kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: CHÍ TÔN CA -THÁNH THƯ CỦA ẤN ĐỘ GIÁO

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định CHÍ TÔN CA -THÁNH THƯ CỦA ẤN ĐỘ GIÁO

    Nguyễn Quỳnh, PhD, EdD Dịch, Ghi-chú và Giới-Thiệu



    Nghiêng-mình trước cổng Trời cao vút

    Thành mây thu hun-hút về đâu?

    Hỗn mang sông nước đổi mầu,

    Rụng rơi sương đọng trên đầu cỏ non.



    Nguyễn Quỳnh

    NYC, 1976

    ĐỐI-THOẠI MỘT
    MINH-TRIẾT ĐAU BUỒN
    Arjunavishàgayoga



    32. Arjuna: [...] Bạch Tôn-gỉa Govinda (Krishna) –vương-quốc, lạc-thú và cuộc đời có nghĩa gì đâu!





    DHRITARASHTRA 1 hỏi:



    1. Này Sanjaya 2, trên cánh-đồng Chính-Pháp (Dharma), cánh đồng thiêng Kuru 3, chư hầu của ta và phía các nam-tử Pàndu 4 đã dàn trận xong, khao khát giao-tranh. Họ đang làm gì?



    SANJAYA thưa:



    2. Tâu Thánh-thượng, khi thấy đạo-quân của Pandavas đã dàn-hàng, vua Duryodlhana, bước đến bên thầy mình (Drona 5) và bẩm:



    3. “Bạch Thầy, xin Thầy hãy nhìn đạo-quân hùng-mạnh của các nam-tử Pàndu đã được chính tông-đồ uyên-bác của Thầy là nam-tử Drupada 6 dàn ra.



    4. Những tay cung-thủ uy-dũng đều là những vị anh-hùng. Trong chiến-tranh, họ tài ba chẳng kém gì Bhìma, chẳng kém gì Yuyudhàna 7, chẳng kém Viràta 8, và cũng chẳng kém gì Drupada đang đứng trên chiến-xa vĩ-đại.



    5. Họ cũng chẳng kém gì Dhrshtaketu 9, Cekitàna 10, và cũng chẳng kém tiếng cười qủa-cảm của Kashi, của Purujit 11, và của Kuntibhoja 12. Họ cũng còn tài ba như Caivya 13, một hổ-tướng trong đám những chư-hầu.



    6. Kìa là Yudhàmanyu 14, người dũng-lược, Uttamaujà 15, người qủa-cảm. Còn Sondhadra 16 và con cháu của Draupadi 17 đang sừng-sững uy-nghiêm trên những chiến-xa vĩ-đại.



    7. Thưa Thầy, còn những người tài giỏi nhất trong số thủ-lãnh của chúng ta. Như Thầy, Thầy là bậc vĩ-đại trong số những thiên-tài tái thế. Kia là những vị tư-lệnh trong quân-đội của con. Con xin kể danh-tính của họ hầu Thầy.



    8-9 Thầy là vị chúa-tể (Drona), cùng với Bhìsma 18, Karna 19 và Krpa 20 từng mang bao chiến-thắng trở về. Riêng Ashvatthama 21, Vikarna 22, và nam-tử Saumadatta23, cũng như những vị anh-hùng khác gươm dáo đã chỉnh-tề. Tất cả những người ấy đều là những vị quân-sư chiến-thuật, sẵn sàng liều mạng vì con.



    10. “Quân bên kia, do Bhìma thống-lĩnh 24 làm sao đọ được với quân ta. Nhưng quân ta, do Bhìshma thống-lĩnh thì cũng chỉ như quân họ mà thôi!”



    11. Bởi vậy, - Này tất cả các vị chỉ-huy quân-đoàn, hãy tuân-lệnh Bhìshma, dàn quân theo từng đơn-vị chặt chẽ.



    12. Bhishma, vị Trưởng-huynh của các anh em Kurus, và cũng là vị Tổ-phụ đáng kính, thổi tù-và lanh-lảnh như tiếng gầm sư-tử để khích-lệ Chư-hầu.



    13. Tức thời, những tiếng ốc-hụ, những tiếng trống, những tiếng tù-và, những tiếng kèn trận lanh-lảnh đáp lời, gây nên một sự huyên-náo vô-cùng.



    14. Trên các chiến-xa vĩ-đại kéo bởi những con chiến-mã lông trắng như mầu tuyết, Màdhava (Krishna) và Nam-tử Pàndu (Arjuna) cũng thổi những chiếc tù-và thần-thánh.



    15. (Krishna) thổi chiếc Pantcha-Sanya, Dhanànsaya (Arjuna) thổi chiếc Devadatta. Riêng Vrikodara (Bhima), người đáng nể vì qua những vĩ-công, thổi chiếc tù-và Paundra.



    16. Vua Yoydishthira, Thái-tử của Kuntì, thổi chiếc Anantavjaya, còn Nakula và Sahadeva cùng thổi những chiếc tù-và tuyệt-diệu của họ.



    17. Kế đến vua Kashi, đại-tài bách-bộ xuyên dương, Shikhandi, vị đại-danh điều-khiển chiến xa. Drishtadyuma, Virata và Sàtyaki đều là những bậc vô-địch.



    18. Tâu Thánh-thượng, từ bốn phương tám hướng vang rền tiếng ốc-hụ của hổ-tướng Saudhadra và của Drupada cùng với các nam-tử của ông.



    19. Tất cả tạo thành tiếng gầm khủng-khiếp như trời long đất lở làm cho các Nam-tử của Dritaràshtra run sợ.



    20. Thấy bên kia trận, các Nam-tử của Dritaràshtra đã dàn hàng và sẵn sàng cho tên bay ra tua-tủa như mưa, bên này trận, dưới nền cờ-lệnh mang hình một con khỉ, Nam-tử của Pandu (Arjuna) cũng từ từ mở rộng cánh cung.



    ARJUNA thưa



    21. Bạch Tôn-gỉa Achiyuta (Krishna), tôi đang ở đây, giữa hai đạo quân.



    22. Nên tôi càng thấy rõ các Chư-hầu đã dàn xong thế-trận. Họ đang nao-nức giao-phong, và khi trận đánh này bùng nổ, tôi phải giao-tranh với họ.



    23. Có điều tôi biết rằng, tất cả các Chư-hầu quần-tụ tại đây, xâu xé lẫn nhau chỉ vì lòng dục-thú nơi đứa con độc-ác của Dhritaràshtra.



    SANJAYA thưa



    24. Tâu Thánh-thượng, nghe Gudàkesha (Arjuna) nói, Tôn-gỉa Hrishtkesha (Krishna) thúc chiến-xa hùng-hậu nhất của mình lên và dừng lại giữa hai đạo-quân.



    25. Tôn-gỉa Krishna đưa mắt lần lượt nhìn Bhìshma, Drona và các Vương-hầu của những nước khác rồi nói: “Này Pàrtha (Arjuna) hãy nhìn anh em Kurus đã dàn trận xong rồi.”



    26. Nhờ thế Pàrtha (Arjuna) nhìn rõ chú, bác, cha, mẹ, thầy học, anh, em ruột, anh, em họ, con cái, cháu chắt và các chiến-hữu của mình.



    27. Ông cũng nhìn rõ các vị sui-gia và bè bạn, mặt nhìn mặt trong hai đạo-quân đối-nghịch. Nam-tử của Kuntì (Arjuna) thấy tất cả tộc-thuộc đã dàn-hàng.



    ARJUNA thưa



    28. Bạch Tôn-gỉa Krishna, tôi rất đau đớn khi nhìn thấy bà-con, thân-thích đang đứng ngoài mặt-trận, sẵn sàng chém giết lẫn nhau.



    29. Khủng-khiếp qúa, miệng tôi khô héo, thân tôi run rẩy và chân tôi muốn quị.



    30. Cánh cung Gandivà rời khỏi tay tôi, da thịt tôi tựa hồ như lửa đốt. Tôi không còn đủ sức để đứng vững, và tâm-trí tôi bấn-loạn.



    31. Bạch Tôn-gỉa Keshava (Krishna), tôi biết trước có những điều hung-kị. – Thật là dã-man nếu tàn-sát bà-con, thân-thích của mình trong cuộc chiến-tranh này.



    32. Bạch Tôn-gỉa Krishna, tôi không thèm khát vinh-quang, vương-quốc và khoái-cảm. – Bạch Tôn-gỉa Govinda (Krishna), vương-quốc, lạc-thú và cuộc-đời có nghĩa gì đâu?



    33. Chỉ vì aỏ-tưởng, những kẻ thèm muốn vương-quốc, khoái-cảm và lạc-thú đã dàn-trận nơi đây. Họ có biết đâu họ đang hủy-hoại cuộc đời và tài-đức của mình.



    34. Lòng tham khiến họ quên thầy học, cha con, ông bà, chú bác, anh em rể, những vị sui-gia và thân-bằng quyến-thuộc.



    35. Bạch Tôn-gỉa Madhusùdana (Krishna). Tôi không muốn giết họ dù phải bảo-vệ ngai-vàng trị vì ba thế-giới. – Vậy, để cai-trị thiên-hạ, tôi phải làm gì bây giờ?



    36. Bạch Tôn-gỉa Djanardana (Krishna). – Làm sao chúng ta có thể nhẫn-tâm giết các Vương-tử của Dhritaràshtra? Dù họ là những kẻ phiến-động, chúng ta cũng phạm vào trọng-tội.



    37. Bạch Tôn-gỉa Madhava (Krishna). – Thực sự, chúng ta không được quyền giết con cháu Dhritaràshtra vì họ là máu mủ của chúng ta. – Sung-sướng gì khi giết những người thân như thế?



    38. Vì lẽ-phải bị lòng gian-tham khuấy-động, nên những kẻ kia không nhìn thấy tội-ác khi tàn-sát gia-tộc và gây lòng thù-hận với bạn-bè.



    39. Chúng ta thấy được nỗi đau-thương tàn-sát gia-tộc, tại sao chúng ta không đập tan tội-ác?



    40. Tàn-sát gia-tộc là hủy-hoại truyền-thống ngàn xưa. Khi truyền-thống mất đi, gia-tộc không còn í-thức về bổn-phận.



    41. Bạch Tôn-gỉa Krishna. Khi bổn-phận bị lãng-quên, phụ-nữ hư-hỏng. Khi họ hư-hỏng , bạch Đức Vashneya, hỗn-loạn trong các giai-cấp bắt đầu.



    42. Sự hỗn-loạn này đưa gia-đình và những kẻ phá-hoại gia-đình vào địa-ngục. Vì thiếu cúng-lễ và rẩy rượu mừng, tổ-tiên bị rơi vào quên-lãng.



    43. Vì tội-lỗi của những kẻ phá-hoại gia-đình và của những kẻ gây ra hỗn-loạn trong các giai-cấp, nên tôn-ti trật-tự của xã-hội và gia-đình không còn nữa.



    44. Bạch Tôn-gỉa Janardana (Krishna). Con người rơi vào địa-ngục vì gia-đạo thiếu kỉ-cương,



    45. Hỡi ôi! Vì ham vương-quyền, vì ham dục-thú, chúng ta sắp phạm vào trọng-tội tàn-sát lẫn nhau.



    46. Nếu trong trận đánh này, khi các Vương-tử của Dhritaràshtra cầm binh-khí lướt đến giết tôi. Tôi thà chịu chết chứ không chống-cự. Đó là con đường hay nhất mà tôi lựa chọn.



    SANJAYA thưa



    47. Nói xong, vì qúa đau-thương, Arjuna ném cánh-cung thần đi và ngã ngay trên chỗ ngồi trong chiến-xa của mình.







    ĐỐI-THOẠI MỘT

    GHI-CHÚ



    1. Dhritaràshtra: Vị vua mù của dòng họ Kurus. Theo Anh-Hùng Ca Mahàbhàrata, Vua Dhritaràshtra nhường ngôi cho cháu là Yudhishthira (anh cả của Arjuna, chứ không nhường ngôi cho Thế-tử Duryodhama, tức con đầu-lòng trong số một trăm người con của ông chỉ vì Duryodhama là người rất ích-kỉ và độc-ác. (Xem bài “Anh-Hùng Ca Mahàbhàrata và Xuất-Xứ của Chí-Tôn Ca”.)



    2. Pàndu: Anh em của Vua Dhritaràshtra. Pàndu là cha của Yudhishthira, Bhìma, Arjuna, và Sahadeva.



    3. Sanjaya: Người đánh xe ngựa cho Vua Dhritaràshtra, và cũng là nguời kể cho vua nghe diễn-tiến trên chiến-trường, qua mười tám chương đối-thoại trong Chí-Tôn Ca.



    4. Kurukshetra: Cánh-đồng thiêng Kuru, gần Tân Đê-li.



    5. Drona: Quân-sư và cũng là thầy dậy võ cho cả đám anh em Pàndava và Kurus (thường dùng để gọi chung cho các con của Vua Dhritaràshtra).



    6. Drupada: Vua xứ Pàncãla, cha vợ của Arjuna. Hoàng-tử Dhrishtadyymma là con trai của ông.



    7. Yuyudhànà: Tên một võ-tướng chỉ-huy một chiến xa, cũng còn có tên là Satyaki.



    8. Viràta: Vua xứ Matayas.



    9. Dhrishtaketu: Vua xứ Cedis.



    10. Cekitàna: Tên một chiến-tướng.



    11. Purijit: Tên một chiến-tướng.



    12. Kuntibhoja: Anh của Purijit.



    13. Shaibya: Vua xứ Shibis.



    14. Yudhàmanyu: Một Thống-soái của đạo-quân Pàndava.



    15. Uttamauja: Một Thống-soái của đạo-quân Pàndava.



    16. Con trai của Subhadrà là Abhimanaya và cũng là con của Arjuna.



    17. Draupadì: Vợ của năm anh em Pàndava.



    18. Bhìshma: Vị Tổ-phụ có công nuôi-nấng và dạy dỗ anh em Pàndava và Dhritaràshtra.



    19. Karna: Anh em cùng mẹ khác cha với Arjuna.



    20. Kripa: Anh em rể của Drona.



    21. Asvatthàman: Con trai của Drona.



    22. Vikarna: Con trai thứ ba trong số một trăm người con của Vua Dhritaràshtra.



    23. Con trai của Somadatta. Cha là vua xứ Bàhikas.



    24. Danh-từ Phạn-ngữ Aparyàptam có hai nghĩa: a) chưa đầy-đủ, và b) vô-tận.


    ĐỐI-THOẠI HAI
    QUÁN-TRIỆT PHÙ-DU* và
    TÂM ĐỊNH-TĨNH
    Sàmkhyayoga



    32. Krishna: “ Này Partha, những bậc Kshattraya sung-sướng đón-nhận một cuộc đấu-tranh công-lí bởi trong lúc đấu-tranh, thình-lình họ sẽ biết cách mở những cánh cửa của Trời.”



