Giai thoại thánh Tản Viên
Giai thoại thánh Tản Viên
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" (ngoại kỉ, từ tờ 4a đến tờ 5a) chép rằng:
?Cuối thời Hùng Vương, nhà vua có người con gái gọi là Mỵ Nương, nhan sắc rất xinh đẹp. Vua nước Thục nghe tiếng, bèn đến cầu hôn. Nhà vua đã muốn gả, nhưng Hùng Hầu can rằng:
- Chẳng qua họ muốn chiếm nước ta nên mượn việc cầu hôn để tạo ra cái cớ mà thôi.
Vua nước Thục vì thế mà để bụng oán giận. Nhà vua muốn tìm người xứng đáng để gả, liền nói với các bề tôi rằng:
- Đứa con gái này là giống Tiên, cho nên chỉ ai đủ tài đức ta mới cho làm rể.
Bấy giờ, có hai người từ phía ngoài tiến vào, cùng lạy dưới sân xin cầu hôn. Nhà vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng, một người là Sơn Tinh, một người là Thuỷ Tinh, đều là ở trong cõi của nhà vua cả. Nay, nghe tin nhà vua có thánh nữ, bèn đánh bạo tới xin chờ mệnh của vua. Vua nói:
- Ta chỉ có một người con gái, làm sao lại có thể có đến hai người rể hiền.
Nói rồi, bèn hạ lệnh cho hai người, rằng đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ tới trước thì sẽ gả con cho người ấy. Hai người nghe xong, lạy tạ rồi ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem các thứ châu báu bạc vàng cùng chim rừng thú núi tới dâng. Nhà vua y hẹn, gả con gái cho Sơn Tinh. Sơn Tinh đón vợ về trên đỉnh cao của núi Tản Viên. Thuỷ Tinh cũng đem sính lễ đến, nhưng muộn hơn, giận là đã đến trễ, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập rồi đem các loài thuỷ tộc đuổi theo. Nhà vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chắn ngang khu vực thượng lưu sông Từ Liêm (tức khúc sông Hồng, chảy qua Chèm, ngoại thành Hà Nội) để ngăn lại. Thuỷ Tinh lại theo sông khác, từ vùng Lỵ Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi men sông Hát và tràn ra sông Lớn (tức sông Hồng) mà ngoặt sang sông Đà để đánh lên Tản Viên. Ở đâu (Thuỷ Tinh) cũng đào vực, đào chằm để chứa nước hòng đánh úp Sơn Tinh. Sơn Tinh có phép thần biến hoá, sai người đan tre thành hàng rào chắn nước, lấy cung nỏ bắn xuống, khiến cho các loài thuỷ tộc đều bị trúng tên mà chạy trốn. Rốt cuộc, Thuỷ Tinh không sao xâm phạm được núi Tản Viên. Tục truyền, từ đó Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đời đời thù oán, hàng năm vẫn dâng nước đánh lẫn nhau.
Núi Tản viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm. Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, khiến cho vua của nước Thục cũng tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm cho được nước ta?.
Lời bàn:
Chuyện đầy những chi tiết bất hợp lý và hoang đường, nhưng giá thử ai đó có tài kể ngược lại, bỏ hết những chi tiết bất hợp lý và hoang đường, thì... chuyện sẽ chẳng còn là chuyện nữa.
Bồng bềnh giữa những lời hư ảo chính là cái gì đó phản ánh một cách vừa mơ hồ vừa rất rõ rệt về năng lực trị thuỷ của cổ nhân. Sừng sững giữa thiên nhiên khắc nghiệt, núi Tản Viên là biểu tượng của ý chí hiên ngang trước mọi thuỷ tai.
Chẳng có gì khó khăn khi tìm chỗ đúng sai của cổ tích, nhưng, làm như vậy phỏng có ích gì? Giữa bao la của trời đất, những người dân bé nhỏ vẫn tin là có thánh thần. Thánh thần cao cả mà vô tư, luôn cứu giúp tất cả những người lao động chân chính. Và đối với ngàn xưa, đó quả là một sức mạnh tinh thần hết sức lớn lao. Mà... sức mạnh tinh thần, có khi lại khoác áo cổ tích đầy vẻ hoang đường.
