Printable View
CON ĐƯỜNG TU TẮT - PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Đắc-Ngộ
Đôi Liễn Ấn-Quang Pháp-Sư
Soạn Giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm
Lược Các Sự Tích Vãng Sanh
Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.
Nay tôi xin kể lại sơ lược một vài sự tích vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu và Việt Nam ta để quí vị Đạo Tâm rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ.
1.- Đời Đường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói:‘’Ông tu muộn quá e không kịp vãng sanh’’. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ 1 tới 10 Câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng Vãng Sanh. Sau vì bị Bệnh nên Ông vào Chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, Ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây mà niệm Phật. Giây lâu Ông nói rằng: Phật với Qáan Âm, Thế Chí đều đến rước ta. Nói xong bái rồi hết thở.
2.- Đời Tống, 3 Cha Con của Ngụy Thế Tử với 1 Quận Chúa đều tu theo Tịnh Độ, trừ ra Phu Nhân là ăn mặn. Sau, Quận Chúa chết yểu: Sau khi liệm xong, quàn lại 7 Ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan tài ‘’Ngộp lắm’’ nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận Chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, Nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều Bông Sen búp lớn gần bằng bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên Cha, 2 bông nọ còn có tên 2 anh nữa, con kiếm cùng không có tên Mẹ nên con xin phép Ðức Phật Di Ðà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh Độ thì sẽ có 1 bông sen mọc ra dành cho Mẹ cũng như của Cha, của 2 Anh và của Con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước Mẹ về cho Liên Hoa hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới. Muốn ăn vật chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát biến mất khỏi rửa. muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng 1 hương nào có mùi hương nấy. Ðược dạo xem 100 thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có 7 thứ Chim tốt lạ; có 5 sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng Kệ Kinh. Lại mát mẻ như mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục Thông, thành Bậc La Hán, đi dạo trên khắp thế gian.
Tòa Sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực Lạc khoái lạc 10 phần kể sao cho xiết. Xin Mẹ ráng Tu, sau Lâm Chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không dám trễ phép, cúi xin bái tạ Cha Mẹ con lên Tòa sSn về Nước Cực Lạc. Quận Chúa tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.
Từ đấy Phu Nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh độ niệm Phật hơn Chồng Con. Sau mỗi người lâm chung đều biết Ngày Giờ trước. Ðến ngày Liễu đạo, Phu Nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ 10 Câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng Chư Phật. Bốn người Lâm Chung như vậy thiệt cả nhà có Phước, sống hưởng Lộc, thác được Vãng Sanh.
3.- Ðời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Ði điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng: ‘’Chúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.’’ Người có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Ðộ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Ðà cao 16 thước mộc thờ lạy. Ðến lâm chung, Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.
4.- Ðời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đău đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15 giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.
5.- Ðời Ðường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Ðỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông sen lớn.
6.- Ðời Minh Liên, Hoa thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Ðến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.
7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi, cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.
8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.
Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói vớI cháu tên Ðiện Phương rằng: ‘’Ông tu Tịnh độ đã thành công, Phật mach bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh.’’ Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.
9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn. Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Ðiện Phương nói với ông: ‘’Tuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiền’’. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương hay rằng: ‘’Hồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm Phật đến hết thở.’’
10.- Ðời Ðường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.
Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng: ‘’ Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?’’ Có một trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: ‘’Tự ý con theo thầy về Tây phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.’’ Ðồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch theo.
11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, Ông Cha đều là Tú Tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, Cha Mẹ Ông Bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu làm lính hầu mới 13 tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào Chùa lạy Phật ăn chay trường. Mỗi Đêm, Ông tụng 1 cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến Năm 16 tuổi, Trương tướng quân đem Bạc phát lương cho Lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà thỉnh tượng Ðức Phật Di Ðà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Ðà. đến năm Ðinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân rằng: ‘’Tôi muốn về Tây Phương’’. Tướng Quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Ðề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15 roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: ‘’Mùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây Phương.’’ Ðến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay, tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.
12.- Ông Thẩm Thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ Tuyên Hóa làm Nghề thợ mộc. trên 70 tuổi ăn trường chay niệm Phật tu Tịnh Độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Ðến năm Khương Hy thứ 10, Tháng 3 Ông biết Ngày Phật rước. Trước 3 bữa giã từ bà con bạn hữu và nói Ngày Giờ mình Vãng Sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông nói với con dâu rằng: ‘’Mai là Rằm ( 15 ) Cha sẽ vãng sanh Tây Phương’’. Rạng Ngày gội tắm thay áo, Ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để Ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu Niệm Lớn, dần dần Nhỏ đến khi mòn hơi.
13.- Ðời Ðường, Vợ của ông Ôn Tịnh Văn ở Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, Vợ vâng lời nằm Niệm Cả Năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với Chồng rằng: ‘’ Thiếp thấy Phật mách bảo Tháng Sau sẽ Vãng Sanh’’, và dặn Cha Mẹ Chồng ráng niệm Phật sau chắc Vãng Sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.
14.- Ðời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Ðường, Ngày Đêm niệm Phật tụng Kinh Di Ðà. Sau có bệnh rước Thầy giảng Kinh. Giảng chưa rồi, Bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Ðêm nọ Cung Thị về báo mộng, mách bảo rằng: ‘’ Ta đã về Tây Phương Cực lạc, 7 Ngày nữa Người cũng Vãng Sanh’’. Ðến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà chết ngồi.
15.- Ðời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh Đui Cặp Mắt. Gặp người ta khuyên niệm Phật, bà liền nghe theo; 3 Năm sau Mắt Bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem Phướng và Bảo Cái đến rước, liền Ngồi mà mãn phần.
16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty Lăng, là Vợ của ông Phan Hướng Cao, cũng là Cư Sĩ. Vợ Chồng đồng tu Tịnh Độ, tụng Kinh Kim Cang. Hôm mai tụng Nhật Khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm Canh Thân tháng 7 có Bệnh, biết trước Ngày 27 Giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho Con Cháu hay. Ðến kỳ, Con đến mời Các Đạo Hữu đến niệm Phật tiếp và Ngồi niệm Phật đến mãn phần.
TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
HT. Thích Thiền Tâm
Soạn thuật
http://quangduc.com/a10727/tay-phuong-nhut-khoa
http://daibitam.vn/upload/phat-phap/...-nhat-khoa.pdf
CHỨNG NGHIỆM VÃNG SANH
( LƯỢC TRÍCH )
1. Đời Thanh " Si Đầu Đạo Sĩ " họ Vương, người ở Trực Lệ, rất ngu độn. Ăn mặc thiếu thốn, nhà nghèo nàn, không biết làm nghề gì để sanh sống. Hoặc có ai cho tiền, cũng không biết đếm số nhiều hay ít.
Thế nên ở Kinh Ấp, Trần Đạo Nhơn xót thương thâu làm Đệ Tử, sai khiến quét am lượm củi, mỗi buổi sớm thời niệm Phật Di Đà vài trăm câu, rồi Lễ Lạy, Cúng dường Hương Hoa lấy đó làm chừng mực.
Si Đầu niệm Phật chẳng thành ( rõ ) tiếng, mỗi khi Hôn Trầm muốn Ngủ gục, thì bị Đạo Nhơn lấy Gậy đánh và nói rằng: " Ông ngu muội như thế, chẳng biết tinh tấn hay sao ".
Bị đánh 3 lần như thế. Một bữa, bỗng nhiên Cười ha hả, bị Đạo Nhơn đánh vài cây. Si Đầu liền thưa: " Ngày nay, Thầy không đánh Con được đâu ". Thầy hỏi lý do, Ông đáp: " Thầy khô tọa ( Ngồi im luyện Tinh, Khí, Thần ) 18 Năm, chẳng biết tu Chánh Pháp. Nếu có thể như Con già dặn Niệm Phật, thì sớm được Vãng Sanh Tây Phương thấy được Phật vậy.
Đạo Nhơn lấy làm lạ kỳ, mà không lường nổi lời nói của Đạo Sĩ.
Ngày hôm sau, Si Đầu lên trên tảng đá đầu núi, hướng về Phương Tây mà chắp tay đứng thẳng mà tịch. Hỏa thiêu được Xá Lợi 2 Viên.
( Trích Nhiễm Hương Tập )
Lời bình:
Đạo Sĩ mà Vãng Sanh, xưa nay ít nghe. Nay, Si Đầu là Người ngu muội, là Người từ ngàn xưa tới giờ, mà Những Người tu Tiên ( Hoàng Quan đội Mũ Vàng ) lại thường nói: " Ta học Phép Thần Tiên, còn Niệm Phật là để cho Người tối tăm ngu dốt làm ". Than ôi ! Đâu chẳng phải trở lại bị Thông Minh làm lầm hay sao ?
2. Đời Thanh có Ngô Sanh người xứ Hàng Châu. Ông Cha đều là Nho Sĩ Thư Sinh, Năm đầu đời Thuận Trị, binh giặc vây thành, Cha Mẹ đều chạy thất lạc. Ngô Sanh bị người cướp lấy đem nạp cho Trương tướng quân để hầu hạ sai khiến.
Sanh năm đó mới 13 tuổi, tự than rằng: " Ta vốn con Nhà Nho, nay phải đến đỗi hạ tiện như vầy, ắt là Nghiệp đời trước ", liền đối trước tượng Phật lập thệ Ăn Chay Giữ Giới Niệm Phật, hằng ngày tụng Kinh Kim Cang, Hồi Hướng Tây Phương.
Năm 16 tuổi, Bổn Quan phát lương tiền cho binh nghèo, Sanh liền lấy tiền mua Hương cúng Phật, quỳ tụng A Di Đà Phật Thánh Hiệu, sau đó bỗng thưa Bổn Quan: " Con muốn sanh về Tây Phương ". Bổn Quan chẳng tin, quở trách là dối trá để lòe người.
Ngày kế lại đến trước Quan Đề Đốc xin Nghỉ việc, Đề Đốc giận sai Bổn Quan đè xuống đánh 50 roi, Sanh không giận oán chút nào, lại hướng về Các Quan trong Dinh từ biệt. " Ngày kế, tôi sẽ về Tây Phương ". Đến kỳ, Sanh tắm rửa, đốt Hương, Lễ Phật xong, liền đến trên thuyền của Bổn Quan từ biệt, Bổn Quan giận quá khiến binh đuổi đi. Thấy Sanh hướng về Tây lễ Tam Bái, Ngồi Kiết Già nói Kệ rằng:
" Thân ở trong dinh Tâm Xuất Gia
Thân mang giáp trụ ấy Ca Sa
Mỗi đao thân thấy Di Đà Phật
Tên bắn vừa ra nở Liên Hoa "
Nói xong liền trong Miệng phun ra Lửa thiêu đốt thân thể. Toàn thể Các Quan trong Dinh, đều từ xa quỳ lạy lễ bái. Từ đó, toàn thể Các Quan đều Phát Tâm Trai Giới Niệm Phật.
( Trích Liên Tạng Tập )Lời bình:
Tự phun ra Lửa đốt thân, nếu không phải là Bồ Tát hiện thân, thì cũng là Bậc đã chứng " Niệm Phật Tam Muội ". Người đời sau cẩn thận, chớ vọng tưởng muốn được như thế, khiến cho Ma dựa phát cuồng vậy.
3. Xưa ở Thiên Trúc ( Ấn Độ ) nước A Du Ca, Có 1 Bà La Môn, ngu si không trí, tâm luyến ái vợ rất nặng, chẳng biết nhàm chán. Người vợ lại tin Phật, mỗi đêm đánh 3 tiếng trống đồng xướng Niệm danh hiệu Phật Di Đà rồi Người Chồng mới được vào phòng ngủ.
Cô ta liền giao hẹn với Chồng, mỗi đêm cùng đánh trống đồng Niệm Phật rồi mới được Ngủ. Người Chồng vâng lời thực hành được 3 Năm, rồi bị Bệnh và Chết. Năm Ngày sau Sống dậy, Khóc và Nói với Vợ rằng: " Tôi chết bị đọa vào Địa Ngục Vạc Dầu, Quỷ Sứ lấy Gậy sắt đánh tội nhân, gậy trật và trúng vào Vạc Dầu phát ra tiếng lớn, tôi kinh sợ hoảng hốt, lúc đó bỗng nhớ tiếng trống đồng khi Niệm Phật, liền xướng: " NA MÔ A MI ĐÀ PHẬT ".
Tức thời, Vạc Dầu biến thành Ao Nước Mát, trong đó Hoa Sen mọc đầy, tội nhân bị nấu đều Ngồi Hoa Sen và được Sanh về Tịnh Độ.
Diêm Vương hoan hỷ tha cho tôi trở về Dương thế. Liền nói Kệ rằng:
" Nếu người tạo nhiều tội
Đáng đọa vào Địa Ngục
Vừa nghe Hiệu Di Đà
Lửa dữ hóa Sen Hồng "
( Trích Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược )
4. Trung Hoa Dân Quốc, đất Từ Khê có 1 Người đàn bà nghèo, quên sót Tên Họ, Có 1 đứa Con tánh lại ngỗ nghịch bất hiếu, 1 Ngày nọ bà bị Con mắng chửi, Lòng rất sầu khổ. Bà liền đến Chùa gần Nhà than thở với 1 Vị Tăng.
Vị Tăng ấy hỏi: " Bà đã biết Khổ sao chẳng Bán Khổ cho rồi ". Bà đáp: " Làm sao Bán Khổ cho được ? ". Vị Tăng ấy đáp: " Bà chuyên Niệm Phật Di Đà, Cầu sanh Tây Phương, Lâm Chung Phật đến tiếp dẫn, thời vĩnh viễn thoát ly Sự Khổ, hưởng thọ các điều vui, đó là Bán Sự Khổ vậy. "
Bà thưa: " Mẹ Con tôi ở chung Phòng, Nấu cơm cùng ở trong đó, dưới Giường lại nuôi Heo, như thế thật nhơ nhớp không sạch sẽ, làm thế nào Niệm Phật cho được ? ".
Vị Tăng ấy đáp: " Bà ở tại Nhà, chỉ Niệm Thầm, lúc Rảnh đến Chùa Lễ Phật cũng không ngại gì ".
Bà liền vâng lời dạy về Thực Hành, tha thiết Chí Thành Niệm Phật để Cầu thoát khổ, Niệm Phật Không Gián Đoạn. Ba năm sau, Bà bảo Đứa Con rằng: " Ngày ấy Mẹ sẽ về Tây Phương, Con nên lo liệu cho Mẹ để trọn tình mẹ con".
Đứa Con không tin. Một ngày nọ bỗng nghe Mùi Thơm Lạ đầy Nhà, Nó chẳng biết Mùi ấy phát ra ở đâu, kiếm tìm mãi không được. Lúc ấy mới tin Lời Mẹ là Thật không dối.
Đến kỳ thấy Mẹ tắm rửa sạch sẽ, Mặc áo sạch, quả nhiên đoạn tọa Niệm Phật rồi An Tịch. Lúc bấy giờ nhằm Năm Dân Quốc thứ X ( 1921 )
Lời bình:
Như bà nghèo này, không biết Giáo Lý gì, chỉ Thành Tâm chán khổ Ta Bà, Niệm Phật tha thiết Cầu sanh Cực Lạc mới vài năm. Lại có thể biết Ngày Giờ trước, Hương Lạ đầy Nhà, an nhiên Ngồi ngay mà hóa....Mới biết Pháp Môn Tịnh Độ thật không người nào chẳng tu được, chỉ cần Tu cho Chắc, Nguyện cho Thiết, Hành Trì Liên Tục thời khóa không gián đoạn thời chắc chắn được Vãng Sanh hiện tiền vậy.
( Trích " Tịnh Độ Thánh Hiền Lục " )
5. Dân Quốc, Tra đồng nữ tên Lục Khánh. Người đất Cửu Giang là con Tra Tân Thần cư sĩ. Cha Mẹ bé gái và em đều Quy y Phật Pháp. Dân Quốc, Năm Ất Dậu ( 1945 ), Đồng Nữ được 6 tuổi, nhằm Ngày 23 Tháng 7, Mẹ em sửa soạn đến Hội Niệm Phật Cư Sĩ Lâm để Niệm Phật.
Đồng Nữ cũng xin đi theo Mẹ, Ngày kế có chút Bệnh, trọn Ngày tay tự Kết Thủ Ấn, sau Bệnh chuyển Nặng.
Cha Mẹ em khẩn thiết Cầu Đức Quán Âm Bồ Tát gia hộ cho em mau Lành Bệnh. Đồng Nữ bảo " Con sẽ đi Tây Phương ", vừa Nói vừa Chỉ hướng Tây. Cha Mẹ nói: " Con nên đi vậy ", Đồng Nữ chắp tay Niệm 1 Câu " NA MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A MI ĐÀ PHẬT " rồi nhắm Mắt mà Mất.
Gương Mặt hồng hào tươi tỉnh như Người Ngủ không chút chi gọi là Bệnh Khổ.
( Trích Cận đại Vãng Sanh Truyện )
=======
Ông Ngô Mao đời Thanh là đầy tớ nhà họ Ngô ở Thanh Dương. Trì trai niệm Phật, kiêm tu các điều lành.
Lúc quân Thanh vượt sông, cả nhà họ Ngô chạy trốn hết, mình ông Mao ở lại giữ nhà, bị quân Thanh đâm bảy nhát thương chết đi. Lúc đã yên, chủ trở về, ông Mai tỉnh lại bảo:
– Do túc nghiệp, lẽ ra tôi phải làm thân heo bảy đời, nhờ trì trai niệm Phật nên bảy nhát thương đó tiêu tan oan khiên, niệm Phật đến tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương!
Nói xong, chắp tay niệm Phật qua đời.
(theo Quả Báo Văn Kiến Lục)
Nhận định:
Niệm Phật tu thiện nhưng bị chết thảm; nếu như không sống lại để tự trình bày thì làm sao biết được ông đã chuyển báo nặng trong thân sau thành báo nhẹ hiện đời, được Phật tiếp dẫn vãng sanh?
Phàm những ai làm lành niệm Phật mà gặp nghịch cảnh hãy nên tỉnh ngộ, mừng rỡ và càng thêm tinh tấn!
http://www.duongvecoitinh.com/index....ung-chet-tham/
2.- Vương Mạnh Lân ở Núi Côn Lôn, làm Thầy dạy học, cứ lo Niệm Phật Di Đà. Triều Thanh Vua Khang Hy năm thứ 41, thì Vương Mạnh tuổi 70 thừa, đến Tháng 11 có Bệnh, bằng hữu trong xóm là Châu An Sĩ qua thăm, Mạnh Lân nói: " 17 này đến vía Phật Di Đà, hôm ấy Ngài rước tôi về Tây Phương ". Rạng đông 17, Châu An Sĩ thương tình đạo hữu qua thăm, thấy Mạnh Lân còn khỏe lắm mà giảng rằng. Thầy phải Phát Tâm Bồ Đề lo về theo Phật. Nói nhắc Kinh Kệ một hồi, ra ngoài dặn Con của Mạnh Lân đừng Khóc và Niệm Phật tiếp, kẻo Cha ngươi xao lãng mà uổng công. Dặn rồi, về Ăn Cơm xong. Khi trở qua, Mạnh Lân đã Niệm Phật mãn rồi.
Lúc Lâm Chung cần hơn hết, Người nào bệnh thường, Ăn Chay Giữ Giới, Làm Phúc Bố Thí, thì Lúc Lâm Chung mới minh tâm kiến tánh, thanh tịnh, không có sự gì xao lãng, vì sao lãng thì cái tâm thần không gom về 1 mối siêu thăng, còn vọng niệm lo công việc nhà bối rối. Nếu mọi người trong gia đình Hộ Niệm, Niệm Phật cho Người nghe để Người Bệnh mượn hơi, là cách đưa đi êm lắm. Nếu kêu hỏi khóc than, thì Người yếu mệt sẽ bị Vọng Niệm, không phải kêu gọi là kéo lại được. Nếu muốn hỏi việc nhà, thì hỏi lúc mới bệnh trối trăn rành rẽ, đừng để lúc yếu mệt làm rộn, báo hại uổng công Tu Niệm bấy lâu, nếu tâm thần người bệnh đã điên đảo, gia đình lại kêu khóc, thì Phật không đến rước, Hồn phải sa đọa. Sau dù có thỉnh Sư tụng Kinh Cầu Siêu Độ cũng không ích gì.
3.- Châu An Sĩ là học trò thi Tú Tài ở Núi Côn Lôn, lại thông Kinh Địa Tạng, khuyên Người tu Tịnh Độ, lúc Ông mới tụng Kinh Di Đà đến Câu: " Bất khả dĩ thiếu Thiện Căn Phước Đức nhân duyên đắc sanh Bỉ Quốc; Nghĩa là: Chẳng phải ít Căn Lành Phước Đức Duyên Phần mà được sanh về Nước Cực Lạc ấy, Ý Nói sợ Không Tu, Chớ Tu lo gì mà Chẳng thành. Tín Phật Di Đà là có Căn Lành, Lòng chí quyết Tu Hành mà khuyên Người thì có Phúc Đức. Niệm Phật không xao lãng, là có Duyên Phần, lẽ nào không Vãng Sanh Tịnh Độ. Từ đấy, Ông ta Xưng Hiệu là Hoài Tây Cư Sĩ, vì Người tu tại gia có đặt: ÂM CHẤT VĂN, KINH NHÂN QUẢ PHẬT, SÁCH GIỚI SÁT, GIỚI DÂM, KINH TÂY QUY TRỰC CHỈ. 4 Hiệu Kinh Sách khuyến Thiện ấy Ông thường đọc đến, Niên hiệu Càn Long năm thứ 4 tháng Giêng, An Sĩ đã 84 tuổi nói cho Con Cháu hay rằng: " Ta sẽ về Tây Phương " , Người nhà xin Nấu Nước Trái Cây tắm gội. Châu An Sĩ cản rằng: " Ta tắm gội đã lâu, vừa Nói vừa Cười ", rồi Niệm Phật mà Viên Tịch. Mùi thơm nức Cả Nhà.
4.- Đời Đường: Vợ Ông Tịnh Văn ở Tịnh Châu, Bệnh nằm liệt giường. Tịnh Văn khuyên Vợ Niệm Phật Di Đà, Vợ tin Niệm 2 Năm không nghỉ. Ngày kia đứng dậy, nói với Chồng rằng: " Tôi thấy Phật rồi, Hứa tháng sau Phật sẽ rước ", nói rồi đưa đồ Chay dâng cho Cha Mẹ và thưa rằng: " Con được theo Phật về Tây Phương, xin Cha Mẹ với Chồng con một lòng Niệm Phật Di Đà sau cũng được về Tây Phương sum hợp ", sau chiêm bao thấy Bông Sen Đỏ lớn như Mặt Trời mới mọc, Nghe nói 3 Ngày nữa sẽ Mãn Phần, thiệt y như vậy.
5.- Vợ Kinh Vương ngày trước là Vương Phu Nhân, Nội Nhà đồng Tu Niệm, Hôm Sớm tụng Nhật Khóa, Mấy Người Hầu Thiếp cũng Niệm theo, Có 1 Người Thiếp nọ bê trễ. Phu Nhân quở trách Nàng không cần mẫn. Đến khi Mãn Phần mà không Bệnh nặng. Sau, Người Thiếp khác chiêm bao thấy Người Thiếp mất về Nói rằng:
" Tôi nhờ Phu Nhân khuyên ép, Nay đặng về Tây Phương. Người Thiếp kia lai.....Phu Nhân còn nghi ngờ. Đêm nọ chiêm bao thấy Hồn Người Thiếp ấy về dẫn đến Ao Báu thấy Bông Sen lớn như bánh xe hiện 2 Chữ: Dương Kiệt, trước Lòng Tòa Sen mặt tiền, Có Người Ngồi trên Cái Gương lớn ấy ( Tòa Sen ) có 1 Cái khác hiện 2 Chữ mà Hư Người Ngồi trên Giường Sen ấy mặc Áo Triều Phục, Lại còn 1 Bông Sen khác hào quang chiếu sáng và còn búp. Người Thiếp chỉ Tòa Sen ấy, mà nói Tòa Sen này để dành riêng cho Phu Nhân đó. Phú Nhân hỏi: " Người cũng còn Thân Gái hay sao ? " . Người Thiếp nói: " Lúc Lâm Chung, Về Tây Phương đã hóa Thân Trai. Nay, Tôi muốn Phu Nhân dễ nhìn, Nên phải Hiện Tướng cũ ". Phu Nhân thức dậy, từ đấy càng cần mẫn Tu Niệm kỹ càng hơn xưa. Tới 81 tuổi, Phu Nhân đang chịu cho Người Nhà chúc Lễ Thọ, rồi lại thắp thêm Đèn Hương Bàn Phật, đứng đó mà Viên Tịch ( Chết đứng ).
Bỡi Người Lập Nguyện mà Niệm Phật, thời trên Ao Thất Bảo mọc 1 Bụi Sen. Phật thọ ký, rồi Sen lần dần trổ Bông, Có ứng Tên Họ trên Búp Sen, Hễ Niệm Thường mà Làm Lành thì Bông Sen tươi tốt.
Đến khi Người ấy Lâm Chung, thì Sen hé nở. Phật mách bảo rồi sẽ rước Hồn đi. Nếu nửa chừng thôi Niệm Phật Di Đà mà Làm Dữ thì Bụi Sen ấy Héo Dần đến Rụi, biết ăn năn Tu Niệm lại, thì mọc Búp khác lên. Nếu Làm Dữ đến Chết, thì Bụi Sen ấy cũng Khô Héo nữa.
