Mùa Xuân tìm hiểu Quẻ Địa Thiên Thái

Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ Kinh Dịch. Thái có nghĩa to lớn, thông suốt, tốt đẹp, yên ổn

-Tượng quẻ cho thấy, hạ quái là Kiền, tức Dương khí của Trời hạ xuống; thượng quái là Khôn, là Đất, tức Âm khí bay lên, thể hiện sự gặp gỡ giao hòa giữa Trời Đất, hiểu rộng ra là hai khí Âm Dương giao tiếp nhau, tượng trưng sự hanh thông trong định luật thiên nhiên.


-Áp dụng vào phương diện thời tiết: Khí Dương giáng xuống len lỏi vào trong lòng đất, đun đẩy tác động làm cho đất màu mỡ phát triển nuôi sống cây cỏ tươi tốt. Khí âm bay lên, hòa cùng khí Dương làm cho mưa thuận gió hòa

- Đối với vận hạn chúng sanh: Thái là thời Trời ban rải ân lành xuống cho thế gian, và chúng sanh nói chung, con người nói riêng đều một lòng ngưỡng vọng ân cao đức cả của Đấng Tạo Hóa, hết lòng sống thuận tùng thiên lý, nên cảnh thế gian thái bình hạnh phúc, bốn phương cộng lạc.

-Xét về Hình nhi hạ, tượng quẻ cho thấy : Kiền biểu hiệu cho bậc lãnh đạo, hạ mình xuống hòa hợp với nhân dân, chăm lo cho nhân dân được tượng trưng bởi quẻ Khôn, thể hiện tính nhu thuận tuân hành sự điều động cai trị của người lãnh đạo cho nên tạo nên được thời thái bình thạnh trị cho quốc gia. Như thời Nghiêu Thuấn, trên nói dưới nghe. Con người làm được sứ mạng thế Thiên hành hóa, tiếp nối Trời trong việc sanh hóa vạn vật nơi chốn hữu hình trong vai trò chủ tể muôn loài để "tài thành Thiên Địa chi Đạo, phụ tướng thiên địa chi nghi, tả hữu dân" như lời Đại tượng truyện quẻ Thái.

-Do vậy, Hình tượng quẻ Thái còn có thể được hiểu : Kiền là Dương tượng trưng cho Trời và Khôn là Âm tượng trưng cho người. Vì Trời –Người vốn đồng bản thể linh quang, nhưng Trời vô hình, còn Người hữu hình. Thời Thái là giai đọan tâm Trời và tâm người có sự cảm ứng tương liên, vì con sống trong khuôn mẫu đạo đức theo đúng luật Trời, thể hiện được tinh thần Thiên nhân hiệp nhứt.

Trong phần Thóan truyện, Thánh nhân nói: Nội dương nhi ngọai âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân. Kiền ở trong tượng trưng cho quân tử và Khôn ở ngòai tượng trưng cho tiểu nhân. Thời Thái là thời thịnh trị của người quân tử là người có đức tính tốt đẹp đạo đức, thuần lương thánh thiện, hạng tiểu nhân phải né tránh, lánh xa.

-Quân tử và tiểu nhân không chỉ được hiểu hạn hẹp trong ý nghĩa ngôn ngữ nhân gian, mà có thể được xem là 2 phần đối lập trong một con người: Đó là chơn thần và thức thần. Chơn thần tốt đẹp ví như người quân tử, còn thức thần bị tập nhiễm do bị chỉ huy bởi thất tình lục dục, tham sân si nên bị coi như là tiểu nhân. Nếu con người có sự giác ngộ, sáng suốt, biết phân biện thiện ác, không để thức thần lôi kéo xa rời đạo lý, là con người tiến gần đến chỗ "Quân tử đạo trưởng , tiểu nhân đạo tiêu dã" có nghĩađạo người quân tử lớn lên, đạo của kẻ tiểu nhân suy mòn, tức chơn thần đã khống chế được thức thần, con người làm chủ được thất tình, sự ham muốn để tạo tiền đề cho tâm linh con người thăng hoa tiến hóa vượt lên cõi thượng thiên.

-Đối với tôn giáo: Đạo khai là để cứu đời. Đời lọan lạc khổ đau là do con người đắm chìm trong dục hải, lãng quên nguồn cội thiêng liêng, quay lưng với gia tài của Thượng Đế phát ban. Con người phải chịu một thời Bĩ đen tối. Để rồi một vị Giáo Tổ ra đời khai sáng một nền tôn giáo, đem ánh sáng cứu độ soi sáng dẫn dắt con người ra khỏi nẻo tối tăm chính là lúc nhân lọai bắt đầu bước sang thời Thái. Nguồn sáng cứu rỗi cứ len chảy trong lòng nhân thế để đến một lúc nào đó, con người bừng tỉnh và mở rộng cõi lòng đón nhận Thiên ân, tu hành giải thoát.