    *Lí-trí Luận



    SANJAYA thưa



    1. Nhìn Arjuna mắt đẫm lệ, đau khổ và đáng-thương như vậy, Tôn-gỉa Madhusùdana (Krishna) bảo:



    ĐỨC THẾ-TÔN



    2. Này Arjuna. Ngươi từ đâu đến đúng lúc tình-thế khó khăn này? Tuyệt-vọng như thế thật là xấu-hổ, không xứng-đáng là một anh-hùng cái-thế 1, vì nó không đưa linh-hồn nhà ngươi về cõi bất-diệt với Trời.



    3. Này Partha (Arjuna). Đừng tuyệt-vọng. Đảm-khí của nhà ngươi không như vậy. Hãy vứt bỏ sự hèn-yếu khỏi tâm-hồn! Hãy thức-tỉnh, này Panrantapa (Arjuna).



    ARJUNA thưa



    4. Thưa Tôn-gỉa Madhusùdana (Krishna). Trong cuộc giao-chiến này làm sao tôi có thể nhẫn-tâm bắn vào Bhìsma và Drona. Họ là những người tôi hằng tôn-kính.



    5. Trong cõi hồng-trần, tôi khát-khao sống với hạnh bố-thí, chứ không thể giết những bậc thầy đáng kính. Giết những vị Gurus kia, là những người đã có công nuôi nấng và dạy bảo tôi nên người, thật chẳng khác nào dự vào tiệc máu.



    6. Thắng hay thua không quan-trọng. Nhưng nếu các Nam-tử Dhritaràshtra chết, chúng tôi cũng chẳng còn thiết sống.



    7. Trầm-lắng bởi u-sầu, tôi không còn thấy rõ bổn-phận của mình. Vậy, xin Người dạy sao cho tiện. Tôi, đệ-tử của Người, đang cầu-khẩn Người. Xin hãy dạy bảo tôi.



    8. Dù khi tôi đã gồm thâu lục-địa, và xóa bỏ được hận-thù. Hay dù cho tôi xứng đáng là minh-quân thánh-chúa, nỗi buồn-khổ này vẫn ám-ảnh mãi không thôi.



    SANJAYA thưa



    9. Tâu Thánh-thượng. Sau khi Gudakesha (Arjuna), người đã từng làm cho quân thù táng-đởm vì uy-dũng của mình, đã bày tỏ với Tôn-gỉa Hrishikesha (Krishna) như thế, ông quyết-định: “Tôi không giao-chiến!” – Đoạn ông ngồi yên lặng.



    10. Thấy vậy, tâu Thánh-thượng, Tôn-giả Hrishikesha (Krishna) mỉm cười.





    ĐỨC THẾ-TÔN



    11. Này Bhàrata. Nhà ngươi khóc cho những điều không đáng khóc, dẫu cho nhà ngươi thốt ra những lời có vẻ đại-hiền 2. Nhưng bậc đại-hiền không khóc cho kẻ chết và cũng không khóc cho kẻ sống.



    12. Thực ra, Ta cũng như nhà ngươi và các vị Chư-hầu kia chẳng bao giờ ngừng hiện-hữu.



    13. Sau khi thân-xác diệt-vong, Linh-hồn 3 vẫn giống như khi còn hiện-hữu. Từ tuổi thơ-ngây bước sang tuổi trẻ, rồi bước sang tuổi già, Linh-hồn như truyền vào một thể-xác khác.



    14. Này Nam-tử của Kunti (Arjuna). Những sự giao-tiếp với rung-động quan-năng 4 gây ra nóng và lạnh, vui và khổ. Chúng đến và đi vô-thường. Hãy biết chịu-đựng, này Bhàrata (Arjuna).



    15. Này Nguyên-soái của các vị Chư-hầu (Arjuna). Kẻ nào không bị các rung-động quan-năng ngự-trị, được quân-bình trong khổ và vui, biết kiên-trì, là kẻ hiện-hữu cùng bất-tử 5.



    16. Điều phi-thực không hiện-hữu. Điều chân-thực 6 không ngừng hiện-hữu. Muốn thấy được yếu-tính của chúng phải là người đã nhìn ra chân-tính.



    17. Hãy biết rằng, chân-tính hiện-hữu trong vạn-vật, nên bất-diệt 7. Không ai có thể hủy-hoại tính Đồng-nhất Bất-diệt này 8.



    18. Này Bhàrata (Arjuna). Linh-hồn đã hiện-thân thì vĩnh-cửu 9, vô hủy-diệt10, bất khả-tri 11, và vô-tận 12 chứ không tạm-bợ như thân-xác. Vậy thì hãy chiến-đấu.



    19. Kẻ nào cho rằng Linh-hồn có thể giết được người, và kẻ nào cho rằng Linh-hồn có thể bị giết, cả hai kẻ ấy đều ngu-xuẩn. Linh-hồn không giết được ai và cũng không ai có thể giết được Linh-hồn 13.



    20. Linh-hồn không sinh thì không tử. Linh-hồn đã hiện-hữu sẽ không thể ngừng hiện-hữu. Linh-hồn vô-sinh 14, thường-còn, vĩnh-cửu 15, xưa cũ, dù khi thân-xác đã chết, Linh-hồn vẫn còn tồn-tại.



    21. Này Pàrtha (Arjuna). Kẻ nào biết Linh-hồn bất-diệt, thường-còn, không khởi không tàn, kẻ đó có thể giết người hoặc thúc-dục kẻ khác giết người không?



    22. Giống như một người, vứt bỏ i-phục cũ để mặc i-phục mới, Linh-hồn đã hiện-thân vứt bỏ thân-xác úa-tàn để bước vào thân-xác mới 16.



    23. Binh-đao không thể đâm chém được Linh-hồn, lửa không thể đốt cháy được Linh-hồn, và gió không thể làm khô-héo được Linh-hồn.



    24. Linh-hồn đã hiện-thân không thể bị đâm chém, không bị thiêu-hủy, không tan như nước, không khô-héo. Linh-hồn thường-còn. Linh-hồn truyền vào vạn-vật17, Linh-hồn bất-biến 18, bền-bỉ 19, và mãi mãi bất-diệt.



    25. Linh-hồn là bản-sắc không thị-hiện 20, là vô-tri 21, là bất-diệt 22. Hiểu Linh-hồn như vậy, nhà ngươi không việc gì ưu-phiền nữa.



    26. Này Tướng-quân (Arjuna). Ngay như nếu nhà ngươi coi Linh-hồn có sinh có tử, nhà ngươi cũng không việc gì phải buồn phiền.



    27. Vì thực ra, ai sinh ra mà chẳng chết. Tránh làm sao được. Thôi chớ buồn phiền.



    28. Này Bhàrata (Arjuna). Thoạt kì-thủy phù-sinh không thị-hiện. Bước vào Trạng-thái Trung-gian phù-sinh thị-hiện. Sau khi hủy-diệt, phù-sinh lại trở về bản-sắc không thị-hiện. Biết như vậy, than-vãn làm gì?



    29. Có kẻ coi Linh-hồn như là một mầu-nhiệm. Kẻ khác nói về Linh-hồn như bằng một mầu-nhiệm. Thực tình, chẳng có ai biết Linh-hồn là gì cả.



    30. Này Bhàrata. Linh-hồn dù ở trong bất kì thể-xác của người nào cũng chẳng bao giờ bị huỷ-diệt 23. Vậy nhà ngươi không việc gì phải than-tiếc cho những phù-sinh.



    31. Khi đã hiểu Chính-pháp (Bổn-phận/ Dharma) của nhà ngươi rồi, nhà ngươi không còn gì run sợ. Này Arjuna, đối với một Kshattrya , không có gì đáng khát-khao hơn là một cuộc đấu-tranh công-lí.



    32. Này Pàrtha. Những bậc Kshattraya sung-sướng đón-nhận một cuộc đấu-tranh công-lí bởi trong lúc đấu-tranh, thình-lình họ sẽ biết cách mở những cánh cửa của Trời.



    33. Nhưng nếu nhà ngươi không muốn nhận cuộc đấu-tranh công-lí này, tức là nhà ngươi vứt bỏ bổn-phận và danh-dự của nhà ngươi trước gió. Như thế, nhà ngươi sẽ phạm vào một tội 24.



    34. Loài người mãi mãi kể cho nhau nghe sự mất danh-dự của nhà ngươi. Đối với một kẻ biết trọng danh-dự; thà chết còn hơn.



    35. Những chiến-sĩ uy-dũng điều-khiển các chiến-xa kia mãi mãi tin rằng nhà ngươi vì sợ hãi đã chạy trốn khỏi chiến-trường. Nhà ngươi, kẻ mà trước kia họ kính-ngưỡng, bây giờ họ sẽ khinh-bỉ nhà ngươi.



    36. Kẻ thù sẽ dùng biết bao lời đàm-tiếu nhục mạ lòng dũng-cảm của nhà ngươi. Còn gì có thể đau đớn hơn chăng?



    37. Này Nam-tử của Kuntì (Arjuna). Thất- bại, nhà ngươi sẽ đạt được cõi Trời. Chiến-thắng, nhà ngươi sẽ thỏa-vui nơi trần-thế. Hãy đứng lên cương-quyết giao-tranh.



    38. Khi đã xem vui thú và khổ đau, còn và mất, vinh-quang và thất-bại như nhau, hãy sửa-soạn giao-tranh. Như vậy, nhà ngươi sẽ không phạm vào trọng tội.



    39. Này Pàrtha (Arjuna). Lời dạy Ta vừa ban cho nhà ngươi là của đạo Sàmkhya (Lí-trí luận/ Quán-triệt Phù-du). Bây giờ hãy nghe lời dạy của đạo Yoga. Nhờ thấm-nhuần đức Hiền-tính của đạo này, nhà ngươi sẽ bẻ gãy được xiềng-xích Karma.



    40. Theo đức Hiền-tính của đạo này – không cần qúa gắng công, không sợ phạm giới-luật. Chỉ cần một chút í-thức về Chính-pháp (Dharma) cũng đủ vượt qua thống-khổ.



    41. Này, vui thay hỡi các Nam-tử Kurus! Khi lí-trí cương-quyết và chuyên nhất vào chân-tính, những tư-tưởng trong cõi hồ-nghi phân-tán vào vô-tận.



    42. Này Pàrtha (Arjuna). Lời từ-hoa dành cho những kẻ ngu-đần, những kẻ thỏa-vui với kinh-nghĩa trong những tập Vệ-đà. Cho nên họ mới nói: “Chỉ có kinh-nghĩa này là cứu-cánh mà thôi.”



    43. Lòng họ vốn đầy tham-dục, chỉ mong sao đạt đến cõi Trời. Bẩm sinh, họ vốn nệ vào kết-qủa của hành-động, bày vẽ ra những lễ-trọng rườm-rà để cốt hưởng phú-qúi vinh-hoa.



    44. Dù cho họ có muốn mở-mang tâm-trí 25, nhưng vẫn đắm-mê vào quyền-qúi và những lời hoa-mĩ rỗng-tuếch của kinh-thư, thì làm sao tâm-trí của họ Thiền-định 26 được?



    45. Này Arjuna. Những tập Vệ-đà bàn đến ba đẳng-tính: a) Tự mình hãy giải-thoát những Gunas, sao cho vượt ra ngoài yếu-tính đối-nghịch 27; b) Luôn luôn dốc-lòng theo đức-độ tinh-khiết (Sahsi); c) xa-lánh các sở-quyền 28 và đầy tinh-thần Đại-ngã.



    46. Nếu nước ở giếng cũng như nước ở hồ đều có hữu-ích riêng, thì những tập Vệ-đà cũng hữu-ích đối với một bậc Sa-môn (Bràhman)giác-ngộ.





    47. Chỉ có hành-động là đáng-kể, đừng qúa băn-khoăn về hậu-qủa 29. Đừng khuấy-động hậu-qủa của hành-động. Cũng đừng để cho mình bị lôi cuốn vào thụ-động.



    48. Này Dananjaya (Arjuna). Hoàn-tất hành-động trong tinh-thần nhất-thể với thần-linh. Khước-từ đắm-mê, tâm-hồn luôn-luôn định-tĩnh trong thành-công cũng như trong thất-bại. Tâm Định-tĩnh 30 này là đạo Yoga.



    49. Này Dhananjaya (Arjuna). Trong đạo Yoga, hành-động chỉ là nhận-thức thứ yếu 31. Hãy sống trong tâm-thức Thuần-khiết. Đáng thương thay cho kẻ nào làm việc chỉ quan-tâm đến hậu-qủa.



    50. Khi tâm-thức đã thuần-khiết, ta không màng đến hành-động tốt hay xấu [theo quan-niệm ở đời]. Hãy hiến-dâng mình cho đạo Yoga, vì đạo Yoga là nghệ-thuật hành-động 32.



    51. Các bậc hiền-giả, nhờ có tâm-thức Thuần-khiết, nên họ không quan-tâm đến hậu-qủa, cho nên họ thoát khỏi cái ách nặng-nề của những kiếp-sinh, và sống trong miền cực-lạc.



    52. Khi tinh-thần nhà ngươi thoát ra khỏi lưới ảo-mộng. Nhà ngươi sẽ cảm thấy khác hẳn đối với những gì đã và sẽ còn nghe được trong kinh-sách Vệ-đà.



    53. Khi tâm-thức của nhà ngươi còn bị mê-hoặc vì hư-văn trong kinh-sách Vệ-đà (Shrùti), nhà ngươi hãy bình-tĩnh và tập-trung tư-tưởng. Lúc đó nhà ngươi sẽ đạt đến đạo Yoga.



    ARJUNA thưa



    54. Bạch Tôn-gỉa Keshava (Krishna). Làm sao biết được kẻ nào có tâm Định-tĩnh 33 và kiên-trì trong lúc tham-thiền? Khi đã có tâm Định-tĩnh kẻ đó sẽ nói gì, ngồi ra sao, và đi đứng ra sao?



    ĐỨC THẾ-TÔN



    55. Này Pàrtha (Arjuna). Khi một người từ bỏ tất cả ham-muốn 34, và nhờ Đại-ngã, hắn được vui với chính Tiểu-ngã của mình 35, khi đó ta gọi hắn là “Người có tâm Định-tĩnh.”



    56. Kẻ nào, tinh-thần không bị xao-động trong đau-khổ và thoát khỏi cảnh giới của thú-dục, kẻ đó thoát khỏi dục-vọng, khỏi sợ-hãi và khỏi giận hờn. Chúng ta gọi kẻ đó là “Bậc Đại-hiền có tâm Định-tĩnh.”



    57. Tâm-thức của kẻ nào đã hoàn-toàn được soi-sáng 36, và hắn không vui cũng không buồn khi đón-nhận khoái-lạc 37 cũng như buồn-phiền 38. Tâm-thức ấy là tâm Định-tĩnh.



    58. Cho nên, dù khi tứ-chi của hắn bị cụ-hình tra tấn, hắn không còn biết đến những đau đớn quan-năng 39. Tâm-thức ấy là tâm Định-tĩnh.



    59. Nhờ huân-tập trai-giới, kẻ đã mặc-khải có thể tiêu-diệt được các rung-động của quan-năng 40. Khi lòng khao-khát không còn nữa, hắn sẽ chiêm-ngưỡng được bản-ngã Tối-thượng 41.



