CẢNH GIỚI THIỀN

Ngồi thiền, ngồi tới lúc "trong không thân tâm, ngoài không thế giới, xa xa chẳng còn vật gì" thì mới đạt được cảnh giới "không có ngã tướng, không có nhân tướng, không có chúng sanh tướng, không có thọ giả tướng." Ðó cũng là cảnh giới "quá khứ tâm không thể nắm bắt, vị lai tâm không thể nắm bắt."

Lúc đạt tới cảnh giới, cũng chẳng phải là đắc được "chân công phu", trở thành hay ho ghê lắm đâu. Dù bạn ngồi lâu được một giờ hay mười giờ, nhẫn đến ngồi suốt một tháng hay mười tháng, đó chẳng qua là dấu hiệu cho thấy công phu của bạn có chút ít tương ứng, mới đạt được chút ít cảnh giới khinh an, cứ tiếp tục tham thiền thì bạn sẽ tới cảnh giới Sơ Thiền.

Sơ Thiền, Thiền gọi là Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa, tức là cảnh giới xa rời những vui thú của chúng sanh. Nơi cảnh giới Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa, bạn rất mau nhập Ðịnh. Trong Ðịnh, sự hô hấp ngừng bặt, không thở ra hít vào, hơi thở không đi cũng không đến - giống như con rùa tới mùa đông thì rụt đầu vào mu, đình chỉ sự hô hấp bên ngoài, song sự hô hấp ở bên trong vẫn tiếp tục (đó là hiện tượng "đông miên" ngủ suốt mùa đông của một số loài vật).

Bấy giờ, người tham thiền tuy trong Ðịnh ngừng thở, nhưng khi xuất Ðịnh thì vẫn hít thở như thường. Các bạn hãy chú ý! Nếu tới cảnh giới này, các bạn chớ khởi vọng tưởng: "Sao Tôi không thở gì cả!" Khi vọng tưởng ấy nảy sinh thì hô hấp sẽ tiếp nối ngay tức khắc; do đó các bạn không thể thiếu dè dặt, bởi vì nếu không cẩn thận thì bạn sẽ mất cơ hội, phải làm lại từ đầu.

Từ Sơ Thiền, nếu tinh tấn tu tập, bạn sẽ nhập vào Nhị Thiền. Nhị Thiền, Thiền gọi là Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa, tức là thường xuyên ở trong định thì sẽ nảy sinh sự vui vẻ, an lạc không thể tả. Ðó là cảnh giới:

"Thiền duyệt vi thực,
Pháp hỷ sung mãn."
(Vị Thiền là thức ăn,
Sung mãn niềm vui Pháp).

Tại cảnh giới Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa, trong Ðịnh bạn chẳng những không thở mà mạch tim cũng ngừng đập. Cần phải lưu ý rằng mạch chỉ "ngừng đập" chứ không phải "hết đập"; đến khi xuất Ðịnh, mạch sẽ bình thường trở lại.

Từ Nhị Thiền tiến tu thì nhập vào Tam Thiền. Tam Thiền, Thiền gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa, nghĩa là xa rời mọi sự hoan lạc thô tháo, chỉ còn niềm vui vi tế, đạt được sự an lạc vô cùng vi diệu. Lúc ở cảnh giới Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa, thì trong Ðịnh không những hơi thở và mạch tim ngừng lại, mà cả ý niệm cũng ngừng bặt, hệt như người chết vậy. Khi ý niệm ngừng thì mọi ý tưởng vẩn vơ cũng hết.


Khi hơi thở ngừng lại, máu huyết hết dưỡng khí nên sự tuần hoàn cũng đình chỉ, do đó tim không hoạt động, không có mạch nữa. Lúc ấy, tạp niệm chẳng còn. Giả sử hơi thở là gió, mạch là sóng, ý niệm là nước - nếu không có gió thì sóng lặng, nước tự nhiên bình tịnh; đó chính là đạo lý "gió ngừng, sóng lặng" vậy. Tình trạng ấy là tác dụng tạm thời trong Ðịnh, chứ không phải là trạng thái "khí đoan" khi chết. Bạn muốn lúc nào, nơi nào khôi phục lại hơi thở hay mạch đập thì chúng lại bình thường hoạt động.


Từ Tam Thiên tinh tấn tu Thiền Ðịnh thì vào cảnh giới Tứ Thiền. Tứ Thiền, Thiền gọi là Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa, nghĩa là xả bỏ niềm vui ví diệu của Tam Thiền, tâm niệm thanh tịnh. Hơi thở ngừng, huyết mạch ngừng, song cảnh giới ấy phải diệu, bổn nhiên thanh tịnh mới hiện tiền.

