“Cãi” thánh thần: Bàn về Tâm linh trong Xã hội
“Cãi” thánh thần: Tấm ảnh chụp được quá khứ (I)
14/09/2010 11:00:36
- ... Nhiều người chỉ dùng một “quy trình” cực kỳ đơn giản là: Ông ấy nói - tôi tin – tôi tin vì ông (bà) ấy là người tử tế, tin được.
LTS: Khác với những trào lưu văn hóa khác, cái sai cái đúng dễ bộc lộ sau chiều dài thời gian và những nghiên cứu, xem xét của những nhà khoa học, lĩnh vực tạm gọi là “tâm linh” không phải một chủng loại khoa học dễ phổ biến, dễ nghiên cứu, trắc nghiệm nhưng nó lại vô cùng dễ phổ cập vào đời sống cộng đồng. Vì vậy, khoảng trống nó tạo ra giữa những giá trị thực của những bậc cao nhân đã ngộ chứng, đã tích tụ và hóa giải được những thông điệp của vũ trụ, của tinh thần con người với một đám “thần dân” không nhỏ thuộc dạng “ăn theo” đang làm vẩn đục cuộc sống.
Loạt bài viết này, bằng cái nhìn báo chí, cố gắng soi rọi vào nhiều chiều kích của mớ hỏa mù tri thức, về trạng thái “cận duy tâm” mà nó tạo ra ít nhiều có tác hại cho cuộc sống.
Bee.net.vn xin giới thiệu kỳ 1 của loạt bài viết này với nội dung: Những tấm ảnh chụp được quá khứ
Những chuyện thánh thần
Năm 1994 tôi về công tác tại xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, Đồng Nai. Khi có thì giờ rảnh rỗi thường chụp ảnh cho bà con để làm thân và tăng thu nhập. Một sự cố rất hy hữu và khó hiểu đã xảy ra.
Nhà kia sau khi nhận tấm ảnh tôi trả, khen ảnh đẹp, trả tiền xong tình cờ họ phát hiện ra trong tấm ảnh, đằng sau hình ảnh thật của người chụp khá sắc nét, là một hình mặt người lờ mờ, rất khó nhìn rõ nét nhưng trăm phần có thực.
Gia đình này có hai luồng ý kiến. Cụ bà hơn bảy chục tuổi thì quả quyết đó là hình bóng cụ nội bên ngoại, khi bà còn là đứa trẻ 5 tuổi, có gặp cụ đôi lần và được cụ rất quý mến.
Anh con trai cả, là một nghệ sỹ xiếc mới nghỉ hưu thì lại đoán chắc là ông bác bên nội, ông này khẳng định cái cằm vuông, gương mặt không dài chắc chắn là ông bác đã hy sinh nay hiện về.
Phần tôi, tôi nhớ như in thời khắc bấm máy. Ảnh được chụp giữa thanh thiên bạch nhật, bên sân nhà vào giờ vắng không có ai tới ngó xem gì cả. Đằng sau người chụp là tấm phông được tạo bởi tấm nilon chống mưa mới, khổ rộng màu xanh nhạt. Từ lúc chuẩn bị đến khi chụp xong chỉ mươi phút rồi về.
Do đó, hiện tượng trong tấm hình có một gương mặt khác, dù rất mờ nhạt trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi.
http://bee.net.vn/dataimages/201009/...es482257_1.jpg
Bí ẩn từ những bức ảnh chụp
Gia đình bà H sau khi có tấm hình, đem thờ trên bàn thờ và theo họ, “đường làm ăn” ba bốn năm sau đó mỗi ngày một phát đạt.
Phần tôi, trở nên “đắt show” hơn, ai cũng muốn mời tôi chụp hình để nếu có cơ may, họ thấy được tổ tiên.
Có điều hơi phiền là cứ luôn bị người ta hỏi về chuyện tấm hình kia, tôi cũng phải trung thực nói là “có”.
Một tháng sau, những người hiếu kỳ đến xin coi lại thì hình ảnh ẩn phía sau mờ dần rồi biến hết.
Quanh vùng này, vẫn râm ran chuyện tổ phụ nhà bà H. hiện về trong tấm ảnh. Câu chuyện được những người cao tuổi, đứng đắn chứng nhận bởi chính họ cũng được nhìn thấy ít nhất một lần!
Năm 1997, tôi về bắc, một số người thân hỏi rất kỹ về “thần đèn” Năm Lũy ở Nam Bộ có tài xoay chuyển, di chuyển những công trình kiến trúc nặng hàng ngàn tấn đi rất xa, nhiều khi kéo từ bên này qua bên kia đường quốc lộ một tòa nhà mà người còn ngủ trong đó hoàn toàn không biết. Tôi nói lại với bà con rằng: Chuyện đó hoàn toàn có thực và thêm rằng: Tôi đã thấy ông ta đã chuyển cả tòa cổng chùa Vĩnh Nghiêm nổi tiếng, nặng hàng chục tấn an toàn.
Gần đây, liên tục xuất hiện những tin tức về chuyện người này hóa thánh, kẻ kia thành bậc “tiên tri” với những điều siêu kỳ diệu, đến sửng sốt.
Cùng lúc đó, những mùa lễ hội thi nhau mọc ra, có những loại lễ hội kéo dài cả tháng, cứ như là dân nước này đã rất giàu có, hoàn toàn thảnh thơi và lấy du lịch, lấy việc thờ phượng, hướng về thế giới tâm linh làm vui vẻ và làm nguồn sống chính không bằng.
Trên báo chí, ngay ở mục quảng cáo, để bán một chiếc xe, họ cũng nhấn mạnh đến số “nút” trong biển kiểm soát giao thông của cái xe như một ưu thế hàng hóa!
Có vẻ như đang phát triển song hành một hình thái xã hội, được đặt tạm một định danh là “đời sống tâm linh”. Danh từ này dù rất trìu tượng, nội hàm rất mông lung nhưng được tận dụng, được vận dụng rất xông xênh, thậm chí gián tiếp điều chỉnh một số chính sách về văn hóa, cho phép hoặc khuyến khích những hoạt động theo “trục” này phát triển nhanh như gió.
Sự phát triển, đôi khi đạt cấp độ rất cao này, có hàng loạt căn nguyên nhưng thường bắt đầu bằng những “căn cứ” đại loại như được nêu trên phần mở đầu bài này. Những hình hài, những tình tiết, những vĩ thanh phụ trợ từ những vận động như là có thực này là một tác nhân tạo nên sự ngộ nhận hay kết luận không thấu đáo của ngay một lớp người được xem là cẩn trọng, nghiêm túc. Từ những người này, sức lan tỏa rộng và nhanh hơn, “phổ” vào đời sống cộng đồng một không khí sống mới, nhiều khi rất chông chênh, rất không căn bản nhưng rất mạnh.
Những căn bản trong những điều hy hữu
Tôi phải mất bốn năm trăn trở về chuyện tấm hình nói trên, chưa lý giải được, chưa thể “ăn ngon, ngủ yên” được.
Một hiện tượng có thể nói là kỳ quái mà mình chính mình là tâm điểm. Bản thân mình trở thành “nhân chứng” dù không thoải mái lắm. Kế theo đó là nhiều nhân vật “oai” hơn mình cũng trực tiếp ghi nhận, đẩy vấn đề nêu trên thành một hiện tượng lớn mà những người theo phái duy tâm dùng nó minh họa cho một loại thế lực siêu phàm.
Tôi tiếp cận trở lại với từng “hiệu ứng” của vấn đề, mổ xẻ thật khách quan để hy vọng lý giải được từng phần một những diễn biến đã xảy ra.
Trước hết, chuyện nhà bà H làm ăn tốt hơn, là điều rõ ràng, không tranh cãi.
