Mỗi ngày chỉ có 1 giờ các sao Quy Viên Nhập Cục (về chỗ đóng, vào cuộc), như Thái Dương ở Tý thì giờ Nhâm Tý Cát, Thái Dương ở Ngọ thì giờ Bính Ngọ Cát, đó là sự thần diệu Quy Viên Nhập Cục, không Cát nào to bằng. Nguyên Kinh có nói: kẻ khéo dùng giờ, thường khiến Chu Tước xung cánh, Câu Trần lên bệ, Bạch Hổ cháy mình, Huyền Võ gãy chân, Đằng Xà rơi xuống nước, Thiên Không ném vào thùng, đó là 6 vị Thần phục hết. Nếu được 6 vị thần phục hết, thì được Cát, lấy Tướng gia vào giờ cũng Vượng, như ngày Giáp giờ Dần, ngày Ất giờ Mẹo đều Cát. Giờ có thể giúp hàng Can của ngày, có thể giúp Tứ Trụ, thực là Cát Thần vậy. Thời gia cũng có Tam Kỳ, Tử Bạch, phỏng theo lệ nguyệt bạch mà suy. Nhưng giờ "Độn Giáp Kỳ Môn" là dùng về việc hành binh, không phải làm việc Tạo, Táng. Song các việc Tạo, Táng, Tu phương, Giá thú, Thượng quan, Xuất hành, dùng cũng đều Cát.
Phàm chọn giờ dùng phép Kỳ Môn, trước hết lấy Siêu Tiếp làm định, sau xem Lộc Mã Quý Nhân đến cục, cùng với kỳ củng hợp là Thượng Cát, có thể giải tất cả các thứ Hung Sát, vời Cát, đem Phúc. Nếu Kỳ đến mà Lộc không đến là Lộc cưỡi kỳ, Lộc đến mà Kỳ không đến Hung vong, Lộc không thể làm Dụng cho Chế sát.
Hiệp Kỷ có nói: "Phép dùng giờ rất là thiết đáng, duy 1 điều về giờ Tứ Đại Cát, nhằm lấy Tứ sát một thời làm Thần tàng sát một, kìa lấy 2 chữ sát một mà đến nỗi giả dối lầm lẫn. Vì Thần tàng sát một duy có Quý Đăng Thiên Môn, còn 11 Tướng khác đều Tướng nào ở sở nấy, thì Hung thần thụ chết mà Cát. Thần được ngôi, là nói 6 thần đều cúi phục, tức là nghĩa Thần tàng sát một. Nếu giờ Tứ sát một, hãy đem 12 Chi gia vào Địa bàn, còn chưa bàn kịp đến Thần sát thì lý nào được có Thần tàng sát một, đó là lỗi của nhà Tuyển Trạch không xem Nhâm dộn vậy. Đến như nói Thái Dương ở Tý thì giờ Nhâm Tý Cát, Thái Dương ở Ngọ thì giờ Bính Ngọ Cát, chuyên lấy Thái Dương tự làm một nghĩa, lấy giờ Nhâm Tý thì làm giờ Tý trên 4 khắc , nghĩa ấy càng tinh hơn. Lai như nói giờ Nhâm làm Nhâm Sơn hay Tý Hướng, là lấy phép Chân Thái Dương đến Sơn, đến Hướng. Song thời khắc vốn trái, thường đường Xích đạo đo Sơn Hướng, vốn đất bằng đo phương vị, duy ở dưới Bắc cực thì Xích đạo và đất bằng hợp với 12 Chi, giửa giờ xem 4 khắc, Bát Can Tứ Duy, trước sau giờ xem đều là 2 khắc, hợp lại cũng là 4 khắc. Như Tị chính 2 khắc đến Ngọ, bắt đầu 2 khắc thuộc phương Bính, đầu giờ Ngọ 2 khắc đến Chính Ngọ 2 khắc là loại thuộc phương Ngọ. Từ đó về Nam thì Bắc cực thấp dần, độ lệch dần nhiều, lại ngày Hạ Chí mặt trời đi về lục địa phương Bắc, cách đất bằng xa thì độ lệch nhiều. Ngày Đông Chí mặt trời đi về lục địa phương Nam, cách đất bằng gần thì độ lệch ít. Thuật gia không rõ Thiên văn học, bèn lấy 24 phương vị làm 24 giờ, đã không hợp với phép Lục Nhâm, lại không cùng ứng với Sơn Hướng.