Bạn nhớ nhận lầm cảnh giới này là xuất sắc hoặc hay lo lắm. Ðó bất quá chỉ là cảnh giới Tứ Thiền mà thôi, chưa phải là hiện tượng chứng quả vị. Ðó vẫn còn là địa vị phàm phu, bởi vì dục vọng chưa đoạn tuyệt. Nếu ở chỗ này bạn dũng mãnh tinh tấn tu phép Tà-định của ngoại đạo thì sẽ tiến vào Vô Tưởng Thiên, thọ hưởng cảnh giới vô cùng Chánh thọ, thì sẽ tiến vào ngũ Bất Hoàn Thiên, tức là cảnh giới của kẻ chứng quả vị.

Nếu bạn chứng Sơ-quả A-la-hán (quả vị Tu-đà-hoàn), thì chẳng những trong Ðịnh bạn không có vọng niệm, mà ngay cả đi đứng nằm ngồi cũng đều không có vọng tưởng, không có chấp trước. Tôi được cảnh giới Sơ-quả là chỉ mới đoạn được tám mươi tám phẩm Kiến-hoặc (sự mê mờ ở cái thấy) trong Tam Giới mà thôi, và còn phải trải qua bảy lần ra vào sanh tử nữa; chứ chẳng phải chứng Sơ-quả là nhập Niết Bàn được đâu.

Lúc tới được sơ quả, bất luận là gặp cảnh giới gì bạn cũng không bị dao động, mà "đối cảnh vô tâm" (gặp cảnh, không khởi tâm tưởng), chỉ có Ðạo-tâm, chuyên nhất tu Thiền. Giả như bên ngoài cảnh giới có trang nghiêm đến mấy, đẹp đẽ cỡ nào, dù là gái đẹp, dù trai bảnh, cũng chẳng thể làm tâm bạn động dao, lay chuyển. Lúc bấy giờ bạn chẳng tham tiền tài, chẳng tham sắc đẹp, chẳng tham danh vọng, chẳng tham ăn uống, cũng chẳng tham ngủ nghỉ nữa. Mọi thứ đều không tham. Ðạt tới cảnh giới ấy mới được gọi là chứng quả vị. Kẻ chứng Sơ quả A-la-hán thì khi đi không phát ra tiếng động bởi vì chân họ luôn cách mặt đất ba phân. Vì sao vậy? Vì bậc thánh nhân đã đắc quả luôn có lòng từ bi, sợ rằng sẽ đạp chết mấy thứ trùng kiến, nên mới đi trong hư không.

Các bạn hãy chú ý! Không được chưa chứng ngộ mà xưng là chứng ngộ, chưa đắc quả mà tự xưng là đã đắc quả, bởi như thế là phạm Giới Vọng-ngữ, tương lai phải đọa địa ngục kéo lưỡi. Tôi phải nói trước cho các bạn rõ; tin hay không thì tùy bạn. Trong đạo Phật có kẻ chưa khai ngộ mà cứ tự rêu rao là đã khai ngộ - đó là hành vi không thể chấp nhận được. Dù bạn đã khai ngộ, bạn cũng không nên nói với kẻ khác: "Tôi khai ngộ rồi! Tôi có Ngũ Nhãn, Lục Thông rồi nè!"

Bạn chớ tuyên truyền về mình, tự mình đi bán quảng cáo, bởi vì như thế thật chẳng có ý nghĩa gì cả! Ngay cả Phật, Bồ-tát, các Ngài cũng không tự mình tuyên truyền, quảng cáo. Nếu ai biết có vị đó là Bồ-tát hay có vị là Phật hóa thân hiện ra cõi đời, lúc ấy bị Bồ- tát hay vị hóa Phật kia sẽ đi mất (nhập diệt).

Ðời Ðường có hai vị Ðại-sư, một vị là Hàn Sơn, một vị là Thập Ðắc. Ngài Hàn Sơn là hóa thân của Ðức Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, còn ngài Thập Ðắc là hóa thân của Ðức Phổ Hiền Bồ-tát. Cả hai vị, Hàn Sơn và Thập Ðắc, vốn là bạn đồng tu rất tốt với nhau. Ngài Thập Ðắc (được Hòa thượng Phong Can đem về nuôi ở chùa Quốc Thanh từ nhỏ và dạy dỗ nên người) thì chuyên lo việc nấu nướng trong nhà trù. Mỗi ngày ngài Thập Ðắc góp nhặt các thức ăn thừa rồi cho vào ống trúc, đem cúng dường ngài Hàn Sơn. Ngài Hàn Sơn thì ngụ ở động Nguyệt Quang trên núi Thiên Thai, hằng ngày tới chùa Quốc Thanh nhận đồ thừa để ăn. Bởi vì hai vị "chí đồng, đạo hợp", thường cười đùa chuyện trò với nhau, nên cả chùa ai cũng cho hai vị là hai tên điên cuồng, do đó chẳng đếm xỉa gì tới họ cả. Không ai ngờ rằng hai vị là Bồ-tát hóa thân "du hí nhân gian" để độ những chúng sanh cần được độ!