6.- Tưởng Thị ở Hưng Hóa, 40 tuổi, Chồng mất, Nàng khóc nói với Con rằng: " Quỷ Vô thường đến bắt Hồn, không ai thế được, thí dụ Mẹ rủi chết, Con cũng không biết làm sao ? Nên, Mẹ phát tâm Ăn Chay Niệm Phật, không còn muốn nghĩ việc gì nữa ". Con có Hiếu, Chiều theo Ý Mẹ, cất Am bên Nhà. Tưởng Thị khép cửa Niệm Phật luôn trong 5 Năm. Đến, Thuận Trị, Năm Canh Tý, 20-5 liền khiến Con mua cây đóng Hòm, Đứng nói: " Giờ Ngọ, Ngày 23, Ta sẽ Tây Phương ". Liền đến Xóm Giềng từ biệt. Đúng Ngày Hẹn, Đứng trong Hòm niệm Phật mà Viên Tịch. Lửa ở đâu phát ra cháy luôn cả Hòm, Mùi Thơm cả Ngày mới hết.
7.- Lòng thành Niệm Phật tuy còn Tội cũng Vãng Sanh được ( Đói Nghiệp Vãng Sanh ). Như: Trương Quỳ với Thiện Hòa đang bị Oan Hồn theo bắt đòi Nợ, Nhờ được Chân Tăng giảng giải cầu Phật Di Đà tiếp độ, Cho nên bọn Gà Trâu kia cũng được Đầu Thai hưởng Phúc, Chúng nó mới can tâm buông 2 Hồn đó cho Phật đem về Tây Phương, cũng như thấy Nợ kéo chúng, muốn cứu thì phải trả thế mới được.
Đời Tống: Ông Sư Minh Kha, ăn Thịt uống Rượu, ai cũng kêu là Sư rượu thịt. Minh Kha khi Bệnh ăn năn Sám Hối, vì sợ phải đọa lạc, thỉnh Các Sư đọc Tích Vãng Sanh cho mình nghe. Nghe 1 tích thời Gật Đầu 1 Cái mà Lạy về Hướng Tây, cứ Niệm Phật 3 Ngày Đêm luôn luôn, bỏ Cơm nhịn đói đến lúc nằm mê, thấy Phật Di Đà hiện xuống mách bảo rằng: " Số Ngươi còng Sống 10 Năm nữa; Sám Hối tùng Thiện mà tu Phúc sẽ có Quả Vị ".
Vía, Minh Kha lạy mà bạch rằng: " Chí Khí con còn nhỏ và non nớt lắm, ở Cõi Trần độc ác chẳng Giữ Lòng Ngay, Con không Ham Sống, tình nguyện về Tây Phương mà làm tôi Phật, thời Tu mới được ".
Phật A Di Đà nói: " Người tự quyết như vậy, 3 Ngày nữa, Ta sẽ rước ". Minh Kha đến bàn Phật quỳ Sám Hối thỉnh Các Sư tụng Kinh Di Đà, tụng ít biến Minh Kha nói: " Phật với Các Vị đã đến ". Nói rồi dặn lại Các Vị Hòa Thượng Yết Ma Giáo xin Thọ cùng Các Bổn Đạo Thiện Nam, Tín Nữ ráng Trường Trai Niệm Phật, tụng Kinh Di Đà ít Năm hoặc ít Tháng chờ đến lúc Lâm Chung, lo gì Phật Di Đà không rước lên Tây Phương, Ngồi 9 Phẩm Tòa Sen, còn sướng hơn Minh Kha này nữa. Đoạn ngồi chắp tay hướng về Tây Phương nói: " Kính chào tất cả QUý vị ở lại, Tôi xin vĩnh biệt vì Phật đã đến đón tiếp ".
SỰ TÍCH
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC SANG NƠI CỰC LẠC
( Trích từ " Đường Sang Cực Lạc " của Bần Đạo Ngộ Chân Tử )
Xưa nay, Việc Vãng Sanh rất nhiều, Có Bậc Xuất Gia, Có Bậc Tại Gia, Có Bậc Công Hầu, kể không thể xiết. Nay, Biên dịch ít Tích Người Tầm Thường được Vãng Sanh.
1.- Đời Tống: Thẩm Thuyên ở Huyện Tiền Đường, phủ Hoàng Châu, Vợ là Thị Thị. Vợ Chồng đồng Niệm Phật Di Đà, hay Làm Phúc Bồ Thí, Chồng mãn trước, Vợ mãn sau. Khi Lâm Chung đều Nghe tiếng Nhạc vang tai, ai nấy đều tin Phật rước 2 Vợ Chồng.
2.- Đời Tống: Đường Thế Lương , ở Huyện Cối Kê, Giữ 5 Giới, Niệm Phật Di Đà 10 Muôn Câu = 10 x 10.000 = 100.000 Câu = 100 Chuỗi 108 ( 10.000 = Muôn = Vạn ). Ngày kia, Đường Thế Lương nói: " Phật Di Đà đến Rước, Tôi kính chào Đạo Hữu ".
Nói xong, Quỳ Lạy và Vãng Sanh, Và Có Người nằm Chiêm Bao thấy phía Tây có Hào Quang Ngọn Phướn phất phơ, Nghe tiếng Nhạc, Tiếng Nói Thinh Không rằng: " Đường Thế Lương đã về Tịnh Độ ". Thức dậyy hồ nghi đến Viếng, thật đã Mãn rồi.
3.- Đời Nhà Nguyên: Ngô Tử Chương ở Tô Châu, làm Thầy Thuốc mấy đời, Anh là Ngô Tử Tài cũng theo làm Đệ Tử của Vân Đế Hòa Thượng. Cần niệm Phật theo Phép Di Đà dạy, đến Ngày Vía Phật, Anh Em không Bệnh, Ngồi Niệm Phật mà về Tây Phương
4.- Đời Thanh: Ông Ngô Mao ở Thanh Dương, Ông là đầy tớ ở cho gia đình Ông Ngô Lục Phòng. Trì Trai Niệm Phật, kiêm tu Các Điều Lành; và Niệm Phật theo Pháp Trào Thanh. Vua Thuận Trị năm đầu, binh họ Tả làm Giặc đã qua sông ( Lúc quân Thanh vượt sông ), Cả nhà Họ Ngô chạy trốn hết ( Trong Nhà, Mọi Người trốn hết ). Một mình Ông Ngô Mao ở lại Giữ Nhà cho Chủ, bị Giặc đâm 7 Giáo mà Chết ( Bị Quân Thanh đâm 7 Nhát Thương Chết đi ). Lúc đã yên, Chủ trở về ( Ít lâu sau, Em về thăm ), Ngô Mao tỉnh dậy Nói rằng: " Tội ta phải Đầu Thai làm Lọn Kiếp, Nay nhờ biết Tu cho nên Chịu 7 Giáo mà Trừ 7 Kiếp: Sẽ về Tây Phương, Nói rồi Chết thật ( "Do Túc Nghiệp, Lẽ ra Tôi phải làm Thân Heo 7 Đời, Nhờ Trì Trai Niệm Phật nên 7 Nhát Thương đó tiêu tan Oan Khiên, Niệm Phật đến tiếp dẫn Vãng Sanh Tây Phương! Nói xong, Chắp Tay Niệm Phật qua đời " ) ".
Người Chủ nhìn thấy 1 Vị Thần trên Mây giống như Ngô Mao. Người ấy Nói: " Tôi là Ngô Mao, Đi ngang đến đây, Báo cho Ông biết "; Nói rồi Biến Mất. Ngô Lục Phòng về Vẽ Tượng mà Thờ.
( Theo " Quả Báo Văn Kiến Lục " )
Lời bình:
Niệm Phật tu Thiện nhưng bị Chết thảm; Nếu như không Sống Lại để tự trình bày, thì làm sao biết được Ông đã chuyển Báo Nặng trong Thân Sau thành Báo Nhẹ Hiện Đời, được Phật tiếp dẫn Vãng Sanh?
Phàm những ai Làm Lành Niệm Phật mà Gặp Nghịch Cảnh hãy Nên Tỉnh Ngộ, Mừng Rỡ và càng thêm Tinh Tấn!
5.- Vương Mạnh Lân ở Núi Côn Lôn, làm Thầy dạy học, cứ lo Niệm Phật Di Đà. Triều Thanh Vua Khang Hy năm thứ 41, thì Vương Mạnh tuổi 70 thừa, đến Tháng 11 có Bệnh, bằng hữu trong xóm là Châu An Sĩ qua thăm, Mạnh Lân nói: " 17 này đến vía Phật Di Đà, hôm ấy Ngài rước tôi về Tây Phương ". Rạng đông 17, Châu An Sĩ thương tình đạo hữu qua thăm, thấy Mạnh Lân còn khỏe lắm mà giảng rằng. Thầy phải Phát Tâm Bồ Đề lo về theo Phật. Nói nhắc Kinh Kệ một hồi, ra ngoài dặn Con của Mạnh Lân đừng Khóc và Niệm Phật tiếp, kẻo Cha ngươi xao lãng mà uổng công. Dặn rồi, về Ăn Cơm xong. Khi trở qua, Mạnh Lân đã Niệm Phật mãn rồi.
Lúc Lâm Chung cần hơn hết, Người nào bệnh thường, Ăn Chay Giữ Giới, Làm Phúc Bố Thí, thì Lúc Lâm Chung mới minh tâm kiến tánh, thanh tịnh, không có sự gì xao lãng, vì sao lãng thì cái tâm thần không gom về 1 mối siêu thăng, còn vọng niệm lo công việc nhà bối rối. Nếu mọi người trong gia đình Hộ Niệm, Niệm Phật cho Người nghe để Người Bệnh mượn hơi, là cách đưa đi êm lắm. Nếu kêu hỏi khóc than, thì Người yếu mệt sẽ bị Vọng Niệm, không phải kêu gọi là kéo lại được. Nếu muốn hỏi việc nhà, thì hỏi lúc mới bệnh trối trăn rành rẽ, đừng để lúc yếu mệt làm rộn, báo hại uổng công Tu Niệm bấy lâu, nếu tâm thần người bệnh đã điên đảo, gia đình lại kêu khóc, thì Phật không đến rước, Hồn phải sa đọa. Sau dù có thỉnh Sư tụng Kinh Cầu Siêu Độ cũng không ích gì.
6.- Châu An Sĩ là học trò thi Tú Tài ở Núi Côn Lôn, lại thông Kinh Địa Tạng, khuyên Người tu Tịnh Độ, lúc Ông mới tụng Kinh Di Đà đến Câu: " Bất khả dĩ thiếu Thiện Căn Phước Đức nhân duyên đắc sanh Bỉ Quốc; Nghĩa là: Chẳng phải ít Căn Lành Phước Đức Duyên Phần mà được sanh về Nước Cực Lạc ấy, Ý Nói sợ Không Tu, Chớ Tu lo gì mà Chẳng thành. Tín Phật Di Đà là có Căn Lành, Lòng chí quyết Tu Hành mà khuyên Người thì có Phúc Đức. Niệm Phật không xao lãng, là có Duyên Phần, lẽ nào không Vãng Sanh Tịnh Độ. Từ đấy, Ông ta Xưng Hiệu là Hoài Tây Cư Sĩ, vì Người tu tại gia có đặt: ÂM CHẤT VĂN, KINH NHÂN QUẢ PHẬT, SÁCH GIỚI SÁT, GIỚI DÂM, KINH TÂY QUY TRỰC CHỈ. 4 Hiệu Kinh Sách khuyến Thiện ấy Ông thường đọc đến, Niên hiệu Càn Long năm thứ 4 tháng Giêng, An Sĩ đã 84 tuổi nói cho Con Cháu hay rằng: " Ta sẽ về Tây Phương " , Người nhà xin Nấu Nước Trái Cây tắm gội. Châu An Sĩ cản rằng: " Ta tắm gội đã lâu, vừa Nói vừa Cười ", rồi Niệm Phật mà Viên Tịch. Mùi thơm nức Cả Nhà.
7.- Đời Đường: Vợ Ông Tịnh Văn ở Tịnh Châu, Bệnh nằm liệt giường. Tịnh Văn khuyên Vợ Niệm Phật Di Đà, Vợ tin Niệm 2 Năm không nghỉ. Ngày kia đứng dậy, nói với Chồng rằng: " Tôi thấy Phật rồi, Hứa tháng sau Phật sẽ rước ", nói rồi đưa đồ Chay dâng cho Cha Mẹ và thưa rằng: " Con được theo Phật về Tây Phương, xin Cha Mẹ với Chồng con một lòng Niệm Phật Di Đà sau cũng được về Tây Phương sum hợp ", sau chiêm bao thấy Bông Sen Đỏ lớn như Mặt Trời mới mọc, Nghe nói 3 Ngày nữa sẽ Mãn Phần, thiệt y như vậy.