Đây xem giờ khắc mà Thái Dương tới phương nào, làm biểu ở sau:
TỨ ĐẠI CÁT THỜI (Tứ sát một thời).
Khảo Nguyên rằng: "Tứ sát là Dần Ngọ Tuất thì Hoả sát ở Sửu, Hợi Mẹo Mùi thì Mộc sát ở Tuất, Thân Tý Thìn thì Thuỷ Sát ở Mùi, Tị Dậu Sửu thì Kim sát ở Thìn. Phàm lấy Tứ sát thời thì lấy Tướng của tháng gia vào giờ, khiến cho Tứ sát lâm tới vị Càn Khôn Cấn Tốn, là Tứ sát mất ở Tứ Duy. Bốn tháng về tháng Mạnh là tháng Giêng, tư, bảy, mười thì dùng giờ Giáp, Canh, Bính, Nhâm. Bốn tháng về tháng Trọng là tháng hai, năm, tám, mười một thì dùng giờ Cấn, Tốn, Khôn, Càn. Bốn tháng về tháng Quý là ba, sáu, chín, mười hai thì dùng giờ Ất, Tân, Đinh, Quý. Như tháng Giêng, Tướng của tháng ở Hợi, thì lấy Hội gia vào Giáp, hoặc gia vào Bính, hoặc gia vào Canh, hoặc gia vào Nhâm, y 24 phương vị tính thuận đi, thì Tứ sát Thìn Tuất Sửu Mùi đều lâm tới quái vị Tứ Duy, đó là Tứ sát một thời vậy, lấy Tứ sát đã mất, cho nên bảo là Tứ Đại Cát Thời vậy.
xét Thìn Tuất Sửu Mùi gọi là Tứ Sát, là cho rằng khí của Ngũ Hành (của cục ấy) đấn đấy là trọn hết (vì nếu các anh chị, các bạn để ý sẽ thấy đó là vị trí Dưỡng của Cục, tức là cuối của vòng Trường Sinh vậy). Nếu tới vị Trường Sinh, thì Sinh Sinh mãi không thôi, quanh quẩn không mối, cho nên gọi là Tứ sát một thời, tức là cái thuyết nói về Nhâm khoá Tứ mộ hậu sinh. Còn lấy Bát Can Tứ Duy mà nói, thì như Tông Kính bảo là trên giờ 4 khắc, thì thuyết này được đó. Vì thông lệ của phép Tuyển Trạch lấy giờ, mà không phải Tứ sát một thời ấy, chỉ cùng với Bát Can Tứ Duy cùng nhau can thiệp. Người tục lấy cái đó làm Thần tàng sát một, thì nhân hai chữ sát một đến nỗi nhầm lẫn!!!
Tướng của 4 tháng Mạnh thì dùng giờ Giáp Bính Canh Nhâm, tướng của 4 tháng Trọng thì dùng giờ Càn Khôn Cấn Tốn, tướng của 4 tháng Quý thì dùng giờ Ất Tân Đinh Quý.
TỨ ĐẠI CÁT THỜI TIÊU TINH KHẮC ỨNG.
(Sao nêu khắc ứng của 4 giờ Đại Cát).
1/. Tháng Giêng tướng Đăng Minh ở Hợi:
Giờ Giáp: Phương Đông có 2 trai cưỡi ngựa mặc áo đen trắng; người đàn bà cưỡi hoặc dắt con bò vàng, mặc áo vàng, ở phương Đông đến.