    60. Này Nam-tử của Kuntì (Arjuna). Những cảm-quan kích-thích lôi-cuốn tâm-hồn mãnh-liệt dù cho lí-trí có gắng công tiêu-diệt chúng.



    61. Cho nên, sau khi đã thắng những cảm-quan rồi, phải ngồi xuống ngay ngắn và suy-niệm về Ta, để cho những cảm-quan được hoàn-toàn điều-ngự, và để cho Tâm-thức được hoàn-toàn định-tĩnh.



    62. Khi nghĩ đến rung-động quan-năng, con người đâm ra say mê chúng 42. Từ say mê nảy sinh ra ham-muốn. Từ ham-muốn nảy sinh ra giận-hờn.



    63. Do giận-hờn sinh ra lầm-lẫn. Vì lầm-lẫn nên kí-ức bị xáo-trộn. Do xáo-trộn, tâm-thức bị huỷ-diệt. Bởi thế, con người mạng-vong.



    64. Nhưng khi Tiểu-ngã được hoà-đồng, tiểu-ngã uyển-chuyển giữa các rung-động quan-năng, í-thức ra sức-mạnh của quyến-rũ và tị-hiềm. Tiểu-ngã ấy được điều-ngự bởi Đại-ngã Thánh-thiện, nên đạt đức Thanh-tịnh 43.



    65. Nhờ sống trong Thanh-tịnh, nên khổ-đau bị hủy-diệt để cho Tâm-thức được định-tĩnh.



    66. Nếu Tiểu-ngã không được điều-ngự, thì Tiểu-ngã không thể có Tâm-thức thuần-khiết. Cho nên, ta cần Thiền-định 44. Thiếu Thiền-định không thể có Thanh-tịnh. Thiếu Thanh-tịnh liệu ta có hạnh-phúc không?



    67. Sở dĩ tâm-trí không còn sáng-suốt chỉ vì cơn thác-loạn quan-năng lôi cuốn tâm-trí như một chiếc tầu bị bão tố lôi cuốn ngoài khơi.



    68. Này Tướng-quân. Tâm-trí của ai không bị quan-năng lôi cuốn, người đó là người có í-thức và có tâm định-tĩnh.



    69. Cho nên, khi đêm bao trùm nhân-loại là lúc thức-tỉnh đối với bậc hiền-gỉa. Khi nhân-loại thức-giấc là đêm tối để bậc hiền-giản ngắm nhìn.



    70. Kẻ nào bất-biến giữa cảnh-giới của dục-thú - như đại-dương vẫn mênh-mang yên lặng, dù cho có những gòng sông đang ồ-ạt chảy vào – kẻ đó đạt được đức Thanh-tịnh, và tiêu-diệt được dục-thú.



    71. Ai từ bỏ được tất cả dục-thú và hành-động với lòng xa-thoát ích-kỉ, lợi danh, người đó sẽ đạt được đức Thanh-tịnh.



    72. Này Nam-tử Prìtha (Arjuna). Thanh-tịnh là niềm đại hạnh-phúc của đấng giác-ngộ (Brahman). Ai đạt được đức Thanh-tịnh, trong lòng hết sạch hồ-nghi. Như thế, ở lúc lâm-chung, người ấy tới cõi Niết-bàn của miền Vĩnh-thể 45.







    ĐỐI-THOẠI HAI

    GHI-CHÚ



    1. Anàryasushtam ( An-Àrya + Jushta): Không trở thành một vị Àryan hay không được chấp-nhận là một vị anh-hùng, qúi-tộc.



    2. Prajnàvàdàn (Prajnà + Vàda): Lời nói khôn-ngoan, đại-hiền: Câu này ngụ í rằng Arjuna thực tình chưa đạt đạo để trình bày một í-thức đúng về mặt nội-tâm kì-bí.



    3. Dehin: Linh-hồn hay bản-ngã hiện-thân.



    4. Màtràsparkshas (Màtrà + Sparsha): Va chạm với vật-thể quan-năng hay với những yếu-tính của vật-chất.



    5. Ameritatvàya: Bất-tử.



    6. Asat: Bản-ngã không thị-hiện (Phi-thực) hoặc “tính không hiện-hữu.” Sat: “Hữu-thể” hay “Hiện-hữu tính” chỉ tính hiện-hữu. Những từ này có tính triết-học chính-xác hơn trong hệ-phái Vedànta. Ví-dụ: Trong Advaita, Sat có nghĩa là ‘thường còn’, ‘vĩnh-cửu’, để chỉ Brahman. Nhưng Sat không bao giờ có nghĩa chỉ một số kinh-nghiệm có tính tự mâu-thuẫn, chẳng hạn câu nói, “Con trai của thiếu-phụ không con.” Những từ ngữ trên được triệt-để dùng trong tư-tưởng về vũ-trụ quan trong Ảo-Nghĩa Kinh. Trong Chí-Tôn Ca, những từ này được dùng ra ngoài í-nghĩa kinh-điển.



    7. Avinàshin: Vô huỷ-diệt.



    8. Avyaya: Vô cấu-nhiễm.



    9. Nitya: Vĩnh-cửu.



    10. Abàshin: Vô Hủy-diệt.



    11. Aprameya: Vô-tri.



    12. Antavat: Tính diệt-vong.



    13. Trong “Katha Upanishad”, 1,2, 19, có đoạn: “Nếu kẻ giết người còn nghĩ rằng mình giết, và kẻ bị giết còn nghĩ rằng mình bị giết. Nghĩ như thế là vô-lí. Vì Đại-ngã không giết và cũng không hề bị giết. [Đây là vấn-đề liên-quan tới Đại-ngã. Nếu đây là chuyện của Tiểu-ngã, thì cái vô-lí chỉ nằm trong kẻ bị giết. Vì người ấy đâu còn nữa để “nghĩ” là mình bị giết.]



    14. Aja: Vô-sinh.



    15. Shàshavata: Mãi mãi, vĩnh-cửu, bền-bỉ.



    16. Sharira: Thân-xác.



    17. Sarvagata: Vô-sở bất-tại hay khả-năng truyền vào vạn-vật.



    18. Sthànu: Bất-biến.



    19. Acula: Bất-động.



    20. Avyakta: Không thị-hiện



    21. Acintya: Không thể tư-duy được.



    22. Avadhya: Vô hủy-diệt



    23. Pàpa: Tội-lỗi thông-thường ban đầu làm ung-thối nền móng xã-hôi.



    24. Buddhi: “Huệ-năng”, lẽ phải đạo, hay khả-năng tinh-tấn. Triết-học Ân-độ thường phân-biệt hai trạng-thái của đời-sống tâm-linh. Đó là Manas và Buddhi. Manas là tâm-trí của cảm-thức, có khả-năng du-nhập và tổng-hợp những ấn-tượng của giác-quan rồi đưa Tiểu-ngã vào những vật-thể ngoại-lai. Vì thế, Manas thiếu tinh-tấn chỉ mang đến cho Tiểu-ngã những tiền-nghiệm. Do đó, Manas cần phải được biến-thể nhờ vào sức vận-động của Tâm-trí cao hơn, tức Buddhi hay Huệ-năng, cũng còn gọi là Phật-tính. Phật-tính là khả-năng phán-xét để nâng cao và đưa những đức-tin của Tâm-trì về một í-thức đúng. Trong Chí-Tôn Ca, từ-ngữ Prajna cũng được dùng để chỉ những í-niệm về ‘Tri-thức’, ‘Hiền-tính’, và ‘Mẫn-giác’.



    25. Samàdhi: Sự tập-trung, hay tập-trung các khả-năng Tâm-trí về một đối-tượng duy-nhất, tức là Thiền-định.



    26. Dvandva: Từ-ngữ này chỉ lưỡng-tính đối-nghịch, như “vui khổ”, “nóng lạnh”.



    27. Niryogakshema (Nir – Yoga + Kshema). Từ-ngữ này có nghĩa không lưu-í đến quyền-qúi, hay nói một càch khác “thoát khỏi sở-quyến”.



    28. Phala: Hậu-qủa. Từ này được dùng nhiều trong Chí-Tôn Ca để chỉ kết-qủa của hành-động.



    29. Samatva: Tâm Thanh-tịnh hay Trì-cửu.



    30. Buddhiyoga: Giới-luật tâm-thức hay phương-thế để đạt đến chính tinh-tấn (nội-tâm minh-triết). Cũng có nghĩa khả-năng Phật-tính.



    31. Karmasu Kaushalam: Khôn-ngoan trong hành-động. Đây có nghĩa là sự toàn-thiện của kết-qủa hành-động chuyên-nhất. Tức là không hề bị ám-ảnh vì hậu-qủa của hành-động.



    32. Sthitaprajnasya (Sthita + Prajna): Người có tâm định-tĩnh.



    33. Kama: Lòng dục-tưởng, khao khát vật-dục.



    34. Àtman: Tiểu-ngã. Trong Chí-Tôn Ca, từ Átman cũng được dùng nhiều, và một đôi khi dùng theo nghĩa Đại-ngã, Bản-ngã bao-quát, hoặc Chân Đại-ngã của con người. Nhưng thông-thường Átman có nghĩa là Tiểu-ngã của mỗi cá-nhân. Khi ấy Átman đồng nghĩa với Jĩva và Durusha. Đôi khi các nghĩa này cũng biến mất trong Chí-Tôn Ca đễ làm gọn nghĩa trong câu.



    35. Anabhisneha: Xa thoát.



    36. Abhinandati: Được thỏa-mãn, sung-sướng.



    37. Dveshti: Thất-vọng, ghét, thù-nghịch.



    38. Indriyas: Ngũ-quan. Thêm Manas vào làm thành sáu quan-năng.



    39. Vishayas: Vật thể hay thú-vui của cảm-giác.



    40. Param: Đấng Tối-thượng, Vô-thượng.



    41. Sanga: Đam-mê, quyến-luyến, hệ-lụy.



    42. Prasàda: Tâm Thanh-tịnh.



    43. Bhàvana: Tập-trung, cương-quyết, định-mệnh.



    44. Nirvànà: Vĩnh-phúc. Lúc ban đầu của đạo Phật, Nirvànà là từ rất phổ-biến. Trong văn-học, từ này có nghĩa ‘dập tắt ngọn lửa dục’ hay ‘một trạng-thái đạt đạo khi lòng dục không còn’. Trong Chí-Tôn Ca, Nirvànà có nghĩa là Vĩnh-phúc hay nguồn vui đến từ kinh-nghiệm tâm-linh.




    ĐỐI-THOẠI BA
    NGHIỆP HÀNH-ĐỘNG
    Karmayoga



    18. Krishna: “Không hành-động, không thụ-động thì không còn gì ràng buộc ở cõi đời. Người như thế không còn lụy vào kiếp sinh nào nữa.”



    ARJUNA thưa



    1. Bạch Tôn-gỉa Keshava (Krishna). Nếu đức Hiền-tính cao hơn hành-động tại sao Người lại thúc đẩy tôi vào hành-động ghê tởm này?



    2. Í-thức của tôi rối loạn vì những lời nói mơ-hồ của Người. Xin Người hãy dạy cho tôi con đường đạt đến mục-đích một cách rõ ràng.



    ĐỨC THẾ-TÔN



    3. Này Tướng-quân. Ta biết nhà ngươi là bậc trí-dũng cao-thượng. Nhưng trong thế-giới này có hai con đường: a) Con đường í-thức (Jnàna Yoga) dành cho những người nhận-thức (Sàn Khyas), và b) Nghiệp Hành-động (Karma Yoga) dành cho những người hành-động (Yogins).



    4. Không phải nhờ kỉ-luật trong hành-động con người mới đạt đến tự-do. Cũng không phải nhờ biết khước-từ hành-động (xả-kỉ) con người mới đạt được toàn-thiện.



    5. Thực ra, ta đâu có bao giờ ngồi yên. Ta hành-động từng giây phút vì ảnh-hưởng của phẩm-tính bẩm-sinh (Gunas) đến từ Prakriti. Cho nên đã sinh ra ta bắt buộc phải hành-động.



    6. Kẻ nào nói hắn điều-ngự quan-năng 1 mà hắn còn tưởng đến 2 rung-động quan-năng. Kẻ đó là kẻ giả-dối vì tâm-trí của kẻ đó còn xáo-trộn.



    7. Này Arjuna. Nhưng kẻ nào tâm-trí đã điều-ngự được quan-năng, đã thoát khỏi Nghiệp Hành-động (Karma-Yoga), kẻ đó đúng là một hiền-nhân (Yogì) và hắn sẽ đạt đạo.



    8. Vậy thì, nhà ngươi hãy hoàn-tất hành-động vì công-lí. Nên nhớ rằng hành-động luôn luôn tốt hơn thụ-động. Nếu nhà ngươi chẳng làm gì cả thì ngay đến việc lo cho thân-xác của nhà ngươi cũng không xong.



    9. Này Nam-tử Kuntì. Khi thế-gian cần hành-động, thì hành-động ấy phải được hoàn-tất vì danh-nghĩa của đức hi-sinh 3. Vậy nhà ngươi hãy hoàn-tất hành-động của mình trong tinh-thần hi-sinh đó, và đồng thời phải cố-gắng thoát khỏi mê-chấp.



    10. Thuở xưa, khi Đấng Tạo-hóa (Prasâpati)4 sinh ra nhân-loại. Đấng ấy ban cho nhân-loại đức hi-sinh 5 và dặn rằng: “Với đức hi-sinh này loài nguời tiếp-tục sinh con đẻ cái. Nhưng loài người phải cố giữ đức hi-sinh này là nguồn vui-sướng. 6”



    11. Tuy loài nguời phụng-dưỡng Thần-linh (Devas) bằng đức hi-sinh nhưng không biết Thần-linh có phù-hộ loài người không? Thế thì, loài người hãy nuôi-dưỡng lẫn nhau để đạt đến điều lành Vô-thượng.



    12. Được loài người tôn-thờ bằng đức hi-sinh, Thần-linh chứng cho những gì loài người ao-ước, vì kẻ nào không đáp lại những gì mình nhận được, kẻ đó là một tên ăn cắp.



    13. Người cương-trực làm sáng tỏ đức hi-sinh bằng cách thể-hiện đức hi-sinh cao đẹp cho người khác biết, nên người ấy thoát khỏi tội-lỗi. Người ích-kỉ chỉ vui-sướng bên mâm cơm đĩa thịt của mình, nên nuôi-dưỡng nhiều tội-ác.



    14. Nhờ thực-phẩm phù-sinh mới sống. Nhờ mưa móc thực-phẩm mới sinh ra. Nhờ hành-động đức hi-sinh mới sáng tỏ.



    15. Nhờ bản-ngã giác-ngộ (Brahma) mới có đức hi-sinh. Từ tâm Vĩnh-cửu7 mới có giác-ngộ. Vĩnh-cửu truyền vào vạn-vật, cho nên Vĩnh-cửu nằm trong đức hi-sinh.



