SA lại có tới ba kolāhala.

    Như vậy chúng ta đem ra trình bày ở đoạn kế tiếp có liên quan đến “cỗ máy Chú giải”[94] nhưng trước khi tiếp tục công việc có lẽ ta cần phải nhấn mạnh trở lại một lần nữa rằng rất ít ví dụ điển hình được nêu lên trên đây chỉ họp thành không hơn không kém một thành phần không nghĩa lý gì trong việc liệt kê những tỷ lệ, nếu được gom lại sẽ trở thành bao la; và hơn thế nữa những điều liệt kê trên đây chỉ là một khía cạnh trong Kinh Phật mà thôi[95] cũng như các tác phẩm Chú giải vậy.

    III 4. “Những lần” liệt kê

    Ðây là một phương cách trong đó khi ta nói đến từ này từ nọ “gấp x lần.” Thí dụ như, trong VA i 225 saddhamma (Chánh Pháp) là tividha gấp ba lần. Một trong ba “lần” được khẳng định một cách súc tích, hình như không đưa ra bất kỳ một ưu tiên nào trong những lần đó, toàn bộ những lần này được ứng dụng một cách đồng đều. Hai lần, duvidha, còn có tầm quan trọng đồng đều, về vinaya trong tác phẩm MA i. 22 (xin đọc cùng tác phẩm ii. 208), SA ii. 253. SnA 8, ItA i. 110. Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl). 351. một lần thuộc vinaya thu thúc, saṃvara, điều còn lại thuộc về cách đoạn trừ, pahāna. Rồi sau đó mỗi lần này lại chia ra thành năm “lần”, pañcavidha, tất cả đều có tên gọi khác nhau; rồi sau đó tác phẩn SnA lại tiếp tục triển khai đề tài này rất dài dòng. Toàn bộ những “lần” không thấy đưa ra ở đây. Như vậy chẳng có gì được ưu tiên cả. Trong tác phẩm UdA 362 ta có catubbhidha ogha, đó là bốn loại bộc lưu tham dục (kāma), hiện hữu (bhava), tà kiến (diṭṭhi) và vô minh (avijjā) toàn bộ bốn loại bộc lưu này đều phải được vượt qua một cách đồng đều để cho vị a-la-hán có thể tồn tại an toàn trên mảnh đất khô ráo nơi bến bờ bên kia.

    Tuy nhiên các đoạn khác, như trong tác phẩm UdA 233 khi đề cập đến giới (sīla) người ta cho rằng chỉ có hai loại giới, “các loại” xuất hiện tùy theo các phạm trù khác nhau, đó là lokiya và lokuttara, thuộc loại hiệp thế và loại siêu thế. Cả hai đều rất cần thiết vì loại đầu tiên lại rất cần cho loại thứ hai được coi như là căn bản cho loại sau. Lại có một cách phân biệt khác tinh tế được thấy trong bốn loại niềm tin, catubbidhā saddhā, trong tác phẩm Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii 529, iii 1028, ở đây mỗi loại chỉ được áp dụng cho một con người cụ thể trong một giai đoạn khác nhau trong qui trình tiến tới chánh đạo có tầm quan trọng ngang nhau. Nhưng còn nữa, cũng nhằm ám chỉ đến các giai đoạn được chứng đắc. Là tividha viveka[96], tức ba loại viễn ly hay thân viễn ly (kāya), tâm (citta) và sanh y (upadhi). Mặt khác, cho dù pavāraṇā được cho là gồm bốn loại trong MA i. 93, do hiệu quả đem lại thì điều này chỉ ám chỉ từ này có bốn ý nghĩa thích ứng cho bốn cơ hội khác nhau. Một trong các cơ hội đó được gọi là “cơ hội được mong đợi nơi trần thế này”, ayaṃ idha adhippetā. Nh vậy trong SnA 74, 255 santhava được mô tả chỉ gồm có ba loại mà thôi, loại thứ ba được dự định ở trang 74 và hai loại đầu tại trang 255. và trong một số tác phẩm Chú giải một câu hỏi, pucchā, được cho là gồm năm loại, pañcavidhā[97]; sau khi đã mô tả mỗi loại thì loại đúng nhất được hiểu trong mỗi văn cảnh.

    Cũng còn có một từ quan trọng đó là “mắt” và “kiến thị”, cakkhu, quan trọng vì tác phẩm Bhagavan đôi khi lại có một tính ngữ là cakkhuma, là người có nhãn thức. Chính vì thế cakkhu phải được giải thích đầy đủ và được phân tích dài dòng trong tác phẩm Niddesa[98]. Tuy nhiên, không có sự xuất hiện của từ vidha, có nghĩa là loại. Ðiều này được giới thiệu trong tập Chú giải ngắn hơn thuộc tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 33 và ItA i. 99. Tuy nhiên hai đoạn này cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Cả hai đều đề cập đến kiến thị gồm hai loại: maṃsacakkhu và aṇcacakkhu (paññācakkhu trong tác phẩm ItA). Và khác biệt đầu tiên gồm hai loại và khác biệt thứ hai gồm năm loại. Ðược so sánh ở một vài chừng mực nào đó là hai loại kicca[99], tức là điều đã được thực hiện, loại đầu tiên trong hai loại này, niratthaka. Còn lại như một loại không có sự chia ra, nhưng loại thứ hai Sātthaka, được liệt vào loại gồm năm lần mỗi thứ đều có tầm quan trọng đối với cuộc sống tu trì hàng ngày.

    Ðôi khi, có lẽ chỉ thỉnh thoảng thôi một từ lại ám chỉ một số “loại” đa dạng được diễn tả theo như các đoạn Kinh Phật là nơi nó xuất hiện, thí dụ như MA, i. 62 đã đưa ra sáu đoạn theo kiểu này để cho thấy số “loại” thấy nơi từ āsava, lại gồm tới từ hai, deveha, đến bảy, sattadha, loại, như đã được truyền xuống trong mỗi đoạn được liệt kê gộp một loại được Chú giải (Trung Bộ Kinh i. 6), là nơi āsava gồm bảy loại. Một con số cũng đã đạt đến do cùng những giai đoạn trong ItA i. 114tt. Ta cũng nên lưu ý ở đây là tác phẩm ItA có nói về thân xác, kaya, gồm rất nhiều loại, bahuvidha[100] và các vị hiền triết. Munayo, cũng thuộc nhiều loại, anekavidha[101] Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 44 có đề cập đến mười sáu loại”đối với mahāpaññā, người khôn ngoan vĩ đại, nhưng lại không cung cấp bất kỳ thông tin cho biết họ thuộc những hạng người như thế nào.Những tập Chú giải về từ này xuất hiện chỗ này chỗ khác[102] cũng chỉ biến các loại này thành rõ ràng.

    III 5. Một chương sách phụ

    Một tập Chú giải thỉnh thoảng lại đưa ra một số con số có lẽ từ hai hiện trạng trở lên. Tất cả mọi người có thể dính dáng đến một hiểu biết toàn diện và một hành động đánh giá thích hợp về từ được Chú giải. Như vậy Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) iii. 1062, Chú giải Tăng Chi Bộ IV. 118, trong một bài Chú giải khá dài dòng về app’ichassa[103] một người có ít hay không có ước muốn, đưa ra bốn vấn đề, vì lý do đưa ra, có thể không ước ao có được đó là: paccaya. Adhigama. Pariyatti. Dhutanga, những nhu cầu thiết yếu của một nhà sư. Chứng ắc (một trong số bất kỳ giai đoạn Thánh đạo và Níp-bàn nào) kiến thức về các bản văn Kinh Phật. Và những việc tu tập khổ hạnh. Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) và Chú giải Tăng Chi Bộ lại thêm vào một loại văn phong Chú giải mà vấn đề đã được thảo luận đầy đủ trong Thanh Tịnh Ðạo.[104]

    Những tham khảo về Thanh Tịnh Ðạo, có thể được gọi là phương sách Chú giải phụ hay là phương pháp phụ, rất thường xuyên được cả hai vị Buddhaghosa và Dhammapala thực hiện để cho một tác phẩm Chú giải cần thiết phải thảo luận ở mức độ vắn tắt nhất. Về điều đã được bàn soạn đến từng chi tiết. Chính vì thế phương pháp phụ này lại là một điều biểu thị khác mà dịch giả các bộ Chú giải tiếng Sinhale cổ cũng đang thể hiện như là những vị biên tập luôn theo khả năng của các vị đó, giới thiệu các cách rút gọn thay thế vào tính cách dài dòng. Vì tuy nhiên Thanh Tịnh đạo là tác phẩm của chính Buddhaghosa, được soạn thảo sau những tác phẩm Chú giải cổ này vào lúc ngài đã tìm hiểu, học hỏi, nắm vững và hệ thống hóa được những nội dung của các tác phẩm này một cách thành thạo có thể chứng thực được công việc dịch và ấn bản các tác phẩm này sang tiếng Pāli. Với “tập bách khoa các giáo lý của Ðức Phật”[105] để có thể chuyển lại cho chúng ta, chỉ cần kiến thức lẽ thường cũng có thể hiểu được. Tuy nhiên Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), đã không xuất hiện nói đến Thanh Tịnh Ðạo ch danh và chúng ta không thể nói đến, tỷ dụ như “ba thế giới”, là tayo lokā[106], saṅkhāraloka. Sattaloka. Okāsaloka. Đã được đặt nền tảng trực tiếp trên cách phân tích[107] tương ứng của Thanh Tịnh Ðạo.

    III 6. Nhiều nghĩa đa dạng

    Cuối cùng, tôi muốn thu hút chú ý của các bạn đến một phương pháp Chú giải khác, theo tôi nghĩ có tầm quan trọng không thể bỏ qua được.[108] Phương cách này lại liên quan mật thiết đến các từ Kinh Phật có nhiều nghĩa khác nhau và xuất phát từ bản chất phân tích các từ này, đó là sadda (âm thanh). Với một văn cảnh như vậy sadda (âm thanh) được sử dụng theo chính nghĩa của “từ”.Thí dụ như cuốn tự điển cổ tiếng Pāli, là Abhidhānappadīpikā, liệt kê 14 nghĩa khác nhau của từ dhamma, là dhammadda, kết thúc với ādo[109] vân vân và vân vân” là một cách trù liệu khôn ngoan, vì tôi có thể thêm vào đó ba ý nữa. Bất kể từ đó có là gì đi chăng nữa, sau khi các tác phẩm Chú giải đã khẳng định điều đó thì lập tức đưa ra những nghĩa khả dĩ có thể đưa ra. Rồi trích các đoạn Kinh Phật và cho biết ở đâu từ đó có nhiều nghĩa thích hợp với nhau. Cuối cùng, và các từ đó luôn luôn phải khẳng định được từ nào là thích hợp. Như vậy khả năng xảy ra nghĩa sai sẽ được loại bỏ và thay thế vào đó bằng nghĩa đúng nhất.

    Ðể đưa ra một ý tưởng ngắn gọn về phương pháp này, tôi sẽ đơn cử từ “sādhu” ayam’ sādhu-saddo, hay sadhū ti ayam’ saddo āyācana-sampaṭicchana-sampahaṃsana-sundara-daḷhīkammādisu (Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đã bỏ qua đoạn này, kết thúc bằng từ sundarādisu) dissati. Tuy nhiên, ta phải hiểu những từ này như sau: āyācana, SnA 176;sampaṭicchana. Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon 47; daḷhikamma, Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) 171; MA i. 19; SA ii. 7.  mức độ tôi biết được Chú giải Tăng Chi Bộ đã không khảo sát tỷ mỷ từ sādhusadda, nhưng lại định nghĩa từ sādhu bằng một hay những nghĩa theo các văn cảnh thấy trong Tăng Chi bộ Kinh (Anguttara), là nơi xuất hiện. Chính vì thế āyācana được chọn lựa kỹ càng trong Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 136; từ sampahaṃsana được chọn trong Chú giải Tăng Chi Bộ iv. 120, 167; sundara được chọn trong Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 290, iv. 98. như vậy năm nghĩa của sādhu đã được liệt kê đầy đủ và được sử dụng đúng lúc thích hợp.

    Ðến đây tôi đưa ra một danh sách các từ có nhiều nghĩa khác nhau tôi đã thấy trong các đoạn Chú giải trong đó các từ này đã được bàn cãi. Xét một cách tổng quát các đoạn này đều giống nhau, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Tuy nhiên thường thấy xuất hiện những khác biệt cũng như liên quan đến ý nghĩa. Một điều ta nên nhận thấy rằng các từ này thường thích hợp với đoạn văn này đoạn văn nọ trong bản văn Kinh Phật. Tôi không có ý muốn tạo ra một bảng kê các từ và tôi cũng hoàn toàn ý thức được danh sách các từ này không thể được coi như là đầy đủ.