Giờ Bính: Phương Nam có người cưỡi ngựa đỏ mặc áo đen trắng, có con chim bay lại; lại phương Tây có người con trai mặc áo xanh theo người đàn bà có chồng cưỡi hoặc dắt con bò vàng, con ngựa tới.
Giờ Canh: Phương Tây có người mặc áo trắng cưỡi ngựa trắng, hoặc cưỡi hay dắt con bò từ phương Bắc tới.
Giờ Nhâm: Phương Bắc có người mặc áo đen trắng, tay cầm cung; hoặc dắt bò vàng từ phương Đông lại.
2/. Tháng Hai tướng Hà Khôi ở Tuất:
Giờ Tốn Càn: Phương Đông có chàng trai trẻ cưỡi ngựa, hoặc đẩy xe chở lợn, rượu tới.
Giờ Khôn: Phương Tây có người cưỡi ngựa đỏ, mặc áo trắng, hoặc từ phương Tây có gió lốc tới.
Giờ Cấn: Phương Đông Bắc có người cưỡi ngựa; hoặc dắt bò vàng, mặc áo đen từ phương Đông tới.
3/. Tháng Ba tướng Tòng Khôi ở Dậu:
Giờ Ất: phương Đông có người cưỡi ngựa hoặc dắt bò vàng đem cái cày đi; người đàn bà mặc áo tím đẩy xe.
Giờ Tân: phương Tây có người mặt áo trắng, áo tía, cưỡi ngựa non, có con nghé có sừng.
Giờ Đinh: Phương Nam có người cưỡi ngựa mặc áo đen; có đám mây đen bay tới chỗ đồng rộng.
Giờ Quý: Phương Bắc và Tứ Duy có sắc đen; có người cưỡi hoặc dắt ngựa đen; có mây đen bay tới quãng đồng rộng.
4/. Tháng Tư tướng Truyền Tông ở Thân:
Giờ Giáp: phương Đông có người đàn bà mặc áo đen, áo vàng; có tướng quân cưỡi ngựa trắng đi qua.
Giờ Bính: phương Nam hoặc phương Tây có 3 người đàn bà mặc áo đỏ; có tướng quân cưỡi ngựa trắng đi qua.
Giờ Canh: phương Tây thấy có người mặc áo trắng cưỡi hoặc dắt bò; có đứa con trai cưỡi ngựa đỏ.
Giờ Nhâm: phương Bắc có mây đen dấy lên.
5/. Tháng Năm tướng Tiểu Cát ở Mùi:
Giờ Tốn: phương Đông Nam có 2 chim bay tới và gió mây chuyển sắc; có đứa con trai mặc áo đen cưỡi ngựa; hoặc người đàn bà đi kiệu mặc áo đen.
Giờ Khôn: phương Tây Nam có 2 chim bay tới.
Giờ Càn: phương Tây Bắc có người đội mũ, cưỡi ngựa tía, cầm cung tới.
Giờ Cấn: phương Đông Bắc có người mặc áo đen; người đàn bà mặc áo vàng đem con chó tới.
6/. Tháng Sáu tướng Thắng Quan ở Ngọ:
Giờ Ất: phương Tây có người cưỡi ngựa mặc áo vàng; hoặc bò vàng; người con trai sắc vàng có 2 người mặc áo xanh đi theo, từ phương Nam tới, hoặc phương Đông tới.
Giờ Tân: phương Nam có đứa con trai hoặc 2 người đàn bà mặc áo đỏ, áo trắng cưỡi hoặc dắt bò trắng, bò vàng, đem chó tới.
Giờ Đinh: Phương Nam hoặc phương Bắc có người cưỡi hay dắt bò, mặc áo xanh cưỡi ngựa vàng.
Giờ Quý: phương Nam và Tứ Duy có người sắc đen tới, và mấy đen bay tới.