    16. Này Nam-tử Prithà (Arjuna). Kẻ nào không theo bánh xe Tạo-hóa, chỉ vui sống trong tội-lỗi và khoái-cảm, kẻ đó sống thừa.



    17. Kẻ nào thấy niềm vui trong Đại-ngã, thỏa-mãn cùng Đại-ngã, và chỉ chấp-nhận Đại-ngã, kẻ đó không còn vướng-víu với đời.



    18. Không hành-động, không thụ-động thì không còn gì ràng buộc ở cõi đời 8. Người như thế không còn lụy vào kiếp sinh nào nữa.



    19. Cho nên, nhà ngươi hãy cố-gắng giải-thoát và hoàn-tất bổn-phận của mình. Khi hoàn-tất hành-động vô cấu-nhiễm, nhà ngươi đi vào Vô-thượng.



    20. Hoàng-đế Janaka và những vị vua khác đạt được chân-lí nhờ hành-động và nhờ hoàn-thiện 9. Nhà ngươi hãy cố gắng hành-động và đừng quên rằng mục-đích của nhà ngươi là bổn-phận ở đời 10.



    21. Bậc vĩ-nhân làm được điều gì thì phàm-nhân cũng làm được điều ấy. Thế gian thường noi theo gương sáng 11 của vĩ-nhân.



    22. Này Pàrtha (Arjuna). Ta đạt được mọi điều trong ba thế-giới và ta cũng chẳng đạt được điều gì cả.



    23. Này Pàrtha. Nếu ta không làm tròn bổn-phận của Ta, thì con người sẽ theo ta lơ-đãng bổn-phận dài dài.



    24. Nếu ta không làm tròn bổn-phận của Ta, thì thế-gian sẽ tới lúc suy-tàn. Thế có phải Ta là nguyên-nhân của sự hỗn-loạn trong các giai-cấp, và cũng là sự tận-diệt của các phù-sinh hay không?



    25. Này Bhàrata (Arjuna). Kẻ ngu hành-động vì mê-chấp bao nhiêu, thì bậc Hiền-gỉa khi hành-động càng tránh xa mê-chấp bấy nhiêu, và chỉ chuyên lo một mục-đích duy-nhất là giúp đời.



    26. Bậc Hiền-gỉa không làm rối trí những kẻ u-mê khi hành-động, mà phải giúp họ vui trong hành-động, và đồng thời cũng làm tròn bổn-phận của mình trong tinh-thần kỉ-luật.



    27. Hành-động theo Thiên-lí, chứ không phải như những kẻ kiến-thức hẹp-hòi12 thường bảo: “Ta hành-động theo ta!”



    28. Nhưng, này Tướng-quân. Kẻ nào phân-biệt rõ chân-tính 13 về vai-trò của quan-năng (Gunas) và hành-động 14 , nghĩa là “chỉ có các quan-năng sinh-chuyện quan-năng”, kẻ đó không mê-chấp.



    29. Ai bị quan-năng mê-hoặc thì đắm-mê hành-động của quan-năng. Bậc đại-trí không bao giờ làm rối-loạn tâm-trí của người chưa hoàn-thiện 15.



    30. Hãy lao đầu vào cuộc-chiến.

    Hãy hành-động cho Ta coi nào.

    Hãy tập-trung tư-tưởng về Đại-ngã Vô-thượng 16

    Hãy chiến-đấu và giải-thoát mình khỏi những đau-buồn.



    31. Kẻ nào kiên-nhẫn noi theo giáo-huấn của Ta 17, tâm-hồn của họ tràn-trề trung-tín 18. Họ không còn than-van và xa thoát khỏi hành-động.



    32. Kẻ nào khinh-miệt giáo-huấn của Ta, lí-trí và í-thức của kẻ đó không còn nữa. Kẻ đó sẽ rơi vào cõi diệt-vong.



    33. Bậc Hiền-gỉa hành-động theo bản-sắc của mình. Phù-sinh hành-động theo bản-sắc phù-sinh. Ai cấm mình hành-động theo bản-sắc của mình?



    34. Trở ngại lớn của con người là sự cám-dỗ và lòng hiềm-khích. Chúng sinh từ rung-động quan-năng (Gunas). Nhà ngươi phải chiến-thắng hai điều đó.



    35. Dù cho bổn-phận của mình chưa hoàn-hảo cũng vẫn hơn là [mong chờ vào] bổn-phận tốt-đẹp của người khác. Nên chết theo bổn-phận của chính mình lựa chọn. Đi theo bổn-phận của người khác vô cùng nguy-hiểm.



    ARJUNA thưa



    36. Bạch Đức Varshneya (Krishna). Thế-lực nào thúc đẩy 19 con người vào tội-lỗi?



    ĐỨC THẾ-TÔN



    37. Thế-lực đó là lòng ham-muốn, là sự giận-hờn. Chúng sinh từ Rajas, một đẳng-tính tham-ái, cấu xé và làm ung-độc tâm-hồn. Nên biết rằng, lòng tham-ái là kẻ thù của chúng ta nơi trần-thế.



    38. Tham-ái

    Như khói che khuất ngọn lửa,

    Như bụi làm mờ gương,

    Như màng-thai vây phủ bào-thai,

    Như Vô-minh che mờ Tâm-thức.



    39. Cho nên, dục-vọng che mờ đức Hiền-tính.



    40. Kẻ thù này (dục-vọng) trú-ngụ 20 trong quan-năng (Gunas), trong tâm-thức, và trong chân-ngã của con người. Tham-ái chỉ chờ cơ-hội bộc-phát, che mờ đức Hiền-tính, và làm xáo-trộn tinh-thần.



    41. Này vị Bá-chủ chư-hầu Bhàrata. Chính vì thế, trước hết, nhà ngươi hãy điều-ngự quan-năng (Gunas). Thứ đến, tiêu-diệt tội-lỗi, vì tội-lỗi hủy-diệt đức Hiền-tính (Jnànà) và Tri-túc (Vijnànà) 21 của Ta.



    42. Con người thường coi trọng quan-năng (Gunas). Nhưng cao hơn quan-năng là Tâm-thức (Manas). Cao hơn Tâm-thức là Chân-ngã Thuần-khiết. Cao hơn Chân-ngã Thuần-khiết là tinh-thần bất-tử Atma [đây ám-chỉ Brama/Đại-ngã].



    43. Này Tướng-quân. Khi đã biết tinh-thần bất-tử Atma còn vĩ-đại hơn Chân-ngã Thuần-khiết, thì nhà ngươi hãy hoà-đồng với Đại-ngã và đứng lên tiêu-diệt kẻ-thù dục-vọng.





    ĐỐI-THOẠI BA

    GHI-CHÚ



    1. Karmen Driyàni (Karmat Indriya): Những năng-lực hành-động hoặc là năm quan-năng vận-chuyển như: lưỡi, chân tay và những cơ-năng sinh-sản và bài-tiết.



    2. Smaran: Sự ngừng lại (vận-chuyển) hay nhớ lại.



    3. Niyata: Được phân-phát, cấp hay ban cho. Cũng có nghĩa là công-nghiệp được chỉ-định theo bổn-phận của mỗi người.



    4. Prajàrati (Prasâpati): Thượng-Đế, Đấng Chí-tôn của muôn loài. Từ này thường thấy trong Rig Veda



    5. Yajna: Đức hi-sinh.



    6. Kàmadhuk: Đặc-hứa (cố giữ) hay đặc-nhượng lòng ham-muốn. Cũng có nghĩa một con bò thần thỏa mãn tất cả ước-vọng.



    7. Akshara: Khả-năng vô hủy-diệt. Từ-ngữ được dùng trong Triết-học Bà La Môn (Brahmanism). Từ này là nguyên-âm đầu cho cách phát-âm của từ vô huỷ-diệt. Nó bao hàm mọi í-nghĩa và được hiểu theo bậc Đại-sư Bà La Môn là Bản-ngã Tuyệt-đối, tức Đức Thế-tôn.



    8. Artha: Lợi, quyền-lợi, mục-đích, biểu-í, ràng-buộc.



    9. Siddhi: Tính toàn-thiện.



    10. Lokasangraham (Loka + San-Graha): Cách cai-trị thế-giới. Từ này có nghĩa sự cai-trị, hướng-dẫn trật-tự xã-hội hơn là ổn-định thế-gian vật-chất.



    11. Prmàna: Tiêu-chuẩn, mẩu-mực.



    12. Ahankàra: Lòng ích-kỉ. Cũng có nghĩa “Cái tôi í-thức” về nguyên-tắc phân-tích luận trong đạo-học Sànkhya.



    13. Tattvait (Tattva + vid): Ai biết được chân mật-tính là người hiểu được bản-chất của mật-tính. Từ Tattva còn có nghĩa ‘chân-lí’.



    14. Gunakarmavibhàgyoga (Guna + Karma + Vi-Bhàga): Sự tách rời (Linh-hồn) khỏi Gunas và hành-động. Cũng có nghĩa sự phân-biệt giữa Gunas và hành-động.



    15. Akritsnavida (A-Kritsna + Vida): Chỉ biết có một phần hoặc không biết hết.



    16. Adhyàtmacetasà (Adhi + Átma + Cetassà): Í-thức chuyên-nhất về Đại-ngã Tối-thượng.



    17. Mata: Tôn-chỉ, quan-niệm.



    18. Shraddha: Lòng trung-thực. Từ này không có nghĩa tín-điều và cũng không có nghĩa hướng dẫn đời-sống của một người vế triết-lí tinh-thần.



    19. Niyojta (Ni + Yuj): Bị bắt buộc, ức-chế, gượng-gạo.



    20. Adhishthàna: Căn-bản, nền-tảng, nền-móng.



    21. Jnàna: Đức Hiền-tính (Vijinàna): Hiểu-biết. Sự khác nhau giữa Jnàna và Vijinàna rất rõ trong Chí-Tôn Ca mặc dù khó khẳng-định được í-nghĩa tinh-xác của chúng. Jnàna là ‘Đức Hiền-tính của Tâm-thức’ hay ‘’Nội-tâm Trực-khởi’. Vijnàna là ‘tri-thức’ hay ‘Í-thức bao quát’.

    ĐỐI-THOẠI BỐN
    TRI-THỨC LUẬN
    Jnànayoga



    Jnànayoga



    33. Krishna: “...Mọi hành-động đều rõ-ràng trong tri-thức.”



    ĐỨC THẾ-TÔN



    1. Ta đã giảng đạo Yoga Bất-tử (Tri-thức luận) này cho Vivasvat. Vivasvat lại dạy đạo này cho Mahu. Mahu truyền đạo này cho Ikshvàku.



    2. Này Parantapa (Arjuna). Nhờ sự truyền-dạy tiếp-tục như vậy, các bậc minh-quân đã đạt Tri-thức. Nhưng với thời-gian, Tri-thức luận bị rơi vào quên lãng.



    3. Hôm nay, Ta mặc-khải cho nhà ngươi về Tri-thức luận ngày xưa (Jnànayoga), vì nhà ngươi là tông-đồ trung-tín và cũng là bạn Ta. Ta bảo thực, đây là huyền-nhiệm Tối-thượng.



    ARJUNA thua



    4. Người ra đời sau Vivasvat. Làm sao Người có thể mặc-khải Tri-thức cho Vivasvat được?



    ĐỨC THẾ-TÔN



    5. Này Arjuna. Ta vốn có nhiều kiếp-sinh trong qúa khứ. Nhà ngươi cũng vậy. Này Parantapa (Arjuna). Nhưng ta khác với nhà ngươi, vì ta biết tất cả những kiếp sinh của ta.



    6. Dẫu Ta là Vô-sinh, là Đại-ngã Tối-thượng bất-tử, là Đức Thế-tôn của muôn loài, Ta vẫn hiện-hữu trong bản-ngã của Ta. Nhờ quyền-năng kì-bí (Màyà) nên Ta hiện-hữu.



    7. Này Bhàrata (Arjuna). Khi bổn-phận bị quên-lãng, tội-lỗi bao trùm tất cả. Lúc đó, Ta phải hiện-thân một lần nữa.



    8. Ta tái-sinh từ thế-kỉ này qua thế-kỉ khác (yuge yuge) 1 để tiêu-diệt điều ác và để duy-trì Chính-pháp (Dharmà) và thiện-đức.



    9. Này Arjuna. Kẻ nào biết được những kiếp-sinh và hoạt-động thánh-thiện của Ta bằng chính yếu-tính của mình, kẻ đó khi rời bỏ xác-thân sẽ không còn tái-

    sinh nữa. Kẻ đó đến bên Ta.



    10. Nhiều người đã thoát khỏi đam-mê, sợ-hãi và giận-hờn, tìm cách hiện-hữu trong Ta, và trở nên tinh-khiết (pùtàs) nhờ tri-thức (Jnàna-tapasà)2, nên những người ấy đạt được bản-ngã của Ta.



    11. Này Pàrtha (Arjuna). Hãy theo con đường Vô-thượng của Ta. Bất cứ từ đâu con người đến với Ta, Ta cũng ân-cần đón nhận.



    12. Muốn chóng đạt được chính-qủa thì phải có những công-nghiệp hi-sinh thánh-thiện ở đời.



    13. Theo sự phân-phối các đẳng-tính (Gunas) và hành-động (Karma), Ta lập ra hệ-thống gồm bốn giai-cấp 3. Nhưng vẫn phải hiểu Ta là bản-ngã bất-động vĩnh-cửu.



    14. Hành-động không làm hại Ta, vì Ta không ước-mong kết-qủa. Người nào hiểu Ta như thế, người ấy thoát khỏi hành-động.



    15. Chính vì thế, tổ-tiên chúng ta khi í-thức được điều này, các người khát-khao giải-thoát và hoàn-tất bổn-phận của mình. Vậy nhà ngươi hãy theo gương tổ-tiên để hoàn-tất bổn-phận của mình.



    16. Thế nào là hành-động? Thế nào là không hành-động? Những câu hỏi này đã khiến ngay các bậc đại-hiền thường bối rối. Bây giờ Ta dạy nhà ngươi thế nào là hành-động. Sau khi đã hiểu rõ, nhà ngươi sẽ thoát khỏi đau-buồn 4.



    17. Phải í-thức được thế nào là bản-chất của hành-động tốt, xấu, cũng như thế nào là bất-động. Bản-chất của hành-động rất phức-tạp.



    18. Người nào tri-thức rằng hành-động cũng như không hành-động, và không hành-động cũng như hành-động, người ấy là bậc hiền-gỉa và sẽ hoàn-tất mọi hành-động một cách hoà-đồng 5.



    19. Ai thoát khỏi dục-tưởng, diệt-trừ nghiệp-chướng 6 (Karma) bằng Tri-thức (Jnànà), người đó là bậc Hiền-gỉa (Pandidt) đầy Phật-tính (Budhas).



    20. Ai thoát khỏi mê-chấp của hậu-qủa hành-động, thì trở nên ung-dung tự-tại, không ỉ-lại vào người khác. Người như thế, dẫu hành-động cũng như không hành-động.