Khi đi sâu vào thì biết, hộ dân này ở Hà Nội vào, vốn liếng rất mạnh, trước đó vài năm đã mua được một khu vườn đẹp về địa thế nhưng rất tệ về thổ nhưỡng vì đây là vài hecta đất hầu như toàn đá cục, chỉ có một lớp đất mỏng trên mặt, gieo trồng cây gì cũng cằn cỗi, năng xuất thấp. Gia chủ thuộc loại dầy vốn, sau khi thấy khó ăn vì mua lầm bốn hecta đất này, moi đá hoài không xuể liền mua đất đổ vào, tạo một mặt bằng giả để bán tháo. Họ trồng cây chôm chôm lên bề mặt cho “vui mắt”. Khi cây chôm chôm bói lứa quả đầu tiên chính là thời điểm chụp bức ảnh kỳ lạ.
Một năm sau, không ai ngờ, cái vườn xem như xấu với nhiều loại cây nay rất tốt với cây chôm chôm.
Lứa cây này ăn dinh dưỡng của vài ngàn mét khối đất bazan vừa đổ vào để làm hoa trái nhưng cái hay nhất là nó đứng trên nền tảng của một liên kết đất đá gấp ghểnh, lộn xộn.
Do đó, khu vườn này khác hẳn khu khác là sau khi tưới, thoát nước rất nhanh.
Đó là tất cả vấn đề.
Vườn chôm chôm nếu chín sớm, trước tầm tết đoan ngọ, thuộc hàng “đầu mùa” giá cao khủng khiếp. Về cuối mùa, có khi rẻ bằng 5 lần. Có những chủ vườn bỏ luôn không thu hoạch vì tiền hàng không bù nổi tiền công thu hái.
Nhà bà H mỗi lứa chôm chôm sớm, thu ba chục cây vàng, có khi hơn vì bởi mất nước, nó chín sớm hơn của thiên hạ một tháng. Khu vườn của bà được giới cò lái đất, giới nhà giàu đô thị để mắt, dạm hỏi mua lại liên miên. Nếu bán, lãi gấp ba bốn lần khi mua, đắt gấp hai lần những thửa đất đồng đẳng khác kế cận.
Mặc dù gần đây tôi biết, “nó” đã xuống dưới vạch đỏ, giá trị trở lại bình thường vì chỉ vài vụ, cây ăn hết lớp đất màu đổ vào, cũng hết …thiêng , mặc dù nhà bà H vẫn trân trọng thờ tấm hình mười sáu năm nay.
Cái phồn vinh, cái thịnh vượng trong cách nhìn nhận, đánh giá của người dân khu vực nông thôn nhằm thẳng vào những giá trị ấy.
Thật khách quan mà nói, những diễn tiến kinh tế này không liên quan gì đến bức ảnh.
Cuối cùng, nghi án “tấm ảnh thiêng” được vén lên
Bốn năm sau khi chụp tấm hình thần thánh trên tôi bán lại cái máy cho một người mới vào nghề. Chính anh này đã phát hiện ra bí mật: Cái máy Zenit B220 của Liên Xô cũ đời 1995 có thấu kính rất tốt, ảnh chụp rất đẹp, sắc nét nhưng hoạt động của bộ cơ cực kỳ dở. Nó chỉ “bắt đèn” ở tốc độ 30/s. Do đó, nếu chụp đêm, bật đèn mà mở tốc độ 60/s hoặc 125 coi như tối thui, máy không bắt được.
Sau khi chủ mới kêu ca về cái máy, tôi mách anh ta cách xử lý để cứu lấy cuộn phim là tua lại, chụp như bình thường, đỡ đồng nào hay đồng ấy.
Anh ta làm theo và tại đây, một loạt hình “kép” ra đời.
Với những tấm hình đã chụp đêm, với khẩu độ vừa và nhỏ, tốc độ 60/s – 125 /s coi như không vấn đề gì, coi như phim mới.
Nhưng, với ảnh trường sáng sủa hơn bởi các nguồn sáng bổ trợ khác có sẵn như đèn pha, đèn chiếu sáng có cường độ mạnh, đáy phim đã bắt được lờ mờ vật chụp.
