chào bangtown
nhửng cảm xúc ..nhửng ý nghỉ ...tất cả đều DỰA TRÊN THÂN mà có ....nếu bạn chịu khó suy tư ....bạn sẻ NHÌN NHẬN ra vấn đề nằm ở đâu ....bởi vì chỉ có bạn là người TỰ HIỂU RỎ bản thân bạn nhiều nhất ...
thân
Printable View
xin cho mucdong mượn lời của Huynh bangtown để nói .
Đệ tử tục gia có cái thọ pháp của người tục gia ,khi hỏi không đánh mất cái oai nghi (nghi biểu ) khi thọ pháp ( ngồi biểu nghi đầu tiên)
củng là nói lên cái Trang nghiêm của Phật .
Hỏi và sát hạch biểu lộ cái chi chi ???
chỉ ỷ vào cái Sở Duyên để Sát hạch > tính Ngả ??
ở đời (thói thường /thường tình ) lấy Ái thủ làm trọng mới có cái gọi :
Nhân Đạo và Vô Nhân Đạo .
vì Tổn (hại) với Ích ( lơi ) chỉ nghỉ tới mình không phải cho người !!!
( tạm gọi là chánh ý )
ở nơi Phật Môn có cái học mới thu hẹp có cái gọi phạm vi .
ở phạm vi có cái gọi là Tâm Sở với Tâm Vương .
ở nơi Tâm Sở có nhửng Kiết Sử học từ tư đến Tâm Vương .
các huynh tỉ tùy theo sở học mà tìm kiến các web của Phật giáo để cầu học.
chúc các Huynh tỉ tịnh tấn trong tu tập.
:53::53:
delete this is repost
Mình không tu gắt gao theo Phật, mình chỉ tìm hiểu đạo Phật để tìm con đường tu tập khắc phục những cảm xúc tiêu cực yếu kém bản thân thôi. Có thể bạn nghĩ mình là một hành giả tu Phật, nên những câu hỏi của mình không đúng triết lý của Phật, gây hiểu lầm đang làm khó và gài gộc bạn. Nhưng mình hy vọng bạn sẽ tiếp tục giải đáp các câu hỏi tiếp theo sau này của mình.
Thanks
[QUOTE=bangtown;1585225]Mình không tu gắt gao theo Phật, mình chỉ tìm hiểu đạo Phật để tìm con đường tu tập khắc phục những cảm xúc tiêu cực yếu kém bản thân thôi. Có thể bạn nghĩ mình là một hành giả tu Phật, nên những câu hỏi của mình không đúng triết lý của Phật, gây hiểu lầm đang làm khó và gài gộc bạn. Nhưng mình hy vọng bạn sẽ tiếp tục giải đáp các câu hỏi tiếp theo sau này của mình.
Thanks[/QUO
thân chào bangtown
........trò sẳn sàng làm bạn với bangtown ..và sẻ cùng bạn trải dài tâm sự .....hy vọng bạn TÂM SỰ với trò như 1 người bạn rất thân ...
.nếu bạn không ngại có thể gọi cho trò 0902847448......hay online fb nick nhandukhach
thân
Bạn tự quan sát bản thân, thấy cái gì của mình yếu kém, hỏng, hay đáng bỏ, tác ý ném nó đi. Cái gì tốt thì tác ý làm sung mãn nó lên. Cơ bản là thế. Nếu cần cụ thể thì bạn cần nêu rõ vấn đề của bạn thì mọi người trên diễn đàn mới chia sẻ phương pháp của họ cho bạn được. Nhưng tôi suy đoán, có lẽ bạn đang mắc phải vấn đề chối bỏ bản thân. Nó có thể hình thành từ các nguyên nhân :
- Mắc lỗi, tự trách : Phải tác ý đuổi thằng này đi.
- Nhàm chán, tâm bị lửng lơ : Phải tập tỉnh táo, chú tâm. Làm việc gì cũng chú tâm, để ý, cẩn thận, tác ý liên tục.
- Cải thiện bản thân : Chọn 1 thói quen xấu của mình , tác ý cho được từ bỏ nó đi. Ở đây, bạn có thể nghĩ ra các thứ " tưởng " để phụ trợ thoải mái, miễn sao quăng bỏ được nó.
- Tu tâm : Chuẩn bị sẵn các " tưởng" các hình ảnh hay bài ca hay thơ, hay gì đó cũng được, mà khi liên hệ với nó Tâm bạn được biến chuyển. Ví dụ : Nếu thấy tâm bị co cụm, thì lập tức tác ý đến tưởng kia, làm cho nó mở rộng ra. Nếu thấy tâm bị mở quá, phấn chấn quá mức, hướng ngoại quá đà, lập tức tác ý cho nó cụm lại trở về nội hàm sâu lắng. vv...
