Xin mời các bạn cùng thảo luận chủ đề này !!!
Xin mọi người đóng góp và cùng cho ý kiến của mình nhak!!!
Thành thật Cảm ơn các bạn !!!
SARVA MANGALAM!!!
Printable View
Xin mời các bạn cùng thảo luận chủ đề này !!!
Xin mọi người đóng góp và cùng cho ý kiến của mình nhak!!!
Thành thật Cảm ơn các bạn !!!
SARVA MANGALAM!!!
Mình thì chả đốt bao giờ nên không ủng hộ việc đốt vàng mã
Trung Quốc ngày xưa, một người qua đời thì thường người thân sẽ đem bỏ theo những thứ mà người chết lúc còn sống sử dụng. Giống như ngày xưa vua chết thì các thị nữ, thiếp... đều phải chôn theo.
Dần dà, việc này gây tốn kém, nên thay vào đó là các mô hình bằng đất, và về sau là bằng giấy (như bây giờ). Vì chúng ta cứ "tưởng", cứ dùng cái "ngã" của mình để đối chiếu, để sáng tạo ra "thế giới bên kia", nên cho rằng người chết qua thế giới bên kia cũng cần những mà chúng ta còn sống sử dụng. Vì vậy mà cũng có vài nhận định: "thế giới bên kia" hay đời sống sau khi chết chỉ là hình ảnh tương phản của đời sống hiện tại, tức là: ta tự "tưởng tượng", tự quan niệm thế giới bên kia y như thế giới ta đang sống, thông qua "bản ngã".
Quay lại việc đốt vàng mã, tôi có đọc hay nghe đâu đó rằng: tục này xuất phát từ Trung Quốc. Ban đầu, nhà ông này làm giấy tiền vàng mã, nhưng do người ta vẫn còn chôn những thứ đồ thật nên việc kinh doanh không tốt. Ông này bèn nghĩ ra cách giả chết, cho người ta tới cúng, đi đám tang. Xong, tự dưng ngồi dậy, khóc lóc, than kể về "thế giới bên kia" cũng cần quần áo mặc, cần nhà cửa, cần người hầu hạ, cần... tất tần tật những gì người sống đang xài, đặc biệt là DÙNG GIẤY ĐỐT mới nhận được. Từ đó, tục đốt vàng mã ra đời, thay bằng việc chôn các vật dụng hoặc mô hình.
===> Tục này đã có từ ngàn xưa, ông bà làm cũng nhiều do ngày trước trình độ nhận thức chưa cao, còn mê tín. Riêng đạo Chúa thì cực kỳ hiếm gặp chuyện này vì họ cho là liên hệ với ma quỷ. Còn bên đạo ông bà hoặc Phật giáo thì cũng còn đốt do phong tục, tập quán hoặc do người lớn làm, mình không làm không được (như tôi chẳng hạn, không muốn đốt mà không đốt thì người lớn họ phiền lòng).
Ngày nay, tốt nhất là ta không đốt. Hoặc đốt cho có hơi ấm, cho có cái gì đó mang nghi thức lễ lộc thì không có gì phàn nàn. Nhưng đừng lạm dụng đốt quá nhiều, hoặc mang ý nghĩa người chết sẽ nhận được và sử dụng. Đây cũng chính là "giới cấm thủ" mà người học Phật cần đoạn trừ (các lậu hoặc) để tiếp bước trên con đường giải thoát mà Đức Phật đã dạy trong kinh "Tất cả lậu hoặc" thuộc Trung Bộ Kinh.
Xin chia sẻ. Chúc an lạc. Mong hoan hỹ !
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
*Xin các bạn: Hãy nghe đoạn hội thoại giữ Thiền Sư An-Lạc-Hạnh ở Liên Hoa Tịnh Thất - Bình Dương và Vong Linh của em bé bị cá rỉa, nói về Vấn đề Đốt Vàng Mã nhek !
*P/S: https://www.youtube.com/watch?v=j479d8vZGrU
*Theo mình được biết, thì HT.Thiền Sư An-Lạc-Hạnh, lúc đầu thì Ngài trú ở Chùa Phổ Đà Sơn Quan Âm Bồ Tát Tự - TP.Vũng Tàu thì phải??? Đây là 1 Cảnh Thiền - 1 Cảnh Chùa thật thanh tịnh và thanh nhã làm sao, theo phong cách Hoa Tông của Phật Giáo Trung Hoa. Đây quả thật là Đạo Tràng Thanh Tịnh Trang Nghiêm của Đức Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ma Ha Tát đáng kính vậy ! Là 1 nơi để chiêm bái và thanh tu lí tưởng vậy !
Chùa Phổ Đà Sơn Quan Âm Bồ Tát Tự - Vũng Tàu
http://2.bp.blogspot.com/-fxMib8wuWh...0/DSC_0005.jpg
Chùa Phổ Đà Sơn Quan Âm Bồ Tát Tự (Chùa Quan âm) được xây dựng vào năm 1976 nằm quanh núi lớn ở Bãi Dâu nổi bật giữa chùa là Phật bà Quan Âm cao 16m đứng trên toàn sen trắng mặt hướng ra biển tay cầm bình Cam Lồ.
http://4.bp.blogspot.com/-0djZ_5LKDz...0/DSC_0004.jpg
http://2.bp.blogspot.com/-dWol8ANnhR...0/DSC_0002.jpg
http://2.bp.blogspot.com/-iFYA7NS8nG...0/DSC_0006.jpg
Có dịp đến Vũng Tàu vãng cảnh bạn hãy thăm Chùa Phổ Đà Sơn Quan Âm Bồ Tát Tự để tham quan và khám phá nét đẹp ngôi chùa nổi tiếng Vũng Tàu.
NA MÔ ĐẠI BI ỨNG HIỆN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT; MA HA TÁT
Namo Amituofo 卍Namo Amitabha 卍Na Mô A Mi Đà Phật 卍Namaḥ Amitāba Buddha 卍नमः अमिताब बुद्ध.
*P/S:
.Phổ Đà Sơn Quan Âm Bồ Tát Tự, Đường Trần Phú, Vũng Tàu, Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Vietnam. Cách bãi Dâu 500m. Là 1 ngôi Chùa nhỏ nhưng nổi bật nhờ ở giữa Chùa là 1 pho tượng Phật bà Quan Âm trắng toát.
.Mình biết là tại VN này đây, có 1 nơi mang tên tương tự như: 1 trong Tứ Đại Danh Sơn của Trung Hoa ( Đất nước Xứ Sở cùa Các Bồ Tát ), tên là Phổ Đà Lạc Ca ( Potalaka ) là nơi Đạo Tràng Thánh Địa của Đức Quán Âm Bồ Tát có Linh Khí và sóng biển, mà không biết tại đâu cả....??? Đã bao lần, mình có nói lên nỗi niềm này với bạn mình, và bạn mình nói là có ở tại Vũng Tàu đó, mà chẳng biết nơi nào cả, và cũng không chỉ điểm hay tự nguyện dẫn mình đến đây cả.....Các bạn quả là đủ duyên để biết đến Chùa Phổ Đà Sơn Quan Âm Bồ Tát Tự - Vũng Tàu đấy!!! Còn mình thì vô vàng khó khăn không một địa chỉ rõ nét.....Hãy biết quý trọng, thành kính mà đến kính lễ Đức Thánh Quán Tự Tại nhek các bạn ! Mỗi khi các bạn có dịp đến Vũng Tàu nhek !
Xin các bạn tiếp tục cho xin ý kiến tiếp nhak! Sự đóng góp ý kiến của các bạn thật đáng quý biết bao, vì nó sẽ làm sáng tỏ vấn đề hơn! Thành thật xin lỗi các bạn, vì mình đã làm loãng chủ đề !!! thật lòng xin lỗi !!!
Vấn đề này, thật nhạy cảm! mỗi người, mỗi thầy sẽ có 1 cách nhìn nhận, đánh giá theo 1 khía cạnh nào đó tùy theo quan điểm, nhận thức, phong tục tập quán và trình độ tu học của mỗi người ( Ở đây, không có cái gọi là đúng hay sai cả ! ăn thua là ở cái tâm và cách hành xử của mỗi người thôi ! ) . Xin được các bạn cứ mạnh dạn mà đóng góp ý nhiều hơn thành thực cảm ơn các bạn nhiều !
*P/S: Lần lần chúng ta sẽ thấy nhiều ý kiến của các Vị, nhất là Các Bậc Tu hành cao minh nói về vấn đề này ! Có nhiều ý xem ra có vẻ trái chiều lắm lắm ???
Em thấy bác bảo mạnh dạn nêu ý kiến, em mới dám nói. Tất nhiên, em cũng chỉ dám đứng trên phương diện cá nhân , người thường , ko phải là Bậc tu luyện như nhiều Bác trên diễn đàn này!
Theo em, việc đốt vàng mã là cần thiết để có được sự yên tâm và an ổn trong gia đình. Em thì ngày trước sống chung cùng bố mẹ, nên ko quan tâm lắm về việc này. Từ khi ra ở riêng, mình hay phải thắp hương, đốt vàng mã và cúng bái trong gia đình. Hồi mới về nhà mới (nhà em ở chung cư), khi hóa vàng mã, em hay khấn là xin biếu các cụ ở khu chung cư này (lẽ ra phải nói là xin biếu các cụ ở phòng của mình). Sau đó mấy hôm, em đi đường toàn bị va quệt. Phải đến lần thứ 3 em mới ngộ ra được là phải biếu cụ ở căn nhà của mình. Từ đó, em chỉ khấn là biếu riêng các cụ phòng mình thì ko bị các hiện tượng kia nữa.
Từ đó em suy ra là, các cụ thổ công cũng nhận được tiền vàng mã do mình hóa, và cũng có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người trần.
*Xin các bạn hãy đọc lại bài: " TÔI GẶP THẦN TÀI " của Bác Atoanmt ( Trong bài viết, tôi thấy các bác ấy đã sử dụng loại GIẤY TIỀN VÀNG MÃ, là loại " BẠC 2 ĐẦU " để CẦU TÀI ), theo Link:
Đây là bài viết mà tôi sưu tầm trên mạng, xin chia sẻ với các bạn. Chúng ta cũng nên tìm hiểu nguyên nhân sâu xa mà có cái tệ trạng này.
Tôi nghỉ Đức Phật cũng không có dạy điều này(!), ngay cả thời "Xã hội chủ nghĩa" bây giờ của chúng ta, cũng đang đưa ra vấn đề này, hạn chế bớt nhang khói và đốt vàng bạc cho người chết. Hi vong với bài này của Cố Hòa Thượng Thích Tố Liên đã viết, giúp cho chúng ta hiểu rỏ hơn.
Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã.
Cố HT. Thích Tố Liên
Ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, tục đốt vàng mã cũng vậy.
Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua Hoàng đế (267 tr. TL) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế.
Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v... để chôn theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy. Đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất nhiên phải có kẻ hầu hạ người chết, thế là người ta lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo người chết. Đến đời nhà Ân (1765 tr.TL), lại không dùng mâm bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa, họ dùng toàn đồ thật chôn theo.
Đến đời nhà Chu (1122 tr.TL), người Trung Hoa đã bắt đầu văn minh hơn; cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, người chết đối với người chết, đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn trong việc thực hiện lễ nghi chôn cất. Từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà Ân để chôn theo các vua chúa đã chết; còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng lễ nghi ngang với người sang, tức khắc phải tội "tiếm lễ".
Không những thế, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt ra những "tuẫn táng"; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý của người chết khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết. Sách Tả Truyện chép: "Đời vua Văn Công thứ sáu, vua Trần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: Ba anh em họ Tứ xa đều là những người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay".
Về sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ Sô Linh, sau vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng đồ gỗ "Mộc ngẫu" như trước. Sách Trang Tử chép: "Vua Mục vương nhà Chu (1001 tr. TL) có người tên là Yến Sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến chuyện này liền than rằng: Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân. Thầy Mạnh Tử cũng đau buồn với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu rằng: Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự".Đến thời nhà Hán, giới trí thức Nho học cảm động với lời tuyệt cự thống thiết của ngài Khổng, Mạnh trong tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới bỏ tục lệ "tuẫn táng", không dùng người sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ, con, tôi, tớ người đã chết ra để ấp mộ. Còn các thức đồ ăn mặc... của người chết kia, khi còn sống dùng những thứ gì, khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quang phần mộ.
Từ đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy cỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy. Đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo v.v... đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục chép: "Vì vua Huyền Tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt Vương Dũ vào hàng thủy tổ nghề vàng mã được".
Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Thế thì tại sao ngày rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo, mà một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên?
Nguyên nhân đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy là thế này: Vào thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa, nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng.
Vua Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là nhân dân Trung Hoa lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã.
Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. "Chà! Chà! Phép quỷ thần mầu nhiệm quá nhỉ! Thiêng liêng quá nhỉ!" - khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên.
Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: "Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế". Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thành thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu dùng đồ, thì nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực Ngôn Cảnh Giáo.
Như thế, chúng ta nên thẳng thắng nhìn nhận rằng: "Bịa đặt ra tục mê tín, dị đoan, làm hình nhân thế mạng vào lễ tam, tứ phủ để đầu độc mê tín đến ngày nay là bắt đầu từ người Vương Luân. Người Trung Hoa đã bị cái bả mê tín vàng mã do Vương Luân đầu độc đến nay đã được 1847 năm (1052-1952). Dân tộc Việt Nam chúng ta mê tín cũng chẳng kém thế, nhưng vì trước đây, chúng ta bị họ đô hộ hơn 1.000 năm. Phong tục của người họ như thế nào, người mình cũng dập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, tà, chính. Đó là do cái tính cẩu thả, phụ họa của người mình.
Nếu chúng ta đã thừa nhận tinh thần của dân tộc Việt Nam đều nhờ Phật giáo và Nho giáo đào tạo nên, vậy thì xin hỏi giới trí thức Việt Nam: hiện tại có ai tìm thấy Phật giáo và Nho giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào? Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy, một lần tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục vàng mã đi, và khuyên mọi người cùng bỏ tục ấy. Chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy.
( nguồn: hophap.net )
Vậy là không có đốt vàng mã cho người chết,cái này có thể xem là lòng hiếu kính của người còn sống đối với ngừoi chết
Mình không bao giờ đốt vàng mã , và củng không ủng hộ hay bài xít vấn đề này . Đốt thì có cái lợi và củng có cái hại.
Tất cả chúng sinh trong hửu hình hay vô hình điều phải hấp thụ năng lượng , tuy cách hấp thụ có khác , hửu hình vì có bản thể nên cần nhiều hơn , vô hình vẩn cần và cần rất ít. Đó chính là lý do vì sao loài quỉ phải ăn những vật bất tịnh như máu , huyết tanh hôi , đờm , mủ của loài người............cô hồn các đảng đói quá phải ăn côn trùng....dung dế vvvvv.......Quá khứ họ củng là người củng biết dơ , sạch sao họ phải ăn những thứ này?( ý mình là những vong linh )
Trở lại vấn đề đốt vàng mã (cho phép mình đi ra ngoài tôn giáo một chúc ) Theo như lời giải thích của Quỉ quan hay cai ngục tùy theo cách bạn gọi(mình không nhớ nguyên văn nhưng đại ý là như vầy). Giấy vàng mã được tạo từ cây là mộc , họ sơn một lớp ? nó là kim. Khi đốt có hỏa..............vv Đại khái là tập hợp lại nó thuộc về ngũ hành. Mà ngũ hành là ngũ tạng , ngũ tạng tương thông với ngũ quan. Cho nên khi đốt vàng mã nó củng có tác dụng đối với những phần tử dưới âm ty và những cô hồn có phần nguyên linh yếu đuối . Giống như khi ta đói quá có được một bửa ăn vậy thôi. Và không nên đốt nhiều vì vô dụng . Còn những vong linh mạnh thì không có tác dụng.
