Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Kỳ 01
Thường mình hay nghĩ rằng thiền tức là Phật giáo, chỉ đó đạo Phật mới có thiền là cứu cánh, và tất cả các loại thiền khác là ngoại đạo. Gần đây phát sinh ra nhiều pháp môn hay cách tu đốt giai đoạn, cách thiền làm sao để thấy Phật cho mau, điện chạy khắp người, hay làm sao khống chế não bộ cho không có tư tưởng... Có đủ loại thiền, người nào cũng nói tới thiền. Cho nên thiền cần được đề cập rõ ràng để mọi người, trong thời đại này, đều có thể học được mà không bị tẩu hỏa nhập ma. Tẩu hỏa nhập ma là một vấn đề khiến nhiều người không dám tu thiền.
* Định nghĩa Thiền
Trước hết nên minh định lại là thiền không phải của duy nhất Phật giáo. Tất cả các tôn giáo đều có một phương pháp khiến tâm của người thực hành trở vào trạng thái vắng lặng.
Vậy thiền có làm cho mình tịnh tâm không? Nhiều người nói: “Thưa thầy, mỗi lần con ngồi là đầu óc tán loạn. Chừng nào đầu óc con nhẹ nhàng trở lại thì con sẽ ngồi thiền”. Thật ra không phải chờ đến lúc óc hết tán loạn rồi mới ngồi thiền, mà vì tư tưởng mình không rõ ràng, đầu óc đầy dẫy vô minh, nên mình mới phải ngồi thiền. Thiền có phải là sự lắng đọng của tâm không? Thiền để tâm mình không vọng tưởng có phải là mục đích đầu tiên và cuối cùng của thiền hay không? Điều này không nhất thiết.
Mỗi tôn giáo đều có phương pháp thiền riêng và thực ra, mỗi chúng ta ai cũng thiền hàng ngày mà mình không biết đó thôi. Như vậy, mình phải định nghĩa thiền như thế nào đây?
Nếu dùng ngôn ngữ của thời đại thì thiền là phương pháp khiến cho tâm mình vắng lặng nhưng cởi mở, không khoáng, thoáng. Nói cách khác, thiền là làm cho tâm mình không ngừng khai mở. Tại sao? Nếu đi sâu vào triết lý của thiền - không phải phương pháp - thì đạt được trạng thái giác ngộ, sẽ rỗng lặng vô cùng. Trạng thái rỗng lặng này gọi là như thị như thị, vượt ra ngoài mọi thế tục trần gian, nhưng đồng thời lại bao hàm tất cả chuyện của trần gian mà không bị ô nhiễm. Nói vậy, các bác nghe khó hiểu. Nhưng đó là định nghĩa mà người ta thường nghe nói tới.
Bây giờ mình chỉ cần biết một chuyện vô cùng quan trọng: càng ngồi thiền tâm mình càng khai mở, càng tiến hóa hơn. Nếu mình đi tới trạng thái vắng lặng lúc ngồi thiền, nhưng khi xả thiền thì vợ, mình không muốn nói chuyện cùng; cha, mình cũng thèm chào; con, mình cũng mặc kệ; trạng thái như vậy là hư rồi. Còn nếu mình là một đạo nhân bỏ lên núi ngồi tu hành một mình, cho rằng dưới này là địa ngục trần gian, tôi lên niết bàn tu, thì cũng trật luôn. Người tu thiền phải có một sự khai mở gì đó, phải là một người đầy tình thương, đầy lòng từ bi, một người có trí huệ siêu việt, có thể cống hiến tích cực trong xã hội. Nếu tu thiền chỉ để trở thành một đám mây bay lơ lửng trên trời, thành một hòn đảo không ai đụng tới, thì tu như vậy là không đúng. Nếu vì đời này có nhiều chuyện khổ, mình muốn tu tới chỗ hoàn toàn yên tịnh, vắng lặng; như vậy cũng không có ý nghĩa gì trong vũ trụ nhân loại này.
Thời đức Phật, lúc đầu ngài dạy về Khổ, Tập, Diệt, Đạo: thế giới này là khổ, nguyên nhân của khổ từ đâu, làm sao giải được khổ, trạng thái cuối cùng khi không còn khổ nữa được gọi là Niết Bàn. Nhưng đến cuối đời ngài, khi giảng về Pháp Hoa và Niết Bàn thì ngài lại nói như vầy: “Mỗi người đều có một đặc tính gọi là Phật tánh. Làm sao khai mở Phật tánh đó ra, như thị như thị, Phật tánh đó làm cho mình có con mắt nhìn mọi sự là như vậy. Nếu có con mắt đó thì mình thực sự giải thoát và nếu có con mắt đó thì cái khổ cũng tương đối. Khổ đó chỉ là một ảo ảnh do bản ngã của mình nhận ra và chấp trước vào mà thôi”.
Nói một cách khác, tu thiền là sự không ngừng khai mở chân tâm. Do đó, người ta thường nói “kiến tánh thành Phật”. Cũng thường nói “khai ngộ”, khai là mở ra, ngộ là giác ngộ. Ngay chữ khai ngộ đã nói lên mục đích và phương pháp của thiền. Nếu các bác đồng ý như như vậy thì sẽ thấy rằng, té ra mỗi ngày mình cũng có thiền rồi. Có bác nọ, thầy gặp trên đường đi ở Mile Square Park, ngồi co tay chân lên xuống, thầy mới hỏi: “Bác làm chi đó?”
“Tôi tập thể thao hàng ngày”
“Bác tập môn gì đây?”
“Tui tập sao cho tay tui mở ra, chân tui mở ra, người tui cũng mở ra, là tui thấy khỏe rồi”.
“Ồ, vậy môn tập này có tên gì không?”
“Dạ không, chỉ có chừng ấy thôi”.
Thầy mới hỏi tiếp:
“Vậy bác ở đó tập như vậy có vui không?”
“Có, đây là hạnh phúc lớn nhất của tui hàng ngày. Tui tới đây hàng ngày, ngồi dở tay chân lên xuống, mà không ai quấy rầy. Tâm tôi hân hoan vì bầu trời xung quanh tôi rộng mở, tâm tôi cũng rộng mở, nên tui cảm thấy sung sướng”.
Đương nhiên là lời nói của bác đó không như vậy nhưng ý của bác là vậy. Thưa các bác, vị cao niên này đang làm gì đây? Ông đang thiền. Ông mở tay mở chân, rồi ông mỉm cười, ông nhìn bầu trời bát ngát, tâm ông rộng mở: đó là thiền. Các bác có thể hỏi:
“Trời ơi, thiền kiểu đó làm sao giác ngộ được?”
Thiền không phải là sự giác ngộ, thiền là sự khai mở để giác ngộ từng tầng tâm thức một. Nếu tầng tâm thức của bác cao niên này ở chỗ đó, thì đó là sự giác ngộ của bác.
Đôi khi mình có những truy cầu rất lạ lùng. Mình muốn làm sao được khai ngộ bằng như Phật và mình cố chạy đua làm sao để tới được mục đích đó. Mình còn thi đua với nhau như tôi ngồi thiền được ba giờ, cô ngồi được bao lâu? Tôi thấy được năm ông Phật, còn bác thấy được bao nhiêu? Tôi chuyển được luân xa trong người tôi như vậy đó, còn bác chuyển được bao nhiêu luân xa rồi?
Thành ra, tu hành nay biến thành một sự tranh đua. Tranh đua thì tâm đóng lại. Tâm đóng lại thì làm sao gọi là khai mở được. Cho nên, mình thường mắc vào trong cạm bẫy của bản ngã: mình so sánh với nhau, đố kỵ với nhau, mình ghen với nhau mà quên rằng thiền là sự chấm dứt của đố kỵ, ghen tuông. Khi mình không đóng tức là mở, khi mở tức là thiền. Do đó, nếu mở một lần thì chỉ thiền một lần thôi. Còn khai mở không ngừng thì tức là thiền.
Như vậy, thiền là cách làm sao cho tâm mình không bị đóng lại. Nhiều khi không phải vì lý do tôn giáo mà là do bản năng con người, mình không muốn nói chuyện với ai cả, mình ngồi đó nhắm mắt lại để cõi lòng mở ra. Nhưng nhiều khi mình phải làm ngược lại, phải ra nói chuyện với người này, người nọ để tâm mình mở ra. Nói một cách khác, bản năng muốn khai mở là động lực sống của con người chớ không phải thiền là ngồi khoanh chân lại. Thiền là khả năng khai mở không ngừng.
Một ông thiền sư ngồi im lặng thiền suốt 7 giờ. Ông ở trong một trạng thái rất nhập định thâm sâu nhẹ nhàng, lỗ tai ông thính vô cùng. Ông vừa mới xuất định và đứng lên thì sư phụ cho người xuống gọi, bảo ông ra đồng làm việc. Khi làm việc, ông thấy tất cả mọi việc xung quanh đều im lặng và ông cũng thanh tịnh vô cùng. Sư phụ bắt ông làm tới tối mịt mới thôi. Ông mệt vô cùng, nhưng với công phu thiền 7 giờ, ông vui vẻ, yên tịnh nhắm mắt nằm nghỉ. Nhưng ngủ chưa được bao lâu, mới 3, 4 giờ sáng, ông sư phụ lại bảo ông ra ngoài giặt quần áo sớm. Cứ vậy, sư phụ quần thảo ông luôn 10 ngày khiến ông không có giờ rảnh để nghỉ ngơi hay ngồi thiền được. Sau 10 ngày thì chân tay ông rã rời, ông mệt không thể tưởng tượng được. Trí não ông không thể duy trì được trạng thái như trước đó 10 ngày. Ông nằm xuống ngủ và nghĩ 3 giờ sáng sẽ dậy. Nhưng vừa nằm xuống là ông sư phụ gọi và bảo ông:
“Mái ngói trên nóc nhà bị bể, con hãy lên đó thay giùm thầy”.
“Bây giờ là 11:30 đêm rồi, thưa sư phụ”. Ông lên giọng gắt gỏng, khó chịu, vì thiếu ngủ và mệt.
Thưa các bác, bao nhiêu công năng thiền định suốt 7 giờ biến đâu mất rồi. Sư phụ nói:
“Không sao, con cứ lên thay đi”.
Ông cũng leo lên thay nhưng trong miệng lầm bầm không vui. Khi ông trở xuống, sư phụ mỉm cười hỏi:
“Sao, con có muốn ngồi thiền chút xíu không?”
Ông đệ tử đáp:
“Thưa thầy, bây giờ con chỉ muốn nằm xuống ngủ thôi, không muốn ngồi thiền gì cả”.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Kỳ 01
Thường mình hay nghĩ rằng thiền tức là Phật giáo, chỉ đó đạo Phật mới có thiền là cứu cánh, và tất cả các loại thiền khác là ngoại đạo. Gần đây phát sinh ra nhiều pháp môn hay cách tu đốt giai đoạn, cách thiền làm sao để thấy Phật cho mau, điện chạy khắp người, hay làm sao khống chế não bộ cho không có tư tưởng... Có đủ loại thiền, người nào cũng nói tới thiền. Cho nên thiền cần được đề cập rõ ràng để mọi người, trong thời đại này, đều có thể học được mà không bị tẩu hỏa nhập ma. Tẩu hỏa nhập ma là một vấn đề khiến nhiều người không dám tu thiền.
* Định nghĩa Thiền
Trước hết nên minh định lại là thiền không phải của duy nhất Phật giáo. Tất cả các tôn giáo đều có một phương pháp khiến tâm của người thực hành trở vào trạng thái vắng lặng.
Vậy thiền có làm cho mình tịnh tâm không? Nhiều người nói: “Thưa thầy, mỗi lần con ngồi là đầu óc tán loạn. Chừng nào đầu óc con nhẹ nhàng trở lại thì con sẽ ngồi thiền”. Thật ra không phải chờ đến lúc óc hết tán loạn rồi mới ngồi thiền, mà vì tư tưởng mình không rõ ràng, đầu óc đầy dẫy vô minh, nên mình mới phải ngồi thiền. Thiền có phải là sự lắng đọng của tâm không? Thiền để tâm mình không vọng tưởng có phải là mục đích đầu tiên và cuối cùng của thiền hay không? Điều này không nhất thiết.
Mỗi tôn giáo đều có phương pháp thiền riêng và thực ra, mỗi chúng ta ai cũng thiền hàng ngày mà mình không biết đó thôi. Như vậy, mình phải định nghĩa thiền như thế nào đây?
Nếu dùng ngôn ngữ của thời đại thì thiền là phương pháp khiến cho tâm mình vắng lặng nhưng cởi mở, không khoáng, thoáng. Nói cách khác, thiền là làm cho tâm mình không ngừng khai mở. Tại sao? Nếu đi sâu vào triết lý của thiền - không phải phương pháp - thì đạt được trạng thái giác ngộ, sẽ rỗng lặng vô cùng. Trạng thái rỗng lặng này gọi là như thị như thị, vượt ra ngoài mọi thế tục trần gian, nhưng đồng thời lại bao hàm tất cả chuyện của trần gian mà không bị ô nhiễm. Nói vậy, các bác nghe khó hiểu. Nhưng đó là định nghĩa mà người ta thường nghe nói tới.
Bây giờ mình chỉ cần biết một chuyện vô cùng quan trọng: càng ngồi thiền tâm mình càng khai mở, càng tiến hóa hơn. Nếu mình đi tới trạng thái vắng lặng lúc ngồi thiền, nhưng khi xả thiền thì vợ, mình không muốn nói chuyện cùng; cha, mình cũng thèm chào; con, mình cũng mặc kệ; trạng thái như vậy là hư rồi. Còn nếu mình là một đạo nhân bỏ lên núi ngồi tu hành một mình, cho rằng dưới này là địa ngục trần gian, tôi lên niết bàn tu, thì cũng trật luôn. Người tu thiền phải có một sự khai mở gì đó, phải là một người đầy tình thương, đầy lòng từ bi, một người có trí huệ siêu việt, có thể cống hiến tích cực trong xã hội. Nếu tu thiền chỉ để trở thành một đám mây bay lơ lửng trên trời, thành một hòn đảo không ai đụng tới, thì tu như vậy là không đúng. Nếu vì đời này có nhiều chuyện khổ, mình muốn tu tới chỗ hoàn toàn yên tịnh, vắng lặng; như vậy cũng không có ý nghĩa gì trong vũ trụ nhân loại này.