7/. Tháng 7 tướng Thái Ất ở Tị:
Giờ Giáp: phương Bắc có người cưỡi ngựa đỏ mặc áo đen lại hoặc áo trắng, thấy tướng có binh phục và ứng đến.
Giờ Bính: phương Nam có người cưỡi ngựa đen mặc áo đen đến, thấy tướng quân đi tuần.
Giờ Canh: phương Tây có người cưỡi ngựa đỏ mặc áo đen hoặc trắng, thấy tướng binh nấp.
Giờ Nhâm: phương Bắc có mây đen hoặc biến ra mưa.
8/. Tháng 8 tướng Thiên Cương ở Thìn:
Giờ Tốn: phương Đông có người cưỡi ngựa hoắc dắt bò mặc áo đỏ, đi xe hoặc chuyển cưỡi ngựa mặc áo xanh.
Giờ Khôn: phương Tây có người mặc áo vàng, cưỡi ngựa hoặc dắt bò vàng, đèo theo con nghé.
Giờ Càn: phương Tây có người mặc áo tía đội mũ, cưỡi ngựa cầm đao.
Giờ Cấn: phương Đông Bắc có mây biến thành gió mưa.
9/. Tháng 9 tướng Thái Sung ở Mẹo:
Giờ Ất: có chim bay thú chạy, có người mặc áo trắng hoặc khoác áo đen tới.
Giờ Đinh: phương Nam có người mặc áo đỏ, có chim bay tới.
Giờ Tân: có người mặc áo trắng đầu đội đồ vật, hoặc có mây mưa.
Giờ Quý: phương Bắc và Tứ Duy có mây vàng giống như sắc ngọc trắng tới biến thành mưa.
10/. Tháng 10 tướng Công Tào ở Dần:
Giờ Giáp: phương Đông có chim bay và người đem văn thư tới mặc áo đen, cưỡi bò ngựa; hoặc có mây đen tới áng.
Giờ Bính: phương Nam có mây đỏ tới hoặc chim bay tới, như có 8 tướng đem văn thư cưỡi bò hay ngựa.
Giờ Canh: phương Tây có chim bay hoặc người đem văn thư mặc áo đen hoặc cưỡi bò, thấy chim bay tới.
Giờ Nhâm: phương Bắc có đám mây bay tới hoặc biến thành mưa gió.
11/. Tháng 11 tướng Đại Cát ở Sửu:
Giờ Tốn: phương Đông Nam có mây đen hoặc chim bay lại hót ứng.
Giờ Càn: phương Bắc có người cưỡi bò hoặc chim bay tới, hoặc người con gái cưỡi ngựa đem đồ vật tới.
Giờ Cấn: phương Đông có chim vàng hoặc người mặc áo vàng đem quân tới.
Giờ Khôn: phương Tây Nam có người mặc áo đỏ tới, hoặc phương Đông có người cưỡi bò sắc đen, hoặc có chim bay tới ứng.
12/. Tháng 12 tướng Thần Hậu ở Tý:
Giờ Ất: phương Đông có người bị tội thích mặc áo trắng đi xe hoặc đi kiệu, phương Đông Bắc có mây đen, chim bay tới ứng.
Giờ Tân: phương Tây Nam có người bị tội thích mặc áo trắng cưỡi bò dê, phương Tây bắc có chim bay lại ứng.
Giờ Đinh, Quý: phương Bắc và Tứ Duy có người mặc áo vàng hoặc dắt bò, hoặc thấy khí mây vàng dấy lên.
Đây là 4 giờ Đại Cát, khắc định thời giờ tiết hậu, tử tế suy lường, không nên làm nhầm, thì vạn việc không hỏng 1, thực là thuật giúp nước yên dân.
Xét trên đây khắc ứng chưa biết nghiệm hay không hãy chép ra để đợi thử nghiệm.
Bookmarks