Cho nên sau khi chụp ảnh mới, trên phim vẫn còn lưu một hình ảnh rất mỏng chụp hồi đêm trước.
“Ông cố nội” nhà bà H bốn năm trước chính là dạng này, chính là ông bạn tôi ở một cây xăng gần đó tôi mới chụp kỷ niệm nhưng quên không “về” tốc độ 30/s. Hôm sau, vì tiếc tiền hơn chục kiểu phim đã chụp hư nên tôi đã tua lại, dùng lần nữa.
Nhưng, sự lý giải rõ ràng này sau bốn năm không còn ý nghĩa gì nữa. Cái máy ảnh Liên Xô có lẽ đã vào bảo tàng. Ở Hưng Lộc, cuộc sống đã ầm ầm chuyển động. Nhà bà H cũng đã về thành phố. Những người biết câu chuyện năm xưa nay đã tản tán mỗi người một nơi, có muốn giải thích với họ cũng không được nữa.
Một kết luận sơ bộ được rút ra: Mỗi sự thể, dù là sự thể kỳ quái đến mấy đều có một căn nguyên chính đáng, có cái dễ tiếp cận, có cái cần một chiều dày thời gian, một sự trắc nghiệm, trải nghiệm, một phân tích hay phản biện thật tinh tường, nghiêm cẩn, khách quan mới “ra vấn đề”.
Nhưng đa số không chọn phương pháp tư duy này mà nhiều người chỉ dùng một “quy trình” cực kỳ đơn giản là: Ông ấy nói - tôi tin – tôi tin vì ông (bà) ấy là người tử tế, tin được.
Tuy nhiên, từ “người tử tế” đến tư cách của một người biết quan sát, có tư duy khoa học, có đủ điều kiện để kết luận, phát ngôn là một khoảng rất lớn, nhiều khi hàng thế kỷ.
Kỳ tới: Câu chuyện ở nghĩa trang Trảng Bàng
Nguyễn Huy Cường
"Cãi" thánh thần: Vào hang học cọp
"Cãi" thánh thần: Vào hang học cọp
Có nhiều điều để nói về các “thầy” này nhưng tựu chung, tôi nghĩ hiếm thầy nào đọc được cái quy ước, cái lời nguyền ba điểm dành cho giới làm thầy mà thầy tôi nói trên đây: Nhất bần, nhị tử, tam vô tự.
Thoải mái như tây!
Nhìn khái quát, dân tây ít duy tâm hơn dân ta. Có lẽ trong đời sống tinh thần của họ nếu theo Thiên chúa giáo chẳng hạn thì chỉ có Chúa là hình tượng gần như thượng tôn để họ sùng kính hay muốn được che chở.
Nhưng ngay trong hình tượng này, họ cũng chỉ nương nhờ một cách… đại thể, nhiều khi như một thói quen, một nét văn hóa. Tôi đã tiếp xúc và phỏng vấn nhiều trung niên Ý, Ba Lan là công dân của những nước gần như theo Cơ đốc giáo toàn tòng thì thấy, họ hiểu biết về tôn giáo của họ thực chất cũng không được bao lăm. Ngày chủ nhật, ngày lễ trọng có gần nhà thờ, có điều kiện thì đi, không thì thôi, vẫn đi du lịch, cặp bồ, câu lạc bộ vui vẻ, thoải mái mà không hề coi đó là “phạm thượng” là “tội lỗi” hay sự khiếm khuyết.
Ngay trong đội ngũ những người theo Chúa Giêsu cũng chia làm nhiều ngả. Nước Mỹ, Canada và vài nước khác theo phái Tin Lành, thì còn đơn giản hơn, hình tượng để họ thờ phượng duy nhất là cây thập giá. Họ không công nhận hình hài, đường nét của các họa sỹ tạo ra mà ai cũng đẹp, ai cũng cao sang như rất nhiều, rất nhiều hình thể về chúa cha chúa con, Đức mẹ, các Tông đồ bên châu Âu.