Mình thấy bán nào là nhà , xe , ngựa.......vv. Và bán cả quần áo , xe , nhà lầu làm riêng cho Thổ Công nửa ............vv. Chư vị Thần linh ai cần vật phẩm của thế gian? Thí dụ như cúng Phật. Phật nào dùng? mình cúng là chỉ để tỏ lòng thành mà thôi.
Cúng cô hồn ...vv mình thấy nên để đền , miếu họ làm còn mình không biết gọi về họ có vài ngàn người mình kiêu về rồi cho họ vài người , số còn lại họ sân , si mình kẹt a.
Cái này mình viết riêng cho những ai có lòng hiếu kính cha mẹ , muốn cúng bái gì đó hay đốt giấy vàng mã cho Ông , Bà. Là khi các bạn cúng hay đốt phải nói rỏ ràng TÊN , HỌ , NGÀY , THÁNG ,NĂM SANH. NGÀY , THÁNG ,NĂM CHẾT VÀ CHẾT CHÔN Ở ĐÂU. Người ta mới biết mà liên hệ và giúp các bạn được. Nếu như không đủ thì không liên hệ được và đồ cúng coi như không.
Đó là cho những vị nào không có tu hành mà có lòng. Theo mình nhận thấy :
Đốt vàng mã không bằng niệm Phật , tụng Kinh cho họ
Niệm Phật , tụng Kinh không bằng trì Chú rồi hồi hướng cho họ
Trì Chú không bằng Ngồi Thiền rồi Phóng điển quang thẳng đến cho họ( những hành giả tu thiền có....)
Những bạn thuộc về công Giáo cầu nguyện cho họ củng có tác dụng tương đương nhờ đức tin, tình thương , lòng thành của mình và sự trợ lực của Ngôi 2 và 3
:107:
Xin chúc tất cả các bạn được an lành :107::107:
Mình cũng đồng ý với bạn vo minh cau dao, cách tối thượng nhất là khởi tạo công đức và hồi hướng cho người mất bằng cách niệm Phật hoặc trì chú hay làm các việc bố thí, phóng sanh...
Cũng không phải giấu diếm gì, nhà mình dù theo Phật nhưng ông nội mình vẫn còn giữ tục lệ đốt vàng mã. Cũng chỉ là để ông cụ an lòng thôi chứ mình biết điều đó không thật ích lợi gì cả.
Thưa các thiện tri thức,
Nếu bi giờ mà nói đốt vàng mã không có thật, đốt không có lợi ích gì thì thật khó để người ta theo. Chúng ta đang đứng trên góc độ cách hiểu thiểu số để nói, chứ chưa đứng trên số đông.
Mình nghĩ vàng mã là việc đốt này là có thật, nhưng chủ yếu rơi vào 2 cõi A Tu La, và cõi Dục Giới.
Con người sống ở cõi Ta Bà này khi sống không chịu tu, không chịu tu tập Kinh Điển, dù không làm việc ác, hay việc ác nhỏ khi chết đa số về cõi A Tu La. A Tu La chia làm 2 A Tu La Thiện Đạo, và A Tu La Ác đạo.
Cõi của họ vẫn còn gần với thế gian, nên nơi đó họ vẫn còn chịu ảnh hưởng của vấn đề đốt vàng mã,
Con người khi sống luyến tiếc lưu giữ tài sản của mình, khi chết đi Thức đó vẫn còn, do vậy mà chấp vào hình tướng của Vàng Mã.
Khi cúng giỗ, khi làm lễ tại nhà, hay tại Đình Đền đốt vàng mã tứ tung, các ông thầy đồng khen tới tấp " Phúc Đức quá, phúc đức quá, nhận được rồi nhận được rồi" tối ngày hưởng thú vui như vậy, khi có người cúng tế.
Thế nhưng theo quan điểm tu Phật thì như sau:
Cõi Địa Ngục thì phạm nhân không trực tiếp nhận được rồi, cõi Ngã Quỷ thì miêng to, cổ bé như cây kim không thụ hưởng được các vật tho dụng hữu hình.
Cõi súc sinh thì thành con vật rồi thì đốt vàng mã nhận chi đây ?
Cõi Người thì hik, có cần vàng mã để tiêu ?
Có cõi A Tu La là chủ yếu cần đến vàng mã này.
Nhưng trong Lục đạo luân hồi thì luôn có sự xoay vòng, luân chuyển, đau khổ triền miên. Họ không biết rằng việc đốt vàng mã là giúp cho người thân của mình trôi lăn mãi vòng sinh tử luân hồi không có ngày ra.
Đạo Phật chủ trương cấm đốt vàng mã và khuyên chúng ta chuyên tâm tạo dựng công đức, tu tập, hồi hướng, mở lòng từ bi để cứu giúp ông bà trong địa ngục ,hay ngã quỷ, hay súc sinh, hay a tu la vì chỉ có cách cúng dường thiết thực vậy mới thự sự là cứu ông bà tổ tiên, thay vì là đốt vàng mã.
Càng tạo cảm giác hưởng lạc thú vui thì không có sự tu tập ông bà càng khổ.
Nếu như giờ khuyên họ không nên đốt nữa về nhà họ không đốt. Họ cũng không làm việc tạo dựng công đức, mở lòng từ bi chân thành hik thì không ổn.
Vì tôi thấy nhiều người vẫn mơ, nhiều nơi gọi hồn vẫn nhận được lời trách của người thân là tại sao không đốt cho họ.
Các vong linh vất vưởng cũng kêu là sao không đốt cho họ quần áo vào ngày 15/7 chẳng hạn.
Khi đã hiểu rồi thì Việc tu tập hồi hướng công đức, thật chẳng nghĩ chi.
Chào các bạn!
Theo như lời Huynh Vominhcaudao ! Mình cũng xin đóng góp vài điều về vấn đề này !
Mình thấy bây giờ : vì lợi nhuận kinh doanh mà họ chế tạo ra đủ thứ loại Vàng Mã không đơn thuần như ngày xưa; việc chế tác Vàng Mã có căn cứ dựa vào Các Vị Tu Tiên - Đạo Sĩ thời bấy giờ có Ngũ Nhãn - Ngũ Thông, thông thiên bác địa, trên thông thiên văn dưới thông địa lý; nên việc chế tác Vàng Mã rất là có ích cho Cõi Âm. Còn thời bây giờ, chỉ vì chạy theo lợi nhuận đồng tiền mà chế tác đủ loại Vàng Mã cho thế gian như Huynh đã nói, nào là nhà lầu , xe hơi, quần áo đẹp, tỳ thiếp...v.v......Mình thấy buồn cười, thấy nực cười làm sao ấy, thật lố bịch làm sao??? Chắc Chư Thần Chư Thánh thấy việc này họ cũng cảm thấy xấu hổ thay cho người thế gian chúng ta đó !!! Cũng có lúc Qúy Ngài nhờ thông ngôn, cơ bút mà khuyên nhủ là không nên đốt Vàng Mã cúng cho các Ngài nữa, mà con người chúng ta có nghe đâu??? phớt lờ ý Ngài tiếp tục và tiếp tuc.....Chắc cũng bỡi do lòng thành của con người mà Qúy Ngài cũng tùy duyên mà bỏ qua chăng ????
Như Huynh nói đó đã là cô hồn, ma quỷ......họ đói khát lắm, họ cần ăn, cần chỗ nương tựa, cần sự bố thí pháp, cần uống trọn những dòng pháp nhủ, cần sự bố thí phước báu của người thế gian ban cho họ để họ chóng sanh lên cõi cao hơn........Tôi vẫn nhớ mãi 1 câu chuyện do các bác lớn kể lại; thời xưa Khi Đức Tôn Sư HT.Thích Phổ Ứng Chùa Linh Quang Tịnh Xá Q4 khi Ngài còn tại tiền: có 1 Nữ Phật tử Người Hoa bị Vong Linh Cô Hồn nhập vào, và nói với Ngài rằng: Thưa Thầy ! Cái con mẹ này, mẹ chỉ cúng có 1 mâm thôi, mà mẹ đốt nhang vái 4 phương 8 hướng kêu tụi con đến thọ lãnh; mà tụi con đến đông lắm Thầy, nên ăn chia không có đủ.....cho nên Con mới nhập vô bả, hành bệnh bả vậy.!!!! ( Bạn biết rồi đó, Người Hoa họ cúng có ít đâu, huống hồ gì Người Việt chúng ta cúng có tý mà gọi đủ thứ....). Qua việc này, ta thấy việc Cúng Cô Hồn là có ích cho Cõi Âm và bản thân mình nữa để tu tập Hạnh Từ Bi; nhưng cần phải đọc thêm những bài Kinh bài Chú trong nhà Phật để Các Vị này thọ nhận đầy đủ, và gieo chủng tử thiện căn Phật Pháp; vì nó sẽ là món duyên lành giúp Các Vị này trong Kiếp Lai Sinh. Việc cúng Cô Hồn, phải phát xuât từ Chân Tâm, thực tâm vì thương xót mà cúng, chứ đừng nghĩ vì có lợi cho mình hay cho họ cúng nhé, nếu nghĩ vậy sẽ bị phản tác dụng ngược lại cho bản thân mình đấy; mình cũng bị rồi đó, Cố HT. Kiến Châu cũng từng tâm sự với mình về việc này. Những điều này, là do Đạo Sư Lian Sheng - Đạo Sư Liên Sanh - Lư Sư Tôn, Ngài trực nhận vấn đề khi tiếp cúng với họ, đừng cúng với tư tưởng mình là kẻ ban ân, và người khác là kẻ chịu ân, và bắt ép người khác phải nhận những gì mình cúng mà mình làm trong khi người ta không thích.......
Vài điều chia sẻ cùng các bạn
Kính chúc các bạn vạn sự cát tường
NA MÔ BỬU TƯỚNG NHƯ LAI
Phổ Quảng
thân
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Không hẳn như vậy đâu , người ta đốt nhang, đèn cầy tác dụng của nó củng như vậy.
Tôi có một cái thét mét là phương tây người ta không dốt nhang mà cúng bông , hoa. Như vậy vong linh hay người chiết có dùng được không? và họ dùng bằng cách nào? cảm thực? xúc thực?
Âm binh của mấy ông Thầy bùa thì họ hít đồ ăn không hà , còn vong người chít mình nghĩ củng vậy.
Có ai thông tin hay có kinh nghiệm về vấn đề này xin chia xẽ với
Đa tạ, đa tạ:109:
XÁC THÌ XÀI OXY, H2O, CHỨ VONG THÌ XÀI GÌ? Thiên thần cần kề THIÊN CHÚA, họ xài gì? HỌ XÀI "CÁI THIÊNG LIÊNG" THIÊN CHÚA BAN CHO. Vậy VONG CẦN XÀI "CÁI THIÊNG LIÊNG ĐÓ". Trong KT CHÚA JESU NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI NỮ SAMARI rằng "NƯỚC CHỊ CHO TÔI UỐNG THÌ UỐNG LẠI KHÁT TIẾP, NƯỚC CỦA TÔI BAN CHO, AI UỐNG SẼ KO CÒN KHÁT NỮA!". LINH HỒN CẦN NGƯỜI SỐNG CẦU NGUYỆN VỚI CHÚA XIN NƯỚC HẰNG SỐNG ẤY BAN CHO LINH HỒN. THÁNH LỄ MISA LÀ LỜI CẦU NGUYỆN TRỌN HẢO NHẤT ĐEN ƠN THIÊNG CỨU VỚT LINH HỒN. Chứ mấy cái VẬT CHẤT TRẦN TỤC chẳng ích gì với VONG THIÊNG.
Ruộng phước tối thượng ở đời được đề cập trong kinh điển đó là các bậc chân tu, mức độ càng cao thì công đức khi bố thí cho họ có quả càng lớn.
Chúng ta hoàn toàn có thể làm những việc công đức và hồi hướng nó cho những vong linh, ngạ quỷ, hay thiên thần, hay thậm chí là con người.
Cái họ hưởng đc là công đức của bạn chứ ko phải những thứ mà bạn đốt. Giấy vàng mã chỉ là phương tiện để thực hiện sự hồi hướng, khi bạn đốt vàng mã, lúc đấy bạn có chú tâm, chú niệm tới vong linh, ngạ quỷ, atula, hay thiên thần, và nhờ đó họ nhận đc, chứ ko phải họ nhận đc xe máy tiền giấy kia.
Bạn có thể cúng dường công đức ở chùa, hay bất kể một việc làm công đức nào, như góp tiền xây cầu cho trẻ em miền núi, hay góp tiền vào quỹ tấm lòng vàng.....sau khi bố thí (một cách đúng pháp ), bạn chú tâm chú niệm hồi hướng nó cho 1 vong linh, họ sẽ nhận được, giấy vàng mã hay đốt hương, hay một số có thể dùng cách này cách khác chỉ là pháp phương tiện nhằm giúp cho việc chú tâm chú niệm của bạn mà thôi.
Một vài tri kiến riêng (không như thật )qua việc đọc kinh điển mà thôi, chỉ nên tham khảo :)
*Xin các bạn hãy xem chuyện: " CHAT VỚI THẾ GIỚI BÊN KIA " của tác giả Minh Thạnh, theo Link:
*P/S: http://thegioivohinh.com/diendan/sho...i-b%C3%AAn-kia
Muốn tìm hiểu về cõi âm, thì có thể tham khảo Tài Liệu Khoa Học : NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM đã được chứng thực bởi nhiều cơ quan
Trong tài liệu này có nói về vấn đề đốt Giấy Tiền Vàng Mã và nhiều thứ khác, hay lắm....
*Xin các bạn xem " Truyện ma: Gọi hồn ma bị ma ám ", theo Link:
Trích đoạn: "........ Bố mẹ biết không ông mới đi đón con về ở mấy năm nay ( bố tôi mới mất cách đây vài năm vì tai nạn) mà con nói cho bố mẹ biết ông nội chết oan đấy, bố mẹ gửi quần áo cho con xin hai bộ, cho con xin ít tiền…..."
Người Âm có nhận được vàng mã không?
Thứ bảy - 02/02/2013 05:36
( Nguồn: https://vi-vn.facebook.com/Trang.non...22247577888494 )
Hàng tuần có hàng trăm gia đình đến Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người ở số 1, Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội để cầu siêu và giao lưu với người thân đã mất do Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) tổ chức. Tiến sỹ Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA cho biết kết quả giao lưu thành công rất cao. Ông chia sẻ về ý nghĩa việc giao lưu, cách thức cầu siêu tại đây và vui vẻ trả lời câu hỏi:
“Người Âm có nhận được vàng mã hay không?”.
Tiến sỹ Vũ Thế Khanh - Tổng Giám đốc UIA
Nhiều gia đình đến đây giao lưu không thành công là vì họ chỉ muốn "gọi" người thân đã mất về chỉ để hỏi, để cầu lợi cho mình, (hỏi làm ăn thế nào cho phát tài, để xin được phù hộ đủ thứ,…). Việc giao tiếp với "cõi âm" như vậy là hình thức giao tiếp không lịch sự.