8.- Vợ Kinh Vương ngày trước là Vương Phu Nhân, Nội Nhà đồng Tu Niệm, Hôm Sớm tụng Nhật Khóa, Mấy Người Hầu Thiếp cũng Niệm theo, Có 1 Người Thiếp nọ bê trễ. Phu Nhân quở trách Nàng không cần mẫn. Đến khi Mãn Phần mà không Bệnh nặng. Sau, Người Thiếp khác chiêm bao thấy Người Thiếp mất về Nói rằng:
" Tôi nhờ Phu Nhân khuyên ép, Nay đặng về Tây Phương. Người Thiếp kia lai.....Phu Nhân còn nghi ngờ. Đêm nọ chiêm bao thấy Hồn Người Thiếp ấy về dẫn đến Ao Báu thấy Bông Sen lớn như bánh xe hiện 2 Chữ: Dương Kiệt, trước Lòng Tòa Sen mặt tiền, Có Người Ngồi trên Cái Gương lớn ấy ( Tòa Sen ) có 1 Cái khác hiện 2 Chữ mà Hư Người Ngồi trên Giường Sen ấy mặc Áo Triều Phục, Lại còn 1 Bông Sen khác hào quang chiếu sáng và còn búp. Người Thiếp chỉ Tòa Sen ấy, mà nói Tòa Sen này để dành riêng cho Phu Nhân đó. Phú Nhân hỏi: " Người cũng còn Thân Gái hay sao ? " . Người Thiếp nói: " Lúc Lâm Chung, Về Tây Phương đã hóa Thân Trai. Nay, Tôi muốn Phu Nhân dễ nhìn, Nên phải Hiện Tướng cũ ". Phu Nhân thức dậy, từ đấy càng cần mẫn Tu Niệm kỹ càng hơn xưa. Tới 81 tuổi, Phu Nhân đang chịu cho Người Nhà chúc Lễ Thọ, rồi lại thắp thêm Đèn Hương Bàn Phật, đứng đó mà Viên Tịch ( Chết đứng ).
Bỡi Người Lập Nguyện mà Niệm Phật, thời trên Ao Thất Bảo mọc 1 Bụi Sen. Phật thọ ký, rồi Sen lần dần trổ Bông, Có ứng Tên Họ trên Búp Sen, Hễ Niệm Thường mà Làm Lành thì Bông Sen tươi tốt.
Đến khi Người ấy Lâm Chung, thì Sen hé nở. Phật mách bảo rồi sẽ rước Hồn đi. Nếu nửa chừng thôi Niệm Phật Di Đà mà Làm Dữ thì Bụi Sen ấy Héo Dần đến Rụi, biết ăn năn Tu Niệm lại, thì mọc Búp khác lên. Nếu Làm Dữ đến Chết, thì Bụi Sen ấy cũng Khô Héo nữa.
9.- Đời Tống: Hạng Thị tên Diệu Trí, Góa Chồng, có 2 Đứa Con Gái. Hạng Thị vào Chùa xin làm Thủ Hộ, Hàng ngày Niệm Phật Di Đà, đến khi Lâm Chung mùi thơm cả Phòng, Ngồi nhìn về hướng Tây bắt Ấn mỉm cười mà Viên Tịch.
10.- Đời Tống: Vợ Họ Hồ là Lý Thị ở Huyện Thượng Ngụ, Chồng thác Ngày Đêm Niệm Phật với Tụng Kinh Di Đà hơn 10 Năm chẳng trễ nãi. Ngày kia, thấy Nhà Sư lấy Khăn Điều phủ lên Đầu Nàng nói rằng: " Giờ Tý, Ngày Rằm ( 15 ), Ngươi sẽ Vãng Sanh ". Lý Thị nói: " Thầy là ai ? ". Đáp rằng: " Ta là Người, mà Ngươi thường Niệm đấy ". Lý Thị biết Phật Di Đà sẽ Rước, Nên chào dặn Con, Đạo Hữu, Đến đúng Ngày Giờ, Ngồi Niệm Phật mà Thác, mọi người thấy Hào Quang sáng lòa.
11.- Đời Tống: Đất Tứ Ninh, Có Tôn Thị Góa Chồng, Niệm Phật 30 Năm chẳng trễ, Sau khi chiêm bao thấy, rước Thầy tụng Kinh, thức dậy tắm gội mời Thầy Sám Hối. Tôn Thị Ngồi tụng Kinh Di Đà đến Câu: : " Nhất Tâm Bất Loạn ". Tay Tả ( Tay Trái ) bắt Ấn, Ngồi mà Viên Tịch. Trên Không nghe tiếng Nhạc rõ ràng.
Bỡi bình thường, Niệm Phật Lòng không loạn, Nên nay Lâm Chúng, Lòng không điên đảo mới tụng Kinh mà đi.
12.- Đời Tống: Con Gái Họ Lương, Mù Cặp mắt, ở Dương Phần gặp Vị Sư khuyên Niệm Phật trọn 5 Năm, Mắt sáng lại. Sau, thấy Phật cùng Bồ Tát, cầm Phướng đến Rước, Nội Ngày ấy Ngồi mà Viên Tịch.
13.- Tưởng Thị ở Hưng Hóa, 40 tuổi, Chồng mất, Nàng khóc nói với Con rằng: " Quỷ Vô thường đến bắt Hồn, không ai thế được, thí dụ Mẹ rủi chết, Con cũng không biết làm sao ? Nên, Mẹ phát tâm Ăn Chay Niệm Phật, không còn muốn nghĩ việc gì nữa ". Con có Hiếu, Chiều theo Ý Mẹ, cất Am bên Nhà. Tưởng Thị khép cửa Niệm Phật luôn trong 5 Năm. Đến, Thuận Trị, Năm Canh Tý, 20-5 liền khiến Con mua cây đóng Hòm, Đứng nói: " Giờ Ngọ, Ngày 23, Ta sẽ Tây Phương ". Liền đến Xóm Giềng từ biệt. Đúng Ngày Hẹn, Đứng trong Hòm niệm Phật mà Viên Tịch. Lửa ở đâu phát ra cháy luôn cả Hòm, Mùi Thơm cả Ngày mới hết.
14.- Lòng thành Niệm Phật tuy còn Tội cũng Vãng Sanh được ( Đói Nghiệp Vãng Sanh ). Như: Trương Quỳ với Thiện Hòa đang bị Oan Hồn theo bắt đòi Nợ, Nhờ được Chân Tăng giảng giải cầu Phật Di Đà tiếp độ, Cho nên bọn Gà Trâu kia cũng được Đầu Thai hưởng Phúc, Chúng nó mới can tâm buông 2 Hồn đó cho Phật đem về Tây Phương, cũng như thấy Nợ kéo chúng, muốn cứu thì phải trả thế mới được.
Đời Tống: Ông Sư Minh Kha, ăn Thịt uống Rượu, ai cũng kêu là Sư rượu thịt. Minh Kha khi Bệnh ăn năn Sám Hối, vì sợ phải đọa lạc, thỉnh Các Sư đọc Tích Vãng Sanh cho mình nghe. Nghe 1 tích thời Gật Đầu 1 Cái mà Lạy về Hướng Tây, cứ Niệm Phật 3 Ngày Đêm luôn luôn, bỏ Cơm nhịn đói đến lúc nằm mê, thấy Phật Di Đà hiện xuống mách bảo rằng: " Số Ngươi còng Sống 10 Năm nữa; Sám Hối tùng Thiện mà tu Phúc sẽ có Quả Vị ".
Vía, Minh Kha lạy mà bạch rằng: " Chí Khí con còn nhỏ và non nớt lắm, ở Cõi Trần độc ác chẳng Giữ Lòng Ngay, Con không Ham Sống, tình nguyện về Tây Phương mà làm tôi Phật, thời Tu mới được ".
Phật A Di Đà nói: " Người tự quyết như vậy, 3 Ngày nữa, Ta sẽ rước ". Minh Kha đến bàn Phật quỳ Sám Hối thỉnh Các Sư tụng Kinh Di Đà, tụng ít biến Minh Kha nói: " Phật với Các Vị đã đến ". Nói rồi dặn lại Các Vị Hòa Thượng Yết Ma Giáo xin Thọ cùng Các Bổn Đạo Thiện Nam, Tín Nữ ráng Trường Trai Niệm Phật, tụng Kinh Di Đà ít Năm hoặc ít Tháng chờ đến lúc Lâm Chung, lo gì Phật Di Đà không rước lên Tây Phương, Ngồi 9 Phẩm Tòa Sen, còn sướng hơn Minh Kha này nữa. Đoạn ngồi chắp tay hướng về Tây Phương nói: " Kính chào tất cả Quý vị ở lại, Tôi xin vĩnh biệt vì Phật đã đến đón tiếp ".
***
Long Thơ Tịnh Độ
Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
--- o0o ---
QUYỂN NĂM
CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ
ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN
ĐỜI ĐÔNG TẤN, ÔNG LƯU DI DÂN
Ông Trình Chi tự Trọng Tư, hiệu Di Dân. Theo ngài Huệ Viễn đồng tu tịnh nghiệp chuyên ngồi thiền, thực hành pháp quán tưởng, mới nửa năm, trong khi ngồi thiền định thấy hào quang Phật chiếu sáng, lại thấy đất đều sắc vàng, ở tu trong núi 15 năm, chót lại trong lúc quán tưởng niệm Phật, thấy Phật A Di Đà thân vàng, thắm hào quang chiếu sáng duỗi cánh tay, đến trong nhà ông, ông Trình Chi vui mừng rơi lụy thưa rằng Hân hạnh được Như Lai vì con ma đảnh (rờ đầu) và y phục phủ trên đầu con, Phật liền đưa tay rờ đầu và dùng áo ca sa phủ trên mình ông.
Ngày kia trong khi quán tưởng niệm Phật, cũng lại thấy thân mình vào trong ao thất bảo đại trì, hoa sen xanh, trong, xem màu nước trong veo vắt, dường như không bờ mé, trong ao có một người, nơi đầu có viên quang (hào quang tròn) trước ngực có dấu hình chữ vạn chỉ nước trong ao mà rằng Nước bát công đức này, ngươi khá uống đi! Ông Trình Chi uống nước, ngọt thơm cả miệng. Bèn thức dậy còn biết mùi thơm của nước, phát hực mấy lỗ chân lông, ông bèn nói đây là duyên Tịnh độ ta đã đến vậy.
Chư Tăng trong hội Lô Sơn đều nhóm họp, ông Trình Chi tới trước tượng Phật đốt hương kê trên trán chúc rằng Con nhờ Đức Phật Thích Ca để kinh giáo lại, cho nên biết có Đức Phật A Di Đà. Vậy con nguyện đốt nén hương này, trước cũng dường Thích Ca Như Lai, kế cúng dường Phật A Di Đà, sau cúng dường trong hội Pháp Hoa, Phật và Bồ Tát chúng, cho đến mười phương Phật Bồ Tát chúng, cầu nguyện cho chúng hữu tình đồng sinh về Tịnh độ.
Chúc nguyện xong, cùng cả thảy nói lời từ biệt, quay mặt hướng Tây vững ngồi xếp bằng, ngậm miệng nín hơi quy tịch, tuổi thọ được 59.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT THÁI CHÂU
ÔNG TĂNG TÊN HOÀI NGỌC
Ông Hoài Ngọc, nhất sinh tu tịnh nghiệp (niệm Phật) gần 40 năm. Thời kỳ vua Thiên Bửu tức vị năm đầu. Trong khi ông Ngọc đương niệm Phật, thoạt thấy cảnh Tây phương các vị Thánh chúng đông đến hằng hà sa số, trong đó có một người, tay bưng ngân đài (đài bạc) đến trước đưa cho ông Hoài Ngọc. Ngọc nói Như tôi đây, bổn vọng (ý muốn) cái kim đài (đài vàng). Vì sao hôm nay ngân đài đến đây ? Nói rồi, ngân đài ẩn mất, người bưng đài cũng ẩn.
Từ đấy ông Ngọc càng gia công tinh tấn khổ hạnh đến 21 ngày, người trước bưng kim đài đến bảo rằng Do pháp sư tinh cần khổ hạnh, nên đặng sinh lên bậc thượng phẩm. Lại nói Sinh bậc thượng phẩm ắt trước thấy Phật, vậy ngài ngồi yên, đợi chút Phật Ngài đến. Chưa bao lâu dị quang (hào quang lạ) chiếu sáng cả nhà. Lại ba ngay sau, hào quang lạ lại phát ra nữa. Hoài Ngọc nói Nếu nghe mùi hương lạ đây, chắc là báo thân ta đã mãn. Liền cầm bút đề bài kệ như vầy
Thanh tịnh kiến khiết vô trần cấu.
Liên hoa hóa sinh vi phụ mẫu.
Ngã kim thập kiếp tu đạo lai.
Xuất thị Diêm phù yểm chung khổ.
Nhất sinh khổ hạnh siêu thập kiếp.
Vĩnh ly Ta bà quy Tịnh độ.
Nghĩa là
Sáng suốt trong sạch không nhơ bợn.
Hoa sen hóa sinh là cha mẹ.
Ta đã mười đời tu đến nay.
Sinh cõi Diêm phù nhàm các khổ.
Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp.
Hằng lìa Ta bà về Tịnh độ.