Thời đức Phật, lúc đầu ngài dạy về Khổ, Tập, Diệt, Đạo: thế giới này là khổ, nguyên nhân của khổ từ đâu, làm sao giải được khổ, trạng thái cuối cùng khi không còn khổ nữa được gọi là Niết Bàn. Nhưng đến cuối đời ngài, khi giảng về Pháp Hoa và Niết Bàn thì ngài lại nói như vầy: “Mỗi người đều có một đặc tính gọi là Phật tánh. Làm sao khai mở Phật tánh đó ra, như thị như thị, Phật tánh đó làm cho mình có con mắt nhìn mọi sự là như vậy. Nếu có con mắt đó thì mình thực sự giải thoát và nếu có con mắt đó thì cái khổ cũng tương đối. Khổ đó chỉ là một ảo ảnh do bản ngã của mình nhận ra và chấp trước vào mà thôi”.
Nói một cách khác, tu thiền là sự không ngừng khai mở chân tâm. Do đó, người ta thường nói “kiến tánh thành Phật”. Cũng thường nói “khai ngộ”, khai là mở ra, ngộ là giác ngộ. Ngay chữ khai ngộ đã nói lên mục đích và phương pháp của thiền. Nếu các bác đồng ý như như vậy thì sẽ thấy rằng, té ra mỗi ngày mình cũng có thiền rồi. Có bác nọ, thầy gặp trên đường đi ở Mile Square Park, ngồi co tay chân lên xuống, thầy mới hỏi: “Bác làm chi đó?”
“Tôi tập thể thao hàng ngày”
“Bác tập môn gì đây?”
“Tui tập sao cho tay tui mở ra, chân tui mở ra, người tui cũng mở ra, là tui thấy khỏe rồi”.
“Ồ, vậy môn tập này có tên gì không?”
“Dạ không, chỉ có chừng ấy thôi”.
Thầy mới hỏi tiếp:
“Vậy bác ở đó tập như vậy có vui không?”
“Có, đây là hạnh phúc lớn nhất của tui hàng ngày. Tui tới đây hàng ngày, ngồi dở tay chân lên xuống, mà không ai quấy rầy. Tâm tôi hân hoan vì bầu trời xung quanh tôi rộng mở, tâm tôi cũng rộng mở, nên tui cảm thấy sung sướng”.
Đương nhiên là lời nói của bác đó không như vậy nhưng ý của bác là vậy. Thưa các bác, vị cao niên này đang làm gì đây? Ông đang thiền. Ông mở tay mở chân, rồi ông mỉm cười, ông nhìn bầu trời bát ngát, tâm ông rộng mở: đó là thiền. Các bác có thể hỏi:
“Trời ơi, thiền kiểu đó làm sao giác ngộ được?”
Thiền không phải là sự giác ngộ, thiền là sự khai mở để giác ngộ từng tầng tâm thức một. Nếu tầng tâm thức của bác cao niên này ở chỗ đó, thì đó là sự giác ngộ của bác.
Đôi khi mình có những truy cầu rất lạ lùng. Mình muốn làm sao được khai ngộ bằng như Phật và mình cố chạy đua làm sao để tới được mục đích đó. Mình còn thi đua với nhau như tôi ngồi thiền được ba giờ, cô ngồi được bao lâu? Tôi thấy được năm ông Phật, còn bác thấy được bao nhiêu? Tôi chuyển được luân xa trong người tôi như vậy đó, còn bác chuyển được bao nhiêu luân xa rồi?
Thành ra, tu hành nay biến thành một sự tranh đua. Tranh đua thì tâm đóng lại. Tâm đóng lại thì làm sao gọi là khai mở được. Cho nên, mình thường mắc vào trong cạm bẫy của bản ngã: mình so sánh với nhau, đố kỵ với nhau, mình ghen với nhau mà quên rằng thiền là sự chấm dứt của đố kỵ, ghen tuông. Khi mình không đóng tức là mở, khi mở tức là thiền. Do đó, nếu mở một lần thì chỉ thiền một lần thôi. Còn khai mở không ngừng thì tức là thiền.
Như vậy, thiền là cách làm sao cho tâm mình không bị đóng lại. Nhiều khi không phải vì lý do tôn giáo mà là do bản năng con người, mình không muốn nói chuyện với ai cả, mình ngồi đó nhắm mắt lại để cõi lòng mở ra. Nhưng nhiều khi mình phải làm ngược lại, phải ra nói chuyện với người này, người nọ để tâm mình mở ra. Nói một cách khác, bản năng muốn khai mở là động lực sống của con người chớ không phải thiền là ngồi khoanh chân lại. Thiền là khả năng khai mở không ngừng.
Một ông thiền sư ngồi im lặng thiền suốt 7 giờ. Ông ở trong một trạng thái rất nhập định thâm sâu nhẹ nhàng, lỗ tai ông thính vô cùng. Ông vừa mới xuất định và đứng lên thì sư phụ cho người xuống gọi, bảo ông ra đồng làm việc. Khi làm việc, ông thấy tất cả mọi việc xung quanh đều im lặng và ông cũng thanh tịnh vô cùng. Sư phụ bắt ông làm tới tối mịt mới thôi. Ông mệt vô cùng, nhưng với công phu thiền 7 giờ, ông vui vẻ, yên tịnh nhắm mắt nằm nghỉ. Nhưng ngủ chưa được bao lâu, mới 3, 4 giờ sáng, ông sư phụ lại bảo ông ra ngoài giặt quần áo sớm. Cứ vậy, sư phụ quần thảo ông luôn 10 ngày khiến ông không có giờ rảnh để nghỉ ngơi hay ngồi thiền được. Sau 10 ngày thì chân tay ông rã rời, ông mệt không thể tưởng tượng được. Trí não ông không thể duy trì được trạng thái như trước đó 10 ngày. Ông nằm xuống ngủ và nghĩ 3 giờ sáng sẽ dậy. Nhưng vừa nằm xuống là ông sư phụ gọi và bảo ông:
“Mái ngói trên nóc nhà bị bể, con hãy lên đó thay giùm thầy”.
“Bây giờ là 11:30 đêm rồi, thưa sư phụ”. Ông lên giọng gắt gỏng, khó chịu, vì thiếu ngủ và mệt.
Thưa các bác, bao nhiêu công năng thiền định suốt 7 giờ biến đâu mất rồi. Sư phụ nói:
“Không sao, con cứ lên thay đi”.
Ông cũng leo lên thay nhưng trong miệng lầm bầm không vui. Khi ông trở xuống, sư phụ mỉm cười hỏi:
“Sao, con có muốn ngồi thiền chút xíu không?”
Ông đệ tử đáp:
“Thưa thầy, bây giờ con chỉ muốn nằm xuống ngủ thôi, không muốn ngồi thiền gì cả”.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 02)
(VienDongDaily.Com - 26/05/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Và ông được phép đi ngủ. Sáng ra, ông sư phụ gọi đệ tử mình lên nói rằng:
“Này con, cách thiền của con là khiến cho tâm tịnh xuống chớ không phải thiền để tâm con thấy được sự như thị của vạn sự”.
Có nghĩa là ông đệ tử đã không theo lối thiền cho tâm khai mở nên khi đụng chuyện, khi mệt mỏi, không chịu nổi sự căng thẳng, bực bội của thân thể, thì bao nhiêu công phu, sự vắng lặng trong 7 giờ ngồi thiền ngày trước bây giờ không còn nữa. Đó là sự sai lầm về thiền của ông. Ông đã định nghĩa sai: thiền là ngồi cho yên tịnh.
Thật sự thiền là sự không ngừng khai mở. Cũng như bầu trời lúc nào cũng bao la bát ngát, có mây bay nhiều hay ít không thành vấn đề, mình chỉ chú trọng tới bầu trời mênh mông thì lúc nào cũng cũng thấy nhẹ nhàng. Khi mình chú trọng vào bầu trời đủ rồi thì những đám mây cũng từ từ bớt đi.