    21. Ai tiêu-diệt được dục-vọng, làm chủ tinh-thần mình, xa-lánh sở-quyền, không làm điều sằng bậy, người ấy sẽ thoát khỏi tội-lỗi





    22. Người nào, khi thành-công hay thất-bại, đều tỏ ra hài-lòng với một tâm-hồn an-nhiên tự-tại, người ấy dễ dàng thoát khỏi yếu-tính đối-nghịch, không còn ghen-ghét đố-kị. Cho nên, trong hành-động người ấy không bao giờ hệ-lụy.



    23. Khi hành-động của một người không còn bị ràng-buộc, người đó hoàn-toàn được giải-thoát, nhờ tâm Tri-thức (Jnànà), nên hành-động của người ấy là một đức hi-sinh.



    24. Hi-sinh và dâng lễ cho Thẩn-linh là đức Hiền-tính (Brahman). Ai trẩm-thiền về hành-động Hiền-tính (Brahman) sẽ trở thành bậc Đại-trí (Brahman).*



    25. Trong khi có những đạo-sư Tri-thức (Yoga) dâng lễ lên Thần-linh (Dàiva), thì lại có vị khác hiến-dâng hành-động hi-sinh của chính mình trong ngọn lửa Hiền-tính (Brahmàgnàu).



    26. Để giới dục, có những đạo-sư vứt bỏ thính-quan. Trong khi ấy nhiều vị khác bỏ ngay cả âm-thanh và các quan-năng khác.



    27. Có vị dâng-hiến tất cả hành-động thuộc về quan-năng. Vị khác dâng hơi thở của đời sống trong tinh-thần Tri-thức (Yoga) tự hạn-chế chính nình.



    28. Có vị dâng hiến giàu sang thịnh-vượng của mình cùng với công-trình đạo-hạnh (Yoga). Vị khác hiến dâng huân-tập trong kinh-ngữ Vệ-đà, với Tri-thức hi-sinh (Jnànàyajnàs) và qua những lời thế khó.



    29. Có vị dâng phép hít vào thành thở ra. Vị khác thở ra thành hít vào, tức là điều-ngự được hô-hấp, để hoà-đồng sức-sống. *



    30. Có vị ăn uống thanh đạm, điều-ngự hơi thở, theo tinh-thần hi-sinh Tri-thức, cho nên mọi xấu-xa (Kalmasàs)7 bị lửa hi-sinh (Yajnavidas) tiêu-diệt.



    31. Này Tư-lệnh của đại-tộc Kuru. Khi đạt đến Tâm-tư Tối-thượng Ban đầu (Brahma sanàtanam), con người sống bằng đức-độ hi-sinh và cảm thấy như đã uống được thuốc trường-sinh bất-tử (Amrta). Ai không biết hi-sinh cho thế-giới này, thì còn thế-giới nào đâu để mà hi-sinh.



    32. Qua lời nói của bậc Đại-hiền (Brahman), có biết bao nhiêu đức hi-sinh làm sao kể-hết. Do hành-động mới có đức hi-sinh. Biết thế thì nhà ngươi sẽ được gỉai-thoát.



    33. Này Pàrtha (Arjuna). Tri-thức về đức hi-sinh thì cao hơn dâng hiến bằng vật-chất. Chỉ có trong Tri-thức (Jnàne), ta mới quán-triệt 8 được mọi hành-động mà thôi.





    34. Tri-thức qua nghĩa-vụ khiêm-nhường và qua tìm tòi học-hỏi của chính mình. Những người Tri-thức đều là người biết Chân-tính (Tattva) sẽ đến đưa đường dẫn lối ngươi đi.



    35. Này Pandava (Arjuna). Khi đã tri-thức nhà người sẽ không còn lầm-lẫn (Moham). Và nhờ Tri-thức luận này, nhà ngươi sẽ thấy tất cả phù-sinh, trong nhà ngươi (Átmani) và trong Ta (Mayi).



    36. Ngay cả nếu nhà ngươi là con người độc-ác nhất thế-gian (Papakrttamas), nhờ Tri-thức này, nhà ngươi sẽ trở nên thánh-thiện.



    37. Này Arjuna. Như lửa (Agnis) biến gỗ thành đống tro tàn, Tri-thức (Jnàna) này làm cho mọi hành-động hoàn-toàn tan rã.



    38. Trong thế-giới này không có gì tinh-khiết (pavitram) 9 cho bằng Tri-thức. Kẻ nào giác-ngộ trong đạo Yoga, sẽ thấy Tri-thức ấy ngay trong chân-ngã của mình (Átmani).



    39. Kẻ nào đầy đủ đức-tin về Tri-thức, điều ngự được quan-năng của mình, và đạt được Tri-thức, kẻ đó sống trong miền Hòa-bình Vô-thượng (Paràm sàmtim).



    40. Nhưng kẻ nào ngu-xuẩn (ajna), thiếu đức-tin, lòng đầy hồ-nghi (Sámsaya)10, kẻ đó sẽ bị hủy-diệt. Vì khi tâm-trí còn hồ-nghi, làm sao kẻ ấy hạnh-phúc (Sukham) trong thế-gian này hoặc trong bất cứ thế-gian nào.



    41. Này Kẻ Chinh-phục Vinh-hoa (Dhanamjaya/Arjuna). Ai không bị lụy vào hành-động và từ bỏ hành-động trong dòng Tri-thức (Yoga), lòng hồ-nghi không còn nữa, kẻ đó an-nhiên tự-tại (Átmavantam).



    42. Này Bhàrata (Arjuna). Hãy kiên-trì trong Tri-thức luận (Yoga). Hãy đứng lên vung gươm chém phăng mối hồ-nghi sinh từ ngu-lậu, đã từ lâu len lỏi trong tâm-hồn (Hrtstham) của nhà ngươi.





    ĐỐI-THOẠI BỐN

    GHI-CHÚ



    1. Yuge Yuge: Thời-đại hay giai-đoạn. Xem thêm trong Đối-Thoại Tám, câu 17.



    2. Tùtas: Tinh-thần khắc-kỉ. Từ ngữ này xuất-hiện rất lâu trong văn-học sử Ấn-độ, và thường dùng trong nghĩa của đạo Yoga, để diễn-tả ‘sự tập-trung năng-lực’. Trong Chí-Tôn Ca, Tùatas ám-chỉ ‘hành-động’, ‘nỗ-lực’, và ‘khả-năng tập-trung’ hay ‘thiền-định’.



    3. Càturvarnayam: Hệ-thống bốn giai cấp.



    4. Asubhàt: Tính xấu xa, bắt nguồn từ tội-ác hoặc xung-khắc.



    5. Yktas: Kỉ-luật, dốc-lòng, định-tĩnh trong đạo Yoga.



    6. Karmànam: Hành-động (nghiệp).



    7. Kalmasha: Sai-lầm, xấu-xa.



    8. Parisamàpyate: Quán-triệt hoàn-toàn.



    9. Pavitram: Trở nên tinh-khiết, trở nên trong-sạch (không còn tội-lỗi).



    10. Samsaya: Hồ-nghi.



    *Câu 24: Phiên-âm từ nguyên-tác Phạn-ngữ:

    Brahmàpanam brahma havir Brahman hi-sinh, Brahman cúng giường thần-linh,

    Brahmàgnàu brahmanà hutam Trong ngọn lửa của Brahman bởi Brahman tưới ra

    Brahmàiva tena gantavyam Brahman bởi chính Brahman đạt-đến

    Brahmakarmasamàdhinà Bởi ai chiêm ngưỡng hành-động của Brahman.



    Winthrop Sargeant (1979) dịch theo đúng í trên, gần như không thay đổi vị-trí của từ-ngữ, ngoại-trừ cách ngắt câu . (Trang 236).

    Sri Samkaràcàrya (1983)/ Dr. A.G. Krishna Warrier (dịch sang Anh-ngữ, trang 162) rât gần với bản-dịch của W. Sargeant.

    Swami Prabhupàda (1983,1991), cùng cách phiên-âm trên, dịch như sau:

    24. Ai hiểu tâm-thức Krishna chắc chắn đạt đến vương-quốc tâm-linh nhờ vào sự hiến-dâng tất cả cho hoạt-động tâm-linh, trong đó sự hoàn-thiện tuyệt-hảo và hướng về cùng bản-ngã tâm-linh.



    *Câu 29: Phiên-âm từ nguyên-tác Phạn-ngữ:

    apàne juhvati pranam Khi thở ra họ dâng hiến hít vào,

    pràne ‘pànam tathàpare Khi hít vào, thở ra kẻ khác

    prànàpànagatì ruddhvà Con đường hít vào và thở ra điều-ngự,

    prànàyàmaparàyanàh Điều-ngự hơi thở chú-tâm vào.



    Winthrop Sargeant (1979) chỉ uyển chuyển cách viết quanh í trong nguyên-tác.

    Sri Samkaràcàrya (1983)/ Dr. A.G. Warrier dịch rất gần chính bản và rất hay như sau:

    29. Có người cố-í điều-ngự hơi thở, chặn đường hơi thở ra vào, hiến-dâng bằng cách hít vào trong cách thở ra và ngược lại.

    Swami Prabhapràda (1983, 1991) dịch như sau:

    29. Lại có người cố-í điều-ngự hơi thở giữ yên trong trạng-thái lâng lâng, trong lúc vận-chuyển hơi thờ ra vào, và vẫn trong trạng-thái lâng lâng, rồi ngừng thở. Trong khi, có những người khác, nhịn ăn để thở ra như một hành-động hi-sinh.

    Hai ví dụ trên cho thấy í-chỉ của Swami Prabhupàda. Trước hết ông là nhà lãnh-đạo Hội Tri-thức Krishna, có rất nhiều trụ-sở trên thế-giới. Cho nên, ông tự cho mình hiểu ẩn-í (vế Krishna) như trong câu 24. Thứ đến, ai cũng biết Yoga trong Chí-Tôn Ca thường có nghĩa ‘thiền-định’. Về sau Yoga là những khổ công về luyện hơi-thở. Nên Swami Prabhupàda cho rằng í câu 29 phải được diễn-tả như trên., đặc biệt thêm vào cách ‘nhịn ăn để thở’.






    ĐỐI-THOẠI NĂM
    GIÃ-TỪ HÀNH-ĐỘNG
    Karmasannyàsayoga





    10. Krishna: “Ai dâng-hiến hành-động của mình về Vĩnh-thể (Brahmani), ai không còn hệ-lụy,

    người đó hành-động thanh-sạch, hơn cả cánh sen trong đầm.”





    ARJUNA thưa



    1. Bạch Tôn-gỉa Krishna. Người ca-ngợi Lí-trí Luận (Yoga) và Gĩa-từ Hành-động 1. Trong hai phép ấy, phép nào tuyệt hơn? Xin người dạy cho tôi thật rõ ràng.



    ĐỨC THẾ-TÔN



    2. Lí-trí Luận và Gĩa-từ Hành-động đều dẫn đến Vĩnh-phúc Tối-thượng. Trong hai phép đó Giã-từ Hành-động là cách tuyệt hơn.



    3. Này Tướng-quân. Hãy chiêm-ngưỡng một nhà đạo-hạnh kiên-trì 2a, là người không ghen ghét, không tham-dục, thoát khỏi đẳng-tính đối-nghịch 2b, nên không còn ở trong kiếp sống nô-vong.



    4. Chỉ có kẻ phàm-phu mới cho rằng Lí-trí Luận (Sàmkhya) và Giã-từ Hành-động (Yoga) khác nhau. Ai đạt được một trong hai đạo đó kể như người đó đạt được cả hai.



    5. Nếu những triết-gia thiên về Lí-trí (Sàmkhyàis) đạt được chân-tính kể trên, thì những bậc đạo-sư thiên về Hành-động (Yoga) cũng đạt được như vậy. Ai í-thức rằng Lí-trí Luận và Hành-động Luận (Yoga) là một, người đó nhận ra chân-tính.



    6. Nhưng này Tướng-quân. Nếu không nhờ Hành-động Luận, thì khó lòng đạt đến Giã-từ Hành Động. Sở-sĩ các bậc hiền-giả đạt đến vĩnh-cửu (Brahman) rất mau vì họ sớm được hòa-đồng trong Hành-động Luận (Yoga).



    7. Kẻ nào nhờ Hành-động Luận của Yoga được hoà-đồng (Yogayuktas) thì Tiểu-ngã của kẻ đó tinh-khiết (visuddha), quan-năng (Indriyas) của kẻ đó điều-ngự. Kẻ đó được Đại-ngã soi-sáng nên Tiểu-ngã của kẻ đó trở-thành Đại-ngã của tất cả phù-sinh (Sarvabhùtàtmabhùtàtmà). Kẻ đó có tâm định-tĩnh ngay khi đang hành-động.



    8. Người tri-thức về chân-tính, mải miết trầm thiền nên nói rằng: “Tôi không làm gì cả” ngay cả khi người ấy hành-động với thị-giác, xúc-giác, khứu-giác, cũng như khi ăn, khi đi, khi ngủ, khi thở.



    9. Khi nói, khi bài-tiết, khi nhận-thức, khi nhắm mắt cũng như mở mắt, người tri-thức tin rằng “Chỉ có cảm-xúc trong sự-vật của giác-quan thôi (Indriyàrthesu)”.



    10. Ai dâng-hiến hành-động của mình về Vĩnh-thể (Brahmani) 3, ai không còn hệ-lụy, người đó hành-động thanh-sạch, hơn cánh sen trong đầm. *



    11. Nhờ xa-thoát, các bậc hiền-gỉa Hành-động Luận (Yoga) hướng mình về tinh-khiết (Suddhaye), với xác-thân (Kàyema), trí-tuệ (Manasà), thông-minh (Buddhyà) và ngay cả quan-năng (Indriyàis).



    12. Người hòa-đồng là người khước-từ hậu-qủa (Phale)của hành-động, nên người ấy đạt tới hoà-bình tối-thượng (Sàmtim). Người chưa hoà-đồng, thường hành-động theo dục-vọng (Kàmakàrena), nên không sao thoát khỏi hậu-qủa của hành-động.



    13. Người giác-ngộ (Dehì) giã-từ hành-động bằng tri-túc (Manasà), ngồi yên hạnh-phúc sướng như vua, với thân-xác phàm-trần (Pure) 4, không sinh-sự nên chẳng sự-sinh (Kàrayan).



    14. Đức Thế-Tôn (Prabhus) 5 không gây mầm (Kartrtvam) hoạt-động, không sinh chuyện cho người, và cũng không gắn hành-động vào hậu-qủa. Thế mà, ô hô Thiên-đạo (Svabbhàvas) tự bồng-bềnh.6



    15. Đức Thế-Tôn (Vibhus) 7 không nhận hành-động tốt xấu của ai bao giờ. Điều khiến con người u-mê vì ngu-lậu (Muhyanti) che mờ tri-thức.



    16. Khi Tri-thức đập tan ngu-lậu trong bản-ngã, thì Tri-thức khiến cho bản-thể Vô-thượng (Param) rực rỡ như mặt trời (Àdityavat).