Các cụ ta có câu: "Âm dương đồng nhất lý". Do đó, muốn cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên… đã mất về "gặp" chúng ta với tâm trạng vui vẻ, thì chúng ta phải thể hiện tính nhân văn trong văn hóa giao tiếp. Theo đó, ta phải giải mã được những thông điệp của thế giới bên kia, nghe được ý nguyện của người đã mất: Họ muốn gì, cần gì để mình đáp ứng, thậm chí chúng ta có thể học và tiến hành “chữa bệnh” cho người âm nếu như chúng ta thành tâm hồi hướng công đức và phát nguyện. Chúng ta không nên bày những đồ hàng mã, tiền giả, không cúng những đồ sát sinh, không được bày vẽ tốn kém.
Chương trình khảo nghiệm khoa học về các khă năng đặc biệt của con người. Đây là đề tài khoa học cấp Nhà nước, có sự phối hợp điều hành trực tiếp của 3 cơ quan là: Liên hiệp Khoa học UIA, Viện Khoa học Hình sự (Bộ Công an) và Trung tâm bảo trợ Văn hóa truyến thống.
Việc đốt vàng mã "người âm" có nhận được không?
Tiến sĩ Vũ Thế Khanh đã vui vẻ trả lời câu hỏi này và kết luận thông qua một câu chuyện có thật về một cuộc “giao lưu” giữa một bên là một gia đình thân nhân liệt sĩ và bên kia là một… Liệt sĩ (nguyên là một vị tướng quân đội).
Trong tất cả các cuộc giao lưu ở số 1, Đông Tác, thì đồ cúng cho liệt sỹ hay cúng gia tiên đều là đồ chay thanh tịnh, không cúng đồ mặn sát sinh, không cúng đồ mã, tiền giả. Theo ông Vũ Thế Khanh: “Đốt vàng mã không phải là động thái tín ngưỡng thuần tuý mà chính là thước đo mức độ giác ngộ của Văn hoá Tâm linh – Nó là thành tố thuộc cặp phạm trù của tâm thức: mê tín và chánh tín.
Trước hết, phải nói đến sự nhận thức về cái chết sẽ dẫn đến việc ứng xử đối với người đã chết: trình độ nhận thức càng kém thì càng dễ đi vào con đường mê tín và hoang tưởng. Mỗi một dân tộc, mỗi nền văn hoá đều có cách lý giải khác nhau về cái chết, điều đó quyết định đến các hành vi ứng xử đối với thân nhân đã chết. Thời xa xưa, vua chết có thể còn bắt cận thần hoặc lính hầu chết theo, chồng chết còn bắt vợ chết theo và như vậy mới là "phải đạo", thậm chí còn "yểm" cả người đang sống là gái đồng trinh để làm "thần giữ của"…
Có những dân tộc thiểu số, khi người thân mất đi thì họ chia của cho người chết, của cải có thể được chôn theo hoặc đem ra treo ở mả theo phương thức: "Của đồng chia ba, của nhà chia đôi". Dần dần những hình thức "chia chác" ấy được chuyển thể sang đồ mã và đương nhiên tiền mã cũng không phải là ngoại lệ.
Nhưng phong tục đốt vàng mã ở nước ta xuất phát từ đâu và có từ bao giờ? Khó ai có thể trả lời chính xác được thời điểm xuất hiện phong tục đốt vàng mã, nhưng căn cứ vào các giai thoại lịch sử thì tục lệ đốt vàng mã tại Trung Quốc có trước Việt Nam.
Ông Vũ Thế Khanh giải thích về câu hỏi: "Người âm" có thích đồ mã không và khi biếu vàng mã thì họ có nhận được không? Thông qua hàng ngàn các ca khảo nghiệm, giao lưu với người đã khuất, chúng tôi phát hiện ra một điều vô cùng thú vị là: Khi hỏi đốt vàng mã, người âm có nhận được không? Thật giật mình khi được nghe họ trả lời: Nhận được!. Theo thống kê của chúng tôi, số "người âm" trả lời "nhận được" lại có xác suất rất cao, chiếm từ 60 đến 70% các ca được khảo nghiệm.
Ông Vũ Thế Khanh kể lại một câu chuyện điển hình đặc sắc về giao lưu tâm linh để hỏi về việc đốt vàng mã. Ca trắc nghiệm này đã được quay phim lưu trữ và trở thành kinh điển của việc khảo nghiệm:
“Vào ngày 09 tháng 9 năm 2009, mới 8 giờ 15 phút, cả phòng giao lưu áp vong tại số 1 Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội đã náo nhiệt vì có một vị tướng quân đội về "nhập" vào cô cháu gái của mình. Cô này mới tốt nghiệp du học ở Úc về, ngày thường nói năng nhỏ nhẹ, vốn chưa biết thế giới tâm linh nên hôm nay muốn đến "thực mục sở thị". Gia đình vị tướng này đến giao lưu tương đối đông, cả con cháu có đến 10 người, trong đó có hai người con đã là sỹ quan cấp tá trong quân đội. Gia đình xin đề nghị cơ quan không để lộ tên của vị tướng này trên phương tiện thông tin đại chúng và đương nhiên ban khảo nghiệm hoàn toàn đồng ý.
Vị tướng này nhập vào cô cháu gái, cười ha hả, giọng nói rất to, trầm hùng, lại pha chút khôi hài của vị tướng quân quen "ăn to nói lớn" nơi chiến trận.
Anh con trai (quân hàm Thượng tá) hỏi:
- Con đốt tiền biếu cho ba, ba có nhận được không?
- Nhận được!
- Con đốt quần áo biếu cho ba, ba có nhận được không?
- Nhận được!
- Con đốt ô-tô biếu ba, ba có nhận được không?
- Ô-tô hả! Mi đốt cả 2 lần tau đều nhận được cả!
Cả gia đình mừng mừng tủi tủi vì không những được giao lưu trực tiếp với cha mình (tính tình giọng nói vẫn thế) mà ba còn nhận được quà biếu của con cháu nữa
Đột nhiên vị tướng chuyển sang giọng trang nghiêm và khôi hài:
- Nhưng mà bọn mi đã hại tau!
- Sao hả ba ?
- Khi nhận được ô-tô, khoái chí quá, tau đẩy ra đường chạy thử thì khởi động mãi mà máy không nổ!
- Hóa ra không có xăng (cả gia đình cười). Chềnh hềnh ra đường mãi, nên công an đến toét còi bắt nộp phạt vì "cản trở giao thông". Loay hoay và lóng ngóng mãi mà không đánh xe vào rìa đường được. Công an lại hỏi: "Xin cho kiểm tra bằng lái". Tau làm gì có bằng lái, thế là lại phải nộp phạt lần thứ 2 (cả gia đình lại cười). Chưa hết đâu, khi bọn mi gửi ô-tô lần thứ 2, tau chán quá chả thèm đi nhận, thì tháng sau tau lại nhận được một "trát" bắt nộp tiền "phạt phí lưu kho lưu bãi" (cả gia đình lại cười như nắc nẻ). Vị tướng quân nói tiếp:
- Như vậy vẫn còn may đấy, nếu tau mà đi từ Sài Gòn bằng chiếc ô-tô bọn mi biếu thì 3 ngày nữa chưa chắc ra được Hà Nội. Vậy thì hôm nay giao lưu làm sao được đây?
- Thế ba đi mây về gió à?
- Nhanh hơn cả đi mây về gió! Chỉ cần nghĩ về đâu là đến đó liền. Nhưng bọn mi có thực lòng biếu ô-tô cho tau không?
- Chúng con thật lòng mà ba!
- Chiếc ô-tô thứ 2 khá cầu kỳ, bọn mi mua 700 ngàn đồng ở Hàng Mã đúng không?
- Vâng! Sao ba biết tường tận như thế?
- Thì lúc đó tau đang đứng cạnh đó mà. Nếu bọn mi có lòng hiếu thảo, thì hãy mua cho tau một chiếc ô-tô thật, khoảng 700 triệu thôi mà.
- Nhưng ba có cần đi ô-tô của trần gian đâu?
- Thì tau tặng cho các đồng đội của tau trong Hội Cựu Chiến Binh, để họ chở nhau đi chơi, được không?
Mấy người con vò đầu gãi tai tỏ ra lúng túng,… Vị tướng quân lại cười ha hả và nói:
- Ô-tô thật sao không biếu, mà chỉ biếu ô-tô giấy 700 ngàn đồng thôi, lại còn cứ khấn "ba phù hộ cho con thăng chức ba nhé!”. Ô-tô giấy mà thay cho lòng hiếu thảo được à?
Vị tướng quân lại nói tiếp:
- Bọn mi khi đi may quân phục có đo không?
- Phải đo đến 3 lần chứ ba!
- Thế sao bọn mi mua quần áo mã mà chẳng đo gì cả, biết "người âm" gầy hay béo, cao hay thấp mà mua? Mặc không vừa thì vứt bãi rác à?
- Con nghĩ là sẽ có phép biến hóa mà ba!
- Đã có phép biến hóa thì cớ sao phải mua đồ giấy để đốt đi cho phí? Sao không mua đồ thật rồi đặt lên cúng, tau vẫn chứng nhận được mà, sau đó đem quần áo ấy tặng cho các đồng đội của tau, nói rằng "ba cháu gửi biếu các bác" thì có hơn không?
- Vâng chúng con xin làm theo lời ba!
- Lại còn cái vụ tiền mã nữa. Có 4 lý do mà không nên mua đồ mã: thứ nhất là các nguyên liệu làm tiền mã, đồ mã đều từ các thứ vật liệu dễ cháy, bẩn thỉu, tanh hôi. Thứ hai là khi gia công, đàn bà con gái, chó mèo nhảy qua nhảy lại còn gì là thanh tịnh. Thứ ba là: bọn mi đi lấy tiền ngân hàng, có đếm không? Đếm đến 3 lần ấy chứ. Nhưng khi đi mua tiền mã, có đứa nào đếm không? Chẳng bao giờ chứ gì! (cả gia đình sững sờ). Nhưng nếu có đếm thì chẳng bao giờ đủ đâu. Như vậy, trong tư duy của bọn làm tiền mã, hàng mã đã chứa đầy tư tưởng đại khái và giả dối rồi, sự giả dối và bất tịnh này đã tàng trữ trong đồ cúng. Thế mà lại nheo nhẻo khấn rằng "chúng con lòng thành dâng lên tịnh tài tịnh vật" hay sao? Thanh tịnh cái nỗi gì!? Thứ tư là: "thống đốc ngân hàng" của thế giới tâm linh đâu có cho phép lưu hành đồng tiền do các cõi giới khác in hộ? Đồng tiền phải có mệnh giá chứ, có thể chế nào mà lại chấp nhận cho hàng ngàn hàng vạn hãng in tiền không? Rồi ai cũng tự in thì tiền thì có giá trị gì không?... Vậy nên, nếu các con có cúng thì hãy cúng tiền thật, sau đó mang số tiền đó nhân danh ba mà giúp đỡ đồng đội của ba thì đó mới là cúng thật,…”
TS. Vũ Thế Khanh (áo veston) và tác giả.
Ông Vũ Thế Khanh cho biết thêm: Tặng, biếu, kính dâng… một vật gì cho người khác, ngoài cái ý nghĩa "nhận được" ra thì còn vấn đề quan trọng hơn là "có dùng được không". Nếu cho cái mà người ta không dùng được, chẳng những mình chẳng có được công đức gì mà còn mắc thêm cái tội "biến nhà người ta thành bãi rác nhà mình". Đạo Phật là đạo giác ngộ, giải thoát, không chấp nhận việc cúng kính giả dối, không chấp nhận việc đốt vàng mã, tiền giả. Các bậc tu hành chánh đạo vẫn đang duy trì được sự trang nghiêm thanh tịnh, không cho phép đốt vàng mã, không cho phép cúng đồ mặn tại chùa.
Hóa vàng - Tiền tỷ biến thành tro.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay có một số người cho rằng vì thương ông bà tổ tiên thiếu thốn nên đốt vàng mã để tỏ lòng hiếu thảo và đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,… Về điều này ông Vũ Thế Khanh lý giải: “Đốt vàng mã chỉ là hành vi chứ chưa phải là gốc của tín ngưỡng. Nếu vì lòng hiếu thảo thì hãy làm những gì đem lại an lạc đích thực cho hương linh liệt sỹ và hương linh ông bà cha mẹ, chứ không nên dâng những thứ mà họ không dùng được, thậm chí những đồ giả mà đem dâng lại càng làm cho họ tham lam hơn, sân hận hơn, và mê muội hơn. Lễ cúng như thế nào là phù hợp nhất với thuần phong mỹ tục ở Việt Nam ư? Hãy thắp lên nén hương thơm từ lòng hiếu thảo và làm những điều thiện theo công đức Ba La Mật (nghĩa là thi ân bất cầu báo) để hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ, có như vậy họ mới được trở về cảnh giới an lành”.
Mời quý vị đọc thêm bài:
Không dùng vàng mã để "áp đặt" thế giới bên kia.
Tác giả bài viết: Môn sinh NGÔ LÊ LỢI (Hà Nội)
Sản xuất và đốt tiền + vàng mã làm lạm phát tiền + vàng tại âm phủ. Diêm vương sẽ kết tội mấy kẻ sản xuất và đốt tiền + vàng mã.
:24::24::24::24::24:
Những ai đốt máy bay + tàu bò cho người âm nhớ phải đốt cả xăng để người âm có xăng dùng những cái đó. Cẩn thận cháy nhà.
:24::24::24::24::24:
Chuyện người âm dạy người dương cúng lễ
Cô Bằng vốn là "nhà ngoại cảm" với khả năng gọi hồn siêu phàm, người khác thì lại kháo cô được 'Thánh ban cho khả năng gọi vong mát tay gần 20 năm nay'.
Thực hư ra sao thì không ai biết nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, người ta cứ ùn ùn kéo nhau đến chầu chực tối ngày ở nhà cô để đợi đến lượt gọi hồn người thân. Nhưng tất cả đó chỉ là trò che mắt thiên hạ, không biết những khuôn mặt rạc đi vì chờ đợi kia khi hiểu ra mình bị lừa sẽ nghĩ sao?
Người âm dạy người dương cúng lễ
Giờ xếp lễ ấn định từ 6h30 sáng, nhưng khi chúng tôi vừa đặt chân đến đầu thôn đã thấy kẻ đứng, người ngồi xếp thành hàng dài. Đang loay hoay chưa biết phải làm gì thì có một chị khoảng ngoài 30 tuổi đi tới, đưa chúng tôi ra đầu cổng hướng dẫn mua lễ. Tôi mua hai lễ với giá 30.000 đồng, mỗi lễ gồm một gói bánh, một thẻ hương, một gói nhỏ “tiền, vàng” rồi sang nhà cô Bằng.
Gần 20 năm hành nghề, cô cũng gây dựng cho mình một cơ ngơi gồm căn nhà 5 tầng xây kiểu biệt thự, nội thất trong nhà chủ yếu bằng gỗ đắt tiền. Một gian điện thờ được đặt vuông góc ở sân. Bên ngoài cửa điện, nhà cô cho xây một cái lán lợp mái tôn khá rộng, kê khoảng chục hàng ghế dài kiểu hội trường hợp tác xã ngày xưa.
Chuyện người âm dạy người dương cúng lễ - Ảnh 1
Lúc 6h30 sáng có khoảng hơn 30 người đến đặt lễ. Mọi người xếp hàng trước cửa điện, vào bàn tự tay bày lễ vào hai cái đĩa nhựa, bỏ thêm tiền vào lễ. Tiền lễ đặt bao nhiêu là tùy tâm, nhưng thường mọi người đặt từ 30.000 - 100.000 đồng. Một bà cạnh tôi bảo: “Đặt kha khá lên thì 'cô' Bằng mới thấy vui và vong cũng về sớm hơn bình thường”. Sau khi đưa lễ vào cửa điện, có một cô gái ra nhận lễ, bày lên ban thờ giúp.