Thiền là sự không ngừng khai mở của mình. Đây là điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Mình ngồi thiền nhiều thiệt, nhưng vừa xả thiền, bà vợ không pha ly cà phê cho mình đúng giờ, mình cảm thấy khó chịu rồi. Hoặc giả bà nấu cơm không ngon, pha trà hơi đậm, là mình giận rồi. Những việc đó khiến tâm mình đóng lại. Tuy thiền nhiều nhưng tâm mình vẫn đóng. Hoặc đôi khi điệu bộ mình ra vẻ cao siêu vô cùng, không dám cười, lúc nào cũng giữ thái độ trang nghiêm. Không phải vậy, thiền là lúc nào cũng vui vẻ như đức Di Lặc, lúc nào cũng tươi cười, nhẹ nhàng.
Thiền là gì? Nếu nói thiền là sự không ngừng khai mở, thì đúng là tinh thần Bát Nhã. Thế nào là Bát Nhã? Là không ngừng siêu việt ra khỏi cặp đối tượng và chủ thể. Đối tượng và chủ thể lúc nào cũng hiện hữu để cột mình vào cặp âm dương đó. Cho nên Bát Nhã là cái trí không ngừng siêu thoát, thiền là không ngừng khai mở. Chữ khai mở và siêu thoát có ý nghĩa không khác nhau lắm. Có khai mở mới có siêu thoát. Khai mở chính là ra ngoài cái âm dương, cái đối tượng và chủ thể.
Nếu bắt đầu hiểu định nghĩa của thiền là vậy thì mình có thể nói tới những phương thức thiền, những giai đoạn tập thiền. Nếu các bác suy nghĩ và đồng ý rằng thiền là sự không ngừng khai mở thì các bác sẽ thấy rằng mỗi lần mình có được sự nhẹ nhàng của tâm thức thì là thiền. Sáng dậy, mình ra ngoài, mở tay ra hít thở không khí, thấy bầu trời to rộng, cảm nhận được sự khai mở của bầu trời. Đó là một điểm thiền của mình. Rồi bây giờ, cầm ly trà lên uống với một tâm thái nhẹ nhàng, không một lay động, cho ngụm nước ấm vào cổ họng, đi xuống bụng. Mình theo hơi ấm đó để cảm nhận rằng cổ họng mình cũng mở rộng, trong người mình mở ra đón nhận sự ấm áp của nước trà mà không hề kháng cự lại. Tâm mở như vậy là thiền rồi. Thiền ngay trong lúc uống trà.
Thành ra các bác biết đó, có vô số vô biên thời khắc trong ngày để các bác khai mở. Thiền như vậy sẽ có ý nghĩa vô cùng. Người nào cũng có thể thiền hằng ngày mà không cần phải ngồi khoanh chân lại thành hình bán già hay kiết già. Nếu ngồi như vậy thì, thưa các bác, một ngày mình chỉ thiền được tối đa một, hai tiếng là nhiều. Như vậy chẳng lẽ thời đại 21 này người ta không tu được sao? Không phải vậy, thiền ở mọi chỗ, mọi nơi.
Có người định nghĩa thiền là làm sao khiến cho đầu óc đừng vọng tưởng. Muốn đầu óc đừng vọng tưởng thì cũng như mong cho bầu trời đừng có mây. Não bộ của mình lúc nào cũng sinh ra tư tưởng cả. Thật ra, làm sao mong bầu trời đừng có mây được; có mây mới có mưa, có nước. Trong “Cảnh Diệt Tận Định” nói rằng “Đúng là mình không nên có vọng tưởng”. Nhưng thực ra phải nên nói là mình thiền làm sao để không ngừng khai mở, để vọng tưởng không trở ngại trong bầu trời chân tâm của mình. Như vậy có lẽ đúng hơn.
Đó là lý do mà sau này mình từ từ hiểu được, trong thời đại này, ở thế kỷ 21, thiền phải càng ngày càng dễ thực tập và tâm thức mình càng cao, thì mình càng phải tìm đủ mọi cách để khai mở.
* Các giai đoạn khi ngồi thiền hay tu luyện thiền
Ở đây mình nói tới các giai đoạn tu luyện chớ không phải tu hành. Tu luyện là giai đoạn thay đổi của não bộ, của con tim và của khí lực trong người mình.
1. Tự ngã khẳng định:
Là mình khẳng định chủ thể này là ai? Là bản ngã của mình tu hay cái Phật tánh của mình tu? Nghiệp chướng của mình tu hay là cái gì tu? Tự ngã khẳng định nói như vầy: Vừa sáng dậy, bắt đầu ngồi thiền, mình ở trong một căn phòng, một khuôn viên. Tức là sự khởi đầu tiến trình tu luyện, câu đầu tiên mình nói, mình khẳng định ngay chân tâm của mình. Chân tâm không nhỏ hẹp, chân tâm không phải là một đám mây trong một bầu trời vô tận. Bầu trời đó không có thời gian và không gian. Đây là một dấu hiệu tu hành của thế kỷ 21, tức là mình phải nhận diện ra Phật tánh của mình ở ngay bước đầu tiên. Không phải Phật tánh là bước cuối cùng mình đạt được. Và cuối cùng của con đường tu thì mình trở lại bước đầu tiên đó, là Phật tánh ra ngoài không gian và thời gian, vô lượng, vô biên, vô tận.
Khẳng định Phật tánh là thế nào? Khi đứng bên ngoài một căn nhà và nhìn vào, bác có thể nói:
“Ồ, căn nhà rộng quá”.
Đó là quan điểm của một người đứng từ bên ngoài cửa sổ nhìn vô. Nhưng người đứng bên trong cửa sổ, sẽ nói khác:
“Tôi cảm thấy rộng ghê, cảm thấy thoải mái ghê”.
Cũng như khi đứng ngoài, bác có thể nói:
“Ồ, đó là Phật tánh”.
Nhưng khi bác ở trong Phật tánh, Phật tánh đã khai mở trong bác, bác đã ở trong căn nhà Phật tánh nhìn ra, bác sẽ nói:
“Ồ, tôi cảm thấy khai mở (I am open)”.
Ở bên ngoài nhìn vào thì mình thấy Phật tánh, thấy một chữ; nhưng từ bên trong nhìn ra thì là một sự cảm nhận. Cảm nhận đó ở trên thân thể của mình, trên tâm thức của mình, trên da trên thịt. Cảm nhận đó rất mạnh mẽ vì mình ở trong cảm nhận đó thì mình sẽ thấy toàn diện; và trong cuộc hiện sinh của mình, mình cảm nhận từ trong tâm thức đó.
Dấu hiệu Phật giáo của thế kỷ 21 khác với thế kỷ 12. Ở thế kỷ 12, mình đứng ngoài chỉ tay vào nói:
“Đây là ‘Ưng vô sở trụ như sanh kỳ tâm’, đây là ‘sắc tức thị không, không tức thị sắc’, đây là cái chỗ ‘Bất khả tư nghị’”.
Nhưng sự tu hành của Phật giáo thế kỷ 21 đặt ngược lại. Quan điểm này thực sự không phải là quan điểm của thế kỷ 21, mà đã bắt nguồn từ kinh Hoa Nghiêm; từ chỗ ngài Thiện Tài Đồng Tử trở đi, thay vì nói “sắc tức là không, không tức là sắc”, tức là mình diễn tả thì bây giờ mình đứng trong này nói “Ồ, tôi không khoáng, tôi thoáng”. Tôi đây là gì? Tôi đây không phải là bản ngã, mà là Phật tánh. Thay vì nói “Ồ, Phật tánh là không, Phật là không có chỗ nào dựa vào, Phật tánh là không có tư tưởng vọng tưởng”, thì mình nói ngay cảm nhận của Phật tánh là gì: là sự thông thoáng (I am open).
Thưa bác, mình có một loạt những lời tự ngã để giúp các bác có thể ở ngay trong cảm nhận của Phật tánh mà nhìn ra. Do việc ở trong cảm nhận mà nhìn ra, sự tu hành của mình không những dễ dàng hơn mà bất kỳ nơi nào, chỗ nào, mình cũng có thể tu mà không gặp trở ngại. Đó là sự quan trọng nhất của câu “Tự ngã khẳng định”: tự mình không đứng từ cương vị của bản ngã ở ngoài nhìn vào, mà đứng ở cương vị Phật tánh từ bên trong nhìn ra.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 03)
(VienDongDaily.Com - 02/06/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Cho nên thí dụ đứng từ bên ngoài căn nhà nhìn vào và đứng từ bên trong căn nhà nhìn ra là một thí dụ nói rằng bản ngã đứng từ bên ngoài nhìn vào, còn sự nhận biết của chân tâm thì từ bên trong nhìn ra. Nếu bắt đầu nhận được như vậy rồi thì sự tu hành của mình càng ngày càng rõ ràng hơn. Từng bước mình đi là từng bước hạnh phúc, không phải chờ đi hết con đường rồi mới thấy hạnh phúc. Đó là tự ngã khẳng định đầu tiên và quan trọng nhứt.
Khi tập thiền theo kinh Hoa Nghiêm của ngài Thiện Tài đồng tử, tức là cảm nhận từ bên trong ra, tức là mình nói “Tôi khai mở”. Có một loạt rất nhiều khẳng định. Hôm nay thầy chỉ giới thiệu tới các bác một khẳng định là “Tôi khai mở”.
* Làm sao tập?
Mỗi buổi sáng, mình lắng lòng, bước ra mở cửa sổ, nhìn bầu trời và cảm nhận sự khai mở của mình.
Khi đối diện với một vật gì đó, mình có thể thấy tâm, mắt và óc mình đóng lại vì đối tượng mình nhìn. Thí dụ bác nhìn một món ăn rất ngon trước mặt, lòng ham muốn làm bác đóng lại, không còn thấy món ăn đó đẹp hay gì khác nữa, mà bây giờ bác đang muốn ăn cho mau, cho lẹ. Bây giờ đứng trước một bức tranh đẹp, nếu mình cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh tức là mình khai mở. Nhưng khi nhìn bức tranh đẹp, mình lại có ý nghĩ muốn mua. Ý tưởng muốn mua tranh đã đóng mất tâm trạng khai mở. Cũng vậy, nếu các bác đi ngang qua một căn nhà đẹp và ước mong mua được căn nhà đó. Sự tri nhận cái đẹp của căn nhà đã khai mở cõi lòng; khi cõi lòng khai mở thì bác thấy được chân thiện mỹ. Nhưng khi tư tưởng muốn chiếm hữu nổi lên thì tâm mình đóng lại, mình mất đi chân thiện mỹ. Trong khi thiền là sự không ngừng khai mở.
* Không ngừng khai mở cái gì?
Khai mở tâm mình. Nhưng khai mở tâm mình cũng chưa đủ mà phải nói là khai mở chân tâm. Chân tâm khai mở trên quan niệm bản ngã khai mở. Thí dụ đứng trước một bầu trời trong sáng, mênh mông vô tận, có những đám mây mù bay lãng đãng, thì sự chú ý vào bầu trời quan trọng hơn sự xua đuổi những đám mây. Mình muốn ngừng những đám mây, nhưng khó quá. Đám mây tượng trưng cho vọng tưởng, suy nghĩ lung tung của mình. Nếu nói đừng chú ý vào đám mây tức là chưa nói tới nhìn vào bầu trời. Nhìn vào bầu trời tức là nhìn vào chân tâm, nói đúng hơn là khai mở chân tâm.
Có nhiều phương thức, nhưng việc đầu tiên là sự khẳng định, Ta, tức là tôi, là chân tâm. Đầu tiên mình nói lên sự khẳng định để cho mình có một hình ảnh: “Tôi khai mở, I am open”. Nhưng đây chỉ là giai đoạn thứ nhất, bắt đầu bằng lời nói, sự suy nghĩ. Mình nói rồi mình quán tưởng (visualization), hình dung mình là bầu trời vô tận. Đây chỉ là một sự hình dung, hoàn toàn giả, không thật. Nhưng trong ý thức học có nói “Đới chất cảnh”, trong cảnh ấy có một chút thật. Bầu trời vô tận đó không hoàn toàn giả mà nó tượng trưng cho tâm thức vô biên vô tận, ra khỏi không gian và thời gian, mình dùng cái quan niệm “tôi là bầu trời vô tận” hay đúng hơn “tôi khai mở”. Sau khi dùng một thời gian rồi thì nó bắt đầu ảnh hưởng tới thân xác của mình. Làm như thân xác mình bắt đầu cảm nhận sự khai mở đó, khiến đôi khi mình ngồi mà cảm thấy thân thể như tan biến mất. Nhưng chỉ chợt biến mất rồi lại chợt hiện hữu. Những thay đổi này thuộc về sắc ấm.
Nhưng điều này không quan trọng bằng giai đoạn từ lúc mình bắt đầu cảm nhận cho tới giai đoạn thấy, nghe..v.và cuối cùng, qua được giai đoạn hai thì mình đi vào giai đoạn ba, là mình thực sự đi vào cảnh giới khai mở. Do đó bắt đầu bằng những lời khẳng định và sự quán tưởng. Kế đó là cảm nhận được thân xác, thấy, nghe, ngửi, nếm; và cuối cùng đi vào cảnh giới thực sự khai mở. Tất cả những giai đoạn này đều có sự tập luyện cả, nhưng đầu tiên là các bác nói “tôi khai mở” giống như tâm mình là một bầu trời vô tận. Điều này giúp mình nhiều lắm. Nếu có những người tới la lối hay làm mất lòng mình, ngày xưa thì tâm mình đóng lại, nhưng bây giờ mình thấy tâm mình nhẹ nhàng. Hay nhiều khi mình có một món đồ gì mà ngày xưa mình không cho ai mượn, nhưng bây giờ, vì nghĩ rằng mình là bầu trời vô tận, nên mình dễ dàng cho họ mượn hay cho luôn cũng được.
Sự khai mở bắt đầu bằng những chuyện nho nhỏ: bố thí, cho ra; mình mở tâm cho thoáng, hoàn toàn nhẹ nhàng. Đó là giai đoạn đầu tiên của tu thiền, là sự khẳng định, bước đầu tiên đặt làm nền tảng để tiến tới.
2. Điều thân - thư giãn thân thể
Thân thể thư giãn rất quan trọng. Nếu thân thể quá mệt mỏi thì làm cách gì cũng không mở mắt ra nổi, chỉ muốn nhắm lại để ngủ thôi. Nếu có chuyện gì buồn phiền, thân thể uể oải đứng lên không nổi, ngồi ủ rũ một chỗ. Thân thể đang bị căng thẳng sẽ trở nên lừ đừ, mà thân xác lừ đừ rất khó có khai ngộ, khai mở. Nhiều người khi ăn bột ngọt bị nổi mề đay, lưỡi khô, chảy nước mắt, người mệt mỏi. Lúc đó các bác có muốn khai mở cũng không nổi. Do đó, thân thể rất quan trọng.
Khi các bác tập thiền, mình phải nhận ra rằng thân thể mình bị căng thẳng nhiều quá. Bây giờ làm sao trạng thái khai mở phải tương đương với sự khai mở, thư giãn (relaxation) của thân thể. Chữ khai mở dùng cho tâm, nhưng khi dùng cho thân thể thì gọi là thư giãn. Khi thân thể mình lúc nào cũng đầy những căng thẳng, bực tức thì bắp thịt lúc nào cũng co cứng, không giãn ra nhẹ nhàng. Hai vai cứng lại thành hai thanh sắt thay vì mềm mại, nhẹ nhàng; cổ quay qua không được; ngồi xuống rồi đứng lên là đau lưng. Có người nói với thầy, con đang đánh răng, cúi người xuống, rồi ngẩng lên không được vì phần dưới của lưng đã quá mỏi mệt. Nói một cách khác, thân thể tương ứng với tâm. Thân thể căng thẳng cực độ như vậy thì làm sao tâm mình có thể nhẹ nhàng được. Đó là lý do tại sao người tu thiền càng tu, tâm thức càng khai mở, thì họ càng vui, từ lời nói cho tới hành động, nụ cười càng lúc càng dễ chịu và nhẹ nhàng hơn, chớ không phải càng lúc càng nghiêm nghị, nghiêm trang, khó khăn đến độ những người xung quanh không muốn nói chuyện cùng. Họ sợ mình vì chưa bao giờ thấy mình cười cả. Họ thấy điệu bộ, cách ăn mặc, cử chỉ của mình giống như ăn trên ngồi trước khiến họ sợ.
Sự khai mở của thân thể là sự thư giãn. Phương pháp: Thư giãn từ trên đầu trở xuống. Các bác chú ý trên đỉnh đầu, tự nói cho mình biết là “tôi thư giãn đỉnh đầu”, thả lỏng phần đỉnh đầu ra. Rồi mình nói tiếp “tôi đang thư giãn phần trán”, làm cho các bắp thịt nơi phần trán giãn ra; rồi thư giãn mắt, lông mày; thư giãn gò má, lỗ tai, môi, cằm, hàm dưới và lưỡi. Rồi xong tới cổ, vai, tay, ngón tay, ngực, bụng, sau lưng, hai bắp đùi, bắp chân và hai bàn chân…. Khi làm cho thân thể thư giãn như vậy, mình dùng lời nói trong đầu, chú ý tới chỗ muốn thư giãn rồi nói chỗ đó thư giãn thì bác thấy lạ lắm vì vùng da thịt đó sẽ nghe lời mình mà thư giãn theo.
Sự thư giãn này có nhiều tầng, tầng đầu tiên là thư giãn bên ngoài (surface relaxation). Sự thư giãn bên ngoài này mình mới làm sơ sơ thôi, nhưng hiệu quả vô cùng vì sự căng thẳng trên thân mình sẽ giảm đi rất nhiều. Sau đó mình phải thực hành sự thư giãn ngũ tạng bên trong như tim, gan, tỳ, phế, thận, v.v.. Kế tiếp mình còn có sự thư giãn sâu hơn nữa là thư giãn nội khí trong người, khiến nội khí này chạy điều hòa, năng lượng của mình sẽ không chạy lung tung. Nói chung, khi tu thiền, các bác đừng nghĩ là tu tâm không thôi, phải nghĩ rằng tu tâm và thân. Tu tâm mà không tu thân là trật rồi. Bệnh hoạn sẽ ngăn cản không cho mình làm những việc mà mình muốn thực hiện.
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 04)
(VienDongDaily.Com - 09/06/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Thí dụ, có một bác rất thích tu thiền, bác nói rằng tôi sẽ không ăn chay, tôi ăn mặn vì tôi thích ăn cua. Đây là một sở thích cá nhân. Nhưng sau khi tu thiền một thời gian rồi, bác ấy mới phát giác ra rằng càng tu thì càng đòi hỏi mình phải có một năng lực để mình có thể ngồi được lâu, để mình có thể khai mở. Càng ngồi lâu, càng khai mở, càng thư thái thì mới biết rằng nếu tâm thức, thân thể mình khai mở, thì những tham muốn tự nhiên đóng lại. Mỗi lần ngồi thiền mà mình cứ tham muốn ăn cua thì tâm sẽ bị kẹt, cứ ngồi nghĩ tới chuyện ăn đó, tâm sẽ không mở ra được; và thân thể khi có tư tưởng đó thì tự nhiên đau chân. Bác mới biết vì sự không thư giãn của thân mà không ngồi thiền lâu được, cứ nghĩ đến cua thì chân đau, mà chân đau thì không thiền được. Cuối cùng bác quyết định không ăn cua nữa.
Khi bác ngừng không ăn cua nữa thì chuyện gì xảy ra? Bác ngồi đó mà không còn tư tưởng tới cuối tuần hay giữa tuần sẽ đi ăn cua; và bác khám phá ra là khi không còn tư tưởng tham đắm thì ngồi thiền tâm sẽ mở, chân cũng bớt đau nhiều, từ 100% nay còn chừng 3%, nhẹ vô cùng. Té ra là bác thả lỏng thân thể. Thân và tâm đi với nhau, những đau đớn của tâm phản ảnh lên thân, và những đau đớn của thân phản ảnh lên tâm; hai bên ảnh hưởng lẫn nhau.
Càng tu mình càng thấy thân và tâm ảnh hưởng lẫn nhau cực kỳ sâu sắc. Càng muốn tâm khai mở thì thân phải càng phải được thư giãn. Cho nên, định luật quan trọng khi bắt đầu ngồi thiền là phải ngồi sao cho thật thư giãn. Khi thư giãn, từ từ mình sẽ tới trạng thái bất động. Khi nói tới trạng thái bất động, thì xin các bác nhớ cho rằng khi ngồi thiền mình không được động đậy. Gần đây có nhiều người nói với thầy rằng:
“Thưa thầy, con ngồi thiền đạt tới trạng thái cao rồi. Thân thể con dao dộng, lắc qua lắc lại, giống như con đang ở trên một cõi cực lạc hay cảnh trời nào đó. Vậy là con tu cao hay tu thấp?”
Câu trả lời là không phải là bác tu cao hay thấp mà là bác tu trật rồi.
Thiền là càng ngày càng bất động chớ sao lại càng ngày càng dao động, chao qua chao về. Đây là hiện trạng đầu tiên trong kinh Lăng Nghiêm gọi là “phi tinh phú nhân”, tức là ma quỷ sẽ phóng một năng lượng để phú vô người mình, khiến mình không thể nào yên được. Trạng thái bất động, thư giãn là trạng thái của tâm khai mở, trạng thái chân chính tu hành; còn trạng thái ma quỷ thì lúc nào cũng dao động. Nhiều khi mình không nghiên cứu nên không biết nếu bác kêu được một con quỷ ngồi yên trong năm phút thôi thì đó là một chuyện lạ thường vô cùng, vì con quỷ không thể ngồi yên được dù chỉ trong một phút giây thôi. Do đó, khi năng lượng tà, gọi là phi tinh, vô người mình thì mình chao động vô cùng. Sự dao động nếu chỉ là lắc qua lắc về, là nhẹ, thì có thể trị được. Nếu sự dao động đó vô được những vùng luân xa thì những trung tâm năng lượng này sẽ chao động nhiều lắm. Nói theo người Yoga thì thay vì quay thuận chiều, các luân xa sẽ quay nghịch chiều, quay lung tung, khiến người mình càng ngày càng lạnh không ấm áp. Sự giao động này có thể ở trong can, trong tạng của mình khiến mình ngày càng bệnh hoạn và đi tới chỗ tẩu hỏa nhập ma.
Thư giãn và ngồi bất động chính là chìa khóa để biết là chính hay tà. Trong đời này chuyện tà nhiều vô cùng. Chuyện ngồi giao động, lắc qua lắc về, nghiến răng, hò hét bị nhiều người hiểu lầm cho rằng đó là những trạng thái cao siêu. Cao tới độ sắp sửa tẩu hỏa nhập ma. Do đó trạng thái thư giãn thân thể đưa tới trạng thái tĩnh lặng, nhẹ nhàng, không có một căng thẳng nào, là một tiền đề quan trọng của việc ngồi thiền. Nó không phải là việc sống thiền mà là ngồi thiền, cho mình có một sự dễ dàng đi tới tâm khai mở.
3. Điều tức - thư giãn hơi thở
Sau khi thân thể đã thư giãn, mình làm gì để tiến sâu hơn nữa? Bước kế tiếp là mình cần làm cho hơi thở của mình cũng được thư giãn. Thế nào là hơi thở thư giãn? Đó là hơi thở thiệt chậm, thiệt nhẹ. Phổi làm việc rất ít mà mình vẫn có thể sống được. Hơi thở đi rất sâu trong các tế bào mà không bị một ngăn trở nào. Đây là một công phu. Ngày xưa, ngài Trí Giả đại sư gọi là điều tức, điều hòa hơi thở của mình. Bây giờ mình gọi là Breathing relaxation. Hơi thở càng lúc càng chậm lại, nhẹ lại, còn chút chút thôi, khiến cho não bộ mình làm việc. Đây là một bước quan trọng cho những người ngồi thiền. Khi ngồi thiền mà các bác thở phì phò như thở bò, thì sẽ mau mệt, rồi có trăm ngàn tư tưởng nổi lên. Té ra khi bác thở chậm và nhẹ thì mức độ oxygen trong máu sẽ bớt lại, não cũng bớt oxygen, như vậy tiến trình sống của mình sẽ chậm lại; đồng thời vì lượng oxygen lên não ít đi, nên não bộ sẽ phải quyết định để vùng nào hoạt động, vùng nào đóng lại, vùng nào bớt hoạt động và vùng nào phải hoạt động nhiều hơn. Cũng như nếu một tháng bác chỉ có 200 đô la thôi thì bác phải quyết định việc nào quan trọng cần tới tiền, như mua gạo cơm, việc nào có thể để chậm lại, hoặc không cần tới. Với 200 đô la mà bác muốn đi Fashion Island một ngày ba lần thì khó có thể xẩy ra được. Do đó, não bộ trở rất rất hữu hiệu. Não bộ sử dụng số năng lượng ít ỏi vào chuyện gì? Giữ cho con người mình sống còn. Số năng lượng còn lại, não bộ sẽ tập trung vào chuyện mà mình đang làm. Khi não tập trung như vậy thì sẽ thư giãn vô cùng, sẽ không còn đầy những tư tưởng loạn xạ. Não bộ sẽ cảm giác là có đầy đủ năng lượng, đầy đủ sức sống hơn, thay vì loạn xạ vì đủ thứ tư tưởng trong đầu, trăm ngàn thứ. Bây giờ não bộ chỉ còn nghĩ vài ba chuyện thôi. Sự tập trung đó là điều phước lành cho não bộ của mình.
Do đó, nếu các bác thư giãn thân thể rồi mà không thư giãn hơi thở, thì não bộ chưa nhận được một ảnh hưởng mạnh mẽ nào. Cho nên, khi các bác ngồi yên rồi thì nên hít thở thiệt chậm, thiệt chậm. Có người hỏi:
“Thưa thầy, con đếm từ một tới mười được không?”
Bác đếm từ một tới mười không hiệu quả bằng trong một phút bác thở chừng mười hơi hay năm hơi thôi, như vậy hiệu quả hơn. Trong một phút mà bác thở như vậy thì não bộ sẽ chậm lại và tinh tế hơn. Còn nếu bác cứ đếm hơi thở từ một tới mười, rồi đếm trở lại thì mình không biết là mười hơi thở đó tốn bao nhiêu thời gian, mau hay chậm. Nếu mà mau thì não bộ chưa được điều hòa, chưa nhẹ nhàng, chưa tĩnh lặng được. Mình cần cho não bớt căng thẳng, bớt đi những tư tưởng hỗn loạn, không cần thiết. Cho nên hơi thở cần được thư giãn, chậm lại. Điều này quan trọng vô cùng.
Khi hơi thở chậm lại thì cuộc sống của bác cũng thay đổi. Vì sao? Thở là sự sống, sống tức là thở. Nếu bác không tin chuyện này cứ thử ngồi xuống nín thở trong 10 phút xem, bác thấy mình sẽ như thế nào. Nhưng nói vậy thôi chớ các bác đừng làm nhé. Các bác mà làm thì nguy to. Và sự thật là mỗi người mình đều biết thở thật chậm thì không những não bộ sẽ tốt mà mình cũng bớt căng thẳng. Do đó chuyện ngồi cho thân thể thư giãn ra, tâm khai mở nhưng đồng thời hơi thở cũng phải chậm, hết sức thư giãn, thì thân thể mới giảm bớt căng thẳng. Do đó mình thấy tâm khai mở thì thân thư giãn, đi chung với hơi thở chậm rãi và nhẹ nhàng.
Năm Giai Đoạn Khi Ngồi Thiền
http://www.css-sanjose.org/radiokt/index.html
173 - Năm Giai Đoạn Khi Ngồi Thiền 5
172 - Năm Giai Đoạn Khi Ngồi Thiền 4
171 - Năm Giai Đoạn Khi Ngồi Thiền 3
170 - Năm Giai Đoạn Khi Ngồi Thiền 2
169 - Năm Giai Đoạn Khi Ngồi Thiền 1
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
Năm giai đoạn khi ngồi thiền
(Kỳ 06)
(VienDongDaily.Com - 23/06/2011)
Bài giảng của thầy Hằng Trường trên radio Khai Tâm, do Xuân Dung ghi lại
Em này nghe nói vậy liền bằng lòng, vì chuyện này cũng dễ. Nhưng ông sư phụ lại nói:
“Khi con viết, tay cầm bút không được tỳ lên bàn, tức là phải “huyền không đả tự”, viết mà tay ở trên không trung”.