Trước mọi thuỷ tai, xin bạn hãy trông vời về đất Tổ, nơi ấy có Sơn Tinh tức thánh Tản Viên, bạn tin hay không tin cũng vậy, khi thành kính hướng về đất Tổ, nhất định bạn sẽ tự cảm thấy có một nguồn sức mạnh vô hình nào đấy, khiến bạn tự tin và phấn chấn hẳn lên. Cứ đợi thử mà xem!
(Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo Dục)
HELLBOY (st).
Lý Ông Trọng và ngôi đền trong huyền thoại
Lý Ông Trọng và ngôi đền trong huyền thoại
Bên bờ sông Hồng quanh năm lộng gió, sóng nước mênh mang, có một ngôi đền đang cùng với dòng sông đi vào huyền thoại. Đó là đền Chèm.
Đền tọa lạc trên vùng đất thuộc xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, thờ Thành hoàng Thượng Đẳng Thiên Vương Lý Ông Trọng.
Truyền thuyết kể rằng: Ông tên thật là Lý Thân, người làng Chèm. Ông là người có nhân đức cao cả, khôi ngô tráng kiện, tầm vóc cao lớn lạ thường, lại có tài thao lược hơn người. Ông sinh ra vào thời Hùng Duệ Vương (vua Hùng thứ 18), mất vào thời Thục Phán An Dương Vương (257-208 trước công nguyên).
Thời đó Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Quốc, muốn mở rộng bờ cõi xuống phía Nam. Năm 214 trước công nguyên, vua Tần sai tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân rầm rộ tiến đánh nước Âu Lạc (quốc hiệu của nước ta thời đó). Người Âu Việt và Lạc Việt đã đoàn kết chiến đấu và giành được chiến thắng trước quân Tần hùng mạnh. Tướng Đồ Thư bị giết, quân Tần bị thảm bại phải rút lui. Trong cuộc chiến này, Lý Ông Trọng đã lập công xuất sắc, giúp An Dương Vương đánh đuổi được giặc ngoại xâm.
Sau chiến thắng, để kết tình hòa hảo với nước Tần nhằm bảo vệ độc lập lâu dài, An Dương Vương đã cử Lý Ông Trọng sang giúp Tần bảo vệ biên giới phía Bắc. Tần Thủy Hoàng đã thử tài ông về kiến thức văn võ. Kết quả: văn đạt Hiếu liêm, võ xứng Hiệu úy (Tướng chỉ huy). Vua Tần rất mừng, phong cho ông chức Tư lệ hiệu úy, sai dẫn 10 vạn quân ra trấn thủ miền biên cương (thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Ông đã đánh bại được quân Hung Nô (một bộ tộc rất thiện chiến lúc bấy giờ) xâm lược Trung Hoa, bảo vệ vững chắc cương thổ cho đế chế Tần. Khi về già, ông xin trở lại quê hương. Vắng ông, quân Hung Nô lại sang quấy phá. Vua Tần lại phải sai sứ sang Âu Lạc triệu ông. Ông từ chối, nói thác là tuổi già sức yếu, muốn an nghỉ nơi quê hương. Thấy ông không đi, vị sứ giả của vua Tần đành xin ở lại để tránh tội với vua Tần là không thuyết phục được ông và cùng ông phò tá An Dương Vương dựng nghiệp. An Dương Vương sai sứ nói với Tần Thủy Hoàng là ông đã chết nhưng Tần Thủy Hoàng không tin, đòi cho thấy xác ông. Bất đắc dĩ ông đành ẩn lánh nơi núi rừng rồi tử tiết. An Dương Vương đau xót, lấy thủy ngân ngâm xác ông rồi đem nộp cho vua Tần. Tần vương đặt ông thụy hiệu là Lý Ông Trọng, đúc tượng ông cao lớn, oai phong đặt ở cửa Tư Mã, phía bắc kinh đô Hàm Dương. Điều đặc biệt là bụng tượng rỗng, có thể chứa được nhiều người và có máy điều khiển cho tượng cử động. Thấy vậy, quân Hung Nô khiếp sợ, nghĩ ông còn sống, vội vàng rút về nước, không dám gây hấn nữa.