Ban thờ ở điện xây bằng gạch, bày biện khá đơn sơ, giản dị. Lễ của ai được đặt lên thì người đó quỳ khấn trước ban thờ. Có người khấn rất lâu, có người chỉ khấn một, hai phút. Tôi cũng không biết khấn gì nhiều, nên chỉ dăm bảy câu là hết, vái ba vái rồi ra ghế ngoài lán ngồi đợi...
Trong lúc chờ đợi tới giờ cô Bằng làm việc, qua tìm hiểu được biết tên đầy đủ của cô là Vũ Thị Cẩm Bằng, nhà ở thôn Thạch Lỗi (xã Thạch Lỗi, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Trước kia, cũng như bao người dân nơi đây, cô Bằng cũng chỉ trông vào hai vụ lúa, nhưng từ ngày Thạch Lỗi có nhiều “cô đồng” nổi lên thì cô Bằng cũng được “Thánh” ban lộc.
Bác Loan (Phú Thọ) bảo: “Như thế này là còn vắng rồi đấy cháu ạ, chứ như trước kia đông lắm, mọi người phải xếp hàng cả đêm để chờ. Cô làm việc cả ngày rất mệt, nên cô xin các "ngài" chỉ làm buổi sáng, và từ giờ 6h30 sáng cô mới cho đặt lễ đấy. Bác đến đây nhiều bác biết, ở đây đặt lễ không tuân theo bất cứ thứ tự xếp lễ nào, vì theo như cô bảo, quan trọng là khi “nối đài”, các quan dưới đó sắp đặt chứ cô không có quyền. Nhiều lần bác đến trước nhưng mãi tới trưa vong mới về, có người đến sau thì vong lại về trước”.
Đợi chừng hơn một tiếng thì cô Bằng xuống điện. cô mặc bộ quần áo nâu ngồi giữa chiếc chiếu trải trước ban thờ. Nhìn quanh một lượt rồi cô đưa tay thỉnh mấy tiếng chuông, miệng lẩm nhẩm khấn. Vì ngồi không xa mà cô lại khấn to nên tôi nghe thấy rõ tiếng cô cầu ngắn gọn thôi, chừng dăm, bảy phút: “Con lạy các quan trên Thiên đình, thần, Phật, thổ công, thổ địa cho con xin được nối đài với các vong linh” và bắt đầu “xin âm dương”, xem các “Ngài” có cho “nối đài” không.
Nếu chưa được, cô lại khấn lại bài khấn đó, rồi lại xin “âm dương”... Có lẽ phải xin đến hơn mười lần thì mới “nối đài” được, tức là “xin âm dương” thành công. cô phấn khởi reo lên “nối đài được rồi”. Mọi người đều vui vẻ, phấn chấn hẳn lên, nhưng rất trật tự, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng để được “gặp người âm” ... cô bắt đầu cầm các tờ giấy xếp thứ tự lên đọc tên những người đi cầu và khấn tên những vong người âm, cầu được gặp...
Tất cả mọi người đều im bặt và hồi hộp chờ đợi vong nhà mình xuất hiện. Ai nấy đều tập trung cao độ vào từng động tác, cử động của “cô”. Cô nhắm mắt, che mặt bằng chiếc quạt giấy, ngồi trong tư thế thiền, lắc lư...
Một lúc sau, cô rùng mình một cái và nói theo giọng một ông già: “Gớm, sao mà lắm người thế?”. Mấy người ngồi gần cô chắc đã quen với chuyện đi gọi hồn liền cất giọng ngọt ngào nói: “Lạy vong ạ. Xin vong cho biết quý danh để người trần chúng con biết mà xưng hô cho phải phép ạ”. Bỏ qua câu hỏi của mấy chị, “vong” cất tiếng gọi “vợ chồng thằng Lâm đâu, sao ngồi xa thế, ông không trông thấy mặt”.
Từ cửa, hai vợ chồng chị nọ lật đật rẽ đám người vào ngồi cạnh cô. Một màn gặp gỡ giữa người âm và người dương diễn ra với đủ sắc thái tình cảm, lúc cười vui hớn hở, khi lại giận dữ, khóc lóc. Cuộc trò chuyện diễn ra hơn 15 phút thì “vong” bảo: “Thôi, ông đi đây”!... Và cô Bằng nhắm mắt lại, đờ đẫn, ngã ra... Mấy người ngồi gần đỡ lấy “cô”, phẩy quạt vào người... Chừng vài chục giây, cô lắc lắc đầu rồi tỉnh lại bình thường. cô lấy hai tay vuốt mặt, xoa mắt một lát, rồi cô lại bắt đầu cầm các tờ giấy đã “đăng ký” lên khấn để mời các vong khác về tiếp...
Vong tiếp theo lên là một cụ ông. Cụ xưng tên là Hoạt. Cụ gọi thằng Tốn, thằng Sửu, con Thu, con Mai, thằng Thặng, thằng Quân ... Cụ bảo: “Thằng Quân ngồi gần lại đây!”. Mấy con cháu thưa: “Đây là Quận, em của Quân”. Cụ bảo: “Ừ, sao hai anh em mày giống nhau như đúc! Cụ cứ nhầm”.
Rồi cụ bảo: “Cái Lan con nhà Quân là bị ốm bệnh trần, phải đi bác sĩ mà chữa, chứ ông bà ai lại làm hại con cháu nhà mình. Mà chúng mày cứ đi xem người ta nói lung tung, rồi cúng lễ tứ phương thì khổ mà bệnh đâu có khỏi ... Mà hôm nọ thằng Quân đem ngựa, mũ đi lễ tạ ở cái đống Găng ấy lại hóa ngựa như thế là ngựa mù, ngựa câm, ngựa điếc, ngựa què! Chúng mày có hiểu không?”. Mọi người rối rít: “Chúng con không biết, xin cụ dạy cho ạ”.
Cụ cười bảo: “Không ai dạy cho thì dốt là phải. Trước khi hóa ngựa, phải 'khai nhãn', là mở mắt ấy, hiểu chưa? Rồi 'khai nhĩ', là thông tai ấy, hiểu chưa? Rồi khai khẩu, là mồm ấy, để nó còn hý được chứ". Một người hỏi: “Thưa, khai thế nào ạ?”. Cụ lại cười, bảo: “Phải cầm nén hương, đưa vòng quanh và khấn cho mắt nó tinh, tai nó thính, miệng nó hý to, chân nó chạy khỏe ... hiểu chưa?”.
Tôi giật mình, chả nhẽ chuyện này “người âm” cũng biết được để dạy lại cho con cháu, không hiểu những ông ngựa bằng giấy ấy xuống đó sẽ chạy kiểu gì và cỏ đâu mà ăn, không lẽ cũng lại phải đốt thêm cỏ. Sau khoảng hơn chục phút thì cụ cũng đi, trước khi đi, cụ còn cất tiếng chào mọi người.
Gọi được gần chục vong thì hết thời gian, nhìn điệu bộ tôi thất thểu, một chị vỗ vai an ủi: “Cái này còn tùy thuộc vào người nhà mình em ạ. Cũng khối lần chị cũng mất mấy ngày mới gọi được các cụ lên đấy”. Tôi hỏi chị có hay đến đây nhờ cô không, chị cười bảo: “Một năm cũng vài lần, nhà cứ có việc là chị lại đến”. Tôi hỏi tiếp: “Chị thấy có đúng không?”. Chị bảo: “Cũng tùy lần em ạ, nói chung là đi để giải tỏa tâm lý thôi”.
Hết thời gian gọi vong, cô Bằng trở vào trong nhà. Hàng dài người xếp hàng lộ vẻ mặt đầy thất vọng, lục đục ra về, người thì tìm chỗ trọ, chờ đến lượt vào sáng sớm hôm sau. Cách nhà cô không xa, hàng quán phục vụ cơm nước, chỗ nghỉ đã kịp bày biện sẵn sàng phục vụ khách hàng. Từ ngày cô Bằng “nổi tiếng” gần xa, công việc kinh doanh của họ cũng phát đạt lên trông thấy nên khi hỏi về “cô”, tôi chỉ toàn nhận được những lời có cánh về khả năng gọi vong của cô. Nhưng chỉ cần đi xa một chút thì sẽ nghe được rất nhiều điều.
Ghé vào một quán nước cách xa nhà cô, thấy bộ mặt thiểu não của tôi, chị chủ quán liền hỏi: “Em đi gọi rí nhà cô Bằng về đấy à, chắc không gọi được đúng không? Nhiều người đến đây cũng chịu cảnh đấy. Có người mãi tận Lạng Sơn, Nghệ An, đường xá xa xôi ra đây không gọi được, cứ ăn trực nằm chờ trông tội lắm. Chỉ lợi mấy bà kinh doanh nhà nghỉ quanh đó thôi.
Chị ở đây chị biết, tin gì ba cái trò gọi hồn đó, chả nhẽ lại nói toạc móng heo ra thì mất đường làm ăn. Cứ sống sao cho tử tế, tốt đẹp khắc sẽ gặp may chứ hồn nào giúp mấy ông bà không làm gì mà vẫn có ăn. Dạo này vắng khách nên nhân viên nhà bà ấy cũng giảm bớt đấy, trước kia có mà hàng đống. Không biết có đúng hay không? Nhưng chị chả bao giờ đến xem. Vô tình gặp, nói còn chả ăn ai, huống hồ là ghi tên ghi tuổi ra, biết trước nhiều điều thế, tin sao nổi”.
Bí mật đằng sau trò gọi hồn
Sáng sớm hôm sau, tôi lại bắt đầu với điệp khúc quen thuộc, xếp lễ và chờ đợi. Đúng lúc cô Bằng đang xin “nối đài” đã mấy lần, xem chừng sắp được thì bỗng nhiên có một người đàn ông xồng xộc chạy vào lôi vợ ra sân, quát tháo om sòm: “Cô có biết nó lừa thế nào không? Mua một cái lễ 30.000 đồng, ăn một bát mỳ 30.000 đồng, chưa kể tiền trọ mấy ngày nay... Mỗi ngày hàng trăm người đến, người ta thu bao nhiêu tiền! Lừa bịp hết! Ngu thế hả”.
Trong khi cô vợ còn đang ngơ ngác thì anh chồng đã kịp lôi đi xềnh xệch. Thế là thay vì tập trung đợi cô Bằng nhập vong, đám đông ồn ào bình phẩm thực hư câu chuyện. Như để trấn an tinh thần mọi người, cô Bằng nói vọng ra phía ngoài sân: “Các bác tin hay không thì tuỳ, nhà cháu làm việc theo cái tâm với các Ngài thì sợ nhất là phạt. Trước đây, các Ngài phạt cháu có lần nôn ra hàng chậu máu, có lần bụng trướng lên như cái thúng, có lần phạt nặng, liệt nửa người hơn 3 tháng trời! ... Thế nhưng, cháu chịu bị phạt để còn biết đường cầu xin, sám hối, các Ngài tha cho, cũng là gánh đỡ cho mọi người thôi. Thế nhưng, nhiều người lại không hiểu”.
Nghe cô nói, đám đông thôi bàn tán. Tất cả lại chắp tay khấn xin sớm được “nối đài”. Chẳng biết tấm lòng cô Bằng “Bồ tát” đến đâu nhưng sau mấy ngày quan sát, tôi nhận thấy đích thị trò gọi hồn, gọi vong này 100% là lừa đảo. Đầu tiên, tất cả mọi người đến đều phải làm thủ tục ghi rõ họ tên, địa chỉ rồi người thân đã mất, cùng một vài thông tin quan trọng về người đó hoặc gia đình.
Cô chỉ gọi được vong vào buổi sáng. Chủ yếu là vong ở quanh quanh địa bàn cô sinh sống, còn ở ngoại tỉnh thường 2 - 3 ngày sau thì vong mới về vì còn phải xếp hàng chờ đến lượt ở điện thờ nhà cô. Trong khi gọi hồn, cô rất khéo léo liếc mắt vào đống giấy đăng ký để ngay phía trước mắt qua những khe quạt giấy.
Thi thoảng, cô lại xướng ất ơ một tên vong nào đó sau 10 phút. Trong khi nhập vong trò chuyện, đôi mắt cô vẫn rất tinh tường, chẳng có vẻ gì là được “nhập hồn” nhưng mọi người đều đang xì xụp khấn vái, dâng tiền bạc nên không ai chú ý vào những hành động kỳ lạ của cô. Ngày thứ hai trôi đi, tôi lại về tay trắng. Thấy vậy, một số người thông cảm, bày cho cách sáng hôm sau đến sớm, rỉ tai chồng cô để ông ấy nói khéo giúp cho.
Thời mới nổi, cô Bằng thực sự có khả năng gọi hồn chính xác đáng kinh ngạc nên được nhiều người biết đến và tin tưởng. Nhưng chỉ sau đó không lâu, cô Bằng lạm dụng và mất đi khả năng ngoại cảm. Những gì xảy ra sau này hoàn toàn là một trò lừa đảo được dàn dựng tinh vi, trục lợi trên sự cả tin của người đến gọi hồn. Vì vậy, tại nhà cô Bằng không cho phép quay phim, chụp ảnh hay ghi âm.
Hỏi về ý định khi nào “rửa tay gác kiếm”, chồng “cô” Bằng vội bảo: “Ôi, cái này phức tạp lắm nên không phải muốn bo là bỏ đâu. Mấy lần xin thôi rồi lên các ngài không cho. Nhà tôi có căn phải đứng ra nhận lấy việc này giúp mọi người… Các Ngài giao cho thì cứ phải làm…”.
Và đám đông mê muội ngoài sân nhà vẫn thấp thỏm , kiên trì chờ đến lượt vong về để thỏa lòng trò chuyện với người thân…
Tìm đến Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, gặp thiếu tướng Chu Phác, hỏi về “cô đồng” Bằng, ông cười và bảo: “Cách đây mây năm, chúng tôi có đến nhà cô Bằng và mời cô ấy lên trung tâm để trắc nghiệm khả năng của cô ấy. Lúc ấy thì chuyện cô ấy có thể chuyển tải được lời người âm là có. Nhưng một vài lần sau, chúng tôi thử nghiệm lại thì xác xuất không còn cao nữa nên trung tâm không cấp giấy chứng nhận. Lâu nay, tôi vẫn nghe chuyện cô ấy gọi hồn kiếm sống, chuyện gọi được đúng sai thế nào, tôi không có mặt trực tiếp nên không giám bàn. Chỉ có điều là một cô đồng rất khó duy trì khả năng của mình lien tiếp trong vòng 20 năm như vậy, trừ khi cô ấy phải tập luyện lien tục, mà cho dù có sự tập luyện thì khả năng đó không cao. Bây giờ, chuyện các cô đồng cứ dựa vào một vài khả năng của mình để kiếm tiền dựa trên lòng tin của người đời nhiều lắm”.
An Linh
https://www.youtube.com/watch?v=Z_ao0Fv7BKk
Thượng Tọa Thích Quảng Tùng - Tổ Chức Đám Cưới Cho Ma [Full Video]
Thắp hương cúng lễ, dùng vàng mã thế nào cho đúng?