    Một số tập Chú giải đã sử dụng "sadda" như là một “từ”

    [Các từ có sadda đi kèm theo, nhưng không có nhiều nghĩa hay chỉ có một nghĩa được đưa ra ở đây tôi đánh dấu bằng một hoa thị]

    aṅgaṇa MA i. 139 (không có sadda), BvA[110] trang175

    agga VA 173. DA i. 235, MA i. 136, Chú giải Tăng Chi Bộ i. 124 135, i 114, ItA i. 102

    ajjhatta UdA 374

    attha SA i. 334, SnA i. 238, ItA i. 81

    atthi VA i. 209 (không có sadda)

    * anu ItA I 168, ThagA i. 114

    anta DA i. 103, ItA ii 112; xin đọc MA i. 87

    antarā Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 34 Chú giải Tăng Chi Bộ iii. 75, SnA i. 20, UdA 109 164, ItA īi. 95

    * api UdA 278 392, ItA i. 45, Chú giải Vimānavatthu 94

    abhi VA i. 20. Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) ii 20

    abhikkanta VA i. 170. Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 227, MA i. 139. ii. 124, SA i. 14. Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 105 375 KhA 114. SnA i. 155, UdA 286, Chú giải Vimānavatthu 52 (ngắn hơn)

    * ādi Chú giải Tăng Chi Bộ īi. 9 BvA 65

    āyatana Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 124; xin đọc Chú giải Tăng Chi Bộ īi 272. PṭsA i. 83. Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) (không có sadda). VbhA 45 tt

    āram(b)bha PtsA i. 44, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 145, PugA 246

    āsajja Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 55

    iti VA ii.442, AA, iii.14, UdA-45,215, itAi.19tt, 23tt

    idaṃ ItA i. 107

    * idha VA v 1067

    ukkā MA i. 175 (không có sadda), Chú giải Phật Tông (BvA). 144

    uposatha SnA i. 199. UdA 296; xin đọc MA iv. 74 (không có sadda)

    uppanna Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 67

    uḷāra Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) īīi. 878, SA īīi. 208, Chú giải Vimānavatthu 10, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 30.

    Eka UdA 18, ItA i. 37

    etaṃ ItA i. 5

    eva SA iii. 123, UdA 392

    evaṃ Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 26 MA i. 3, SA i. 5. Chú giải Tăng Chi Bộ (SA) i. 4, KhA 100. SnA i. 135, UdA 6, PṭsA iii 529

    kappa Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 103, MA ii. 125, SA i. 15. Chú giải Tăng Chi Bộ ii. 377, KhA 115, CpA 10, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 65.

    kāma Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 11

    kiṃ Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 16

    * kira Jā i. 158, Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 322, PvA 103

    kusala Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 49, PṭsA i. 129,. 205, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 38

    kevala MA ii. 125, SA i. 15, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) ii. 376, KhA 115

    khandha ItA ii. 22

    * kho ItA i. 54

    gati MA iii. 364

    * gandha ItA ii. 57

    guṇa Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 43 76; xin đọc thêm SA i. 23 (không có sadda)

    ca KhA 228, ItA i. 54 93 172 178, ii. 23, 32, Chú giải Vimānavatthu 74, PvA 18, ThagA i. 108 155, īi. 10 125 156 249 256 273, īīi. 75 79, CpA 12 Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 185, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 171, 297

    cakka MA ii, 27, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 120, iii. 9, PṭsA iii. 626

    cakkhu Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i.183; xin đọc thêm ItA i. 99, Ndi 354 tt (không có sadda) Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 33

    channa ThagA i. 25

    ṭhāna MA i. 102

    tathāgata ItA i. 117

    * tu ItA ii. 151, CpA 117

    te Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu (VvA) 9

    dukkha ItA ii. 5, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 63, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 41

    deva Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu(VvA)18,ThagA i. 27

    dhamma Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 99, (xin đọc Pháp cú kinh (DhA) i. 22, MA i. 17, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) iv. 97, ItA i. 39 Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 13, PṭsA 38.

    Pariyāya VA i. 132, Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 36, MA i. 18, ItA i. 151

    * pasu ItA ii. 70

    pātimokkha ItA ii. 129

    puñña ItA i. 73

    * putta ItA ii. 70

    bodhi Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 55 145; xin đọc. VA i. 139, iv. 952, MA i. 54, SA ii 153, UdA 27, CpA 18 (tất cả đều không kèm theo sadda)

    brahma MA i. 34, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 11

    brahmacariya Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 177, MA ii. 41, ItA i. 107

    bhūta MA i. 31, KhA 165, NdA iii. 96

    * matta SnA i. 137; xin đọc Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 35

    * mama Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) iii. 162

    maya Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 10

    mūla MA i 12. UdA 27

    me Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 28, MA i 4. SA i. 5 Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 6, KhA.101, SnA i. 135, UdA 11, ItA i. 22, Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 25 ThagA i. 26 ii. 144, PṭsA iii. 530

    yaṃ Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)52

    * yathā Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 48

    rūpa Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 21, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 41

    loka UdA 107

    vaṇṇa Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 37, MA ii 125, SA i. 14, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) ii. 375-6, KhA 114, Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 16

    vā Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 51, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 29 55, īīi. 171, iv. 75, SnA i. 266, UdA 211 278 321 422, ItA īi. 52 104, ThagA i. 57, ii. 173 228, iīi. 12 85, CpA 130.

    vidhā Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 304

    vutta MA i. 94, UdA 45, ItA i. 4

    veda Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 68

    * vedanā Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 41

    vo MA i. 18, ItA i. 39

    saṃsaṭṭha Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 70

    saṅkhā MA i 75

    saṅgaha Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 305

    sacca SA i. 328, SnA i. 232

    sabba MA i. 17, ItA i. 52, CpA 18

    samaya VA i. 106, Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 31, MA i. 7, SA i. 9, Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 11, KhA 104, UdA 18, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 127, PṭsA iii. 530, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 57

    sampanna MA i. 153 (không có sadda, ItA ii. 175, Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 14 (không có sadda)

    sādhu Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 171, MA i. 18, SA ii. 7, SnA i. 176 Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) 47

    sukha ItA i. 74, ii. 4, ThagA i. 27, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 40

    suta Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i. 28. MA i. 4, SA i. 6 Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) i. 6, SnA i. 135, UdA 11, ItA i. 23, PṭsA iii. 530

    suvaṇṇa Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu (VvA) 9

    * hi PvA 103, ThagA i. 77 130 171

    Ta cũng thấy tồn tại một cách đối thuộc dạng khác nữa trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 3 và tập Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) ii. 124. Cả hai đoạn văn này đều được ghi vào mục lục, mà không thấy xuất hiện bất kỳ nhất quán nào, những địa danh Ðức Phật đã lưu lại (hay trải qua mùa mưa) trong suốt hai mươi năm đầu sau khi ngài đã đạt đến Giác Ngộ.

    Cũng vậy, chỉ có một tập Chú giải khác tôi được biết ngoài tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đã đề cập đến bốn vị trí không thay đổi hay bó buộc tất cả Chư Phật phải lui tới, là sabbabuddhānaṃ cattāri avijahitaṭṭhānāni[111]. Bốn vị trí là: ngồi thiền trong tư thế xếp bằng để đạt đến Giác Ngộ tại một địa điểm và cùng một địa điểm; Chuyển Pháp Luân trong thánh địa Con Nai ngay trong nơi cư trú của các vị thuộc các vị đại hiền triết (chư Thiên); địa điểm đặt dấu chân đầu tiên ngay tại cổng thành Saṅkassa ngay sau khi giáng lâm từ cõi chư Thiên (sau khi đã kết thúc thuyết giảng Vi Diệu Pháp nơi cõi chư Thiên) và vị trí bốn chân giường nơi Hương Phòng tại Jetavana. Cả thiền viện cũng không được khác cho dù có rộng hay hẹp về kích thước. Chỉ có khác được là thành phố mà thôi. - Rất có thể thành phố có thể được xây dựng ở những địa điểm khác nhau trong phạm vi tương đối xa cách với thiền viện.

    Tôi xác tín rằng đang phát triển một ý thức cho là Giáo Pháp thuộc Kinh Pāli sẽ trở nên rất thâm sâu, tinh tế và chính xác, dễ hiểu và có hệ thống[112] tôi cũng xác tín rằng Giáo Pháp này không khó hiểu và cũng chẳng dễ gì như có một thời người ta đã nghĩ thế.[113] Một điều có thực là cho dù toàn bộ các từ được sử dụng, hay hầu hết các từ đó có thể được dịch sang tiếng khác, ấy vậy vẫn có vấn đề tồn tại mà một số vấn đề đó mang nhiều ý nghĩa tại đoạn văn này hay đoạn văn khác. Nếu không phải do các tập Chú giải thì các phương pháp chính xác, dễ hiểu và có hệ thống trong việc Chú giải cũng giúp ta rất nhiều. Mục tiêu chính của bài giới thiệu này là nhằm trình bày ít nhất một số những phương pháp Chú giải không giống như các phương pháp đã được áp dụng trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA). Nhưng được coi như là những công cụ và dụng cụ được sử dụng xuyên suốt toàn bộ các tập Chú giải Kinh Phật vậy. Phật Pháp và Chú giải là hai điều phụ thuộc lẫn nhau. Việc Chú giải là điều cốt yếu đem lại hiểu biết cho bá tánh, thế nên Chú giải càng chính xác càng tốt đối với Phật Pháp. Cả hai cùng họp thành một khối toàn diện, ngăn nắp để có thể hướng dẫn bá tánh trong cuộc tìm kiếm ly Dục và đạt được Thập Toàn Giải thoát đích thực.

    Luân Ðôn năm 1976
    I.B. Horner

    -ooOoo-

    NHẬP ÐỀ

    Ở mức độ tôi biết được, đây là cố gắng đầu tiên để dịch tác phẩm Madhuratthavilāsini, tức là Tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) sang Anh ngữ hay sang bất kỳ một ngôn ngữ Âu Châu nào khác. Công việc dịch thuật này đúng như tôi đã đặt cho một tên gọi là “Người Khai Sáng Ý Nghĩa Ngọt Ngào” (CSM) hầu như hoàn toàn dựa trên ấn bản tôi đã thực hiện theo nguyên bản La Tinh hoá, do Hội Văn Bản Pāli xuất bản vào năm 1946 BvAC, là ấn bản hình như tôi chỉ sử dụng ấn bản duy nhất do Simon Hewavitarne Bequest, Colombo 1922 xuất bản. Nhưng theo ấn bản Chaṭṭha Saṅgāyanā, thì bản Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Miến (BvAB) xuất bản tại Rangoon 1959, lại khiến tôi có thể chú thích trong tác phẩm CSM một số khác biệt trong các cách dịch này và tập Chú giải Lịch sử Chư Phật ấn bản Ceylon. Một bản tường trình đầy đủ sẽ được đưa ra một cách thích hợp trong phần xuất bản nguyên bản viết bằng vần La-tinh về tập Chú giải này hơn là trong một bản dịch tập Chú giải này, và tôi sẽ không thực hiện điều này ở đây.

    Tuy nhiên cùng lúc đó, một số lớn các bản dịch khác cũng được tìm thấy về các đoạn kệ trong năm sáu lần tái bản bản dịch tác phẩm Phật Tông do N.A. Jayawickrama, khi ông xuất bản tập Chú giải Lịch sử Chư Phật, PTS năm 1974, và ở mức độ ít hơn so với bản dịch tác phẩm này với tựa đề là, “Ký Sự Niên Ðại Chư Phật” (CB), SBB, 31, 1975. Hầu như đa số, nhưng không phải toàn bộ các đoạn kệ trong Phật Tông đều đã thấy xuất hiện trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), bất kỳ ai quan tâm đến các bản dịch đa dạng đó giờ đây cũng có thể nghiên cứu trong các lần xuất bản mới đây và cả bản dịch PHẬT TÔNG mới này nữa.

    Ðối với những điểm tương đồng một cách chung chung giữa BvA và các tác phẩm Pāli khác, trước tiên và đứng đầu ta thấy có tác phẩm Kinh Bản Sinh Duyên Khởi (Jātakanidāna). Các vị tiền sử xa xưa (Dūrenidāna) hay mới đây (Avidūrenidāna) hoặc các vị không mấy xa xôi lắm (Ja I 3-82), tất cả đều có nhiều tương quan gần gũi với nhau, cho dù với một số ít khác biệt, đối với cả tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) do ngài Sumekhakathā thực hiện cũng như trong bài báo cáo dài về cuộc đời Ðức Phật Cồ Ðàm trong Ký Sự Niên Ðại tập thứ XXVI.[114]

    Thêm vào đó, tác phẩm Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA tt.1-31) còn kể lại câu chuyện về Ðức Phật Tổ Sumedha cùng với các từ tương tự. Tiếp theo sau tác phẩm trên, các vị tiền sử xa xưa (tt. 31-52) trong đó các ký sự niên đại viết về Chư Phật tiền kiếp, được đề cập một cách đầy đủ trong các tác phẩm Phật Tông và Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), chủ yếu xuất hiện dưới dạng tinh lược (rút ngắn). Họ cũng thực hiện điều này bằng những cách diễn đạt lời từ khác nhau. Vì các bản dịch lại nhấn mạnh[115] đến những điểm dị biệt, được ghi lại trong tác phẩm Thūpavamsa (tr. 147-166) các vị Tiền Sử xa xưa trong cuốn Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA) (tr.52-81) và Santikenidāna (tr.82-99) cũng được giải thích cùng chung với Ký Sự Niên Ðại về Ðức Phật Cồ Ðàm trong tác phẩm Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA).

    Lẽ dĩ nhiên những đường nét phác thảo rộng rãi, câu chuyện này khó có những thay đổi nào đáng kể. Một số chi tiết được đưa vào và bỏ qua có thể được thay đổi, tuy nhiên, đa số những thay đổi này lại đáp ứng nhu cầu cần thiết về việc tường trình điều đang được bàn về vấn đề này. Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) không có chủ đề nghiền ngẫm; chẳng có bất kỳ hình thức đặc biệt nào khác hơn là sự nghiệp của vị Bồ Tát hoặc của những vị Phật Tổ quá khứ, nếu như có liên quan và phải nhấn mạnh đến việc loại bỏ các yếu tố khác.[116] Như vậy ở một vị thế chỉ nhằm đưa ra những gương iển hình như trong Bản Ký Sự Niên Ðại XXVI, lại có một sự dồi dào chi tiết không gây cản trở gì trong việc kể lại về cuộc ời đã qua của vị Bồ Tát kể từ lúc giáng lâm cho đến cuộc Ðại Xuất Gia, từ cuộc sống trong hậu cung được đề cập đến sáu năm thực thi cuộc phấn đấu khắc khổ[117]. Chính vì thế xuyên suốt vài tường trình này ngay cả thuật bắn cung để dành được cô dâu,[118] thì hầu như hoàn toàn khớp với những gì được mô tả bằng những từ rất đồng nhất được ghi trong Kinh Bản Sinh Sarabhaṅga (No. 522) Trong Kinh Bản Sinh này ta thấy người bắn cung tên là Jotipāla, đây cũng là tên của Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm khi ngài còn là một vị Bồ Tát dưới thời Ðức Phật Tổ Kassapa.[119]

    Vị Biên Soạn hay dịch giả tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) chính là Ngài Buddhadatta. Vào thời điểm xử lý với tác phẩm Chú giải này, hình như ngài đã cư ngụ trong một ngôi chùa tại tỉnh Kāvīrapaṭṭana[120], rất có thể “toạ lạc tại bờ biển phía Nam Ấn Ðộ.”[121] Ðây chính là vào thế kỷ thứ năm sau CN. Rất có thể ngài đã được đồng nhất với vị Budhadatta là người cũng được mô tả trong cuốn Luật (Vinaya)-vinicchaya. Abhidhammāvatāra, Jinālaṅkāra[122], và cuốn Dantadhātubodhivaṃsa[123] hầu như chắc chắn là có một vị Buddhaghosācariya trẻ tuổi cùng thời với ngài. Vị này hình như rất quen thuộc với những bài viết của vị Chú giải vĩ đại này.”[124] Có một lời khẳng định được thực hiện dựa trên cở sở “bài Chú giải này đã theo rất sát với phương pháp trong các tác phẩm của Buddhaghosa”.


    http://buddhanet.net/budsas/uni/u-ki...tsu/cgps00.htm

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  20. #20

    Mặc định

    Có một điều rất trung thực là tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) có tham khảo với tên tác phẩm Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl), là tác phẩm được qui cho Buddhaghosa làm tác giả.[125] Một Phần trong bài giới thiệu tác phẩm Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl)[126] cũng đưa ra cùng những đoạn Kệ và cũng bỏ qua một số đoạn kệ như đã tìm thấy trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) trong phần viết về Sumedhakathā và Dīpaṅkarabuddhavamsa. Nhưng đây chỉ là khi tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đã có trong đoạn kệ 200, 201 trong bộ ký sự niên đại Dīpaṅkara (Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC 126) có nghĩa là các đoạn kệ này được viết trong cuốn Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) là cuốn Chú giải bộ Dhammasaṅgaṇi. Trong phần Chú giải về kệ tán dương Tam bảo của họ như sau: ayaṃ gāthā Atthasāliniyā Dhammasaṅgaṇi-aṭṭhakathānidāna-vaṇṇnayā Dīpaṅkarabuddhavaṃse kikhitā.

    Tập Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu cũng có tham khảo Tập Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC 284) trong đó có kể câu chuyện Kanthaka tái sanh thành thiên tử (devaputta) như thế nào, câu chuyện đã được trích trong tác phẩm Vimalatthavilāsini Vimānavatthaṭṭhakathā[127]. Chính vì thế ta sẽ không nhắc lại ở đây, có nghĩa là, không nhắc lại trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA). Nhưng Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu không được gán cho Buddhaghosa làm tác giả, mà lại gán cho Dhammapāla. Vị Chú giải vĩ đại có tên tuổi này được mọi người đồng ý là người xuất hiện sau Buddhaghosa. Mặt khác, truyền thống lại cho rằng Buddhaghosa và Buddhadatta đã gặp nhau vào thời điểm cả hai đang vượt biển đến Ceylon.[128] Bất kỳ ngày tháng nào cả hai vị Chú giải này sống, ta nên nhận thức đầy đủ rằng ngài Buddhaghosa không phải là tác giả của các tập Chú giải đầu, nhưng là người sắp đặt chính một số lượng tài liệu Chú giải tiếng Sinhale cổ khổng lồ, mà hình như ngày nay đã bị thất lạc, nhưng dưới thời ngài sinh tiền thì đã tồn tại và không còn nghi ngờ gì đặc tính nguyên vẹn của tác phẩm này. Việc trình bày tư liệu cổ đại này dưới một hình thức có thể chấp nhận được, bao gồm cả các bản dịch hiện thời không được biết đến. Nhưng rõ ràng một số lượng rất lớn các tư liệu đó đã được lưu lại cho đến hiện nay bằng tiếng Pāli. Chính là công việc đã khiến cho ngài cất công bận rộn trong suốt thời gian ngài lưu lại tại Mahāvihāra.

    Rất có thể toàn bộ các tập Chú giải cổ viết bằng tiếng Sinhale đã xuất hiện hơn kém đồng thời với nhau. Như vậy toàn bộ, hay hầu hết các tác phẩm này đã được Buddhaghosa biết đến và các vị dịch giả và biên tập bịa ra tên cho các tập Chú giải này dựa theo tác phẩm Pāli này. Vì chúng ta có thể coi như là xét theo toàn khối các tập Chú giải cổ xưa đã xuất hiện cùng thời với nhau và không mấy khó khăn gì ta có thể liên hệ đích danh với bất kỳ tập Chú giải nào trong bất kỳ tuyển tập Pāli nào. Các vị dịch giả biên tập này không bịa ra các tên, đây chỉ là các tên tác phẩm họ gặp và rồi sử dụng, duy trì và truyền lại Chính vì thế nhờ các tên này mà ngày nay hậu thế biết được các tập Chú giải này. Một thực tế rõ ràng cho thấy bất kỳ tác phẩm Chú giải về Kinh Phật liên quan đến các tác phẩm khác đều không bảo đảm là được “viết” trước các tác phẩm ta đang đề cập đến ở đây; vì tư liệu Chú giải đã xuất hiện “một cách toàn khối”.

    Cho dù tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) hình như không được đề cập đến nhiều hơn tập Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) và tập Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu theo đích danh, song một số lại tỏ ra rất ấn tượng đối với các tác phẩm Chú giải khác. Nhưng lại không thực hiện đích danh. Một danh sách Chú giải song song hay có thể so sánh một số các từ được đưa ra ở trên trong phần nhập đề.[129] Hơn thế nữa “con số bảy” được đề cập đến ở đây đã xuất hiện cùng một thời khi vị Bồ Tát xuất hiện, không những trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (VvAC 131. 276, 298 nhưng còn trong các tác phẩm Chú giải khác nữa.[130] Thêm vào các tác phẩm này thì Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) còn chứa một số đoạn rất hấp dẫn song song với các tập Chú giải này như ta thường thấy xuất hiện. Thí dụ, tập Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 3 đã liệt kê các địa danh Ðức Phật Cồ Ðàm đã trải qua trong hai mươi nơi an cư mùa mưa như ta thấy liệt kê trong AA ii 124. Thế rồi bài tường thuật Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon đã đưa ra phép Song Thông (BvAC 31) vào thời điểm vị Bồ Tát tái sanh cũng hầu như rất giống với bài tường trình được thấy trong tập Pháp cú kinh (Dhammapada) iii 213 tt[131] khi Ðức Phật thực hiện phép Song Thông này vào một dịp khác. Có bốn địa điểm được coi bắt buộc phải có đối với tất cả Chư Phật. BvAC 131, 297, cũng có biến cố song hành ghi trong DA ii 424, nhưng tôi không thấy xuất hiện ở nơi nào khác.

    Ngữ Pháp

    Ðoạn này vì không kiếm ra tên gọi. Tôi đã đặt tên ngữ pháp”, có ý nghĩa chỉ nhằm gợi chú ý đến một số điểm Ngữ Pháp xuất hiện trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật. (BvA) cần được cứu xét đầy đủ. Về tính quan trọng và để truyền đạt kiến thức nhằm lưu ý tới, như thể các lần thay đổi giống (giới tính), thay đổi thì, và thay đổi thể. Trước những ví dụ được trình bày về các trường hợp này, hình như cần phải làm rõ một số hình thức các tên Pāli khả dĩ ta có thể bắt gặp trong các trường hợp. Theo các nhà Ngữ Pháp Pāli có bảy điều chứ không phải là tám. Vì cách xưng hô, ālapana. (vocative) được thêm vào trong cách đầu tiên, paṭhamā. Chính vì thế cách này không tồn tại thực sự hay độc lập làm thành cách thứ tám hay là cách xưng hô (aṭṭhamī).

    Mỗi cách trong số bảy cách trong tiếng Pāli lại có hai tên gọi: tên tôi gọi là “tên mô tả” và đã được các nhà Chú giải sử dụng; và tên ‘thứ tự” được các nhà ngữ pháp sử dụng. Sau các từ thứ tự có từ Vibhatti, có nghĩa là “cách” nên được hiểu là như vậy. Thứ tự và tên của các cách này được gọi như sau:

    1. Chủ cách: Nominative - paccatta[132] - paṭhamā[133]

    2. Đối cách: accusative - paccatta(?)1 - dutiyā - upayoga[134]

    3. Sử dụng cách: instrumental - karaṇa - tatiyā

    4. Chỉ định cách: Dative - sampadāna - catutthī

    5. Xuất xứ cách: Ablative - nissakka - pañcamī - (apādāna)[135]

    6. Sở hữu cách: Genitive - sāmi - chaṭṭhī

    7. Định sở cách: Locative - bhumma - sattamī - (adhikarāṇa)4 - (ādhāra)4

    8. Xưng cách hô: Vocative - ālapana4 - (aṭṭhamī4)

    Những thay đổi cách này không thường xuyên được thấy chỉ rõ trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA), cũng như trong các tập Chú giải khác.[136] Ðây có một số ít ví dụ được trích ra trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) như sau:

    tr. 37 d. 3, 55 d. 25 bhummatthe paccattavacanaṃ,[137] là chủ cách hiểu theo nghĩa định sở cách.

    tr.66 d.16 karāṇatthe upayogavacanaṃ daṭṭhabbam, là đối cách nên được hiểu theo nghĩa sử dụng cách.

    tr.85 d. 14, tr. 101 d.8 bhummatthe karaṇavacanaṃ daṭṭhabbaṃ. Là sử dụng cách nên được hiểu theo nghĩa định sở cách.

    tr.103 d.156 sāmi-atthe paccattavacanaṃ, là chủ cách, hiểu theo nghĩa sở hữu cách; xin đọc tr.186 d. 11.

    tr. 105 d. 4 chúng ta có: sāmivacanaṃ icchanti saddavidū karāṇat the vā sāmivacanaṃ, các vị ngữ pháp muốn diễn tả một sở hữu cách hay là một sở hữu cách hiểu theo nghĩa sử dụng cách.

    tr.116 d. 22. tr. 260 d. 9 upayogatthe sāmivacanaṃ[138]. Là sở hữu cách hiểu theo nghĩa đối cách.

    tr.124 d. 10 nissakkatthe[139] upayogavacanaṃ, là đối cách hiểu theo nghĩa xuất xứ cách. xin đọc tr. 101 d. 13 tại đó người ta khẳng định là paṭhaviyā chnh laø nissakkavacana và là xuất xứ cách.

    tr.139 d. 30 sampadā natthe vā bhummaṃ daṭṭhabbaṃ. Hay là định sở cách nên được hiểu theo nghĩa chỉ định cách.

    tr.171 d. 15 sāmi-the bhummavacanam, lại là định sở cách hiểu theo nghĩa sở hữu cách.

    tr.173 d. 23 sāmi-the upayogavacanaṃ. Là đối cách hiểu theo nghĩa sở hữu cách.

    tr.241 d. 11 karaṇat the sāmivacanaṃ daṭṭhabbaṃ. Là sở hữu cách hiểu theo nghĩa sử dụng cách.

    Trong những ví dụ trưng ra ở trên tất cả các cách (ngoại trừ xưng hô cách) được gọi bằng tên Chú giải hay “tên mô tả” chứ không phải bằng tên thứ tự paṭhamā, dutiyā cho tới sattamī, ánh dấu bằng vị trí được nhận ra theo thứ tự các cách sắp xếp theo Ngữ Pháp ấn độ và họp thành một phần ngữ pháp của ngôn ngữ. Tuy nhiên, ít nhất có đến hai trường hợp Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) cũng đã sử dụng đến ngôn ngữ như vậy: trước tiên. BvAC tr. 39 d. 4, 5 trong đó có một sở hữu cách được nói đến dưới dạng chaṭṭhīsamāsassa... chaṭṭhiyā samāso “là cách thứ sáu từ ghép” và thứ hai là trong BvAC tr. 267 d. 15 chúng ta thấy có từ nimittasattami, là cách thứ bảy ám chỉ nguyên nhân hay lý do, có nghĩa là, được an tịnh (nibbuta) nhờ Thánh quả thứ ba. Cụ thể là Thánh quả bất lai. Anāgāmiphala.

    Xuất xứ cách như là apādāna và định sở cách như là adhikaraṇa và ādhāra[140] theo tôi nghĩ không được các vị biên soạn Chú giải sử dụng hình như các ngài thích dùng nissakka và bhumma hơn thì phải.

    Từ những nhận xét trên ta cũng sẽ thấy được là các cách được thay thế cho nhau trong một phối hợp đa dạng. Thí dụ như có thể dùng upayogatthe paccattam trong tác phẩm Chú giải Tăng chi bộ (AA) iii 389 d.7 và upayogatthe karṇavacanaṃ trong tác phẩm SnA (Chú giải Kinh Tạng) 266, nhưng tôi nghĩ điều này không thể xảy ra trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA). Tại sao lại có điều bí mật này? Khi các tận cách khác biệt nhau, thì cách chính xác lại không được sử dụng. Ðây không phải là điều luôn xảy ra vì lý do nhịp thơ (metre) đối với Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) iii 389 và Chú giải tạng luật (VA) 808 lại ám chỉ đến các đoạn văn vần, chính vì thế hình như, nếu vì một vài lý do nào đó cách sử dụng này được coi như là tùy chọn. Và hầu nếu như khoa học ngữ pháp không hoàn toàn ấn định trong hoàn cảnh này, cho dù các thay đổi cách hình như cần được nghiên cứu kỹ càng nhờ vào việc đề cập đến Chú giải cho là cách không bao giờ là sai. Một cách tự nhiên cách xưng hô được miễn khỏi những thay đổi này. Thí dụ như việc sử dụng ālapāna có thể được tìm thấy bằng cách ám chỉ đến nhiều chi mục Ngữ Pháp khác nhau.[141]

    Tuy nhiên cuốn Tự điển Chú giải Pāli (CPD), vẫn chưa đạt đến upayoga, đã đưa ra một tên cho xuất xứ cách, hai tên dành cho định sở cách, và hai tên nữa cho xưng hô cách, như ta đã nhận thấy ở trên. Cả tác giả Childers cũng đặt tên cho toàn bộ các cách dưới tên thứ tự, và chỉ trừ có ba tên dưới tước hiệu mô tả mà thôi đó là: paccatta, upayoga và sāmin lại không mang bất kỳ ý nghĩa ngữ pháp nào cả. Cuốn tự iển Pāli-Anh (PED) lại phạm phải một khiếm khuyết, nhưng hiếm khi được chú ý, nếu được chấn chỉnh ở lần tái bản thứ nhì, có lẽ sẽ đẩy mạnh được nghiên cứu hơn nữa về chủ đề hấp dẫn này.

    Chúng ta có thể cho là rõ ràng Buddhadatta hay người biên soạn đầu tiên tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đã quan tâm rất nhiều đến ngữ pháp Saddasattha,[142] tức là khoa ngữ học. Và ngài đã chú tâm suy nghĩ đến vấn đề này như là điều rất quan trọng nhằm biến bản văn trở nên trong sáng.

    Ngài đã đề cập đến luật Ngữ Pháp, Lakkhana,[143] rất có thể được coi như hay được hiểu xuất phát từ Ngữ Pháp.

    Ðã ba lần ngài đề cập đến qui luật (ngữ pháp), lakkhaṇa[144], rất nên coi hay hiểu từ ngữ pháp như trên[145] Như vậy,

    (1) BvAC 114, “Chẳng có gì ở nơi khác” có nghĩa là theo luật ngữ pháp “ở nơi khác” nên được hiểu xuất phát từ ngữ pháp mà ra”, n’atthi aññatr ti añatra lakkhaṇaṃ saddasatthato gahetabbaṃ.

    (2) BvAC 175 viết về Tác phẩm Phật Tông (Bv) viii 8 như sau: “Và liên quan đến vị đại hiền triết này có nghĩa là đề cập đến vị đại hiền triết Anomadassin. ‘Về con người siêu phàm nơi các bá tánh này cũng là một cách giải thích. Ý nghĩa ở đây là: (liên quan đến) vị đại hiền triết siêu phàm nơi các bá tánh này. Qui luật ở đây nên được hiểu là trích từ ngữ pháp” tassā pi ca mahesino ti tassa Anomadassissa. Tassā pi dipaduttamo ti pi ptho. Tassā pi dipaduttamass ti attho. Lakkhaṇam saddasatthato gahetabbaṃ

    (3) BvAC tr. 238 viết về Phật Tông (BV) xx 5 như sau: “Tám mươi tư ngàn bá tánh đã xuất gia theo gương vị Tự Giác Ngộ” có nghĩa là ta nên hiểu ở đây như sau: ‘Tự Giác Ngộ’ được đặt ở đối cách là do tiếp đầu ngữ anu. Ý nghĩa ở đây là họ xuất gia theo gương đấng ‘Tự Giác Ngộ’ qui luật ở đây nên được hiểu theo ngữ pháp”, caturāsītisahassāni sambuddhaṃ anupabbajan ti tattha anunāyogato sambuddham ti upayogavacanaṃ katan ti veditabbam. Sambuddhassa pacchā pabbajiṃsū ti attho. Lakkhanam saddasatthato gahetabbaṃ.

    Theo Ngữ Pháp qui định anu được dùng ở đối cách.[146] Trong BvAC 89 lại có nói: “họ đi theo vị Như Lai có nghĩa là họ đi theo sau vị Như Lai. Khi có tiếp đầu ngữ anu thì tiếp theo sau đó ta phải dùng đối cách hiểu theo sở hữu cách. Đây là ngữ pháp qui định...” Anuyanti Tathgatan ti Tathgatassa pacchato yanti. Anuyoge sati smi-at the upayogavacanaṃ hotī ti lakkhaṇaṃ Tena vuttaṃ anuyanti Thathgataṃ.

    Còn một tiếp đầu ngữ nữa được cho là cũng phải dùng đối cách[147] tiếp theo sau đó là abhi: abhi-sadda-yogena hi idam upayogavacanaṃ. Những nghĩa ở đây lại nên hiểu là định sở cách. attho pana bhummavasena ve ditabbo.

    Một cách đổi thì (từ hiện tại sang bất định (aorist). Kālavipariyāya[148] cũng được đề cập đến kèm với lệnh huấn thị là kể từ nay trở đi với một cách diễn tả tương tự như vậy thì ý nghĩa ở đây nên được hiểu là quá khứ. kālavipariyāyena vuttan ti veditabbaṃ. Idisesu vacanesu ito upari pi atītakālavasen[149] eva attho gahetabbo.[150] Trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) tr. 103 d. 23, thì hiện tại được nói đến như là vatamānavacana[151], còn nữa cả trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 99 d. 39 và tr. 252, d. 2, trong đó khi giải thích từ padissanti và từ vandāmi (hiện tại), ngài cho rằng ta nên hiểu như là thì quá khứ. atitavacana. Hay hiểu theo nghĩa quá khứ. atītattha. Trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon trong 292 d. 15 cũng có nói đến tư tưởng thì tương lai. Anāgatavacano, là thì nên được dùng (ở đây lại là hessati), sẽ xuất hiện”) thì quá khứ, atītavacana, được dùng ở đây (āhu, “ã xuất hiện”) là do Đảnh hưởng đến tai nghe thấy hoặc là vì do Đảnh hưởng thay đổi thì. Kālavipariyāsa.[152]

    Trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 25 có hai từ đã được sử dụng. Một từ ám chỉ thể chủ động, và từ kia lại ám chỉ thể bị động. Kammakāraka. Cả hai từ đều không có trong Tự iển Pāli-Anh (PED) theo nghĩa này. Nhưng từ thứ nhất lại thấy xuất hiện trong tác phẩm của Childers, s.v. kattā, là tên đặt cho thể chủ động”. Cũng trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 204. d. 31 chúng ta có kattukārake daṭṭhabbo. Kārakavipallāsena vuttaṃ: là điều ta nên hiểu là thể chủ động được sử dụng ở đây, điều này có thể thực hiện được bằng cách chuyển đổi thể của động từ.

    Ngoài những thay đổi cách, thì và thể, thì những thay đổi giống đôi khi cũng được thực hiện và được ghi lại đúng lúc. Như trong BvAC tr. 185. d. 2; có ghi sabbakilesnī ti sabbakilese, liṅgavipysam katvā[153]; hoặc như trong BvAC tr.166, d.12; so ca kaāyo ratananibbo ti so c’assa bhagavato kyo suvaṇṇavaṇṇo; ta ca kyaṃ ratananibbhan ti pi pāṭho; lingavipallāsena vuttaṃ [154] Những ví dụ này cho thấy hai từ nên được dùng trong việc sử dụng ngữ pháp này: liṅgavipariyāsa và liṅgavipallāsena. Một điều cũng cần biết trong các tập Chú giải khác.[155] Một cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng về cách thực hiện này chắc sẽ hé mở trong tâm một số lý do nhất quán hay những lý do đối với những thay đổi giống được ghi lại ở đây.

    Các cách đọc lướt một số từ cũng nên được lưu ý, như trong BvAC tr.99, d.36, tr.180 d.5 trong đó từ vibhattilopa lại có nghĩa là một cách loại bỏ hay bỏ sót các biến tố[156]; và như trong BvAC tr.188. d.7 trong đó lopaṃ katv lại có nghĩa là “một cách đọc lướt một từ đã được làm thành một từ ghép.

    Một vài từ không thấy trong PED

    Lưu ý: mẫu tự “p” trong các mục từ là số trang trong tác phẩm BvAC.

    ali, con ong, tr.160. d.23. tr.274, d.4 cho đến hết trang (cả hai chữ đều là từ ghép).