- Chuẩn bị 1 cái thước chuẩn , cái thước này phân định được thiện và bất thiện .
Nhiều và rất nhiều, đó là 1 nỗ lực để rõ biết, nỗ lực để thắng trí. Luôn rõ biết và Ý thức trong mọi chuyện, tôi nhấn mạnh 2 chữ Ý Thức , phải có ý thức. Cái này quan trọng lắm, sau này bạn có Thần thông thì chắc bạn cũng muốn thực hiện nó 1 cách có ý thức phải ko nào? chứ không phải ợ ợ ngáp ngáp nhảy nhảy mê mê tỉnh tỉnh phải ko nào? Nói vui hiểu nhiều .
Vấn đề này thì noname chỉ nghĩ đơn giản rằng: nếu mỗi người không dùng trí tuệ mà quán xét, tu pháp tưởng Phật pháp mà thật ra không phải thì chẳng phải phí uổng 1 đời tu hành sao? Và cuối cùng xin đạo hữu lưu ý cho rằng giáo pháp của Phật có thể mất, nhưng pháp của Phật thì trường tồn đạo hữu nhé! Thân chào!
Thân chào các vị đạo hữu. Hôn nay noname xin phép được cùng các đạo hữu chúng ta tiếp tục luận bàn về các pháp.
Vâng! Như tất cả chúng ta đều đã biết lịch sử đã ghi nhận rằng khi con người chỉ dùng niềm tin mù quáng mà không sử dụng cái đầu của mình thì kết quả rất có thể là tội ác to lớn, is là 1 ví dụ cho hiện tại và thập tự chinh là 1 ví dụ cho quá khứ. Đó là chưa kể đến những cá nhân kiệt suất trong lịch sử đã từng bị giam cầm, thiêu sống chỉ bởi những kẻ mê muội vì tôn giáo. Vậy nên noname thiết nghĩ việc nhìn nhận tôn giáo 1 cách khoa học và hệ thống là rất cần thiết. Và tất nhiên rằng khoa học và hệ thống mà noname nói tới là khoa học và hệ thống của đạo Phật. Tức đứng trên nền tảng đạo phật mà nhìn nhận vạn pháp.
Vâng! vấn đề vạn pháp noname xin phép được luận bàn như sau:
Như tất cả chúng ta đều đã biết do thức hoạt động nên tứ đại hoạt động. Lại vì tưởng là cái liên kết tứ đại nên tứ đại hoạt động thì tưởng hoạt động theo, khi tưởng hoạt động sẽ tác động ngược lên thức, theo hướng níu giữ tứ đại không cho vận động theo thức, nếu tưởng đủ mạnh thì chính vì tính chất hoạt động này của tưởng sẽ làm cho thức yếu đi hoặc thức chìm xuống, nhờ vậy mà tứ đại yên. Đây chính là trạng thái mà các pháp thiền không thuộc nhà phật gọi là định. Nhưng họ đâu ngờ đây chỉ là định tưởng mà thôi, định này có do tưởng hoàn toàn bao chùm thức, khiến thức không khởi lên được nữa, đây là chỗ gọi là nhất tâm, chỗ nhất tâm là chỗ cái biết bị giam cầm hay chính là trí tuệ bị giam cầm tù hãm.
Noname xin giải thích thêm, khi người tu theo tưởng ví dụ như ngồi thiền ngoại đạo hay tụng kinh, niệm phật....vv sẽ làm tưởng mạnh lên, khi tưởng mạnh lên, tưởng sẽ bao chùm thức làm thức không khởi lên được nữa, thức không khởi lên được khiến vọng niệm không khởi lên được gọi là định hay nhất tâm, trong trạng thái này cái biết hoàn toàn là tưởng biết gọi là tưởng tri, vì trí tuệ đã bị cầm hãm. Khi tưởng chưa làm chủ được thức lâu, tức là khi tưởng còn yếu thì năng lực của tưởng cũng còn yếu nên lúc này tưởng chỉ có thể biến hiện ra những hình ảnh rời rạc, đặc biệt trong giai đoạn này tưởng thường biến hiện ra ánh sáng, âm thanh, mùi hương. Chỉ bấy nhiêu cũng đủ khiến những kẻ sơ cơ, tin tưởng tuyệt đối cho là đã có ấn chứng này nọ, kỳ thực đây chỉ là năng lực rất nhỏ bé của tưởng. Khi tưởng mạnh hơn và kiên cố hơn, thì tưởng sẽ khống chế được thức trong thời gian dài hơn, lúc này năng lực của tưởng mạnh hơn và bắt đầu biến hiện ra các cảnh