Nhân dân làng Chèm kính trọng đức độ và tài năng của ông, đã suy tôn ông là Thành hoàng Đức Thánh Chèm, tạc tượng vợ chồng ông, thờ chung trong đền làng, gọi là Đức Ông, Đức Bà. Nhà vua truy tặng ông bốn chữ: Thượng Đẳng Thiên Vương.
Khoảng thế kỷ VIII, Triệu Xương, vị quan Đô hộ triều Đường bên Trung Quốc sang nước ta, đã cho lập đền riêng (tức đền Chèm ngày nay), bốn mùa tế lễ. Những năm 864-874, sau khi đánh dẹp quân Nam Chiếu, Cao Biền đã cho sửa sang, tu bổ đền thờ, khắc tượng, gọi là đền Lý Hiệu úy. Qua bao thời đại, ngôi đền đã được tôn tạo, khang trang, to đẹp hơn đến tận ngày nay.
Ngôi đền ngày nay cùng hòa vào dòng lịch sử, văn hóa dân tộc, uy nghi cùng khí thiêng sông núi. Đây là công trình có qui mô bề thế; kiến trúc liên hoàn kiểu nội công ngoại quốc; mỹ thuật điêu khắc lộng lẫy, tinh vi; cấu trúc vững chắc với gần trăm cột gỗ lim vượt sức người ôm, có các ban thờ và cổng tam quan, tọa lạc giữa vườn cổ thụ xanh tươi. Đền Chèm đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia loại 1, là một di sản văn hóa quý báu của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung.
Theo truyền thống, hàng năm dân làng Chèm mở lễ hội tưởng niệm Đức Thành hoàng Lý Ông Trọng vào các ngày 14, 15, 16 tháng Năm âm lịch.
Trình tự hoạt động của lễ hội đền Chèm như sau: Ngày 14, đền mở cửa để dân chúng tới thắp hương tưởng niệm. Không chỉ nhân dân làng Chèm mà nhân dân từ nhiều vùng xa gần cũng đến tham dự. Đoàn người ăn mặc chỉnh tề, trong tay là hương hoa, trong tâm là tấm lòng thành kính. Ngày 15 là ngày chính hội. Mở đầu là lễ mộc dục (tắm rửa tượng thần). Một lễ rước lớn, rất đông người, nghiêm trang, tề tựu đủ chức sắc, bô lão và thứ bậc dân chúng. Họ lên đê, đi ngược sông Hồng ba dặm, rồi xuống thuyền. Thuyền xoay ba vòng, trai tráng trong làng đổ đầy nước vào các ché sứ lớn, đánh phèn cho trong. Sau đó, đoàn thuyền xuôi dòng về nhà Mã (cách đền 1 km) để lấy đồ mã, quân trang cho Đức Ông. Đồ mã gồm ngựa xe, y phục, cờ hội, đao kiếm làm bằng cột tre phết giấy lộng lẫy sắc màu. Đám rước bước lên bờ, dừng ở sân đền để làm lễ tắm rửa tượng thánh. Ngày xưa, lễ này được tiến hành trên sông, tức là rước tượng Đức Ông ra sông để tắm rửa theo cách sống bình dị của ông lúc sinh thời. Ngày nay, để đỡ nặng nhọc, các cụ trong làng quyết định làm lễ ngay tại sân đền. Lúc hoàng hôn xuống, lễ rước văn tế được cử hành long trọng từ nhà ông Trưởng văn (người chấp bút làm văn) tới đền. Bài kinh kể lại công đức của Lý Ông Trọng do một vị sư đọc, diễn ra vào đêm rằm. Vào ngày chính hội này, dân làng còn tổ chức hội thả chim bồ câu, thi bơi chải, đấu vật, diễu võ, múa hát, diễn tuồng và nhiều trò chơi dân gian khác từ sáng đến tối.