    Trong tự điển Childers và Tự điển Chú giải Pāli (CPD).

    uttuṅga, “triều đã nổi lên” (về sóng biển “cao”) tr. 284. dòng cuối cùng (trong từ ghép). Không có trong tự điển Childers hoặc Tự điển Chú giải Pāli (CPD) nhưng lại có trong tự điển M-W.

    upagīyamāna, đang được hát. tr.179. d.25. tự điển Childers ghi là upagāyati, có nghĩa là hát; tự điển M-W, đang được cử hành. s.v. upagai, có nghĩa là hát.

    kākalī, một nhạc cụ có giọng trầm, tr.179. d.24-25 (ghi trong một từ ghép). Tự điển Childers, “một âm thanh nhỏ yếu trong âm nhạc”; M-W, “một giọng cao, giọng trầm, hay giọng thấp. Một giọng nhỏ”

    gumugumāyamāna, lẩm bẩm, kêu than, kêu ca hay tiếng kêu vù vù, của ong (ở đây là bhamara), tr.95. d.3-4. tr.179, d.25. không thấy có trong tự điển Childers hay tự điển M-W. nhưng tự điển Phật giáo tiếng Do thái- tiếng Phạn (BHSD), s.v gumugumanti lại cho là “họ tạo ra một tiếng động êm tai (chủ đề, đàn luýt)” và trích dẫn Mhvu iii 276. J. J. Jones dịch đoạn này là “chơi đàn luýt, tấu lên những nốt nhạc luýt êm ái.” Vì các từ mang tính cách tượng thanh thế nên từ có thể được dùng để truyền đạt tiếng kêu vù vù hay tiếng kêu vo ve của ong hay tiếng nhạc vi vu của àn luýt.

    cakkikānaṃ, quay, quay bánh lái, xoay tròn (?), tr. 114, d. 4 tt cho đến cuối trang, để so sánh: cakkikānaṃ mahācakkayantaṃ viya, rất có thể: giống như một cỗ máy có một bánh xe lớn được quay (có thể nói là do dầu bôi trơn ép). Nếu như vậy, không phải là sở hữu cách số nhiều dùng để giảm nghĩa, cakkika, nhưng đây lại là hiện tại phân từ của một số động từ. Xin đọc chú thích (note) tr. 114. Không thấy có trong tự điển Childers và cũng không thấy có ý nghĩa tương quan trong tự điển M-W hay Abh.

    Cakkhati, ngài ưa thích, tr.33, d.15. cũng như trong Thanh Tịnh Ðạo (Vism tr.481; Ppn, xin đọc trong chú thích danh sách các từ Pāli-Anh từ này không thấy ghi trong Tự iển Pāli-Anh (PED).

    jaṅgamṃ, di chuyển., tr. 210, d. 28; thuộc môi con voi, là một từ Kinh điển đã được chứng thực kỹ lưỡng xuất hiện trong Trung Bộ Kinh (M) i. 184, S I 86, v 43, A iii 364 trong dụ ngôn những vết dấu chân voi. KS v 34. n.3 lại lưu ý Tự iển Pāli-Anh (PED) đã bỏ xót. - Một việc bỏ xót, khiến cho ta suy đoán là, chỉ do một số sơ suất đáng tiếc. Việc giải thích Chú giải thì vẫn giống nhau.

    jaṅgamānan ti paṭhavtalacārinaṃ mang tính chất di động, (di chuyển, bá tánh di động) có nghĩa là những gì (đi lại, di chuyển đó đây) trên bề mặt trái đất”. Cũng xin đọc cách sử dụng trong một so sánh thấy trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) i 39, d. 32 và Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu 4, d.3 trong đó cũng có ghi ý nghĩ là di chuyển, đi lại”.

    Có đôi khi jaṅgama lại xảy ra trước từ thāvara, bất động, đứng yên, như trong ví dụ. KhA (Chú giải tiểu tụng Khuddakapāṭha) tr. 217 d. 12.  đây nidhi. Kho báu, kho tàng chôn dấu có bốn đặc tính, đặc tính đầu tiên lại gồm “hai khía cạnh”. Đó là thāvara và jaṅgama ngài ṇamoli đã dịch là “cố định” và “di chuyển”. Kho báu mang đặc tính cố định gồm vàng bạc và ruộng đất và bất kỳ điều gì không thể thay đổi vị trí. Kho báu “di động” mặt khác, gồm có nô lệ, cả nam lẫn nữ. Từ voi đến heo cộ. Ðược chủ gia nhân sử dụng với mục đích đa dạng. Và toàn bộ những gì có liên quan đến đặc tính có thể thay đổi được vị trí. Ðịnh nghĩa về thvara-dhana và jaṅgama-dhana là động sản hay bất động sản. Và động sản là những tài sản có thể di chuyển hay di động. Trong SnA (Chú giải Kinh tập) I 28 lại thấy xuất hiện những phiên bản được rút ngắn lại của từ nidhi trở thành thārava và trở thành jaṅgama.

    Tại tr. 55, d. 13, tr. 120 dòng 29 ta thấy xuất hiện một từ kép thāvara-jaṅgama, di chuyển và bất động, xin đọc n. cho bài này tr. 55. chính vì thế Tự iển Pāli-Anh (PED) lại tỏ ra không chính xác khi s.v.thāvara, trong đó lại khẳng định từ này “luôn luôn được sử dụng có liên quan đến tasa”. Tuy nhiên đây chỉ là một liên hệ đến từ jaṅgama tôi thấy xuất hiện trong Tự iển Pāli-Anh (PED) là s.v. tasa trong đó ta thấy ghi tasa-thāvara, số nhiều, được chú thích là “những vật di động và bất động”, ta nên lưu ý được rút ra từ Mhvu I 207 đối với ý nghĩa từ thāvara-jaṅgama.

    Trong tự điển của Childers lại giải thích từ jaṅgama là “có thể di chuyển” và tự điển M-W lại ghi là, di động, di chuyển được, di động, điều gì đó di chuyển được đối nghịch lại với bất động, đứng yên tại chỗ, sống động” những cây cối cho dù sinh trưởng trên đồng ruộng và mặt đất nhưng không thể di chuyển được. Và lại thuộc loại bất động. Hơn là thuộc loại di động. Di chuyển được xác định do từ jaṅgama

    nirassāsa, không có hơi thở. Ngạt thở. tr. 209 d. 27. lại không được công nhận trong tự điển ngôn ngữ này.

    naṃsarabhojana, là bữa ăn gồm có sản phẩm thịt. tr. 298, từ d. 2 đến cuối trang. Từ này không xuất hiện trong Tự iển Pāli-Anh (PED) như là một từ ghép, cho dù có ba yếu tố xuất hiện. Tính chất quan trọng của một từ ghép được đề cập đến ở đây là dhammatā, qui tắc, điều lệ[157] đối với tất cả Chư Phật đó là vào ngày nhập viên tịch Níp bàn sẽ diễn ra một bữa tiệc, hay bữa ăn, bhojana, tức là thịt, hay thịt béo, maṃsa, sản phẩm, rasa. Chính vì thế mà kết luận ở đây không thể tránh được, ngay cả rasa được dịch là hương vị hay mùi vị. mà bữa tiệc cuối cùng một vị Phật ăn là một bữa tiệc có thịt hay một bữa tiệc trong đó thịt được dọn ra bằng một hình thức nào đó. Chính vì thế đoạn văn này chứng tỏ cho thấy là sūkara-maddava, là bữa tiệc cuối cùng của Ðức Phật Cồ Ðàm không nên dịch như đôi khi ta thấy dịch là bữa tiệc cuối cùng. Không nên dịch là ‘các loại nấm” mà phải dịch là thịt và đồ ăn là sản phẩm của thịt, maddava do từ lợn loại đực. Xin đọc Tự iển Pāli-Anh (PED) lại thiên về Franke và Oldenberg nhưng lại khác biệt với RhD. Tuy nhiên Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii tr. 568, d., 13-14 lại khá rõ ràng: sūkarassa pavatta-maṃsaṃ, là loại thịt lợn loại mua tại chợ. DAT ii 218 lại giải thích thêm: vanavarāhassa mudumaṃsa, là loại thịt lợn rừng mềm hay là thịt lợn hoang. UdA 399 cũng đồng ý với Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii 568 và đang khi diễn tả cách giải thích do “một số”, keci, người thực hiện. Và do “một số người khác”, aññe[158] cả hai cách giải thích đã xuất hiện nơi cách chứng minh về “truffles” của RhD. Xin đọc thêm cả Miln 175 đối với bữa ăn cuối cùng của Ðức Phật Cồ Ðàm trước khi ngài giác ngộ và cuối cùng trước khi ngài viên tịch Níp-bàn chung cuộc.

    mahatī vipañcikā makaramukhadi vīṇā ca turiyāni ca loại xuất hiện như là ba loại đàn luýt. tr. 41 d. 1

    mahatī: BHSḌ có lẽ là một loại đàn luýt” được đề cập đến trong Mhvu ii tr. 159, d. 5, iii tr. 407 d. 4 Divy tr. 108. d. 4. Không thấy đề cập trong Tự điển Childers (theo cùng ý nghĩa giống nhau; trong tự điển M-W tr. 753, cột b, là “loại đàn bảy dây hay (theo một số người) là loại đàn một trăm dây có tên là Vīṇā hay là loại đàn luýt Nārada.”

    vipañcikā: tự điển M-W, là “một cây đờn luýt(=Vīṇā)[159] tự điển Phật Giáo Do thái- Phạn (BHSD): “Senart’em là từ vevādikā, q.v.” đây chúng ta thấy “? vevādika, hay là –aka, là một số nhạc cụ: Mhvu ii. tr. 159. d. 6 (so mss., Senart em. Vipañcikā): tượng trưng cùng một hình thức nguyên thuỷ như vādisa, q.v.”  đây chúng ta thấy “? Vādisa, m hay nt, cũng là một số nhạc cụ: Mhvu iii 407. d. 19; rất có thể tượng trưng một cách sai lệch, cho cùng một nguồn gốc, như từ vevādika (hay là –aka), q.v. (cả hai đều theo cách mahatī trong danh sách)” Trong tác phẩm Mhvu ii. tr. 159, đã liệt kê ra một danh sách dài các nhạc cụ, chỉ có vipañcikaā là theo cách mahati mà thôi và trong đoạn iii tr. 407 trong một danh sách tương tự như vậy không đồng nhất với danh sách trên, chỉ có từ vādisa là theo mà thôi. Chính vì thế mà vẫn mở ra một câu hỏi, có phải “cả hai” đã theo trừ phi chúng ta chắc chắn được rằng hai từ vipañcikā và vādisa lại ám chỉ cùng một nhạc cụ.

    makaramukha: tôi không thấy có gì khác xuất hiện trong từ này. Rất có thể là một cây đờn vīṇā có cần đờn rất dài hình dạng giống như cây makara, là một từ thường ợc dùng để chỉ một loại quái vật biển. “Cũng được coi như là một biểu tượng cho Nghiệp Chướng (kama)”[160]

    vadana, thái độ nghiêm chỉnh, tr. 208 d. 21 (trong các từ ghép). Không thấy trong Tự iển Pāli-Anh (PED) hay Childers có nghĩa này, nhưng lại thấy có trong tự điển M-W.

    vadhū, giống cái, tr. 179. d. 25 trong từ kokila-vadhū, con chim cu cái. Không thấy có nghĩa này trong Tự iển Pāli-Anh (PED) và Childers; nhưng M-W. “giống cái thuộc bất kỳ loài vật nào.”

    varūtha, cái chắn sốc (của chiếc xe). Tr. 279, d. 21 trong Abh tr. 374, Childers. M-W-

    vikhayāta, nổi tiếng, tr. 184. d. 20 trong đoạn sabbaloka-vikhyāvita. Không thấy trong tự điển Childers nhưng lại có trong M-W-

    vila, một cái lỗ, kẻ hở, cái hầm, tr. 199. d. 4 trong từ pabbatavila. Không thấy có trong tự điển Childers, nhưng lại thấy trong tự điển M-W-

    suṇḍataṭa. Một sườn dốc (của một con voi), tr. 210. d. 24. Vào cuối của một từ ghép. Rất có thể là = sroṇi-taṭa, ta thấy trong tự điển M-W-như là “một sườn dốc đồi.”