Em này nghe vậy lấy làm thích thú. Mỗi ngày em ngồi xếp bằng lấy bút ra, viết câu: Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã Ba La Mật. Mỗi ngày em viết được một hai chữ, thấy chữ nào không đẹp, em bỏ đi, viết lại, rồi đưa lên trình thầy. Ông sư phụ xem rồi lắc đầu cho biết chữ viết chưa đẹp, cần viết lại cho thẳng và sắc bén. Ngày nào em cũng đưa lên một hai chữ và ngày nào ông sư phụ cũng lắc đầu chê chưa đẹp và em viết lại nữa. Dần dần em khám phá ra rằng chữ viết nhòe nhạt, không thẳng hàng, sắc bén vì tay không được tỳ vào bàn. Cứ như vậy trong vài tháng mà không có tiến bộ gì. Một ngày nọ, ông sư phụ mới bảo em hãy ngồi đây viết cho ông xem, ông sẽ chỉ chỗ sai của em. Em lấy giấy bút ra ngồi xuống bắt đầu viết. Ông sư phụ nói:
“Đây là điều con cần chú ý. Khi viết, con chỉ muốn viết cho xong chữ đó. Nhưng ta muốn rằng khi con viết nét nào thì tâm con trụ vào nét đó.”
Em bé nghe xong thoát nhiên đại ngộ:
“Ồ, như vậy sao.”
Trong vòng hai tuần lễ em không viết 5, 6, 7, 10 hay 15 chữ mà em chỉ viết một hai chữ thôi. Nhưng khi viết chữ nào thì tâm em trụ vào từng nét của chữ ấy. Em đi từng nét, viết nét nào trụ vào nét ấy, không để ý tới việc làm sao chấm dứt nét này. Từ từ an trụ vào từng nét như vậy. Nhờ vậy em mới khám phá ra rằng việc mà em chú ý tới không phải là cùi chỏ tay mà là cái đầu của ngọn bút. Em không ngờ đã bỏ hết sức mạnh tâm linh của em vào đầu ngọn bút. Bây giờ em mới khám phá ra rằng, mỗi nét mình có thể ngừng trụ lâu hơn một chút. Cuối cùng, khoảng ba tháng sau, em không viết xong chữ nào cả. Nhưng khi em cầm cây bút lên viết chữ, từng nét, từng gạch, người nào trông thấy cũng cảm nhận được cả một sức mạnh tâm linh ở trong nét chữ ấy. Ông thầy lúc đó mới gọi em lên hỏi:
“Cả mấy tháng nay thầy không thấy con đưa lên một chữ nào cả.”
Em bèn trả lời:
“Thưa thầy, con hiểu thầy muốn rèn luyện định lực của con. Con không cần phải viết nguyên bài, mà tập làm sao dừng trụ trong nét bút của con.”
Em liền ngồi xuống lấy giấy bút ra viết, từng nét, từng chữ, Lúc này tâm em không còn náo loạn, chạy lung tung. Khi viết một nét, em không nghĩ nét đó sẽ ngừng như thế nào. Em cũng không để ý đến chuyện viết xong rồi thử coi lại xem có đẹp hay không. Em không ngừng trụ ở chỗ nét chữ này dài quá hay ngắn quá mà em chỉ an trụ tâm mình trong nét chữ thôi.
Câu chuyện hơi dài dòng, nhưng rất có ý nghĩa. Đôi khi chúng ta nhìn và muốn có cái đẹp bên ngoài, nhưng định lực lại là một phương pháp hoàn toàn ở bên trong. Đức Phật có nói trong kinh Di Giáo, kinh để lại cho đời sau: “Chế tâm nhất xứ, ngô sự bất biện.”Khi mình có thể giữ tâm ở một chỗ thì không có chuyện gì có thể không làm xong trong vũ trụ này. Em bé này học viết, từ viết cho xong, viết cho đẹp, tới chỗ viết cho rồng bay phượng múa, cho lưu loát: em chỉ dừng trụ tâm trong thời điểm ngay bây giờ, mà không cần nghĩ tới chữ viết sẽ xong, xấu hay đẹp. Kết quả là mỗi chữ em viết ra đẹp vô cùng, có sức mạnh vô cùng.
Đây là câu chuyện một vị thiền sư huấn luyện một em bé 13 tuổi làm sao tập trung. Trong câu chuyện này, đối tượng tập trung là chữ viết, cái kính lúp hay phương tiện là môn viết. Đối tượng này nằm ngay chỗ đầu ngọn bút khiến cho mình nhớ rằng, trong cuộc sống, sự dừng trụ của tâm mình quan trọng vô cùng. Cả nghệ thuật ở đây là sự phát huy những điểm hay của nội tại, tâm linh. Do đó, Chỉ là phương pháp đầu tiên khiến mình ngưng trụ lại.
Bây giờ có một câu chuyện khác. Các bác có biết rằng cái tháp nước đầy và nhiều nước vô cùng. Bác hãy tưởng tượng nếu đục một lỗ nhỏ ngay cái tháp thì nước sẽ chảy mạnh cỡ nào. Cũng vậy khi tâm thức của mình dồn hết năng lực của mình vào một điểm thôi, thì tâm thức lúc đó sẽ có một sức mạnh thác đổ. Sức mạnh đó dùng để chuyển hóa nghiệp, khiến nước trong tháp đựng nước đó chảy ra, khiến tâm thức lưu loát của Phật tuôn ra, lúc đó nó sẽ cuốn đi những nghiệp chướng, quét sạch những bụi bặm của trần lao.
Do đó phương pháp tập trung năng lực của tâm linh để giải nghiệp là một trong những phương pháp cổ truyền nhất trong đạo Phật. Tâm mình càng tán loạn bao nhiêu thì mình càng chiêu cảm nghiệp chướng nhiều bấy nhiêu. Nếu tâm mình càng lúc càng thanh tịnh, có nghĩa là càng lúc càng kiên trú, thì nghiệp chướng mình chiêu cảm càng lúc càng bớt đi; những phước đức, linh tánh của mình sẽ càng ngày càng mở ra.
Thầy xin khuyên các bác, mỗi ngày mình nên im lặng, nên có một chỗ để hướng tâm vào, để chiêu cảm những điều tốt. Mình không nên để cho tâm mình tán loạn vào những hoạt động của vùng tâm thức luân xa số 1, 2 và số 3. Tức là trong vùng tâm thức của ba chữ: dục vọng, tham vọng và chấp vọng.
- Dục vọng là những thứ khiến mình không ngừng muốn tốt, muốn thêm.
- Tham vọng là những mong cầu của bản ngã, cái đạt tới.
- Chấp vọng là những kiến giải sai lầm, chồng chất lên nhau.
Khi mình không để cho chúng quay mình, điều khiển hay nắm giữ mình, mình sẽ ở trong một cảnh giới tự tại, giải thoát hơn.
b. Quán
Thường khi nói tới quán, người ta nghĩ tới việc mình ngồi tưởng tượng ra một chuyện gì đó, hay nhìn vào một chuyện gì đó, v.v.. Chữ quán này đã tạo ra một sự hiểu lầm lớn. Quán nghĩa là sự cảm nhận chủ thể, là cái bản ngã này. Khi ngồi thiền, lúc nào mình cũng có một chủ thể, đối tượng. Chủ thể là mình hay cái bản ngã bên trong. Đối tượng là một điểm hoặc bên ngoài, hoặc trong tâm, trong thân. Thí dụ mình niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật... thì tiếng niệm trong đầu mình là đối tượng, sự cảm nhận, tri nhận đối tượng đó gọi là bản thể hay chủ thể. Chủ thể và đối tượng là một cặp không thể tách rời ra được. Khi tu thiền, nếu mình chỉ có một đối tượng và chuyên chú vào đối tượng đó, thì sự chuyên chú sẽ từ từ càng ngày càng cao, càng sâu. Đó là phương pháp Chỉ.