Ngày 16 là ngày cuối hội, vẫn tiếp tục các trò chơi như đấu cờ, đấu vật, hát chèo, hát ví, đối đáp nam nữ... Quang cảnh luôn tưng bừng nhộn nhịp từ sáng đến tối.
Ngày nay, đền Chèm đã được tu sửa, tôn tạo khang trang, uy nghi soi bóng trên dòng sông Hồng. Hàng năm, lễ hội vẫn được tổ chức long trọng với mọi nghi thức đậm đà bản sắc dân tộc.
Thượng Đẳng Thiên Vương Lý Ông Trọng được nhân dân ngưỡng mộ và truyền tụng cô đọng qua mấy câu thơ:
Lý Ông quê ở Thụy Phương,
Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
Hiếu liêm nhẹ bước thanh vân,
Làm quan Hiệu úy đem quân ngự hồ
Uy danh đã khiếp Hung Nô,
Người về Nam Việt, hình đồ Bắc phương.
(Theo Hồng Quang)
HELLBOY
Cô Ðào Hát Với Anh Học Trò Khó
Cô Ðào Hát Với Anh Học Trò Khó
Ngày xưa, có một đứa bé thông minh tên là Nguyễn Kỳ, mẹ mất sớm, người cha lấy vợ khác. Kỳ bị dì ghẻ hành hạ ác nghiệt, phải bỏ nhà mà đi.
Kỳ lang thang đó đây, xin ăn qua ngày. Một hôm, cụ Cử làng Địch Vọng ở Hà Đông thấy Kỳ mặt mũi khôi ngô, thông minh mới hỏi có biết chữ không. Kỳ xin giấy bút rồi ngẫu hứng viết thành một bài thơ. Thoáng nhìn qua nét bút rắn rỏi mà nhẹ nhàng, rồi đọc đến những bài thơ với những lời lẻ bóng bẩy ngụ ý nói đến cảnh ngộ khốn khổ của người trẻ tuổi, cụ Cử liền ngỏ ý muốn giúp cho Nguyễn Kỳ ở lại nhà và dạy cho học.
Sẵn khiếu thông minh, chỉ trong mấy năm, Nguyễn Kỳ chẳng những học hành theo kịp các bạn trước mà lại còn nổi tiếng giỏi văn thơ.
Một ngày tiết xuân, có người bạn học rủ Kỳ đi xem tế lễ ở làng. Thấy bạn trai cùng lứa khoác áo diêm dúa, còn mình thì quần thô áo vải đã sờn rách, Kỳ không khỏi buồn tủi, lẫn vào đứng ở một góc đình, khuất sau cột lớn.
Trong khi đó, đám đông người chăm chú theo dõi một cô đào khá xinh đẹp lộng lẫy đang múa hát. Mọi người như dại như ngây đua nhau thưởng tài người đẹp. Cô đào vừa hát, vừa múa, như bay như lơợn, khi lướt qua phía góc đình trông thấy Kỳ đứng buồn dựa cột, bỗng nhiên nàng sững sờ dừng lại, tắt tiếng hát, ngừng điệu múa, mắt đăm đăm nhìn thư sinh nghèo rồi vội quay đi.
Qua hôm sau, Nguyễn Kỳ đang ngồi ở nhà ngang vắng đọc sách, thì thấy cô đào hát hiện ra. Nàng chân thành bảo Kỳ: "Sao người có tài lại gặp số phận hẩm hiu như thế này"? Rồi van nài Kỳ nhận lấy những nén bạc và mấy xấp vải của nàng đưa tặng. Kỳ lễ phép từ chối song nàng khéo nằn nì, rồi bỏ đi ngay không kịp cho Kỳ thốt lời cảm tạ.
Cách ít lâu nàng trở lại, rồi thỉnh thoảng lại đến thăm Kỳ, mỗi lần đều dọn dẹp trong phòng học, vá mạng quần áo, nấu thức ăn, khuyến khích chàng học tập, y như nàng là vợ của Kỳ. Sự thân mật giữa hai người ngang tới đó. Nguyễn Kỳ kính nàng như một người bạn gái thân, và những lời lẽ, cử chỉ, bao giờ cũng ở trong khuôn phép.
Song lâu ngày chàng hiểu biết nàng hơn, trở nên thân thiết hơn mà cũng dễ dàng rung cảm trước sắc đẹp của nàng hơn lên.
Một hôm, chàng làm một cử chỉ suồng sã trong lúc không tự chủ, rồi đâm ra ân hận ngay khi thấy nàng nghiêm nghị trách móc: "Anh chớ vội tưởng lầm. Em tìm đến anh vì em nghĩ đến tương lai đời em. Thói thường những đào hát như em không nghĩ đến ngày mai, cho nên tới lúc luống tuổi rồi, chỉ gặp phải những kẻ không đâu. Vì thế em muốn trong lúc đang còn trẻ, có một nơi xứng đáng nương cậy về sau, cho đến khi đầu bạc răng long. Anh lại coi em như phường liễu ngỏ, hoa tường, làm thế nào mà em còn gần gũi với anh được nữa"?
Nguyễn Kỳ xin nàng tha lỗi và từ đó càng kính trọng đối với nàng hơn nữa.
Mấy năm về sau, gần đến kỳ thi, trước ngày lên đường, Nguyễn Kỳ ân cần bảo nàng: "Trong cuộc đời nghèo khó của anh, anh đã được may mắn gặp em. Công ơn của em đối với anh rất nặng, anh nhớ đến trọn đời. Rôi đây xa cách nhau, một ngày kia thế nào anh tìm được em"?
Nàng nói: "Sau này, nếu anh không quên, thì em sẽ tìm đến anh. Bằng như chúng ta không cần phải gặp nhau nữa, thì anh muốn biết tên họ làng mạc của em cũng vô ích. Về phần em, em không dám đòi hỏi anh hứa hẹn gì cả. Chỉ có trời biết lòng em".
Đến khi Nguyễn Kỳ thi đỗ, trở về quê, cha chàng buộc lấy một người con gái nhà môn đăng hộ đối. Nguyễn Kỳ hết sức từ chối, nghĩ đến người bạn gái ân nhân, nhất quyết thà chết hơn là phụ bạc người. Chàng đem chuyện cũ thưa lại, song cha chàng gạt đi, cho đó chỉ là một chuyện trai gái thường tình, và chàng bây giờ đã đỗ đạt danh phận ắt sẽ chóng quên một ả đào hát. Người cha viện lý lẽ để chống lại ý muốn của con, nghiêm khắc bảo không bao giờ nhận một ả đào hát làm con dâu.
Nguyễn Kỳ đau khổ âm thầm, thấy lòng vẫn yêu và kính mến cô đào như xưa, cho là mình không thể quên người, dù đôi bên chưa có một lời thề hẹn. Song lễ giáo cay nghiệt của người cha đưa ra, rồi bổn phận của người con bắt buộc, cuối cùng chàng phải vâng lệnh mà cưới vợ.
Đến năm sau, chàng ra kinh thi tiến sĩ, cô đào ngày trước tìm đến gặp, mang biếu chàng đủ thứ. Trông thấy vẻ ngượng nghịu của người bạn cũ, nàng đoán hiểu, rồi nói: "Anh không cần phải nói ra nữa, em cũng đã thấy rõ. Âu đó cũng là số phận đã định thế, mỗi người mỗi con đường..." Rồi nàng từ biệt hẳn mà đi.
Khoa thi năm ấy, Nguyễn Kỳ đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan ở triều, rồi đi sứ qua Tàu. Đến khi trở về, luôn mười năm trời, chàng giữ chức quan to ở kinh đô và các tỉnh. Sau một cuộc dẹp loạn ở Hải Dương, Nguyễn Kỳ được vua ban tước quận công.
Danh vọng cao, tiền bạc sẵn, con cái đông, chàng không còn ước ao điều gì nữa. Tuy thế, mỗi khi nhắc đến thuở thiếu thời khốn khó của mình với bạn hữu, Nguyễn Kỳ thấy nghẹn ngào, xốn xang trong lòng. Chàng đã nhiều lần sai người thân tín đi tìm cô đào ngày xưa, nhưng khôn thấy bóng dáng đâu cả.
Một tối, trong bữa tiệc ở nhà công hầu họ Đặng, giữa đám con hát và nhạ công ngồi bên dưới, quận công Nguyễn Kỳ để ý người đàn bà gõ sanh có vẻ mặt quen thuộc. Hỏi ra mới rõ chính là người bạn gái ân nhân ngày xưa. Lại nghe kể rằng mười năm trước nàng có lấy chồng, một người lính quê ở Thái Nguyên. Chồng đi trận chết, nàng vẫn ở vậy, có ít tiền dành dụm được đem nuôi mẹ già, chẳng may bị đứa em bất hạnh lấy sạch, nàng phải đưa mẹ già lên ở kinh đô, kiếm sống lần hồi, trở lại nghiệp hát.
Nguyễn Kỳ xúc động tận đáy lòng, mời mọc hai mẹ con về ở trong dinh. Vì nghĩ tới mẹ già mà nàng nhận lời. Nguyễn Kỳ dành cho một ngôi nhà riêng và không để cho thiếu thốn một thứ gì cả.
Một năm sau bà cụ mất, Nguyễn Kỳ cho chôn cất trọng thể. Xong rồi nàng cám ơn và xin phép từ biệt. Nguyễn Kỳ không giữ lại được, nài nỉ nàng nhận lấy vài nén bạc, nàng cũng khước từ mà ra đi.
HELLBOY (st).
Cái vết đỏ trên má công nương
Cái vết đỏ trên má công nương
Ngày ấy có một ông thượng thư đầu triều nổi tiếng là người nghiêm khắc và hách dịch. Ông có tính nóng như lửa. Đã thế ông lại có quyền "tiền trảm hậu tấu" nên không khỏi giết oan một số người vô tội. Trong triều ngoài quận người ta coi ông như vị hung thần. Mỗi lần ông thét đao phủ chém một người nào, thì dù là kẻ thân thiết nhất cũng không ai có thể can được, cho nên những người ở gần đều sợ ông như cọp.
Ông thượng có một sở thích đệ nhất là món hát bội. Ngày ấy chưa có rạp tuồng bán vé cho công chúng vào xem như sau này, cho nên các nhà quyền quý thường nuôi gánh hát riêng. Chẳng những ông thích xem hát mà còn tự tay biên soạn nhiều vở tuồng, vì vậy ông cũng có một gánh hát trong nhà. Trong số đào kép của gánh hát này thì có kép Châu là một tay xuất sắc. Kép Châu tuổi trẻ tài cao, thường được người xem tán thưởng về hát hay múa dẻo, nhất là đám nữ giới mỗi lần thấy anh thủ vai chính trên sân khấu thì thường mê như điếu đổ về cả thanh lẫn sắc.
Ông thượng không có con trai, chỉ có một cô con gái rất xinh tên là Nhung. Cũng như thói thường của mọi nhà quyền quý khác, ông chăm dạy cho con mọi điều công, dung, ngôn, hạnh. Thấy con gái thông minh và tài hoa, ông yêu dấu rất mực. Đến nỗi hằng ngày hút thuốc, nếu không có thuốc do con ông quấn thì ông hút không ngon. Tuy nhiên, một việc oái oăm ông không bao giờ ngờ tới là cô Nhung được ông dạy dỗ chăm sóc là thế lại thầm yêu trộm nhớ kép Châu. Về phần kép Châu tuy biết thân phận hèn kém, tuy biết tính mạng treo đầu sợi tóc cũng không nỡ vô tình với công nương. Hai bên đã nhiều lần kín đáo gặp gỡ và cũng đã từng chỉ non thề biển, quyết sống chết có nhau.