    17. Những ai giác-ngộ trong bản-thể Vô-thượng, trầm-mình trong bản-thể Vô-thượng, vì bản-thể ấy là bản-thể cao nhất, Tri-thức của những người ấy đập tan mọi xấu xa (Kalmasàs), nên họ thoát khỏi kiếp luân-hồi (Apunaràvrttim).



    18. Bậc hiền-giả (Panditàs) coi một vị sa-môn (Bràhmane) đắc-đạo, một con bò, một con voi hay ngay cả một kẻ vô-loài (Svapàke) như nhau (sama).



    19. Những ai tâm-trí không còn thiên-vị, người đó thoát khỏi luân-hồi ngay trong cõi đời này. Bậc đại-hiền không còn tội-lỗi vì coi tất cả phù-sinh như nhau (Sàmye/ Samam), cho nên người đó hiện-hữu cùng Đại-ngã (Brahmani).



    20. Đừng qúa vui khi đạt được cái gì mình âu-yếm. Đừng buồn khi thấy cái gì âu-yếm ra đi. Người đã giác-ngộ (Brahmanavid), trí-tuệ rõ-ràng (Sthirabuddhir), tâm-tư sáng sủa, sống trong miền Vô-thượng (Brahmani).



    21 Ai không hề bị cám-dỗ bởi ngoại-giớ (bàhya), chỉ biết hạnh-phúc trong Đại-ngã (Átmà), chỉ thể-nhập với cõi Phạm-thiên (Brahmayogayuktàtmà) 8 qua đạo Yoga, người đó đạt hạnh-phúc bất-diệt (Aksayam).



    22. Này Nam-tử Kuntì. Lạc-thú (Bhogàs) là cỗi nguồn của khổ-đau, có khởi có tàn (Ádyantavantas). Bậc hiền-gỉa (Budhas) không tìm vui trong lạc-thú.



    23. Trước khi lìa đời, ai có thể cưỡng lại được dục-thú giận-hờn (Krodha), người đó là người hạnh-phúc.



    24. Ai có được hạnh-phúc nội-tại, vui cùng nội-tại, nên có tâm-thức sáng ngời. Người đó là một Sa-môn trút bỏ Tiểu-ngã đễ trở thành Đại-ngã (Brahmanirvànam).



    25. Các bậc hiền-gỉa khi đã hủy-diệt được xấu-xa, lòng hồ-nghi không còn nữa, tự-ngã được điều-ngự, dốc lòng thương-mến phù-sinh (Bhùta), nên đạt được cõi Hoà-bình Vĩnh-cửu (Brahmannirvavàna).



    26. Cõi Hòa-bình Vĩnh-cửu rất gần với những ai đã xóa bỏ được dục-thú, giận-hờn, rất gần với các vị tu-hành có tâm-tư điều-ngự, và cũng rất gần với những hiểu được tự-ngã của mình.



    27. Sau khi đã loại bỏ được những ảnh-hưởng ngoại-lai, bậc hiền-gỉa nhìn xuống khoảng giữ hai chân mày, và dùng mũi hô-hấp (prànà, apàna) điều-hòa.



    28. Mục-đích tối-thượng của bậc hiền-gỉa là giải-thoát (Muktas), cho nên các quan-năng, tâm-trí và thông-minh của người ắy phải được điều-ngự để cho dục-vọng, lo-sợ và giận-hờn biến mất thì người ấy hoàn-toàn giải-thoát 9.



    29. Người nào biết Ta vui với hạnh hi-sinh (Yajnatapasàm), biết Ta là Đấng Thế-Tôn (Mahesvaram) của Thế-gian, và cũng là bạn của tất cả phù-sinh (Sarvaghùtànàm), người ấy là bậc đại-hiền đạt tới hòa-bình.





    ĐỐI-THOẠI NĂM

    GHI-CHÚ



    1. Sannyàsa: Gĩa-từ hành-động có tính cá-nhân trong xã-hội. Nếu phải hành-động thì hành-động ấy phải ra ngoài đam-mê về hậu-qủa.



    2a. Nityasannyàsi (Nitya + Sannyàsin): Người vĩnh-viễn giã-từ hành-động.



    2b. Mirdvandvas: Thoát khỏi (không màng đền) những cặp đôi đối-nghịch như ‘nóng lạnh’, ‘đau sướng’...



    3. Ádhàya: Hiến-dâng hành-động về đấng Phạm-thiên (Bản-thểTối-thượng hay Brahman) làm như thể chính Tạo-hóa (Prakriti) hành-động.



    Từ-ngữ Brahman còn có nghĩa là ‘Vĩnh-thể’ hay ‘Vĩnh-cửu’. Ta lấy ví-dụ câu 10 trong đối-thoại năm này.



    Sir Edwin Arnold (1965):

    10. Ai khi hành-động, dâng hiến tất cả hành-động vế Vĩnh-cửu (Brahman), với tâm sa-thoát, người ấy không bị tội-lỗi, như cánh sen nước. (Trang xii)



    Khi chuyển sang thơ, Arnold dịch là ‘Đấng Phạm-Thiên hay Vô-thượng:’

    10. Ai hành-động trong tư-tưởng Vô-thượng (Brahman)

    Thế-gian của cảm xúc không đụng tới linh-hồn người ấy

    Cũng như lá sen không bị ướt trong nước.



    4. Thân-xác phàm-trần (Pure) hay nói ví von ‘Thành-phố chín cửa’, tức là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, hậu môn, và cơ-quan sinh-dục.



    5. Prabhus: Đại-ngã Vô-thượng, hay Đấng Chí-tôn.



    6. Mượn câu sấm của Trạng-trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Ô hô Thế-sự tự bồng-bềnh” để dịch câu “Thiên-đạo tuần-tự như tiến”.



    7. Vibhus: Đức Thế-Tôn, Thường-trụ, Thường-hằng,Vĩnh-cửu, Đại-ngã (Átman. Nên nhớ nghĩa này thường dùng trong Chí-Tôn Ca).



    8. Brahmayogayukttàmà (Brahma + Yuga + Yokta +Átman): Tiểu-ngã hợp nhất với Bản-thể tối-thượng nhờ đạo Yoga (Giã-từ Hành-động).



    9. Muktas: Giải-thoát (được giải-thoát).








    ĐỐI-THOẠI SÁU
    THIỀN-ĐỊNH*
    Dhyànayoga





    7. Cái tâm vô-thượng (Paramàtmà)10 của người thanh-tịnh (Pasàntasya) điều-ngự được chính mình vững vàng trong nóng cũng như lạnh, đau buồn cũng như vui sướng, danh-dự cũng như nhục-nhằn.



    ĐỨC THẾ-TÔN



    1. Bậc đại-hiền (Yogin) chăm làm nghiêp-sự1 là người xả-kỉ 2, biết giã-từ hậu-qủa. Người thiếu đức hi-sinh bỏ bê sự-nghiệp linh-thiêng3 không phải là bậc đại-hiền.



    2. Này Nam-tử Pàndu. Giã từ hành-động là quán-triệt đạo hiền (Yoga). Nên ai đã từ bỏ í-đồ sẽ trở thành vị đại-hiền (Yogin).



    3. Đối với một vị hiền-gỉa4 chỉ ước mong đạt đến Chân-như (Yoga), thì hành-động chỉ là phương-tiện5. Đối với một vị hiền-giả đã đạt Chân-như thì Tâm Định-tĩnh6 trở thành phương-tiện.



    4. Ai không còn mê-chấp quan-năng và hành-động, đồng thời biết từ-bỏ mọi í-đồ (dâm-chí)7, người đó đạt-đạo Thánh-hiền (Yoga)8.



    5. Lấy Đại-ngã nâng cao Tiểu-ngã, chứ đừng dìm Tiểu-ngã. Tiểu-ngã có thể là bạn (Bandhus) và cũng có thể là kẻ thù (Ripus) của Đại-ngã (Àtmanas)9.



    6. Tiểu-ngã của ai đã được Đại-ngã điều-ngự, thì Tiểu-ngã ấy là một người bạn. Còn đối với ai Tiểu-ngã chưa được điều-ngự, thì Tiểu-ngã của người ấy như một kẻ thù, đầy sân-hận.



    7. Cái tâm vô-thượng (Paramàtmà)10 của người thanh-tịnh (Pasàntasya) điều-ngự được chính mình vững vàng trong nóng cũng như lạnh, đau buồn cũng như vui sướng, danh-dự cũng như nhục-nhằn.



    8. Với tâm-thức chan-hoà trong kinh-nghiệm tâm-linh (Jnàna) và kinh-nghiệm phàm-trần (Vijnàna)11, bậc hiền-minh (Yogin) điều-ngự được quan-năng trở nên nhất quán (Kùtasthas), coi một hòn đất, một hòn đá và một thỏi vàng có giá-trị ngang nhau.



    9. Ai công bằng (Udàsìna) với bạn-hữu, người quen, cũng như kẻ thù. Ai không thiên-vị giữa bà-con và kẻ thù. Ai công-bình (samabuddhis) trước ngườiquân-tử cũng như kẻ tiểu-nhân. Người đó là người xuất-chúng (Visisyate) ở thế-gian.



    10. Bậc đại-hiền luôn-luôn chú-tâm vào Đại-ngã, sống trong cô-tịch (Rahasi), một mình với tư-duy (Citta) và tâm (Àtmànam) định-tĩnh (yata), nên không còn dục-vọng và ham muốn sở-hữu của riêng mình (Aparigrahas)12.



    11. Người ấy chọn một chỗ sạch sẽ, không quá thấp cũng không qúa cao, rồi lần lượt trải trên chỗ ấy, dưới cùng là lớp cỏ thơm (Kusa), trên lớp cỏ thơm là một tấm da hươu, và trên mặt tấm da hươu này là một vuông vải13.



    12. Người ấy hướng tâm (manas) vào một vật, điều-ngự tư-duy và hoạt-động của quan-năng, ngồi yên trầm-mặc về đạo cả (Yoga) để Tiểu-ngã trở nên tinh-khiết (Visuddhaye).



    13. Ngồi yên, đầu với cổ cho thẳng. Đừng nhìn đâu cả, chỉ nhìn vào đầu mũi của mình (svam) mà thôi.



    14. Tâm đã định, sợ-hãi không còn, dốc một lòng thanh-sạch (Brahmacàrivrate) tinh-thần và thể-xác14. Với tâm định-tĩnh, hướng mọi tư-tưởng về Ta, và dâng hiến cho Ta (Matparas).



    15. Cứ tiếp tục điều-ngự như thế, thì tâm-trí của vị sa-môn hiền-hoà (niyatamànasa) tiến về cõi Niết-bàn15, tức miền Hoà-bình Vô-thượng, để hợp nhất cùng Ta (Matsansthàm).



    16. Này Arjuna. Đạo dạy rằng: “Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều. Đừng thức qúa, chớ ngủ nhiều.”16 (Không như con đường Trung-đạo của Phật-giáo)



    17. Đạo giệt khổ (Dhuhkhahà) cho ai biết điều hòa ăn uống và tránh viển-vông (Vihàrasya), điều-ngự hành-động và quân-bình trong thức ngủ.



    18. Để điều ngự chính mình thì người ấy phải trầm-mình trong Tiểu-ngã, chính tư-duy, không khát-khao, không dục-thú.



    19. Như ngọn đèn không lung-linh trong nơi kín gío, nụ cười không nhạt-phai trên khuôn mặt vị sa-môn (Yoginas) có tâm định-tĩnh khi huân-tập đạo Yoga (Yogam) về Đại-ngã (Àtmanas).17



    20. Bậc sa-môn hòa vui trong tâm-thức (Àtmani) khi tư-tưởng an-tịnh (uparamate) nghiêm-túc trong Thiền-định (Yoga) để đưa Tiểu-ngã trầm-tư về Đại-ngã.



    21. Ai biết nơi nào là Vĩnh-phúc (Sukham) nhờ trí-tuệ (Buddhigràhyam)18 vượt thoát khỏi quan-năng (Atìndriyam), người đó không ra ngoài chân-tính.



    22. Khi đã đạt được chân-tính, người đó biết không còn gì vĩ-đại (Adhikam) hơn chân-tính. Khi đã trụ trong chân-tính thì người đó thoát khỏi đau buồn (Duhkhena).



    23. Đạo diệt khổ. Cho nên hãy quyết-tâm (Cetasà) huân-tập Đạo này (Yoga) với tâm-tư sáng-suốt (Anirvinnacetasà).



    24. Từ bỏ tất cả dục-thú có cỗi-nguồn từ dâm-chí (Samkalpa). Dùng trí-tuệ điều-ngự mọi quan-năng (Indriyagràmam).



    25. Rồi từ từ mọi hoạt-động lắng xuống (Uparamet)19 khi trí-tuệ đã hoàn-toàn điều-ngự và tâm-tư nằm trong Đại-ngã, thì lúc đó đừng nghĩ gì cả.



    26. Bất cứ khi nào thấy tâm20 bất-an (Asthiram), giao-động đó đây, phải giữ tâm lại và điều-ngự Tiểu-ngã.



    27. Khi tâm-thức trì-cửu, đam-mê (Rajasam) lắng xuống thì bậc hiền-gỉa thoát khỏi xấu-xa hợp-thể với Pham-thiên (Brahman), và đạt tới Hoà-bình vô-thượng (Sukham uttamam).



    28. Cứ thế mà điều-ngự lấy mình, xa lánh xấu-xa21, thì con người học Đạo dễ dàng giáp mặt Phạm-thiên, thỏa vui với hạnh-phúc vô-cùng tận (Atyantam).



    29. Hãy có tâm trong cả phù-sinh, hãy để phù-sinh tất cả trong tâm. Tâm ai đắc Đạo thấy cái gì cũng bình-đẳng như nhau (Samadasamas)22.



    30. Ai thấy Ta ở mọi nơi và thấy vạn-vật trong Ta23 (Mayi), thì Ta ở bên người đó, và người đó ở bên Ta.



    31. Bậc hiền-gỉa đã hợp-thể cùng Vô-thượng 24 (Ekavam) tôn-kính Ta (Màmn) như bản-thể hiện-hữu trong vạn-vật (Sarvabhùtasthitam). Thì dù người ấy làm gì cũng vẫn hiện-hữu trong Ta.



    32. Này Arjuna. Ai thấy mình là một trong mọi hoàn-cảnh, dù đau buồn25 hay sung-sướng, người đó là bậc đại-hiền vô-thượng.



    ARJUNA thưa



    33. Bạch Đức Thế-Tôn 26 (Người tiêu-diệt ngạ-qủi). Vì tâm-trí của tôi còn giao-động, nên tôi chưa hiểu được nền-tảng giáo-huần của người về cái tâm bình-đẳng (Sàmyena).



    34. Bạch Đức Thế-Tôn. Theo tôi, tâm-trí chưa trụ, còn nhiều phiền-toái (Pramàthi), còn cường-điệu(Balavat) và căng-thẳng (Drdham). Để chế-ngự tâm đó, theo tôi thật là khó, khó như chế-ngự cuồng-phong (Vàyos).