( Nguồn: http://canviquan.blogspot.com/2015_03_01_archive.html )
Bàn thờ là nơi của vong linh tổ tiên, bát hương cũng là một mô phỏng của mộ người mất. Ở bát hương ta thấy có cốt, có tro như đất nơi mộ. Khi ta thắp hương, bằng vào ý nghĩ và cách lễ ta liên kết với người nhà. Việc khấn lễ đúng cách có thể giúp cho vong linh người mất, cũng giúp cho con cháu thêm phúc lộc. Càn vị quán xin đưa ra một số qui tắc tưởng như đơn giản, nhưng lại rất nhiều người làm sai:
1. Khi cắm hương xong, việc đầu tiên là bạn vái ba lần đơn giản, làm đúng như vậy người nhà mới có thể về. Trong phái người viết có đạo sĩ xưa không chú ý nhiều đến cúng lễ, vào quãng năm 2011 mẹ của đạo sĩ đó hay mơ thấy bố anh ta về trong tính trạng thiếu thốn. Ban đầu chẳng tin, rồi sau đó chính anh ta mơ, và nhờ đạo hữu xem xét thì đó là do lúc thắp hương người nhà không vái ba lần rồi mới khấn nên sai. Ngay hôm đó anh ta sửa
2. Nhiều người hỏi có cần dùng vàng mã không?
Câu này bạn hoàn toàn có thể suy luận, nếu không dùng vàng mã thì bạn hoàn toàn có thể không cần cúng lễ gì cho phật, cũng chẳng cần dùng đồ cúng cho tổ tiên, vì họ đâu có ăn được? Vậy thì nên dùng, tiền vàng chính là biểu tượng của âm đức. Chính tiếp dẫn phật tổ khi đọc bài ca về lăng vân độ cũng nói tới phúc đức qua sông tính bằng nén vàng, một kinh dùng độ nhân của đạo gia có nói " chư thiên ghi nhận công quá, hào phân không mất". Người nào muốn biết thêm có thể tìm linh bảo thiên tôn thuyết lộc khố chân kinh để hiểu về nhân quả việc này. Hoặc có thể đọc tây du ký, đoạn đường minh hoàng du địa ngục.
3. Dùng sao cho đúng?
Chỉ dùng các loại cổ xưa như tờ tiền vàng in đồng xu ngoài tròn trong vuông, các thứ như nhà cửa xe cộ, tiền đô la âm phủ, tiền năm trăm ngàn âm phủ hoàn toàn sai.
4. Có cần niệm " nam mô a di đà phật" trong tất cả các bài khấn?
Nếu cần thì chắc người ta nên niệm thêm cả chúa jesus cho chắc. Đây là sự thêm vào của người theo phật giáo sau này, có lẽ họ cho rằng phật a di đà rất cao, thêm vào cả trước ngọc đế? Trong khi họ không biết từ đầu đời hán đã có ghi chép: ngọc hoàng tu 3200 kiếp thì thành thanh tịnh giác vương như lai, tu thêm nhiều kiếp thì thành ngọc hoàng. Thêm nữa, đơn giản là các bài khấn thổ địa thần linh đâu có thuộc phạm vi của Phật giáo vậy câu nam mô này là không cần thiết. Sự thêm vào này vô tình làm mọi chuyện lung tung, là xấu đi chứ chẳng hề tốt.
5. Có gắng sắp xếp ban thờ hài hòa âm dương ngũ hành, giống như mâm ngũ quả ngày tết vậy. Khi ngũ hành hài hòa thì có thể tụ tập phúc đức, là khí màu tím từ hướng đông tới theo đúng qui tắc ngũ khí qui nhất.
Một số điều trên hy vọng có thể giúp ích ít nhiều.
Lễ hóa vàng tiễn Tổ tiên: Cúng sao cho đúng?
( Nguồn: http://kienthuc.net.vn/phong-thuy/le...ng-189108.html )
"Các cụ về trời chỉ cần ít quần áo, vật dụng đi đường cùng 5-10 nghìn đồng", Giáo sư sử học Lê Văn Lan chia sẻ.
Theo truyền thống xưa, sau khi mời Tổ tiên về dự 3 ngày Tết với con cháu vào ngày 30 Tết (nếu tháng thiếu thì vào ngày 29 Tết), đến ngày mùng 3 Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết, là ngày cuối cùng, tiệc xuân đã mãn, con cháu lại cáo lễ để tiễn đưa Tổ tiên trở về âm cảnh.
Lễ này, tục gọi là “đưa ông bà”, lễ hóa vàng cho Tổ tiên, hay lễ tạ năm mới.
Theo GS sử học Lê Văn Lan, mùng 3 vẫn là ngày Tết thầy, nên để tổ tiên vẫn ở lại ăn Tết với con cháu. Mùng 4 và mùng 5 mới là ngày tiễn các cụ về cõi vĩnh hằng.
GS Lan cho biết, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới bên kia sống gần với dương gian. Tục này nhằm cung cấp cho người đã khuất tiền, quần áo (giấy), gậy đi đường (cây mía).
"Các cụ về trời chỉ cần ít quần áo, vật dụng đi đường cùng 5-10 nghìn đồng", ông Lan bày tỏ.
Theo một số chuyên gia văn hóa phương Đông, việc chọn ngày làm lễ hóa vàng tùy thuộc vào mỗi gia đình, chủ yếu từ mùng 3 đến khoảng mùng 10 Tết Nguyên đán. Điều quan trọng nhất là phải có lễ tạ gia tiên, gia thần và chư vị thánh thần, phật. Theo quan niệm dân gian, có lễ tạ thì tấm lòng của chủ nhà mới được người âm chứng giám.
Sau khi lễ, các gia chủ sẽ hóa vàng. Phần tiền, vàng của gia thần phải hóa trước, tiền vàng, đồ dùng của tổ tiên hóa sau. Tục xưa, tại nơi đốt vàng mã, người ta thường đặt vài cây mía dài. Dân gian cho rằng đây là đòn gánh để các linh hồn dùng làm gậy chống, hay mang hàng hóa.
Sắm lễ:
Lễ vật dâng cúng trong lễ tạ năm mới gồm: Nhang, hoa, ngũ quả, trầu cau, rượu, đèn nến, bánh kẹo, mâm lễ mặn hoặc chay cùng các món ăn ngày Tết đầy đủ, tinh khiết.
Văn khấn lễ tạ năm mới (lễ hóa vàng):
- Nam mô A-di-đà Phật (3 lần)
- Con kính lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư Phật mười phương
- Con kính lạy Hoàng Thiên, Hậu Thổ, Long Mạch, Táo Quân, chư vị tôn thần
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu thổ. Chư vị Tôn thần
- Con kính lạy Ngài Đương niên hành khiển, ngài Bản cảnh Thành Hoàng, các ngài Thổ địa, Táo quân, Long mạch Tôn thần.
- Con kính lạy các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, nội ngoại tiên linh.
Hôm nay là ngày mùng 3 tháng giêng năm …………………
Chúng con là: ……………………………tuổi………
Hiện cư ngụ tại ……………………………………….
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cung bày trước án. Kính cẩn thưa trình: tiệc xuân đã mãn, Nguyên đán đã qua, nay xin thiêu hóa kim ngân, lễ tạ Tôn thần, rước tiễn âm linh trở về âm cảnh.
Kính xin lưu phúc, lưu ân, phù hộ độ trì dương cơ âm trạch, mọi chỗ tốt lành, con cháu được bách sự như ý, vạn sự bình an, tài lộc song toàn, gia đạo hưng vượng.
Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần)
Theo Chuaphuclam.vn
mình thật ngưỡng mộ về những gì mà bạn đã viết bên diễn đàn hatvan.vn đó, bạn lsc ah !
Tiên Bái Trụ Trì,
Hậu Bái Thích Ca.
"CÚNG PHẬT" LY NƯỚC TRONG LÀ BIỂU PHÁP GÌ ?
( Nguồn: https://www.facebook.com/Huy%E1%BB%8...30493/?fref=nf )
Người học Phật chúng ta đại đa số đồng tu ở nhà đều có thờ một bàn thờ Phật. Ở trong bàn Phật có thể không cần thắp nhang, thắp nhang đương nhiên là tốt, không thắp nhang cũng chẳng sao cả. Có thể... không cần cúng hoa thơm, những thứ này có thể đều không cần cúng. Nhưng mà một ly nước đó nhất định phải cúng. Cúng nước là có ý nghĩa gì vậy? Phải cúng nước trong, không nên cúng trà, cúng trà là sai rồi! Nước đại biểu cho tâm thanh tịnh. Mỗi ngày cúng một ly nước này, không phải để Phật Bồ-tát uống, là để nhắc nhở chính chúng ta, tâm của chúng ta phải thanh tịnh giống như nước vậy, bình đẳng giống như nước vậy, chính là đại biểu cho tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng là tâm Phật, là chân tâm, nhắc nhở chúng ta cái ý này, phải hiểu rõ. Từng giây từng phút đang nhắc nhở bản thân chúng ta. Có rất nhiều người không biết, cúng một ly nước cho rằng đây là kính Phật, cúng Phật sợ Phật khát nước. Bản thân từ sớm đến tối vẫn cứ nghĩ ngợi lung tung, chứ hoàn toàn không liên quan gì với tâm hạnh của mình, vậy là sai rồi! Thế là hoàn toàn hiểu sai ! Cho nên đây là dùng loại phương thức này nhắc nhở chính mình.
(Trích trong "Kinh Kim Cang" giảng kí - Đĩa 18)
Cúng dường Phật Bồ Tát những đồ cúng đều là biểu pháp, tuyệt đối không phải vì các ngài cần, mà nhờ vào những thứ này, mỗi giờ mỗi khắc nhắc nhở chính mình, để sáu căn của mình tiếp xúc với cảnh giới sáu trần niệm niệm đều có thể đạt được g...iác không mê, chánh không tà, tịnh không nhiễm. Chẳng hạn gia đình nghèo khó, không có khả năng mua sắm đồ cúng, vậy chúng ta ở trước mặt tượng Phật, cúng dường đơn giản nhất một ly nước. Đây là vật cúng quan trọng nhất trong các đồ cúng, nước biểu thị cái gì? Nước biểu thị cho tâm, nước trong sạch biểu thị tâm thanh tịnh. Nước không nổi sóng là bình, biểu thị bình đẳng. Cúng dường một ly nước, nhìn thấy nước nghĩ ngay đến thanh tịnh bình đẳng, đây là đồ cúng vô cùng quan trọng. Bạn có thể không cần thắp hương, không đốt đèn nến, cũng không cần hương hoa trái cây cúng dường, nhưng không thể không cúng một ly nước vì nó đại biểu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Nhìn thấy nước liền nghĩ ngay đến chính mình, trong tất cả cảnh duyên, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, phải biết thanh tịnh bình đẳng. Tâm thanh tịnh bình đẳng là tâm Phật, cũng chính là chân tâm.
Về ngũ hành thì bàn thờ thuộc hành Hỏa và Mộc là hai hành hướng lên cao và cần sự chăm sóc mỗi ngày lại mang tính hướng nội, không cần phải đặt ngay trong phòng khách và theo phong thủy tốt nhất là đặt phòng thờ ở tầng áp mái. Hoặc đặt nơi trang trọng và cùng hướng hợp mệnh chủ.
"Cửu huyền thất tổ" hiểu theo nghĩa như sau :
Cửu : Nghĩa là Lâu. Hàm ý chỉ cái thời gian đã qua rất lâu, từ trước kia, từ xa xưa.
Huyền : Nghĩa là huyền bí, huyền linh. Hàm ý chỉ sự linh ứng, linh thiêng tác động vô hình, toàn diện.
Thất : Nghĩa là mất đi. Hàm ý chỉ đến sự mất mát, sự chết chóc, sự ra đi vĩnh hằng, là lúc Tinh, Khí, Thần của nhân sinh bị hủy hoại, xa lìa thân xác.
Tổ : Nghĩa là Tổ tiên, bao gồm nhiều người thuộc họ hàng thân quyến, trong đó khái niệm bao gồm sự hiện hữu nằm trong tư tưởng, tinh thần của nhân sinh. Thuộc về Linh Giới.
Như vậy khải niệm Cửu Huyền Thất Tổ phải hiểu là "Vong hồn tổ tiên linh ứng lâu dài". Nếu tách rời từng câu chữ để có sự phân biệt tìm hiểu, thì câu nghĩa sẽ không chính xác.
Trong thờ cúng có thể dùng từ Cửu huyền thất tổ hoặc là Hội đồng gia tiên tiền tổ.
Khái niệm tuy không mới, nhưng nhiều người còn lạ lẫm với bốn từ này. Nay đăng lên để mọi người được biết.
Trong nhà ở dân gian truyền thống, bàn thờ cố định tại Trung Cung (khu vực trung tâm của nhà). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ và bộ bàn ghế tiếp khách hay chiếc sập ở gian giữa. Điều đó trở nên quen thuộc, hài hòa với cấu trúc không gian nhà ở truyền thống vốn có hàng hiên và sân vườn bao bọc.
Đối với bàn thờ Thần Tài và Ông Địa nên đặt ngay tại lối vào chính và ở dưới đất vì việc thắp nhang, nhất là nhang thơm, có tác dụng xua đuổi không khí ẩm ướt, côn trùng vào những buổi sáng sớm hoặc chiều tối (là khoảng thời gian chuyển tiếp Âm Dương, ánh sáng nhá nhem, vi khuẩn nhiều và độ ẩm tăng) đồng thời theo dân gian thì như vậy sẽ “nghênh tiếp Thần Tài” được trực tiếp hơn. Bàn thờ này mới phổ biến vài năm nay và chủ yếu ở các gia đình có kinh doanh.
Tam sự (bát hương, hai cây đèn, tam sơn đặt rượu, nước và trầu cau)
Ngũ sự (bát hương, hai cây đèn, lọ hoa, mâm ngũ quả, tam sơn đặt rượu, nước và trầu cau).
Bữa cúng cũng phải có chén cơm xới đầy có ngọn, úp lồng một cái chén khác lên trên gọi là chén cơm lồng cùng trứng gà luộc đã bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít muối. Vì thế mới có tên cúng giỗ là “cúng cơm”.
Những vật phẩm bầy ra khi thờ cúng còn được gọi là “lễ vật” (H: 禮物, A: The offering, P: L'offrande) tượng trưng Tam bảo của con người là: Tinh (thể xác), Khí (chân thần), Thần (chân linh).
Vật không thể thiếu là nén hương, cách thắp hương thành tâm nên mới gọi là “Tâm hương” (H: 心香, A: The incense of true heart, P: L'encens du vrai coeur) và luôn thắp với số lẻ để cắm vào bát hương.
Địa phủ và mã (quần áo đồ dùng làm bằng giấy). Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là “hoá vàng”, còn chén rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng làm như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước-Lửa (âm dương) và Trời-Đất-Nước (Tam Tài) mang tính triết lý sâu sắc.
Để việc thắp hương được đúng và hiệu quả, cần phải thực hiện nghiêm túc vài điều kiện sau đây: Tâm thành, Hương thơm, Lễ đủ.
1.Tâm thành: nghĩa là phải có đức tin nơi tâm linh như trên đã nói, không điều kiện, không vụ lợi, thông xuốt, thấu đáo, vững như bàn thạch.
2. Hương thơm : nghĩa là phải dùng loại hương có mùi thơm thực sự thì mới hiệu quả. Giống như yếu tố dẫn truyền được nhanh, mạnh. Hương chẳng có mùi thơm, thắp lên khói um tùm, hôi mù, chẳng khác gì đường truyền kém chất lượng, bị hỏng hóc, bị trục trặc, bị hư hại không thể hoạt động nổi.
3. Lễ đủ : nghĩa là phải có một chén nước, một chén trà, một chén rượu ( vô tửu bất thành lễ)
Đây là những yếu tố cơ bản cầu thành như một nguyên tắc bảng Cửu Chương cơ bản phải thuộc lòng. Những ai có thể làm theo được như trên ắt trong cuộc đời không ít thì nhiều những điều xứng ý toại lòng.