Một hôm ông thượng ăn mừng thọ. Ngoài tiệc tùng đãi khách như thường lệ, còn có một đêm hát bội đặc biệt diễn một vở do ông biên soạn. Thủ vai chính không có ai khác ngoài kép Châu. Trong khi đào kép đang cố gắng trổ tài trên sân khấu thì ông thượng chăm chú cầm chầu. Hứng thú, ông đốt hết điếu này sang điếu khác. Bỗng chốc số thuốc quấn sẵn đựng trong một cái hộp bằng vàng đã hết nhẵn, ông bèn sai lính hầu vào bảo công nương quấn tiếp cho ông mười điếu nữa. Nhưng tên lính hầu đi quá lâu làm cho ông sốt ruột. Cho đến khi hắn bưng được hộp thuốc vào, ông mắng ngay:
- Mày đi đâu mà lâu thế?
Tên lính hầu đáp:
- Bẩm, vì công nương không có nhà nên con lại phải đi tìm, công nương vừa quấn xong là con mang đến đây liền.
Ông thượng không nói gì. Nhưng khi cầm lên một điếu ông lập tức chau mày. Thuốc của con gái ông quấn bao giờ cũng khéo: vừa gọn vừa chặt bằng giấy quyến tinh khiết, mười điếu không sai một. Đằng này đã quấn lỏng lại có nhiều vết bẩn. Bực mình, ông quát tên lính hầu:
- Vào gọi công nương mày tới đây tao bảo.
- Dạ.
Ấy thế nhưng lần này tên lính hầu cũng lại đi mất hút. Đợi một thôi một hồi, ông mới thấy cô con gái yêu đến. Ông mắng phủ đầu ít câu về điếu thuốc quấn không thành điếu, rồi đuổi con ra. Nhưng khi cô Nhung lui gót, ông vừa nhìn theo chợt trông thấy trên má của con có một cái vết đỏ. - "Hừ, làm sao nó lại có vẻ nhem nhuốc thế kia". Nghĩ thế, song ông vẫn để tâm trí vào trống chầu.
Giữa lúc ấy, đến lượt kép Châu bước lên đài. Ông thượng liếc nhìn thấy bộ mặt hóa trang của hắn cũng nhem nhuốc, nhợt nhạt, thì ông bỗng đoán ra nông nỗi. Một cơn giận bừng bừng bốc lên: - "Chà thằng này láo thật. Đồ xướng ca vô loài". Rồi ông lại nghĩ đến con gái: - "Không ngờ con gái ta lại đâm ra mê say nó, giở trò trên bộc trong dâu. Không thể tha thứ được!". Tuy nghĩ vậy, ngoài mặt ông vẫn điềm tĩnh, tay vẫn đánh trống chầu không nhầm lỗi.
Khi màn bắt đầu hạ để chuyển sang một cảnh khác, lập tức ông đứng dậy dõng dạc truyền lệnh:
- Quân đâu, dẫn kép Châu ra sân, chém đầu!
Tiếng quân hầu dạ ran. Các quan khách và mọi người đang xem hát ai nấy đều ngơ ngác kinh hồn. Chẳng ai hiểu duyên cớ vì đâu mà có cái án tử hình đột ngột này. Đây đó tiếng người thì thầm: - "Có lẽ nó đã làm điều gì đó hỗn xược với cụ lớn". Hay là: - "Chắc tên kép ấy đã phạm "húy" cụ lớn hay là phạm "húy" hoàng đế thì phải".
Trong khi kép Châu còn nguyên cả y phục tuồng bị đao phủ lôi ra sân, thì cô Nhung vẻ mặt hốt hoảng chạy tới trước ghế của cha mình ngồi thụp xuống vái lấy vái để:
- Trăm lạy cha, xin cha tha cho anh ấy. Có giết xin cha cứ giết mình con đây!