Ấy vậy nhưng nếu quan sát về mặt hiện tượng, xem như Chúa cũng dễ tính, Ngài không thấy cách thờ phượng đơn giản, cô đọng của người Mỹ, Canada là khiếm khuyết, là lỗi hay là thiếu tôn trọng, thiếu niềm tin với ngài, ngài vẫn tạo điều kiện cho các con chiên của ngài luôn có cuộc sống ổn định, tăng trưởng cao nhất nhì thế giới.
Trở lại Việt Nam, hai mươi năm đổi mới vừa qua, có lẽ sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất, nằm trong 05 nhóm: Bưu điện và viễn thông. Dòng âm nhạc hỗn độn tạm gọi là “nhạc trẻ”. Y tế và giáo dục tư nhân. Hệ thống văn bản pháp quy kể cả Luật và dưới luật.
Cuối cùng là sự phát triển gần như mất kiểm soát của đền đài, chùa chiền. Các trường phái tôn sùng, hành đạo theo các trường phái đó. Lễ hội và các dịch vụ ăn theo.
Trong bài này thì tôi liệt kê “nó” ở dòng cuối nhưng để dễ nhấn mạnh nhưng trong đời sống, nó can dự, chi phối vào đủ mọi hang cùng ngõ hẻm của lãnh thổ, hang cùng ngõ hẻm của tâm hồn con người và chen vào cả việc tiêu tiền từ ngân sách quốc gia.
Vào hang học cọp hay có bao nhiêu “kiểu” cận duy tâm
Ngày xưa cả huyện hai vài huyện chỉ có một ông thầy bói. Ông này để chỉ dạy được thiên hạ là đã phải trải qua cuộc “sôi kinh nấu sử” hàng chục năm và phải có “duyên“ với nghề mới trụ được.
Gần đây, khi thực hiện loạt bài này, tôi tìm lại được một vị, tuổi 82 những còn tráng kiện ở trên núi Tam Đảo. Cụ này thuộc bậc cao lão khả kính ở ngoài đời và là một thầy tử vi mạnh vào thập niên sáu mươi-tám mươi. Với tôi, trước đây cụ là “thần tượng” của riêng mình vì tôi tận tai nghe cụ tiên đoán đúng vài vấn đề vĩ mô, trong đó có vụ cụ nói trước năm mất của một lãnh tụ.
Dù vẫn giữ nguyên tìm cảm kính mến của tình bạn vong niên trước đây nhưng lần này, tôi ngầm đặt cụ vào đối tượng để trắc nghiệm. Tôi hỏi cụ: Thưa cụ, cháu có đứa cháu sinh 7 giờ 02 phút ngày 15 tháng 2 dương lịch, giờ đó là giờ gì?. Cụ đáp rất nhanh: Giờ Thìn!.
Tôi lại vờ hỏi: Mẹ bạn cháu mất, định ngày kia (ngày 26 tháng 4 năm 2010) chôn cất, xin cụ tính giùm.
Cụ nhẩm tính rồi phán “Không được” Ngày này có “cô thần” giống như “quả tú” với người ở dương thế. Chôn cất xong, không ai đến thăm viếng gì nữa. Cùng với cái “cô thần” kia là vài nét khác, bất lợi cho con cháu.
http://bee.net.vn/dataimages/201009/...486984_D13.jpg
Đến đây, tôi giở bài ngửa ra trong một trình bày thận trọng và nghiêm chỉnh. Tôi trưng ra hai quyển sách, giở sẵn ra các trang cấn chứng minh, bản dịch tốt của những trang này, bản coppy để cụ giữ lại đối chứng sau này, sách của Trung Quốc và một bản của Nhật. Tôi đọc rõ một nguyên tắc chọn giờ khởi trong thuật tử vi. Tại đây nếu theo quy định như một cái “chuẩn” thì cụ đúng. 7 giờ 02 phút là giờ “Thìn” bởi vì từ 7 giờ đúng đến 9 giờ đúng là giờ Thìn (hiện còn có học giả đề nghị xem xét lại “chuẩn này” và đặt ra nghi vấn: có thể giờ tý khởi từ đúng 12 giờ. Vấn đề này ta bàn sau).
