Chào quý đạo hữu :ciao::
Các bạn tu về mật tông chắc biết về AN TỨC HƯƠNG phải không vậy?
Vì tôi thấy trong mấy bài chú khác có nói về AN TỨC HƯƠNG. Vậy xin cho tôi hỏi AN TỨC HƯƠNG là gì???
:77:NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT:77:
Printable View
Chào quý đạo hữu :ciao::
Các bạn tu về mật tông chắc biết về AN TỨC HƯƠNG phải không vậy?
Vì tôi thấy trong mấy bài chú khác có nói về AN TỨC HƯƠNG. Vậy xin cho tôi hỏi AN TỨC HƯƠNG là gì???
:77:NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT:77:
Hiện tại chỗ tôi mười mấy năm nay vẫn đang dùng An Tức Hương - Công dụng Trừ tà - tịnh hóa đàn pháp, ổn định hơi thở và thỉnh chư Hộ Pháp...
Để nguyên cục khó đốt cháy nên hiện nay chúng tôi đã làm thành cây như cây nhang cho dễ xử dụng...Các bạn có nhu cầu xin liên hệ chúng tôi sẵn lòng hỗ trợ.
Kiểm chứng hay nhất : bạn nào nhạy về siêu hình thì chỉ cần vừa đốt có mùi là xuất hiện ngay cảm ứng
Khi anh không còn gì để nói nữa
Tôi thật sự đã hiểu anh
Khi chúng ta hoàn toàn im lặng
Tôi với anh không còn đường nào ngăn cách
Một sáng sớm, dắt tôi đi trên cỏ xanh mênh mông,
còn đọng ướt hơi sương
Anh đã cười và tôi cũng cười
Khoảng bầu trời nầy, anh nói
Nắng đang đến và mặt trời có mặt
Trần gian nầy, tôi yêu thương
Vì anh và tôi, còn đường nào ngăn cách
Như cả bầu trời, vẫn mênh mông màu xanh biếc
Anh và tôi cùng cười. .
Bạn Khang thân - Chúng tôi làm ra nhang An Tức Hương chỉ phục vụ nội bộ không kinh doanh - Nếu quý bạn có lòng tín mộ Phật Pháp như vậy - chúng tôi sẵn lòng ủng hộ...Bạn cho tôi địa chỉ của bạn đi
ah sẵn xin giùm tui lun nha Khang, đỡ mắc công chế biến ^^ cảm ơn bạn Kình Dương lun nà ^^
Bạn Kumy và bạn Sututuyet không nói địa chỉ thì làm sao KìnhDương chuyển tới được ?
Huynh KD Mến,
NN cũng muốn xin thỉnh một ít. NN ở nước ngoài có thể thỉnh được không huynh?
Thân
NN
xin hỏi thuốc nay mua ở đâu vậy bạn ??? vì dì mình bị phong thấp đã chữa nhiều thầy rồi mà kô hết ....kô biết bạn có thể chỉ cho mình kô
Vị thuốc An tức hương chi, còn gọi là Bồ đề, Cánh kiến trắng, Mệnh môn lục sự, Thiên kim mộc chi, Thoán hương, Tịch tà, Tiện khiên ngưu (Hòa Hán Dược Khảo), Chuyết bối la hương (Phạn Thư).
. Tác Dụng: An túc hương
+ Hành khí huyết, trừ tà, khai khiếu, an thần (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Tuyên hành khí huyết, phá phục, hành huyết, hạ khí, an thần (Bản Thảo Tùng Tân).
+ Khai khiếu, thanh thần, hành khí, hoạt huyết, chỉ thống (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).
+ Làm ấm Thận, trừ ác khí (Hải Dược Bản Thảo).
Chủ Trị:
An tức hương
+ Trị ngực và bụng bị ác khí(Đường Bản Thảo).
+ Tri di tinh (Hải Dược Bản Thảo).
+ Trị huyết tà, hoắc loạn, đau nhức do phong, sinh xong bị huyết vận (Nhật Hoa Tử Bản Thảo)
+ Trị trúng phong, phong thấp, phong giản, hạc tất phong, lưng đau, tai ù (Bản Thảo Thuật).
+ Trị tim thình lình đau, ói nghịch (Bản Thảo Phùng Nguyên).
+ Trị trẻ nhỏ bị động kinh, kinh phong (Trung Dược Tài Thủ Sách).
+ Trị thình lình bị trúng ác khí, hôn quyết, ngực và bụng đau, sinh xong bị chứng huyết vận, trẻ nhỏ bị kinh phong, động kinh, phong thấp, lưng đau (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Trị trúng phong, đờm quyết, khí uất, hôn quyết, trúng ác khí bất tỉnh, ngực bụng đau, sản hậu bị huyết vận, trẻ nhỏ bị kinh phong (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).
Liều Dùng:
. Dùng uống: 2g 4g.
. Dùng ngoài: Tùy theo vùng bệnh mà dùng.
Kiêng Kỵ:
+ Khí hư, ăn ít, âm hư hỏa vượng không dùng(Bản Thảo Phùng Nguyên).
+ Bệnh không liên hệ đến ác khí, không dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Âm hư hỏa vượng không dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
Đơn Thuốc Kinh Nghiệm:
+ Trị phong thấp, các khớp xương đau nhức: Lấy thịt heo nạc 160g, thái ra, trộn với 80g An tức hương, cho vào ống hoặc bình để lên lò, đốt lửa lớn nhưng phải để 1 miếng đồng để An tức hương cháy ở phía trên, để bánh có lỗ hướng về phía đau mà xông ( Thánh Huệ Phương).
+ Trị trúng phong, trúng ác khí: An tức hương 4g, Quỷ cửu 8g, Tê giác 3,2g, Ngưu hoàng 2g, Đơn sa 4,8g, Nhũ hương 4,8g, Hùng hoàng 4,8g. Tán bột. Dùng Thạch xương bồ và Sinh khương đều 4g, sắc lấy nước uống thuốc (Phương Mạch Chính Tông).
+ Trị tim bỗng nhiên đau, tim đập nhanh kinh niên: An tức hương, tán bột. Mỗi lần uống 2g với nước sôi (Thế Y Đắc Hiệu Phương).
+ Trị hàn thấp, lãnh khí, hoắc loạn thể âm: An tức hương 4g, Nhân sâm 8g, Phụ tử 8g. Sắc uống (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Trị phụ nữ sinh xong bị huyết vận, huyết trướng, cấm khẩu: An tức hương 4g, Ngũ linh chi ( thủy phi) 20g. Tán bột, trộn đều. Mỗi lần uống 4g với nước Gừng sao (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Trị trẻ nhỏ bụng đau, chân co rút, la khóc: An tức hương chưng với rượu thành cao. Đinh hương, Hoắc hương, Mộc hương, Trầm hương, Bát giác hồi hương đều 12g, Hương phụ tử, Súc sa nhân, Cam thảo (chích) đều 20g. Tán nhuyễn, trộn với cao An tức hương và mật làm hoàn. Ngày uống 8g với nước sắc lá Tía tô (An Tức Hương Hoàn - Toàn Ấu Tâm Giám).
+ Trị trẻ nhỏ bị kinh phong do tà: An tức hương to bằng hạt đậu, đốt xông cho đứa trẻ (Kỳ Hiệu Lương Phương).
+ Trị vú bị nứt nẻ: An tức hương 20g, ngâm với 100g cồn 80o trong 10 ngày, thỉnh thoảng lắc cho đều thuốc. Dùng cồn này hòa thêm nước bôi lên cho nứt nẻ (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tìm hiểu sâu thêm về An Tức Hương
Tên Khoa Học:
Styrax Tonkinensis (Pier.) Craib. Thuộc họ Styracaceae.
Mô Tả:
Cây nhỏ, cao chừng 15~20cm. Búp non phủ lông mịn, mầu vàng nhạt. Lá mọc so le, có cuống, dài khoảng 6~15cm rộng 22,5cm. Phiến lá nguyên hình trứng, tròn ở phía dưới, nhọn dài ở đầu, mặt trên mầu xanh nhạt,mặt dưới mầu trắng nhạt do có nhiều lông mịn. Hoa nhỏ, trắng, thơm, mọc thành chùm, ít phân nhánh, mang ít hoa.Quả hình cầu, đường kính 10~16mm, phía dưới mang đài còn sót lại, mặt ngoài quả có lông hình sao.
Thường sống ở Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Sơn La, Lai Châu, Hà Sơn Bình, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh.
Thu Hoạch:
Vào giữa tháng 6~7, chọn cây từ 5~10 tuổi, rạch vào thân hoặc cành để lấy nhựa. Đem về chia thành 2 loại:
. Loại tốt: mầu vàng nhạt, mùi thơm vani.
. Loại kém: mầu đỏ, mùi kém hơn, lẫn nhiều tạp chất (vỏ cây, đất cát. ..).
- Phần Dùng Làm Thuốc:
Dùng nhựa của cây (Benzoinum). Thường là khối nhựa mầu vàng nhạt hoặc nâu, đỏ nhạt, mặt bẻ ngang có mầu trắng sữa nhưng xen kẽ mầu nâu bóng mượt, cứng nhưng gặp nóng thì hóa mềm, có mùi thơm.
Bào Chế:
An tức hương
Lấy nhựa ngâm vào rượu rồi nấu sôi 2~3 lần cho đến khi nhựa chìm xuống, lấy ra, thả vào nước, khi nhựa cứng là được. Phơi cho khô.
Thành Phần Hóa Học:
+ An Tức Hương của Trung quốc chủ yếu gồm Acid Sumaresinolic, Coniferyl Cinnamate, Lubanyl Cinnamate, Phenylpropyl Cinnamate 23%, Vanillin 1%, Cimanyl Cinnamate 1%, Styracin, Styrene, Benzaldebyde, Acid Benjoic, tinh dầu quế 10~30%, chất keo 10~20%.
+ An Tức Hương của Việt Nam có chất keo 70~80%, Acid Siaresinolic, Coniferyl Benzoate, Lubanyl Benzoate 11,7%, Cinnamyl Benzoate, Vanillin 0,3%, Phenylpropyl Cinnamate 2,3%.
Tính Vị: An túc hương
+ Vị cay, đắng, tính bình, không độc(Đường Bản Thảo).
+ Vị cay, đắng, hơi ngọt, tính bình, không độc (Bản Kinh Phùng Nguyên).
+Vị cay, đắng, tính ấm (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Vị cay, đắng, tính ấm (Trung Dược Đại Từ Điển).
Quy Kinh:
+ Vào thủ Thiếu âm Tâm kinh (Bản Thảo Kinh Sơ).
+Vào thủ Thái âm Phế, túc Quyết âm Can kinh (Ngọc Quyết Dược Giải).
+Vào kinh Tâm và Tỳ (Bản Thảo Tiện Độc).
+ Vào kinh Tâm, và Tỳ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Vào kinh Tâm, Can, Tỳ (Trung Dược Học)
Kính Quý Đạo Hửu KìnhDương
Theo như Quý Đạo Hửu thông tri :
" chúng tôi đã làm thành cây như cây nhang cho dễ xử dụng...Các bạn có nhu cầu xin liên hệ chúng tôi sẵn lòng hỗ trợ."
Như vậy:
Quý Đạo Hửu có thể nào cho vuive biết chổ liên hệ .
Nơi gửi địa chỉ cho vuive :232/23 Võ thị Sáu Phường 7 Quận 3 TP
.................................. Hồ Chí Minh.
......số Điện Thoại bàn :08.9320.977(xin gọi sau 22h00 xin cám ơn)
Kính chúc Quý Đạo Hửu gặp nhiều may mắn
Kính
Kình Dương sẽ gửi tới vào cuối tuần này - Bụng định gặp gỡ thỉnh giáo huynh VuiVe về bí pháp Cao Đài ...Hổng biết Huynh có sắp xếp cho đệ được không ?
Kính Quý Đạo Hửu KìnhDương
Kính cám ơn Quý Đạo Hửu KìnhDương về cây nhang An Tức Hương.
Ngày thứ bảy nào là vuive rảnh rang và địa chỉ mà ghi vừa rồi là
nơi chốn về nhà nghỉ ngơi sau khi đi làm việc suốt ngày.
.Rất mong được tiếp chuyện với Quý Đạo Hửu .Để cho bình thản
Quý Đạo Hửu có thể điện thoại cho vui ve hay cho biết số điệnthoại
cũa Quí Đạo Hữu dể vuive điện cho Quí Đạo Hửu .
Kính chúc nhiều may mắn
Kính
Thể Pháp .............. Bí Pháp:
Trong Đạo Cao Đài :
Những nghi thức tế tự hoặc cách hành đạo của các tín đồ Cao Đài.
Thể Pháp dành cho những tín đồ bình thường .
Bí Pháp là những phương pháp tu tập bí mật, chỉ dành riêng cho
những tín đồ đặc biệt hay chức sắc cao cấp
Trong Đạo Cao Đài :
Thể Pháp dành những tín đồ thọ thực vật chay 10 ngày trong tháng
Bí pháp dành những tín đồ thọ trường chay , Tịnh Thân (tuyệt Dục)
Trong Đạo Cao Đài :
Thiên hạ thì ai cũng có mắt …ai cũng biết con mắt thì quí giá nhưng
lại mong manh …
Con mắt của xác thịt là thể pháp.
Con mắt của tâm linh là bí pháp…
Trong Đạo Cao Đài :
Kinh Dịch là bí pháp cổ truyền của ĐẠO CAO-ĐÀI
*Đạo có thể-pháp và bí-pháp của Đạo (tức là Thiên-Đạo)
*Đời có Thể-pháp và bí-pháp của Đời (tức là Thế-Đạo).
Dưới ba mươi sáu từng Trời còn có một từng nữa là nhứt mạch đẳng tinh-vi gọi là cảnh Niết-Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên khai hóa tức là chín phương Trời cộng với Niết-Bàn là mười, gọi là Thập phương Chư Phật. Gọi “chín phương Trời, mười phương Phật” là do đó.
Cõi Niết-Bàn là chư Phật ngự, Phật-Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan-Âm ngự nơi hướng Nam, mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng-hà sa-số Phật.
Còn Như-Lai là cảnh Phật chớ không phải danh Phật, nên trong kinh có câu “Bổn giác vị kim giác Như-lai.” Bồ-Đề là chỗ Phật ngự, Phạm-môn là cửa Phật, Bĩ-ngạn là đất Phật.
Huỳnh-Kim bố điạ là vàng ròng đầy đất. Còn chỗ Nam-Hải Ngạn thượng là Quan-Âm ngự, gần bờ biển nơi hướng Nam cảnh Phật, chớ không phải hướng Nam nơi cảnh phàm. Đó là còn ở Thượng Tầng không-khí hay là VÔ-VI CHI-KHÍ.
Rồi kế đó là Đại Thiên thế-giái, kế là Thượng phương thế-giái là chỗ Đức Tây-Vương-Mẫu ngự nơi Cung Diêu-Trì, gần đó có vườn Ngạn-Uyển Bàn-Đào, Ngũ nhạc Bồng-lai Nhược-thủy.
Các Đấng thiêng-liêng Nam Nữ hằng-hà sa-số lâu đài cung điện toàn bằng ngọc-ngà châu báu, hỗ-phách san-hô, Điện đài lãng phương trong cảnh Nhị châu chơn võ. Nơi linh-thiêng Tiêu-điện là chỗ Tiên nhóm hội, có Ngọc-Vệ Kim-nương, gia lê quả táo, toàn là Tiên-dược nhẹ-nhàng cũng như đơn kim để Hồ huỳnh-tương trường-sanh chi tửu, là rượu trường sanh dùng đặng sống không chết. Kế đó là Trung-phương Thế-giái cũng là nơi Cung điện của Thần-Tiên, Nhơn-Tiên, Quỉ-Tiên, các bậc quần Tiên.
Rồi tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế-giái, Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.
Từ hồi có địa-cầu này cho đến nay là mười hai muôn chín ngàn sáu trăm năm (129.600). Dưới các con, còn có bốn địa-cầu nữa. Còn U-Minh kêu bằng U-Minh-Giới chưa có loài người.
Thế-giới địa-cầu khác nhau là do không-khí nặng nhẹ khác nhau, tùy theo công-quả của mỗi tinh-cầu, cách nhau từ một cho đến mười muôn dặm, luôn luôn xây tròn giáp một vòng ba trăm sáu mươi ngày gọi là một năm.
Nơi địa-cầu cũng có sơn xuyên hà-hải như Thái-bình-dương, Đại-tây-dương, Bắc-hải, Hắc-hải... chỗ trắng, chỗ đen, chỗ xanh, chỗ đỏ; bề sâu có chỗ tới tám ngàn thước, có chỗ ba ngàn thước, chỗ hai ngàn thước, không đều nhau.
Còn núi Tu-Di cao phỏng độ tám ngàn thước. Núi nhiều, nên chỗ thấp, chỗ cao không đồng, phong-thủy mùa tiết nóng-nực không đồng, mùa nắng tại đây, chỗ khác
Đạo Cao-Đài xử dụng:
Bốn Bát-quái, tức nhiên ngoài hai Bát-quái của các tiền Thánh là
Phục-Hi, Văn-Vương ra thì:
1-Tiên-Thiên Bát-quái là bí-pháp của Thế-đạo
2-Hậu-thiên Bát-quái là thể-pháp của Thế-đạo
3-Bát-quái Đồ-thiên là Thể-pháp của Thiên-đạo
4-Bát-quái Hư-vô là Bí-pháp của Thiên-đạo
" Để nguyên cục khó đốt cháy nên hiện nay chúng tôi đã làm thành cây như cây nhang cho dễ xử dụng...Các bạn có nhu cầu xin liên hệ chúng tôi sẵn lòng hỗ trợ.
Kiểm chứng hay nhất : bạn nào nhạy về siêu hình thì chỉ cần vừa đốt có mùi là xuất hiện ngay "
Bạn Kình Dương thân mến,
Tôi rất thích An tức hương từ rất lâu nhưng không biết mua nhang An tức hương ở đâu ? Tôi đã hỏi mua tại nhiều chùa nhưng không có. Thật là may mắn khi bạn làm được nhang An tức hương. Bạn có thể gởi cho tôi xin một ít bất cứ khi nào bạn rảnh thời gian. Xin cám ơn bạn Kình Dương rất nhiều. Địa chỉ của tôi : NGUYỄN VĂN ĐỨC : 35 ĐỖ NGỌC THẠNH, PHƯỜNG 14, Q. 5, TP. HỒ CHÍ MINH.
CÁM ƠN BẠN NHIỀU NHÉ.
Nguyễn Đức
OM A VAM RAM HAM KHAM MANI PADME HUM
Tục-ngữ nói: TU HÀNH.
TU là trau-giồi lấy tinh-thần mình.
HÀNH là luyện-tập thân mình phải biết tùng phục tinh-thần sai khiến mà làm Đạo.
Ấy vậy, phép tu chẳng phải luyện nội tinh-thần mình theo đạo-hạnh mà thôi, mà cái thân-thể mình đây phải tùy-tùng phù-hạp với đạo-tâm, thể đạo chơn-chánh bởi gương mình, hễ chúng sanh ngó Đạo nói mình, xem mình cho là Đạo mới phải.
Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà lại nơi kết-quả sự thật mình làm; chẳng phải nói câu kệ, câu kinh, mà lại buộc hành-vi người giữ Đạo. Cái khó-khăn của Ðạo chẳng ở nơi sự giảng dạy mà ở tại sự thành-thật. Cái hay của Đạo chẳng phải ở tại nơi yếu-lý mà ở nơi cuộc kết-quả sự giáo-truyền.
Lạ chi, mình muốn nhủ người bắt rồng, cột phụng, nghĩ có khó chi tiếng biểu, song cốt-yếu là người người có phương bắt hay cột đặng cùng chăng?
Hễ muốn nói điều chi ra mà thế-gian làm không đặng thì đành cho là mị-mộng. Huống chi anh em đồng Đạo của mình ngày nay chẳng khác nào người đi đường trên nẻo lạ, tốt hơn nên khuyên-nhủ họ mỗi ngã khá ghi vôi, để dấu bước lần hồi khi khỏi lạc.
Duyên khởi:
“ĐẠO DỊCH”
Một khoa triết-học uyên-thâm, rất sâu-xa; là một lâu-đài tráng-lệ, huyền-bí cao-siêu, bao hàm cả một cõi vô biên, vô giới, mà dân-tộc Á-châu được hưởng cái gia-tài quí-báu ấy…
Cái nguyên-nhân của Dịch-lý là do ở sự cảm-tưởng cái căn-nguyên, cái mối đầu của vũ-trụ, là ở cái lý THÁI-CỰC.
Lý ấy chỉ có một ở trong vũ-trụ, do động tĩnh mà thành Âm Dương, rồi sinh ra vạn-vật; vạn-vật chung qui lại trở về Thái-cực; đó là cái lý “cùng về mà lắm đường, một trí mà trăm mối lo”(Đồng qui nhi thù đồ, nhứt trí nhi bách lự) mà Đức Khổng-Tử đã nói trong Hệ từ
:
Cái lý ấy bên Lão-giáo, gọi là ĐẠO
Bên Phật-giáo, gọi là Chân-như
Danh-hiệu tuy khác nhau nhưng cùng một thể. Bởi cái lý giống nhau cho nên cái học-thuyết ấy đều theo một chủ-nghĩa “Thiên địa vạn-vật nhất thể” . Song, mỗi một học-thuyết đi ra một đường là vì cách lập giáo và sự hành-đạo khác nhau.
Lão-giáo
Cho vạn-vật đều gốc ở Đạo, đời là một cuộc phù-vân, hơi đâu mà để trí lo-nghĩ, người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng Tạo-hóa, không cần chi đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, không thiết gì đến pháp-luật, chế-độ, miễn là được thảnh-thơi vô-vi thì thôi.
Phật-giáo
Cho vạn-tượng do chơn-như mà ra, sắc với không là một, sự sinh-hóa là cái vọng-niệm chứ không phải là thực. Cái thực là chân-như. Người ta phải tìm cái thực ấy mà quay trở về gốc cũ để ra thoát vòng sanh, tử; tức là đế đến Niết-Bàn, hết cả sự khổ-não.
Nho-giáo
Cho rằng sự biến-hóa ở trong vũ-trụ là do sự nhất động, nhất tịnh của Thái-cực mà sinh ra. Vạn-vật đã phát hiện ra là thực có, thì chi bằng cứ theo cái thực ấy mà hành-động và sinh-tồn; sự sinh-tồn của vạn-vật không ra ngoài được những điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí tức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh của Tạo-hóa. Vậy nên người ta ai cũng phải theo những điều ấy mà vui trong cuộc sinh-hóa.
a- Đời là biển khổ:
Cũng may, chính vào “cái thời Trung-nguơn ấy mà nhơn-sanh mỗi ngày càng thêm nhiều xu-hướng về vật-chất nên Ơn Trên mới phái bốn vị Đại-Thánh-nhân đến khai sáng cho nhơn-tâm, đó là:
- Đức Thích-Ca Mâu-Ni mở Đạo Phật.
- Đức Lão-Tử mở Đạo Tiên.
- Đức Thánh Khổng-Phu-Tử mở Đạo Thánh (Đông-phương là Thánh ta
- sau cùng con một Đức Chúa Trời là Đức Chúa Jésus-Christ (Thánh Tây)
Ngoài ra, còn có các bậc Hiền-nhơn dụng đạo-đức cảm-hóa nhơn-sanh bằng các lý lẽ: không tham danh, trục lợi; đem đạo-đức của Thánh Hiền mà phổ-độ nhơn-sanh; thế nên, bên phương Đông, Xuân Thu chiến-quốc trở lại êm-dịu.
Bên phương Tây, thì Chúa Jésus-Christ dạy đời, khuyên chúng-sanh thức tỉnh trở về với Trời đặng sống, sống cái thanh-cao, liêm-khiết.
Nhắc đến đây, các bậc tiền-nhân chúng ta không sao ngăn được sự cảm-xúc nơi chơn tâm, thương Chúa vì nhơn-sanh mà phải chịu đóng đinh trên cây Thánh-giá, lấy máu đào rửa tội cho thế gian.
Từ ấy đến nay, chúng-sanh liên-tiếp bị thiên-tai, hồng thủy, đất sụp, núi lỡ, lầm than điêu-đứng; kiếp sống như cảnh lao tù, nhà đóng cửa ngoài lại còn rào kẽm gai, Quỉ-Vương lộng hành, sự tham danh trục lợi không dứt, cảnh tang-thương, chiến-tranh kéo dài. Con người mãi chạy theo văn-minh vật-chất, chỉ số ít có tinh-thần đạo-đức noi theo Trời Phật, còn phần đông là mê-tín dị-đoan, bày vẽ việc không đâu.
Hậu-quả này đưa đến kết-quả là con người sống hôm nay không biết đến ngày mai.
Thế-giới tranh-hùng, đi đến cảnh tàn-khốc, tiêu-tàn, ác-khí dậy trời, ngoài miệng thốt ra toàn lời đạo-đức, mà trong lòng chứa đầy ý-nghĩa hận thù.
" Đau thương cho nhân-loại ngày càng đến cảnh diệt vong”
Hỏi nhân-loại sống để làm gì mà phải chịu cái cảnh tang-thương đến thế này? Muốn chết, không chết được, muốn sống thì cũng chẳng ra hồn người sống!
Ôi, đau thương đến buốt cả lòng!
Đời là một sự biến dịch không ngừng
Đức Hộ-Pháp buột lời than cho nhơn-loại rằng:
“Ngày giờ nào nhơn-sanh cũng tìm phương an-ủi cho bớt thống-khổ, kiếm phương an-ủi; tìm cùng đáo-để như tìm gió theo mây, chạy đến gõ cửa Đức Khổng-Phu-Tử:
“Ông có thuốc gì an-ủi nỗi thống-khổ tâm-hồn của tôi không ?”
Đức khổng-phu-Tử trả lời:
- Phương chuyển thế không cùng, dầu đoạt được bí-pháp lấy Trung-dung cũng chưa thỏa-mãn.
Sang gõ cửa Phật Thích-Ca:
“Phật có thuốc gì chữa nỗi thống khổ tâm-hồn của tôi chăng?”
Phật đem chơn-lý trước mắt là Sanh, lão, Bịnh, tử, ấy là chơn-lý.
Người mới tự xét: Tôi không muốn sanh mà ai sanh ra tôi chi, để tôi phải chịu khổ thế này?
Sống, tôi không muốn sống, vì sống là gốc sản-xuất tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai làm cho tôi khổ. Cũng không thỏa-mãn tâm-hồn. Tìm nơi Phật không thấy đặng gì !.
Đến gõ cửa Lão-Tử:
- Bạch Ngài, có món thuốc gì an-ủi tâm-hồn tôi không ?
- Bảo, cứ giữ đạo-đức làm căn-bản, thóat mình ra khỏi thúc-phược thất tình, lên non phủi kiếp oan-khiên, tìm nơi tịch-mịch an-nhàn thân tự-toại. Nếu không thế ấy thì đừng mơ-mộng gì thoát khổ được.
Nghe lời, lên núi ở, mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn, thì khó nhọc trần-ai khổ nhộng. Đói, tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an-ủi cũng ra ăn trớt.
Đến gõ cửa Thánh Jésus De Nazareth hỏi:
- Đấng Cứu-Thế có phương thuốc nào trị thống khổ tâm-hồn tôi không?
-Trả lời: Nếu các Ngươi quả-quyết nhìn-nhận làm con cái Đức Chúa Trời, tức là Đức Chí-Tôn, làm như Người làm, mới mong an-ủi tâm-hồn được. Trong khuôn-khổ, phương-pháp làm con cái của Đức Chí-Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được, cũng như tuồng hát viết hay mà không có kép tài đặng hát.
Cả thảy không chối, cũng có kẻ an-ủi được nhờ đức-tin vững-vàng, còn phần nhiều ngược dòng đi ngã khác, không ở trong lòng Chí-Tôn chút nào tất cả. Thất chí nữa, hết tìm ai!”
1- Cách lập thành Bát-quái Tiên-Thiên:
Khi nói đến Đạo là nói đến đầu mối ÂM DƯƠNG. Âm dương tương-hiệp mới phát khởi càn khôn, tức là Nhứt khí Hư-vô sanh Lưỡng-nghi, nghĩa là ánh Thái-cực biến tướng ra phân làm hai ngôi: âm-quang và dương-quang. Ví bằng hai ngôi này muốn biến-sanh ra nữa thì cần phải tương-hiệp, nếu không tương-hiệp thì không thế nào sanh biến thêm được . Nếu âm dương mà để riêng ra, thì hai cũng vẫn là hai.
Muốn âm dương tương-hiệp nghĩa là phải đặt chồng lên nhau thành một góc vuông, điểm gặp nhau là điểm 0, đó gọi là Thái-cực làm căn-bản. Bởi có hiệp với ngôi Thái-cực mới thành ra bốn, ấy gọi Lưỡng-nghi sinh Tứ-tượng. Nếu muốn biến ra thêm nữa thì 4 ấy cũng vẫn phải nhập lại vào tâm mới có thể biến ra được mà thành 8 cánh. Gọi là Tứ tượng biến Bát-quái.
Khởi đầu: vua Phục-Hi ngẩng lên xem Thiên-văn, cúi xuống thì xét lý đất, gần thì lấy thân mình mà suy-nghiệm. Ngài mới đặt ra những nét chẵn, lẻ tức là vạch liền tượng dương vạch đứt tượng âm cũng từ trong lý tính của nam, nữ mà ra để làm chuẩn, định cho cái âm dương ấy. Lấy hai điểm này làm gốc, khởi đầu, nên luôn luôn điểm chuẩn đặt ở dưới hết của quẻ. Hào, tính từ dưới tính lên. Đọc quẻ từ trên đọc xuống.
Giai-đoạn kế mới thêm nét âm dương nữa cho mỗi cái gốc đó, để lần-lượt biến-hóa thêm, theo luật song-tiến-số (nghĩa là cứ gấp đôi lên) tức là nếu lấy dương làm gốc rồi thêm dương nữa thành ra:
- Hai nét dương (số 1) gọi là Thái-dương.
- Cũng từ gốc dương thêm nét âm lên trên thành ra (số 2) gọi là Thiếu-âm.
- Tới gốc âm cũng qua hai lần biến-hóa, tiếp-tục thêm dương, thêm âm sẽ có (số 3) là Thiếu-dương và (số 4) là Thái-âm.
Thái là rất, là ròng một thứ; thái-dương là rất dương, cho nên tượng bằng hai vạch liền; thái-âm là rất âm, tượng bằng hai vạch đứt.
Thiếu là trẻ, nghĩa là mới sinh ra, nên đặt lên trên, vì nét âm mới sinh nên gọi là Thiếu-âm cũng như nét dương mới sinh nên gọi là Thiếu-dương
Họp chung gọi là tứ-tượng, tức là bốn hình tượng. Tứ-tượng có một vị-thế rất quan-trọng, không thể không nhớ kỹ được; từ cái phù-hiệu cho đến con số biểu-tượng của nó. Đó là tứ-tượng đặt trên đường thẳng
Bạn sututuyet - người thân của tôi đã 2 lần ghé tới địa chỉ mà bạn ghi ở : Phạm Văn Hai (cũng tức là Nguyễn Bặc) Nhà có cửa hàng bán gas đúng không ? nhưng hỏi người bán hàng thì không biết ai là sututuyet cả - Do vậy - Bạn có thể gửi cho tôi số đt di động được không ?
Chào Huynh Kình Dương!
Nhang An Tức Hương mà huynh tặng cho đệ rất là hiệu quả trong những lúc công phu và triệu thỉnh Bồ Tát gia hộ! Đến nay cũng đã gần hết, vậy huynh có thể cho đệ biết huynh mua An Tức Hương ở chỗ nào để đệ tự đi tìm mua về để dùng vì không muốn làm phiền đến huynh nữa! Những tiệm thuốc bắc thuốc nam có bán không huynh???
Vài lời xin huynh chỉ giúp.:ciao:
:77:NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT:77: