Âm OM là âm thanh của vũ trụ, người xưa nghe tiếng voi rống lên cũng có âm nầy và người Ấn thờ thần voi , trong chữ OM, cái dấu cong hướng ngược ra sau là cái vòi voi, một móc úp ở trên là đuôi voi, dấu Á có chấm ở giữa là cái ngà và 1 con mắt voi.OM
Phần trên cùng của ấn tín là chữ Om bằng Phạn ngữ, chữ này được xem là rất thiêng liêng tại Ấn, ta không thể dịch nó sang tiếng khác vì nó có nghĩa về biểu tượng hơn là nghĩa thường. Khi đọc thì chữ này chỉ có một âm nhưng viết với ba mẫu tự trong Phạn ngữ: a, u và m; au là cách Phạn ngữ viết âm o. Nó hàm ý cái Duy Nhất tối cùng tự biểu lộ theo ba cách hay ba ngôi, không phải chỉ thấy trong Thiên Chúa giáo mà có cả trong Ấn giáo, Phật giáo và nhiều tôn giáo khác trên khắp thế giới. Tương đương với chữ này là chữ Ngôi Lời trong tiếng Hy Lạp hay Logos, Om là chữ sáng tạo, bảo tồn và chuyển hoá trọn càn khôn, là âm Thượng đế phát ra và vang vọng muôn thuở.
Hình dạng ba chữ này cũng đáng nói về mặt biểu tượng. Hình giống như số 3 nối với cái tựa mẫu tự pi tiếng Hy Lạp là mẫu tự a trong Phạn ngữ, được xem là viết theo hai chiều đo; đường cong bên trên phần giống chữ pi của chữ a là chữ u, được xem là một chiều đo, và cái chấm nhỏ bên cạnh đường cong này là chữ m, được xem là không có chiều đo. Khi những mẫu tự của chữ Om đi từ cái này sang cái kia, chúng có ít chiều đo dần, sau chót tận cùng bằng cái điểm khởi nguyên, cái độc nhất mà trọn vũ trụ bung ra từ Big Bang.
Chữ Om đặt trên đầu của ấn tín vì nó biểu tượng cho cái Tuyệt Đối biểu lộ chính mình là tam vị nhất thể, từ thiên trí hay Thượng Đế phát ra khi vũ trụ thành hình, và tới chung cuộc của thời gian thì quay trở về. Kinh Bhagavad Gita của Ấn nói rằng chữ Om nên là cái bắt đầu cho mọi việc, vì nó tượng trưng cho nguồn gốc thiêng liêng của vạn vật.
Âm thanh vũ trụ trầm bằng nốt Sol # của tiếng dương cầm ở octave thứ 1, do đó người nữ đọc âm nầy khó cảm ứng hơn nam, và cũng chưa có ai xuống được âm nầy cả.
Các Guru Yoga đã chứng ngộ mới có thể đạt được và phát ra âm thanh nầy, ngoài ra chỉ là âm trầm thật trầm cở SOL # octave thứ 2 của giọng Nam trầm là hết mức rồi, LT tôi tu hành kém cỏi nhưng cũng đạt tới nốt DO của octave thứ 2, còn các vị nữ thì xuống tới nốt RE của Octave thứ 3 là hết xuống được rồi.
Tuy vậy các vị thượng sư thường dạy cho học trò của mình , nếu không ngân bằng đúng cao độ, thì cứ lấy đúng cái note SOL # của cái Octave mà mình có thể, thì dụ bạn có thể xuống được note DO của octave thứ ba thì lấy note SOL # của Octave #3.
Do đó thầy tôi dạy trước khi tụng trì thần chú cần phải niệm OM 21 biến, và phải cố xuống càng trầm càng tốt , âm thanh nầy phải đủ mạnh để làm rung động toàn thân, nhất là các múi thịt trên mặt phải rung động là tốt nhất và thiền tánh không Tara để vào cận định , rồi mới bước vào hành các nghi quỹ trì chú.Khi đó quý vị sẽ có cảm nhận thân thể đang nóng dần lên, dọc xương sống nóng ấm, và trán tê tê , trên đỉnh đầu tóc xoay xoay nhột nhạt nhưng sảng khoái không hề thấy khó chịu, và mọi tạp niệm đều tan biến.
Tôi đã được quán đảnh thiên thủ thiên nhản và quán âm tứ thủ từ Đức Pháp vương Drukpa XII, nhưng bi giờ chỉ chọn Trì thiên thủ thiên nhản , niệm danh hiệu Quán âm tứ thủ, niệm ba la mật OM Ami Dewa Hrih, và trì chú đại bi là đủ một bộ liên hoa.
Bookmarks