Viết kệ xong, hương lạ bốn phía bay lại. Đệ tử có người thấy Phật, thấy hai vị Bồ Tát đồng ngồi đài vàng, một bên đài, có nghìn trăm vị hóa Phật, từ góc trời phía Tây giáng xuống tiếp rước ông Hoài Ngọc. Hoài Ngọc hết lòng cung kính chắp tay vui vẻ, lên ngồi kim đài theo Phật đi về nước An dưỡng một giây.
An dưỡng tức là nước Cực Lạc. Hào quang lạ tức là bấy lâu chưa từng thấy hào quang Phật, bấy giờ mới thấy nên gọi hào quang lạ.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT CHÂN CHÂU
ÔNG TĂNG TÊN TỰ GIÁC
Ông Tự Giác, do có phát nguyện mà được đức Quán Thế Âm Bồ Tát, dẫn ông đến yết kiến Phật Di Đà. Bấy giờ ông Tự Giác tự mừng thầm mình có nhân duyên với đức Đại Bi hóa độ. Liền đi xin tiền đúc tượng đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, bề cao 49 thước (49m) dựng chùa thờ đó. Lời chúc nguyện đã thành tựu.
Đêm đó canh ba thoạt có hai đạo hào quang kim sắc (sắc vàng), ông thấy Đức Phật A Di Đà từ trong hào quang đằng vân giáng xuống có đức Quan Âm và đức Thế Chí theo hầu hai bên. Phật đưa cánh tay sắc vàng rờ đầu ông Tự Giác mà rằng Ngươi ráng giữ lời nguyện đừng có cải đổi, lấy việc lợi người làm trước nhất (lợi vật vi tiên). Rồi đây hãy sinh về ở trong ao thất bảo, đâu chẳng y lời nguyện. Nói rồi ẩn mất.
Cách 11 năm sau, trong đêm ngày rằm tháng bảy thấy có một người ở trong mây hiện ra nửa thân mình, hình như ông trời Tỳ Sa Môn thiên vương, cúi xuống bảo ông Tự Giác rằng Nay đã đến thời kỳ đại đức hãy về nước An dưỡng (Tịnh độ) rồi vậy. Ông Tự Giác nghe nói liền đến trước tượng đức Đại Bi Quán Thế Âm ngồi kiết già, mà thác hóa (chết).
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TINH CHÂU
ÔNG TĂNG TÊN DUY NGẠN
Ông Duy Ngạn, chuyên tu pháp Thập Lục Quán (16 pháp thiền định). Nhân khi xuất định, thấy đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí hai vị Bồ Tát, hiện thân ở giữa không trung, hồi lâu mà chưa diệt. Duy Ngạn, cúi đầu đảnh lễ sa nước mắt, mà than rằng Ôi! May phúc cho nhục nhãn ta được thấy hình tượng Ngài, nhưng tiếc đời sau không truyền lại.
Vừa nói dứt lời, vừa ưa đàng kia có hai người song song đi lại, tự xưng mình họa sĩ, trong chưa bao lâu, vẽ rồi hai bức tượng của hai vị Bồ Tát. Vẽ rồi hai họa sĩ đâu mất.
Đệ tử thấy lấy làm lạ hỏi. Duy Ngạn nói Hai người ấy đâu không phải là họa sĩ!
Duy Ngạn lại nói Thời kỳ ta về Tây phương đã tới rồi, trong các đệ tử có người nào muốn theo, thời sáng ngày nói cho ta biết.
Có tên Tiểu Đồng Tử nói Thầy cho con theo thầy đi về. Duy Ngạn nói Nếu có muốn đi theo ta thời nên về nhà nói với thân phụ, thân mẫu ngươi đã.
Lúc Đồng Tử về nói. Cha mẹ nó cười mắng mà nói rằng Con đừng có nói chơi không nên. Đồng Tử trở về chùa, dùng nước thơm tắm gội, tới trước tượng Phật A Di Đà ngồi tréo kiết già mà hóa vãng.
Có người lại cho ông Duy Ngạn hay. Ngạn tới vỗ vai nó mà rằng Ngươi làm thị giả hầu ta, sao mà đi về trước ta vậy.
Nói rồi cầm bút, đốt hương, tới trước tượng hai vị Bồ Tát, làm bài kệ như vầy
Quan Âm trợ viễn thiếp.
Thế Chí phụ diêu nghinh.
Bửu bình quang thượng hiển.
Hóa Phật đảnh tiền minh.
Cụ du thập phương sát.
Trì hoa hầu cửu sinh.
Nguyện dĩ Từ bi thủ.
Đề tượng cộng Tây hành.
Nghĩa là
Đức Quan Âm xa nương dìu dắt.
Đức Thế Chí tới rước đem về.
Bửu bình trên mão bày tỏ rõ.
Hóa Phật trước đầu hiện quang minh.
Đồng đạo mười phương cùng các cõi.
Cầm hoa chờ chực sinh chín phẩm.
Nguyện cánh (tay) từ bi ngài nhiếp thọ.
Dắt dìu về đến cảnh Tây hành (Tây phương).
Viết kệ xong, liền bảo các đệ tử xúm lại trợ niệm (niệm Phật). Mỗi người đều cất tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật, Duy Ngạn mở mắt ngó về hướng Tây, rồi cúi đầu ríu ríu đi.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TRƯỜNG AN
NI CÔ PHÁP DANH TỊNH CHƠN
Cô Tịnh Chơn, ở đất Trường An, nơi chùa Tích Thiện, mặc áo bá nạp, đi hành khất (khất thực), cả đời tánh cách không sân, tụng kinh Kim Cang mười muôn bộ, chuyên tinh niệm Phật.
Trong niên hiệu Hiển Khánh năm thứ 5, nhiễm bệnh bảo các đệ tử rằng Ta nội trong tháng năm này, mà mười phen thấy Phật A Di Đà, hai phen thấy thế giới Cực Lạc, trên hoa sen báu, Đồng tử giỡn chơi. Ta chắc đặng vãng sinh về thượng phẩm. Nói rồi ngồi kiết già mà thác hóa hào quang chiếu sáng cả chùa.
(Nếu tu mãn báo thân này, được vãng sinh về Tây phương, từ trong hoa sen sinh, hóa làm thân như Đồng Tử (đứa nhỏ), người tu Tịnh độ thuần thục, thấy Đồng tử chơi giỡn nơi ao thất bảo, thời ngươi đó được biết mình chắc sinh về Tịnh độ).
ĐỜI ĐƯỜNG PHỐ THƯƠNG ĐẢNG
CÔ DAO BÀ
Cô Dao Bà, nhờ bà Phạm Hạnh khuyên tu niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Khi lâm chung thấy Phật và Bồ Tát đến rước. Dao Bà bạch Phật rằng Con chưa kịp đến tạ biệt bà Phạm Hạnh vì bà có ơn dạy con niệm Phật, xin Phật nán đợi dùm con một chút. Phật đứng giữa hư không, chờ bà Phạm Hạnh đến, cô Dao Bà lễ tạ ơn rồi, đứng mà thác hóa (chết).
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TỊNH CHÂU
VỢ ÔNG ÔN TỊNH VĂN
Vợ ông Tịnh Văn đau lâu tại giường, Tịnh Văn khuyên vợ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tin theo niệm hai năm không dứt, liền thấy cõi Tịnh độ, bèn nói với ông Tịnh Văn rằng Tôi thấy Phật rồi, tháng sau tôi chắc đi về. Lại đem đồ ăn dâng cho cha mẹ, và từ tạ cha mẹ rằng Con nay theo Phật đi về. Xin cha mẹ và chồng ở lại ráng tu niệm, chừng về Tây phương thấy nhau. Nói rồi qua đời (nhắc lại 3 ngày trước thấy hoa sen, lớn bằng vừng mặt nguyệt).
ẤP QUỐC SƠ, CHÙA VĨNH MINH
NGÀI THỌ THIỀN SƯ
Ngài Thiền sư tên Diên Thọ, vốn người đất Đơn Dương. Sau qua đất Dư Hàng. Hồi nhỏ tụng Kinh Pháp Hoa. Lúc ra làm quan Huyện, hằng lấy bớt tiền quan. Tra ra thì ông lấy số tiền ấy, để mãi vật phóng sinh. Triều đình nghị tội đáng chết, dẫn đến Thị Tào (chỗ xử trảm). Tiền Vương (Vua, chủ tiền), sai người nom theo dò xét, nếu nhan sắc biến liền trảm (chém). Bằng không biến đổi về tâu lại.
Quả nhiên, tới giờ gần xử trảm nhan sắc không đổi, mà lại càng vui tươi nói “Chết một mạng, mà cứu được nhiều mạng, dù chết cũng sung sướng nơi lòng”.
Quân hồi trào báo tin. Vua bèn tha được sống và cho đi xuất gia làm ông Tăng. Trong khi ngài đang tham thiền quán tưởng, thấy đức Quan Âm dùng nước cam lồ rưới miệng ông, ông đặng biện tài của đức Quan Thế Âm, thuyết pháp vô ngại. Khi xuống bút là thành sách. Ông viết bộ sách nhan đề là “Vạn Thiện Đồng Quy tập” và bộ “Tông Kính Lục” v.v… cộng vài trăm quyển. Ngài làm trụ trì nơi chùa Vĩnh Minh, non Tuyết Đậu.
Mỗi ngày tụng 108 việc (10 phương Phật, 3 đời Phật, 7 Đức Như Lai, và 88 Phật, cộng 108 việc), tinh tấn tu Tây phương. Lâm chung, ngồi qua đời, khi phần hóa xong, dựng một bửu tháp.
Bấy giờ có ông Tăng, mỗi ngày tới đi nhiễu và lễ bái cái tháp ngài. Người đời thấy lấy làm lạ hỏi, ông Tăng đáp Tôi là ông sư quận Phủ Châu vậy. Nhân đau nặng, hồn đến Âm phủ, đền Diêm Vương, vua nói Mạng nhà người chưa tới tha về. Thấy bên cạnh đền có cái bức tượng hình một ông Tăng khôi ngô nghiêm nghị. Vua Diêm La bảo tôi đến lễ bái cúng dường. Tôi hỏi Tượng này là ai ? Tên quân lại đáp Ngài Thọ Thiền sư ở chùa Vĩnh Minh, Hàng Châu vậy.
Phàm ai chết, cũng đều đến chỗ này, chỉ có một ông Tăng này, không đến chỗ này, mà là đã sinh về bậc thượng phẩm thượng sinh, bên thế giới Tây phương Cực Lạc kia rồi. Nên vua tôi vẽ tượng này thờ nơi đây để cúng dường kính trọng.
Tôi nghe thế nên tôi phát tâm đến đây nhiễu tháp và lễ bái. Do đây mà thấy người tinh tấn niệm Phật đặng Âm phủ vua Diêm Vương chẳng những hoan hỷ và lại còn kính trọng bội phần.
ĐỜI TỐNG ĐẤT MINH CHÂU
ÔNG TĂNG TÊN KHẢ CỬU
Ông Khả Cửu thường tụng Kinh Pháp Hoa cho nên người đời kêu ông là ông Cửu Pháp Hoa cả bình sinh tu nghiệp Tịnh độ.
Triều vua Nguyên Hựu năm thứ 8, tuổi 81 ông ngồi mà tịch. Ba ngày sống trở lại thuật việc Tịnh độ như trong Kinh Thập Lục Quán nói Thấy đài Liên Hoa đều nêu người nào sinh về có tên và họ hẳn hòi
Một cái Tử Kim đài, nêu rằng Triều Đại Tống phủ Thành Đô, chùa Quảng Giáo, ông Cửu Pháp Hoa đã sinh trong đó.
Lại một cái Kim đài, nêu rằng Đất Minh Châu ông Tôn Thập Nhị Loan, được sinh trong đó.
Lại một cái Kim đài nêu rằng Ông Cửu Pháp Hoa Đài (đài này để dành cho ông Cửu Pháp Hoa).
Lại một cái Ngân đài, nêu rằng Đất Minh Châu Bà Từ Đạo Cô Đài (Đài này để cho bà Từ Đạo sinh về ngồi).
Ông Cửu Pháp Hoa, thuật câu chuyện của ông đã thấy, xong lại chết luôn. Cách 5 năm, bà Từ Đạo chết, mùi hương lạ đầy nhà. Lại cách 12 năm, ông Tôn Thập Nhị Loan qua đời, nhạc trời réo rắt từ phía Tây xích lại, giây lâu mới hết.
ĐỜI TỐNG, PHỦ LÂM AN,
LÀNG HÒA NHÂN, ÔNG NGÔ HUỲNH
Ông Ngô Huỳnh, trước làm ông Tăng, sau hườn tục, trước sau hai đời vợ, sinh đặng hai đứa con, nghề rượu thịt, không nghề mô không làm, thậm chí làm bồi bếp cho người nữa.