    ĐỨC THẾ-TÔN



    35. Này Dũng-tướng Arjuna (Mahàbàho). Dĩ-nhiên, khi tâm chưa định thì khó lòng điều-ngự. Nhưng này Nam-tử Kuntì, cứ năng huân-tập và đừng để í tới những cám-dỗ trần-gian (Vàiràgyena), thì tâm sẽ định.

    36. Ta nghĩ rằng, đạt Đạo thì khó cho người tâm-thức chưa điều-ngự. Nhưng nếu người đó cứ cố-gắng (Yatatà) điều-ngự Tiểu-ngã, thì người đó vẫn ngộ được bằng một phương-pháp (Upàya) riêng nào đó.



    ARJUNA thưa



    37. Bạch Đấng Krishna. Người có tâm chưa điều-ngự nhưng đã có đức-tin (Sraddhayà) song le, tâm-trí vẫn xa vời Đạo cả nên không đạt Đạo (Yoga), thì có con đường nào khác cho người ấy không?



    38. Này Dũng-tướng Krishna. Liệu người ấy có lạc đường như một thoáng mây bay (Abhram), rơi vào hư-vô giữa trời và đất, không có cơ-sở rạch-ròi, nên hoang-mang trên đường (Pathi) tìm Vô-thượng (Brahmanas) hay không?



    39. Bạch Đức Thế-Tôn. Chỉ có Người mới có thể khai tuệ27 cho tôi. Nếu không chẳng còn ai giúp tôi ra khỏi hồ-nghi. Xin người hãy giúp tôi.



    ĐỨC THẾ-TÔN



    40. Này Nam-tử Prithà. Hắn không sao đâu 28. Không ai làm tốt mà chịu bất-hạnh bao giờ.



    41. Ai đã đến với những thế-gian đầy công-đức (Punyakytàm), đã sống bao năm liên-tục trong vùng hào-quang (Sucìnàm) và tiếng tăm lừng lẫy (Srìmatàm), thì dù chưa đạt Đạo, người ấy sẽ tái-sinh.



    42. Có thể người đó sẽ tái sinh trong gia-đình của bậc đại-hiền (Dhìmatàm). Kiếp sinh như thế còn khó hơn là trở lại trần-gian (Loke).



    43. Này Nam-tử Kuru. Sau khi tái-sinh, người ấy dùng tất cả kiến-thức thu-tập từ kiếp trước (Pàurvadehikam), để lại cố-gắng tiến về Giác-ngộ (Samsiddhàu).



    44. Dù người ấy không muốn thì công đức kiếp trước của người ấy vẫn đưa người ấy đi. Nếu người ấy chỉ muốn biêt Đạo, người ấy còn hiểu xa hơn cả từ-ngữ (Sabda) Phạm-thiên (ví-du: đọc Kinh Vệ-đà).



    45. Nhờ nỗ-lực trì-cửu (Prayatnàt) và tâm-trí điều-ngự, bậc tu-hành rửa sạch xấu xa và trở nên hoàn-thiện qua nhiều kiếp sinh. Sau đó người ấy đạt được Mục-đích Tối-hậu (Paràm).



    46. Người đạt-đạo (Yogì) cao hơn kẻ tu-hành khắc-khổ (Tapasvibhyas), cao hơn học-gỉa (Jnànibhyas), cao hơn cả những người cúng giường chư Phật (Karmibhyas). Này Arjuna, hãy là người đạt-đạo.



    47. Ai trong số những người đạt đạo này đã đến bên Ta với tâm sâu thẳm (Antaràtmannà)29, và ai kính-ngưỡng ta với tất cả niềm tin, người đó là người trung-tín nhất của Ta.





    ĐỐI-THOẠI SÁU

    GHI-CHÚ



    * Dhyànayoga: Thiền-định. Các bản dịch Chí-Tôn Ca bằng tiếng Anh Pháp thường dùng từ ‘Meditation’ (Suy-niệm/Suy-tư) để dịch chữ Dhyànayoga. Trong truyền-thống triết-học Tây-phương, Suy-niệm hay Suy-tư là phương-pháp lí-luận và phê-bình tư-tưởng trong lĩnh-vực siêu-hình hay thực-tiễn mà đối tượng thường là kiến-thức hoặc kinh-nghiệm ở trần-gian. Ví-du: Suy-tư về Triết-học Ban Đầu của R. Descartes, Suy-niệm trong Tinh-thần Descartes của E. Husserl, ...Thiền-định trong Chí-Tôn Ca, và trong các tư-tưởng Đông-phương không có tính triết-học, và đòi hỏi phải xa lánh kiến-thưc, như vậy rất khác với chữ ‘Meditation’.



    1. Karma: Nghiệp-sư. Ở đây có nghĩa công-đức theo tinh-thần tôn-gíao.



    2. Samnyàsì: Xả-kỉ. Người giã-từ hành-động.



    3. Akriyas: Bỏ bê nghiệp-sư linh-thiêng.



    4. Munes: Hiền-giả.



    5. Kàranam: Phương-tiện, phương-pháp.



    6. Samas: Định-tĩnh.



    7. Dâm-chí: Tôi dùng từ này, và trong trường-hợp này, không phải để dịch chữ ‘Samkalpas’ (mục-đích, í-chí, dục-vọng) mà để làm sáng-tỏ í-đồ trong hành-động có thiếu tự -nhiên. Từ ‘Dâm-chí’ không có nghĩa ‘Í-dâm-dục’ mà là ‘dục-vọng’ hay ‘vọng-tưởng’ nghịch lẽ tự-nhiên. Tôi mượn từ này trong Nho-Giáo của Trần Trọng-Kim, đoạn Lão-tử trả lời Khổng-tử, như sau:

    “Người quân-tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân ... Ông nên bỏ cái khí kiêu-căng, cái lòng ham-muốn, cùng cái sắc-dục và dâm-chí đi; những cái ấy đều vô-ích cho ông.” Trần Trọng-Kim, Nho-Giáo, c.1930, Khai-Trí, In lần thứ tư, không ghi năm, trang 23, dựa trên những bài viết trả lời Phan Khôi năm 1933, sau khi xuât-bản lần thứ nhất, không ghi năm.)



    Dĩ-nhiên thái-độ vô-vi của Lão-tử khác với giã-từ hành-động trong Chí-Tôn Ca. Lão-tử không thuộc về xã-hội con người, nên Lão-tử nhìn con người với cặp mắt hư-vô, i như trong Đạo-Đức Kinh: “Trời-Đất coi người như chó rơm.” Trái lại, quan-niệm ‘hành-động và không hành-động’ trong Chí-Tôn Ca nghĩ đến con người và chính-nghĩa, cho nên những người như Gandhi hiểu được í-nghĩa ‘hành-động và không hành-động’ trong Chí-Tôn Ca và dùng tư-tưởng ấy để đấu-tranh dành độc-lập cho Ân-độ. Con đường ‘bất bạo-động’ chỉ là cách hành-động không dùng đến vũ-lực và bạo-động mà thôi.



    8. Nghiệp Hành-Động (Karmayoga) là tư-tưởng tốt vì hành-động tức là không sao nhãng bổn-phận. Khi con người suy-tư (Dhyànayoga) nhờ Nghiệp Hành-Động như một í-chí để thành-công. Khi đã thành công trong tư-duy vế Đại-ngã (Átman), thì Tri-thức Luận (Jnànayoga) hướng người đó tới giải-thoát. Nói tóm lại, hành-động rồi quán-triệt hành-động để vượt lên. Có người cho rằng triết-lí về Tri-thức Luận ảnh-hưởng tới Phật-giáo.



    9. Tiểu-ngã/Đại-ngã: Tiểu-ngã là ‘ngã chưa được giác-ngộ’. Đại-ngã là ‘tiểu-ngã đã giác-ngộ.’ Như thế, tiếng Việt và tiếng Phạn rất rõ ràng. Tuy cùng gốc chữ Àtmà (ngã), nhưng cách chia theo văn-phạm của Phạn-ngữ cho thấy khi nào phải hiểu là Đại-ngã, và khi nào phải hiểu là Tiểu-ngã.

    Ví-du:

    Àtmannà (Danh-tự, giống-đực, túc-từ chỉ-định (instrumental), số it): Bởi Tiểu-ngã hay bởi Đại-ngã, tùy nghĩa trong câu)

    Àtmànam (Danh-tự, giống-đực, túc-từ gián-tiêp cách, số ít): Tiểu-ngã hay Đại-ngã, tùy nghĩa trong câu)

    Àtamà (Danh-từ, giống-đực, chủ-tự, số ít): Tiểu-ngã hoặc Đại-ngã, tùy nghĩa trong câu.

    Àtmanas (Danh-tự, giống-đực, thuộc-từ, số ít): Thuộc về Tiểu-ngã hay Đại-ngã, tùy ngĩa trong câu.



    Trong tiếng Anh, ‘self’ là ‘Tiểu-ngã’, còn ‘Self’ là ‘Đại-ngã’. Nểu bản Anh-ngữ không minh bạch cách dùng ‘self’ và ‘Self’, thì nội-dung tư-tưởng dễ bị hiểu lầm, có khi trở nên vô-nghĩa. Ta hãy đọc hai ví-dụ sau đây.

    Winthrop Sargeant (1979), trang 289.

    6. For him who has conquered his self by the self,

    The self is a friend;

    But for him whose self is not conquered,

    The self remains hostile, like an enemy.



    Vì ‘Đại-ngã’ không thể bị chinh-phục, nên ta có thể đoán nghĩa. Nếu không đoán nghĩa được thì bản dịch sang Việt-ngữ sẽ như sau:



    6. Ai đã điều-ngự được Tiểu-ngã nhờ Tiểu-ngã,

    Tiểu-ngã là bạn;

    Tiểu-ngã của ai chưa được điểu-ngự,

    Tiểu-ngã vẫn còn sân-hận, như một kẻ thù.

    Ta hiểu rằng ít nhất một ‘Tiễu-ngã; trong những câu trên phải là ‘Đại-ngã’.

    Shri Sankaràcárya/ Dr. A.G. Krishna Warrier (1983), trang 223.

    6. The Self is the friend of that self by which the self has been subdued. The Self alone operates as the foe of one unsubdued by the self.



    Trong trường-hợp này ‘Self’ và ‘self’ được dùng khá rõ ràng nhưng vẫn nghịch với í của bản văn, ở những chữ tôi gạch dưới. Chúng ta hãy đọc:



    6. Đại-ngã là bạn của Tiểu-ngã vì Tiểu-ngã được điều-ngự. Đại-ngã hành-động như một kẻ thù với ai chưa được điều ngự bởi Tiểu-ngã.



    Đúng ra nên viết là: “Tiểu-ngã hành-động như một kẻ thù đối với ai chưa được điều-ngư.” Hoặc là “Đại-ngã hành-động như một kẻ thù đối với ai Tiểu-ngã chưa được điều-ngự. (... of the one whose self is unsubdued.)



    10. Paramàtmà: Tiểu-ngã cao nhất trong đạo Yoga tức cái tâm vô-thượng.



    11. Vijnàna: Kiến-thức, nhận-thức, hay kinh-nghiệm hồng-trần theo tinh-thần phân-tích. Kinh-nghiệm hay nhận-thức tâm-linh (Jnàna) theo đạo Yoga. Tiểu-ngã phải biết rõ hai thức ấy.



    12. Aparigrahas: Không màng sở-hữu ngay cả chuyện lập gia-đình. Trong Chí-Tôn Ca, ngôn-ngữ cũng như tư-tưởng và hầu hết danh-từ chỉ dành riêng cho nam-tính. Bởi thế, Aparigrahas cũng có nghĩa không lấy vợ, và những từ khác như Tiểu-ngã (Àtmà) đều là giống đực. Điều này không những cho ta thấy tính ‘trọng nam’ hay ưu-việt của người nam trong văn-hóa Chí-Tôn Ca, mà còn gián tiểp bỏ vai trò của nữ-giới ra ngoài đời sống tâm-linh, một điều nghịch với tôn-chỉ bình-đẳng của đạo Yoga.



    13. Ajina: Da con hươu. Trong câu này tính ‘kì-thị’ và ‘cầu-kì’ nghịch với tôn-chỉ giản-dị và thanh bạch của đạo Yoga. Tại sao phải dùng cỏ thơm ‘kusa’ và da con hươu? Muốn dùng da hươu phải giết hươu. Không có cỏ thơm thì hậu-qủa sẽ ra sao? Cách sửa soạn ngồi thiền như thế dựa trên minh-triết (hiểu rõ căn cơ) hay dựa trên tập-quán?



    14. Brahmacàrivrate: Dốc lòng thanh-sạch tinh-thần và thể-xác. ‘Thể-xác’ ở đây đây đúng nghĩa là ‘điều-ngự giới-dục và cơ-quan bài-tiết’.



    15. Nirvana: Niết-bàn. Có nghĩa là ‘Tiểu-ngã biến đi trong Giác-ngộ Vô-thượng (Brahman).



    16. Í này chỉ cách huân-tập vô-cùng khắc-khổ theo đạo Yoga. Cho nên không cùng nghĩa với tư-tưởng ‘Trung-Đạo’ của Phật Thích-ca.



    17. Àtmanas: Có thể hiểu theo hai nghĩa: a)‘Của Tiểu-ngã’ tức về cách tu-tập dành cho cái ngã, b)‘vể Đại-ngã’ có nghĩa ‘về giác-ngộ’. Tôi chọn í thứ hai.



    18. Buddhigràhyam: Đạt được nhờ thông-minh hay trí-tuệ. Nghĩa trong nguyên-tác là ‘thông-minh’, nhưng từ này ít dùng trong kinh-điển Ân-độ nói chung, nên tôi chọn từ ‘trí-tuệ’.



    19. Uparamet: Ngưng hoạt-động, giã-từ hoạt-động, tĩnh-mặc. ‘Hoạt-động’ ở đây có nghĩa là những cử-động thông-thường của thân-xác và trí-tuệ.

    20. Manas: Tâm-trí tức khả năng nhận-thức các sự-kiện trong đời sống.



    21. Vigatakalmasas: Thoát khỏi tội-lỗi xấu xa.



    22. Samadasamas: Tôi xin dùng lời bình của Ràmànuaja, trong sách của Winthrop Sargeant (1979, trang 312). Từ Samadasamas ít khi có nghĩa ‘thấty như nhau’. Tất cả những cái ngã (Àtmans) của phù-sinh đều giống nhau nếu tách chúng ra khỏi xác phàm. Thế thì, Ràmànuaja giải-thích ‘Đem ‘ngã’ (Àtman) vào Đạo (Yoga) sẽ thấy các ngã đều như nhau.’



    23. Mayi: Chữ TA Trong câu này và trong những câu khác ám-chỉ Krishna, Tinh-thần Vô-thượng (Siêu Việt) tự hạ mình xuống bản-ngã thế-gian (Àtman).



    24. Sarvabhùtasthitam: Sống trong mọi phù-sinh. Ở đây cũng có nghĩa: “Người có khả năng nhận ra tất cả phù-sinh là một, và mọi phù-sinh đều được cưu mang bởi Tinh-thần Vô-thượng.



    25. Sukha và Duhkha: Sukha là ‘vui-sướng, hạnh-phúc’, còn Duhkha là ‘đau-buồn, bất-hạnh’. Theo lối phân-tích lịch-sử ngữ học, hai từ này có liên quan tới cách lập nghĩa Phạn-ngữ của người Aryan thời cổ. Người Aryan dùng tiếp đầu-ngữ ‘su và du’ cổ để chỉ tình-trạng của bánh xe ngựa ‘tốt/su’ hoặc ‘xấu/du’. Từ ‘Kha’ trong Phạn-ngữ có nghĩa là ‘bầu trời, thể khi, không-gian’ nhưng nguyên ngữ của ‘Kha’ là cái lỗ, để chỉ cái lỗ trong trục bánh xe. Do đó, ‘Sukha’ có nghĩa ‘một cái lỗ trục xe tốt’, còn ‘duhkha’ có nghĩa ‘một cái lỗ trục xe tốt’. Tóm lại cả hai thuật ngữ trong nguyên-ủy nhằm diễn-tả tình-trạng của cảm-giác, ‘thoải mái hay không thỏai mái’. (Theo W. Sargeant, trang 315).



    26. Madhusùdana: Madhu, người diệt-quỉ. Danh-vị của Krishna.



    27. Chettà: Vất đi, xóa bỏ. Người xoá bỏ hồ-nghi khỏi tâm-trí của người khác là người ‘khai tuệ’ cho người khác.



    28. Vinàsas: Hủy diệt, lạc đường. Câu dịch của tôi tóm tắt từ í sau:

    ‘Người ấy không bị diệt-vong (lạc đường) ở cõi trần hay trên thiên-giới.’



    29. Antaràtmannà: Với tâm sâu-thẳm, với tất cả tấm lòng hay hay yêu qúi (Bhakti).






    ĐỐI-THOẠI BẢY
    KIẾN-THỨC VÀ NHẬN-THỨC
    Jnànavijnàyoga

    6. Krishna: “...Ta là Căn-Nguyên và cũng là Hủy-diệt của vũ-trụ này.”



    ĐỨC THẾ-TÔN



    1. Này Nam-tử Prithà. Làm sao nhà ngươi hiểu Ta trọn vẹn nều nhà ngươi không hồ-nghi (Asamsayam) ? Thì hãy nghe đây. Hiểu Ta là có tâm (Manas) trì-cửu trong Ta, là huân-tập đạo Yoga, và theo Ta 1.



    2. Ta sẽ cho nhà ngươi biết thế nào là kiến-thức (Jnànam) và thế nào là tri-thức (Savijànam).



    3. Cứ hàng nghìn người trong nhân-loại (Manusyànàm) họa chăng mới có một người cố gắng trở nên toàn-thiện (Siddhaye); mà ngay cả trong số người cố-gắng và đã toàn-thiện (Siddhànàm), hoạ-hoằn mới có một người thực-sự biết Ta.



    4. Cái diện vật-chất (Prakrtis) của Ta có tám thành-phần: Khí, Mộc, Thủy, Hỏa, Thồ, Gió, Thông-minh (Buddhis) và Tự-Thức (Ahamkàras)2 .



    5. Này Uy-dũng Tướng-quân (Mahàbàho). Diện đó là diện thấp. Diện cao khiết nhất của Ta là các hợp-thể tâm-linh để phù-trì vũ-trụ (Jagat)3.



    6. Hãy hiểu rằng, tất cả phù-sinh đều có cỗi-nguồn (Yonìni)4 trong bản-ngã tâm-linh của ta. Ta là căn-nguyên (Prabhavas) và cũng là hủy-diệt (Pralayas) của vũ-trụ này.



    7. Này Arjuna. Không có gì cao hơn Ta. Toàn-thể vũ-trụ như một chuỗi ngọc trai (Maniganàs) dính vào Ta.



    8. Này Nam-tử Kuntì. Ta là chất lung-linh (Rasas) trong nước, là tia-sáng của mặt trăng, mặt trời, là nguyên-âm ‘Ôm’ trong các tập Vệ-đà, là âm-thanh trong không-khí, và là nhân-tính (Pàurusam)5 của con người.



    9. Ta là hương thơm tinh-khiết trên trần-thế (Prthivyàm), là sự ngời-sáng của mặt trời, là nguồn sống của muôn-loài, và là đức khổ-hạnh(Tupas) của các bậc chân-tu thánh-thiện.



    10. Này Nam-tử Prithà (Arjuna). Hãy biết rằng Ta là hạt-nhân nguyên-thủy (Bìjam) của tất cả muôn-loài. Ta là thông-minh của kẻ thông-minh (Buddhimatàm), là sự ngời sáng của con người tuyệt-diệu (Tejasvinàm). TA.



    11. Này Hổ-tướng Bharatas (Arjuna) 6. Ta là sức-mạnh của con người dũng-lược (Balavatàm), thoát khỏi đam-mê và dâm-dục. Ta là tình-thương theo chính-pháp (Dharma) trong các phù-sinh.



    12. Ngay cả những cảm-quan chân-thiện mĩ (Sàttvikas) cũng như những cảm-quan tối-tăm lười biếng (Tàmasàs) đều đến từ Ta. Nhưng ta không nằm trong chúng; mà chúng nằm trong Ta.



    13. Vì ba cảm-quan của thực hữu (đam mê và quyền-lực (Rajas), tối-tăm lười biếng (Tàmasàs), và Chân Thiện Mĩ (Sattva) nên thế-gian này mê-hoặc không nhận ra Ta là bản-thể cao hơn và vĩnh-cửu.



    14. Thực vậy, khó mà có thể vuợt qua sức mạnh ảo-hoá thần-bí (Màyà) của Ta. Chỉ có ai trú-ngụ trong Ta mới vượt ra khỏi lưới ảo-tưởng này (Màyàm).



    15. Bị ảo-tưởng che mờ minh-triết (Jmànas), kẻ phàm-phu (Adhamàs) cũng như người độc-ác (Duskrtinas) không trú-ngụ trong Ta vì họ chỉ mê-man cuộc đời ‘ma đưa lối, quỉ đưa đường’.



    16. Này Hổ-tướng Bharatas. Có bốn loại (Caturvidhà) người chính-đẳng (Sukrtinas) 7 (xem WS,346, và SS, 263) đến với Ta là: a) Loaị khổ đau (Àrtas), b) Loại đi tìm Minh-triết (Jijnàsus), c) Loại đi tìm vinh-hoa (Arthàrthì), và d) Loại hiền-minh (Jnàni) khát-khao Vô-thượng (Vishnu).



    17. Trong bốn loại người đó thì chỉ có loại người hiền-minh khát-khao Vô-thượng thực-sự hội-nhập vào Ta, hoàn-toàn huớng tâm (Ekabhaktis) về Ta 8, cho nên ta gần-gũi (Priyas) người đó, và người đó cũng gần gũi với Ta.



    18. Cả bốn loại người ấy đều cao-qúi, nhưng bậc hiền-minh mới là người i như là Đại-ngã của Ta, vì Tiểu-ngã của người đó vững-vàng (Yuktàtmà). Cho nên người đó trú-ngụ trong Bản-ngã Tối-thượng (Anuttamàm) của Ta.



    19. Sau nhiều kiếp-sinh (Janmanàm), con người có đức hiền-minh đến với Ta và nghĩ thế này “Đấng Thế-Tôn (Vàsudeva)9 là tất cả.” Một cái tâm vĩ-đại (Mahàtmà) như thế thật là hiếm có.



    20. Những ai minh-triết bị dục-vọng che mờ (Jnànàs) tìm tới những thần-linh khác (Devatàs), lánh mình trong hết tông-giáo này đến tông-giáo khác (Niyamam) cho nên họ bị ngự-trị bởi lòng ham vật-chất (Prakrtyà).



    21. Ai khát-khao danh-dự, tin vào những thể linh-thiêng10 thì Ta ban cho người ấy đức-tin (Sraddhàm) Vĩnh-cửu (Acalàm).





    22. Ai có đức-tin này (Seaddhayà), khát-khao hoà vui với Tinh-thần Vô-thượng11 thì ao-ước của người ấy sẽ được đền bù vì khát-khao ấy do chính Ta ban cho.12



    23. Nhưng phần-thưởng (Phalam) này chỉ là tạm-thời (Antavat) đối với ai sự hiểu-biết còn hạn hẹp (Alpamedhasàm). Ai cầu thần-linh đi với thần-linh (Devàn). Ai cầu Ta (Madbhaktàs), đi với Ta.



    24. Chỉ có ai thiếu cách vật trí-tri (Abuddhayas) mới tưởng rằng (Manyante) Ta, Đức Thế-Tôn có bản-thể thường-hằng lại không thị-hiện (Vyaktim), cho tới bây giờ mới thị-hiện 13.



    25. Không phải ai cũng thấy Ta, Đấng Vô-sinh Bất-tử. Thế-gian này u-mê không thấy Ta vì Đạo bị che mờ bởi ảo-giác Màyà (Yogamàyàsamàvrtah).

    26. Này Arjuna. Ta biết ai đã qua đời, ai đang sống và ai sẽ sinh ra (Bhavisyàni). Nhưng chẳng ai biết Ta.



    27. Này Nam-tử Bharata. Con người sinh ra (Sarge) thiếu tinh-tấn vì ảo-tưởng nhị-nguyên (Dvandvamohena) đến từ lòng luyến-mộ và tị-hiềm (Dvesa).



    28. Nhưng ai đã tiêu-diệt được xấu-xa, thì hành-động của người ấy thanh-sạch, không còn lầm-lẫn bởi đẳng-tính nhị-nguyên (Dvandva). Người đó kính-yêu (Bhajante) Ta với tất cả tấm lòng (Drdhavratàs).



    29. Ai muốn thoát cảnh lão-tử (Jaràmarana), hãy trầm-mặc về Ta, và hãy quán-triệt Đức Thế-Tôn (Brahma) hoàn-toàn, tức là quán-triệt cái Tâm sâu thẳm (Adhyàtman) và vận-hành toàn-diện của cái Tâm sâu-thẳm ấy 14.



    30. Ai biết Ta là Bản-thể Vô-thượng (Adhibhùta) và cũng là Đức Thế-Tôn (Adhidàiva), hay Đấng Hi-sinh (Adhiyajnam), và đặc-biệt ai biết Ta ở lúc lâm-chung (Prayànakàle). Người đó hiểu Ta sâu-sắc vẹn toàn (Yuktacetasas).





    ĐỐI-THOẠI BẢY

    GHI-CHÚ



    1. Madàsrayas: Tuỳ thuộc vào Ta, trú-ngụ trong Ta.



    2. Ahankàras: Tự-thức, một trong những thức của Tri-thức (Sàmkhya).



    3. Jìvabhùtàm: Bao gồm hữu-thể Tâm-linh. Bản-thể Vô-Thượng trong Chí-Tôn ca gốm hai diện (Prakrtis). Diện trên và diện dưới. Diện dưới (hình nhi hạ) gồm hằng hà sa số vật-thể, phương-tiện và vận-hội của kinh-nghiệm vật-chất. Chúng chia thành tám dạng (xem câu số 4). Diện-trên (Hình nhi hạ) là kinh-nghiệm của bản-thể tâm-linh. – Theo Ràmànuja.



    4. Yonìni: Cũng có nghĩa là ‘bọc’ hoặc ‘bào-thai’.



    5. Pàurusam: Nhân-tính, có khả-năng tính-dục, xanh-tươi. Trong câu này ‘mặt trăng’ (Sasin) mang biểu-tượng ‘ngọc-thỏ’. ‘Sasain’ hợp với ‘Sasànka’ (thỏ đóng dấu) để chỉ ‘mặt trăng’. Người Ân tin rằng họ thấy một ‘con thỏ trên mặt trăng’.



    6. Bharatarsabha: Con Bò Mộng của đại-tộc Bharatas, hỗn-danh của Arjuna. Tôi dịch là Hổ-tướng Bharatas.



    7. Winthrop Sargeant (1979), trang 346, dịch như sau:

    16. Trong số những con người chính-đẳng, bốn loại người thờ Ta, này Arjuna: Những người bị áp-chế mong lấy lại sức-mạnh tâm-linh, những người khát-khao hiểu biết, những người khát-khao đạt đến Chân-tính Vô-thượng, và những con người minh-triết ...



    Sri Sankaràcàrya và Dr. A. G. Krishna Warrier (1983), trang 263 dịch như sau:

    16. Này Arjuna. Có bốn loại người chính-đẳng đều trú-ngụ trong Ta: a)Những người đau khổ, b) những người đi tìm hiểu-biết, c)những người đi tìm phú-qúi, và d) những con người tri-thức.

    Câu số tám trong đối-thoại tám sẽ bàn kĩ hơn về ba loại người sau (b,c.d)



    8. Winthrop Sargeant (1979), cũng trang 346, câu trên dịch là ‘Chân-tính Vô-thượng (Arthàthì)”. Trong khi ấy, Sri Sankaràcàya và Dr. A. G. Krishna Warrier (1983), cũng trang 263, trong phần bình-luận, dịch là “Chân-tính của Đấng Vô-thượng (Vishnu).”



    9. Vàsudeva: Đúng ra là ‘Nam-tử Vàsudeva”, hỗn-danh của Krishna. Trong câu này, Krishna chính là Đấng Tối-thượng (Brahman).



    10. Ekabhaktis: Chỉ dốc lòng về một Đấng. Thờ một vị-thần duy nhất mà thôi.



    11. Àràdhanam: Đáp lại tiếng gọi của (hoà đồng với) Đấng Vô-thượng.



    12. Mọi tông-giáo đều nằm trong í-niệm này: Thượng-đế (Đấng Chí-Tôn) cắt nghĩa rằng mọi cách thờ cúng phải quay về Đấng Thế-Tôn. Đồng thời cũng có nghĩa là mọi hồng-ân đến từ các thần-linh khác đều được chính Đấng Thế-Tôn chấp nhận. Đây chính là quan-niệm nhất thần trong Chí-Tôn Ca.



    13. Sri Sankaràcàya và Dr. A. G. Krishna Warrier (1983), trong lời bình diễn chữ Adhyàtman là ‘Đại-ngã’. Do đó câu này cũng có nghĩa là: “quán-triệt Đại-Ngã và toàn-diện việc làm của Đại-ngã’.
    Last edited by thaiduong162; 31-05-2012 at 11:23 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Kiến thức và nghệ thuật tôn lư hương trong gia đình.
    By minhthien in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 27
    Bài mới gởi: 19-05-2013, 04:14 AM
  2. TỘI ÁC TÔN GIÁO ĐƯỢC THỔI PHỒNG
    By sa đại hiệp in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 51
    Bài mới gởi: 04-03-2012, 10:28 AM
  3. Tại sao con người dễ tin vào tôn giáo
    By micronbmt in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 22-01-2012, 02:46 PM
  4. KINH NÊN HÀNH TRÌ VÀ KHÔNG NÊN HÀNH TRÌ
    By linh_tinh_85 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 13-01-2012, 09:27 AM
  5. KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM
    By COLONY in forum Mật Tông
    Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 21-01-2011, 01:39 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •