Nguyên văn bởi
NhânDuyenSinh
TÌM HIỂU NGÀY GIỔ TỔ ( bài viết chỉ mang tính chất tham khảo )
CỦA DÂN TỘC VIỆT-NAM
Giáo-Sư Ngọc-Trường-Thanh
Không biết xuất xứ từ đâu? Vào thời đại nào, mà hai chữ Rồng Tiên được Tổ Tiên ta lấy làm biểu tượng Vật Tổ và ngày Giỗ Tổ là ngày mồng mười (10) tháng ba (3) hằng năm.
Nghiên cứu lịch sử Việt-Nam buổi ban đầu đều dựa trên huyền thoại, truyền thuyết v.v… Đến nay dân tộc tin tưởng chỉ dựa vào huyền thoại, tập quán, truyền thống truyền lại, chưa có ai giải thích rõ ràng về những huyền thoại tồn tại trong lịch sử, trong nhân gian.
Nay, tôi đưa ra một nhận xét về Vật Tổ “Rồng-Tiên” và ngày Giỗ Tổ mồng mười (10) tháng ba (3) để các bạn tìm hiểu phần nào lý chứng của nó.
Tôi tuổi đã già, tám mươi tám (88) tuổi rồi, nhưng cũng xin góp một vài ý kiến về huyền lý lập quốc của dân tộc.
Hầu hết ai là người Việt-Nam cũng đều biết nguồn gốc của dân tộc mình có bề dày lịch sử gần năm ngàn năm (5000).
Nay, tôi muốn nhắc lại lời phán của Lạc Long Quân:
“Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là loài Rồng sinh ở nước, Nàng là giống Tiên gốc ở Núi không thể ở lâu với nhau được. Nay chia cho nàng năm mươi (50) con lên núi, còn năm mươi (50) con theo Ta xuống biển, tuy chia ra mỗi người một ngã, nhưng khi có tai nạn thì hiệp sức cứu giúp lẫn nhau.”
Giống Rồng Tiên là do Lạc Long Quân nói ra.
Với Dịch học theo tôi hiểu:
Lạc Long Quân là quẻ Khảm
Bà Âu Cơ là quẻ Ly
Theo truyền thuyết thì Thỉ Tổ Việt-Nam là Vua Phục Hy có mình Rồng, em gái Phục Hy là Bà Nữ Oa, kế là Vua Thần Nông gọi là Viêm Đế.
Ba người đầu tiên là Phục Hy, Nữ Oa và Thần Nông gọi là ba ngôi Tam Hoàng của giống dân Lạc-Việt. Nguồn gốc Rồng Tiên có lẽ là do từ Phục-Hy và Bà Nữ Oa. Rồng đối với chúng ta là tượng trưng cho Khí chất, cho năng lượng vô song, cho tinh-thần nhập thế tích cực.
Tiên tượng trưng cho sự trong sạch tinh anh, sáng suốt, nguyên vẹn, cao cả, đó là tinh thần xuất thế, giải thoát.
Lịch sử của chúng ta đã có những anh hùng như: Trưng Vương, Triệu Ẩu, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hồ-Chí-Minh v.v… há không phải là Rồng thiêng chỗi dậy đó sao?
Những cốt cách phi phàm, khôn ngoan, tài thiệp, danh lợi không màng, sống chết không bận như: Phù Đổng Thiên Vương, Nguyễn Trãi, Trần Bình Trọng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, La Sơn phu tử v.v… Nếu không phải tiên phong đạo cốt là gì?
Rồng biểu thị cho Đạo nhập thế, nên Lạc Long Quân mới dẫn năm mươi (50) con lo kinh bang tế thế, khai quốc qui dân, mở rộng bờ cõi, tô điểm sơn hà đượm màu xanh tươi sống động, cho sơn hà ngày thêm huy hoàng tráng lệ.
Năm mươi người con theo Mẹ Âu Cơ lên núi để giải thoát trần ai là nơi tạm trú, tìm lẽ sống cho Tâm hồn vĩnh cửu trường tồn.
Số 50 là số đại diễn của Kinh Dịch.
Dịch có hai nguyên lý: Biến Dịch và Bất Dịch.
Sách Dịch có câu:
“Tự kỳ biến giã nhi quan chi, tắc Thiên Địa tằng bất năng dĩ nhất thuấn.
Tự kỳ bất biến giã nhi quan chi, tắc vạn vật dữ ngã giai vô tận dã.”
Tôi tạm dịch bằng thơ:
“Từ nơi biến dịch nhìn chung,
Đất Trời phút chốc trùng trùng vụt qua,
Từ nơi bất biến nhìn ra,
Khắp trong vạn vật với Ta vô cùng …”
Rồng Tiên phải chăng Tổ Tiên ta muốn truyền thụ cho chúng ta một “Mẫu người lý tưởng”.
Người Việt-Nam lý tưởng là người biết lẽ âm dương tiêu trưởng, nửa đời người từ nhỏ đến tuổi năm mươi (50) là thời kỳ nhập thế, thời kỳ đắm say trần tục, con người chỉ biết sống có vật chất, càng ngày càng bon chen, hưởng thụ, nên bị sa đọa vào con đường phù du hư ảo, làm tôi tớ cho vật dục khiến sai, nhưng con người nhờ cọ xát qua cuộc sống muôn mặt muôn màu mới trải nghiệm khôn ngoan, sáng suốt. Giai đoạn này gọi là dương tiêu âm trưởng.
Giai đoạn năm mươi tuổi trở về già là giai đoạn xuất thế. Đức Khổng Tử nói: Giai đoạn nầy đã biết mệnh Trời (Ngũ thập nhi tri Thiên mạng) là thời kỳ âm tiêu dương trưởng, tinh thần đã biết “hướng nội”, tìm ra nguồn mạch cao cả của tâm linh, biết dùng vật chất làm phương tiện để tô bồi cho tinh thần sáng suốt, cao thượng, giải thoát mọi khổ đau phiền não của kiếp nhân sinh. Đó là những con người đã thoát vòng hư danh trược lợi, quay về tu luyện bản thân, nêu gương sáng cho đời hậu tấn. Linh hồn mong được kết hợp với Trời để được trường sanh bất tử.
Con người lý tưởng này biết dung hòa hai mặt “vật chất-tinh thần” uyển chuyển diễn tiến theo đà tuổi tác như một bài thơ, một bản nhạc, tiết tấu hòa nhịp với Vũ-Trụ Trăng Sao!
Quan niệm Rồng Tiên là một quan niệm nhân sinh triết học đã được trải nghiệm qua dòng sống sử gần năm ngàn năm (5000) của nòi Lạc-Việt.
Rồng Tiên là hai thể âm dương biểu tượng cho hai quan niệm Duy Tâm và Duy Vật, hay Linh Hồn và thể xác được chiêm ngưỡng quý trọng ngang nhau, được quân bình trong một bản thể duy nhất là Thái-Cực.
Dịch nói: “Âm dương chỉ thị nhất khí. Âm khí lưu hành vị chi dương khí. Dương khí ngưng tụ vị chi âm khí”. Nghĩa là: âm dương chỉ có một khí, âm khí lưu hành gọi là dương khí, dương khí ngưng tụ gọi là âm khí. Âm dương chỉ có một ngôi Thần Chủ là “Thái-Cực” mà thôi.
Đạo Rồng Tiên hòa hiệp, hay non nước chung tình hay nam nữ giao duyên, là triết sống của dân Việt-Nam. Cho nên Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, một thi hào của Việt-Nam, trong giây phút thanh tịnh, lắng lòng, thông công với Trời Đất, tâm hồn rung động trước bức tranh non nước hữu tình, nên đã viết thành bài thơ bất hũ “THỀ NON NƯỚC”:
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại non còn đứng trông.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô giòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời Tây ngã bóng tà dương.
Càng phai vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa.
Non cao đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non biết chớ buồn làm chi.
Nước kia dầu hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
Qua bài thơ chúng ta thấy Tản Đà đã dùng non nước để nói lên mối tình khắn khít giữa thi sĩ và người tình nhân nào đó, hay là thi sĩ mượn lời non nước thở than để gởi gắm tâm trạng thương nước, yêu nòi của mình bị thực dân đô hộ.
“Non” đây là người đàn bà chung thủy, vì lời thề nguyện mà suốt năm tháng đợi chờ, lâu ngày mái tóc đã nhuộm đầy sương tuyết, suối lệ đã cạn khô, xương mai đã mòn mõi hao gầy, vẽ ngọc ngà đã phôi pha cùng năm tháng, thế mà chưa thấy người đàn ông trở về.
Còn “nước” kia có khác nào người đàn ông đang hăng say theo đuổi một lý tưởng, một chí hướng nào đó, cuộc đời rày đây mai đó, gió bụi ngược xuôi, khiến mối tình non nước phải lìa xa lâu ngày. Nhưng nước chảy mãi rồi cũng có ngày hiệp trở lại cùng non theo luật tuần hoàn của tạo hóa.
Khi chí khí nam nhi đã thỏa nguyện, người đàn ông quày gót trở về sum họp với gia đình để giữ tròn thề xưa ước cũ.
Sự chia ly non nước có khác nào sự chia ly của Lạc Long Quân và nàng Âu Cơ. Long Quân ra đi xuống biển (nhập thế) mang theo một bầu nhiệt huyết, chí quật cường, một tâm hồn ưu tư khai phóng mở mang bờ cõi, dựng nước nuôi dân, mong nòi Lạc-Việt ngày thêm sinh tụ, đúng như lời Nguyễn Công Trứ đã nói:
“Nhập thế cuộc bất khả vô công nghiệp, xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân.”
Nàng Âu-Cơ trở về núi (xuất thế) mang theo một tinh thần thoát tục, tháng ngày tiêu dao cùng tuế nguyệt, mong tu luyện hòa hiệp đạo âm dương để được trường sanh bất tử, hòa nhịp sống với đất Trời. Vì nàng đã đạt được lý Thủy-Hỏa khắc sinh, âm dương tán tụ, cho nên non nước tuy chia tình, nhưng cũng có ngày tái ngộ.
“Non cao có biết hay chưa?
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.”
Khi nước đã vượt qua khỏi các khe lạch, sông ngòi, tung hoành trong bể cả mênh mông, hòa mình trong bản thể xanh biếc đại đồng, nước đã xuyên qua nhiều lần gạn lọc để bốc hơi lên tụ lại thành mây rồi bay về hội ngộ cùng non để rồi mưa xuống rữa sạch bụi trần, giúp non kia giữ được màu thanh u sau những ngày Đông Hàn, Hạ Nhiệt.
Rồng Tiên chính là Vật Tổ Việt-Nam biểu thị cho Lý đối kháng mà dung hòa của dân tộc, để tìm Đạo lý “Chấp Trung” cái Đạo xuất nhập của con người, một triết lý âm dương mâu thuẫn mà hiệp nhất, chú trọng tinh thần, bảo tồn vật chất, vật tâm tương ứng, khắc để mà sinh, đối kháng mà không bị tiêu diệt, trái lại còn đun đẩy cạnh tranh để tiến hóa.
Đó chính là Hồn Dân Tộc, là nguồn sống miên viễn bất tận.
Dân tộc Việt-Nam phải tâm đắc cái truyền thuyết đó để quyết tâm khai quật tiềm năng hòa đồng dân tộc, Bách Việt nhất gia, bắt nhịp cầu cảm thông Nam Bắc, khơi nguồn huyết thống Tổ Tiên, sưởi ấm mối tình “Đồng bào” để dân tộc tránh họa diệt vong.
Nhờ tiềm năng cộng đồng dung hợp đã chứa đựng sâu xa trong mọi tâm hồn của nòi Lạc-Việt, nên người Việt-Nam có đủ linh năng trực giác, tạo thế quân bình, dung hòa trước mọi ý thức quan niệm dị đồng, bất chấp mọi âm mưu từ đâu đưa đến, chúng ta phải thành tâm cương quyết bảo vệ mảnh đất sống của chúng ta, một dãy non sông cẩm tú, có núi sông hiểm trở, đồng ruộng phì nhiêu, tài nguyên phong phú, có người ngoại quốc đã nói: “Việt-Nam là ngã tư quốc tế, là hành lang dòm ngó ra Thái Bình Dương. Nó là nhịp cầu nối giữa các khối: Úc, Phi, Âu, Á, Mỹ.”
Việt-Nam là một vị trí quan trọng, ngày mai kia sẽ trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và tâm linh của cả một vùng Trời Đông Nam Á.
Hay là :
“Việt-Nam như thể cái lầu,
Ngày sau các nước đâu đâu cũng về.
Việt-Nam như thể cái chùa,
Ngày sau các nước bốn mùa tới lui./.”
Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu ngày Giỗ Tổ Hùng-Vương, mùng mười (10) tháng ba (3).
Tìm hiểu hai con số, ngày mùng mười (10) tháng ba (3), ta mới thấy Tổ Tiên ta thật là thần thông vĩ đại. Lấy ngày mùng mười là ngày Can Chi gặp nhau, là Quý Dậu. Lấy tháng ba (3), tháng Can Chi gặp nhau là Mậu Thìn.
Nay, ta hãy phân tích ngày Quý-Dậu và tháng Mậu-Thìn, để tâm quan chiêm, soi xét kỹ coi ẩn tàng lý gì trong đó.
Trước hết, ta phải hiểu Can Chi là gì? Do đâu mà có?
Can có 10 số gọi là Thập Thiên Can,
Chi có 12 số gọi là Thập Nhị Địa Chi.
Thập Thiên Can do ngũ hành mà có, thập nhị Địa chi do Lục Khí biến sanh. 10 Can sanh ngũ hành. Giáp-Ất thuộc Mộc, Bính-Đinh thuộc Hỏa, Mậu-Kỷ thuộc Thổ, Canh-Tân thuộc Kim, Nhâm-Quý thuộc Thủy.
Lục khí sanh 12 chi:
1. Khí Thái Dương, Tý Sửu. 4. Khí Thiếu Dương, Ngọ Mùi.
2. Khí Quyết Âm, Dần Mẹo. 5. Khí Thái Âm, Thân Dậu.
3. Khí Thiếu Âm, Thìn Tỵ. 6. Khí Dương Minh, Tuất Hợi.
Bây giờ, ta hãy sắp thứ tự Can Chi coi ngày mùng mười tháng ba nằm ở Can Chi nào?
Can: Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
Chi: Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi.
Tổ Tiên ta dựa vào Đạo Dịch:
Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhân sanh ư Dần.
Lấy chi Tý làm mốc thời gian (12) số.
Lấy Can Giáp làm mốc không gian (10) số.
Như trên, ta thấy Can Chi Mậu-Thìn đều gặp nhau ở số năm (5).
Can Chi Quý-Dậu đều gặp nhau ở số mười (10).
Ta thử phân tích: Mậu là Can thứ 5, Thìn là Chi thứ 5.
Mậu Thìn cũng là hành thổ, số 5 cũng là số sanh của Thổ. Có lẽ Tổ Tiên ta muốn hiệp thông “Trời-Đất-Người” hiệp nhất thể, nên mới lấy tháng Mậu Thìn làm tháng kỷ niệm. Trong Trời, Đất, người đều có đủ 5 số: Trời có ngũ khí, Đất có ngũ hành, Người có ngũ tạng.
Cộng ba số lại thành 15. Số 15 là số Huyền Khí của Mẹ Đất, con số 5 là số Hoàng Cực trong Lạc-Thơ, là diệu lý của Cha Trời.
Ông cha ta muốn lấy Lạc-Thơ làm nền chánh trị Đế Đạo cho dân tộc. Nếu đúng như vậy thì thật là tuyệt diệu.
Ngày Quý Dậu: Quý là số 10 của Can, Dậu là số 10 của Chi.
Ngày này Can và Chi gặp nhau ở số 10. Số 10 là số không mà có, làm toán số 10 giữ 1 sang hàng khác. Số nầy tượng cho lý Vô-Cực nhi Thái-Cực. Trong không mà có, một vòng tròn có một chấm ở giữa , đây là nói lên cái lý “Thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh” nghĩa là ấy không ấy sắc, không làm mà sai khiến cả muôn loài. Một lý nữa là chữ thập (+) tượng âm dương gác chồng nhau thành chữ thập. Tượng âm dương biến thành tứ tượng ngũ hành thành chữ vạn卍, như cái chong chóng quay mãi không ngừng để sanh thành vạn vật, mà cũng là cơ hủy diệt và bảo tồn vạn vật.
Trong khí âm dương có luật tương phản, tương thôi, và tương thành. Nghĩa là âm dương vừa phản phúc, đối kháng chống chọi nhau, vừa thúc đẩy tiến tới, vừa hợp tác nhau để thành công.
Âm dương mâu thuẩn mà song song bình hành, không bên nào triệt bên nào, đó là cơ tiến hóa của muôn loài vạn vật.
Dưới đây, tôi giới thiệu Cơ Tứ Linh với các bạn đọc nghiên cứu.
Ở trên Trời, Cơ Tứ Linh ở bốn phương.
Ở Trời
Đây là cơ Thanh Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Huyền Vũ ở Trời.
Cơ Tứ Linh ở đất: Thanh Long, Xích Lân, Kim Qui, Bạch Phụng.
Tứ Linh ở Trời nói lên cơ ngũ hành tương sanh: Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy.
Tứ Linh ở đất nói lên cơ ngũ hành tương khắc: Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.
Bài luận này, tôi chỉ khai thông một phần ý nghĩa Rồng Tiên và ngày tháng Giỗ Tổ. Rất mong quý bậc cao minh, quý minh sư, quý học giả góp phần minh giải sâu rộng thêm để đồng bào và các bạn tường lãm huyền thoại của dân tộc mà từ lâu ít ai khai thác./.
Tuy-Hòa Phú-Yên, Ngày 3 tháng 3 năm Nhâm-Thìn
(24-03-2012)
Giáo-Sư Ngọc-Trường-Thanh
Thân tặng bạn đọc xa gần!
Bookmarks