2. Tại sao thắp hương lại dùng số lẻ?
Đây là nguyên lý Dịch học. Số lẻ là số Dương ( Thiên -Trời ) là số Sinh. Số chẵn là số Âm ( Địa - Đất ) là số Thành.
Số Sinh là biểu tượng cho sự sinh sôi, sinh trưởng và phát triển biến hóa không ngừng.
Số Thành là biểu tượng cho sự việc đã xong (thành) đã hoàn thành, không còn có sự thay đổi, biến hóa, không thể phát sinh và phát triển nữa, dừng lại và chết.
Vì chúng ta đang sống, đang sinh trưởng và phát triển, ngày càng tiến hóa cao hơn nữa, nên chúng ta dùng số lẻ khi thắp hương.
Ý nghĩa từng số nén hương thắp:
1.Nếu thắp 1 nén hương thơm : biểu tượng của sự Tâm thành, tấm lòng chuyên nhất, không sai lệch niềm tin.
2. Nếu thắp 3 nén hương thơm : biểu tượng cho 3 cõi Cõi Trời, Cõi Phật và Cõi Thánh Thần.
3. Nếu thắp 5 nén hương thơm : biểu tượng cho Ngũ Hành luân chuyển, bồi đắp và tiếp nối, phát sinh, biến hóa.
4. Nếu thắp 7 nén hương thơm : Số 7 là Thất (mất) nên biểu tượng cho sự Vĩnh biệt, ra đi mất mát, đau thương lớn lao. Số này thường chỉ được dùng ở nơi các nghĩa trang liệt sĩ hoặc những hoàn cảnh tương tự.
5. Nếu thắp 9 nén hương thơm : biểu tượng 9 phương Trời. Chỉ áp dụng trong đựng đàn tế lễ kêu tới các vị Tiên Thánh Thần
6. Nếu thắp 10 nén hương thơm : Biểu tượng cho 10 phương Chư Phật, Chư vị Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng.Chỉ áp dụng trong đại lễ khánh thành Chùa, Hô thần (Phật, Bồ Tát) nhập tượng.
3. Xin đài âm dương tại sao không ứng nghiệm?
Với người hành lễ thường phải thông qua gieo hai đồng tiền xu cổ ( đồng đài) lập quẻ phán đoán sự truyền bảo từ các đấng linh thiêng.
Thường thì quy định :
a.Hai đồng đài đều xấp cả: nghĩa là không được, không đồng ý, không chấp nhận.
b.Hai đồng đài đều ngửa cả : nghĩa là có sự thiếu sót gì đó, còn phải xem xét chưa phê chuẩn, chưa đồng ý.
c.Một đồng xấp, một đồng ngửa: nghĩa là nhất âm nhất dương = sự việc được chấp nhận, bề trên đồng ý theo sự kêu cầu.
Đương nhiện như ở phần 1 tôi đã trình bày “Tại sao phải thắp hương khi cúng lễ?”. Người làm lễ một khi hội tụ đủ ba điều kiện đó tất gieo quẻ ứng nghiệm như Thần.
Thường thì gieo quẻ chỉ được phép tối đa 3 lần, sau 3 lần đó thì sự sai đúng thành vô nghĩa, không còn chuẩn xác nữa.
Nhiều người gieo đài âm dương , lần thứ nhất thì thấy hai đồng đài đều ngửa, lại xem là “ Cười là tươi là tốt” mà không chịu tìm hiểu xem đã bị thiếu sót gì. Đến lần xin thứ hai cũng vấn như thế, lại xin nữa đến lần thứ ba thì hai đài đều sấp cả. Cố van xin than vãn, cầu đảo, đến lần thứ tư thì được đài “nhất âm nhất dương” lấy làm phấn khởi lắm mà không biết rằng quẻ đó vô ích “quá tam ba bận, sai đúng bằng không”.
Ngoài ra người vô tín, vô tâm xin đài vô ích, dẫu cả ba lần gieo quẻ đều được Nhất âm Nhất dương, cũng giá trị chỉ là con số “0 “ mà thôi.
- Cung Dưỡng: nghĩa là cung ứng theo sự nhu cầu về vật chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo...
- Cúng Dường: (Tiếng Phạm là: Pùjana) nghĩa là dâng hiến những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh.
Khổng Tử (孔子, còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子, 551 – 479 tCn) trong Chương 第十九章 “Hiếu là nối chí cha ông” khi bàn về lòng hiếu thảo sáng suốt của Võ Vương 武王 và Chu Công 周公, cũng như phương pháp hữu hiệu mà các ngài đã dùng để cải hóa bàn dân đã nói: 事死如事生, 事亡如事存, 孝之至也: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã”. Nghĩa là: Thờ phụng lúc chết như thờ phụng lúc sống, thờ phụng khi mất như thờ phụng khi còn, mới là chí hiếu vậy ! Mà đã “Thờ” thì phải “Cúng”, phải có “Lễ, Bái”. Đây là “Đạo hiếu” (H: 孝道,A: The duty of filial piety, P: Le devoir de la piété filiale), là vấn đề trọng đại của mỗi người, gia đình, gia tộc, tôn giáo!
Giỗ là một buổi lễ, nghi thức theo phong tục tập quán của người Việt quan trọng nhất trong việc thờ cúng Tổ tiên, nhằm tưởng nhớ đến những người đã mất. Theo tục lệ, ngày giỗ là “chung thân chi tang” có nghĩa là ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm vào đúng vào ngày chết của một người là một lần giỗ (còn gọi là “kỵ nhật”, H: 忌日, A: Anniversary of a death, P: Jour anniversaire du mort) thường được tính theo âm lịch (H: 陰曆, A: The lunar calendar, P: Le calendrier lunaire, hay còn gọi là “ngày ta”) cho nên người xưa thường quan trọng ngày cúng giỗ ông bà cha mẹ. Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về nhưñg người đã đi trước; gắn kết tình cảm của các thành viên trong cùng một gia đình, dòng họ, đôi khi trong cùng nghề. Trong đó Tổ nghề là một người có công lớn đối với một nghề nào đó hoặc giúp phát triển hoặc sáng tạo ra nghề đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập.
Không chỉ ngày giỗ, việc khấn cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng Một(朔日,Sóc nhật), ngày Rằm(朔望,Vọng nhật), và các dịp Lễ, Tết. Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử... hoặc gặp điều gì đó trắc trở, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, che chở, dẫn dắt hậu thế hay để tạ ơn khi công việc thành công.
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
sao đột nhiên khen tôi thế. thực ra tôi rất muốn trao đổi ở diễn đàn thế giới vô hình này nhưng tôi đăng bài toàn bị báo lỗi không gửi được. tôi có học tin nên tôi biết trang này có lỗi code. đứa em tôi là đồng thầy có căn phật và căn thánh. nhưng nhà cũng có 4 người điên. nên tôi muốn tìm hiểu tâm linh lắm.
theo suy nghĩ và thực tế đã kiểm nghiệm thì là nên cúng vàng mã. nhưng không cần nhiều. chỉ cúng tiền âm và quần áo thôi.
Những điều tôi học được trong cuộc sống rằng
Tôi học được rằng... Trên đời này, không phải ai cũng tốt và tử tế với ta, cho dù ta không động chạm đến họ. Cách tốt nhất là đừng nên để ý đến những kẻ muốn chứng kiến ta gục ngã . Hãy sống vì... những người yêu quý ta.
Tôi học được rằng..
Sẽ không đủ nếu ta chỉ biết tha thứ cho người khác. Đôi khi cũng phải học cách tha thứ cho chính mình.
Tôi học được rằng...
Có những điều dù ta chỉ làm trong khoảnh khắc nhưng lại làm ta đau lòng cả đời.
Tôi học được rằng:
Mỗi khi xa rời người thân yêu, hãy luôn nói lời thương yêu nhất, bởi có thể đó là lần cuối ta gặp họ.
Tôi học được rằng:
Đã là bạn thân, dù không làm gì cả, ta vẫn có những phút giây tuyệt vời khi bên nhau.
Tôi học được rằng:
Tình bạn chân thành sẽ mãi lớn lên dù cho có cách xa ngàn dặm, và tình yêu đích thực cũng thế đấy.
Tôi học được rằng:
Chỉ vì ai đó không yêu ta theo cái cách mà ta mong muốn, điều đó không có nghĩa là họ không yêu ta hết lòng. Đối với một người bạn tốt, sẽ chẳng có vấn đề gì nếu chẳng may họ làm tổn thương ta, và hãy biết tha thứ cho họ vì điều đó.
Tôi học được rằng:
Sẽ không đủ nếu ta chỉ biết tha thứ cho người khác. Đôi khi cũng phải học cách tha thứ cho chính mình.
Tôi học được rằng:
Bất kể con tim ta có tan vỡ, cuộc sống cũng sẽ chẳng dừng lại, và vẫn vô tình như không biết đến tổn thương của ta.
Tôi học được rằng:
Cuộc đời ta có thể bị đổi thay tại một khoảnh khắc nào đó bởi một người thậm chí ta không quen biết.
Tôi học được rằng:
Ngay cả khi trắng tay, ta vẫn có thể thấy được mình thật giàu có để giúp đỡ mỗi khi bạn bè cần đến.
Tôi học được rằng:
Người mà ta rất quan tâm, thậm chí cả cuộc đời thì lại có thể rời xa ta rất sớm.
Người mà ta nghĩ sẽ vùi ta xuống đất đen khi hoạn nạn, nhưng chính họ lại là người nâng ta dậy khi ta vấp ngã.
Tôi học được rằng:
Khi không vui, ta được quyền giận dỗi, nhưng lại chẳng được phép ******* và hung ác.
Tôi học được rằng:
Trên đời này, không phải ai cũng tốt và tử tế với ta, cho dù ta không động chạm đến họ. Cách tốt nhất là đừng nên để ý đến những kẻ muốn chứng kiến ta gục ngã . Hãy sống vì những người yêu quý ta.
Tôi học được rằng:
Để "thành nhân", thành người mà ta mong muốn, phải mất thời gian rất dài.
Tôi học được rằng:
Hãy chịu trách nhiệm về những gì ta làm dù điều đó có làm lòng ta nát tan.
Tôi học được rằng:
Nếu ta không làm chủ được hành vi của mình, nó sẽ điều khiển lại ta.
Tôi học được rằng:
Người trưởng thành có nhiều điều phải suy nghĩ với những kinh nghiệm đã qua, và có được những bài học rút ra từ đó, và không bao giờ quan tâm nhiều đến việc mình đã tổ chức bao nhiêu lần sinh nhật.
Tôi học được rằng:
Hoàn cảnh sống có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của chúng ta, nên hãy ý thức về điều đó.
Tôi học được rằng:
Chiếc áo không bao giờ có thể làm nên thầy tu.
Ta không nên quá háo hức để khám phá bí mật vì nó có thể làm thay đổi cuộc đời ta mãi mãi. Dù hai người cùng nhìn vào một vật nhưng họ lại có thể thấy những điểm khác biệt rất lớn..
Sưu TầmXem thêm
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
Đức Phật dạy: Với người thế gian ưa uống rượu say thì bị 36 tội lỗi. Những lỗi gì đến 36?
1. Người uống rượu say, con chẳng kính cha. Tôi chẳng kính vua, vua tôi cha con không còn kẻ trên người dưới
2. Nói năng bị nhiều sai lầm
3. Say thời... nói nhiều lời, nói đâm thọc hai bên
4. Nói phô những việc tư riêng cần dấu kín của mình và người
5. Say thì mắng trời chửi đất chẳng biết kiêng cữ
6. Say thì nằm giữa đường không thể về nhà, mà có cầm giữ vật gì thì quên mất
7. Say thì đi đứng không chính được
8. Say thì khi ngước khi cúi chân đi hoành hành, hoặc sa hầm hố
9. Say thì té rồi đứng dậy thân thể bị thương
10. Có mua, bán bị lầm lộn, hay ưa đụng chạm bậy bạ
11. Say thì bỏ phế công việc làm ăn chẳng lo sanh sống
12. Đã có bao nhiêu của cải tiêu hao hết
13. Say thì chẳng nghĩ việc đói lạnh của vợ con gia đình
14. Say thì la mắng bất kể, chẳng sợ pháp luật
15. Say là cởi áo tuột quần trần truồng mà chạy
16. Say thì đi bậy vào nhà người, lôi kéo vợ con người ta, nói năng bậy bạ tội lỗi không thể tả được
17. Say thì gây lỗi với láng giềng, rồi muốn đánh lộn
18. Say thì nhào trộn kêu la làm kinh động làng xóm
19. Say thì giết quấy gà heo
20. Say thì đập đánh phá tan nát đồ đạc trong nhà
21. Say thì coi rẻ người nhà như kẻ tù tội, ăn nói ngang ngược
22. Làm bạn với phường ác nhơn
23. Say thì xa bỏ bực Hiền thiện
24. Khi tỉnh say thân thể như đau bịnh
25. Say thì ói mửa ra những thứ dễ gớm, vợ con thấy ghét gớm chẳng ngó
26. Say thì ý muốn chạy nhảy, gặp phải với cọp cũng chẳng sợ tránh
27. Say thì chẳng kính kinh sách Thánh hiền, chẳng kính Đạo sĩ Sa môn gì cả
28. Say thì dâm lung chẳng biết kiêng nể
29. Say thì như người điên, người ta thấy tránh chạy hết
30. Say như người chết chẳng còn biết gì cả
31. Say hoặc bị ghẻ mặt, hoặc bị bệnh rượu mặt mày vàng nóng
32. Thiên long qủy thần đều cho rượu là ác
33. Những kẻ thân hậu trí thức ngày càng xa dần
34. Ngồi chồm hổm mà đưa mắt xem kẻ qua lại
35. Sau khi chết phải vào địa ngục thái sơn, thường nuốt nước đồng lỏng, cháy ruột, chảy xuống lỗ đít, cứ như vậy cầu sống cũng khó mà cầu chết cũng khó, chịu ngàn vạn năm như vậy
36. Khi từ địa ngục ra, được sanh làm người ngu si chẳng biết gì cả
Nay ta thấy có những người ngu si không hiểu biết gì hết, là chính bởi bị quả báo đời trước ưa uống rượu gây nên vậy. Như vậy rất rõ ràng. Rượu cũng đắng cho người ta cẩn thận chứ!
Kinh Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi
(Nguồn: https://www.facebook.com/Huy%E1%BB%8...30493/?fref=nf )
Ngày sát chủ
Bài thơ để nhớ về ngày Sát Chủ như sau:
Giêng Rắn, hai Chuột, ba Dê nằm.
Bốn Mèo, sáu Chó, Khỉ tháng năm.
Bảy Trâu, chin Ngựa, tám Heo nái .
Một Cọp, mười Gà, chạp Rồng xâm.
Nghĩa là :
Trong tháng Giêng vào ngày Tỵ ( Rắn) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Hai vào ngày Tý ( Chuột) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Ba vào ngày Mùi ( Dê ) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Tư vào ngày Mão ( Mèo) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Năm vào ngày Thân ( Khỉ) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Sáu vào ngày Tuất ( Chó ) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Bảy vào ngày Sửu ( Trâu ) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Tám vào ngày Hợi ( Lợn ) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Chín vào ngày Ngọ ( Ngựa) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Mười vào ngày Dậu ( Gà ) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Mười Một vào ngày Dần ( Hổ - Cọp) là ngày Sát Chủ
Trong tháng Mười Hai vào ngày Thìn ( Rồng) là ngày Sát Chủ
Khi muốn xem ngày giờ tốt để làm việc gì quan trọng lớn lao, người xem ngày phải trước tiên loại ra ngày Sát Chủ vì ác tính của vị thần này.