Nghe câu nói, ông thượng vẫn không động lòng, mà lại còn cảm thấy như bị thách thức. Trợn mắt, ông quát:
- A, nếu thế thì quân bay hãy cởi trói cho kép Châu mà bắt giải công nương ra chết thế.
Bọn quân hầu nhìn nhau toáng đảm, không ai dám cất tay động chân. Ông thượng đứng bật dậy quát:
- Chúng mày đã nghe rõ lệnh ta chưa?
Lại có tiếng dạ ran. Lính hầu xúm lại dẫn cô Nhung đi ra sân. Không có một lời can ngăn. Không một ai nhúc nhích. Một lát sau, một tiếng rú của công nương bật lên ai oán, rồi tất cả rơi vào im lặng.
Bấy giờ ông thượng quay lại phía bọn đào kép đang chúi vào một xó nhắc: - "Chúng mày hãy diễn tiếp đi!".
Tiếng đàn, nhị, trống, chiêng,v.v. thốt nhiên lại cất lên. Người xem tuy chẳng còn hứng thú xem tiếp, nhưng không một ai dám bỏ chỗ ngồi ra đi. Ông thượng miệng vẫn hút thuốc, tay vẫn nắm lấy dùi trống chầu như không có việc gì xảy ra. Màn diễn đến đoạn cuối: vai chính sẽ than thở bên xác người yêu. Kép Châu lại bước lên đài, mặt cắt không được giọt máu. Anh hát những câu hết sức buồn thảm, anh khóc thật và tỏ điệu bộ não nùng chưa bao giờ làm rung động người xem đến thế. Cứ như vậy, tiếng than khóc mỗi lúc một ai oán. Cho đến câu hát cuối cùng vừa dứt, kép Châu kêu lên mấy tiếng thảm thiết không có trong vở:
- Em ôi! Em hãy đợi anh với!
Đoạn rút trong tay áo một con dao găm đâm ngay vào cổ họng và ngã lăn xuống khán đài. (1)
---------------------------
Khảo Dị
Truyện này gần như là một truyện thuộc loại muộn nhất của cổ tích, đã mang dáng dấp truyện ngắn hiện đại. Mặc dầu vậy nó cũng có dị bản, nhưng kết cục của dị bản lại không bi đát như truyện trên:
"Trong nhà một ông tuần nọ có nuôi một gánh hát riêng. Trong số diễn viên cũng có một kép trẻ tuổi đẹp trai hát hay, lôi cuốn được nhiều người, nhất là giới phụ nữ. Cũng như truyện trên, kép ta lọt vào mắt xanh con gái ông tuần. Thế rồi mối tình thầm lén ngày một nảy nở. ở đây không có cái vết đỏ trên má cô nàng, mà là bức thư tình của cô do một bạn đồng nghiệp của kép lấy trộm đưa tới ông tuần. Cơn thịnh nộ của ông bùng lên, ông tuốt kiếm bảo người đi tìm kép dẫn đến cho ông tức khắc. Nhưng kép lại vắng mặt lúc đó, nên kết thúc của truyện mang đôi chút hài hước. Trong khi chờ đợi tội nhân, ông cho giam con gái lại; thấy đôi hia đế cong của kép, ông dùng kiếm băm vằm như băm vằm người thật để hả cơn giận. Cơn giận dịu đi trông thấy. Đến chiều, theo dự định, vở tuồng "Từ Thứ quy Tào" sẽ diễn mà vai chính Từ Thứ thì ngoài kép ra không ai có thể thay được. Nhưng, kép ta có lẽ vì sợ vẫn chưa về mà nếu về cũng không có hia để đóng. Cuối cùng, ông tuần bảo người nhà đi mua một đôi hia khác và giục đi tìm kép về gấp để cho vở tuồng không bị hoãn lạị(2)
-----------------
1. Theo Tiểu thuyết thứ bảy (1935); tạp chí Đông - Nam Á, số 16 (1950); và Phổ thông, số 3 (1952).
2. Theo Bách khoa, số 382 (1972).
HELLBOY (st).