giới phù hợp với tín ngưỡng niềm tin của người ấy, ví dụ người tu theo thiên chúa thì thấy cảnh trời đẹp tuyệt vời, người theo mật tông thì gặp Phật này Phật nọ dạy dỗ nọ kia, còn người tu theo tịnh độ thì tưởng sẽ biến hiện ra cõi tây phương cực lạc vô cùng rộng lớn, có ông adida cũng rất to lớn, rồi thấy cả ao sen và người tu khác, thậm trí còn nói chuyện được, và người tu có hỏi gì thì họ cũng trả lời được hết và không sai khác với kinh, từng lời họ nói nghe thấm gan thấm ruột..vv Vậy nên mới có nhiều người chắc mẩn là có cõi này cõi kia thật, có cõi chúa, cõi trời, có cõi thánh, cõi adida...vv thật vì chính tôi được nghe, chính mắt tôi thấy, chính chư vị phật, thánh, chúa trời...vv đã dạy tôi như thế thực ra họ đâu ngờ tất cả chỉ đơn giản là năng lực của tưởng. Thế nên mới có những pháp môn như đạo thiên chúa, đạo hồi, mật tông, tịnh độ tông... Vv vì chính những người sáng tạo ra pháp môn này đều tin tưởng tuyệt đối vì chính tôi nghe, chính tôi thấy, chính tôi được dạy từ chúa, từ thánh, từ Phật.... Vv, rồi lại biên ra, chép ra, ghi ra thành thứ gọi là kinh ví dụ như kinh thánh, kinh koran, kinh đại thừa...vv, rồi trong kinh ấy tùy theo niềm tin của mỗi người sẽ nói đức chúa trời đã mặc khải như thế chính tôi được nghe, rồi những người tin tưởng vào phật thì biên chính tôi được nghe Phật thuyết như vầy...vv, rồi lại đi khuyến khích người khác hãy tin mà hành theo, bởi chính bản thân họ cũng đâu ngờ rằng tất cả đều là giả dối, đã làm lạc bước bao người tu. Làm cho Phật pháp bị sai lạc hoàn toàn. Vậy nên chúng ta cần hiểu vị Phật mà đại thừa nói đến là Phật tưởng chứ nào có phải Phật thích ca thật, chúng ta cần khẳng định rằng Phật mà họ nói tới trong kinh đại thừa là Phật thích ca mâu ni tưởng do họ tự vẽ ra, hay vị Phật của họ là vị Phật = niềm tin + sự tưởng tượng nên không thật vì như chúng ta đều đã biết theo chánh Phật pháp thì linh hồn, hay cái trường tồn, hay cái tâm bất hoại, hay cái ngã, hay thần thức...vv không có, hay nói linh hồn, hay cái trường tồn, hay cái tâm bất hoại, hay cái ngã, hay thần thức...vv không tồn tại sau khi mỗi chúng sinh chết, vậy nên những vị phật này chỉ tồn tại trong đầu họ mà thôi, và tất nhiên, còn tồn tại trong niềm tin của những kẻ mù quáng u mê, và chúng ta cần hiểu rõ Phật trong các pháp đại thừa và Phật thích ca mâu ni là hoàn toàn khác nhau. Và kinh điển đại thừa không phải do đức Phật thích ca mâu ni thuyết mà là do phật tưởng thuyết và do những người tu tưởng tri ghi chép lại gọi là kinh đại thừa.
Nên có thơ rằng:
Những ai với các pháp,
Không liễu tri thấu suốt,
Bị hướng dẫn lầm lạc,
Vòng quanh các dị giáo.
Họ mê ngủ triền miên,
Họ không có tỉnh giác,
Nay thật đã đến thời,
Họ cần phải thức tỉnh
"trích: Tương ưng bộ kinh"
Trước khi tu khổ hạnh, Đức Bồ Tát đã theo học đạo với hai vị tiên nhân, và không bao lâu Ngài đều thông thạo mọi điều mà hai vị Thầy này dạy. Đó là các tầng thiền vô sắc, bắt đầu từ không vô biên xứ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng cuối cùng, Ngài nhận thấy rằng: các tầng thiền định này như lấy đá đè cỏ. Cỏ có thể khô héo dưới sức nặng tảng đá, nhưng chỉ một cơn mưa ái dục gieo xuống, thì cỏ héo sẽ xanh tốt trở lại (gốc vô minh vẫn còn), nên Ngài tiếp tục đi tìm đạo.
Bậc thiền vô sắc này bắt đầu với không vô biên xứ. Người ta sẽ ngồi xuống ức chế niệm khởi, không cho niệm khởi, niệm nào khởi đều được cho là “vọng niệm”, phải ức chế để ngưng bặt nó lại dù nó thiện hay ác, và thường phương pháp để ngưng niệm được nhiều Tổ Trung Quốc dạy là Tham thoại đầu, thiền công án, sổ tức, chỉ tức, chăn trâu v.v... chính vì vậy được gọi là trạng thái không biết phân biệt thiện ác. Ở trạng thái này, người ta sẽ thấy bản thân nhẹ nhàng như một làn hơi thở, thân thể biến mất hòa cùng hư không vô biên vô tận, lâng lâng. Nếu nhập sâu vào trạng thái này thì ý thức bị yếu ớt, lúc đó THỨC TƯỞNG nơi các căn bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ. Chú ý rằng chỉ là thức tưởng chứ không có câu hữu với ý thức, vị ấy bị rơi vào trạng thái định vô sắc cao hơn là Thức vô biên xứ, tức là trạng thái thức thông hết 18 xứ (xúc xứ, căn xứ, trần xứ) mạnh hay yếu tuỳ vào người đó nhập sâu hay cạn. Do đó vị này có thể xuất hiện thần thông hay gọi là ngũ thông (tưởng lực). Tuy nhiên do ý thức quá yếu, người này không làm chủ được các thông này, ví dụ: xuất định sẽ không nhớ nhiều, hoặc không điều khiển được cái muốn thấy, hoặc không hiểu nhiều về cái mình thấy gì, nghe gì, ngửi gì, v.v.. vì sao ? Vì ý thức quá yếu. Đến đây là chúng ta thấy nguy hiểm rồi đấy , chúng ta không thể nào chấp nhận ý thức mình dần bị diệt, không làm chủ được cái gì hết, rất dễ bị ám ảnh với trạng thái ấy, lại khó thoát ra, huống hồ nhập sâu hơn nữa vào hai định còn lại, không thoát ra được dễ bị điên sống trong thế giới tưởng của mình. Thế giới của bốn định này là thế giới vô sắc, xuất định rồi tham, sân, si còn y nguyên bởi vì nó không dính dáng gì tới đạo diệt khổ do đó ĐỨC PHẬT mới từ bỏ với hai vị tiên nhân đầu tiên. Mình tạm ngưng với hai định còn lại là VÔ SỞ HỮU XỨ, PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ.
Sau khi từ bỏ, Đức Bồ Tát mất thêm 6 năm tu khổ hạnh. Và cuối cùng, Ngài tự mình quán chiếu sâu vào trong tâm mình, vận dụng toàn bộ những điều mình đã trải nghiệm từ khi bé được theo vua cha dự lễ hạ điền, cho đến những năm tháng học thiền và tu khổ hạnh. Cuối cùng, Ngài nhập vào Sơ Thiền. Thực ra nó chỉ là trạng thái mà một bậc Thánh nhân trải qua khi tu tập Bát Chánh Đạo, khi tu tập đúng rất tự nhiên họ thể nhập đời sống cực kỳ hạnh phúc dù lúc nào cũng biết rõ tỉnh giác “có thân đây”, chứ không cần lờ đi hay phủ nhận cái thân, cũng không cần ức chế cái gì. Ngay cái ngõ vào Sơ Thiền đã cần phải phân biệt rõ cái gì ác - cái gì thiện (trạch pháp), cái Không của sơ thiền là không niệm ác (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) chứ không phải cái rỗng không như bên Không vô biên xứ. Ác nào đã sanh thì tinh tấn cho diệt, ác nào chưa sanh thì ngăn chặn, thiện chưa sanh thì tinh tấn cho sanh, thiện đã sanh thì cho tăng trưởng, tất cả đều tự nguyện hoan hỷ bằng trí tuệ quán chiếu, như một người có bàn tay đang cầm nấm bùn đất, khi hiểu biết nó dơ bẩn thì buông bỏ (GIỚI), buông bỏ rồi bàn tay sẽ sạch sẽ ví như trạng thái ĐỊNH của bậc thánh rất tự nhiên, có cơ hội cầm những thứ khác tốt đẹp hơn (TUỆ). Không như 4 định vô sắc cao nhất là phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì bên thiền của đức Phật (Thiền hữu sắc) sau khi nhập Tứ thiền xong là hướng đến Tam minh, trong đó có Lậu Tận Minh, dấu chấm hết cho vô minh - nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Định chỉ là tư cụ hành trang, tâm giải thoát bất động mới là mục đích sau cùng của Phạm hạnh.
Chào bạn smc,
Mình hiểu và trân trọng thiện tâm chia sẻ những tâm tư gan ruột của bạn và nonamepas với mọi người .
Mình chỉ lưu ý bạn trước hết về những đoạn mình đánh dấu bôi đỏ ở trong trích dẫn của bạn, theo mình bạn nên suy nghĩ thêm một hay nhiều lần nữa về đường lối của các tổ, và trải nghiệm thực sự và đủ chín về những việc này. Thiền có ngữ lục để đối chiếu mức độ thâm nhập của bạn đến đâu. Còn đoạn chữ xanh mình thấy cũng ở trong đường lối của thiền.
Dù sao mình thấy điều trước mắt là chúng ta tự an tâm được đến mức nào. Sau đó, về tầm nhìn xa, chúng ta học hỏi và tinh tấn hơn để biết đâu lại thấy những chân trời khác tốt hơn nữa. Đến lúc thấy được chân trời khác tốt hơn thì chúng ta đủ động lực thay đổi những gì chúng ta đang thực hiện gần gần rồi. Mình hiểu là các bạn muốn tâm sự với nhiều người chân trời mà bạn nghĩ nhiều người không thấy được như các bạn. Đây là ý tốt.
Bác Richard 7x thế mà xưng hô khiêm tốn vậy, những comment của bác là đúng rồi. không nên bàn sâu về cảnh giới hay lý thuyết thiền định.
Hiện nay, em thấy có nổi lên 1 vị alahan " Thích Thông Lạc", nghe qua em cũng nhàm vì không biết đã có bao nhiêu " Alahan online" kiểu này. Tuy nhiên, sau khi phân tích chú ý và tìm hiểu kỹ cộng với quan sát tất cả từ hành vi, lịch sử, giới luật và tìm hiểu sâu những lời Thầy Thích Thông Lạc đã giảng bày, em thấy là Chuẩn. Em thấy tiếc, nếu biết sớm hơn, có lẽ em đã gặp được Thầy lúc còn sống.
Cái Chuẩn lớn nhất và cơ bản mà với trí của mình em biết đó là : Những đường lối và tư duy rất rõ ràng, có ý thức, không có mù mờ, viễn vông. Cả anh và em những người đã ngoài 30 rồi, chúng ta cũng chẳng thấy có cái gì Có, chắc thực mà lại không có cái Ý thức của mình trong đó cả.
Đây có lẽ cũng là thắc mắc của 1 số bạn : tại sao trong kinh điễn Khi thi nói Ý làm chủ, Ý tạo tác, dẫn đầu các Pháp, khi lại nghe Tâm.
" Ý thức mạnh, làm chủ, không có mù mờ " là khởi đầu của mọi giáo lý. Có điều là giữa Ý thức và tư tưởng cảm xúc ( thường là tạo nên từ Tưởng thức) lại rất khó phân định và chưa kể lực của Tưởng thức thường được tạo nên từ những yếu tố từ lịch sử tập quán rất mạnh khiến tâm trí ta lung lay và rơi vào cái gọi là " Vô minh "
Thầy Thông Lạc không như thầy Minh Đăng Quang, nói thẳng và đôi khi " đụng chạm ", là điểm yếu hay mạnh tùy có người có thể gọi là điểm mạnh, ở đây tùy duyên do các Thầy có "phương tiện" và nhìn nhận thích ứng khác nhau, tuy nhiên với những ai hiểu thì cũng chỉ là cùng nói về 1 điều, 1 thứ ấy, 1 đường lối ấy. Thầy nói " CÓ " , thầy nói " Không" nhưng tới lúc nào đó bạn hiểu " Có " " Không " với ý nghĩa truyền đạt của nó thì cũng như nhau vậy.
" Dù sao mình thấy điều trước mắt là chúng ta tự an tâm được đến mức nào" em chỉ muốn thay lại thành như này " Dù sao mình thấy điều trước mắt là chúng ta đối với mọi việc nên luôn giữ Ý thức làm chủ, không có mù mờ, Ý thức đi đầu các Pháp và Ý thức sẽ đi trước Niềm Tin" hihi
Giờ có thầy Thích Từ Thông thuyết pháp cũng hay, chỉ thẳng, nói thẳng với chương trình: "Hướng dẫn tu học từ xa"
Kính hiền hữu @Richardhieu05:
SMC luôn tác ý đến lời nhắn của hiền hữu. Và SMC muốn tham khảo thêm rằng: như hiền hữu nói, "tâm giải thoát bất động" cũng ở trong đường lối của Thiền, không biết hiền hữu có thể chia sẻ thêm được không? Tâm này được tập khởi từ đâu ạ?
Có lẽ, mỗi người có một "bầu trời" cho mình tu tập, và trạng thái thiền định mỗi người mỗi kiểu. SMC không tu học theo Thiền Tông Đông Độ Trung Quốc nên không biết trong Thiền Tông Đông Độ, SMC nằm ở đâu. SMC căn cứ vào Chánh Tạng Pali và trao đổi theo cái hiểu của mình. Chỉ là góp một phần nhỏ vào những "chân trời mới" để hành giả có cái học và so sánh cũng như trải nghiệm thực tế hơn.
Căn cứ vào Kinh Sa Môn Quả, ít nhất hành giả muốn đặt chân vào dòng Thánh giải thoát, ở mức Sơ Thiền (Tu Đà Hoàn), thì phải là: ly dục, ly bất thiện pháp. Mà để ly dục - ly bất thiện pháp như thế này, thì cần có sự tham gia của Ý Thức.
"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo ấy được gọi là: "Một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma". Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là.... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma.
* Điểm giống và khác nhau giữa Thiền mà đức Phật khám phá ra, với Thiền của các vị Lục Sư:
Thiền ngoại đạo, lấy 1 đề mục (thường thì hơi thở, câu niệm) theo dõi hơi thở, sau đó, bám sát, dính chặt vào hơi thở một cách liên tục, không gián đoạn, không vọng tưởng. Khi ấy các trạng thái Định tưởng do tác ý đến Tướng (hơi thở) khởi sanh.
Thiền ngoại đạo không có ly dục ly ác pháp, không đoạn trừ triền cái, lấy tham, sân, trạo cử, hôn trầm, nghi làm đề mục để nhập định...
Tầng thiền đầu tiên của ngoại đạo đã có Định do Tưởng sanh, còn thiền của đức Phật thành tựu thì Định chỉ xuất hiện ở Nhị thiền, Sơ thiền chỉ là hỷ lạc do ly dục sanh...
"Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán thán?
Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi sân hận đã được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần hôn trầm thụy miên, bị hôn trầm thụy miên chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi hôn trầm thụy miên đã được khởi lên. Vị ấy lấy hôn trầm thụy miên làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần trạo hối, bị trạo hối chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi trạo hối đã được khởi lên. Vị ấy lấy trạo hối làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Vị ấy sống với tâm thấm nhuần nghi hoặc, bị nghi hoặc chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi nghi hoặc đã được khởi lên. Vị ấy lấy nghi hoặc làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập. Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền định như vậy.
Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy tán thán? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, loại Thiền như vậy, Thế Tôn ấy tán thán." (Trích Trung Bộ Kinh - 108. Kinh Gopaka Moggallàna)
=> Trong Đạo Đế diệt khổ tám ngành thì Chánh Niệm <-- chính là đời sống tỉnh giác quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp để chế phục tham ưu thanh lọc tâm ô nhiễm (tham sân si) <-- do Chánh Niệm nên trạng thái Chánh Định sanh khởi <-- Chánh Định này có 4 trạng thái như sau:
Trạng thái Thiền thứ nhất Sơ Chánh Định (ngọn - sơ định)
Trạng thái Thiền thứ hai Trú chánh định (cành - trú định)
Trạng thái Thiền thứ ba Cận chánh định (vỏ - cận định)
Trạng thái Thiền thứ tư Chánh Chánh Định (lõi - chánh định)
Còn ngược lại Chánh Định, tức là Tà Định. Định này như lấy đá đè cỏ, ức chế ý thức làm cho ý thức yếu dần, tưởng thức trở nên mạnh mẽ. Hành giả sống trong Định tưởng này khi ở trong định ấy thì ta an ổn, vắng lặng, trong sáng, vô nhiễm, nhưng khi rời nó, trong ta, vẫn ray rứt những câu hỏi, những nhức đau về lẽ tử sinh, về sự giới hạn của đời người. Trong ta, xung quanh ta, vạn hữu vẫn tồn tại sự bất toàn, đổ vỡ, trống không... chẳng có cách gì vượt qua, giải thoát chúng được.
- Lành thay, hiền hữu. Ý SMC cũng tương tự như thế.
- Những bài giảng của Thầy đại loại là "chỉ thẳng tâm người", khế lý chứ không khế cơ! SMC trước kia cũng nhờ duyên vô tình nghe được một bài giảng của Thầy (chủ đề "Vớt vong") mà SMC mới nhận ra được nhiều điều trước nay mình học cần phải xem xét lại. Có thể nói, Ngài là một cây cao bóng cả. Những bài pháp của Ngài rất có giá trị để tư duy, để thiền quán. (tất nhiên sẽ khó nghe với một số người đã ăn sâu cái tri kiến của mình, và dễ gây nhàm chán với thanh âm của Ngài vì Ngài đã gần 90).
Kính tưởng Đức Thế Tôn Gotama.
Chào bạn SMC,
Mình trả lời bạn theo những gì mình hiểu cho đến nay. Mình trả lời bạn từ chính nhận thức của mình đến nay chứ không vin dựa vào những lời dạy được gọi là truyền lại từ Phật Thích ca, các vị tiền bối, hay nguồn thẩm quyền danh chính ngôn thuận nào nhé dù mình đã, đang và sẽ học hỏi không ngừng từ mọi nguồn. Tức là mình đối diện chính bản thân mình với bạn bằng những gì mình đang là lúc này:
1.
“SMC luôn tác ý đến lời nhắn của hiền hữu. Và SMC muốn tham khảo thêm rằng: như hiền hữu nói, "tâm giải thoát bất động" cũng ở trong đường lối của Thiền, không biết hiền hữu có thể chia sẻ thêm được không? Tâm này được tập khởi từ đâu ạ? “
Tâm vốn vô trụ không có chỗ để dựa vào nên câu hỏi tâm khởi từ đâu sẽ không có câu trả lời, đừng nhọc lòng tìm kiếm để lại rơi vào chấp tướng. Bạn thấy tâm giải thoát bất động của bạn chưa?
2.
“Có lẽ, mỗi người có một "bầu trời" cho mình tu tập, và trạng thái thiền định mỗi người mỗi kiểu. SMC không tu học theo Thiền Tông Đông Độ Trung Quốc nên không biết trong Thiền Tông Đông Độ, SMC nằm ở đâu. SMC căn cứ vào Chánh Tạng Pali và trao đổi theo cái hiểu của mình. Chỉ là góp một phần nhỏ vào những "chân trời mới" để hành giả có cái học và so sánh cũng như trải nghiệm thực tế hơn.”
Đồng ý với bạn là mỗi chúng ta đang có một bầu trời không giống ai dù ít hay nhiều. Chúng ta cứ chia sẻ để đóng góp cho người khác và qua đó lại tự soi sáng mình hơn.
3.
“Căn cứ vào Kinh Sa Môn Quả, ít nhất hành giả muốn đặt chân vào dòng Thánh giải thoát, ở mức Sơ Thiền (Tu Đà Hoàn), thì phải là: ly dục, ly bất thiện pháp. Mà để ly dục - ly bất thiện pháp như thế này, thì cần có sự tham gia của [B]Ý Thức
…… đến đoạn
Trạng thái Thiền thứ nhất Sơ Chánh Định (ngọn - sơ định)
Trạng thái Thiền thứ hai Trú chánh định (cành - trú định)
Trạng thái Thiền thứ ba Cận chánh định (vỏ - cận định)
Trạng thái Thiền thứ tư Chánh Chánh Định (lõi - chánh định)”
Bạn dựa vào Kinh Sa Môn Qủa hoặc các bản kinh theo dòng phái bạn đang theo (dĩ nhiên bạn tin đó là những lời dạy gốc của Đức Phật) để chia sẻ. Mình tâm sự với bạn nhé, mình không quan tâm đến bậc thiền thứ mấy thứ mấy. Mình quan tâm đến Tâm bất động giải thoát, với mình lúc này thế là được rồi. Một cách gián tiếp, được như vậy sẽ có những điều tốt lành khác.
4.
Bầu trời của mình có thể nói ra một phần là thế đấy. Bây giờ mình lúc nào cũng thấy một cảm giác rất yên tâm, dù cuộc sống luôn có nhiều điều bất ngờ. Trung thực với chính mình, bạn hiện giờ có được yên tâm vững dạ không?
Thân!
"Tâm vốn vô trụ không có chỗ để dựa vào nên câu hỏi tâm khởi từ đâu sẽ không có câu trả lời, đừng nhọc lòng tìm kiếm để lại rơi vào chấp tướng. Bạn thấy tâm giải thoát bất động của bạn chưa? "
trời ơi anh hiếu, tâm anh mà vô trụ thì bất động giải thoát như Alahan rồi anh ơi. Tâm của chúng sanh vốn là trụ anh ạ, yếu ớt, vô tri, đòi ăn và sợ đủ thứ, bị tác động bởi đủ thứ. Cái câu " Tâm vốn là..." là tri kiến tưởng giải hết anh ạ, đối với anh nó là tưởng giải, ai là tác giả của câu nói ấy ông ta cũng chỉ tưởng giải, cái này rõ quá rồi dù là có ông nào bảo Phật nói vậy, rằng là Phật truyền mật hàm với...abc.....em chả tin anh ạ, mà em tin hay ko thực ra cũng chẳng quan trọng, mà nếu giả sử ông Phật ông có ý truyền "mật ý phương tiện" cho ai thì nó cũng chẳng phải cho mình nên là từ mọi góc độ suy nghĩ vậy chẳng có lợi và thực tế gì cho mình. Nếu 1 sự việc "nó vốn là" thì nay cần gì tu tập, cần gì pháp môn đúng ko anh.
" Sự nguy hiểm " của Ý thức cũng cần phải biết, nó có thể sẽ đưa đến tham trong thức
Hi Spirit82,
Anh trao đổi với em thế này nhé.
1.
Anh chỉ coi Alahan, Phật, bậc giác ngộ,… là tên gọi, không có mong muốn và nghĩ trở thành một danh xưng nào như vậy. Mà những danh xưng như vậy cứ nên cho là sử dụng cho những ai danh chính ngôn thuận đứng vào hàng hệ thống tổ chức chính thống của cửa Chùa đi.
2.
Tâm bất động thì thế nào … thì cứ như thế, quan trọng là ở đâu như vậy
3.
“Nếu 1 sự việc “nó vốn là” thì nay cần gì tu tập, cần gì pháp môn”
Với anh không phải vậy, lý do: bởi vì có nhiều điều không ổn trong cuộc sống, có nhiều điều sai sai nên chúng ta phải tìm ra những điều gì ổn, đúng, đem lại sự yên tâm và trở về con đường đúng. Cái “vốn là” cũng vốn là những cái đó. Đó là tu tập thôi.
4.
Những gì được viết ra đây đều là kiến giải để chia sẻ, mượn từ ngữ đã có để kiến giải chia sẻ, không nói chính xác đầy đủ cho mọi người được ý mình. Cuối cùng vẫn là ở đâu mưa đến đâu mát mặt ở đó, cảm nhận từng chút một gần cận thôi, cũng không nên xác định dựa dẫm vào thẩm quyền bên ngoài nào mãi.
5.
Cho anh hỏi em một điều nhé. Bây giờ em còn uống bia hay rượu không?
" Chỉ cần ánh mắt chàng dừng lại ", câu hát hàm ẩn sự gợi ý chỉ cần bình yên, trí tuệ sẽ sáng rõ và người ta sẽ nhìn thấy được sự thật.
Cái bình an, bất động trong cuộc sống khó khăn cạm bẫy nguy hiểm này, trong mỗi chúng ta, nếu muốn, đều có thể tác ý được nó. Nhưng thật ra nó chỉ như kẻ làm công, trốn ra ngoài 5p, hút điếu thuốc và thưởng thức sự bình yên hay như 1 người lao động, nghỉ ngơi đúng duyên thời, có được 1 chút bình yên an ổn hoặc nếu tốt hơn người đó có thể đạt được sự "bất động, khing an" trong thoáng chốc để rồi sau đó ....mọi thứ....vỡ nát.....tan chìm.....Nó không thể so sánh với sự "bất động an yên" của Alahan được, bởi vì sự an yên của họ không còn bị phá vỡ, không còn thể "tan chìm" hay biến động trong tương lai. Giống như là sự an yên của bậc Đại Vương sau khi đã chinh phục chiến thắng tất cả, sau cùng "bất động an yên" được.
Nếu cái " an yên, bất động và vô trụ" vốn là "ta", thì có lẽ "Ta" đã chẳng tái sinh, trôi lăn trong biển khổ mãi chưa dứt.
Phải làm sao? Chẳng có cách nào khác là "đối mặt", thông hiểu và sử dụng năng lực Ý thức để đạt được. Chúng ta cứ nghĩ mà xem, có bao giờ chúng ta "thành tựu" được 1 pháp gì như là chăm chỉ, sợ hãi về điều gì, vượt qua chính mình, hay đơn giản là thành tựu trong công việc mà lại không có "Ý thức"
Cho nên là một pháp môn nào mà cứ hướng đến vô tưởng vô niệm...thực ra chỉ đang "né tránh" vấn đề, né tránh thì mãi vấn đề luôn ở đó. Nên có câu " xả thiền, tham sân si lại như ban đầu". Chẳng có "thần lực" hay"trí tuệ" nào mà cứ ...cứ...."tự nhiên".....rồi sẽ đến. Mọi cái đều phải "xây dựng" trên những "khó nhọc" thường xuyên và phải tác ý chứ không phải là không tác ý thực hiện mà có được.
Và sau cùng, sau khi đã tỏ, chúng ta phải tự hỏi : liệu có Muốn bất động ko ? Sợ là chả ai còn muốn, khi mà "Phật" được vén lên bức màn huyền bí, trở nên rõ ràng không có mù mờ, thì nào, ai tiến lên? Đã chẳng có từ Muốn thì đi chẳng bao giờ được, chẳng bao giờ đến.
Em vừa viết xong bài trên post thì mới đọc được bài anh. Hi.
Chuẩn luôn anh ạ, em dạo này đi xuống, công việc bận rộn, cuộc sống thật là mệt mỏi, chỉ tìm nghỉ ngơi lúc tối về bên lẩu lá và rượu ngâm.
“Nếu 1 sự việc “nó vốn là” thì nay cần gì tu tập, cần gì pháp môn”
Với anh không phải vậy, lý do: bởi vì có nhiều điều không ổn trong cuộc sống, có nhiều điều sai sai nên chúng ta phải tìm ra những điều gì ổn, đúng, đem lại sự yên tâm và trở về con đường đúng. Cái “vốn là” cũng vốn là những cái đó. Đó là tu tập thôi.
Anh nói em mới tỏ, thật là em còn ngu lắm.