Đối chiếu phép xem ngày trong Hiệp Kỷ Biện Phương Thư, thì những ngày Sát Chủ hầu như đều có nhiều hung ác tinh, nên không thể lấy dùng vào việc.
Sự tích về thần Sát Chủ :
Xưa, có bốn vị đạo gia tu luyện phép tiên. Một ngày kia đắc đạo đều trở thành tiên, tên hiệu lần lượt là Tế Công nhất Tiên, Bán Hạ nhị Tiên, Thất Chiêu tam Tiên và Mai Thanh tứ Tiên. Trải qua một thời gian sau đó, bốn bị tiên gia được lên cõi Đâu Suất để tu tập Phật Pháp. Trong số bốn vị thì Mai Thanh tứ Tiên là người ít tuổi nhất vẫn ham cảnh vui thú đời thường, nên đối với việc học tập kinh chú, luyện pháp Phật có phần trễ nải.
Đối với Phật Pháp có bát giới ( tám điều răn ) là :
1.Không sát sanh
2.Không trộm cướp
3.Không tà dâm
4.Không nói bậy
5.Không uống rượu
6.Không ngồi giường cao
7.Không mang đồ vàng, trang sức đẹp tốt
8.Không tập múa hát vui vẻ.
Mai Thanh tứ Tiên đã cố gắng tránh được 7 điều, duy có việc không được uống rượu là không làm sao khắc phục nổi. Vì vậy được Đức Phật đặt cho pháp danh là Bát Giới Thượng Tiên, mục đích là nghe đến tên phải nghĩ tới tám điều mà tu chỉnh bản thân, mới mong việc tu tập đắc thành quả.
Tuy nhiên chứng nào tật nấy không thay đổi, cho nên Bát Giới Thượng Tiên vẫn không có được kết quả gì. Trong khi các vị huynh trưởng đã được đắc đạo tiếp tục tu luyện lên cao. Điểm xấu của Bát Giới Thượng Tiên là một khi uống rượu say thì nổi ác tính, rất háo sát, ít người can ngăn được. Vì thế, giới tiên đều xa lánh ngại tiếp xúc và đặt thêm cho cái tên là : Sát Giới Thượng Tiên.
Đức Phật thấy tính khí con người này chưa được thuần hậu, khó tu thành chính quả bèn điều Sát Giới Thượng Tiên về làm Thiên binh Thiên Tướng dưới sự quản chế của Na Tra Thái Tử Đại Vương, mong rằng tính nết ham mê rượu nhờ kỷ cương quân pháp mà chấm dứt. Khi có sự giác ngộ, thay đổi bản tính thì cho phép quay về tiếp tục tu tập đạo pháp.
Sát giới Thượng Tiên được giao thống lĩnh 5 vạn Thiên binh. Nhiệm vụ tuần tiễu vào hai ngày nhất định trong tháng (như ở trong cách tỉnh đã nêu trên). Khi không "ma men" khuấy đảo thì Sát giới Thượng tiên quân pháp rất chặt chẽ, thưởng phạt nghiêm minh, khiến binh lính dưới quyền đều nể phục. Nhưng khi "Tửu nhập ngôn xuất" thì hành động hồ đồ, ác tính nổi lên. Thấy điều gì ngang tai trái mắt không vừa lòng là ra tay sát phạt, bất kể hay dở. Chính vì thế ngày mà có vị này đi tuần tra thường hay sinh ra những việc tai bay vạ gió bất ngờ. Người phàm trần nếu làm những việc gì quan trọng như động thổ, cất nóc, cưới hỏi, an táng … nhằm vào ngày này là khó bề thuận lợi, hay phát sinh tai ương họa hại, chuốc lấy rủi ro. Vì lẽ đó mà Sát Giới Thượng Tiên lại được xem như là ôn thần, gọi là Thần Sát Chủ.
Trải qua nhiều thiên ức kiếp luân hồi của chúng sinh, mà chứng tật của Sát Giới Thượng Tiên vẫn không hề thay đổi.
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
Phương pháp cứu người già thoát chết :
1. Khi trong nhà có người già gần chết , có hai cách để giải cứu .
a.- Cách thứ nhất gọi là phương pháp Bắc Cầu : Lấy hai cái ly đổ đầy rượu , sau đó đem hai đôi đũa mà người già nầy thường ngày dùng để ăn cơm , hảy đặt hai đôi đũa nầy ở hai bên cạnh của hai ly nước sắp lại thành hình tam giác . Phương pháp nầy chỉ dùng được một lần , nếu thành công thì thầ...n chết tức Ngưu Đầu Mả Diện sẻ không thể bắt hồn của người sắp chết đi được và người già nầy sẻ được sống hưởng thọ thêm một năm nửa mà thôi , nhưng người chủ động giúp thực hiện phương pháp bắt cầu nầy sẻ bị giảm thọ .
b.- Phương pháp thứ hai đơn giản hơn , không có tên . Hảy lấy đôi giày của người già gần chết nầy , bắt đầu dùng đôi giày nầy đem đo dấu chân giày nầy dưới đất lần lượt đo từ giường ngủ ra đến cửa cái ; nếu đại nạn vượt khỏi , người già nầy chưa tới số chết , thì ngày thường nên cầu nguyện được khõe mạnh và trường thọ . Lần sau , nếu thần chết lại đến , thì người già nầy cần lo việc hậu sự vậy .
3.- Vượt phá bức tường Ma : Nếu bạn đi đến một nơi nào đó , mà bạn đột nhiên cảm thấy , bạn cứ đi vòng vòng quanh nơi đó mải , mà bạn không thể đi ra khỏi chổ đó được ; như vậy là bạn đả bị ma nhát rồi đấy ; phương pháp giải là bạn đừng nên sợ hải , bạn hảy bình tỉnh , mà cứ phun nhổ nước miếng vào khoảng không trước mặt , thì bức tường vô hình nầy sẻ tự biến mất ; nếu là nam thì phương pháp kịch liệt hơn , là bạn hảy vén quần lên mà tè trước mặt một bải cũng có hiệu nghiệm phá giải ngay bức tường vô hình do ma quỷ dựng lên nầy .
4.- Nhà thường có ma quấy phá trên nóc nhà : Thường thì ma nầy là vong hồn của người thân thuộc trong gia đình đả quá cố trở về , nên xảy ra hiện tượng trên , thì người nhà chỉ cần cúng kiến và đốt vàng bạc để cầu siêu là được , ma sẻ không làm hại đến người nhà ; nếu gặp ma dử thường phá bạn một thời gian dài , sau khi cúng kiến cầu siêu cũng không hết , thì bạn hảy lấy bột sắt to như những hạt cát mà rải đều lên nóc nhà của bạn , thì thường hiện tượng ma phá nầy sẻ được hóa giải ngay .
5.- Cách hóa giải đang đi giửa đường gặp ma :
Đang đi nửa đường mà *ng đầu gặp ma đang đi tới , thì bạn chỉ cần bình tỉnh tránh khỏi nó là được , bởi vì con người trên đầu có ba điểm lửa , hai điểm lửa ở hai bên vai và một điểm lửa ở trên đầu , thì thường ma quỷ không dám quấy phá . Nếu bạn gặp ma dử , thì bạn có thể hít một hơi dài và thổi thẳng vào nó sẻ biến đi ngay . Nếu ma đi đến từ phía sau bạn và vổ vai bạn , thì bạn hảy bình bỉnh , đừng quay đầu lại , cũng đừng hỏi ai đó , hay nói gì hết , cứ giử im miệng xem như không có chuyện gì , và cứ thế mà đi thẳng con đường của mình , thì ma sẻ không làm được gì bạn cả .
6.- Ban đêm nếu gặp một người mặc quần áo cổ xưa , mà ngày nay không có ai mặc , thì phải bỏ chạy ngay .
7.- Nếu bạn lái xe ban đêm , nửa đường nơi vắng vẻ , nếu gặp một người già hay một người có cử chỉ và phong thái quái lạ , đang vẩy tay để nhờ quá giang xe , thì bạn xem như không thấy gì hết và bạn nên chạy luôn để tránh rắc rối hay bị ma nhát
8.- Đừng nên đi tè ở những góc tường , nhất là những góc tường nầy đả xưa củ mốc
meo ; cũng như đêm khuya bạn đừng đưa ngực của mình dựa vào bức tường lạ sẻ có thể dể tiếp dẩn những linh lực xấu tiềm ẩn trong đó .
9.- Ban đêm đừng mặc đồ màu đỏ để đi ra ngoài , vì màu đỏ sẻ làm ma quỷ chú ý đến và sẻ bị chọc ghẹo , cũng đừng mặc đồ đen vì ma quỷ sẻ rất thích nhập vào và đi theo .
10.- Ban đêm , nếu bạn ở nhà một mình , mà nếu chó nhà của bạn sủa vang lên , mà ngoài cửa không có một bóng người nào , hay không có bóng của con mèo hay thú vật nào gần đó nào , thì tốt nhất bạn nên mở đèn lên lập tức , hay nhất là mở lên tất cả đèn trong nhà và mở tv lên ngay để nhà được có sinh khí và tạo sự an tâm cho bạn .
11.- Nếu bạn đang ở một mình ở một nơi hoang vắng , mà đột nhiên nghe như có ai đó kêu tên bạn , và giọng kêu đó không lớn lắm và âm điệu khác thường , thì bạn đừng bao giờ hồi ứng hoặc đáp lại , nếu không , nó sẻ đi theo bạn , thì bạn sẻ có phiền to đấy .
12.- Ban đêm ở nơi hoang vắng , đừng nên hút gió , vì sẻ vô tình mang lại xui xẻo cho bạn đó .
13.- Khi bạn bị chảy máu hay đứt tay , chú ý đừng bao giờ để máu rơi trên lửa đang cháy .
14.- Những người thường đi du lịch hay khi đi ở khách sạn qua đêm nên làm những điều sau :
Trước khi vào phòng , nên nhấn chuông trước , nếu không có chuông thì hảy gỏ ba tiếng , khi đẩy cửa để đi vào thì nên ép nghiêng mình mà đi vào , ý nghĩa là nếu bên trong có ma thì trước nhường chổ cho nó đi ra , sau khi đi vào phòng thì đầu tiên cần phải mở đèn tất cả các nơi , vào nhà cầu nhấn nước cầu để cho những ô uế của trôi đi , khum xuống dưới giường xem có vật gì khác lạ hay không , nếu có thì hảy hỏi nhân viên lai lịch để đem đi , nếu không an tâm thì nên đổi phòng khác , xong mở tung mền để đập giủ và đập vủ đầu gối ngủ cho sạch và xua tan những gì xui xẻo ; tối ngủ nên để đèn để tạo sự an tâm , khi ngũ cởi giày hay dép , đừng nên để ngay ngắn , mà nên để so le hay xuôi ngược , hay chiếc nầy để xéo chiếc kia lật ngược lại ,ma sẻ theo hướng của đôi dép mà đi ra hay đi vào và vì để ngay ngắn , nó sẻ mang dép của bạn mà đi đó .
Cách thứ hai : Khi đi vào pnòng trọ , dù có người hay không có người cũng nhấn chuông hay gỏ cửa trước , có nghĩa là xin cảm phiền cho tôi xin tạm trú một đêm , nếu nói được tiếng địa phương càng tốt , có thể nói thầm hay nghỉ trong đầu khi gỏ cửa cũng được – sau đó chuẩn bị một đôi dép để ở ngoài cửa , cách để dép , một chiếc để hướng vào phòng một chiếc để hướng mủi ra ngoài , như vậy những vong linh nếu có đi vào thì nó sẻ theo dép mà đi ra – Trên đầu nằm để một ly nước có pha muối , vì muối là lửa , nên ma sợ lửa – Khi ngũ đầu đừng ngũ đối diện với cửa – Tối ngũ nên đóng cửa nhà cầu Toilet lại – Khi vào phòng mà thấy có kinh thánh đả để sẳn đầu giường hay trên kệ thì đừng động hay dời chổ nó hay thấy kinh thánh đang ở vị trí đang mở ra , thì bạn cũng đừng có gấp nó lại cho ngay ngắn là không nên . Đó là những tập tục của những người đi du lịch thường làm , nếu tin thì có , không tin thì thôi ; tuy nhiên đây cũng là những việc nhỏ nhặt , nếu bạn làm được những điều trên thì cũng tạo nên tâm lý an toàn cho bạn thì cũng tốt cho bạn thôi , mà không có hại gì .
15 .- Khi bạn biết nhà bạn đang mua hay đang mướn ở mà nơi đây , trước đó là nghĩa địa , có người đả chết qua , là nơi tổ chức những nghi lể ma thuật , hay là nơi hành quyết tập thể hay tội nhân ; thì tốt nhất là bạn nên dời nhà ngay hay đi nơi khác mà mướn phòng khác .
16.- Cách đi đêm được an tâm : Trước khi đi ra khỏi nhà , miệng niệm đọc ba lần câu chú sau : Tám hướng vô ngại , Tâm cảnh trống không , sau đó hai ngón trỏ và ngón giửa duổi thẳng ra và ngón cái đè lên hai ngón áp út và ngón út đả co lại tạo thành kiếm ấn ,
Còn tay mặt ngón trỏ và ngón giửa co lại và ngón cái đè lên hai ngón nầy , ngón đeo nhẩn và ngón út duổi thẳng ra sẻ tạo thành Thần Hổ ấn ;nếu thường ngày bạn có thờ cúng Thần hay Phật , thì trong lúc nầy bạn hảy niệm hồng danh của các vị nầy , như vậy bạn sẻ được che chở ; nếu bạn không có tín ngưởng thì bạn có thể ngâm những bài thơ nổi tiếng trung chính cương trực của các vị anh hùng hay chiến sỉ mà bạn thích , cũng có thể làm cho bạn an tâm.
Nguồn: Internet sưu tầm
( Nguồn: https://www.facebook.com/permalink.p...36470309830493 )
Không dùng vàng mã để “áp đặt” thế giới bên kia
09:28 29/08/2012
Giáo sư Trần Lâm Biền.
Giáo sư Trần Lâm Biền cho rằng: Thế giới nhận thức về năng lực của linh hồn là có khả năng không cùng. Đừng bằng vàng mã để áp đặt cho thế giới bên kia theo lối đời thường. Nếu sử dụng vàng mã vừa đủ sẽ biểu hiện sự thành kính, là văn hóa. Còn khi quá lên sẽ thấy nó lòe loẹt và trở nên thiếu văn hóa…
Giáo sư Trần Lâm Biền có cách luận giải căn cơ về tục đốt vàng mã, lý do người ta đua nhau đốt vàng mã và cả biểu hiện sai lầm khi bỏ hàng trăm triệu tậu ôtô, máy bay, voi, ngựa... để hóa. Sau đây là cuộc trao đổi giữa phóng viên với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian.
Phóng viên (PV): Thưa Giáo sư, khởi nguyên của tục đốt vàng mã từ đâu? Và việc đốt vàng mã mang mục đích gì?
Giáo sư Trần Lâm Biền (Gs Tr.L.B): Vàng mã là đồ giả. Người ta tin rằng, khi hóa đi nó sẽ trở thành đồ thật để người âm sử dụng. Đốt vàng mã không phải tục lệ của người Việt mà của người Trung Hoa. Khởi nguyên của nó là trong một xã hội phân hóa cao, bắt đầu có vua chúa. Khi vua chúa chết đi, người ta thường chôn theo người thân thiết, tin cậy và cả những vật dụng quý giá. Về sau, khi thấy cách làm này không ổn, nhất là việc chôn theo những người tài thân cận của vua và được nhân dân yêu quý nên người ta nghĩ ra hình nhân thế mạng. Thời Đường, có Vương Dư nghĩ ra cách làm vàng mã để thay đồ thật. Như vậy, khởi đầu của vàng mã là sự tiến bộ trong tín ngưỡng. Sau đó, đốt vàng mã lan sang đất Việt và những vùng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.