Mỗi khi cắt cổ gà, sát vịt, các vật mạng tay cầm đưa lên nói A Di Đà Phật, mau thác kiếp (thân) này đi, rồi giết, niệm Phật vài tiếng. Mỗi khi xắt thịt, một mặt xắt thịt, một mặt niệm A Di Đà Phật, thường niệm Phật không thôi. Dạy người trong thôn, niệm kinh, làm phép sám hối, và khuyên người niệm A Di Đà Phật.
Sau trên con mắt sinh bướu (mọc mụt) như trứng gà rất sợ hãi. Tạo một am cỏ (thảo am) chia giao của cải cho vợ con, rồi ông ngày đêm niệm Phật sám hối. Qua đời vua Thiện Hưng năm thứ 23, mùa Thu ông dặn người bà con trong làng rằng Ngày mai giờ Tuất, tôi (Huỳnh) đi về Tây vậy.
Người tưởng nói chơi cười. Huỳnh đem chén bát, nồi, trách, cho người ta hết. Qua buổi chiều ngày sau ngỏ (nói) cho các đạo hữu tên Hạnh Bà rằng Giờ đây (Huỳnh) đi sắp gần đến, hãy cao tiếng niệm Phật (trợ niệm) giúp tôi, lấy áo vải đổi rượu uống liền viết bài tụng như vầy
Tợ tửu giai không, vấn thâm thiền Tông,
Kim nhật trân trọng, minh nhật thanh phong.
Dịch nghĩa
Tuồng, rượu vốn không, hỏi chi thiền tông.
Ngày nay trân trọng, ngày mai thanh phong.
Đại ý bài tụng này. Câu Tuồng, rượu vốn không là nói muôn pháp rảnh rang không dính mắc, còn có tu chi nữa mà phải nhọc hỏi tới Thiền tông (pháp tu tham thiền).
Câu Ngày nay trân trọng, là nói cái nhân niệm Phật chí thành.
Câu Ngày mai thanh phong (gió mát) là nói kết quả của sự niệm Phật, là được giải thoát hay được vãng sinh về Tịnh độ.
Ông viết bài tụng xong, ngồi vững chắp tay niệm Phật. Kêu nói một tiếng Phật đến rồi liền tắt hơi.
ĐỜI TỐNG BÀ KINH VƯƠNG PHU NHÂN
Trong niên hiệu triều vua Nguyên Hựu, bà Kinh Vương phu nhân, cùng với kẻ tỳ thiếp (tôi tớ) ba, tinh tu niệm Phật, trong đó có một người thiếp giải đãi, bà phu nhân thét và đuổi. Thiếp kia hối ngộ tinh tấn, lâu rồi nói với các người thiếp khác mà rằng Tôi đêm nay sẽ sinh về Tây phương.
Quả thật đêm đó, mùi hương thơm lạ đầy nhà, thiếp ấy không bệnh mà qua đời. Sáng ngày mấy người thiếp (tớ) đồng sự (đồng một việc giúp đỡ chủ nhà) tới tin cho bà phu nhân hay rằng. Đêm hôm qua tôi chiêm bao thấy thiếp đã chết kia, về dặn gửi lời giã từ bà như vầy Tôi nhờ ơn bà phu nhân dạy quở, tôi tu Tây phương (niệm Phật), nay đã đặng vãng sinh, cảm đức bà vô lượng.
Bà phu nhân đáp là không tin và nói Phải nó mà cho tao cũng chiêm bao, thời tao mới đáng tin.
Quả thật đêm đó, khuya lại bà phu nhân chiêm bao, thấy vong thiếp về tự trần cảm tạ lời y như trước (nhờ bà dạy quở tôi tu Tây phương v.v…)
Phu nhân hỏi Giả sử ta đi về Tây phương có đặng chăng ? Thiếp đáp Đặng, nhưng bà đi theo tôi, phu nhân theo đó, thấy hồ ao rộng lớn, hoa sen hồng, hoa sen trắng lăng xăng, lớn có nhỏ có, hoặc có bông thì héo, có bông khô, đủ thứ không đồng.
Phu nhân hỏi Như vậy đó là vì sao ?
Thiếp trả lời Đây đều là trong thế gian, mà chính là người phát tâm tu Tây phương vậy. Vừa phát một niệm thời sen trong ao mọc lên một đóa hoa. Bằng tâm nguyện tinh tấn, thời hoa sen mỗi ngày nở tốt, cho đến lớn như bánh xe. Bằng tâm nguyện thối lui, thời hoa sen mỗi ngày mỗi khô héo, cho đến phút cùng là hư rụng.
Kế thấy một người ngồi trên hoa sen, chéo áo phất phơ lui tới, mũ ngọc anh lạc trang nghiêm thân mình. Phu nhân hỏi Đây là người nào ? Thiếp đáp Ông Dương Kiệt vậy. Lại thấy một người ngồi trên đài hoa. Thiếp chỉ Còn đây là chú Mã Vu vậy.
Phu nhân hỏi Còn ta sinh về chỗ nào ? Người thiếp dẫn đi cỡ vài dặm xa xa trông thấy một đài vàng xẹt hào quang chiếu diệu. Thiếp nói Đây là chính chỗ của phu nhân hóa sinh bậc thượng phẩm thượng sinh vậy. Phu nhân bây giờ thức giấc, hỏi thăm ông Dương Kiệt và Mã Vu, thì Kiệt đã chết rồi còn Vu thì còn mạnh giỏi.
Thế cho nên biết rằng Người tu tinh tấn không lui sụt ấy, thân tuy ở cõi Ta Bà, mà thần thức đã gá sinh bên cõi Tịnh độ vậy.
Sau bà phu nhân đến ngày sinh nhật (gọi là ngày đáo tuế). Bà bưng lư hương, đốt nhang đứng trước tượng đức Quan Thế Âm cúng dường cầu nguyện.
Các con và cháu, sắm lễ dâng (chúc thọ) nhưng mà thấy bà đứng trước tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát một cách thẳng thốn và nghiêm trang, coi lại thì hồn đã đi đâu chỉ có cái xác còn lại.
ĐỜI TỐNG BÀ QUAN ÂM HUYỆN QUÂN
Bà Huyện Quân, tên Ngô thị, chồng bà là ông Lữ Hoằng, quan chức Viên ngoại Loan cũng tỏ ngộ Phật lý. Hai ông bà (chồng và vợ) đều là người trai giới lo tu. Bà Ngô thị có hai đứa thị nữ (gái hầu) cũng không ăn đồ huân huyết (cá thịt) gắn bó lo làm Phật sự.
Hôm nọ một đứa thị nữ, ham mộ việc Thiền lý (tu thiền). Báo thân đã mãn, trả xác tứ đại lại cho cõi hồng trần, ôm một linh tánh vui tươi, vừa nói, vừa cười, xuất thần ra khỏi thể, như ve kia lột vỏ vậy. Còn một đứa thứ hai, thời giữ giới cần khổ hoặc có khi trọn tháng không ăn, một ngày uống nước một lần. Bà Ngô thị, tụng chú Quán Thế Âm uống một chén nước mát mà thôi. Bỗng thấy sen vàng đỡ chân ba bông. Lại vài ngày thấy một cái đầu gối (Phật). Lại vài ngày thứ hai, thấy cái mình (Phật). Lại vài ngày thứ ba, thấy cái mặt và con mắt (Phật và Bồ Tát). Ba bông sen vàng xét lại thì là chính giữa Đức A Di Đà, con hai bên thời Quan Âm, Thế Chí hai vị Bồ Tát vậy.
Lại thấy cả đường điện quốc giới (đền đài cõi nước) rõ ràng như thấy chỉ trong bàn tay trong khi xòe tỏa, hiển nhiên là một cõi Tịnh độ.
Bà hỏi gã thị nữ tường tận. Thị nữ đáp cõi Tây phương kia đều là cõi thanh tịnh chỉ toàn người nam, đi kinh hành, vui chơi không có nữ nhân vậy.
Bà Ngô thị lại hỏi Cõi kia Đức Phật thuyết làm sao ? Thị nữ thưa Tôi mới được Thiên nhãn (chỉ thấy được) chớ chưa được Thiên nhĩ vậy chưa nghe được. Cho nên tôi chỉ thấy người hỏi Phật đáp và Phật chỉ thời tôi thấy có Phật chỉ vậy thôi. Chớ Phật Ngài thuyết pháp làm sao thời tôi không nghe được.
Bà Ngô thị hỏi Tại sao Thiên nhãn là con mắt thấy, Thiên nhĩ là lỗ tai nghe, mà nhà ngươi nói chỉ thấy được, mà không nghe được ?
Đáp Chưa chứng được pháp Thiên nhĩ vì như người tuy có lỗ tai mà bị điếc cho nên dù có lỗ tai mà không thể nghe được. Còn chứng được pháp Thiên nhãn rồi cũng như kẻ con mắt hết bệnh lành sáng lại, thì lẽ dĩ nhiên, ngó thấy đều được sáng suốt.
Thị nữ là tôi, thấy như vậy, cả ba năm nay, chưa từng có một nháy mắt nào, mà không từng thấy trước mặt. Kế bỗng nhiên cảm bệnh tự nói Tôi vãng sinh. Nói vừa rồi là vừa nghỉ thở.
Bà Ngô thị, Xuân mãn Thu qua, một lòng thờ kính đức Quán Thế Âm, đem hết tâm hồn, gởi đường sinh tử, tưởng có linh nghiệm. Mỗi khi trong tịnh thất bà rinh vò, lu, và bình, sắp để vài chục cái trong thất, múc nước rót vô đầy mấy cái, rồi tay cầm cành dương tụng chú Đại bi thấy đức Quan Âm phóng quang trong mấy cái đựng nước. Nước ấy dùng cho mấy người bệnh uống liền được lành mạnh. Do vì tụng chú nước ấy lâu ngày và nước ấy dù để mấy năm cũng không hư (hôi), gặp tiết Đại hàn (trời lạnh) cũng chẳng đông đặc.
Nên người đời tặng hiệu bà là Quan Âm Huyện Quân.
CÁC THÚ LỢI NHÂN THUYẾT
THUYẾT NÓI VỀ
ÔNG CÁC PHIỀN THÁI THÚ LỢI ÍCH NGƯỜI ĐỜI
Trong niên hiệu Đại Hoán đời nhà Đường, có một ông Viên Quân, vào trong chợ kinh sư mua giày, thấy một đôi giày rất lớn, in như đôi giày hồi liệâm cha mình đem chôn, mới hỏi Giày đây do đâu mà có? Người bán giày đáp rằng Một ông cụ già đem cậy tôi sửa còn để đây.
Hỏi Chừng nào ông ấy lại lấy, ta hãy đến hầu chuyện.
Quả thấy cha ông, xuống ngựa trả tiền lấy giày. Ông con lễ bái, cha không ngó lên ngựa mà đi. Ông con chạy theo cỡ hai ba dặm nhưng không kịp bèn kêu to rằng
Cha ôi! Tôi với cha khi sống, làm cha con vì lẽ gì hôm nay không có một lời lành chi để dạy tôi?
Người cha ngoái lại đáp Nên học với ông Các Phiền.
Hỏi Các Phiền là người thế nào?
Đáp Người trong thế gian.
Bấy giờ ông con tìm hỏi chỗ ở ông Các Phiền, thì lúc đó Phiền đang làm quan Thái Thú trấn nhậm đất Trấn Giang. Bèn đến ra mắt và thuật lại duyên cớ đó, lại hỏi ông Các Phiền rằng Do đâu cảm động đến người ở chốn u minh như thế?
Vì tôi khi trước, mỗi ngày làm một việc lợi ích cho người, ngày kế làm hai việc, lại ngày sau làm ba việc, hoặc mười việc cho đến tuổi này nay đã bốn mươi, chưa từng có một ngày nào bỏ.
Hỏi Làm sao gọi là làm việc ích cho người?
Các Phiền chỉ cái ghế trong chỗ ngồi mà rằng - Như cái này đây, để không ngay thẳng, người đi vấp té trật chân, ta sửa lại cho ngay thẳng, cũng là việc lợi ích cho người vậy. Lại nữa Nếu người khát nước, ta có thể cho một gáo nước người uống cũng là việc lợi ích cho người vậy.
Chẳng những thế thôi, cho đến lời nói nhỏ nhẹ, tính cách ôn hòa, làm cho người cảm mộ, làm việc phước thiện cũng là việc lợi ích cho người. Cứ tuy theo mỗi việc nào có lợi ích ta đều làm đó. Trên thì bậc khanh tướng, dưới nhẫn đến kẻ ăn xin ta đều có thể làm cả.
Duy ở nơi lâu mà không bỏ thôi.
Người con nghe nói rồi lễ tạ mà lui. Ông Các Phiền sau đặng tuổi cao mới qua đời.
Xem đây thời biết, việc lợi ích cho người chẳng khá chẳng gắng, việc tổn hại cho người đâu nên làm ư?
Nên có câu Ái nhân lợi vật vị chi nhân giả. Nghĩa là Thương người lợi vật, mới đặng gọi là người nhân.