Quẻ Thái nói lên sự hanh thông ngay từ đầu, thể hiện ở hào Sơ Cửu "bạt mao nhự, dĩ kỳ vi, chinh cát [Nhổ rể cỏ tranh, lên cả đám, tiến hành tốt] Cỏ tranh là cỏ rất khó nhổ vì rễ nó rất dài và chằng chịt, nhưng thời Thái hanh thông , làm việc gì cũng dễ dàng, hàm nghĩa việc làm rất nhỏ nhưng kết quả rất lớn: cho nên cát. Con người ý thức được mình đang ở vào thời Thái tức là được ơn Trời , làm gì cũng dễ dàng thành công, cho nên phải biết tận dụng để phát huy giúp đời. thực hiện sứ mạng vi nhân.

Thời vận hanh thông, muốn đem chí giúp đời phải biết phương cách để được trọn vẹn sống trong ơn Trời như ý nghĩa của hào Cửu Nhị: bao hoang, dụng hằng hà, bất hà duy, bằng vong, đắc thượng vu trung hành [bao dung sự hoang phế, dùng cách vượt qua sông , không bỏ sót kẻ ở xa, quên bè phái, phải tôn trọng hành động trung chánh] dễ dàng bao dung tha nhân, không vì sự thành công của mình mà khe khắt với người khác, đòi hỏi người phải như mình, kẻ tốt, người xấu đều có chỗ sử dụng, để thể hiện đức Nhân, là một cách để tạo thêm âm chất cho chính mình.

Phải tin vào sự hanh thông tốt đẹp của thời vận để mạnh dạn tiến tới làm những điều ích lợi cho xã hội, tức là tập đức Dũng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn phải duy trì đức Trí để cẩn thận, suy xét phải quấy, tính tóan tiên liệu đối với mọi vấn đề chứ không vì sự hanh thông mà lơ là, a dua vọng ngọai , để có những lúc phải chấp nhận" bằng vong" [mất bạn]. Ngược lại, để duy trì được Nhân Trí Dũng, phải quay về nội tâm để học đức Kiền: "Chung nhật kiền kiền để tự cường bất tức", và làm gì cũng phải giữ đúng đạo Trung.

Đến hào Cửu Tam: Vô bình bất bí, vô vãng bất phục, gian trinh vô cữu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc: [Không có gì bằng phẳng mà chẳng nghiêng lệch, không có sự ra đi nào mà không trở lại, gian nan mà chính bền thì không lỗi, đừng xót xa, hãy thành tín, có phúc cả trong sự ăn uống]. Thời Thái đã đi qua gần nửa đường, hanh thông vẫn còn đó, nhưng phải gặp trắc trở vì đó là tính chất bất biến của cõi Nhị nguyên, không có gì là tuyệt đối nơi chốn hữu hình. Khó khăn lúc này đã bắt đầu manh nha. Cho nên hơn lúc nào hết, phải giữ cho được sự chính bền (Nhân Trí Dũng). Làm được như vậy, ơn Trời vẫn được hưởng.

Muốn giữ được chính bền, con người phải sáng suốt tâm linh. Cho nên phải biết tu tâm dưỡng tánh, thì dù không lợi lộc vật chất, không tính tóan, con người vẫn xích lại được gần nhau một cách tự nhiên do niềm tin thành thật với nhau như hào Cửu Tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu [Lanh lẹ, chẳng giàu mà kết thành hàng xóm, không chuẩn bị mà đã tin nhau ]. Đây là kết quả cao nhất của thời Thái: chinh phục được lòng người mà không phải bằng vật chất của cõi nhị nguyên, mà bằng tình cảm và đức độ thể hiện qua hào Lục Ngũ: Dĩ chi nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã [được phúc rất tốt, lấy đạo Trung để thực hành ý nguyện]

Nhưng thế gian này không có gì tồn tại vĩnh hằng và tuyệt đối. Có sinh tức có diệt, có thành tức có bại. Đó là qui luật của cõi hữu hình. Thời Thái rồi cũng sẽ qua đi, cho nên hào Thượng Lục, Tiểu tượng viết: Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh lọan dã [thành lũy hóa ra rào cạn, mệnh lệnh rối loạn] thành lũy bị sụp đổ xuống hào rãnh. Nhưng nếu hiểu được Thiên lý, giữ được đạo Trời là Trung Đạo bất biến, tức là không làm những điều đi ngược đạo lý thì dù trong mọi hòan cảnh, con người vẫn sẽ vượt qua.

Tóm lại, học quẻ Thái để đừng đeo đuổi, chạy theo những gì gọi là tốt đẹp nơi cõi hồng trần, mà hãy chọn con đường Thiên Đạo để tương lai không còn Thái, không còn Bĩ, có nghĩa là giải thoát, trở về với Nhất nguyên, tức Đạo.

Rõ nét nhất là thời Hạ nguơn mạt pháp với sự lâm trần mở cơ tận độ của Đức Cao Đài. Thế giới vẫn còn đang ngập chìm trong màn đêm của thời Bĩ, nhưng đặc biệt đối với những ai đã giác ngộ, đặt trọn niềm tin vào Thượng Đế, sẵn sàng dâng hiến sở năng sở hữu cho đại cuộc cứu độ Kỳ Ba, là đã được bước chân vào vùng ánh sáng của thời Thái hanh thông an lạc.

-Người môn đệ của Đức Cao Đài muốn làm được sứ mạng cao trọng thiêng liêng đó, phải bước chân lên nấc Đại thừa, để nhận ra rằng quẻ Thái là con đường tâm pháp giúp người hành giả đi đến đích điểm của sự giải thóat, bởi vì Thánh giáo đã dạy:

"Khí Âm Dương hiệp nhứt

Lấy Khảm đắp Ly hào

Trở về Kiền Khôn quái

Là mối Đạo rất cao

Nghĩa là Âm Dương hiệp lại thành quẻ Thái, mà Thái là Hòang Cực Đại Trung; Âm Dương có hợp thì vạn vật mới sanh; thần khí có giao thi kim đơn mới kết; thần phải ngưng, khí mới tụ, mà thần lìa thì khí tán. Phép tu kim đơn, chỉ có thần khí mà thôi. Thần thì vô phương, khí thì diệu tán, nhưng luôn luôn khí theo sát cùng thần…" 1

Chính vì vậy mà Soán Truyện viết: "Nội dương nhi ngọai âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân" [khí dương ở trong mà khí âm ở ngoài, cương kiện ở trong mà nhu thuận ở ngoài, quân tử ở trong mà tiểu nhân ở ngòai]Thân xác con người về mặt y học, nếu mạnh khỏe, tức là ở trạng thái quẻ Thái, dương khí tàng ẩn tràn ngập bên trong, âm khí biểu lộ bên ngòai, tức nội tạng ấm áp, thân thể bên ngòai mát như Kiền ở nội quái, Khôn ở ngoại quái. Ngược lại, bên ngòai thấy sốt tức là người bị bệnh.

Kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ là chu kỳ cuối của vũ trụ sẽ đi vào sự bế tắc của quẻ Bĩ, nhưng sự giáng trần mở Đạo của Đức Chí Tôn, chính là ơn Trời đã bao trùm cõi thế gian này, cho nên cơ Đạo dù gặp nhiều khó khăn, dời đổi rồi cũng sẽ hanh thông. Con người hiểu được cơ duyên có một không hai đó để bước vào quỹ đạo an tòan của Đức Từ Phụ tìm phương tu hành, chắc chắn sẽ đắc quả, sẽ tìm thấy sự giải thoát tâm linh, vì đây là thời Thái, bước đầu mọi sự dễ dàng hanh thông, có tu có đắc. (Hào Sơ cửu)

Tu hành với Đức Cao Đài , là tu hành nhập thế, tự độ và độ tha: "chí tại ngoại dã". Việc tu hành là quay về luyện rèn Nhân Trí Dũng bằng công phu thiền định, nên phải giảm duyên đọan sự, tức: "bằng vong"

Nhưng tu hành thường có sự khảo đảo (cửu tam) , phải biết giữ tâm chuyên nhứt thì sẽ được Đức Thượng Đế chở che.

Được như vậy, con người sẽ được thung dung tự tại giữa cõi đời hậu thiên vật chất, dù không sang giàu, thế lực, vẫn nói được người nghe, vẫn cảm hóa được người một cách tự nhiên để tạo thế nhân hòa,(Lục Tứ) thực hiện được tâm nguyện của mình( Lục Ngũ)

Tuy nhiên, phải cảnh giác ở phút cuối cùng cuộc đời , đường tu sẽ vẫn còn nhiều khảo đảo, và nếu không biết áp dụng quẻ Thái vào vào việc tu luyện để đoạt ngôi Hoàng Cực, tức là thóat ra ngòai vòng cương tỏa của qui luật hậu thiên nhị nguyên đối đãi thì việc tu hành chỉ là công dã tràng xe cát biển đông (Thượng Lục)
Hồng Phúc

nguồn: http://www.nhipcaugiaoly.com/post?id=516