    Trùng Âm

    Ðối với tôi một nét đặc trưng trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) đáng được lưu ý đó chính là đặc tính hấp dẫn hoặc của các từ và đặc tính trùng âm của nó, hay các từ có những âm giống nhau[161] xuất hiện hình như gây ấn tượng mạnh với hiểu biết và phong cách văn chương rất có thể đã do chính Budhadatta viết, khi ngài dịch từ tiếng Sinhale các tập Chú giải này sang một thứ “Ngôn Ngữ Ðẹp Ðẽ”[162] (đó là tiếng Pāli) còn lưu lại cho đến ngày nay. Danh sách các từ không tìm thấy trong Tự Ðiển Pāli-Anh (PED) đã đưa ra ở trên[163] cũng là một gợi ý cho một số từ vựng bao quát do đặc biệt thông thạo nơi “vị tác giả của chúng ta”. Hình như ngài không chú ý nhiều đến các trùng âm được coi như là một “thiếu sót về chi tiết trong cuốn sách,”[164] nhưng được coi như là cách làm nổi bật trùng khớp với một từ khác, đặc biệt là các từ tên riêng. Cho nên cần lưu ý đến các phụ chú cuối trang nơi một số từ xuất hiện, đa số các từ này và một số ít các từ khác cũng được thu thập và được ghi lại dưới đây, tôi hy vọng đưa ra một hình Đảnh rất ấn tượng có được từ các từ rải rác đây đó. Lẽ đương nhiên, vì không thể nào tự bịa ra những từ đó trong bất kỳ một bản dịch nào, ngay cả khi chỉ nhằm tạo ra các kiểu âm từ mờ nhạt mà thôi, điều đó nhất thiết cũng cần phải bỏ đi.

    tr.6 d.15 anilabalasamuddhutataraṅgabhaṅgam. asaṅgaṃ Gaṅgaṃ.

    tr. 56, d. 4 cho đến cuối trang. anilabalacalitajalataraṅgabhaṅgasaṅghaṭṭ itā

    tr. 284 dòng cuối cùng cho tới tr. 285, uttuṅgataṅgabhaṅgaṃ asaṅgaṃ Gaṅgaṃ

    tr. 6, d. 26 Mandāragirisārena narasārena Bimbisārena.

    tr. 285 d. 2 cho đến cuối trang. Duranusāro Merumandārasāro sattasāro Bimbisāro.

    tr. 182, d. 19 dasabaladharo...catuvesārajjavisārado vimuttisārado Nārado nāma narasattuttamo.

    tr. 236, d. 2 tt. visuddhaṃ passati vivaṭehi ca akkhīhi passatī ti Vipassī ti nāmam akaṃsu. Viceyya viceyya passatī ti vā Vipassī ti vadanti.

    tr. 247. d. 4 tt s.v. Vessabhū. vijitamanobhū sabbalokbhibhū sayambhū Vessabhū.

    tr. 253, d. 8 saccandho Kakusandho.

    tr. 254, d. 4 vigatabhavabandho Kakusandho

    d. 16 vigatarandhaṃ Kakusandhaṃ

    d. 20 appaṭisandho Kakusandho

    tr. 255, d. 9 Kakusandhassa viddhastabhavabandhanassa

    tr. 256, d.9 adandhassa Kakusandhassa.

    tr. 257. Đoạn kệ cuối cùng

    Kakusandhabuddho Apetabandho
    adandhapañño
    gatasabbarandho
    tilokasandho kira
    saccasandho...

    tr. 258. d. 2 -poṇāgamano Koṇāgamano

    tr. 259. d. 28 - pūraṇāgamanassa Koṇāgamanassa

    tr. 260, d. 14 - paṇgamanaṃ Koṇgamanaṃ.

    tr. 262, đoạn kệ cuối cùng.

    Sukhena Koṇgamano gatāsavo
    vikāmapāṇāgamano
    mahesi
    vane viveke sirināmadheyye
    visuddhavaṃsāgamano
    vasittha

    tr. 125, d. 18 atha so manussabhakkho sakahitanirapekkho paravadhadakkho yakkho makkhaṃ asahamāno.

    tr. 227, d. 16 padumadalasadisanayanāya Padumanāmāya

    Hơn thế nữa trong một số tập Biên Niên Ký tên riêng hình như được truyền lại cho chúng ta do đặc tính hấp dẫn, cũng chỉ đưa ra một số thay đổi tối thiểu nơi một số từ. Chúng ta có thể thắc mắc làm sao các tên riêng này xuất hiện và điều gì hoặc ai đã xác định được cách chọn lựa các từ này. Một ví dụ thật tỉ mỉ đã xuất hiện trong câu.

    tr. 160, d. 21 sabbadhanadhaññavat Sudhañavati nagare vibhavasirisamudayenkulassasabbasamiddhivipulassa Vipulassa nāma raño...suruciramanoharaguṇagaṇavipulya Vipulāya nāma aggamahesiyā..

    Ở đây từ Vipula và Vipulā là tên của một vị vua và hoàng hậu. Thêm vào đó, cả hai tên này cũng như tên một số thành phố cũng được thiết lập bằng cách thêm vào các yếu tố từ ghép mô tả thêm về những nhân vật hay địa danh mang các tên đó.

    Một ví dụ nữa là samussitacārūpayodharāya Yasodharāya (tr. 179 d. 29) đây cũng là trường hợp thường xuyên xuất hiện đối với một số tên riêng trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA). Thí dụ như: asamā Asamā (tr. 177. d. 17) anuttarassa Uttarassa (142, 4) anuttarāya Uttarāya (258,12), là cách mô tả được đơn giản hoá.

    Cuối cùng, có một số tên thành phố và tên người lại đồng nhất hay gần tương tự như nhau đã xuất hiện trong một tập Biên Niên Ký cũng mang một tính cách hấp dẫn riêng. Tuy nhiên, tôi không thể nói ra lý do tại sao cách đặt tên nơi các Tập Biên Niên Ký như vậy rất ít khác biệt so với các tập Biên Niên Ký khác, đa số trong một lãnh vực rất rộng. Nhưng tôi không nghĩ rằng tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) là một tác phẩm Pāli duy nhất trong đó các nhân vật trong một trích đoạn lại có tên trùng với nhau, hoặc chỉ khác biệt một khi các tên đó là tên của nhân vật nam hay nhân vật nữ. Tôi trích dẫn một số ví dụ cụ thể trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) như sau:

    tr. 142 d. 4 Uttara là tên một thành phố, cũng là tên một vị hoàng đế. Uttarā lại là tên một vị hoàng hậu.

    tr. 166, d. 21 Sudhamma là tên một thành phố và cũng là tên của một vị vua. Sudhammā lại là tên của một hoàng hậu.

    tr. 177, d. 29 Dhaññavatī là tên một thành phố, Sudhañña là một người chủ kho bạc tại đó. Con gái ông có tên là Dhaññavatī

    tr. 197. d. 12 Sudatta là một vị vua, Sudattā là vị hoàng hậu.

    d.21 Nakula là tên một thị trấn, cũng là tên của một chủ kho bạc.

    tr. 202, d. 31 Sirinandana là tên một thành phố, cũng là tên một chủ kho bạc.

    tr. 219. d. 17. Saraṇa là tên của một thành phố và là tên của một vị vua, được mô tả như là một sabbalokasaraṇa

    tr. 227. d. 25. Vira là tên một thị trấn cũng là tên của một chủ kho bạc.

    tr. 232. d. 16, 18 Sirivaḍḍhā đã dâng một bữa cơm sữa ngọt. Sirivaḍḍha đã dâng tám bó cỏ khô.

    tr.235, d. 23 Bandhumatī là tên của một thành phố và cũng là tên một vị hoàng hậu. Bandhumā là tên của vị vua.

    Những Người Sanh Cùng Thời Với Nhau

    Ðã từ lâu đời nay con số bảy được coi như là một biểu tượng viên mãn và hoàn thiện.[165] Vì thế cho nên con số bảy được coi như là bảy người đã được sanh ra cùng thời với nhau, cùng thời với vị Bồ Tát, sanh ra cùng một ngày với ngài, satta sahajatāni[166]; và cũng chính vì thế, các ngài cũng sanh ra cùng một ngày với sáu người khác, thế nên mỗi ngày có sáu người cùng sanh ra đồng thời với mình. Ngoài vị Bồ Tát và họp thành một nhóm bảy người. Cho dù nhóm này thực chất là một nhóm không có tầm quan trọng và về phương diện này lại khác nhau tùy thuộc vào từng thành viên trong nhóm, tuy nhiên, vì lịch sử tương đồng, và ngay cả lịch sử đáng tin cậy (chắc chắn) nơi một số nhóm như vậy, và vì truyền thống rất sống động thể hiện rõ ràng nơi một số tập Chú giải, thế nên một cuộc nghiên cứu (trạch pháp) ở đây xem ra không phải là lỗi thời.

    Những người sanh cùng thời với nhau được liệt kê ít nhất ba lần trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)[167] và ít nhất bảy lần trong năm tác phẩm Chú giải khác cũng như trong tác phẩm Jkm.[168] Ngoài ra, có một tác phẩm Chú giải chỉ đề cập đến một người trong nhóm, và tác phẩm Chú giải khác lại đề cập đến nhân vật khác và còn nữa có tác phẩm đề cập đến nhân vật thứ ba như là một thành viên khác của nhóm được coi như là người sanh ra đồng thời với vị Bồ Tát.

    Có một ngoại trừ rất hay và hơi kỳ cục, nhờ đó ta biết được có một số cơ sở “lịch sử” vững vàng chứ không chỉ hỗn độn, nhóm bảy người đồng sanh ra cùng thời xem ra bất biến xuyên suốt các danh sách này, cho dù có thể được giàn dựng hay mô tả một chút khác biệt gồm có: Rāhulamāta, Ānanda. Channa, Kanthaka, Nidhikumbhā, Mahābodhirukkha, Kāludāyin[169]. Có một ngoại trừ luôn xảy ra với trường hợp Ānanda, vì không giống các nhân vật khác, nhân vật này không xuất hiện đồng bộ đều đặn. Ta thấy xuất hiện trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 131. Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) tr. 425. Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA) 58[170], 358, cũng xuất hiện trong Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến tương ứng với tập Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 276 hình như là một nhân tố chính thống đối với Ājānīyo hatthirājā[171] trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon, trong đoạn này lại đưa ra cách giải thích trong một phụ chú cuối trang.

    Danh sách các vị sanh cùng thời với nhau được ghi trong Ja i. 54, cho dù được đề cập đến gồm bảy vị, nhưng thực chất chỉ gồm sáu vị như đã được ghi trong tác phẩm do Fausboll xuất bản. Sáu vị này gồm có Rāhulamātā devī, Channo amacco, Kāḷudāyi amacco, Kanthako assarāja. Mahābodhi rukkho, cattāro nidhikumbhiyo. Trong danh sách này ta không thấy có tên Ānanda cũng như tên người kế vị ông, là hatthirājā, con voi hoàng gia như được ghi trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 276. Nhưng một câu hỏi nổi lên phải chăng chính Fausboll phải chịu trách nhiệm về việc thiếu xót này. Vì trong lần xuất bản tại Bangkok tác phẩm Jātakanidāna tr. 75, lại khớp với Fausboll, tập I, tr. 54, thì Ānando rājakanidāna được xếp vào giữa Kāḷudāyi amacco và Kanthako assarāja.

    Ānanda cũng đã bị bỏ xót trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon (BvAC) 298, nhưng ở đây BvAC lại lấp đầy chỗ trống cũng như trong BvAC tr. 276, bằng cách đưa ra tên của ngài. Cho dù không thấy bất kỳ giải thích nào khác. Chính vì thế chúng ta muốn biết thêm: không hiểu Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến (BvAB) có đưa ra cách giải thích chính thống hay các vị biên tập[172] sau này chỉ ghi như vậy khiến cho tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) được thích hợp hơn chăng. Ta cũng được gợi ý phải lưu ý đến việc loại bỏ tên Ānanda trong tác phẩm Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA) tr. 58 do SHB xuất bản.

    Việc loại bỏ hay gộp lại kỳ lạ và không bình thường tên của ngài Ānanda này hình như muốn gợi ý cho ta một số nghi ngờ ở đâu đó, đôi khi hoặc ngày sanh của ngài thực chất có diễn ra cùng một ngày với vị Bồ Tát hay không. - một nghi ngờ chính yếu liên quan đến các quan điểm đối chọi nhau về tuổi khi ngài qua đời.[173] Thêm vào đó lý do tại sao tên ngài thường xuyên không xuất hiện trong hầu hết các trường hợp có sự hiện diện của ngài? Việc thay thế tên người khác vào chỉ nhằm mục đích làm tròn “số bảy” luôn luôn là một con voi: con voi có tên là Ājānīyo hatthirājā được ghi trong Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon tr. 276. và con voi āroha-niyahatthi trong Chú giải Tăng Chi Bộ (AA) I 301, ThagA ii 221, Chú giải Thí Dụ Kinh (ApA) 532, như vậy việc mô tả con voi là một phương tiện di chuyển chớ không phải là phương tiện làm việc. Tự nhiên vị Bồ Tát có voi để cưỡi đang khi ngài vẫn còn sống cuộc sống người đời, cho dù phần việc ngài lãnh nhận không thể so sanh với phần việc Kanthaka assarājā đảm nhận, nhưng trên hết vào đêm ngài thực hiện chuyến xuất gia vĩ đại gia nhập cuộc sống vô gia cư,[174] công cụ giúp cho ngài thành công đắc lực nhất phải kể cơ bản chính là con ngựa.