Ông Các Phiền đặng đó. Các Phiền gồm tu Tịnh độ lấy việc làm phước đây hồi hướng về Tây phương. Sau có ông thầy tham thiền nhập định, xuất thần qua bên cõi Tịnh độ, thấy ông Các Phiền ở bên ấy.
VUA DIÊM VƯƠNG KHUYÊN TƯƠNG BÀ NIỆM PHẬT
Đất Trấn Giang huyện Kim Đàng, làng Chu Lâm có bà Tương Bà tuổi cỡ 70, chết đến âm phủ, song mạng chưa hết, được vua Diêm La cho về và hỏi Ngươi có tụng kinh chăng ? Đáp rằng Tụng không được.
Vua nói Không tụng kinh thời ngươi cứ niệm Phật A Di Đà cũng được.
Đã tha về bấy giờ bà Tương Bà thuật chuyện vua Diêm La dạy ta niệm Phật, ta không còn nghi nữa, cho nên bà thường niệm danh hiệu Phật đây gần trăm hai tuổi mới qua đời.
Bà sinh Tịnh độ chắc chắn quyết định vậy. Đâu chẳng phải do bà niệm Phật, mà lại sống dai ư! Nếu không phải thì vì lẽ gì mà bà sống được lâu vậy ?
Sự tích này do kẻ sĩ nhân, huyện Kim Đàng là ông Trương Duyên Chi, vì ta thuật lại.
ĐỜI ĐƯỜNG ÔNG PHÒNG CHỮ
Ông Phòng Chữ chết giấc, hồn xuống dưới Âm phủ ra mắt vua Diêm La.
Vua nói Cứ tra trong sổ bộ thời thấy nhà ngươi đã có lần khuyên một ông già niệm Phật, mà ông ấy đã sinh Tịnh độ, nhờ phước ấy, ngươi cũng được sinh về Tịnh độ, cho nên ta mời người đến đây cho thấy nhau.
Phòng Chữ đáp Ngày trước tôi có nguyện tụng Kinh Kim Cang một muôn bộ và qua non Ngũ Đài, làm lễ đức Văn Thù Bồ Tát nên chưa muốn vãng sinh.
Vua nói Tụng kinh làm lễ vẫn là việc tốt, song mà sao cho bằng sớm sinh về Tịnh độ.
Vua biết chí hướng của ông không thể ngăn, bèn thả về.
Do đây, thời biết khuyên người tu niệm, chẳng những được vãng sinh, mà lại cảm động đến chốn u minh nữa vậy.
ĐỜI ĐƯỜNG ĐẤT TRƯỜNG AN
ÔNG LÝ TRI DIÊU
Ông Tri Diêu giỏi thông kinh Tịnh độ. Lập năm hội niệm Phật, ông làm vị sư phạm trong đại chúng.
Sau nhân có bệnh thoạt nói Ta nay niệm Đức Phật Hòa Thượng để đi về vậy. Nói rồi, rửa mặt súc miệng, bưng lư hương ra trước nhà đảnh lễ Phật. Bỗng nghe giữa thanh không có tiếng nói bài kệ như vầy
Báo nhữ Lý Tri Diêu,
Công thành quả tự chiêu.
Dẫn quân sinh Tịnh độ.
Tương nhĩ thướng kim kiều (Kim Đài)
Nghĩa là
Tin ngươi Lý Tri Diêu
Công thành quả tự chiêu (đặng).
Dắt ngươi về Tịnh độ.
Đem ngươi lên cầu vàng (Đài vàng).
Ông Tri Diêu nghe rồi, lui lại giường ngồi mà qua đời. Chúng nhân nghe mùi hương lạ, từ góc trời phía Tây bay lại rồi bay đi (hết nghe thơm gọi là bay đi).
ĐỜI TỐNG, NON CẤU KÊ,
ÔNG KIM THÁI CÔNG
Ông Thái Công, tên Thích làm nghề võng ngư (chài lưới). Một bữa đổi nghề làm (làm nghề khác), chuyên niệm Phật A Di Đà mỗi ngày một vạn tiếng, trai tố (chay lạt) tu hành, không hề tạm bỏ. Sau không tật bệnh, chỉ nói Ta thấy Phật A Di Đà cùng Quan Âm, Thế Chí, ở trước cửa, ta nay về Tịnh độ vậy.
Qua ngày sau lại nói Ta đã thấy hoa sen vàng đến rước ta vậy. Ông cầm lư hương ngồi yên bắt ấn mà qua đời. Hương thôn xa gần ai cũng nghe âm nhạc, mùi hương bát ngát, phưởng phất cả ngày không phai. Khi ấy, nhằm thời kỳ vua Chánh Hòa năm thứ 6.
ĐỜI TỐNG, PHỦ LÂM AN,
LÀNG HÒA NHÂN, ÔNG NGÔ HUỲNH
Ông Ngô Huỳnh, trước làm ông Tăng, sau hườn tục, trước sau hai đời vợ, sinh đặng hai đứa con, nghề rượu thịt, không nghề mô không làm, thậm chí làm bồi bếp cho người nữa.
Mỗi khi cắt cổ gà, sát vịt, các vật mạng tay cầm đưa lên nói A Di Đà Phật, mau thác kiếp (thân) này đi, rồi giết, niệm Phật vài tiếng. Mỗi khi xắt thịt, một mặt xắt thịt, một mặt niệm A Di Đà Phật, thường niệm Phật không thôi. Dạy người trong thôn, niệm kinh, làm phép sám hối, và khuyên người niệm A Di Đà Phật.
Sau trên con mắt sinh bướu (mọc mụt) như trứng gà rất sợ hãi. Tạo một am cỏ (thảo am) chia giao của cải cho vợ con, rồi ông ngày đêm niệm Phật sám hối. Qua đời vua Thiện Hưng năm thứ 23, mùa Thu ông dặn người bà con trong làng rằng Ngày mai giờ Tuất, tôi (Huỳnh) đi về Tây vậy.
Người tưởng nói chơi cười. Huỳnh đem chén bát, nồi, trách, cho người ta hết. Qua buổi chiều ngày sau ngỏ (nói) cho các đạo hữu tên Hạnh Bà rằng Giờ đây (Huỳnh) đi sắp gần đến, hãy cao tiếng niệm Phật (trợ niệm) giúp tôi, lấy áo vải đổi rượu uống liền viết bài tụng như vầy
Tợ tửu giai không, vấn thâm thiền Tông,
Kim nhật trân trọng, minh nhật thanh phong.
Dịch nghĩa
Tuồng, rượu vốn không, hỏi chi thiền tông.
Ngày nay trân trọng, ngày mai thanh phong.
Đại ý bài tụng này. Câu Tuồng, rượu vốn không là nói muôn pháp rảnh rang không dính mắc, còn có tu chi nữa mà phải nhọc hỏi tới Thiền tông (pháp tu tham thiền).
Câu Ngày nay trân trọng, là nói cái nhân niệm Phật chí thành.
Câu Ngày mai thanh phong (gió mát) là nói kết quả của sự niệm Phật, là được giải thoát hay được vãng sinh về Tịnh độ.
Ông viết bài tụng xong, ngồi vững chắp tay niệm Phật. Kêu nói một tiếng Phật đến rồi liền tắt hơi.
ÔNG TRẦN KHÍ NIỆM PHẬT TRỪ QUỶ
Ông Vương Nhựt Hưu nói Ông Trần Khí ở đất Vọng Giang là người đồng quận với ta, thường giết oan mạng người. Sau thấy quỷ hiện. Khí sợ hãi, lật đật niệm Phật A Di Đà, quỷ không dám gần. Trần Khí niệm Phật không thôi, quỷ bèn không hiện. Sau thường niệm Phật, lúc lâm chung ngồi mà quá vãng.
Sau nửa năm, dựa nhập đứa cháu gái tên Diệu Quang trong nhà, nói rằng Ta nhờ niệm Phật A Di Đà, đã sinh về thế giới Cực Lạc, cử động nói năng y như lúc còn sống, bà con kẻ quen biết đều đến viếng thăm cả hai ba ngày.
Người trong gia quyến nói Tiếc vì lúc nó còn sống, không vẽ được chân dung của nó để thờ cúng. Trần Khí nghe nói, liền hiện nguyên hình như lúc còn sống, nhưng cái nét mặt có phần tươi trẻ hơn. Bởi người sinh Tây phương sống hoài không chết, tóc đầu người ấy giống như tóc Phật, số là người ấy đã gần thành Phật vậy.
Sự tích này do kẻ sĩ nhân ở đất Vọng Giang là ông Châu Hiến Thúc, vì ta thuật lại.
TRƯU TÂN VƯƠNG NIỆM PHẬT MỘNG GIÁC
Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng khuyên kẻ sĩ nhân đất Trấn Giang, là ông Trưu Tân Vương, thuyết tu Tây phương.
Ta nói Nếu không rảnh rang, thì cứ mỗi bữa sớm mai chắp tay quay mặt về hướng Tây, niệm Nam Mô A Di Đà Phật mười biến cũng đặng.
Tân Vương tin đó, một hôm nọ nằm chiêm bao, thấy cùng với một sĩ nhân, đang dẫn ông đi đến pháp trường. Tân Vương trong cơn sợ hãi, liền niệm Phật A Di Đà đến mười tiếng, bèn thức dậy.
Đâu chẳng phải là Phật dùng đây, làm cho người kia tín tâm kiên cố ư.
TRƯƠNG KẾ TỔ NIỆM PHẬT CẦU SIÊU VONG
Ông Vương Nhựt Hưu nói Ta từng cùng kẻ sĩ nhân đất Trấn Giang là ông Trương Kế Tổ, nói việc Tây phương. Kế Tổ tin đó, bà nhũ mẫu của ông chết, ông thường vì niệm Phật A Di Đà cầu siêu.
Một hôm ông nằm chiêm bao thấy nhũ mẫu ông về, mượn y Bạch Điệp mặc, đến tạ ơn Kế Tổ mà từ biệt đi về Tây phương.
Xem đây nên biết phép niệm Phật cầu siêu vong giả thật rất linh vậy.
BÀ NGUYỄN TẨU NIỆM PHẬT MẮT SÁNG
Ông Vương Nhựt Hưu nói Có bà Nguyễn Niệm Tam Tẩu ở tỉnh Điền Trang, huyện Hoài Ninh đồng quận với ta, đau hai con mắt gần mù, thường niệm Phật A Di Đà và cặp mắt bà đặng sáng lại.
Sự tích này chính ta được thấy đó.
*PHỤ LỤC:
ĐỜI TẤN, CHỨC HÀN LÂM HỌC SĨ
ÔNG TRƯƠNG KHẢN
Ông Trương Khản lúc bình sinh làm việc tích thiện, tín trọng đạo Phật, vái tụng chú Đại Bi Đà la ni mười vạn biến để nguyện sinh về Tây phương. Khi tụng vừa xong, tuổi quá lục tuần (60), thoạt nghe trong mình có bệnh cảm, nắm tay lần chuỗi, miệng niệm Phật A Di Đà.
Liền nói với người rằng Tây phương Tịnh độ hiện ở giữa căn nhà phía Tây kia, Đức Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen. Thằng cháu của tôi là “Ông Nhi” ở trong ao thất bảo hoa sen, trên đất vàng toàn bằng Kim Sa, lễ Phật vui mừng.
Nói rồi giây lát, niệm Phật mà qua đời, “Ông Nhi” là tên thằng cháu của Khản mới 2, 3 tuổi mà qua đời được vãng sinh trong ao thất bảo vậy.
http://www.tuvienquangduc.com.au/tin...hotinhdo5.html
=========
- Thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu Thích Kim Trược, xuất gia nơi chùa Diên Thọ hồi 8 tuổI, đến 20 tuổI, thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị đại đức thầy thế độ của ông, chỉ khuyên tụng chú Đại Bi và trì thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗI ngày sư tụng chú 48 biến, ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm thánh hiệu không cho gián đoạn. Trì tụng lâu ngày, những thói quen trần nhiễm lúc trước lần lần tiêu mòn, tâm tánh lần lần tỉnh sáng, ông xem danh lợi cuộc đời như mây bay bọt nước. Sư thường vì ngườI trị bịnh rất là hiệu nghiệm, nhưng không thọ tiền thù đáp. Có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp, ông bảo: ‘Tôi chỉ trì chú Đại Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi’. Trong năm Mậu Thìn (dân quốc), sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổI giận, đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng, nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành ra quả nhẹ ở hiện đời. Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, ông ngồi tĩnh tọa trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường. Ngày mãn hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: ‘Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại trong một thời gian ngắn nữa’. Đến ngày 19 tháng 10, sư nói vớI đại chúng rằng: ‘Trong vòng 3 hôm nữa, tôi sẽ thoát ly biển khổ, sanh về Cực Lạc, xin khuyên bạn đồng tu thành tâm trì chú niệm Phật hoặc niệm Quán Âm, quyết định sẽ được vãng sanh. Vì Phật không bao giờ nói dối’. Lại bảo đức Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm đài bạc thường hiện ở trước tôi’. Chúng cho là lờI nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư đắp y len chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường từ tạ, nói sau giờ ngọ thờI mình sẽ vãng sanh. Lúc ấy, mọI ngườI còn cho là lờI nói dối. œến giờ ngọ, sư cùng đại chúng thọ trai, ăn đủ hai chén như mọI ngày không giảm. Lại bảo bạn đồng liêu rằng: ‘Theo quy lệ của nhà chùa, ngườI chết đưa thi hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy’
Quả nhiên, sau thờI ngọ một giờ, sư ngồi day mặt về Tây, an ổn mà hóa. (trích Du Huệ Úc Sao Tập)
http://www.daibi.vn/2012/05/kinh-dai-bi-tam-da-ra-ni/
1. Triều nhà Tống có thầy Thích Huệ Kiến là người xuất gia từ lúc ấu thơ, có giới hạnh thanh tịnh vàlà người tu hành dõng mãnh. Trong niên hiệu Nghĩa Hy nhà Tống, Thầy ở chùa Gia Tường nơi sơn am, chuyên tu khổ hạnh, ngày đêm luôn đốc thúc đại chúng niệm Phật. Về sau trong lúc bị bệnh, Thầy nhất tâm cầu đảo Quán Âm Đại Sĩ, mong mỏi được mau về Tây Phương Cực lạc. Phía bắc của ngôi chùa có ngôi chùa Tịnh Nghiêm của một Ni sư, cũng là một người tu hành tinh tấn, giới luật trang nghiêm. Một đêm nọ, Ni sư nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ từ cửa phía Tây đi vào, quang minh rực rỡ, có người cầm tràng phan bảo cái theo hầu, thất bảo rất trang nghiêm. Ni Sư vui mừng cung kính đảnh lễ Bồ Tát rồi bạch: “Thưa Bồ Tát đi đâu?”. Đại Sĩ đáp rằng: “Ta đến chùa Gia Tường để rước Thầy Huệ Kiến.” Ngày hôm sau,thị giả và chúng trong chùa đều ngửi thấy mùi hương lạ, thơm ngát khắp chùa, Thầy Thích Huệ Kiến thần sắc vẫn như thường vui vẻ mời đại chúng vân tập niệm Phật, rồi an nhiên thệ thế. (Trích Cao Tăng truyện - tập1 và Vãng sanh tập của Tổ Vân Thê).
13. Triều nhà Tống, Vương Thị Nữ ở xứ Kiến An, tỉnh Giang Tây là một nữ Phật tử thâm tín Tam bảo, thờ Mẹ rất chí hiếu. Hàng ngày Cô tụng Quán Âm Phổ Môn phẩm cùng với các Kinh Di Đà, Kim Cang, và chuyên tâm niệm Phật cầu thoát khỏi luân hồi. Lúc mẫu thân Cô chết,khi tẩn liệm thì máu chảy dầm dề, Thị Nữ nhìn thấy thế vô cùng đau đớn bèn nguyện rằng: “Nếu lúc Mẹ tôi còn sống, Tôi thật là một đứa con chí hiếu thì giờ phút này xin vật ô uế này đừng lưu xuất nữa.” Vừa dứt lời thì máu cũng ngưng tức khắc. Thời gian sau, cha Cô lập kế mẫu. Người Mẹ kế cùng với Cô đồng tu Tịnh nghiệp. Lúc Bà lâm chung, Thị Nữ đến chùa bái thỉnh Cao Tăng về nhà giảng nói pháp Quán Tịnh độ cho Bà. Sau khi nghe giảng xong thì Bà nhờ người mang Tịnh Y đến mặc vào, nằm nghiêng qua phía tay phải, kiết tường thệ thế. (Trích Vãng sanh Tập).
20. Hồ Thị Nữ là người ở Hồ Châu, Bà về sống với người họ Phan ở Hàng Châu. Ông họ Phan này là một Phật tử biết ăn chay trường niệm Phật từ lúc thơ ấu. Khi kết hôn với Ông, Bà thấy chồng như vậy nên cũng phát nguyện trường trai, niệm Phật. Sống với nhau một thời gian ngắn thì Ông bị bệnh qua đời. Từ đó, Thị Nữ sống một mình cô quạnh trong một căn nhà cao rộng, hàng ngày nhìn lên bốn bức vách đìu hiu thê thảm, nên Bà tỉnh ngộ cuộc đời như huyễn mộng. Bà từ bỏ phấn son, nhung lụa, mỗi ngày chỉ bỏ ít tiền mua đậu hủ, rau trái ăn cho qua bữa nhưng không thấy đói. Trong nhà Bà có thờ Quán Âm Bồ Tát, hàng ngày đều lễ bái xưng niệm, cúng dường và tụng Kinh trì Chú. Bà đến chùa Quy y và được cho pháp danh là Tịch Niệm. Lúc trước khi phát tâm tu hành thì dù ở trong cảnh nhà giàu sang, Bà vẫn đi làm các công việc nữ công để kiếm thêm tiền, nhờ vậy mà dành dụm được một số tiền. Nay Bà bèn đem hết số tiền này cúng dường chư Tăng và sắm một cái khánh, đem gởi ở nhà người khác. Vào niên hiệu Khang Hy, triều nhà Thanh, vào ngày 15 tháng 6 năm Tân Mùi, Bà nhờ người đến lấy khánh đem về, lại bái thỉnh Linh Phong Hòa thượng đến chứng minh cho lễ hỏa thiêu mình. Hàng Phật tử tại gia tất cả mọi người có đến vài trăm người đến tiễn đưa Bà. Mọi người đều đồng ngợi khen là chuyện hiếm có trên thế gian. Bấy giờ Thị Nữ đúng bốn mươi tuổi. (Trích Khoán Viên Tân Chí).
http://www.diendan.daitangkinhvietna...11552&start=36
12. Triều nhà Tống, Tuân Thức Thiền Sư, là con nhà họ Diệp ở Tuyền Châu. Thân mẫu của Thiền sư thường ở trước Thánh tượng Quan Âm, chí thành khẩn thiết lễ niệm, cầu nguyện mới sanh được Thiền sư. Thiền Sư là bậc học vấn cao thâm, chuyên tu khổ hạnh, nhất tâm niệm Phật, cầu về An dưỡng. Thiền sư thường gắng sức thực hành Ban chú Tam muội, lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn. Ở đạo tràng vì quá khắc khổ, nên Thiền sư bị chứng lạc huyết, hai chân bị nứt nẻ, nhưng Thiền sư vẫn tự thệ dù chết vẫn không thối chí. Một đêm nọ Thiền sư nằm mộng thấy Bạch Y Quan Âm đến, đưa ngón tay vào trong miệng Thiền sư, kéo ra vài con lãi. Từ đầu ngón tay của Bồ Tát, phun nước cam lồ rót vào miệng của Thiền sư, bấy giờ Ngài cảm thấy thân tâm mát mẻ, nhẹ nhàng, bao nhiêu bệnh tật trước đây đều lành hẳn. Khi mãn kỳ hạn ra khỏi đạo tràng, đảnh tướng của Thiền sư cao hơn một tấc, hai tay thòng xuống quá gối, âm thinh như tiếng đại hồng chung, hoàn toàn khác hẳn với ngày trước. Tứ chúng Phật tử đương thời, thấy vậy, ai nấy đều tán thán và kính ngưỡng. Thiền sư sáng lập chùa Hạ Thiên Trúc vài trăm gian và kiến tạo Quang minh Sám đường. Mỗi khi gác một cái đòn tay hay lợp một miếng ngói, đích thân Thiền sư tụng bảy biến Chú, nhờ công đức này mà trải qua ba lần giặc giã loạn ly, tất cả các nơi đều bị thiêu đốt thành tro tận nhưng Hạ Thiên Trúc Tự và Quang Minh Sám Đường đều bình yên vô sự, đây chính là nhờ công đức và năng lực tu trì kiên cố của Ngài mà được như vậy. Thiền Sư trước tác quyển Tịnh Độ oai nghi, Hạnh nguyện Dị mộng, cùng với các bổn Sám nghi như Tịnh Độ Sám pháp, Kim Quang Minh Sám, v.v... để lưu hành trong thiên hạ. Quốc vương nhà Tống phụng hiệu cho Thiền Sư là Từ Vân Sám chủ. (Trích Võ Lâm Cao Tăng Truyện).
http://www.diendan.daitangkinhvietna...11552&start=24
10. Triều nhà Đường có thầy Thích Đạo Hiển sống ở chùa Thánh Thiện. Trong niên hiệu Khai Nguyên, Thầy làm trụ trì chùa Đại Vân, tỉnh Giang Châu. Bấy giờ có quan Thứ Sử Nguyên Mổ, phát nguyện muốn họa bảy bức tượng Quán Thế Âm nên đem việc ấy nhờ Thầy Thích Đạo Hiển giúp dùm. Nhận trách nhiệm này nên thầy Đạo Hiển bảo họa sĩ phải trì trai thanh khiết khi vẽ tượng. Lúc họa tượng phải dùng toàn nhủ đào hương thay thế cho a dao để làm vật liệu trộn vào các màu khi tô vẽ. Khi họa xong thì bảy bức họa này thật trang nghiêm và vô cùng đẹp đẽ. Công việc đã xong nên Thầy đi đến Dự Ninh để đốn gỗ mang về để kiến tạo Văn thù Đường. Khi đốn gỗ xong chất lên bè để chở về thì không may Thầy té xuống sông, lúc bấy giờ vì nước chảy quá xiết nên nước cuốn Thầy đi thật xa, đồng bạn không ai vớt Thầy kịp. Thầy Thích Đạo Hiển, lúc vừa té xuống sông thì liền xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm. Ngay lúc ấy bỗng nhiên Thầy thấy dưới làn nước có ánh sáng lạ, Thầy chuyên chú nhìn kỹ thì thấy bảy bức tượng Bồ tát đã họa hiện ra phía trước và đồng bảo Thầy: “Ngươi nên chí thành xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì tai nạn nầy liền được thoát khỏi.” Thầy Đạo Hiển nhờ có ánh sáng chiếu rọi nên biết mình đang ở dưới lòng sông, trong lòng vô cùng lo sợ khó mà tránh khỏi cái chết nên tức thì vâng lời Bồ tát dạy, nhất tâm xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Thầy vừa niệm đến câu thứ hai thì thấy bảy vị Bồ tát đồng nâng chân Thầy lên mặt nước, kỳ diệu là cả y áo và giầy dép vẫn không ướt chút nào. Chổ Thầy bị nạn cách bè gỗ hơn bốn mươi dặm nhưng nhờ từ lực của Bồ Tát cứu mạng đã đưa kịp Thầy trở lại với bè cây. Thầy Thích Đạo Hiển về sau viên tịch vào niên hiệu Thiên Bảo năm đầu. Hiện nay tại chùa Đại Vân ở Giang Châu vẫn còn thờ bảy bức tượng của Bồ tát, ngoài ra còn có bức họa kể lại sự việc Thầy Thích Đạo Hiển té nước thoát chết được lưu truyền để khuyến hóa mọi người nhất tâm hướng về Quan Âm Đại Sĩ để được nhiều lợi lạc. (Trích Quảng Dị Ký).
http://www.diendan.daitangkinhvietna...abaa6&start=12
33. Triều nhà Minh tại chùa Thiên Đồng có Thầy Thích Tăng Chiếu là người có rất nhiều bệnh. Vào niên hiệu Hồng Vũ, năm Bính Thìn, bệnh tình của Thầy ngày càng trở nên nặng. Vị Thượng Tọa trong chùa thấy vậy, khuyên Thầy nên thành kính trì tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được tiêu trừ tật bệnh. Thầy Tăng Chiếu vâng lời, mỗi ngày trì niệm danh hiệu của Đức Quan Thế Âm đến hàng vạn câu. Qua năm ngày sau, lúc giờ Ngọ, Thầy tự nghĩ: bệnh tình của mình chắc khó lòng qua khỏi, có lẽ không bao lâu sẽ chết, chi bằng ngưng trì niệm Danh hiệu Đức Quan Thế Âm, mà đổi sang trì niệm Danh hiệu Từ phụ A Di Đà Phật để cầu vãng sanh thì chắc có kết quả tốt hơn. Khi Thầy vừa dấy khởi niệm tưởng này lên thì liền thấy có một phụ nữ tuyệt đẹp, thân mặc Pháp y, tay cầm Tịnh bình, từ ngoài cửa đi vào, đến trước mặt Thầy. Lúc ấy, Thầy Tăng Chiếu rất kinh ngạc, chẳng biết làm gì, sau khi Thầy định tâm nhìn kỹ lại, biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân. Thầy Tăng Chiếu quá sức cảm động, rơi nước mắt, Thầy liền thành kính quỳ xuống, cầu xin sám hối thật bi thiết, chỉ trong chốc lát thì người phụ nữ ấy biến mất. Trải qua năm ngày sau thì bệnh của Thầy tự nhiên khỏi hẳn. (Trích Sơn Am tạp lục).
http://www.diendan.daitangkinhvietna...95ca597104e9c4