Một hôm, quan Thái-thú Lã Khưu Yên tới gặp Hoàng thượng Phong Can (hóa thân của Ðức A Di Ðà), hỏi rằng:"Bạch Thiền-sư, trong quá khứ chư Phật và chư Bồ-tát thường hóa thân tới thế giới này, thế hiện nay chư Phật và chư Bồ-tát có còn hóa thân tới cõi này chăng?"

Ngài Phong Can đáp: "Có chớ! Vì quan Thái thú không nhận ra mà thôi. Bây giờ tại nhà trù của chùa Quốc Thanh trên núi Thiên Thai có vị sư chuyên nấu nướng, chính y là Phổ Hiền Bồ Tát đấy! Ngài có một người bạn là Hàn Sơn, tức là Văn thù Bồ Tát. Sao quan Thái thú nói chẳng có ai?

Vị Lã Thái thú nghe xong mừng rỡ, mới bái biệt, nhắm chùa Quốc Thanh gấp gấp tiến tới, với lòng thành khẩn lễ lạy hai vị Bồ Tát Hàn Sơn và Thập Ðắc. Khi thầy Tri khách thấy quan Thái thú quang lâm chùa Quốc Thanh thì ân cần tiếp đãi vô cùng. Nhưng khi thầy Tri khách nghe quan Thái thú muốn bái phỏng hai ngài Hàn Sơn và Thập Ðắc, thì ngạc nhiên vô cùng; thầy chẳng hiểu vì sao quan Thái thú lại muốn gặp hai thằng điên.

Tuy không hiểu được lý do, thầy Tri khách cũng dẫn quan Thái thú tới nhà trù. Bấy giờ đúng ngay lúc hai vị Hàn Sơn và Thập Ðắc đang bô bô cười nói, dáng vẻ điên tàng khiến ai cũng nực cười. Song le, Lã Thái thú vô cùng cung kính đảnh lễ hai vị, rồi cũng hết sức cung kính nói: "Ðệ tử là Lã Khưu Yên xin thỉnh cầu hai vị đại Bồ Tát từ bi chỉ điểm chỗ mê muội."


Ngài Thập Ðắc hỏi: "Ông làm gì thế?"

Thái thú đáp: "Con nghe Hòa thượng Phong Can dạy rằng hai ngài chính là hóa thân của Ðức Văn Thù và Phổ Hiền; bởi vậy con đặc biệt tới đây tham vấn bái phỏng, khẩn cầu hai ngài chỉ dạy."

Ngài Thập Ðắc nghe xong thì bước thụt lùi, nói: "Phong Can nhiều lời! Phong Can nhiều lời! Phong Can là hóa thân của Ðức Di Ðà, sao ngươi không lạy Ðức Di Ðà mà lại tới đây quấy rầy bọn ta?" Ngài vừa nói vừa đi lui, khi Ngài dứt lời thì cũng vừa tới cổng chùa, đến động Nguyệt Quang thì hai ngài ẩn vào vách đá và biến mất.

Quan Thái thú thấy vậy thì vô cùng thất vọng, bởi vì hai vị Bồ Tát đã ẩn mình trong vách núi, không ra nữa. Do đó quan lại nghĩ: "Thôi, hãy về lạy Ðức Di Ðà vậy!" Song, đến khi quan Thái thú về tới chùa thì Hòa thượng Phong Can đã viên tịch rồi! Ðúng là "đang diện thác quá" (vuột mất cơ hội trước mắt)! Ðó cũng gọi là:

"Ðối diện bất thức Quán Thế Âm."
(Gặp mặt Ðức Quan Thế Âm
mà lại không nhận ra Ngài.)

Trong Thiền đường của chúng ta cũng có Quán Thế Âm Bồ Tát, song tôi không tiết lộ cho các bạn biết, để Ngài khỏi bị các bạn đuổi chạy mất !

Hòa Thượng TUYÊN HÓA