    Trong Vv 81, 15 người ta ghi lại Kanthaka đã nói. “Trong thành phố nguy nga tráng lệ tên là Kapilavatthu thuộc bộ tộc Thích Ca, tôi tên là Kanthaka, người sanh cùng thời với con trai[175] của vị Suddhodana.” Ðây là một trong số hai lời tuyên bố Kinh Phật liên quan đến những người sanh cùng thời với nhau hiểu theo nghĩa chúng ta đang đề cập đến ở đây như tôi đã khám phá ra. Lời tuyên bố còn lại được tìm thấy trong tác phẩm Ap 501, đoạn 19 trong đó Kāḷudāyin được đại diện khi tuyên bố rằng, “tadahe va ahaṃ jto saha teṅ’eva vaḍḍhito. “Tôi đã được sanh ra cùng ngày với ngài (Siddhattha, đoạn kệ 18) và cùng lớn lên với ngài.” Chẳng có đoạn văn nào liên quan đến một trong bảy thành viên cùng sanh ra trong một ngày, cũng chẳng có đoạn văn nào trong số bốn đoạn văn Chú giải đã được triển khai chỉ một thành viên duy nhất mà thôi. Trước tiên có đoạn Chú giải Thiên Cung Sự Vimānavatthu (VvA) 314 chứng thực cho lời tuyên bố của Kanthaka. Thứ hai, trong SA ii 317 có một đoạn mô tả ngắn về Channa, nói rằng: Tathāgatena saddhiṃ ekadivase jāto, được sanh hạ trong cùng ngày duy nhất với Vị Như Lai; và thứ ba là, trong tập Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) I 284, chúng ta thấy có đoạn Tathāgatassa pana jātadivase... cattāro nidhayo upagatā, vào cùng ngày sanh của vị Bồ Tát đã có bốn bình đựng báu vật xuất hiện.[176]

    Với bốn đồ đựng báu vật này, cattāro hay catassa nidhikumbhā hay nidhikumbhiyo hay là cattāro nidhayo, hình như điều này đã khiến cho chúng ta gia nhập vào cõi tưởng tượng. Kích thước đo đạc đồ đựng kho báu được đưa ra[177] rất lớn: khoảng một gāvatu và một nửa do tuần (yojana),[178] ba gāvutas, một do tuần (yojana)[179] sức chứa các bình này, được ghi lại ít nhất một lần[180] là khoảng độ baffling[181]: saṅkho. Chank hay là viên ngọc quí nhất trong bình thứ nhất. Rồi elo (muối? Nước?), rồi đến uppālo, và cuối cùng là puṇḍarika., bình thường là hai loại huệ nước và bông sen. Người ta cho rằng do có sự can thiệp của Sakkha nên ta mới có được những chiếc bình quí này vào lúc các vị nổi tiếng giáng lâm, tỷ dụ như Jotika, là những người lập được nhiều công đức[182] và có lẽ sự xuất hiện của các ngài sẽ là một biến cố quan trọng. Chính vì thế gộp lại trong số bảy nhân vật được sanh ra cùng thời với nhau là điều đương nhiên.

    Nói về bốn Kho Báu vĩ đại, “vỏ sò” (saṅkha), "hoa sen” (paduma), cây piṅgala và elapatra, tập Chú giải Mahāvastu[183] cũng như tập Divy tr, 61 cho biết: đây là bốn địa danh khác nhau; bản văn trước cũng đã khẳng định cả bốn địa danh được các nhà vua Mãng xà (Nagas) bảo vệ cẩn mật và bản văn sau này lại cho là cả bốn địa danh đó có bốn vị hoàng đế[184] vĩ đại trị vì.

    Tác phẩm Vkn cho biết bốn kho báu vĩ đại đó, mahānidhāna, chứa đựng trong đó đủ loại châu báu có giá trị rất lớn và không bao giờ cạn kiệt. Ðược nói đến như là điều kỳ diệu thứ sáu trong số tám điều tuyệt trần, thường thấy xuất hiện liên tục tại nơi cư trú khác nhau, như là nơi cư trú của các vị thần linh (Devi).[185] Giáo sư Lamotte, trong một đoạn chú thích[186] vô cùng hấp dẫn và có nhiều thông tin lại quả quyết rằng: theo đa số các tư liệu tiếng Phạn, bốn kho báu sẽ xuất hiện vào biến cố Ðức Phật Maitreya xuất hiện; và theo các nguồn tư liệu khác, cả bốn kho báu này đã tồn tại và xuất hiện theo thoả thuận và được các cư dân địa phương đó sử dụng vào ngày bảy tháng bảy mỗi bảy năm. Ðây là điều gợi nhớ lại một đoạn văn trong Mihn[187] nói về Kho báu của một vị hoàng thượng hoàn vũ, nói rằng: khi vị hoàng thượng biến mất thì kho báu đó được dấu kín[188] và chỉ xuất hiện trở lại vào lần vua Chuyển Luân Vương kế tiếp do những tu tập chính đáng của ngài, lại có sáu kho báu khác cũng xuất hiện theo như thoả thuận của ngài.[189] Chính vì thế, điều này có thể không được công nhận, để có thể suy đoán là bốn đồ chứa kho báu này biến mất một cách kỳ diệu như chúng đã xuất hiện để đánh dấu một biến cố đặc biệt hiếm có khi một vị Bồ Tát giáng trần. Vì chẳng có biểu thị nào khác hơn xuất hiện khi ngài giáng lâm.

    Cây Bồ Ðề là một phạm trù khác hẳn. Ðây là một cây thực sự, hiện vẫn còn một cành chiết từ cây đó vẫn đang trổ hoa tại thiền viện Mahāvihāra trong thành phố Unurādhapura và người ta thường cho rằng đây là một cây lịch sử lâu đời nhất trên thế giới.[190] Nhưng bằng cách nào ta có thể khẳng định được cây này xuất hiện đồng thời với vị Bồ Tát giáng lâm và chính vì thế cây đó vào khoẳng 35 năm tuổi vào thời Ðức Phật đạt đến Giác Ngộ và vẫn còn sống cho đến khi Nàng Saṅghamitt, con gái của vị hoàng đế Asoka (273-232 trước CN)[191] đi từ Ấn Ðộ mang theo một cành sang Sri Lanka? Rất có thể đây là toàn bộ hiểu biết về truyền thuyết cho là cành cây Assattha này đã được trồng vào khoảng 35 năm tại địa điểm đó là tại Ấn độ và tại một địa danh duy nhất tại đó các cành cây khác nhau đã được chiết ra thành những cây khác nhau khi Chư Phật xuất hiện. Nhưng nếu có một truyền thuyết như vậy thì tôi không hề hay biết gì cả.

    Cũng không phải vô ích nếu đề cập đến ở đây một chút về độ dài tuổi thọ của một số vị khác: một phụ nữ, ba người đàn ông và một con ngựa được cho là được sanh ra cùng thời với vị Bồ Tát.

    Theo Ap ii tr. 584 (đoạn kệ 3 tt) có ghi lại Rāhulamātā đã viên tịch ở tuổi 78, lúc đó tên gọi của nàng là Yasodharā.[192] Người ta cho rằng nàng đã cưới Ðức Phật Cồ Ðàm ở tuổi mười sáu và nếu hai người cùng sanh đồng thời với nhau thì chắc hẳn Ðức Phật cũng phải ở tuổi mười sáu. Nhưng rất có thể hình như Rāhula đã không hề sanh ra cùng ngày với Ðức Phật đâu, có lẽ trước hoặc sau độ một tuần lễ[193] gì đó thì ngài Cồ Ðàm là cha ngài, thực hiện một Chuyến Xuất Gia vĩ đại khi ngài đang ở vào tuổi hai mươi chín.[194]

    Cái chết của Ānanda không được đề cập đến ở bất kỳ đoạn văn Kinh Phật nào ở mức độ tôi có thể biết được. Tuy nhiên, trong Pháp Cú Kinh (DhA) ii tr. 99 người ta ghi lại rằng ngài qua đời ở tuổi 120.[195] Chính vì thế, nếu ngài đã sanh ra cùng một ngày với vị Bồ Tát, ắt hẳn ngài đã phải sống lâu hơn khoảng độ 40 năm sau khi Ðức Phật nhập Níp bàn, và chính vì thế ngài cũng đã là một vị a-la-hán trong suốt bốn mươi năm đó. Nhưng trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii. 413 thì lại có một quan điểm khác về tuổi thọ của ngài. Vì ở đây người ta cho là Ānanda, Mahākassapa và Anuruddhatthera tất cả đều qua đời ở vào tuổi 150 – và Bakkulatthera lại qua đời vào tuổi 160. Toàn bộ những người này được cho là sống thọ dīghāyuka, cho dù chẳng có ai sống được đến tuổi 200, cũng chẳng có đoạn văn nào nói về Ānanda lại sanh ra đồng thời với Chư Phật khác cả. Ngoài những đoạn đề cập đến những người sanh cùng thời được trích dẫn trong đoạn này, hoặc được gộp lại hay bỏ qua tên ngài, cũng có một số đoạn Kinh Phật khác cho dù không đề cập gì đến tuổi tác khi ngài qua đời hay việc ngài sanh ra đồng thời với những ai. Nhưng lại truyền tải một khía cạnh khác theo truyền thống sau này. Vì những đoạn văn trên ghi lại rằng sau khi ngài sanh ra tại Tusitapura. “Cùng với vị Bồ Tát của chúng ta” amhkaṃ Bodhisattena saddhiṃ và viên tịch tại nơi ngài được sanh ra trong hậu cung Amitodana, một người Thích Ca[196] là em trai của Suddhodana. Lamotte lại khẳng định rằng[197] Ānanda đã viên tịch một năm trước Ajātasattu, cái chết của ngài được cho là diễn vào năm 463 trước CN. Theo truyền thống thì Ðức Phật chết vào năm thứ tám triều đại nhà vua này. Nếu là năm 462 trước CN thì thật sự cũng là ngày chết của Ānanda và nếu như ngài đã sống được 120 tuổi hay 150 tuổi. Một điều đáng nghi ngờ là không rõ ngài có sanh ra cùng một ngày với Ðức Phật Cồ Ðàm hay không.[198] Các tư liệu phương bắc liên quan đến Ānanda có hơi khác một chút. Tôi tin là xuất phát từ các nguồn Chú giải Pāli, và đã không được tra cứu đến nơi đến chốn.

    Hình như không có dấu hiệu nào cho thấy tuổi của Kāḷudāyin là bao nhiêu khi ngài qua đời. Sau khi trở thành A-la-hán và đã thôi thúc thành công đức Phật Cồ Ðàm vừa lúc mới giác ngộ để ngài trở về Kapilavatthu theo lời thỉnh cầu nhất quyết của cha ngài. Người ta tuyên bố rằng ngài là người xuất sắc nhất trong số các đồ đệ làm hài lòng các bộ tộc[199] nhưng sau đó đã trở thành một nhân vật lu mờ và rất ít chi tiết biết về ngài đã được ghi lại.

    Rõ ràng, Channa, phải sống lâu hơn Ðức Phật, ngay trước khi ngài đạt đến Níp bàn. Ðã chỉ thị cho nanda nhằm áp đặt hình phạt brahmadaṇḍa (cấm không cho tiếp xúc với người khác) cho người đánh xe ngựa của ngài[200], nổi tiếng kiêu căng và ngạo mạn, kết quả là ngài đã đạt đến bậc A-la-hán và sự trừng phạt và hình phạt đã tự động qua đi.[201] Không tài nào có thể khám phá ra tuổi thọ của ngài, nhưng hình như ngài sống được vào khoảng 120 năm như nhiều người khác đã nói lại, là những người cũng đạt đến lứa tuổi đó. Vì là một cụ già khoảng tám mươi tuổi khi nhận hình phạt Brahmadanda, hình như ngài đã qua đời sau Ðức Phật không lâu.

    Cùng sanh đồng thời có Kanthaka[202] là con ngựa của vị Bồ Tát, vì quá đau buồn ngay sau khi đã mang Ðức Phật Cồ Ðàm ra đi và khi ngài xuất gia (từ bỏ hoàng cung) và đời sống vinh hoa phú quí trong hậu cung con ngựa đã chết vì cơn xốc tim và Ðức Phật Cồ Ðàm đã ra đi một mình tìm kiếm Níp bàn và để lại đàng sau ngài ngựa Kanthaka và người đánh xe. Vì người ta cho rằng Ðức Phật Cồ Ðàm đã xuất gia và sống cuộc sống mới vào lúc ngài 29 tuổi. Chính vì thế khi chết ngựa Kanthaka cũng ở tuổi 29, một tuổi thọ tương đối với một con ngựa và không có gì quá đáng. Người ta kể lại rằng chú ngựa này đã rất thân thiết với Mahasatta, là Ðại Nhân, trong nhiều kiếp trước.