Nhưng, ngay bậc thầy khả kính kia chưa thấu tới một quy định khác là cung giờ có xê dịch theo vận động của Thái dương hệ. Nghĩa là nó cũng sớm lên, muộn đi chút ít theo mùa. Vào thời đểm giả định tôi đặt ra để hỏi thầy, giờ tý khởi chậm mươi phút cho nên, 7 giờ 2 phút thực ra vẫn ở cung giờ “Mão”.
Đến chuyện xem ngày chôn cất. Thầy đã đúng tất cả. Ngày này là ngày “độc” hầu như không thể làm được bất cứ việc gì, nhưng dùng chôn cất rất tốt. Tôi trình thầy văn bản ghi rõ nội dung này.
Sau trao đổi này, tôi nghĩ thày sẽ buồn nhưng không, thầy vẫn điềm tĩnh,
“Cháu biết không, ngày xưa khi quen biết mấy lần cháu bày tỏ ý muốn theo tôi học nghề nhưng tôi gạt đi mặc dù tôi rất quý cháu, quý cái sở học của cháu. Nếu cháu muốn học thì chắc không khó khăn lắm.
Điều tôi chưa nói hết hồi đó là: Nghiệp làm thầy, phải chịu ba cái nghiệt là:
Nhất bần
Nhị tử
Tam vô tự.
Nếu không nghèo thì chết non, nếu không chết non, không nghèo thì không có con kế tự. Ác thế đấy.
Tại sao một nghề đem tri thức thượng thặng như vậy để làm vui cho đời, để tránh hậu họa cho người mà phải trả giá như vậy cháu biết không?
Hai nét cháu vừa đưa ra để “thử” tôi có thể đúng. Tôi có thể sai. Chuyện đó là bình thường.
Tiền nhân dạy “Thiên kinh vạn bản” để nói lên rằng, tri thức nhân loại được đúc kết theo vô vàn trào lưu, vô vàn phương pháp và được ghi ở vô vàn văn bản hay truyền khẩu khác nhau. Thày có thể tiếp thu được nhiều vấn đề nhưng không thể tiếp thu hết mọi vấn đề.
Nếu cái sai của thầy ở dạng như trường hợp bốc ngày cho người ta chôn cất trên đây chỉ tước đi một ngày tốt, một cơ may thì ở quẻ tử vi, nếu nay mai thực hiện các “nghiệp vụ” khác sẽ sai hết. Vợ chồng có thể li tán, các tín hiệu gia sự bị phỏng đoán sai hướng v.v…
Chính lúc này, thầy mắc tội rất lớn, tạo nên tình cảnh “Gà lành biến thành gà què” là chuyện thường. Chuyện nhầm lẫn này, nhiều khi là một mạng người.
Trong một cuộc đời làm thầy, không hiếm những nhầm lẫn như vậy.
Bởi thế, mươi năm nay tôi nghỉ xem bói, chuyển qua nghề chăm cây cảnh và đọc sách. Mười năm qua, tôi đọc cỡ 50 đầu sách lớn của nhân loại mà vẫn chưa “đọc” được điều cháu đề cập hôm nay!.
Tôi chia tay thầy, lòng trĩu nặng một nỗi âu lo không tên tuổi: Ngày nay, ở xứ ta, thày bà mọc lên như nấm sau mưa, nấm độc, nấm lành chen vai thích cánh….
Có nhiều điều để nói về các “thầy” này nhưng tựu chung, tôi nghĩ hiếm thầy nào đọc được cái quy ước, cái lời nguyền ba điểm dành cho giới làm thầy mà thầy tôi nói trên đây: nhất bần, nhị tử, tam vô tự.
Họ đang hành nghề theo yếu tố thứ tư “…. nhưng mau giàu, nhưng dễ được người đời “kính nể”.
Nguyễn Huy Cường