PV: Khởi nguyên của đốt vàng mã là sự tiến bộ trong tín ngưỡng, song dường như với hiện tại, nó đang đi quá đà phải không Giáo sư?
Gs Tr.L.B: Nếu vàng mã dùng đúng tính chất khởi nguyên sẽ thể hiện văn hóa ứng xử của người sống với người đã khuất. Nhưng khi vàng mã rời khỏi không gian gốc (nông thôn), vào đô thị (buôn bán) thì có sự đổi khác. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, người nông thôn thờ: mẫu Địa, mẫu Thoải, mẫu Thượng Thiên. Đó là 3 thế lực phù trợ cho cây trồng. Khi vào đô thị, không còn mẫu Địa mà chuyển thành mẫu Thượng ngàn, mẫu Thiên, mẫu Thoải. Cư dân buôn bán mắc bệnh “ghen vợ, ghen chồng không bằng ghen đồng, ghen bóng”.
Rồi cái tư duy “tốt lễ dễ kêu” khiến người ta đặt cược với thần linh, đua nhau làm nhiều vàng mã to lớn mà quên đi nhận thức về vũ trụ, về thế giới nói chung. Để rồi trượt dài trên con đường mang tính vô thức, kéo cõi bên kia về cõi thực tại theo kiểu “trần sao âm vậy”. Chính sự đố kỵ thúc đẩy cho vàng mã trở nên đa dạng, dẫn đến nhiều cái sai trái.
PV: Đó là những sai trái gì ạ?
Gs Tr.L.B: Cái sai trái tôi muốn nhấn mạnh ở đây là sai trái vô thức. Đó là: Đốt nhiều vàng mã; vàng phải là vàng nhưng bây giờ lại là vàng tứ phủ, theo các màu của tứ phủ; làm những con vật rất to. Ví dụ như voi, ngựa... Những con vật này để cho ai? Cho tổ tiên, cho người đã khuất hay cho thần linh? Câu trả lời của tôi là, không phải người đã khuất vì người Việt có quan điểm chia vũ trụ thành 3 tầng. Tầng cao nhất dành cho thần linh (có thân xác khổng lồ). Tầng thứ hai dành cho nhân gian và cuối cùng là tầng âm ty.
Trong cổ tích người Việt, người âm phủ lên chơi dân gian rất nhỏ bé, có thể trèo cả lên cây ớt. Còn với Tây Nguyên Gốc, tượng nhà mồ không bao giờ làm to lớn cả (cho dù đấy là voi, ngựa, tượng người...). Những bức tượng nhỏ bé này bao quanh mồ, người ta thổi hồn vào để chúng trở thành của cải của người đã khuất. Người đã khuất nhỏ bé, tượng to đe dọa người đã khuất nên đấy là điều cấm kỵ.
Thế nên, vàng mã làm to không dành cho người đã khuất và cũng không dành cho thần linh (vì với thần linh thì nó quá bé). Theo tôi, hiện nay người ta làm vàng mã to chỉ thể hiện sự khoe mẽ với đời. Xuất phát từ tư duy trọc phú, với trình độ “no cơm ấm cật, dậm dật chân tay” chứ chưa đến mức “phú quý sinh lễ nghĩa”. Việc này làm méo mó đi vẻ đẹp văn hóa cổ truyền.
PV: Vàng mã “khủng” là khoe mẽ. Thế mà, có người còn đốt cả cái máy bay to đùng, cái ôtô to như ôtô thật để thể hiện sự thành tâm với người đã chết. Giáo sư thấy hiện tượng này như thế nào?
Gs Tr.L.B: Đấy là cái mới trong vàng mã hiện nay. Và đây là sự bịa đặt của những người mê tín dị đoan từ trong máu nên áp đặt cho thế giới bên kia. Không biết họ dựa trên nền tảng nào để đại diện cho người chết mà kéo lùi năng lực của người ở thế giới bên kia đến mức thấp hèn. Thực ra, họ có tội với người đã khuất mà tưởng như có công. Tại sao tôi nói vậy? Vì linh hồn của người chết bằng nghiêm chứng người đời xưa có năng lực vô biên, phân thân tán thể, không lệ thuộc vào không gian, thời gian. Việc đi lại của người âm không cần phải đặt ra, bởi “tốc độ”(?) di chuyển của linh hồn là tức thì. Vậy bắt các linh hồn phải dùng phương tiện giao thông để di chuyển có khác gì làm nghèo hèn đi cái năng lực của linh hồn đó.
Thế giới nhận thức về năng lực của linh hồn là có khả năng không cùng. Đừng bằng vàng mã để áp đặt cho thế giới bên kia theo lối đời thường. Nếu sử dụng vàng mã vừa đủ sẽ biểu hiện sự thành kính, là văn hóa. Còn khi quá lên sẽ thấy nó lòe loẹt và trở nên thiếu văn hóa.
PV: Chính phủ đã có hẳn Nghị định, trong đó có quy định việc xử phạt 500.000 – 1.000.000 đ/lần người có hành vi đốt vàng mã ở các di tích, nơi công cộng, song thực tế, chưa thấy ai bị phạt cả, thưa Giáo sư?
Gs Tr.L.B: Những người hành pháp không thực hiện đúng chức năng của mình. Có thể, họ sợ phạm vào thế giới bên kia. Nếu họ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình thì tình hình đã khác. Song dù sao cũng phải để cho họ hiểu biết vàng mã là gì, đốt thế nào cho đúng. Để hạn chế việc đốt vàng mã, cái quan trọng phải có cái Trí, phải hiểu. Khi hiểu vàng mã là gì, đốt thế nào cho đúng thì người ta sẽ có cách ứng xử đúng đắn. Nếu không hiểu thì hàng tỷ đồng sẽ thành tro.
PV: Cảm ơn Giáo sư về cuộc trao đổi thú vị này!
Cao Hồng (thực hiện)
Đốt vàng mã: Tiền tỷ cháy thành tro
19:27 28/08/2012
( Nguồn: http://cand.com.vn/Xa-hoi/Dot-vang-m...nh-tro-208580/ )
Đốt vàng mã có phải là một phong tục của người Việt? Quan điểm trần sao âm vậy nên đua nhau đốt quần áo, nhà cửa, xe cộ… và cả Ôsin cho người cõi âm có phải xuất phát từ tín ngưỡng của dân tộc? Có nhất thiết phải đốt hàng tỷ đồng để thể hiện sự báo ơn với người đã khuất?
Hộ gia đình nhỏ, chí ít cũng mất 100.000đ sắm vàng mã đốt cho ông tiền chủ, bà tiền chủ, ông thần linh, bà thần linh, tiền vàng… Hộ gia đình cỡ trung, còn phải bỏ thêm một vài trăm để sắm quần áo, nhà cửa, xe cộ, tiền vàng… gửi cho người thân đã mất.
Đó là ghi nhận của phóng viên vào sáng 11/7 âm lịch, tại một cửa hàng chuyên doanh vàng mã ở “cái nôi” vàng mã làng Cót, phường Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Một khóa lễ 3 ngày với ngựa khủng, tháp, thuyền rồng
Sáng 27/8 (tức 11/7 âm lịch), chúng tôi đến chùa Tứ Kỳ (Hà Nội) và tận mắt chứng kiến khóa lễ đã kéo sang ngày thứ 3. Tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tụng kinh… tạo ra không khí vừa linh thiêng, vừa huyền bí. Khẽ khàng ngồi cạnh một cô lớn tuổi, chúng tôi được cô cho biết, khóa lễ sẽ kết thúc vào lúc 19h ngày hôm nay. Theo cô, khóa lễ này diễn ra trong 3 ngày. Mục đích của gia chủ là cầu an cho gia đình, dòng tộc. Chưa đến 10 người tham dự khóa lễ, trong đó có các nhà sư và những người đàn ông mặc áo nâu (tóc để bình thường) cùng vài người nhà của gia chủ.
Ngoài mâm cỗ, hoa quả còn có rất nhiều mã. Đó là 3 con ngựa mã to bằng ngựa thật màu trắng, vàng, đỏ; tòa tháp cao; thuyền rồng; hình nhân; và nhiều nhà cửa, đồ mã khác. Không những nhiều về số lượng mà mã ở đây được làm khá cầu kỳ, tinh xảo. Điều đó cho thấy rõ tay nghề của người thợ và cả tấm lòng thành của gia chủ. Nó cũng nói lên số tiền cả chục triệu đồng mà gia chủ thành tâm bỏ ra khi tổ chức khóa lễ. Chúng tôi được biết, sau khi kết thúc khóa lễ, số mã này sẽ được đem đi hóa. Lúc đó, lòng thành của gia chủ mới thực sự gửi đến bậc tiên cổ.
Trò chuyện với người bán nước ngay trước cửa chùa, chị cho biết năm nay chưa có khóa lễ nào vượt qua khóa lễ 600 triệu tiền mã như năm ngoái. Cũng ngựa, cũng tháp, cũng thuyền rồng… nhưng mã năm ngoài bày kín hết cả sân chùa. “Ngựa to như ngựa thật, tháp cao lắm, thuyền rồng dài lắm…, bày kín hết cả sân, đẹp lắm”, chị bán hàng nước nói. Khi nghe chúng tôi hỏi, chủ khóa lễ 600 triệu ở đâu thì chị này bảo, “ở tỉnh ngoài, mà hình như ở Thanh Hóa”. Nói rồi, chị giải thích rằng, gia chủ thành tâm, nhờ nhà chùa tổ chức khóa lễ 3 ngày. Với lại, chùa thiêng nên người ta càng đến nhà chùa nhờ lễ nhiều.
600 triệu tiền mã. Một con số giật mình. Trong mắt người kiếm sống bằng những cốc trà đá thì thấy, nó thật đẹp. Còn tôi và hẳn nhiều người khác nữa thì bất ngờ. Bất ngờ trước hành động “hào phóng” của ai đó. Bất ngờ vì cách tri ân người cõi âm của những người có tiền. Bất ngờ đến xót xa khi biết, người ta sẵn sàng đốt cả trăm triệu thành tro bụi để thể hiện sự thành kính với cõi hư vô.
Năm 2009, sự việc một đại gia khai thác cát lập đàn tế trên bãi giữa sông Hồng, đốt hàng trăm con ngựa mã với tổng số tiền lên đến 400 triệu đồng khiến dư luận ngỡ ngàng. Thiên hạ bảo rằng, đại gia này tri ân Hà bá bằng mã cho xứng với những gì đã nhận từ đáy sông. Và thiên hạ cũng bảo rằng, có thể đây là sự sám hối vì đã rút ruột con sông mẹ. Cũng thiên hạ đồn thổi, rằng đấy là cách thể hiện rõ túi tiền mà người này đã “nhặt” được từ sông.
Thôi, cho rằng có lý giải thế nào đi nữa thì rõ ràng, việc làm này cũng là một cách chơi trội. Cách chơi của người có tiền. Còn những người có túi tiền tầm tầm thì trước ngày Rằm tháng Bảy, ai cũng chi ra chí ít một trăm, nhiều thì tiền triệu để tri ân người âm.
Thường dân cũng đốt tiền trăm
Gần 12 trưa mà chị chủ hàng vàng mã trên phố Yên Hòa vẫn chưa được ngơi tay. Gia đình chị vốn có tiếng về nghề làm vàng mã nên khách tìm đến nhà chị vừa mua được giá gốc, lại có đủ thứ để chọn. Tay chị thoăn thoắt xếp quần áo thần linh, ông bà tiền chủ, quần áo cho người cõi âm, vàng, hương… vào từng túi to màu đen theo đơn đặt hàng của khách. Ấy vậy mà, có khách ghé qua để lấy, chị phải xin lỗi vì chưa sắp kịp. Cứ người này đến, người kia ra, ai cũng túi lớn, túi bé. Và cái quan trọng là mỗi người khi xách túi vàng mã đi bao giờ cũng gửi tiền thật cho chị.
Người thì 100.000đ, người thì 320.000đ…, số lượng tiền tùy thuộc vào số mã mà khách mua. Nhìn hộp tiền đầy những đồng tiền mệnh giá 50.000đ, 100.000đ, 200.000đ… của chị, ai cũng nhận ra rằng, vàng mã của chị đã biến thành tiền thật. Có bà hàng xóm đi qua, nhìn chị tất bật mới đùa rằng, “thôi nghỉ tay ăn cơm không lại đuối sức”, chị chủ cười bảo rằng, “còn mấy ngày nữa đến Rằm, cháu lại thảnh thơi thôi”.
Đúng vậy! Với người làm nghề vàng mã, tháng Bảy âm là tháng làm ăn tốt nhất trong năm, thứ đến mới là dịp Tết Nguyên đán. Còn lại thì cứ đủng đỉnh làm tiền vàng, tiền âm phủ và thỉnh thoảng gặp được khách đặt hàng làm khóa lễ… Nghĩa, cả năm không bao giờ hết việc nhưng bội thu nhất là dịp tháng Bảy âm.
Chẳng thế mà vào mùa này về làng Đông Hồ, đến đâu cũng thấy vàng mã. Hơn 200 hộ trước đây vốn làm tranh Đông Hồ, nay chỉ còn mấy hộ theo nghề tranh dân gian còn lại chuyển qua làm vàng mã. Hộ thì chuyên doanh quần áo, hộ chuyên tiền vàng, hộ chuyên ngựa, hộ chuyên nhà… Nếu khách buôn, cứ đến từng hộ gom, chừng mươi hộ là đủ cả lệ bộ. Nhìn lượng vàng mã ở Đông Hồ sản xuất ra, đủ biết sức tiêu thụ lớn cỡ này. Nhìn số lượng tiền thật người ta thu về, đủ biết thiên hạ đã đốt đi bao nhiêu tiền thật ra tro, ra khói bụi.
Những ngày này, đặc biệt là buổi chiều, khi đi trên các phố ở Hà Nội, chúng ta dễ dàng bắt gặp cảnh đốt vàng mã. Khói, tro bay mù mịt song người ta vẫn thi nhau đốt. Nếu tính một hộ gia đình đốt 100.000đ vàng mã thôi, đủ biết riêng thành phố trên 4 triệu dân như Hà Nội, số lượng tiền thật đốt ra lớn cỡ nào. Việc lãng phí, gây ô nhiễm môi trường này đã được các cơ quan quản lý nhà nước nhìn thấy và đã có chế tài xử phạt.
Đáng chú ý là chế tài này hiện vẫn đang còn giá trị, song dường như chẳng ai thèm quan tâm. Đó là Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ có quy định xử phạt đốt vàng mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử, văn hóa, nơi công cộng… với mức phạt 500.000đ - 1.000.000đ. Tiếc rằng, quy định này lại chỉ có giá trị trên giấy.
Đốt vàng mã có phải là một phong tục của người Việt? Quan điểm trần sao âm vậy nên đua nhau đốt quần áo, nhà cửa, xe cộ… và cả Ôsin cho người cõi âm có phải xuất phát từ tín ngưỡng của dân tộc? Có nhất thiết phải đốt hàng tỷ đồng để thể hiện sự báo ơn với người đã khuất? Trong số báo tới, chúng tôi sẽ có cuộc trao đổi với Giáo sư Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian để tìm câu trả lời
Cao Hồng