    Một Số Đặc Tính Khác

    Trong phần giới thiệu về tác phẩm CB[203] ta cần lưu ý đến tầm quan trọng gắn với các cây Bồ Ðề xuất phát từ thời Rg-Phệ Ðà trở về trước, cả về biểu tượng tuổi thọ và về những lợi ích thực tiễn như làm chỗ che mưa che nắng. Ðây có lẽ là những lý do cho thấy tại sao Chư Phật ai cũng ngồi thiền dưới gốc cây suốt đêm trước khi các ngài chứng đắc Giác Ngộ. Sự quan tâm đến Cây Bồ Ðề này tồn tại trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA). Ngoài một danh sách và không thấy có một danh sách nào khác khoảng độ mười ba cây Bồ Ðề do hoàng tử Jayasena trồng nhằm làm đẹp cho công viên hoàng gia: hai cây Bồ Ðề đặc biệt kích thích tưởng tượng của các vị biên soạn Chú giải của chúng ta khiến cho các vị đó mô tả chúng với các từ sinh động như sau đây: cây Pṭilā, nở đầy hoa và nặng trĩu quả vào lúc đức Phật Vipassī chứng đắc Giác Ngộ[204] và cây Bồ Ðề của ngài Sikkhin[205] là cây Puṇḍarīka, cũng có cùng kích thước và nặng trĩu hoa trái. Thật khó lòng biết được lý do tại sao sự lựa chọn cả hai trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) và Trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA)[206] lại rơi trên hai cây có tên nêu trên, trong khi đó chẳng có loại cây nào được mô tả hết.[207]

    Tuy nhiên hai cây Bồ Ðề này, được sử dụng như là một loại kiểu mẫu cho ba loại cây khác như sau: Cây Bồ Ðề Sāla của đức Phật Vessabhū[208] và cây Bồ-đề Udumbara[209] của đức Phật Koṇgamana, cây đầu được cho là có cùng kích cỡ giống như cây Pāṭalī là cây có hoa trái dồi dào. Cây thứ hai cũng có qui mô giống như cây Puṇḍarka và cũng có vô số hoa trái[210] che phủ toàn cây”. Vả lại chỉ có trái và không có hoa làm thành một phần mô tả này là một ví dụ điển hình khác, các tác phẩm Chú giải lưu ý tới trong việc biên soạn. Vì rất hiếm khi ta nhìn thấy hoa của cây Udumbara là điều không thể thực hiện được. Ngoài loại cây Sāla và cây Udumbara, ta còn thấy nói đến cây Bồ Ðề Sirīsa[211] của đức Phật Kakusandha, cũng có cùng kích cỡ như loại cây Pāṭal (và cả kích cỡ của cây Puṇḍarka nữa) giống như loại cây này, lại có mùi thơm ngọt ngào. Chính vì thế trong hai loại cây vừa kể, cây Pāṭal xem ra đáng chú ý hơn về mặt hoa, còn cây Puṇḍarka lại đặc biệt về quả. Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) không mô tả gì thêm hơn nữa và cũng chẳng đưa ra điều gì khác với tập Chú giải Trường Bộ Kinh (DA). Đó là một mặt không đưa ra bất kỳ tương đồng nào giữa cây Sāla và mặt khác giữa cây Nigrodha và cây Assattha cả[212]

    Như ta đã đề cập đến ở trên: loại cây Bồ Ðề Assattha này có tuổi thọ khoảng 35 năm vào thời Ðức Phật Cồ Ðàm chứng đắc Giác Ngộ.[213] Tuy nhiên rất có thể đây là một sai lầm nếu ta cố gắng và tính toán về tuổi thọ của các cây đã lớn một cách tuyệt diệu như vậy đối với các cây: Pāṭal, Puṇḍarka Sāla Udumbara và cây Sirīsa. Vì cho dù chúng ta có thể tính toán tuổi thọ của Chư Phật khi các ngài chứng đắc đến Giác Ngộ ngay dưới gốc cây.[214] Chẳng có truyền thống nào kể lại bất kỳ vị Bồ Tát nào, ngoài Ðức Phật Cồ Ðàm lại có bất kỳ người sanh cùng thời với các ngài cả. Một điều nữa là kích cỡ của cây Bồ Ðề cũng không liên quan nhiều đến tuổi thọ của cây cả. Nhưng chỉ là muốn xem đó như là điều ăn khớp giữa tuổi thọ và kích cỡ vĩ đại của toàn bộ Chư Phật với những người đương thời với các ngài. Chúng ta có thể tin rằng không những chỉ có người mới được kể đến mà còn có cả súc sanh, cây cối và cỏ cũng đã được đem ra so sánh.

    Thực vậy con voi Naga to lớn, tên là Doṇamukha, vi cách mô tả sinh động và chi tiết về các phần của thân thể to lớn của nó[215] giống như một ngọn núi. Ấy vậy vị Phật Tổ Piyadassin lại có thể lấy bàn tay của ngài đánh vào đầu nó và như vậy thì kích cỡ của bàn tay ngài phải có tỉ lệ với chiều cao của con voi là 80 cubit, chỉ có một con voi với thân hình to lớn như thế nào đó mới có thể so sánh được với sức mạnh chết người của đức Phật này. Vào thời Ðức Phật Cồ Ðàm khi chúng ta đã bước vào thời gian lịch sử. Một con voi tên là Nālāgiri, do Devadatta và Ājātasattu với một cố gắng nhằm giết Phật Tổ phải có kích cỡ như một con voi ta thường thấy ngày nay. Vì chúng ta được biết ghi lại là Ðức Phật Cồ Ðàm đã đưa cánh tay phải của mình ra và đánh vào trán con voi[216].

    Cho rằng đoạn văn này không thấy ghi trong Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) lại không phản Đảnh những sức mạnh đáng kinh ngạc của vị biên soạn như là một người kể chuyện. Vì những cố gắng của Devadatta giết vị Phật Tổ lại được “gán cho năm thứ 37 sau ngày chứng đắc Giác Ngộ: nói cách khác, khi Ðức Phật đã ở tuổi 72”[217] và một bài tường trình dài, thật hấp dẫn và vô cùng chi tiết về lần tái sanh cuối cùng của ngài Bồ Tát,[218] khi ngài đã xuất khỏi nơi cư trú tại cõi trời đâu suất, sau khi đã từ trần khỏi cá nhân Vessantara, tự nhiên ngài không tiến xa hơn là Chuyển Pháp Luân. Vì đây là một bài tường thuật chỉ nhằm nói về Ðức Phật Cồ Ðàm ở lần xuất hiện cuối cùng như với tư cách là một vị Bồ Tát. Như vậy đã quá rõ ràng là đỉnh điểm của 24 tiểu sư Chư Phật, trải qua một trăm ngàn đại kiếp và bốn vô số lượng (A tăng kỳ) trong mỗi cuộc sống đó các ngài đều tỏ rõ ước vọng đạt đến bậc A-la-hán với 24 đức Phật khác nhau. Tất cả đều luôn tự trưởng thành chính mình để đạt đến bậc A-la-hán đó. Tuy nhiên đây quả thật là một câu chuyện vĩ đại và cảm động, được kể lại một cách tuyệt vời.

    Đây hình như là điều thật đáng tiếc đối với vị biên soạn Chú giải chúng ta, không còn nghi ngờ gì nữa do quyết tâm không muốn biến tác phẩm Chú giải của ngài quá dài dòng, nên ngài đã không ghi lại thời gian, hay nơi chốn trong các câu chuyện khác, ngoài việc kể lại sáu câu chuyện huyền thoại trải qua những ngày biên soạn đó.[219] Một điều kỳ cục đó là tất cả những điều này lại tập trung vào việc thuần hoá đức Phật liên quan đến một kẻ thù hùng mạnh căm ghét và vô nhân đạo. Toàn bộ những thế lực thù địch này chỉ trừ vị Thiên Vương (deva-raja), là các Dạ xoa ăn thịt người (yakkhas) có hai vị mang tên là Naradeva, đương nhiên thường được hiểu theo nghĩa không thuận lợi[220]. Mục tiêu toàn bộ những câu chuyện đầy xúc động này được kể lại với một nhiệt tình bao la như vậy là chỉ nhằm cho thấy sức mạnh của Ðức Phật là tuyệt vời nhất và vô địch trong bất kỳ tình huống nào.

    Kết luận, có một số đoạn kệ trong tập Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA) không được gán cho bất kỳ nguồn nào cả, kể cả cho các vị trưởng lão Porṇas, Porṇatthakath hoặc giả Kinh Pāli nữa. Ở mức độ tôi có thể khám phá ra được, những đoạn kệ này không thể hiện bất kỳ công trình Chú giải song song nào cả. Bất kỳ ai chịu trách nhiệm về các đoạn kệ này đều không thể chứng tỏ mình là một người minh chứng tài khéo được. Rất có thể ít nhất trong một dịp người đó chính là Buddhadatta đi nữa, vì đang lúc giới thiệu một bộ gồm 17 đoạn kệ,[221] ngài đã nói rằng: tasmā mayā pākaṭatt Dīpaṅkarakumārassa jātiyaṃ dassitāni, chính vì thế tôi đã chứng cho thấy hiện trạng những sự việc theo phong tục thông thường có liên quan đến ngày giáng lâm của vị hoàng tử Dipaṅkara.” Có nghĩa là, các điềm báo thời điểm ngày sanh của ngài được đưa ra bằng đoạn kệ rất thích hợp đi kèm theo với điềm báo tương tự viết bằng văn vần.

    Còn nữa, lại còn có một nhóm gồm 8 đoạn kệ ‘được gán cho” Ðức Phật Tổ Piyadassin và người ta cho rằng chính ngài đã nói với con voi hung hản ngài đã thuần hoá được bằng những tư tưởng xuất phát từ lòng Từ Tâm mà ra. Ai biết được điều gì Ðức Phật tổ này đã nói khoảng một trăm ngàn đại kiếp đã qua? Cũng tương tự như vậy chẳng ai biết được thực chất người nào đã biên soạn ra các đoạn kệ đó? Nhưng điều này không mang lại hậu quả gì nghiêm trọng; trên hết các đoạn kệ này chỉ nhằm tô điểm cho tác phẩm Chú giải này mà thôi. Với mục đích nhằm kiềm chế gây hại hay sát sanh mà thôi và thay vào đó là tu luyện lòng từ tâm và bi mẫn mọi nơi mọi lúc. Không có cách nào khả dĩ biết được ai là tác giả, hay là những tác giả của các đoạn kệ không được gán cho bất kỳ ai, đã xuất hiện xuyên suốt trong tác phẩm Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon và chính các tác giả biên soạn lãnh trách nhiệm đến mức độ nào. Những đoạn kệ không thể gán cho bất kỳ ai làm tác giả tôi đã đánh dấu thứ tự bên phía tay mặt trang giấy. Các đoạn kệ được trích dẫn hay các cách giải thích khác hoặc được trích từ tác phẩm Phật Tông theo thứ tự xuất hiện mang tính liên tục.

    Xuyên suốt tác phẩm biên soạn đã được chính tác giả cho thấy ngài là một nhà ngữ pháp tài ba. Khi đã hoàn tất được cách sử dụng các từ. Với tư cách là một nhà kể chuyện tài ba và rất có thể cũng với tư cách một con người tài ba kiệt xuất và đầy tưởng tượng. Toàn bộ những điểm này, cộng với những ngụ ngôn tuyệt đẹp và các ẩn dụ, cộng với những thoả hiệp và những cách đánh giá theo truyền thống các từ trong nhiều cách khác nhau đã không được sử dụng trong tác phẩm Chú giải này.

    Tôi chân thành tỏ bày lòng biết ơn sâu xa, tôi đã nhận được trong việc sửa soạn cho tập Chú giải này từ phía ngài B. Rāhula và ngài L.D. Somadasa.

    Luân đôn, 1976
    I.B. Horner

    http://buddhanet.net/budsas/uni/u-ki...tsu/cgps00.htm

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Việc tương lai của phật di lặc
    By Cầu Trí Bát Nhã in forum Đạo Phật
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 28-07-2013, 02:18 AM
  2. Trả lời: 48
    Bài mới gởi: 14-04-2013, 11:00 AM
  3. Kinh Vô Lượng Thọ Phật !
    By kinhdich in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 04:26 PM
  4. PHẬT HỌC VÀ Y HỌC
    By kristin in forum Đạo Phật
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 24-03-2012, 03:54 PM
  5. Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 23-12-2011, 11:17 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •