-
Phong tục
Phong tục
Ở phần này , mình sẽ post các phong tục ở Việt Nam ta . Mong mod sẽ đưa phần này lên đầu để mọi người xem .
Cỗ và mâm cỗ ở Việt Nam
Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.
Cỗ là bữa ăn đặc biệt có tính chất long trọng, thân tình được tổ chức trong gia đình như: cỗ cưới, cỗ nhà đám, giỗ chạp, mừng một sự thành công, mừng cha mẹ sống lâu, tết nhất... Riêng cỗ mừng thọ của cha mẹ là do con cái đóng góp làm cỗ, các con trai làm các món ninh giò, mọc, nem, các con dâu làm các món bánh rồi quây quần với nhau ăn cỗ. Ở các gia đình khá giả hoặc ở thành phố, cỗ khai trừ tất cả các món ăn mà thường ngày dùng như dưa, cà, cá kho, rau muống... Có nhiều loại cỗ, cỗ tứ quý gồm 4 thứ hải sản chế biến thành mâm cỗ, cỗ cưới có xôi gấc đỏ, cỗ nhà đám có xôi trắng, cỗ mặn, cỗ chay... Có mâm cỗ một tầng, hai tầng, hoặc năm tầng, như ở 49 làng Quan họ xưa.
Trước đây, ở nông thôn cũng như thành phố đều có những phường nấu cỗ thuê do các nghệ nhân sành, thạo đời, khéo tay đảm nhiệm. Họ thường có kỹ thuật cao và cha truyền con nối. Họ có được những món truyền thống độc đáo. Ông Kiếm ở Cổ Nhuế biểu diễn giết gà một mình chỉ cần chiếc tăm vót nhọn. Ông Khán Trúc ở Trích Sài một mình giết một con lợn 15kg, chỉ cần một vò nước nóng. Trong phường có ông trùm phường là giỏi nhất. Những người nấu cỗ thuê rất hãnh diện về nghề và được đi nấu ở nhiều nơi, chủ yếu là để lấy tiếng chứ không vì vật chất. Họ góp ý kiến với nhà chủ, ra thực đơn rồi chia nhau mỗi người làm một hoặc nhiều món sở trường.
Mâm cỗ một tầng cơ bản thường là 5 bát: bóng, miến, măng, mọc, chim hoặc gà tần và năm đĩa: giò, chả, gà hoặc vịt luộc, nộm, xào. Có khi gia giảm bằng các món rán, nướng, quay hoặc nem Sài Gòn, xôi, chè, được xếp phía ngoài để ăn sau cùng. Bát nước mắm chấm có hồ tiêu, chanh, ớt hoặc cà cuống đặt giữa mâm.
Người uống được rượu thích những món có kèm xương xẩu hoặc sụn như đầu gà, cánh gà hoặc món nộm có đủ chua ngọt, cay, bùi, giòn, mềm. Rau thơm thường dùng húng láng thơm ngát, kinh giới thơm thanh cao hoặc rau ngổ có mùi thơm sắc gọn mà dữ dội.
Cỗ ở miền Nam có thêm chả nướng ăn với rau thơm, khế, chuối xanh, giá, đậu phộng, bánh tráng...
Mâm cỗ Việt Nam thơm ngon có truyền thống lâu đời, không cầu kỳ nhưng có đủ mùi vị, màu sắc. Trên bát bóng có những lát bóng trắng ngọc, điểm mấy lát trứng tráng vàng, vài con tôm đỏ, vài quả đậu Hà Lan xanh, nấm hương màu nâu. Trên bát miến có gan gà màu vàng đậm, tiết màu đỏ huyết dụ, thịt nạc màu trắng đục, mộc nhĩ đen nâu, ở giữa có một nhúm rau mùi xanh rờn. Khoanh giò thái ra có màu trắng ngon lành, hành xanh có củ trắng ngần, ớt đỏ hoặc vàng tươi trang điểm cho bát nước chấm vàng nâu... mâm cỗ là một bức tranh đẹp và hấp dẫn.
Ăn cỗ xong khách còn ăn xôi, chè hoa cau, chè cốm hoặc chè đậu đãi, rồi ra bàn bên cạnh uống nước trà, hút thuốc, ăn trầu.
Lúc khách ra về, chủ và khách chắp tay trên ngực, nói với nhau vài câu quý hóa rồi cùng vái nhau mấy vái. Cái kiểu chào này thật trang trọng, thân mật, giản dị, đượm màu sắc Phật giáo. Một số khách vừa thân tình vừa có họ với nhà chủ ở lui lại một chút. Họ nhận phần gồm một nắm hoặc một đĩa xôi, có thêm miếng thịt hay quả chuối, vì thế mới có câu: Có xôi có thịt mới nên phần.
Cỗ Việt Nam là cả một công trình, nó không phải là tiệc, không phải là liên hoan. Nó có cái độc đáo của nó, có điều ngày nay các phường nấu cỗ thuê không tồn tại nữa, kho tàng nghệ thuật ẩm thực Việt Nam cũng mất đi nhiều điều quý báu. Phải chăng, các nhà làm bếp bây giờ cần phải đi tìm lại kỹ thuật nấu cỗ của người xưa để bữa cỗ Việt Nam được vừa dân tộc, vừa khoa học hơn. Ẩm thực cũng là điều thiêng liêng, là nghệ thuật, là văn hóa.
HELLBOY (st).
-
Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó
Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó
Trong ngày làm lễ cơm mới, người nhiều tuổi nhất trong nhà sẽ ra nương một mình để gặt một vài cụm lúa mới về cúng tổ tiên. Người đó phải dựng một ngôi sàn nhỏ trên nương, bày ba chén rượu, ba đôi đũa, một hòn đá, một quả trứng gà luộc, một nắm cơm và ba sợi chỉ trắng, rồi khấn thần lúa. Sau đó, cùng chỉ buộc vào ba cây lúa để không cho hồn lúa bay đi, rồi mới dùng một nhíp nhỏ ngắt 6 khóm lúa mới ở cạnh đó. Việc cắt lúa được thực hiện từ tây sang đông. Người Xá Phó quan niệm rằng, khi gặt mà hướng về phía mặt trời mọc thì thóc lúa sẽ được nhiều. Khi gặt, vừa nhanh, vừa phải nhìn chăm chăm vào khóm lúa đang gặt để tránh chim chuột biết đến tranh cướp hết. Người gặt sẽ bày đủ sáu khóm lúa vừa gặt được dưới chân bàn thờ, rồi bóc quả trứng luộc để xem. Nếu như lòng trắng quả trứng tròn vo, mịn màng thì năm đó mùa màng thất bát. Vì thế, trước khi ra về, kết thúc nghi lễ của ngày đầu tiên, người gặt sẽ cắm một cái ta leo để cấm người lạ.
Ngày thứ hai, cả vợ lẫn chồng chủ nhà cùng đi gặt. Theo phong tục, họ vẫn không được nói gì và mỗi người gặt đủ 15 bó lúa để cúng như hôm trước.
Ngày thứ ba, việc gặt lúa vẫn được tiến hành trong im lặng, dẫu lần này cả gia đình cùng tham gia. Mãi đến khi, lúa gặt đã cơ bản xong, chủ nhà bỏ cái ta leo đi thì mọi người mới được nói chuyện bình thường.
Sau những nghi lễ bắt buộc của mùa gặt mới, gia chủ chờ đến một ngày tốt mới làm lễ ăn cơm mới chính thức. Lễ gồm ba mâm cơm: mâm thờ mẹ (hoặc bà nội), gồm các loại thịt thú rừng sấy khô, hoa chuối đồ, củ gừng, củ khoai sọ và tám bát rượu to, nhỏ. Hai mâm thờ bố (hoặc ông nội) có các món tương tự, chỉ có điều, cơm cũ và không phải là tám bát rượu mà chỉ có một bát to và một bát nhỏ. Khi cúng, thầy mo cúng mâm bố trước, cúng mâm mẹ sau. Lúc này, bà chủ nhà hoặc vợ của các người anh em chồng phải ngồi túc trực bên mâm. Lễ cúng xong, phụ nữ được ăn cơm trước và ăn ở mâm có cơm mới.
Bà chủ nhà sẽ gói một gói cơm mới và một bát rượu to cho chồng, rồi đem thêm cơm mới cùng các thức ăn ngon cúng ở mâm mẹ chia cho các thành viên nam giới ngồi bên mâm cúng bố. Nhiều người trong bản cùng kéo đến ăn cơm mới và múa hát cùng gia chủ.
Lúc này, lễ ăn cơm mới của người Xá Phó mới được coi là kết thúc.
HELLBOY (st).
-
Luật tục Atach của người Chăm ở An Giang
Luật tục Atach của người Chăm ở An Giang
Ở An Giang hiện có hơn một vạn người Chăm. Họ cùng ngữ hệ với người Chăm miền trung, có một số người nói và nghe được tiếng Khmer. Họ sống tập trung thành những ấp (puk) hay liên ấp xen kẽ những làng của người Kinh, từ biên giới Việt Nam - Cambodia, rải rác, chạy dài theo sông Hậu Giang và sông Khánh Bình chảy xuống hợp ở Tam Giang thị xã Châu Đốc, rồi đổ xuống xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú (An Giang). Trong sinh hoạt cộng đồng, hôn nhân gia đình, tang chế, tranh chấp tài sản, thừa kế... người Chăm không đưa ra chính quyền giải quyết, mà xử lý bằng luật tục (Atach) do hệ thống chức sắc tôn giáo xét xử. Đó là: "giáo cả" (Ha-kêm) - do tín đồ liên ấp bầu ra, nhiệm kỳ suốt đời, trừ khi sai phạm nặng: "phó giáo cả" (Na-ef Ha-kêm), ủy viên thư ký (Ka-ren), thủ quỹ (Pan Pageh), cố vấn. Đối với vấn đề chính trị, theo ai, chống ai, họ đều tuân theo sự lãnh đạo của Ha-kêm.
Người Chăm An Giang theo đạo Hồi Islam, nghiêm chỉnh chấp hành năm tín điều: Tin tưởng tuyệt đối vào Thánh Allah, hành lễ mỗi ngày năm lần, chay tịnh trong tháng lễ Ramadan, bố thí cho người nghèo, hành hương về thánh địa Meca. Họ kiêng ăn thịt heo, chó, khỉ và những loài chim chân quắp mồi. Phải đọc kinh trước khi giết những gia súc, gia cầm được phép ăn. Nếu con vật đó chết trước khi đọc kinh, phải bỏ đi. Khi lễ Ramadan kết thúc, người giàu trong ấp muốn đãi bà con thì mua một con bò đưa đến Thánh đường. Con bò được trói lại cẩn thận, trên mình phủ kín tấm vải trắng. Mọi người đứng chung quanh con vật, im lặng nghe ông thầy Cả đọc kinh. Chấm dứt hồi kinh, thầy Cả một tay cầm dao, một tay kéo tai con vật xuống, đo cần cổ, tới đâu là cắt đến đấy. Luật tục cho phép người Chăm có quyền lấy vợ, lấy chồng người dân tộc khác nhưng phải chịu gia nhập Hồi giáo. Nam giới đội mũ trắng, vận sà-rông, từ 13 tuổi đến 15 tuổi phải làm lễ cắt da quy đầu (Kho-tanh). Ông Chèn Kho-tanh đọc kinh, lấy kẹp tre cặp da quy đầu, dùng dao bén cắt, rồi thoa thuốc cầm máu và sát trùng. Điều này trái ngược với người Chăm miền trung chỉ dùng dao gỗ cứng cắt với tính cách tượng trưng. Phụ nữ Chăm ở An Giang không che mặt khi ra đường, nhưng choàng khăn the đủ mầu, trông rất đẹp. Thiếu nữ Chăm đến tuổi dậy thì từ 14, 15 tuổi phải tuân thủ luật Ga-sâm (cấm cung). Trong thời gian đó, ở các gia đình khá giả, họ thuê một bà già biết thêu dệt giỏi để phục vụ và dạy dỗ cô gái nghề dệt. Buồng của cô gái cấm cung là giang sơn kín đáo riêng biệt. Họ không được giáp mặt khách, chỉ quanh quẩn trong nhà, trong buồng quay tơ, dệt vải. Đến chiều tối mới được đi cùng "bà vú" hay người mẹ hoặc chị em ruột xuống sông tắm rửa bằng một cầu thang phụ nhỏ dẫn xuống sông. Muốn đi thăm họ hàng hoặc có việc cần thiết phải ra đường, cô gái cấm cung đi cùng bà già hoặc thiếu phụ và phải đi vào buổi tối để không ai nhìn rõ mặt. Cô gái cấm cung đến tuổi ba mươi mà không có ai cưới thì gia đình cho cô gái được tự do hơn. Hiện nay tục cấm cung đã bị bãi bỏ.
Theo luật tục, con trai Chăm đi cưới vợ, khác với ở Ninh Thuận, Bình Thuận con gái Chăm đi cưới chồng. Người con gái đến tuổi 15 phải làm lễ hãm mình (Karok) đến đủ 16 tuổi tròn mới được lấy chồng. Nếu chưa qua lễ Karok, bị coi là gái "Ta-bung" (gái cấm) không có quyền lấy chồng. Việc hôn nhân do cha mẹ sắp đặt và nhờ người mai mối. Để đạt đến ngày động phòng hoa chúc, đôi tân lang phải qua các lễ: lễ hỏi, lễ cưới, lễ nhóm họ, ngày đưa rể và lễ động phòng. Ngày cưới là ngày người phụ nữ Chăm được phô diễn nhan sắc, áo quần cho mọi người ngắm nhìn. Do vậy, trang phục và trang điểm cô dâu rất công phu. Sau khi cùng bố vợ giao ước tại Thánh đường, chú rể được đưa bằng kiệu về nhà gái, ngồi cạnh cô dâu trước lư trầm hương tỏa khói thơm. Một ông già đọc kinh ban phước lành cho cô dâu, chú rể. Nhập phòng, chú rể bước đến, dùng ngón trỏ chỉ nhẹ vào trán cô dâu thể hiện quyền lực, rồi nhổ một trong ba bông hoa (hoặc cành trâm) đang cài giữa búi tóc cô dâu, đặt trên đùi, tỏ ý rất hài lòng về người vợ mà Thượng đế và cha mẹ đã ban cho mình. Khi có thai, sản phụ kiêng nằm võng, sợ võng đứt hư thai; không ngồi ngay cửa chính sợ sinh con chậm; choàng khăn không buộc chặt lấy cổ, sợ sinh con bị nhau cuốn cổ; căng chiếc lưới đánh cá trên giường hai mẹ con để ngăn ma quỷ. Sinh xong, nhau thai rửa sạch chôn ngay dưới cầu thang. Sản phụ nằm trên hoặc cạnh bếp lửa một tuần lễ, ăn cá lóc kho tiêu, uống nước muối nhạt và uống thuốc điều hòa khí huyết là vỏ cây cọp cào, lợi sữa là cây "tam rây param đoh".
Đàn ông Chăm giữ vai trò chủ gia đình và xã hội. Người cha qua đời, người thay thế giải quyết mọi việc là bác, chú, anh... Nam giới có quyền cưới nhiều vợ, miễn là có đủ khả năng nuôi sống họ. Tuy nhiên trong thực tế xã hội Chăm, hầu hết chỉ một vợ một chồng. Người chồng có quyền ly hôn vợ, nhưng phải có hai người làm chứng rằng hành vi của chồng là đúng và sáng suốt. Luật tục quy định ba trường hợp ly hôn vợ. Trường hợp "Talak Sa", vợ chồng ly hôn rồi có quyền ở lại với nhau không qua một thủ tục nào, nếu khi ly hôn không nói rõ lý do ly hôn. Trường hợp "Talăk Tùa", vợ chồng ly hôn còn trong thời hạn ba tháng, có quyền ở lại với nhau không làm thủ tục nào cả; nếu quá ba tháng, phải làm một tiệc cưới đơn giản. Trường hợp "Talăc Khâu", người chồng muốn ở lại với vợ cũ phải nhờ người bạn cưới vợ mình; sau 3 tháng, người chồng hờ này xin ly hôn; lúc bấy giờ, người chồng cũ mới có quyền cưới lại vợ mình.
Tuy theo chế độ phụ quyền nam giới làm chủ,nhưng luật "Atach" cũng quy định những quyền lợi cho giới nữ. Đám cưới xong, người chồng phải ở rể bên vợ suốt đời (matri local). Bên nhà trai cất nhà cho chàng rể ở cạnh nhà cha mẹ vợ. Chàng rể ở nhà của cha mẹ vợ thì số tiền làm nhà phải giao cho gia đình vợ. Phụ nữ Chăm có quyền ly hôn chồng, nếu chồng bị bệnh bất lực hoàn toàn trước hay sau ngày cưới, người chồng không cấp dưỡng cho vợ đủ sống, người chồng vi phạm luật "Atach", uống rượu bia, lưu manh, trộm cắp, dâm ô, hỗn láo với người cao tuổi hoặc người có chức sắc... Để được ly hôn, trước hết, người vợ kiện đến ông "Ahly" - giáo cả ở xóm, do tín đồ bầu ra - nếu không xong, chuyển đến ông "Ha-kêm" xử lý. Cuối cùng, hai vợ chồng cương quyết ly hôn thì được giải quyết. Con ở với mẹ, cha có nghĩa vụ đóng góp nuôi dưỡng con cho đến tuổi trưởng thành. Tài sản chung chia đôi. Chồng làm, vợ không làm tùy chồng định đoạt. Nhà cửa bên vợ thì không chia. Nhà do vợ chồng xây dựng thì chia đôi. Trường hợp nhà do chồng làm, tùy chồng quyết định.
Đám ma người Chăm đơn giản, hợp vệ sinh, chôn cất (địa táng) trong ngày, không cúng kiếng ăn uống, khi đưa tang không kêu khóc. Người Chăm tin tưởng sau khi người ta chết, hồn vía họ ra ở ngoài mả, lúc nào có lệnh Thánh Allah phán xét, hồn sẽ đến nghe phân xử. Người nào lúc sống giữ đúng giáo lý Hồi giáo, làm nhiều việc thiện, tuân thủ luật Atach Chăm..., theo người Chăm quan niệm, khi chết hồn sẽ được lên thiên đàng (suor Rôka). Người nào có nhiều tội lỗi khi chết, hồn bị đày xuống địa ngục ("Nua Rôka"), sau đó mới đầu thai lại. Luật Atach Chăm nghiêm cấm thờ cúng bụt, tin ma quỷ, bói toán, bùa ngải, đồng bóng... nhưng cá biệt một số người Chăm vẫn còn tin tưởng những chuyện trên, nhất là tin "ma lai" (Kăm lai) ban đêm rút đầu, ruột đi kiếm ăn. Truyền thuyết cho rằng, những phụ nữ Chăm lỡ thời muốn kiếm chồng hoặc những người có chồng thường đi xa, muốn chồng trung thành với mình, phải nhờ vào quyền lực "ma lai". Muốn luyện "ma lai", phải được một đạo sư cao tay truyền dạy phù phép. Trước tiên, chọn một nơi xa xóm làng, hoang vắng, có nhiều mồ mả, ít ai dám lui tới. Sau đó, cắt cổ một con gà trống trắng khỏe mạnh, mổ bụng, móc bỏ bộ lòng, lấy cây căng hai cánh ra, treo đầu gà trên một sợi dây buộc vào cái cây như cần câu, cắm tại nơi làm lễ. Mỗi đêm, vào lúc chín, mười giờ, người phụ nữ luyện "ma lai" bí mật đến địa điểm, lột hết xiêm y, đọc thần chú. Thời gian luyện từ năm đến mười đêm, đến khi nào con gà trên cây cất tiếng gáy, coi như đã thành công. Truyền thuyết này đã bị ánh sáng khoa học đẩy lùi, giờ chỉ còn là dư âm bên chén trà thơm.
(Theo Phạm Văn Rớt)
HELLBOY
-
Tục ăn trầu
Tục ăn trầu
Tục ăn trầu tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một chuyện cổ tích nổi tiếng ?chuyện trầu cau?. Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu: cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. Sách xưa ghi rằng ?ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm?.
Miếng trầu làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến chơi nhà được mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri ân tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông giá lạnh, làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng, bạn bè, làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước cho nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt bao giờ cũng có trầu cau.
Sẽ là thiếu nếu nhắc đến trầu mà không nhắc đến thuốc lào. Đa số nữ giới ăn trầu và miếng trầu là đầu câu chuyện, còn đàn ông, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, lúc buồn. Có người ngỡ thuốc lào được sản xuất từ nước Lào, nhưng hoàn toàn không phải thế. Loại thuốc này chỉ có ở Việt Nam, nó đã đi vào ca dao tục ngữ Việt Nam từ rất xa xưa ?Nhớ ai như nhớ thuốc lào. Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên?. Hơn thế nữa, trong 54 dân tộc anh em, hầu như dân tộc nào cũng biết hút thuốc lào.
Thuốc lào được hút bằng điếu bát loại thông dụng cho hầu hết các gia đình. Điếu ống dùng trong những gia đình quyền quý. Để cho tiện dụng khi xa nhà, những người lao động lại hút bằng điếu cày - loại điếu để hút thuốc trong lúc cày bừa ở đồng ruộng nên gọi là điếu cày. Cùng với cơi trầu, chiếc điếu và bộ đồ pha trà là những đồ dùng tiếp khách trong mỗi gia đình.
Trầu xanh, cau trắng, chay hồng,
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên
(Ca dao)
HELLBOY (st).
-
Bàn thờ tổ tiên trong gia đình
Bàn thờ tổ tiên trong gia đình
Có thể hiểu nôm na tín ngưỡng là niềm tin thành kính. Người Việt trong quá trình phát triển, từng cộng đồng có tiếp thu tôn giáo này hay tôn giáo khác từ bên ngoài truyền vào; nhưng từ xa xưa, và đồng thời với những tín điều của tôn giáo đang theo, vẫn có một tín ngưỡng thờ Tổ tiên.
Cộng đồng lớn cả dân tộc có tổ chung là các Vua Hùng với nơi thờ là Đền Hùng, ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba mọi người đều mong được đến thắp hương tưởng niệm. Với đơn vị tụ cư là làng, thì dân trong mỗi làng có một tổ chung là Thành hoàng mà nơi thờ là đình làng. Đình làng thường được xây dựng ở trước làng, nhận cái thế đất thuận với dòng chảy của nước và hướng thổi của gió (phong thuỷ). ở đó, hàng năm có những lễ hội để dân làng cộng cảm mong một sự che chở chung. Cũng thế, những người cùng nghề lại có chung nhà thờ Tiên sư và vị tổ nghề. Trong khi đó cộng đồng cùng huyết thống lại có một ông tổ họ và nơi tưởng niệm là nhà thờ họ. Tuy nhiên, đơn vị xã hội nhỏ nhất là gia đình, ở đó thông thường có vài thế hệ đang sống chung dưới một mái nhà, và cùng thờ những bậc tổ tiên gần của mình là cha mẹ, ông bà và cụ cố.
Như vậy mỗi người đang sống đều là thành viên của những cộng đồng có quy mô khác nhau, mỗi loại cộng đồng có những vị Tổ riêng, nhưng tất cả mọi người đều có một niềm tin chung là tín ngưỡng Tổ tiên và do vậy cần phải có nơi thờ Tổ tiên. Nơi thờ ấy là đền, đình, nhà thờ họ, nhà thờ tổ nghề và nhà ở của gia đình, nghĩa là những công trình kiến trúc trang trọng nhất của mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân. Tại những công trình ấy, bàn thờ tổ tiên luôn ở trong nhà, nghĩa là thuộc nội thất.
Từ thờ quốc tổ đến thờ cha mẹ đó là một truyền thống đạo lý rất đẹp, một nét khái quát, song gắn bó với mỗi gia đình là bàn thờ gia tiên mà nhà nào cũng có.
Với người Việt, trong mỗi khuôn viên bao giờ cũng có một ngôi nhà chính dùng vào những việc quan trọng như thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt, ngủ và cất chứa tài sản quý. Ngôi nhà ấy thường có số gian lẻ, hay trừ phần làm buồng thì số gian nhà ngoài là số lẻ, và như thế bao giờ cũng có một gian giữa. Chính phía trong của gian giữa bao giờ cũng được dành làm nơi thờ, còn phía ngoài là nơi tiếp khách quý. Đấy là trung tâm của nội thất, chỗ trang trọng nhất, các sinh hoạt khác có diễn ra ở gian bên cũng đều hướng về đấy. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn thấy trời đất lưu thông, âm dương hoà đồng để rồi cảm hoá lẽ đời.
Bàn thờ tổ tiên của người Việt cũng phần lớn hướng nam, hàm ý con cháu tôn vinh tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần "Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ" (Thánh nhân ngồi ngoảnh mặt hướng nam mà nghe thiên hạ tâu bày).
Tuỳ quy mô ngôi nhà, và cũng tuỳ mức sống chủ nhà mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau. Những gia đình bần bách, nhà tranh vách đất với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ, thì bàn thờ thường chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa, bên trong có bát hương nhỏ, đến ngày Tết có thể được dán tờ tranh chủ ở giữa vẽ những thứ như ở một bàn thờ nhà khá giả, hai bên dán câu đối đỏ, cũng tạo ra một cảnh sắc sang trọng và sáng sủa để khỏi tủi vong linh ông bà. ở những gia đình thuộc loại "thường thường bậc trung" trở lên, thì nơi ở là nhà ngói tường gạch. Ăn nhập với khung nhà bằng gỗ xoan sáng vàng hay gỗ lim đanh chắc, là những đồ gỗ, giường phản có thể có sập gụ tủ chè sang trọng, thì bàn thờ được đóng đàng hoàng. Phần trong cùng là gác lửng đóng nối giữa hai cột trong, ngoài kê thêm sập thờ, nhang án, phía trên có treo hoành phi và hai bên treo câu đối sơn then thếp vàng. Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay ít ra cũng đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị được đặt bình hương sứ to để khi thắp những nén hương vừa gợi ra bầu trời sao, vừa dâng truyền ý nguyện con cháu lên những đấng anh linh ở thinh không, phía ngoài còn bát nước trắng và đĩa trầu cau. Có thể có thêm đỉnh trầm bằng đồng, bên cạnh có một hoặc hai chiếc độc bình vừa biểu hiện tâm không lòng thành vừa để cắm hoa trong ngày Tết và giỗ chạp. Hoa cắm thờ thường là hoa huệ biểu hiện trí tuệ với sự thanh cao cả ở hương và sắc, ngày Tết hay cắm cành đào rực hoa, vừa biểu hiện sắc xuân với bầu trời rạng rỡ, vừa theo quan niệm xưa là để trừ ma quỷ. Lại còn cây đèn bằng đồng (hoặc gỗ sơn) để khi thắp đèn nến thì gợi ra cả vũ trụ với mặt trời. Nhang án gia đình khá giả được làm khá công phu với những ô hộc chạm tứ linh, dù đơn giản cũng phải được sơn thiếp, có khi được tính kích cỡ rất cẩn thận. Bàn thờ ấy luôn gợi lên một chiều sâu tâm linh "cây có gốc, nước có nguồn" vừa nhân bản vừa vun đắp truyền thống, đồng thời là niềm tự hào của gia chủ về tổ tiên và về cách dạy con cháu.
Chúng ta trong một thời gian dài có lúc có nơi nhận thức hời hợt về tín ngưỡng và tôn giáo, coi nhẹ đình, đền, chùa, làm đơn điệu hoá môi trường văn hoá làng, không ít cán bộ hiểu thô thiển cả về khái niệm duy tâm và duy vật, để tỏ ra "dứt khoát" với quá khứ và "đoạn tuyệt" với thần linh, ở nhà đã thu nhỏ bàn thờ, thậm chí bỏ đi hoặc đưa vào những chỗ phụ, khuất tối để không gây sự chú ý!
Thế rồi những năm gần đây, trong trào lưu đổi mới, nhiều người dù chưa rõ ranh giới giữa tín ngưỡng với mê tín, nhưng thâm tâm thấy việc thờ tổ tiên là cần và đúng đạo lý. Và khi thấy nhiều đình, đền, chùa được xác nhận là di tích văn hoá - lịch sử, thì vững tin rằng nơi thờ tổ tiên chí ít là điểm hội tụ truyền thống tốt của gia đình, và từ đó sẽ toả sáng giá trị văn hoá soi cho con cháu bước vào tương lai. Nhận thức đúng, nhưng việc làm có nơi chiếu lệ, có nơi lại thái quá, trong nhà, rồi ngoài sân và trên sân gác - nơi nào cũng lập bàn thờ. Và trên bàn thờ gia tiên, ngoài bát hương và mấy thứ đồ thờ khác, có khi còn để không ít đồ nhựa, đồ điện, và ngay cạnh đấy là những tờ lịch. Tưởng làm thế là đẹp, nhưng khi trên ti-vi và tờ lịch là những cảnh "tươi mát" hay ít ra là những cảnh "văn hoá bãi biển" thì môi trường nội thất ấy thật là phản văn hoá!
Bàn thờ tổ tiên là biểu hiện nếp sống văn hoá, biết vun trồng gốc để cây đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, do đó nó cần thiết đối với mọi người mọi nhà. Song ngôi nhà bây giờ đã khác trước, bàn thờ là một thành tố của nội thất cũng phải thích hợp với toàn cảnh. Ở nông thôn, ngôi nhà ít biến đổi, kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng; song với những ngôi nhà mái bằng thường có nhiều đồ gỗ kiểu mới và đồ điện hiện đại, thì chiếc hương án cầu kỳ lại không ăn nhập. Cũng thế, ở những khu tập thể, bên cạnh dãy nhà cấp 4 lụp xụp lại có những ngôi nhà hộp cao tầng, mỗi gia đình một căn hộ với hướng nhà và hướng cửa khá tùy tiện. Ở đấy, vấn đề bức bách là không gian, có thể dùng mặt tủ làm bàn thờ hoặc đóng cái giá gác lên tường, cần đặt ở vị trí trang trọng và có độ cao thích hợp để khi thờ cúng thì mọi người tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính. Mặt tủ đã thành bàn thờ thì chỉ nên để đồ tế khí. Đã là bàn thờ phải có bát hương, có điều kiện thì thêm bình hoa, cây đèn, ống hương, hoa, đèn, nước, trái cây, đĩa xôi hoặc phẩm oản, và theo phong tục dân tộc thêm đĩa trầu cau.
Trong các gia đình, trừ trưởng tộc và trưởng chi vừa thờ tổ họ và tổ ngành vừa thờ gia tiên mình, các nhà con truởng thì thờ mấy thế hệ gần nhất, còn từ đời thứ 5 thì nhập chung vào lễ tế tổ, phần lớn các gia đình là con thứ, thì đồng thời theo thờ bố mẹ ở nhà con trưởng, còn thờ thêm ở nhà mình. Do đó nếu có chân dung tổ tiên xa thì để ở nhà thờ họ, gần thì để ở nhà con trưởng, nhà con thứ chỉ cần thờ chân dung bố mẹ. Tuy nhiên, bàn thờ gia tiên là thờ chung, không cần thiết phải có chân dung, thường có bài vị tượng trưng vẽ cây thông già. Chân dung chỉ cần thiết ở bàn thờ tang.
Bàn thờ tổ tiên là một bộ phận trong không gian gia đình, nó tham gia vào nội thất với tính chất trang nghiêm, lịch sự và thẩm mỹ. Mỗi gia đình tuỳ không gian cho phép, tuỳ tương quan với tiện nghi sinh hoạt khác, có thể làm những bàn thờ thích hợp và đồ tế khí phù hợp, làm sao cái đẹp ở đây phải đảm bảo văn hoá ở cả chiều sâu tâm linh và mặt bằng hình sắc.
(Theo Chu Quang Trứ)
HELLBOY
-
Bàn thờ Tổ tiên với cội nguồn văn hóa dân tộc
Bàn thờ Tổ tiên với cội nguồn văn hóa dân tộc
Có thể hiểu nôm na tín ngưỡng là niềm tin thành kính. Người Việt trong quá trình phát triển, từng cộng đồng có tiếp thu tôn giáo này hay tôn giáo khác từ bên ngoài truyền vào; nhưng từ xa xưa, và đồng thời với những tín điều của tôn giáo đang theo, vẫn có một tín ngưỡng thờ Tổ tiên.
Cộng đồng lớn các dân tộc có Tổ chung là các Vua Hùng với nơi thờ là đền Hùng, ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba mọi người đều mong được đến thắp hương tưởng niệm. Với đơn vị tụ cư là làng, thì dân trong mỗi làng có một tổ chung là Thành hoàng mà nơi thờ là đình làng. Đình làng thường được xây dựng ở trước làng, nhận cái thế đất thuận với dòng chảy của nước và hướng thổi của gió (phong thủy). Ở đó, hàng năm có những lễ hội để dân làng cộng cảm mong một sự che chở chung. Cũng thế những người cùng nghề lại có chung nhà thờ Tiên sư là vị tổ nghề. Trong khi đó cộng đồng cùng huyết thống lại có một ông tổ họ và nơi tưởng niệm là nhà thờ họ. Tuy nhiên, đơn vị xã hội nhỏ nhất là gia đình, ở đó thông thường có vài thế hệ đang sống chung dưới một mái nhà, và cùng thờ những bậc Tổ tiên gần của mình là cha mẹ, ông bà và cụ cố.
Như vậy mỗi người đang sống đều là thành viên của những cộng đồng có quy mô khác nhau, mỗi loại cộng đồng có những vị Tổ riêng, nhưng tất cả mọi người đều có một niềm tin chung là tín ngưỡng Tổ tiên và do vậy cần phải có nơi thờ Tổ tiên. Nơi thờ ấy là đền, đình, nhà thờ họ, nhà thờ Tổ nghề và nhà ở của gia đình, nguyên là trong những công trình kiến trúc trang trọng nhất của mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân. Tại những công trình ấy, bàn thờ Tổ tiên luôn ở trong nhà, nghĩa là thuộc nội thất.
Từ thờ Quốc Tổ đến thờ cha mẹ đó là một truyền thống đạo lý rất đẹp, một nét khái quát, song gắn bó với mỗi gia đình là bàn thờ gia tiên mà nhà nào cũng có.
Với người Việt, trong mỗi khuôn viên bao giờ cũng có một ngôi nhà chính dùng vào những việc quan trọng như thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt, ngủ và cất chứa tài sản quý. Ngôi nhà ấy thường có số gian lẻ, hay trừ phần làm buồng thì số gian nhà ngoài là số lẻ, và như thế bao giờ cũng có một gian giữa. Chính phía trong của gian giữa bao giờ cũng được dành làm nơi thờ, còn phía ngoài là nơi tiếp khách quý. Đây là trung tâm của nội thất, chỗ trang trọng nhất, các sinh hoạt khác có diễn ra ở gian bên cũng đều hướng về đấy. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn thấy trời đất lưu thông, âm dương hòa đồng để rồi cảm hoá lẽ đời.
Bàn thờ Tổ tiên của người Việt cũng phần lớn hướng Nam, hàm ý con cháu tôn vinh Tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần ?Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ? (Thánh nhân ngồi ngoảnh mặt hướng Nam mà nghe thiên hạ tâu bày).
Tuỳ quy mô ngôi nhà, và cũng tuỳ mức sống chủ nhà mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau. Những gia đình bần bách, nhà tranh vách đất với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ, thì bàn thờ thường chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa, bên trong có bát hương nhỏ, đến ngày Tết có thể được dán tờ tranh chủ ở giữa vẽ những thứ như ở một bàn thờ nhà khá giả, hai bên dán câu đối, cũng tạo ra một cảnh sắc trang trọng và sáng sủa để khỏi tủi vong linh ông bà. Ở những gia đình thuộc loại ?thường thường bậc trung? trở lên, thì nơi ở là nhà ngói tường gạch. Ăn nhập với khung nhà bằng gỗ xoan sáng vàng hay gỗ lim đanh chắc, là những đồ gỗ, giường phản, có thể có sập gụ tủ chè sang trọng, thì bàn thờ được đóng đàng hoàng. Phần trong cùng là gác lửng đóng nối giữa hai cột trong, ngoài kê thêm sập thờ, nhang án, phía trên có treo hoành phi và hai bên treo câu đối sơn son thếp vàng. Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay ít ra cũng đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị được đặt bình hương sứ to để khi thắp những nén hương vừa gợi ra bầu trời sao, vừa dâng truyền ý nguyện con cháu lên những đấng anh linh ở thinh không, phía ngoài còn bát nước trắng và đĩa trầu cau. Có thể có thêm đỉnh trầm bằng đồng, bên cạnh có một hoặc hai chiếc độc bình vừa biểu hiện tâm không lòng thành vừa để cắm hoa trong ngày Tết và giỗ chạp. Hoa cắm thờ thường là hoa huệ biểu hiện trí tuệ với sự thanh cao cả ở hương và sắc, ngày Tết hay cắm cành đào rực hoa, vừa biểu hiện sắc Xuân với bầu trời rạng rỡ, vừa theo quan niệm xưa là để trừ ma quỷ. Lại còn cây đèn bằng đồng (hoặc gỗ sơn) để khi thắp đèn nến thì gợi ra cả vũ trụ với mặt trời. Nhang án gia đình khá giả được làm khá công phu với những ô hộc chạm tứ linh, dù đơn giản cũng phải được sơn thiếp, có khi được tính kích cỡ rất cẩn thận.
Bàn thờ ấy luôn gợi lên một chiều sâu tâm linh ?cây có gốc, nước có nguồn? vừa nhân bản vừa vun đắp truyền thống, đồng thời là niềm tự hào của gia chủ về tổ tiên và về cách dạy con cháu.
Chúng ta trong một thời gian dài có lúc nhận thức hời hợt về tín ngưỡng và tôn giáo, coi nhẹ đình, đền, chùa, làm đơn điệu hóa môi trường văn hóa làng, không ít cán bộ hiểu thô thiển cả về khái niệm duy tâm và duy vật, để tỏ ra ?dứt khoát? với quá khứ và ?đoạn tuyệt? với thần linh, ở nhà đã thu nhỏ bàn thờ, thậm chí bỏ đi hoặc đưa vào những chỗ phụ, khuất tối để không gây sự chú ý.
Thế rồi những năm gần đây, trong trào lưu đổi mới, nhiều người dù chưa rõ ranh giới giữa tín ngưỡng với mê tín, nhưng thâm tâm thấy việc thờ Tổ tiên là cần và đúng đạo lý. Và khi thấy nhiều đình, đền, chùa được xác nhận là di tích văn hóa - lịch sử, thì vững tin rằng nơi thờ Tổ tiên chí ít là điểm hội tụ truyền thống tốt của gia đình, và từ đó sẽ toả sáng giá trị văn hóa soi cho con cháu bước vào tương lai. Nhận thức đúng, nhưng việc làm có nơi chiếu lệ, có nơi lại thái quá, trong nhà - nơi nào cũng lập bàn thờ. Và trên bàn thờ gia tiên, ngoài bát hương và mấy thứ đồ thờ khác, có khi còn để không ít đồ nhựa, đồ điện, và ngay cạnh đấy là những tờ lịch. Tưởng làm thế là đẹp, nhưng khi trên ti vi và tờ lịch là những cảnh ?tươi mát? hay ít ra là những cảnh ?văn hóa bãi biển? thì môi trường nội thất ấy thật là phản văn hóa!
Bàn thờ Tổ tiên là biểu hiện nếp sống văn hóa, biết vun trồng gốc để cây đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, do đó nó cần thiết đối với mọi người, mọi nhà. Song ngôi nhà bây giờ đã khác trước, bàn thờ là một thành tố của nội thất cũng phải thích hợp với toàn cảnh. Ở nông thôn, ngôi nhà ít biến đổi, kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng; song với những ngôi nhà mái bằng thường có nhiều đồ gỗ kiểu mới và đồ điện hiện đại, thì chiếc hương án cầu kỳ lại không ăn nhập. Cũng thế, ở những khu tập thể, bên cạnh dãy nhà cấp 4 lụp xụp lại có những ngôi nhà hộp cao tầng, mỗi gia đình một căn hộ với hướng nhà và hướng cửa khá tuỳ tiện. Ở đấy, vấn đề bức bách là không gian, có thể dùng mặt tủ làm bàn thờ hoặc đóng cái giá gác làm lên tường, cần đặt ở vị trí trang trọng và có độ cao thích hợp để khi cúng thì mọi người tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính. Mặt tủ đã thành bàn thờ thì chỉ nên để đồ tế khí. Đã là bàn thờ phải có bát hương, có điều kiện thì thêm bình hoa, cây đèn, ống hương, hoa, đèn, nước, trái cây, đĩa xôi hoặc phẩm oản, và theo phong tục dân tộc thêm đĩa trầu cau.
Trong các gia đình, trừ trưởng tộc và trưởng chi vừa thờ tổ họ và tổ ngành vừa thờ gia tiên mình, các nhà con trưởng thì thờ mấy thế hệ gần nhất, còn từ đời thứ 5 thì nhập chung vào lễ tế Tổ, phần lớn các gia đình là con thứ, thì đồng thời theo thờ bố mẹ ở nhà con trưởng, còn thờ thêm ở nhà mình. Do đó nếu có chân dung Tổ tiên xa thì để ở nhà con trưởng, nhà con thứ chỉ cần thờ chân dung bố mẹ. Tuy nhiên, bàn thờ gia tiên là thờ chung, không cần thiết phải có chân dung, thường chỉ có bài vị tượng trưng. Chân dung chỉ cần thiết ở bàn thờ tang.
Bàn thờ Tổ tiên là một bộ phận trong không gian gia đình, nó tham gia vào nội thất với tính chất trang nghiêm, lịch sự và thẩm mỹ. Mỗi gia đình tuỳ không gian cho phép, tuỳ tương quan với tiện nghi sinh hoạt khác có thể làm những bàn thờ thích hợp và đồ tế khí phù hợp, làm sao cái đẹp ở đây phải đảm bảo văn hóa cả chiều sâu tâm linh và mặt bằng hình sắc.
HELLBOY (st).
-
Bánh chưng khổng lồ
Bánh chưng khổng lồ
Từ xa xưa trong hương vị ngày Tết Nguyên đán của Việt Nam, bánh chưng là thứ không thể thiếu. Nhưng ở làng Nghìn (có tên chữ là làng Đông Linh) xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, có một loại bánh chưng "to nhất cả nước", nặng trên dưới 70 kg. Theo sử sách để lại thì tục gói bánh chưng khổng lồ theo lệ cúng bánh làng vào ngày mồng 6 tháng Giêng hằng năm là xuất xứ từ việc gói bánh làm quân lương phục vụ cho nghĩa quân đánh giặc, xuất hiện cách đây năm trăm năm.
Đông Linh vốn là làng cổ, văn võ song toàn, từng có 4 vị đỗ đại khoa khắc tên tuổi trong Văn Miếu Hà Nội, còn là quê hương của võ tướng nổi danh - Phạm Bôi. Suốt 10 năm chống giặc Minh, ông cùng 6 anh em của mình xây dựng Địa Linh thành cơ sở chiến binh chống giặc ngoại xâm, về sau Phạm Bôi cùng các tướng lĩnh từ Địa Linh vào Lam Sơn dưới ngọn cờ đại nghĩa của Anh hùng Lê Lợi chung lòng góp sức cùng quân dân cả nước chống giặc Minh giải phóng Tổ quốc. Do có nhiều chiến tích oanh liệt, ông được vua Lê Thái Tổ ban quốc thích - Lê Bôi. Về sau ông lâm bệnh tại quê nhà vinh dự được Vua Lê Thánh Tông trực tiếp về thăm tại dinh thự, và khi ông qua đời được vua xuống chiếu sắc phong tặng cho làm Phúc thần của làng Địa Linh và cấp tiền bạc cho dân dựng đền thờ. Đình Đông linh thờ tướng quân Phạm Bôi đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa. Trong làng hiện còn có 6 miếu thờ 6 người anh em của tướng quân.
Tục truyền rằng, trong những ngày hành quân từ quê nhà gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, tướng quân Phạm Bôi đã cho làm những chiếc bánh chưng đại để quân sĩ ăn đường. Bánh chưng dễ làm có độ dính rất cao, lại có thể để được hằng tháng, mang vác thuận tiện, rất phù hợp cho quân tướng hành quân đường dài mà không phải nổi lửa để che mắt quân giặc. Và khi chiến thắng trở về ông cho gói bánh chưng đại làm lễ khao quân. Việc gói bánh chưng đại đã trở thành tục lệ của làng từ khi tướng quân mất.
Làng Nghìn có 6 xóm, theo lệ làng năm nào cũng gói bánh chưng đại để mồng 6 tháng giêng đem ra dâng cúng ở miếu xóm và đình làng. Mỗi chiếc bánh chưng được giao cho một gia đình gói, nhà nào được giao gói bánh thờ đều lấy đó làm niềm vinh dự lớn, phải lo chuẩn bị cả năm trước, từ việc cấy lúa nếp phải dành ruộng tốt nhất để có thóc thơm, phơi già, giã sạch, cất vào chum để dành, rồi trồng đỗ nuôi lợn chuẩn bị lá dong, dây chuối, mượn nồi... Những ngày giáp tết và sau Tết Nguyên đán, làng xóm tất bật nhộn nhịp, những nhà được giao làm bánh, bà con cô bác trong họ ngoài làng đến giúp đỡ. Các nguyên vật liệu đều được kiểm tra lại kỹ lưỡng, thông thường mỗi chiếc bánh chưng đại chừng 30 kg gạo nếp không có hạt lẫn, gẫy; trên dưới 10 kg đỗ xanh hạt đều đãi sạch vỏ, vàng óng; từ 5 đến 7 kg thịt lợn nạc, và các gia vị khác như hành, hạt tiêu; dây chuối khô gói bánh được chẻ từ những bạch chuối hột phơi nắng sao cho thật khô dẻo cuống thành những sợi to bằng chuôi dao; lạt tre được chẻ đều, lá dong được chọn kỹ khoảng 1.000 lá lành, đều đặn.
Khi tiến hành gói, ngoài hàngchục người phục vụ từ việc vo gạo, thái thịt, ngâm đãi đỗ, cắt chẻ lá dong, còn cần đến 6, 7 nghệ nhân dày dạn kinh nghiệm, thao tác điêu luyện. Trên một chiếc nong đại, 4 chiếc lạt tre dài chừng 2 mét xếp thành chữ tinh (#) trên đó, lá dong được đan cài và chia thành 8 đầu mối gạo, đỗ, thịt, gia vị được đổ vào lần lượt như gói bánh chưng thường, 4 người ngồi 4 góc vun cho bánh vuông dưới và nhỏ dần lên như chóp nón. Lạt được buộc, dây chuối bện theo, sao cho bánh nằm gọn trong một chiếc rọ võng, dùng đòn tre khiêng bánh vào nồi. Nồi luộc bánh là một cái nồi đồng đại, người lớn ngồi xổm bên trong ngập đầu, nồi luộc bánh không đặt trong bếp thông thường, người ta đào một hố hình chữ nhật, được tính toán hợp lý về chiều rộng, dài, sâu, đặt nồi lên đó và đốt củi ở dưới sao cho nhiệt tập trung bánh mới chín đều và rền. Sau 52 giờ, vớt bánh ra, vỗ lại cho thật vuông thành sắc cạnh, gói một lớp lá mới bên ngoài cho xanh ngắt, buộc bằng lạt nhuộm đỏ.
Đúng ngày mùng 6 tháng Giêng, bánh được đặt lên kiệu, kèn trống rước ra miếu xóm và đình làng lễ thần. Lễ xong, bánh được chia đều theo xuất đinh cho các gia đình mỗi nhà nhận phần bánh khoảng từ 1 - 2 kg có đầy đủ hương vị. Những gia đình làm bánh cúng lại tất bật đem phần bánh biếu người thân trong họ ngoài làng. Cả làng vui như một ngày hội bởi được thưởng thức lộc đầu năm của thần ban.
Hơn 5 thập kỷ qua, với nhiều lý do, tục gói bánh chưng khổng lồ làng Đông Linh không còn duy trì. Mãi tới năm 1998, tục lệ này mới lại được phục hồi, cả làng chỉ gói một chiếc bánh chưng khổng lồ với sự tham gia của toàn thể già, trẻ, gái, trai trong làng và sự chỉ dẫn của những cụ cao tuổi. Chiếc bánh chưng khổng lồ được đưa lên kiệu rước trong ngày lễ hội truyền thống của làng, kỷ niệm ngày sinh tướng quâm Phạm Bôi 14-2 âm lịch.
Năm 2000 quê lúa Thái Bình đã có niềm vinh dự được dâng bánh chưng đại lên Thủ đô, góp phần với các địa phương trong cả nước đúng dịp lễ hội 990 năm Thăng Long - Hà Nội diễn ra quanh Hồ Gươm.
(Theo Nguyễn Dương An)
HELLBOY
-
Báo bản- Một phong tục tập quán đẹp vùng chân quê
Báo bản- Một phong tục tập quán đẹp vùng chân quê
Xã Yên Từ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là xã có phong tục Báo Bản. Thôn Nộn Khê, một trong 6 thôn của xã Yên Từ là chốn chân quê, nơi giữ gìn lâu đời phong tục đẹp này.
Nộn Khê hình thành làng từ thời Lê - Hồng Đức, cách đây đã hơn 500 năm. Làng có 8 họ chính: Bùi, Đinh, Phạm, Cao, Mai, Lê, Trần, Nguyễn. Quá trình xây dựng và phát triển, 8 họ chính trên đã mở ra nhiều chi, hiện nay có đến 26 dòng họ.
Tục lệ Báo Bản hình thành từ lâu và được phát huy cho đến ngày nay, mà trong thời đổi mới này tục lệ đẹp càng thêm phong phú, đa dạng. Báo là báo công, báo những việc đã làm trong năm qua, bản là gốc. Vậy Báo Bản là tổ chức một cuộc lễ hội để nhớ về nguồn gốc, nhớ về tổ tiên, những người đã có công lao xây dựng làng xóm ngày nay và sự đóng góp của lớp con cháu sau này. Ngày Báo Bản là ngày hội tụ của con cháu, của tất cả các dòng họ đang công tác, học tập, lao động từ "bốn phương" về. Nhiều người từ phía Nam, đông nhất là ở TP.Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh ở phía Bắc, đến ngày Báo Bản là rủ nhau về quê dự lễ hội. Ca dao về ngày này được lớp lớp cháu con thuộc lòng:
Dù ai muôn nẻo đó đây
Mười tư tháng Một là ngày hội quê
Dù ăn buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày Báo Bản, ta về quê ta
Đúng ngày 14 tháng Giêng âm lịch, sau Tết, không khí mùa xuân còn đậm nét, làng tổ chức lễ hội. Đầu tiên là cuộc rước kiệu, những cỗ Bát cống, Long đình được đặt trên vai các công dân trẻ của làng, trong tiếng trống cái và điệu nhạc du dương của phường bát âm, kiệu được rước quanh làng rồi trở về đình. Một cụ già có uy tín, mũ áo chỉnh tề, hướng lên nơi thờ tổ tiên, trong ánh sáng của các cây nến và hương thơm của những cây nhang trầm, trịnh trọng, dõng dạc đọc bài văn tế. Bài văn tế được soạn công phu, nói về công ơn của tổ tiên và việc xây dựng làm xóm trong thời đại mới, những tiến bộ, những thành tích của dân làng, những nét đẹp trong tình làng nghĩa xóm, trong việc sản xuất và học hành và xin hứa với người xưa là luôn vun đắp cho cái gốc được muôn đời bền vững.
Sau lễ là tổ chức yến lão, mừng các cụ vào tuổi thọ đáng kính, từ 60 tuổi trở lên. Các xóm đứng ra cáng đáng việc này. Không tổ chức ăn uống, mà làm lễ dâng hương, đọc thơ chúc mừng. Cụ Bùi Văn Mược, một cán bộ cấp uý của quân đội, vừa vào tuổi "xưa nay hiếm", vui vẻ nói với tôi:
- Sống trong chế độ mới, ở nông thôn, môi trường thoáng đãng, con háu phụng dưỡng chu đáo, lại được thảnh thơi về tinh thần, nên tuổi thọ của các cụ ở Nộn Khê khá cao. Đến đầu xuân 1998 này, Nộn Khê có hơn 500 cụ đã qua tuổi 60, hơn 200 cụ từ 70 đến 79 tuổi; 80 cụ từ 80 trở lên. Bà cụ Đinh Thị Vi, thọ đến 102 tuổi, vừa qua đời tháng 4/1998. Năm nay, lễ Báo Bản có 5 ô tô chở đầy con cháu các nơi về, trong đó có TP.Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định.
Nộn Khê còn một nét đẹp này: thôn có chùa lại có nhà thờ, bà con theo đạo Phật, đạo Công giáo và nhiều người không theo đạo nào nhưng tất cả vẫn đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sản xuất, dựng xây, học hành. Làng này, việc trị an được đảm bảo, nghề phụ phát triển, đan lát, thêu ren, cây cảnh và đặc biệt, việc học hành của các cháu được mọi người chăm lo.
Qua chuyện trò với bác Bùi Văn Mược và gặp mấy cụ cùng mấy anh cán bộ, tôi được biết, Nộn Khê có truyền thống về học hành. Thời xưa, Nộn Khê có 53 cử nhân và tú tài. Sau Cách mạng tháng 8-1945, làng này có một tiến sĩ, 6 phó tiến sĩ, 132 thạc sĩ và cử nhân. Năm 1997, Nộn Khê có 10 học sinh thi đỗ vào các trường đại học. Đến mấy xóm nhỏ, tôi được các cụ đọc cho nghe một câu đối khá hay:
Bách niên văn vật thanh danh địa
Tứ giáp nay y quan lễ nhạc đình
Đã hàng trăm năm, đất này nổi tiếng là nơi văn vật.
(Theo Tạ Hữu Yên)
HELLBOY
-
Luật tục bố mẹ với con cái (dân tộc Xơ đăng)
Luật tục bố mẹ với con cái (dân tộc Xơ đăng)
Người Xơ Đăng rất qúy trẻ con. Mơ ước của họ vẫn là con đàn cháu đống. Đó là điều dễ hiểu. ở một xã hội luôn có chiến tranh, tình hình sản xuất lại thấp kém, con người là rát qúy. Làng đông mới mạnh, nhà đông, mảnh nương rẫy mới rộng tầm mắt. Nên khi có mang vợ chồng phải chịu bao điều kiêng cữ để mong được mẹ tròn con vuông. Trong điều kiện khoa học còn thấp kém, nạn hữu sinh vô dưỡng còn phổ biến, con đẻ ra chưa dám đặt tên ngay. Đặt tên cho con là khẳng định với gia đình, với làng xóm có thêm một thành viên. Để con cứng cáp, niềm hy vọng đã thành hiện thực, cha mẹ mới tổ chức làm lễ trình làng. Tên đặt đơn giản hầu như vô nghĩa, theo vần của tên cha hay mẹ, ông cậu hay bà tùy theo ý thích của bố mẹ. Tên không đặt trùng với người trong làng còn sống cũng như đã khuất vì mỗi người là một bộ phận không trùng lặp của một cộng đồng. Con trẻ được nuôi nấng chăm sóc theo phong tục, được người già và các bậc cha mẹ dạy dỗ. Không thấy có sự đe nẹt, mắng chửi, đánh đập. Chỉ có lời bảo ban nhẹ nhàng, sâu sắc, bằng hành đỗng thực tế để làm gương. Con gái từ nhỏ theo các mẹ, các chị tập dần để đảm đương công việc giới mình. Con trai bước ra khỏi tuổi ấu thơ, mới lên sáu, lên bảy đã tự cảm thấy hổ thẹn nếu còn quấn bên váy mẹ. Chúng đã theo các anh, các chú ra nằm ở nhà rông, nhận sự dìu dắt của các đàn anh để đảm đương trong tương lai nhiệm vụ của các trai làng. Khó mà phân biệt ở đây chức năng giáo dục trẻ em thuộc về của gia đình hay xã hội một cách rạch ròi.
Khi trẻ nhỏ lớn lên, cũng chưa thấy có sự phân biệt rõ rệt trưởng thứ... Trong các con trai, khi cần chọn một người làm chủ nóc hay làm người chăm sóc tuổi già, người ta để ý đến những người lanh lẹ, dù là con cả hay con thứ, con đẻ hay con nuôi. Bố mẹ ưng giữ lại đứa con hợp tính để ở lại nuôi nấng mình lúc tuổi già, không nhất thiết là cả, thứ, trai, gái. Và đứa con đó được quyền hưởng phần gia tài (ruộng rẫy, chiêng ché,...) hơn những người con khác. ở một số vùng như ở người Ca Dong, Hà Lăng, Mơ Ông, còn có tục lệ coi trọng đứa con út. Về mặt danh nghĩa và trong thực tế, bố mẹ cũng ưng ở với con út hơn. Người ta vẫn có quan niệm đứa con út vía mạnh hơn các con khác. Khi trời nổi bão, người con út người Ca Dong vùng Sa Thày lấy tro rắc ra cửa vì vía hắn mạnh có thể cản được gió thổi tốc nhà.
Các loại con nuôi, con mua đều được nuôi nấng tử tế, vì một lẽ đơn giản, trước khi chúng trở thành con cái trong nhà đã cùng cả gia đình làm lễ nhập gia. Các loại con, con đẻ, con nuôi, con mua, ai lớn làm anh, ai nhỏ làm em đều có chung một quyền lợi và nghĩa vụ với gia đình như nhau. Tất nhiên, khi lớn lên, con nuôi có thể ra ở riêng hay về gia đình mình, nếu được sự đồng ý của cha mẹ nuôi. Nhưng trên danh nghĩa, nó vẫn là con của gia đình.
Người Xơ Đăng cũng hay có tục kết bạn làm anh em (tchiêng).
HELLBOY (st).
-
Cây nêu ngày Tết
Cây nêu ngày Tết
Có nhiều truyền thuyết, ca dao, tục ngữ về tục dựng cây nêu trước nhà của các dân tộc Việt Nam mỗi dịp Tết Nguyên đán, song trong đời sống, nó vẫn lạ lẫm với nhiều người bởi ngày nay tập tục xưa đã không còn nữa. Cây nêu được coi là cây vũ trụ nối liền đất với trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ, hàm chứa ý thức về lãnh thổ của người Việt. Dựng nêu ngày Tết là để trừ ma, quỷ, thờ phụng thần linh và vong hồn tổ tiên.
Ngày nay, người Việt Nam đã bỏ thói quen dựng nêu ngày Tết. Nhưng xưa kia, mỗi lần năm mới đến là phải cắm nêu: Cao nêu, kêu pháo, bánh chưng xanh là những biểu tượng đón xuân không thể thiếu được. Nhưng nêu là thế nào? Vì sao phải dựng nêu? Câu chuyện thực ra cũng không đơn giản.
Hãy nói đến cây nêu. Nêu là một cái cây cao, vào dịp năm mới, phải đem ra cắm ở trước sân (hoặc trước cổng, hoặc giữa vườn dóng với cổng chính của nhà). Phải tìm cây cho thích hợp chứ không phải là trồng trước. Nêu dựng vào khoảng chiều ngày 30 tháng Chạp. (Có nhà có thể dựng trước) - cho đến ngày 7 tháng Giêng thì hạ nêu. Các dân tộc đều có nêu:
- Nêu của người Việt là một cây tre, cao hơn nóc nhà, từ gốc đến ngọn phải róc cành cho trơn tru. Cây tre càng thẳng càng quý. Trên ngọn cây, treo một cái giỏ trong có sẵn trầu cau, vàng mã... gắn quanh cái giỏ ấy có thêm một chùm lá dứa, những cái đèn xếp và những tua giấy mầu đỏ, mầu vàng. Cây nêu hiên ngang, cao vút, chiếm lĩnh không gian của cả nhà, cả vườn, gây ấn tượng huy hoàng và cao đẹp.
- Nêu của người Mường cũng là cây tre, nhỏ hơn, có nhiều lá hơn cây nêu Việt một chút. Ngọn nêu buộc một que ngang, treo hai chuỗi vòng, người ta gọi là hoa nêu. Các vòng này đều là vòng tre tiện mỏng, nhiều ít tùy tiện. Người ta gọi đó là chuỗi "của", tượng trưng cho của cải sung túc của gia đình.
- Nêu của người Co (Tây Nguyên) thường cắm trong các đám lễ hội Đâm trâu. Cây nêu phải là một đoạn của cây trò, nối với một đoạn của cây lồ ô. Ngọn nêu treo một lá phướn. Trên lá phướn lại là hình một con chim (đan bằng tre). Con chim ấy phải là chim chèo bẻo, tượng trưng cho sự hùng mạnh.
- Nêu của người Hoa, chịu ảnh hưởng của lý thuyết đạo giáo nhiều hơn. Nêu được gọi là cây phù đào (phù có nghĩa là bùa). Chuyện kể là cung của bà Tây Vương Mẫu có trồng cây đào. Thần ngự ở cây này chuyên bắt các loại quỷ dữ. Có cây phù đào, là có thần trấn giữ, quỷ không dám đến. Vì vậy, mà nhà người Hoa không có điều kiện trồng nêu, người ta có thể bẻ cành đào treo trước cửa.
Có thể kể thêm tập tục nhiều dân tộc nữa. Nhưng có thể thấy một khuynh hướng tâm linh chung. Trồng nêu như vậy là để trừ tà ma quỷ quái.
Thật ra thì trồng nêu chỉ là dấu vết của tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ. Mặt trời cao vòi vọi, đem lại ánh sáng và sự sống cho nhân loại. Cây nêu là để sùng bái thần mặt trời. Cây nêu cũng là một dạng cây vũ trụ như những cây hoa tượng trưng của các dân tộc trong những ngày lễ hội. Cây nêu là một hình thức tượng trưng khác, gọn hơn, mang ý nghĩa của yên vui hạnh phúc cho cả loài người. Chuyện trồng nêu, từ đầu không có ý nghĩa mê tín như nhiều người lầm tưởng.
Không biết trên thế giới có nhiều chuyện cổ về cây nêu không, chứ câu chuyện Việt Nam thì quả là đặc sắc. Từ những ngày Trời tháng Bụt nào đó, người Việt Nam đã có ý thức về lãnh thổ của quê hương mình. Đất đai này, vườn tược này là của người Việt Nam, không thể để cho lũ quỷ nào xâm phạm. Mỗi năm mới đến là một lần khẳng định lại quyền độc lập của mình. Trời thì có thiên thư (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư!). Phật thì có áo cà sa để hỗ trợ cho niềm tin. Còn về mặt ngôn ngữ, từ "nêu" cũng quả là dồi dào ý nghĩa. Nêu là giương cao, là khẳng định. Nêu thì phải nêu cao, chứ không nêu thấp bao giờ. Ngay ở chỗ thấp mà cắm nêu, thì cũng là để rõ cái ý cao! Ngày nay người Việt Nam không theo cái tục trồng nêu nữa, nhưng phải chăng mọi việc làm của chúng ta cũng hướng tới "nêu một thành tựu nhất định". Hải Thượng Lãn Ông quyết tâm "Nêu một lá cờ trong y giới" (Y âm án) là một thí dụ rõ ràng.
(Theo Vũ Ngọc Khánh).
HELLBOY
-
Chợ cưới Tam Lộng
Chợ cưới Tam Lộng
Thanh niên nam nữ Thái mong mỏi ngày hội tung cầu thế nào thì trai gái Dao chờ đợi ngày chợ tết Tam Lộng như vậy.
Chợ họp trên một khu đất khá rộng thuộc xã Tam Lộng, tỉnh Phú Thọ. Những ngày khác trong năm, chợ không có gì lạ hơn các chợ cửa rừng, chỉ là nơi trao đổi hàng hóa giữa đồng bào Kinh - Thượng. Riêng ngày 25 tháng Chạp mỗi năm, phiên chợ Tết này đặc biệt đã biến thành phiên chợ để những mối tình thầm kín giữa các thanh niên nam nữ Dao trong vùng được công khai thừa nhận.
Những người sống ở bản xa chợ phải rủ nhau đi từ hôm trước, vì chợ chỉ họp từ lúc mặt trời lên khỏi ngọn tre đến xế chiều đã tan rồi.
Họ lũ lượt từng hàng theo nhau kéo đến từ mọi nẻo đường rừng núi. Cùng đi với các cậu, các cô bao giờ cũng có các cụ già. Các cụ đi theo con cháu trước là để chính thức thừa nhận dâu rể tương lai, sau là để được ôn lại những kỷ niệm xa xưa ngày nào.
Có được đứng ngắm các cô sơn nữ trong cảnh tưng bừng như vậy mới thấy hết cái đẹp của họ: cô nào cũng có xiêm áo mới; yếm mầu sặc sỡ; chân, tay, cổ đeo vòng bạc, cái bé chồng cái lớn, lẻng kẻng tranh đua với tiếng cười tiếng nói, lấp lánh thi ánh với những khóe mắt sáng ngời.
Có những cô nàng phải mất năm, sáu tháng để tự dệt lấy chiếc áo mà cô mặc hôm đi chợ cưới! Có những chàng trai phải gắng gỏi đi rừng tìm mật, tìm mây cả năm để có thể dành đủ tiền mua tặng người bạn đính ước một bộ xà tích bằng bạc!
Họ chuyện trò vui vẻ, mời mọc nhau ăn uống, rồi trao nhau kỷ vật, để rồi khi trời tà bóng xế, đôi bên chia tay, mỗi người mỗi ngả về chuẩn bị ngày hợp hôn. Các cụ cũng theo con cháu ra về, sau khi thỏa thuận với nhau những chi tiết về lễ vật, về ngày giờ hỏi cưới.
Các cô, các cậu tha thiết với ngày chợ cưới không những vì ngày đó đã chính thức hóa mối tình thầm kín của họ, mà còn một lý do khác nữa: đấy là cơ hội cuối cùng để các cô, các cậu gặp nhau trò chuyện trước khi thành vợ thành chồng. Từ sau ngày đi hỏi, tục lệ bắt đôi bên không được phép gần nhau chuyện trò nữa, dù có gặp nhau giữa đường cũng phải nhìn đi nơi khác. Trước kia, khi chưa ăn hỏi, các cô, các cậu tha hồ hò hẹn, nhưng khi đã ăn hỏi rồi thì nhất định không được chuyện trò với nhau nữa dù là vụng trộm ở ven suối, trong rừng hay khi đêm tối không ai biết. Thời gian có khi kéo dài hàng năm, có khi năm, sáu tháng, tùy sự thỏa thuận giữa đôi bên cha mẹ.
Phong tục bắt như vậy, nếu trái sẽ bị chê cười, và họ tin rằng nếu chuyện trò sau khi ăn hỏi, cuộc tình duyên đôi lứa sau này sẽ gặp nhiều điều không hay.
Không hiểu tục lệ này có từ đời nào, nhưng nếu suy xét kỹ một chút thì thấy rằng, xưa kia ông bà tổ tiên người Dao đã rất tâm lý! Cho phép trai gái tự do tìm hiểu nhau, nhưng khi đã hiểu nhau và quyết định lấy nhau rồi thì cấm gặp nhau trong một thời gian để ngày cưới mối tình thêm thắm thiết! Nếu không có chuyện cấm đoán đó, biết đâu sau khi hiểu nhau và được công khai thừa nhận rồi, đôi trai gái ấy lại không đợi phải cưới nhau theo nghi lễ nữa?
(Theo Triệu Bảo)
HELLBOY
-
Chuối thờ, đầu vị Tết Huế
Chuối thờ, đầu vị Tết Huế
Đối với người Huế, quan trọng nhất trong một cái Tết là chuối thờ! Ngày Tết, ngoài nải chuối để bày mâm ngũ quả ở bàn thờ tiên tổ, các gia đình còn bày chuối thờ suốt trong ba ngày Tết ở nhiều nơi như bàn thờ ông bà, am thờ ngoài trời, bàn thờ Trang Bà, bàn thờ bếp, bàn thờ Phật Di Lặc; rồi chuối cúng Tất niên, tiễn ông Táo, bàn cúng thập loại chúng sinh chiều cuối năm, cúng giao thừa, cúng đón năm mới sáng mùng Một, cúng đưa ông bà khi hạ nêu, v.v. Tính ra mỗi nhà phải chuẩn bị tới 10 nải chuối thờ, chuối cúng. Huế có khoảng 60.000 hộ gia đình, cộng thêm các nhu cầu khác, tính ra mỗi cái Tết tiêu thụ hết gần một triệu nải chuối thờ (khoảng 500 đến 600 tấn chuối)! Đó là con số lý tưởng cho người trồng cũng như các nhà buôn chuối.
Người Huế đi mua chuối thờ chọn lựa rất kỹ, không cúng chuối tiêu, chuối lùn như một số nơi ở miền bắc. Chuối thờ ngày Tết, hay Rằm ở Huế phải là loại chuối cau, chuối mật móc, mật lá. Chuối không được chín, cũng không được xanh non quá. Quả chuối chưa chín nhưng đã tròn cạnh không xây xước, dập nát. Người ta chọn từng nải hay cả buồng. Giá chuối thờ ngày Tết Huế đắt gấp năm, gấp mười ngày thường. Bình Thường chỉ ba, bốn nghìn một nải, ngày Tết lên mươi, mười lăm nghìn. Những năm vào tháng chín, tháng mười bão lũ nhiều, chuối cây bị đổ, giá chuối thờ ở Huế có ngày lên tới bốn, năm chục nghìn một nải, cũng phải cắn răng mà mua, vì không chuối thì bất thành Tết! Được cái là chuối thờ xong Tết, chín lại ăn hoặc làm chuối khô, mứt chuối nên không bị lãng phí! Người buôn chuối muốn có chuối thờ tốt phải về tận nơi trồng chọn cây, chọn buồng, đặc cọc trước, tính toán quãng đường vận chuyển, thời gian bán, thời gian thờ thật tỷ mỉ mới định ngày chặt chuối. Xe vận chuyển chuối phải có giá đỡ từng ngăn như vận chuyển trứng, để từng buồng chuối không chồng lên nhau. Chuối vận chuyển trần, không ủ rơm, lá khô để chuối không chín sớm. Rồi xe phải chạy ban đêm hoặc chạy vào ngày râm mát... Nghĩa là rất công phu.
Người ta buôn chuối thờ từ Khe Sanh, A Lưới, Nam Đông về Huế vì các vùng núi này chuối tốt, quả mập, chuối nhiều, giá lại rẻ. Từ mấy năm nay, người buôn chuối ở Huế vào tận Đồng Nai mua chuối thờ với khối lượng lớn do thời gian chuối trổ vào độ chín thu hoạch đồng nhất, dễ bảo quản, dễ bán ra. Xe chuối từ A Lưới về hay từ Đồng Nai ra lại bán sỉ cho một người buôn khác. Người buôn này "bỏ mối" chuối cho những người bán lẻ ở các chợ. Những ngày giáp Tết, xe xích lô kìn kìn chở chuối phóng về các chợ. Chợ nào cũng có một khu vực rộng dành riêng cho chuối.
Chuyện chuối thờ ngày Tết Huế là chuyện phong tục nhưng cũng là chuyện làm ăn. Có tục thờ chuối nhiều như thế, người nông dân trồng chuối cũng có thêm thu nhập trong ngày Tết cổ truyền.
(Theo Ngô Minh Khôi).
HELLBOY
-
Củi bắt chồng, chuột theo vợ
Củi bắt chồng, chuột theo vợ
Vào rừng đốn củi bắt chồng
Tôi được anh Nguyễn Xuân Hiếu, cán bộ Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Kon Tum giới thiệu đến làng Đác Nhoong, huyện Đác Glay cách thị xã Kon Tum 162km, một buôn làng của bà con dân tộc Giẻ Triêng. Dù trời mưa lất phất, nhưng trên đường vào làng vẫn nhộn nhịp người qua kẻ lại, ai nấy cũng quần áo tươm tất với nụ cười tươi tắn trên môi. Trẻ con thì lũ lượt từng tốp năm bảy đứa, í ới rủ nhau đi. Ông A B'rek, già làng của làng Dak Nhoong cho biết là mọi người đến nhà của cô Y B'ruza chúc mừng cô đã bắt được chồng, hôm nay cô làm lễ cưới chồng. Tôi tỏ ý muốn được già làng đưa đến dự đám cưới để biết thêm phong tục tập quán của bà con Giẻ Triêng, ông cười hiền lành gật đầu:
- Được thôi, đám cưới mà có khách lạ đến mừng, hên lắm . Là điềm lành cho vợ chồng mới, sanh con được nhiều, làm ăn tiền vàng vô nhiều.
Ông A B'rek đưa tôi đi thăm làng.
Có hai cô gái ngược đường đi tới, mồ hôi nhễ nhại, trên lưng gùi bó củi dựng đứng cao khỏi đầu, mỗi khúc to bằng bắp chuối, dài khoảng 6-7 tấc. Gặp già làng, hai cô lễ phép gật đầu chào. Ông đứng lại hỏi một cô tuổi khoảng hai mươi:
- Chừng nào cưới?
- Hai con trăng nữa. - Cô gái thẹn thùng trả lời.
- Đủ củi chưa? - Ông hỏi tiếp.
- Dạ... - Cô cúi đầu cười e thẹn - Còn thiếu mười một bó.
Ông quay sang cô gái đứng phía sau, bé xíu, tuổi khoảng mười hai mười ba hỏi:
- Còn mầy được mấy bó rồi?
- Mới có mười hai. - Cô bé đã trả lời trong nụ cười tươi tắn, khoe hàm răng trắng đều như hạt bắp.
Già làng vỗ vai tôi nói:
- Tụi nó vào rừng đốn củi để dành bắt chồng.
Nghe ông nói, tôi chỉ biết trố mắt ngạc nhiên, ông giải thích:
- Con gái Giẻ Triêng chúng tôi có tục lệ ngày cưới chồng phải có 100 bó củi làm sính lễ cho nhà trai, thiếu không được. Củi phải loại cây đẹp, thường là cây dẻ, dài 6-7 tấc mới được. Đây là thể hiện sự quán xuyến, đảm đang của người phụ nữ làm chủ gia đình.
Tôi đến bên cô bé tuổi khoảng mười hai, e ngại hỏi:
- Em cũng sắp bắt chồng?
- Đâu có. - Cô bé cười ngất trả lời - Còn con nít ai cho bắt chồng. Mười bảy tuổi già làng mới cho phép. 100 bó củi cây dẻ kiếm lâu lắm, chuẩn bị trước cho con trai nó thấy mình giỏi giang.
Thì ra tục lệ củi bắt chồng đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người nơi đây, các cô gái mới 12 - 13 tuổi đã nghĩ đến chuyện để dành củi cho ngày cưới chồng. Cô bé nói tiếp:
- Mười hai bó củi của em cho chị Y B'ruza mượn hết rồi. Chị ấy bệnh không vào rừng đốn củi được.
- Lệ làng cho phép mượn củi - ông A B'rek nói. Đó là cách dạy cho người phụ nữ biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau những lúc khó khăn, không hẹp hòi.
Bây giờ, đi qua những ngôi nhà có chất cẩn thận hai ba đống củi trước mái hiên, tôi biết ngay rằng nhà này có mấy người con gái. Đống củi càng to, chủ nhân của nó đã sắp bắt được chồng. Củi để dành bắt chồng bao giờ cũng để trước nhà cho cả làng biết sự cần cù, siêng năng của con gái mình.
Lên nương bắt chuột theo vợ
Chúng tôi đi ngang một triền đồi, trên ấy trải rộng một mầu xanh của lúa. Thấp thoáng đây đó trong màn mưa lất phất, những bóng người dầm mưa dãi nắng trên nương. Ông A B'rek nói:
- Ngày ngày những chàng trai lên nương, ngoài công việc làm cỏ, trồng lúa, họ còn phải bắt chuột.
Mới nghe ông nói, tôi cứ ngỡ họ bắt chuột về nhậu nên nín thinh không thắc mắc, đến khi gặp một chàng trai trên tay xách xâu chuột bảy con, nghe già làng nói chuyện với anh ta, tôi mới vỡ lẽ.
- Mầy về nhà vợ mà thiếu chuột, tao không cho đâu. Cứ lo ăn nhậu hoài.
Chàng trai cười hớn hở phân bua:
- Ông ơi, còn tới hai con trăng nữa, tui đã có được 80 con rồi, tới ngày đó sẽ đủ thôi.
- Mầy không tính thời gian còn phải phơi khô nữa à? Ông A B'rek lớn tiếng - Mầy định cho cả làng nhậu chuột ươn trong ngày cưới à? - Rồi ông giới thiệu chàng trai với tôi - Thằng này được con Y B'naly gùi củi khi nãy cưới làm chồng, mà làm biếng quá, gùi chưa đan xong, chuột cũng chưa đủ.
Thừa lúc già làng không để ý tới mình, chàng trai vội vã cầm xâu chuột bước đi như chạy trốn. Câu chuyện về chuột trong ngày cưới làm tôi thắc mắc chưa kịp hỏi, thì ông A B'rek đã đi đến trước một ngôi nhà có một cậu bé chừng 15 tuổi đang ngồi bên bếp lửa sấy khô mười mấy con chuột. Già làng đứng lại nói:
- Đứa con gái nào mà cưới thằng A Lưn này thật có phước, siêng năng, học giỏi. Nó đã đan xong gùi, có sẵn vòng bạc, còn chuột đã hơn 80 con rồi.
Ông cất tiếng hỏi thằng bé:
- Mầy có vải chưa?
- Đủ hết. - Thằng bé đứng dậy lễ phép trả lời.
Bấy giờ già làng A B'rek mới rành rọt đầu đuổi cho tôi biết:
- Ngày xưa, ông bà lên nương trồng lúa cực lắm, nhưng chưa kịp mang lúa về nhà thì đã bị lũ chuột đến phá, ăn hết. Nhằm mục đích diệt chuột, ông bà đặt ra tục lệ là con trai trước khi về nhà vợ phải nộp đúng 100 con chuột ra mắt nhà gái, làm mồi nhậu cho dân làng trong ngày cưới. Con gái thiếu củi thì cho phép mượn của bạn bè rồi trả sau. Còn con trai thiếu chuột thì không được mượn.
Cậu bé đang sấy chuột nói với già làng:
- Mấy ngày nay mưa quá, không phơi chuột được, con phải đốt lửa sấy khô, sợ nó ươn bỏ uổng.
Già làng gật đầu tỏ ý hài lòng bước đi, ông kể tiếp cho tôi nghe:
- Ngoài 100 con chuột, bên trai còn phải đan gùi với dệt thổ cẩm, nếu không dệt thì mua cùng với vòng bạc tặng cô dâu. Lễ vật này thay cho lời thề sẽ chung tình với vợ.
Cùng lo bắt chuột, đốn củi
Khi tôi đến, đám cưới chồng của cô Y B'ruza đã tổ chức sang ngày thứ hai: lễ bắt rể. Trời đã tạnh mưa, mọi người tề tựu trước sân nhà, vây quanh những khúc củi bắt chồng của cô dâu chất ken nhau chuẩn bị đốt. Chàng rể trịnh trọng bưng chiếc mâm thau đựng 100 con chuột trình trước mặt dân làng. Cô dâu đến mời già làng châm lửa và nướng con chuột khô đầu tiên làm mồi nhậu. Kế đến, dân làng cùng lấy chuột khô của chú rể đựng trong mâm đem nướng, rượu cần cứ châm liên tục, hết ché này đến ché khác. Các chàng trai cô gái ăn mặc thật diện, múa hát bên nhau quên cả trời khuya. Già làng cho tôi biết:
- Đám cưới của đồng bào Giẻ Triêng chúng tôi kéo dài 3 ngày. Ngày thứ nhất gọi là ra mắt dân làng, tổ chức tại nhà rông. Nhà gái lo đồ nhậu đãi khách. Dân làng mang rượu cần đến uống mừng cô dâu chú rể. Ngày thứ hai: lễ bắt rể, tổ chức tại nhà gái, chàng rể mang sang 100 con chuột, dùng củi bắt chồng của cô dâu đốt lên nướng chuột đãi bà con, sau đó chàng rể tặng cô dâu vòng bạc, gùi, vải thổ cẩm. Buổi tiệc này kéo dài cho tới gà gáy. Ngày thứ ba: lễ xuất giá, tổ chức tại nhà trai, cô dâu tặng chú rể chiếu, cây teo (dao) và mang số củi bắt chồng còn lại sang nhà trai. Tiệc tàn, chàng trai từ giã gia đình để về nhà vợ.
Trong đám cưới, tôi thấy có một bà tuổi ngoài 50, cứ thỉnh thoảng có một cô gái dáng vẻ thẹn thùng đến kề tai nói nhỏ, bà liền xăng xái đi đến nắm tay một chàng trai kéo ra nơi vắng nói chuyện. Có người tỏ ý vui mừng sau khi nghe bà nói, có người lắc đầu từ chối bỏ chạy trốn. Tôi hỏi già làng A B'rek họ nói chuyện gì vậy, mà coi bí mật quá. Ông cười lớn, vỗ vai tôi:
- Đó là bà mối. Thông thường qua những tiệc tùng thế này, các chàng trai cô gái phải lòng nhau, nhưng họ không dám ngỏ lời mà phải nhờ bà mối đứng ra dàn xếp. Nếu hai bên đồng ý, họ mới giáp mặt nhau hẹn hò, và bà mối sẽ căn dặn: ráng mà cùng lo bắt chuột, đốn củi, tới ngày cưới cho đủ số, đừng để dân làng cười chê.
(Theo Nguyễn Tường Lộc)
HELLBOY
-
Hội chè chát xứ Nghệ - một sắc thái văn hóa
Hội chè chát xứ Nghệ - một sắc thái văn hóa
Tục uống nước chè chát hiện nay rất phổ biến ở Nghệ An, nó đã trở thành nếp sống thường ngày mang tính chất cộng đồng phong phú, trở thành một nếp sống tốt đẹp. Nếu chỉ đơn thuần khi khát nước mà có nước để dùng thì không nói làm gì, cái mà người Việt cần là tình cảm mang tính cộng đồng và thông qua những buổi ngồi uống nước chè chát đó mọi người tâm sự trao đổi với nhau những điều bổ ích. Tục mời nhau uống nước chè chát không chỉ có trong mùa hè mà hầu như quanh năm. Thường là buổi sáng trước khi đi làm; buổi trưa và buối tối sau khi cơm nước xong. Lần lượt nhà này đến nhà khác nấu (hoặc om) mời bà con trong xóm đến mà không cần phải phân công gì cả. Bởi nó đã trở thành một hương ước của thôn. Có một số địa phương ở Nam Đàn, Thanh Chương và Đô Lương khi nấu nước xong thì dùng kẻng (trống) hoặc cho con cháu đi một vòng mời. Trong lúc nấu khi chè đã sôi một lát thì người ta đổ thêm bát nước lã, xong đâu đấy mới ủ vào thùng trấu. Các bà bảo làm như vậy thì nồi nước chè xanh mới đẹp và thơm phức. Trong hoàn cảnh khó khăn, chính đây là hình thức đãi nhau đỡ tốn kém nhất.
Đặc biệt, qua đó thể hiện tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau. Chính qua hội uống nước chè chát, bao lượng thông tin được truyền cho nhau biết, phổ biến cho nhau những kinh nghiệm làm ăn, v.v... Đặc biệt là những xích mích thường được giải quyết. Mặc dù đây không phải là cuộc họp có chủ tọa, có nội dung cụ thể định trước nhưng lại rất chân tình, cởi mở, vui vẻ và hiệu quả.
Phải chăng đó là tính cộng đồng - một sắc thái văn hóa rất cơ bản của con người xứ Nghệ nói riêng và người Việt Nam nói chung đã có từ ngàn xưa và lưu truyền cho đến ngày nay. Chè xanh Con Cuông, Anh Sơn, Đô Lương, Nam Đàn, Thanh Chương... nếu biết cách nấu, cách om thì thơm ngon và bổ. Đặc biệt là mùa nóng : "Nắng lửa gió Lào" ở Nghệ An, đi làm về khát nước, nếu được một bát nước chè xanh đang bốc khói thì tác dụng có lẽ không kém bia hơi Hà Nội. Tốt hơn nữa, cho vào bát nước chè xanh đặc sánh một chén mật mía đánh cho tan rồi uống thì vừa mát lại còn bổ. Mặt khác uống nước chè chát còn có tác dụng giải nhiệt, hạn chế khả năng mắc bệnh ung thư, còn bã chè dùng để nuôi lươn và phân bón rất tốt.
Làng xóm là những tế bào hợp thành huyện tỉnh, là sản phẩm tự nhiên được hình thành trong quá trình định cư. Nếu làng xã mạnh thì Nhà nước cũng mạnh. Chính thông qua tục uống nước chè chát mà trong làng thường xuất hiện nhiều phường hội giúp đỡ nhau như: phường lợp nhà, phường cưới dâu, phường lúa, phường thịt tết, v.v... Bởi người Việt thường rất ghét lối sống "Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy giữ". Và họ rất thích: "Xởi lởi trời cho, so đo trời co lại". Cũng chính từ quan niệm đó cho nên trong các cuộc uống nước chè chát đông vui, bao giờ cũng là những buổi trao đổi kinh nghiệm làm ăn và giúp nhau trong mọi công việc. Chính đây là một tập quán rất văn hóa có từ ngàn xưa đã góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để người Việt Nam đánh giặc giữ nước, học tập công tác và sản xuất thắng lợi. Đây cũng là sắc thái văn hóa rất xứ Nghệ mà đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
(Theo Đào Nguyễn)
HELLBOY.
-
Tục cầu mưa của người Thái
Tục cầu mưa của người Thái
Vào tháng ba, tháng tư hằng năm, hễ trời đại hạn là người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình) lại tổ chức ngày hội cầu mưa. Hội tổ chức theo từng bản vào những đêm trăng có quầng đỏ quầng vàng - điềm báo trời đại hạn kéo dài.
Tham gia tổ chức hội đông nhất là nam nữ thanh niên. Còn lớp người trung niên và già cả thì ở nhà để sẵn sàng đón tiếp đoàn hát cầu mưa. Đoàn hát thường đông tới năm sáu chục người. Ai cũng tự sắm sửa đủ mũ, nón đội đầu và áo mưa (áo tơi lá cọ). Mọi người tự giác xếp hàng hai ở một bãi rộng trong làng. Dẫn đầu đoàn hát có một người lĩnh xướng, người thứ hai cầm một cái sàng gạo. Họ chọn nhà nào có bà già cao tuổi nhất bản đến đầu tiên.
Khi tới sân nhà cụ bà, đoàn người dừng lại, đội ngũ chỉnh tề. Người lĩnh xướng gọi vọng lên trên nhà mời cụ bà ra cầu thang làm lễ cầu mưa. Dứt lời mời, cả đoàn người hưởng ứng bằng lời hát cầu mưa:
I
Ủ ùm, ới... Ỉ lang! (1)
Trời tức mình làm nắng không mưa
Nay xin nước mưa xuống cày ruộng mạ
Xin nước trời xuống cấy ruộng mùa
Lúa ở nương chết héo
Ốc ở đồng chết khô
Đất nẻ, gió hun (2)
Con ruồi chết ngạt,
Người già ra bến được chạy cơn mưa
Ơn được hạt mưa to bằng quả gắm,
Các suối đều lũ lụt.
Các hố hốc đều ngập,
Các hố củ mài tràn đầy,
Các gò mối trôi thành bãi bằng.
Được mùa lúa tốt nặng bông,
Được mùa lúa nếp dẻo thơm.
Ra bến nhặt được trứng vịt,
Đi câu nhặt được trứng ngỗng.
Qua bản nhặt được bạc
Qua mường nhặt được vàng.
Đầu dây buộc trâu
Cuối dây buộc ngựa
Ra bến nhặt được bạc,
Qua đường nhặt được bạc loảng xoảng
cũng của chủ nhà nàỵ
II
Lấp loáng vào
Lấp loáng ra
Tất tưởi bà chủ nhà.
Chủ nhà này tốt bụng
Có cái gì cũng cho.
Không cho, chúng tôi chưa chạy,
Không cho, chúng tôi chưa đi.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại đến
Sáng sớm mai chúng tôi lại về.
Đến xin cơm của người làm ruộng,
Đến xin cá của người làm cá.
Cho canh môn mặn cũng ơn.
Cho canh môn nhạt cũng ơn,
Gói cho canh, xương mành cành (3) cũng ơn.
Gói cho cơm thừa bữa sáng, bữa trưa cũng ơn.
Gói cho ớt cay ở gác trên cũng ơn
Gói cho muối mặn ở gác dưới cũng ơn
Ơn... Ơn... lắm!
Hát hết bài, người lĩnh xướng nhắc mọi người hát lại từ đầu. Lúc này, từ trên cầu thang, cụ bà xuất hiện với bộ trang phục đẹp nhất, dùng khi có hội hè và việc vui hệ trọng trong họ hàng cùng huyết thống. Trang phục của bà gồm áo dài mặc ngoài mầu hồng nhạt hoặc đỏ thẫm, cổ áo và gấu áo viền hoa văn rực rỡ. Mặc bên trong là váy cạp rồng, thân váy đen chàm viền vải mầu hoặc chắp hẳn một mảnh thêu đẹp hình muông thú. áo ngắn (sứa cóm) mầu xanh lá mạ hoặc tơ vàng. Đầu đội khăn nhiễu đen; cổ đeo một cái vòng bạc to bằng ngón tay trỏ, hai cổ tay nhăn nheo của cụ bà đeo năm sáu vòng bạc. Cụ bà nào còn đi đứng được sẽ tự mặc lấy quần áo, nếu không bước nổi nữa, phải nhờ con cháu trong nhà mặc giúp và dìu cụ bà từ trong nhà ra tận cầu thang. Cử chỉ của cụ bà dù có mệt mỏi, từ tốn đến mấy cũng phải tạo được vẻ khôi hài khi làm lễ "ban nước mưa" cho dân làng. Cụ bà cố dúng cả hai tay khô cứng vào chậu nước lạnh đặt trước mặt do con cháu bố trí sẵn và luôn tiếp thêm nước từ trong máng đựng nước ra chậu. Cụ bà lần lượt té nước vào đám người đứng theo hàng lố nhố dưới sân. Khi té đến chậu nước thứ ba, thứ tư xem chừng ai cũng đều ướt mũ, nón, đoàn hát nhường cho người cầm sàng gạo tiến lên để hứng lấy cả chậu nước cuối cùng của cụ bà dội từ cầu thang xuống. Vừa dội nước vào mặt sàng, cụ bà vừa cười, nói hóm hỉnh...
- Chà... chà... hạt mưa to như quả "muội" (4). Mọi sông, suối đều đỏ phù sa!
- Chà... chà... úi cha! Mưa to này, mưa dày hột này! Chà... chà...!.
Thế là mọi người lập tức hát vang bài hát cầu mưa để tỏ lòng cảm ơn cụ bà, mở đầu bằng câu: "ờn... Ơn... dơ! (Ơn... ơn... lắm)!.
Hát trọn bài, đoàn hát kéo nhau rồng rắn quanh sân cụ bà một vòng rồi đi hát tiếp các nhà khác. Những nhà tiếp theo chủ nhà không nhất thiết làm lễ "ban nước" mà chỉ cần biếu đoàn hát gói xôi và gói muối con. Việc cảm ơn người biếu quà cũng theo hình thức như ở sân nhà cụ bà.
Sau khi đi khắp lượt các nhà trong bản, đoàn hát cầu mưa trở lại nơi xuất phát để châm đuốc. Mỗi người thắp một bó đuốc trên tay, họ diễu hành hàng một quanh bản một vòng, sau đó kéo nhau ra suối nước. Tất cả số đuốc được chụm lại hai, ba đống bên bờ suối. Lửa đuốc sáng rực cả một góc trời, hắt ánh vàng xuống dòng nước lóng lánh. Họ liền chia ra từng tốp nam, nữ đứng mặt đối mặt với nhau, để thi tát nước "vàng" nước "bạc" vào người, vào mặt nhau. Khi ai nấy đều ướt sũng, rét cóng cả người, mới chịu tan đêm hội về nhà mình.
Sáng sớm hôm sau, bản liền cử một số đàn ông đứng tuổi, khỏe mạnh lên rừng tìm cây dáy "vằn" (5) và xuống suối nhặt lấy ốc "đít nhọn". Họ đem cây dáy "vằn" đút vào miệng lỗ các mỏ nước mạch (để chọc tức vua nước). Đoạn, họ lại đem ốc "đít nhọn" ở suối đóng như đóng đinh vào thân cây sổ (để chọc tức vua trời).
Vua "trời" và vua "nước" bị người trần chẳng những dùng lời lẽ ngọt ngào xin cầu mưa, mà còn trêu tức quá đáng, ắt sẽ nổi giận làm ra mưa to, gió lớn. Đề phòng vua "trời" và vua "nước" trả thù, khắp nơi nơi người ta cấp tốc tìm cây cột chống đỡ những nhà sàn bị mối mọt, xiêu vẹo, đồng thời họ khơi thông mương máng, sửa sang lại bai đập vững chắc. ở giữa các bai đập, người ta còn đặt một cái thang tre 12 bậc từ chân đập lên mặt đập, mỗi bậc lên xuống đều cắm lông cánh con vịt và cứ cách hai bậc lại treo lủng lẳng quả trứng vịt nhuộm mầu, có ý để thần "Rồng" theo thang đó mà qua lại chứ không chui rúc theo dòng nước lũ, làm hỏng bai đập của người.
Vào dịp tổ chức hội cầu mưa, hầu như mọi sinh hoạt của người Thái đều hướng cả vào việc cầu mưa. Trai gái yêu nhau cũng tạm gác những lời hát tỏ tình giao duyên dành lời ước ao cho hạt mưa rơi. Giọng hát gieo vừng, gieo kê (bán pháng bán ngà) vọng từ núi này sang núi khác đều một lời cầu mưa tha thiết:
Mưa xuống đi, hột nước yêu thương!
Mưa xuống đi, cho chàng cày ruộng
Mưa xuống đi, cho nàng xới cây bông
Mưa xuống đi, cho ếch nhái đầy đồng
Mưa xuống đi, cho thuyền khơi đánh cá
Hoặc:
Trời không mưa lấy đâu thóc lúa
Để anh cưới em về chung sống bên nhau?
Ôi! Trời hại đôi ta rồi.
Hẹn mùa sau nhé - chắc trời thương ta!
Nếu sau ngày hội cầu mưa, trời vẫn nắng hạn thì đến tháng trăng sau, các làng lại tổ chức tiếp với hình thức như lần hội kỳ trước.
---------------------------------
(1) Mở đầu cho cuộc hát.
(2) Gió hun: Gió Lào khô nóng.
(3) Mành cành: Bọ xít.
(4) Quả muội: Quả trám.
(5) Cây dáy "vằn": Một loại dáy mọc hoang có phần vỏ kỳ dị giống con trăn đất (rồng con).
(*) Bài này có sự tham gia của bạn Khả Tiến trong việc dịch lời hát và xác minh tư liệu.
HELLBOY (st).
-
Tục cúng máng nước (dân tộc Xơ đăng)
Tục cúng máng nước (dân tộc Xơ đăng)
Sau thu hoạch vụ lúa, người Xơ Đăng có sửa và làm lễ cúng máng nước cầu mong cho cả làng bước vào một năm mới vui vẻ hơn. Máng nước tượng trưng cho cả plây. Cúng máng nước là một hình thức củng cố cộng đồng công xã. Cả làng tổ chức ăn chung ở nhà rông và sau đó về nhà ăn riêng từng nóc. Tiếp theo, cả làng để ra ba ngày đi kiếm cá, lượm rau, đánh chuột, chim, sóc nhưng không được dùng ná hay bẫy, sống lại cuộc sông hái lượm, săn bắt xa xưacủa tổ tiên. Tối hôm thứ ba, cả làng tập hợp ở nhà rông cùng với các thứ bặt, lượm được. Các làng kết nghĩa anh em, các bà con đi lấy chồng hay ở rể các làng xa đều về họp mặt. Mỗi nóc nhà có bao người, đốt bấy nhiêu ống cơm lam và đem rượu đến. Chủ làng cúng thần làng và các siêu linh khác cầu xin cho mọi ngưởi được khỏe mạnh, mùa màng năm tới bội thu, gia súc phát triển. Ông ta cũng cầu phúc cho từng nóc, cúng hồn cho các nông cụ, các vũ khí, các chuồng cho các gia súc. Cuối cùng một cuộc vui kéo dài thâu đêm, suốt sáng. Trai gái trò chuyện, tìm hiểu nhau.
Và từ đấy, suốt những tháng nghỉ ngơi, người Xơ Đăng nay ở nóc nbày, mai ở nóc khác, ngày ở làng này, đêm sang làng khác, dự lễ tết ở các nóc, các làng. Rượu đổ, lợn gà chết. Mọi người say sưa cho bõ những ngày lao động mệt nhọc. Thật đúng là tết kéo dài đến hết mùa xuân như phong tục cổ truyền của các cư dân Đồng Dương, một phong tục đầy lãng phí và vô nghĩa, hủy hoại sức khỏe con người và của cải do lao động làm ra. Nhóm Ca Dong còn có tục nhảy cơm. Những người tham dự nhảy múa xung quanh bếp lửa gần chỗ thờ cúng tổ tiên tung vãi cơm xôi, ném nhau, ca hát, hò reo, cầu mong mùa màng sang năm tốt tươi, lương thực sẽ thừa thãi như hôm nay.
HELLBOY.
-
Đàn ông thổi sáo phải mặc váy đàn bà
Đàn ông thổi sáo phải mặc váy đàn bà
Đó là phong tục của đồng bào S'Triêng ở Kon Tum. Loại sáo này có tên là đinh tút, được chế tác bằng những ống tiêu, hoặc ống nứa. Đinh tút gồm 6 ống nứa tách rời, có đường kính bằng nhau nhưng dài ngắn khác nhau. Mỗi ống nứa, một đầu có mắt bịt, đầu kia được vát hai đường chéo, một đường chéo để tỳ vào môi, đường chéo kia để đón hơi từ miệng thổi vào. Một ống đinh tút như thế có thể kêu từ một đến hai âm, thổi hơi nhẹ thì kêu tiếng trầm, mềm, thổi mạnh hơn một chút kêu âm vực trung và nếu thổi mạnh hơn sẽ phát ra âm cao. Sử dụng đinh tút bao giờ cũng phải có 6 người, mỗi người một ống, xếp theo thứ tự từ ống dài nhất đến ống ngắn nhất. Khi biểu diễn, người sử dụng ống ngắn nhất là người chỉ huy.
Điều thú vị là đinh tút của người S'Triêng chỉ có đàn ông thổi và khi thổi đinh tút thì những người đàn ông đó dù già hay trẻ đều phải đóng giả làm đàn bà. Họ không được đóng khố mà phải khoác tấm đồ che kín từ cổ xuống chân, giấu một tay vào bên trong, chỉ thò một tay ra cầm ống đinh tút để thổi. Tại sao lại như vậy? Các nghệ nhân cho biết: Điều này đã trở thành tập quán từ rất xa xưa. Khi ấy nhạc cụ này thường chỉ dùng cho lễ cúng, đặc biệt là lễ cúng lúa, để gọi hồn lúa, đưa đường đón lúa từ nương rẫy về buôn. Mà hồn lúa theo quan niệm của người S'Triêng là một cô gái xinh đẹp nhưng rất yếu đuối, lại nhút nhát nữa. Nếu thấy bóng dáng đàn ông, nàng tiên lúa sẽ xấu hổ, bỏ chạy. Nàng tiên lúa bỏ chạy thì sang năm sẽ mất mùa, đói kém cho nên khi thổi đinh tút, đàn ông dứt khoát phải mặc trang phục của đàn bà. Vậy là từ một quan niệm mang tính lễ nghi nông nghiệp đã hình thành lối diễn tấu nhạc cụ rất độc đáo có một không hai của đồng bào S'Triêng. Thường khi biểu diễn, các nghệ nhân bao giờ cũng kết hợp với múa. Đội hình múa theo chiều ngược kim đồng hồ, động tác múa ngây ngất, lắc toàn thân như múa say rượu. Không bao giờ có chuyện ngồi thổi đinh tút, chỉ đứng thổi và cũng không đứng yên. Các nghệ nhân luôn di chuyển theo hình vòng cung.
Âm thanh đinh tút của người S'Triêng có tiếng ngân khác hẳn tiếng đinh tút của người Êđê. Nó mô phỏng tài tình hơi thở của thiên nhiên, của Tây Nguyên hoang sơ và hùng vĩ.
(Theo Minh Huệ)
HELLBOY
-
Đám cưới của người Giáy
Đám cưới của người Giáy
Một đám cưới được tổ chức đúng nghi lễ phải qua các bước như: dạm hỏi (xam dà, xam pấu), lễ ăn hỏi (cun cơ lý), đám cưới (cun láu). Đầu tiên, sau khi đôi trai gái thêu chuyện với cho mẹ hai bên nếu được sự đồng ý thì gia đình nhà trai sẽ tiến hành lễ dạm hỏi. Thông thường trong lễ dạm hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ, một vòng tay để "đánh dấu". Tiếp theo là lễ ăn hỏi đó chính là lúc để gia đình nhà gái thách cưới. Ngày nay thực hiện nếp sống mới, đồ thách cưới của người Giáy cũng đã giảm nhiều, chủ yếu chỉ còn mang tính hình thức.
Lễ đón dâu là một tục lệ khá cầu kỳ và có phần hơi rắc rối. Đoàn đi đón dâu bao giờ cũng đủ các thành phần: đội Pí lè (bốn người), hai ông bà già, chú rể, phù rể, hai cô gái, một cậu em để dắt ngựa cho chị dâu và có một đoàn người để gồng gánh lễ vật. Khi vào nhà gái đón dâu chú rể, phù rể phải làm lễ quỳ lạy trước bàn tổ tiên. Còn khi đưa dâu ra khỏi nhà gái thì cả chú rể, phù rể và cô dâu đều phải lạy tạ trước bàn thờ theo quy định và hướng dẫn của người già. Để đưa được cô dâu ra khỏi nhà gái những người bên nhà trai không những phải uống hết những khay rượu do nhà gái đun ra mà còn phải giằng được cô dâu khỏi tay những người họ hàng nhà gái. Cuối cùng thì cô dâu cũng được đưa đến nhà trai lại tiếp tục quỳ lạ trước bàn thờ tổ tiên như lúc ở bên nhà gái. Lúc này, nhà trai mới mở tiệc ăn mừng vì đón được dâu về.
Đồng bào Giáy quan niệm rằng đám cưới càng lớn, càng đông vui thì hạnh phúc cũng thiêng liêng bền chặt. Do đó tục lệ đón khách và đưa tiễn khách trong đám cưới người Giáy cũng khá thú vị. Khách ở nơi xa đến dự đám cưới sẽ được các cô gái bưng nước ấm đến mời rửa mặt, rửa chân tay, còn khi ra về nếu khách lò họ hàng thân thích thì cô dâu chú rể phải đích thân bưng chậu nước đến mời rửa tay bằng chiếc khăn mới tinh và cái khăn này cũng chính là lễ vật của đôi vợ chồng trẻ đáp lại cho khách.
Trong đám cưới người Giáy bao giờ cũng có những đội thối Pí lè. Pí lè được buộc khăn đổ tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi. Cùng với thổ Pí lè, hát đối đáp cũng là trò vui được nhiều người tham gia. Các cuộc hát đối đáp thường được bắt đầu từ chập tối kéo dài đến tận ngày hôm sau. Ngoài ra trong đám cưới người Giáy còn có hát đón dâu, hát rửa mặt, hát trước mâm rượu, hát khuyên răn, cảm ơn?
HELLBOY (st).
-
Đám cưới người Dao
Đám cưới người Dao
Hôm nay tại bản Đông Áng, xã Châu Sơn, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn có một đám cưới của người Dao Thanh Y tổ chức theo phong tục cổ truyền cho cô dâu Hà Thị Vân và chú rể Lý Văn Hai.
Từ sáng sớm hai chảo gang to đã được đun "hết tốc lực" bằng những thanh củi rực cháy, và bà con người Dao trong vùng đã thay phiên nhau đến "uống rượu mừng".
Phải chờ đến 15h chú rể mới được phép đến nhà gái đón dâu, tôi tranh thủ gặp già làng Hà Văn Cắm và trưởng bản Hà Văn Sắt tìm hiểu về phong tục cưới xin của người Dao Thanh Y. Rất may, cả hai người đều thông thạo tiếng phổ thông.
Quá trình dựng vợ gả chồng của người Dao cũng tiến hành qua ba bước: Dạm hỏi - Đính hôn - và Tổ chức đám cưới. Là một trong những việc hệ trọng nhất của đời người, nên cha mẹ hai bên đều có thái độ thận trọng và nghiêm túc. Họ thường trực tiếp trao đổi ý kiến và bao giờ cũng dựa trên sự thuận tình của đôi trẻ chứ không theo hủ tục phong kiến "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó".
Trước khi đến dạm hỏi, nhà trai nhờ người "đánh tiếng" với nhà gái về thời gian họ sẽ đến thưa chuyện. Người trực tiếp đi dạm hỏi là cha, mẹ chàng trai và một người đàn ông hàng xóm đứng tuổi có đức độ, uy tín và kinh tế khá giả. Lễ vật dạm hỏi chẳng có gì khác ngoài chai rượu trắng mặc dù nhà gái bao giờ cũng chuẩn bị sẵn mâm cơm thịnh soạn để đãi khách. Nếu nhà gái đồng ý sẽ đặt "tờ mệnh" ghi ngày tháng, giờ sinh của cô gái lên bàn thờ, vị đại diện nhà trai đặt lên đó 3.000 đồng và nhận lấy tờ mệnh. Nhà trai đem tờ mệnh đó về, đưa đến thầy mo cùng tờ mệnh chàng trai để xem số cho đôi trẻ. Nếu số đôi trẻ không hợp nhau, nhà trai chỉ cần thông báo đến nhà gái qua đôi lời nhắn nhủ. Nếu số hợp nhau, nhà trai sẽ đến nhà gái lần thứ hai, đặt lên bàn thờ gia tiên 12.000 để làm lễ và ít ngày sau đó, lễ đặt chân gà (tức lễ đính hôn) được tổ chức.
Trong lễ đính hôn, nhà trai đem đến nhà gái lễ vật bao gồm hai con gà, hai chai rượu, hai ống gạo nếp. Nếu gà được nhà gái đem mổ ngay để làm đồ cúng là mọi việc suôn sẻ. Hai họ sẽ tiếp tục chuyện trò, thỏa thuận số lượng các đồ lễ mà nhà trai phải đem sang nhà gái trong dịp cưới. Số lượng này tùy thuộc vào dòng họ cô gái lớn hay bé và phong tục riêng của mỗi tộc Dao. Với Dao đỏ vùng Tràng Định là 4 triệu tiền mặt, 140kg thịt lợn, 8 lít rượu, 1 con gà và số thịt dùng để chia phần cho những người thân thích trong gia đình cô dâu (trước đây ông, bà ngoại mỗi người 12kg, con trai cả của ông ngoại 8 kg, con trai thứ, con gái của ông ngoại và anh chị em ruột của cô dâu mỗi người 2 kg). Với Dao Lù Gang vùng Mẫu Sơn là 1,5 triệu đồng, 50kg thịt lợn, 50 lít rượu trắng, 30kg gạo và một số thịt phần. Với Dao Thanh Y ở Đình Lập đồ thách cưới có phần khiêm tốn hơn, chỉ có 40kg thịt lợn, 1 đến 2 đồng bạc trắng và 1,8 triệu tiền mặt.
Một nửa số tiền mặt đó nhà trai phải đưa cho nhà gái trước khoảng mươi ngày để mua một đôi hoa tai bằng vàng hoặc bạc, 2 chăn bông, 2 chiếc chiếu, 2 phích đựng nước, 2 nồi con. Những tư trang và đồ dùng này được bổ sung vào số của hồi môn cùng với toàn bộ tặng phẩm và tiền mừng của người thân, dân bản sẽ được đem về nhà trai trong lễ rước dâu.
Sau lễ đính hôn, nếu không gặp điềm gì xấu như giữa đường gặp rắn bò ngang, hoẵng kêu, nhện sa, thì lễ cưới sẽ được gấp rút chuẩn bị. Nhà trai xem được ngày tốt, đem hai lít rượu đến nhà gái thông báo ngày cưới. Nhà gái nhận rượu, đem một lít ra uống cùng nhau, một lít gửi biếu ông bà ngoại, vừa là để tỏ lòng hiếu thảo, vừa là kính báo sắp gả con.
Lễ cưới của người Dao còn được gọi là lễ uống rượu. Trong ngày vui đó, chỉ có chú rể người Dao Thanh Y mới đi đón dâu. Cùng đi với chú rể có một ông hàng xóm đức độ, uy tín, gia cảnh đề huề (như người đại diện và chứng kiến), một người đàn bà đứng tuổi giúp chú rể ăn vận trang phục truyền thống.
15h ngày hôm đó, họ đến sát bản Đông Áng thì dừng lại bên bờ sông chờ ông đại diện thông báo cho nhà gái và xin phép thày mo. Mỗi lần thông báo và xin phép đó, ông đại diện đều đặt lên bàn thờ vài ba ngàn đồng để làm lễ. Mặc dù thày mo đã cho phép, đoàn nhà trai vẫn không được đến thẳng nhà gái mà phải đến một nhà hàng xóm gọi là nhà tiền trạm. Nhưng để vào được nhà tiền trạm này, chú rể khoác lên người bộ áo cưới có khá nhiều dải vải hoa văn sặc sỡ trông như những lá bùa và phải qua ba lần dừng lại trước dải lụa đào do bốn người phụ nữ giăng ngang và hát những bài dân ca chúc mừng. Cứ sau mỗi bài hát, ông đại diện nhà trai lại vui vẻ thưởng cho bốn người ngăn đường 12.000đ để dải lụa đào được mở ra. Ngày hôm sau khi sang nhà gái, họ còn trải qua 2 lần ngăn đường như thế, một lần ở cửa nhà, một lần ở cửa buồng cô dâu.
Ông Phóng - bố đẻ cô dâu - trịnh trọng đặt lên bàn thờ một mâm cơm cúng. Thày mo rì rầm khấn báo tổ tiên về việc có một người con gái trong gia đình đi làm dâu con ở dòng họ khác. Cô dâu Hà Thị Vân từ trong buồng riêng đi ra, nghẹn ngào xúc động vái lạy tổ tiên 3 lần trước sự chứng kiến của người thân. Rồi cô bước ra khỏi nhà mà không được phép quay lại. Theo sau cô là đoàn người đi đón dâu của họ nhà trai, kể cả những người gánh lễ vật đến nhà gái từ hai hôm trước, và một số người nhà gái đưa dâu cùng với của hồi môn.
Vượt qua hơn hai giờ đồng hồ đi bộ, những người rước dâu về đến nhà trai ở bản Khe Pặn. Tại đây một nghi lễ trang trọng nhất trong ngày cưới được tổ chức - cô dâu vái lạy tổ tiên nhà chồng. Bàn thờ trong ngày cưới được gọi là Hồng Đường (tiếng Dao là Hoòng Toòng), có kê một dãy bàn ghế trang trọng, trên bàn có bày 12 bát con, 12 đôi đũa, 12 chén rượu tượng trưng cho 12 họ đầu tiên của người Dao và vài bát gan lợn. Bố mẹ chàng rể chắp tay mời 12 vị đáng kính nhất của chủ và khách lên ngồi vào hai dãy ghế ở hai bên bàn. Thày mo bắt đầu tiến hành các nghi lễ. Cô dâu và chú rể được dẫn đến trước Hồng Đường. Cô dâu trùm khăn kín mặt, đứng lạy, chỉ có chú rể quì xuống 3 lần, mỗi lần 3 lễ tổ tiên. Lễ xong, cô dâu, chú rể vào buồng riêng, trả lại mấy gian nhà ngoài cho quí khách khề khà nhắm rượu và chuyện trò rôm rả.
Hai ngày hôm sau, đôi vợ chồng trẻ mới đưa nhau về nhà gái làm lễ lại mặt (tiếng Dao gọi là ùi mỉn). Gia đình nhà trai cho một cô bé gái từ 12 đến 15 tuổi đi theo để khi đến gần nhà gái thì gánh giúp đồ lễ. Đồ lễ có gà, rượu, bánh (hoặc gạo). Ngày hôm đó, chú rể được bố vợ dẫn đi chào họ hàng thân thích. Hôm sau, đôi vợ chồng trẻ mới quay lại Khe Pặn, và cuộc sống mới thực sự bắt đầu.
Lên vùng cao Lạng Sơn vào mùa đông và mùa xuân rất hay gặp đám cưới Dao. Bạn sẽ có cảm giác như gặp một rừng hoa di động, bởi vì trang phục của con gái Dao thật đẹp và rực rỡ. Tất nhiên là bạn sẽ phát hiện thêm một vài điều không giống với những nghi lễ mô tả trong bài viết này. Giữa các tộc Dao ở các địa phương thường có những phong tục riêng, khác biệt. Nhưng có điều chắc chắn là bạn sẽ được họ nhiệt thành mời uống những chén rượu mừng ngất ngây nồng ấm.
(Theo Dương Văn)
HELLBOY
-
Đám cưới người Mông
Đám cưới người Mông
Dân tộc Mông ở Lai Châu có hơn 170 nghìn người. Nếu người Thái có Thái Đen và Thái Trắng thì người Mông ở Lai Châu có năm ngành: Mông đỏ (Mông lềnh), Mông trắng (Mông đlơ), Mông hoa (Mông xi), Mông xanh (Mông xua), và Mông đen (Mông đlu).
Với tâm thức vạn vật hữu linh, đời sống của con người hòa quyện gắn bó với trời đất, núi sông, mỗi bước trưởng thành của người Mông đều mang những nghi lễ thiêng liêng. Đám cưới của người Mông cũng vậy. Có người nói, người Mông lấy vợ cứ thích cô nào thì cướp về. Thực tế, "cướp vợ" nếu có thì cũng rất hiếm ở thời phong kiến.
Thường thì, để đi đến lễ cưới, trai, gái người Mông có ít nhất một-hai năm, thường ba-bốn năm tìm hiểu. Vào dịp tết, chàng trai tìm đến cánh rừng chơi xuân, đứng từ xa thổi khèn hoặc kèn lá (nếu đến gần thì thổi sáo, kéo nhị hoặc đánh đàn môi). Mỗi bản đàn có một tiếng nói mà chỉ người Mông mới biết, chỉ người có duyên với nhau mới hiểu. Chàng đàn hoặc khèn rằng:
Em ơi...
Tôi là con chim chưa có tổ
Cây rừng nhiều
Mà tôi là con khướu chưa có cành đậu
Từ rất xa
Gió mách tôi ở đây có em
Em đẹp, em xinh, siêng năng chăm chỉ
Má em như quả đào chín
Em thơm như hoa rừng
Có lòng thương anh hãy đến đây...
Chàng trai cứ hát mãi, ứng tác mà hát ví von thân phận tình cảm của mình. Cô gái nào ưng thì cũng thổi kèn lá, hoặc đàn môi đáp lời:
Anh nghe ai nói không phải rồi
Em nghèo quanh năm mặc váy rách
Em lười biếng cả bản cười chê
Em xấu xí như bông hoa ong không thèm đến
Nếu anh không chê
Thì hẹn chợ phiên tới xuống chợ tìm nhau.
Cứ như vậy, nhanh cũng hai mùa xuân, họ mới ước hẹn lấy nhau. Sau khi ước hẹn, chàng trai về nhà cho bố mẹ biết mình định lấy cô gái. Sau khi dò hỏi được gia thế nhà cô gái, bố mẹ chàng trai cùng với ông cậu bắt con gà mổ rồi luộc để xem điều tốt xấu. Xem cho trai-gái lấy nhau, người Mông xem mắt và lưỡi. Con gà luộc lên xem mắt mà bằng là tốt. Lưỡi gà rút ra, phần cuống lưỡi có ba sợi gân, nếu sợi ngắn ở giữa mà cong lên thì tốt, cong xuống thì không tốt. Điều tốt xấu này được thông báo cho chàng trai. Nếu chàng vẫn quyết lấy cô gái thì cha mẹ cũng không ngăn cản. Người Mông tính ngày tháng cũng theo 12 con giáp như người Kinh.
Chuẩn bị đón cô gái về nhà, chàng trai làm một cái chõng (hoặc phản) ngăn phòng riêng. Chọn ngày, chàng báo với bố mẹ rồi tìm cô gái. Dù ở gần cũng phải vào rừng chơi chờ đến tối mới đưa về nhà. Bao giờ cô gái cũng giằng co, buộc chàng kéo chạy một đoạn. Cái lý là vậy, để mai ngày sống với nhau có điều gì khúc mắc, chàng trai không được nói là: "Cô tự theo tôi về" và cô gái cũng nói được: "Anh kéo tôi về đấy chứ...".
Về nhà, chàng trai gọi cửa. Bố mẹ chàng thức dậy. Ông bố ra chuồng gà bắt một con gà mái, một con gà trống (cầm cho quây đầu gà vào trong nhà) đi theo sau chàng trai và cô gái vào nhà. Như vậy, ma nhà đã công nhận cô gái là người của gia đình rồi.
Sáng hôm sau, gia đình chàng trai cho người sang báo cho nhà cô gái biết "Con gái của ông bà đã được cháu trai của chúng tôi đưa về nhà rồi, cứ yên tâm chúng tôi sẽ cho ông mối (chỉ trả mình dình) đến thưa chuyện.
Chọn ngày đẹp, ngày lẻ; đoàn nhà trai cử ba người gồm: Ông mối cùng chú, bác của chàng trai đến nhà gái và mang theo: Một lít rượu, một đôi gà, vài cân gạo. Nhà gái cũng cử ông mối ra tiếp để thống nhất lễ thách cưới. Lễ nặng hay nhẹ phụ thuộc vào cô gái là con gái duy nhất hay có nhiều chị em gái. Nếu cô gái là con gái duy nhất thì nhà trai phải nộp: 120 đồng bạc trắng, 120 cân thịt, 120 bát rượu, 10 tớ gạo tương đương với 40 kg. Cô gái có đông chị em gái thì lễ thách cưới là một nửa. Lễ thách cưới này cũng là lễ để nhà gái tổ chức đám cưới. Có hai cách để nhà trai nộp lễ. Hầu chớ (ăn cưới, có ăn, có uống thì nộp như đã thỏa thuận); Cứ khúa (đưa tiền, khoảng 170 đồng bạc trắng).
Nhà trai theo ngày đã chọn cử một ông mối dẫn một đoàn năm hoặc bảy hoặc chín người (bao giờ cũng đi lẻ về chẵn) đem lễ vật đến nhà gái. Ông mối đi trước, tay cầm một chiếc ô, ông địu một chiếc chăn gấp vuông buộc chữ thập. Đoàn người đi đến cánh rừng đầu bản nhà gái, thì dừng lại mang thức ăn đã chuẩn bị sẵn ra ăn. Trước khi ăn hát xin ma bản:
Chúng tôi là...
Hôm nay ngày...
Thay mặt nhà trai (gia đình ông bà...)
Đến bản...
Xin con dâu cho họ... chúng tôi
Cầu mong ma bản phù hộ mọi việc tốt đẹp.
Ăn xong, họ mới vào bản đến nhà gái. Nhà gái chuẩn bị một mâm cơm ngay trước cửa. Mâm cơm có hai chân giò lợn ninh nhừ, bốn con gà luộc cùng với cơm và rượu. Đoàn nhà trai vào mâm. Ông mối nhà trai hát:
Thưa ông bà
Hôm nay là lành
Con gái lớn biết vỡ nổi đám ruộng hoang
Con trai lớn biết vỗ nổi thửa ruộng rậm
Trai gái lớn biết dựng cửa nhà
Mối mai tôi về đây đôi lời xin ngỏ.
Ông mối nhà gái chấp nhận lời, xin mời ông mối và đoàn nhà trai ăn uống xong rồi vào nhà. Cũng có khi, ông mối nhà gái muốn kéo dài cuộc nói chuyện thì chối bằng cách hát nói xấu cô gái, tự nhận nhà nghèo không xứng, lúc đó ông mối nhà trai phải trổ tài hát cho đẹp lòng nhà gái. Sau đó vào nhà làm lễ nhận dâu (đỉnh mình chăng).
Ông mối nhà trai treo ô và chăn lên vách cạnh bàn thờ nhà gái. ý để báo với tổ tiên cô gái rằng "Từ nay hai nhà mưa nắng cùng che, rét-chăn cùng đắp. Phù hộ cho con cháu lấy nhau được sung sướng, ấm no". Trước bàn thờ, nhà gái chuẩn bị chiếc phản. Ông mối nhà trai đặt lễ lên đó. Rồi mở ra giao cho ông mối nhà gái. Nhận lễ xong chàng trai và phù rể đứng trước bàn thờ, quỳ lạy tổ tiên ba lạy, quỳ lạy bố mẹ vợ và anh em chú bác bên vợ mỗi người ba lạy. Sau đó lạy ma nhà (Clăng vàng), ma cửa (khố trồng), ma bếp khách (khó tin), ma bếp nấu (khó trù). Tạ ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ đã có công sinh thành nuôi dạy cho mình một người vợ xinh đẹp giỏi giang. Nhà trai ngủ lại một đêm để hôm sau ngày chẵn trở về. Sáng hôm sau, bên mâm lễ tiễn chân, cha mẹ cô gái đưa tư trang và quà mừng cho con gái gồm vòng bạc đeo cổ (Pỗu chà clăng), vòng tay (Pỗu tê), nhẫn vàng (Phay cu), nhẫn bạc (Phay nhè), váy và áo mới... Lúc này, nhà gái công bố sẽ cho người mang tặng đôi vợ chồng trẻ một con bò, một con trâu hoặc một con lợn giống.
Trước khi đoàn nhà trai đưa cô dâu ra khỏi nhà, bậc cửa chặn một cái ghế dài và hai bát rượu hai bên. Hai ông mối uống mỗi người một bát, sau đó đến chú rể, phù rể và những người khác. Cô dâu được một cô gái xinh đẹp nết na đi theo đến nhà chồng.
Đoàn đón dâu về đến cánh rừng đầu bản thì cũng ngả rượu thịt báo cáo ma bản: "Chúng tôi đã đón được cô gái nọ... về làm dâu nhà họ... bản ta. Xin ma bản chứng giám và đón cô... về làm người của bản".
Về đến nhà, ông mối mang ô và chăn treo cạnh bàn thờ báo cáo với tổ tiên rằng đã đón cô dâu về đến nhà, mọi việc đều tốt đẹp. Cô dâu được mẹ, hoặc dì của chồng đưa vào buồng. Nhà trai tổ chức lễ cưới cho đôi vợ chồng trẻ. Cô dâu và phù dâu quỳ lạy tổ tiên, bố mẹ, anh chị em nhà chồng. Lúc này, đoàn nhà gái đi thăm nơi ăn ở và nhà chồng của cô gái cũng vừa đến. Họ cùng ăn lễ cưới (hầu chớ lò tsung) mừng cho đôi vợ chồng trẻ.
Ngày nay, thách cưới đã ít hơn. Nhưng những nghi lễ cổ truyền thì vẫn còn lưu giữ. Những nghi lễ này nhắc con cháu người Mông đạo lý thờ cúng tổ tiên, ghi công ơn cha mẹ sinh thành và gia đình dòng họ, dân bản đã thương yêu nâng đỡ để mỗi thành viên trong cộng đồng trưởng thành.
(Theo Đỗ Thị Tấc)
HELLBOY
-
Đi tu - một tập tục của người Khmer ở miền Tây Nam bộ
Đi tu - một tập tục của người Khmer ở miền Tây Nam bộ
Người Khmer ở hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thường sống thành từng vùng, có nơi chiếm tới 70% dân số, tập trung nhiều ở các tỉnh giáp biên giới Campuchia như vùng Bảy Núi (Tịnh Biên, Tri Tôn), Hà Tiên (Kiên Giang), Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Dân tộc Khmer thuần theo đạo Phật tiểu thừa. ở đồng bằng sông Cửu Long có hơn 440 ngôi chùa lớn nhỏ của người Khmer, mỗi chùa có ít nhất 5 -10 ông lục, nhiều khi đến 60 - 70 ông ăn ở, học tập tu hành. Các ông lục, còn gọi là sư sãi, là con em người bổn sóc. Gia đình nào có con trai từ 12 tuổi trở lên đều cho vào chùa tu, có thể 3 tháng hoặc 3-4 năm hay trọn đời tuỳ ý, để học kinh, học chữ, rèn luyện thành người có trí thức và đức hạnh.
Ngày xưa, nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa thì bị xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ. Bởi vì người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, thường chọn những chàng trai đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn thành nghĩa vụ và học được cách làm người, nhất là biết chữ nghĩa, được mọi người trọng vọng.
Lễ đi tu thường được tổ chức vào ngày đầu tết Chôl Chnâm Thmây. Vào ngày này, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu (vài tháng trước đó, người con trai này phải vào chùa học thuộc vài bài kinh cơ bản) sẽ tổ chức một lễ gọi là Bank-Bom-Buôn để người đi tu từ giã họ hàng, bạn bè và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Khi vào lễ, anh ta cạo đầu, thay quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một khăn vải trắng đắp lên vai từ trái sang phải gọi là Pênexo, chứng tỏ rằng anh ta từ bỏ thế tục. Lúc đó người ta gọi anh là Nec (rồng).
Theo truyền thuyết từ kinh điển Phật giáo, ngày xưa có một con rồng tu luyện thành người và xin được vào tu theo đức Phật. Một hôm, khi ngủ trưa rồng hiện nguyên hình. Môn đệ khác của đức Phật phát hiện ra liền báo ngay. Đức Phật trục xuất rồng khỏi hàng môn đệ, vì không phải người thì không được tu. Rồng khóc van xin, nhưng không lay chuyển được lòng đức Phật. Cuối cùng rồng xin đức Phật ban cho một ý nguyện là sau này, những ai bước chân vào tu cũng phải gọi bằng tên tộc là Nec. Từ đó đến nay, từ "nec" dùng để gọi nhà sư tương lai và cũng để nhớ đến truyền thuyết trên.
Để vào lễ, buổi tối họ mời sư sãi đến tụng kinh, cúng tam bảo và thọ giới theo Phật. Sáng hôm sau, khi cơm nước xong, họ đưa anh con trai lên chùa, có bạn bè thân quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi vòng quanh chánh điện ba vòng rồi mới vào trong làm lễ. ở đây có một nhà sư ngồi gọi là Uppachhe giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành cho các nec nghe. Sau đó nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư sãi và đọc lời xin tu. Khi vị thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà rông và khăn trắng bằng áo cà sa. Tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của Phật giáo: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói láo; 5. Không uống rượu; 6. Không ăn ngoài bữa; 7. Không xem múa hát; 8. Không dùng đồ trang sức; 9. Không chiếm ghế cao và giường êm; 10. Không đụng đến vàng bạc.
Cuối cùng các nhà sư cùng Phật tử tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để chấm dứt buổi lễ.
Ngày nay, tục đi tu vẫn còn phổ biến trong người Khmer ở miền Tây Nam bộ. Bởi vì tu không phải để thành Phật mà để thành người, chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai, là một cơ hội tốt để cho họ được học chữ nghĩa, đạo lý và rèn luyện đức hạnh.
Đi tu đồng thời theo nếp nghĩ truyền thống cũng là một cách tích phước cho cha mẹ, gia đình và chính bản thân. Tuy nhiên, ngày nay người con trai Khmer vì theo học ở một trường nào đó hoặc có những gia đình quá khó khăn, thiếu lao động thì không phải đi tu và luật tu hành cũng không quá khắt khe như xưa nữa.
(Theo Thạch Sen)
HELLBOY
-
Đón dâu bằng thơ - nét đẹp trong văn hóa Tày
Đón dâu bằng thơ - nét đẹp trong văn hóa Tày
Cũng như các dân tộc khác trong cộng động các dân tộc Việt Nam, dân tộc Tày rất coi trọng việc hôn lễ vì nó thể hiện ý thức trách nhiệm với tổ tiên giống nòi, là hình thức củng cố và phát triển xã hội. Có thể nói từ trước tới nay đám cưới người Tày không chỉ là công việc của mỗi nhà mà còn là công việc của cả làng bản. Vì thế, mỗi khi có đám cưới, cả bản lại rộn lên như có hội. Điều độc đáo trong đám cưới người Tày là đón dâu bằng thơ - hát.
Dân ca đám cưới còn được gọi là tiếng hát đón dâu. Ở các tộc khác như Mường, Thái, Dao, Cơ Tu... cũng có dân ca đám cưới, song mỗi tộc lại có hình thức diễn xướng khác nhau. Dân ca đám cưới mang tính loại hình, tính đặc thù, được hình thành do chức năng thực hành sinh hoạt, thực hành nghi lễ trong đời sống nhân dân.
Người Tày gọi dân ca đám cưới bằng nhiều tên khác nhau, có nơi gọi "lượn lẩu" (lượn rượu), có nơi gọi "lượn pú ta" (lượn Quan lang). Cách gọi phổ biến và quen thuộc là "lượn Quan lang". Cách gọi tuy có khác nhau nhưng tựu trung đó là những bài hát dành riêng cho đám cưới, chỉ cất lên trong đám cưới, khác những bài ca xuất hiện ở chợ phiên, trên những con đường vào bản, nơi nương rẫy hoặc trong lễ hội. Những bài hát đám cưới Tày mang chức năng trao đổi tình cảm, lại diễn xướng theo nghi lễ truyền thống nên nó cũng không nằm ngoài nhu cầu về tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ của người Tày. Quan niệm của người Tày xưa về "lời nói đẹp" ấy là thơ ca được dùng trong lúc trang trọng hoặc khi thổ lộ tâm tình. Trong lễ cưới không chỉ trang trọng mà còn vui vẻ, cũng là dịp thử tài ứng xử thơ ca của hai họ nhà trai và nhà gái. Những cuộc so tài thử trí này vừa mang tính sinh hoạt, vừa là hình thức nghi lễ được diễn ra theo trình tự thời gian từ khi đoàn nhà trai đặt chân tới nhà gái đến lúc kết thúc xin phép đón dâu về.
Lễ đón dâu của người Tày xưa bắt đầu từ chiều hôm trước, ở qua đêm đến ngày hôm sau. Chúng tôi tạm chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn một là giai đoạn thử thách (kể từ khi họ nhà trai đến cổng nhà gái phải vượt qua các "trạm gác" để vào được nhà). Giai đoạn hai là những thủ tục đón dâu. Ứng với mỗi sự thử thách và các nghi thức là những bài ca. Các bài ca có thể sắp xếp theo trình tự sau:
Giai đoạn thử thách gồm:
- Những bài ca mở cổng.
- Những bài ca chăng dây.
- Những bài ca rửa chân.
- Những bài ca lên cầu thang.
- Những bài ca mở cửa chính.
- Những bài ca cất chổi.
- Những bài ca rải chiếu.
- Giai đoạn thủ tục gồm:
- Những bài ca mời nước.
- Những bài ca mời rượu.
- Những bài ca mời cơm.
- Những bài ca bái tổ.
- Những bài ca nạp gánh.
- Những bài ca đáp ơn cha mẹ.
- Những bài ca nhận rể.
- Những bài ca xin đón dâu.
- Những bài ca lễ bố mẹ chồng.
- Những bài ca mừng rương, hòm, màn.
- Những bài ca mừng thông gia bằng hữu.
- Những bài ca mừng phù dâu.
- Những bài ca chia tay, nhắn gửi.
Nội dung, dung lượng của bài ca tùy thuộc vào các đề tài, tình huống cụ thể và tài ứng đối của người đại diện nhà trai và nhà gái. Khi tiếng hát cất lên cũng là lúc mọi thành viên bị cuốn hút vào cuộc, tạo nên không khí văn nghệ thân ái, đoàn kết trong cộng động làng bản. Sau đây là một số tình huống của tiến trình diễn xướng qua hai giai đoạn nêu trên.
Thử thách đầu tiên của nhà trai là khi đến cổng bị nhà gái đóng không cho vào, lại còn vờ hỏi.
Xin trình đến khách lạ khác thường
Đi đâu mà lạc đường qua đây
Gái trai đều thanh tân thay thảy
Người người mặt xinh đẹp trắng ngần
Tôi chặn đường giữ phép nhà quan
Người ngay được vào làng vào bản
Người gian là phải lìa chốn đây
Khách này là người ngay người giở
Tôi xin hỏi cho rõ ngọn ngành.
Muốn nhà gái mở cổng cho vào, Quan lang phải cất lên tiếng hát:
Ngày này ngày đại lễ đón dâu
Chúng tôi đưa rể về lễ tổ
Lễ vật có nhiều gánh nhiều gồng
Con rể gọi đắp ơn cha mẹ
Được ơn các nàng mở cửa chọ
Cổng mở nhưng lối vào bị chắn bởi một dải lụa ngũ sắc. Quan lang lại hát:
Xin trình đến các nàng nhà sang
Đi đến đây đường trường mệt mỏi
Thấy có dải lụa đào chắn ngang
Thấy có dải lụa loan ngũ sắc
Cấm vào nhà những khách không quen.
Tiếng hát vừa dứt, dải lụa được cất đi mở đường cho nhà trai đến cầu thang nhà sàn. Theo lệ thường chân cầu thang có máng nước rửa chân nhưng hôm nay không có. Mấy cô gái bưng những khay rượu đến mời khách rửa chân. Bài hát Lẩu dào kha (rượu rửa chân) được ra đời, nói lên điều hay lẽ phải, giá trị quý báu của những giọt rượu, không thể lấy rượu thay nước rửa chân, làm như vậy là trái với lẽ thường, coi thường công lao động và vật phẩm quý là lúa gạo:
...
Lại có rượu rửa chân chúng tôi
Nghĩ mà thất lễ với trời đất.
Lên được cầu thang thì lại vướng phải những đoạn củi cháy dở, những chiếc chổi, con dao, con mèo bị nhốt... đặt ngang đường. Nếu bước qua sẽ bị nhà gái chê cười là bất lịch sự. Quan lang lại trổ tài thơ thuyết phục để nhà gái dọn lối vào. Thế nhưng cánh cửa nhà chính vẫn đóng. Bài ca "Xo khay tu" (xin mở cửa) được Quan lang cất lên trình bày nhiệm vụ quan trọng của nhà trai đến nhà gái đón dâu, đề nghị nhà gái cho vào nhà. Vượt qua ngần nấy "thử thách" của nhà gái, nhà trai những tưởng xong chuyện, được ngồi xuống giường nghỉ ngơi đàm đạo. Nào ngờ giường không có chiếu trong khi đó mấy cô chủ lịch sự mời chào. Quan lang lại hát bài "Piái phục" (trải chiếu) nhà gái mới chịu mang chiếu đến trải vào giường nhưng cố tình trải ngược chiếu. Cả đoàn đón dâu vẫn kiên trì đứng chờ. Quan lang hát bài "Piển phục" (trải lại chiếu) ý nói mọi vật tồn tại trong tự nhiên và trong cuộc sống đều tuân theo quy luật phát triển tự nhiên của nó, lẽ nào nhà gái làm trái quy luật ấy.
Chiếu được trải lại, nhà trai mới ngồi yên vị trên chiếc giường dành cho khách quý. Đến đây giai đoạn thử thách coi như kết thúc. Bước sang giai đoạn hai, nhà trai tiến hành các thủ tục lễ nghi truyền thống, gắn với nó là những khúc ca. Thay mặt nhà trai, Quan lang thưa với nhà gái qua bài "Dạ cốc họ" (thưa họ hàng). Nội dung ca ngợi công sinh thành dưỡng dục của bố mẹ cô dâu và họ hàng. Nhà trai rất biết ơn công lao đó. Tính từ giờ phút này hai bên chính thức gặp gỡ kết tình thông gia, nạp đồ cưới, cho chú rể bái tổ, xin đón dâu về.
Nhà gái mang khay nước chè đến mời. Trước khi uống Quan lang hát bài "Kin nậm chè" (uống nước chè) cảm ơn sự đón tiếp chu đáo của họ nhà gái. Sau đó Quan lang xin phép cho chú rể thắp hương lễ tổ, ra mắt nhận ông bà cha mẹ, họ hàng:
Mười giờ kén được giờ này tốt
Trăm giờ kén được giờ này lành
Giờ này được trên trời phù hộ
Giờ này có nhiều phúc đến nhà
Giờ đẹp con rể ra bái tổ.
Cơm rượu đã được bày sẵn, cả hai họ vui vẻ ngồi dự. Những bài "Thơ lẩu" (thơ rượu) được cất lên. Lúc này không chỉ có Quan lang hát mà mọi người đến tham dự đám cưới cùng tham gia hát đối đáp. Có lẽ lý do người Tày gọi dân ca đám cưới là "Thơ lẩu" cũng xuất phát từ đây.
Không khí hoan hỉ của đám cưới kéo dài gần như thâu đêm suốt sáng. Ngày hôm sau ông Quan lang lại tiếp tục thực hiện nghi thức còn lại. Bài ca "Xo lùa mừa" (xin đón dâu) kết thúc các thủ tục trước khi chú rể chào mọi người đưa cô dâu về nhà:
Đón dâu về họ hàng xem mặt
Đón dâu về kế thế phụng thờ.
Qua diễn trình diễn xướng dân ca đám cưới Tày, ta thấy mọi sự dẫn dắt giao tiếp giữa hai họ đều được thực hiện bằng thơ ca, do Quan lang là người cầm trịch. Đây là điểm độc đáo trong đám cưới của dân tộc Tày, thể hiện hình thức tổ chức đã có nền nếp quy củ, tuân theo các trật tự mang tính truyền thống. Những lời đối đáp ở giai đoạn một làm tăng thêm không khí vui nhộn của lễ cưới, thu hút mọi người tham gia vào cuộc, đồng thời kích thích khả năng ứng tác của các nghệ nhân dân gian, góp phần làm phong phú thêm vốn dân ca đám cưới của dân tộc.
Hình thức tạo nhiều tình huống hoặc phạt Quan lang bằng những chén rượu mỗi khi lúng túng, bí, không đáp được cũng nhằm mục đích phát huy khả năng sáng tác thơ ca của nghệ nhân. Cùng một đề tài: "Xin mở cửa", chúng tôi sưu tầm có tới hơn mười bài ca, lời lẽ khác nhau. Đặc điểm chung các bài này đều hướng tới "thấu tình đạt lý".
Từ sự dí dỏm, tinh nghịch, gây cười của những bài ca ở giai đoạn đầu đã chuyển sang tính nghiêm túc, trang trọng của những bài ca mang tính nghi lễ ở giai đoạn sau, tạo nên sự hài hòa trong lễ cưới. Bài ca có tính thuyết lý thể hiện bằng giọng hát Quan lang được đặt trong không khí trang trọng của hôn lễ đã tăng tính thuyết phục thêm bội phần. Lệ "Srằm khấu" (ướt khô) là tiếng hát nên thơ, cảm động về sự báo đáp công ơn cha mẹ vất vả nuôi con khôn lớn, đã thấm sâu vào trong ký ức, trong lòng người nghe.
Mặc dù diễn xướng những bài ca đám cưới có kéo dài nhưng nó được sắp xếp theo trình tự lô gích, đặt trong không gian rộng có cảnh huống gắn chặt với bài nghi thức hôn lễ nên có sức thuyết phục, tập trung vào vai trò của người diễn xướng là Quan lang.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng nhận xét xác đáng: Muốn hiểu thơ Quan lang trước hết phải hiểu phong tục Quan lang. Những bài ca đám cưới Tày và môi trường diễn xướng độc đáo của nó thực sự là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đẹp đẽ của đồng bào Tày.
(Theo Lộc Bích Kiệm)
HELLBOY
-
Gia tộc
Gia tộc
Mọi người khi sinh ra đều mang một tên gọi. Trong thành phần tên gọi của mỗi người gồm có hai bộ phận chính: một bộ phận biểu hiện cho dòng họ gắn cho mỗi người, nếu theo chế độ phụ hệ thì con mang họ của cha, nếu theo chế độ mẫu hệ thì con mang họ của mẹ (họ: Nguyễn, Lê, Trần, Phạm?) và một bộ phận biểu hiện cho cá nhân mỗi người (tên riêng: Trung, Dũng, Cúc, Mai?). Giữa tên họ và tên riêng có một bộ phận gọi là tên đệm. Tên đệm của đa số nữ giới có từ Thị; số khác chữ đệm thể hiện bằng một hay vài từ.
Cho tới nay, duy trì huyết thống, dòng tộc vẫn là một vấn đề thiêng liêng của mỗi người ở mọi thế hệ. Dòng tộc là cộng đồng những người có cùng chung một cụ tổ, cùng mang một họ trong tên của mình. Đứng đầu một dòng họ có một người trưởng họ - chức cao nhất trong họ. Trưởng họ (tộc trưởng) là người con trai trưởng của chi thứ nhất (còn gọi là chi trưởng). Chức trưởng họ được cha truyền con nối. Trong trường hợp không có con trai (sinh toàn con gái hoặc không sinh con) thì chức trưởng họ chỉ truyền lại trong nội bộ chi trưởng, không truyền cho các chi bên dưới.
Trưởng họ có trách nhiệm trông nom nhà thờ họ (nếu có), tổ chức cúng lễ vào ngày giỗ kỵ của dòng họ; chủ trì hoặc tổ chức các lễ nghi khi thành viên trong họ có việc lớn: tang, cưới xin, làm nhà mới; tảo mộ, xây mồ mả, sinh hoạt họ thường kỳ? Thông thường người trưởng họ là người không những có uy quyền trong họ mà còn là người hiểu biết tập tục, có đức, sống gương mẫu để thu phục các thành viên trong họ. Về quyền lợi, trưởng họ là người được kế thừa hương hỏa của dòng tộc, từ đời này sang đời khác.
Ngày xưa, người ta căn cứ số con trai trong họ nhiều hay ít để phân định sự phát triển của họ. Họ nào có số con trai nhiều (đa đinh) gọi là họ to, nếu con trai ít thì họ bé. Khi trong làng có việc khao vọng, đình đám hoặc phân công gánh vác nghĩa vụ sưu, thuế? chức dịch trong làng đều căn cứ vào số đầu đinh (đàn ông - con trai) của mỗi gia đình. Như vậy quyền lợi và nghĩa vụ đều lấy số đinh làm căn cứ. Chính vì vậy gia đình nào cũng cố sinh được nhiều con trai, coi đó là được phúc lớn. Ngược lại nếu không sinh được con trai thì vợ chồng cảm thấy như có lỗi với tổ tiên. Gia đình và xã hội đều có tư tưởng trọng nam giới và coi ?nữ nhi ngoại tộc?.
Ngày nay, quan niệm trọng nam khinh nữ dần dần được loại bỏ, không nặng nề như xưa. Số con sinh bình quân cho một cặp vợ chồng ngày càng giảm (đa số là hai con) do vậy sinh con trai hay con gái đều mang lại niềm vui cho các cặp vợ chồng.
Tuy nhiên, trong dòng tộc, chức trưởng họ (ở hầu hết người Việt) như nói ở trên không hề thay đổi, vẫn cha truyền con nối. Mặc khác, thành phần chính đến sinh hoạt họ ở nhiều nơi chỉ có các thế hệ nam giới (có nơi đã và đang thực hiện mời cả nữ giới, con gái và con dâu của họ đến sinh hoạt là một nét rất mới). Hai biểu hiện đó cho thấy tổ chức một dòng họ mang nặng quan niệm phong kiến (như truyền ngôi của vua chúa) bền chặt tồn tại từ bao đời nay. Tuy nhiên không khí ?dân chủ? trong các dòng họ đã thay đổi theo hướng tiến bộ, khác xa với trước. Những cuộc họp họ là những dịp mọi người trong dòng tộc giải quyết những công việc của dòng tộc và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dòng họ mình.
HELLBOY
-
Giỗ làng và giỗ họ
Giỗ làng và giỗ họ
Làng quê và thân tộc gắn chặt với đời sống và tình cảm của người Việt Nam, để đi xa thì nhớ, để ở xa vẫn hướng vọng về. Trong những dấu mốc để kỷ niệm và tưởng nhớ, giỗ làng và giỗ họ đóng vai trò rất quan trọng, như thể đó là chuyến đi trở lại cội nguồn, trở về với cái gốc của từng con người để rồi khi lại đi xa các mối liên hệ tình cảm được bền chặt hơn và sâu sắc hơn.
Giỗ làng
Theo những sách viết về lễ tục ở Việt Nam, giỗ làng là một lễ tục đặc biệt, một sự kiện quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân Việt Nam ở các làng quê. Mỗi nơi, mỗi vùng, giỗ làng có nguồn gốc và thời điểm xuất xứ khác nhau, nhưng ý nghĩa và cách thức tổ chức gần giống nhau và vẫn đảm bảo duy trì được nét đặc trưng riêng của mỗi vùng.
Ngày giỗ làng được coi là ngày thần kỵ, ngày giỗ các vị thần được thờ ở làng hoặc tương truyền đã có công gây dựng nên làng. Trong ngày này, dân làng thường mở hội để vui chơi, và hội đặc biệt tưng bừng nếu vào mùa xuân hay mùa thu. Giỗ chạp thường chỉ một ngày, nhưng hội giỗ làng lại kéo dài có khi với vài ba ngày. Tuỳ theo truyền thống và tập tục của từng vùng mà trong những ngày đó có tế lễ rước xách và có những trò vui, nhưng thường có mấy nghi lễ chính sau đây:
Lễ mở cửa đình: Đình làng hàng ngày vẫn đóng cửa giữa, chỉ mở cửa hai bên để cho dân làng và du khách. Vào dịp giỗ làng, đình được quét dọn sạch sẽ, lau chùi cẩn thận để rồi mở cửa giữa trong ngày lễ hội. Lễ này bắt đầu ngày hội làng.
Lễ mộc đục: Đó là lễ tắm rửa tượng các thần linh. Những pho tượng này được để thờ trong hậu cung. Nhân tới ngày thần kỵ, dân làng cử người chay tịnh mở khám để làm lễ mộc đục. Có nơi cử hành lễ này rất long trọng.
Tế lễ: Khi tế lễ có đọc văn tế, nêu lại công trạng của thần linh, liệt kê đầy đủ những chức tước được ban phong. Sau khi đọc xong, dân làng đốt bản văn tế ngay trong buổi lễ rồi lần lượt thứ tự theo tuổi tác vào lễ trước bàn thờ.
Rước xách: Rước xách thường được tổ chức trong các ngày thần kỵ từ miếu là nơi thường ngày thần linh tại vị tới đình, từ đình tới chùa, từ chùa về đình rồi lại từ đình về miếu. Lúc rước, kiệu thần được khiêng đi trước với cờ quạt, tán lọng, đồ tự khí bát bửu đàn bày, có phường bát âm cử nhạc, trống lớn điểm, chuông vang.
Diễn lại thần tích: Diễn lại thần tích trong ngày này cũng là một hoạt động đặc sắc và đa dạng nhằm cùng nhau tưởng niệm tới thần linh để tỏ lòng kính trọng.
Giỗ họ
Thường mỗi dòng họ có ông Tổ. Ngày giỗ họ là ngày giỗ ông Tổ của dòng họ ấy. Thường dòng họ có nơi thờ Tổ hoặc thờ Họ, lễ tục giỗ họ cũng thường được tổ chức ở đây.
Trong những dòng họ ấy thường có người được bầu làm Trưởng họ hay Trưởng tộc. Không ít khi dòng họ tranh chấp nhau, chia bè kết phái cũng chỉ vì cái chức Trưởng tộc này. Người Trưởng tộc phải lo việc làm giỗ, nhưng các "chi" trong họ phải đóng góp. Người Trưởng tộc được hưởng của hương hoả của tổ tiên để lại. Theo tập quán, của hương hỏa nào không được bán mà để dùng gây hoa lợi sử dụng trong việc tế tự và cúng giỗ, sắm sửa tự khí hay trang hoàng cho nhà thờ họ.
Họ hàng con cháu thường phải có mặt đầy đủ trong ngày giỗ họ. Mức độ tổ chức to nhỏ khác nhau tuỳ thuộc vào dòng họ và sự thoả thuận trong dòng họ. Có dòng họ mời cả phường Bát âm tới tế lễ; có họ quy định đàn ông trên 18 tuổi phải đóng góp chi tiêu cho giỗ Họ, đàn bà con trẻ được miễn. Có nơi con gái không được dự giỗ Họ vì bị cho rằng khi đi lấy chồng sẽ thuộc dòng họ khác, con dâu có quyền dự giỗ Họ. Khách khứa thường không được mời; chỉ có con cháu trong nhà cúng và ăn giỗ với nhau. Có dòng họ tổ chức giỗ Họ to và vui như ngày hội. Sau đó, các chi trưởng thường ngồi lại họp với nhau bàn công việc chung của dòng họ.
Ngày giỗ Họ là ngày duy nhất trong năm mà con cháu thành viên của dòng họ tụ tập đông đủ hay đông đảo nhất. Ngày đó, những bậc cao niên trong họ thường kể lại cho thế hệ sau nghe về công trạng, sự nghiệp và cuộc đời của ông Tổ để con cháu hiểu biết, ghi nhớ và tự hào về dòng họ của mình. Nhiều dòng họ cũng nhân dịp này để chỉnh trang và bổ sung lại gia phả của dòng họ mình.
HELLBOY (st).
-
Hát cửa đình
Hát cửa đình
Cùng với những lễ hội truyền thống lưu truyền từ xa xưa trong dân gian, như hội Lim, hội Ó, hội Viềng, hội Đăm, hội Gióng, hội Lệ Mật,... sinh hoạt văn hóa làng xã còn ẩn chứa những sắc thái độc đáo mà dân gian còn ghi lại, trong đó có tục lệ hát ca trù.
Không phải ở địa phương nào cũng có phường hát ca trù, mà ca trù cũng như nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian khác như hát giặm, hát quan họ, hát xoan, hát dô... chỉ xuất hiện ở từng vùng nhất định, như ca trù ở Lỗ Khê, nay thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
Trong tục lệ hội làng hằng năm, ca trù giữ một vai trò khá quan trọng.
Cho đến cuối thế kỷ thứ 19, ca trù vẫn còn nguyên vẹn cả ba loại hình trình diễn. Đó là: Trình diễn hát cung đình, hát cửa đình, và ca quán.
Trong ba loại hình trình diễn này, hát cửa đình, một loại hình trình diễn mang tính lễ nghi - phong tục, gắn liền với đời sống văn hóa làng xã hơn cả.
Hát cửa đình ở nông thôn Việt Nam xưa thường được tổ chức trong dịp lễ hội đầu xuân ở ngay tại đình làng. Đào kép ở phường hát đều là những người gắn bó với ruộng đồng, sống chủ yếu bằng nghề cày cấy. Chỉ đến khi mùa xuân tới, vụ gặt mùa đã xong, còn vụ chiêm thì chưa tới. Đây là thời kỳ rảnh rỗi, họ tập hợp nhau lại thành phường để đi hát. ở những thôn làng có hội xuân, họ thường phải khoán trước với các phường hát, hễ cứ đúng dịp lễ thì họ đem đàn, đem phách tới hát.
Phường hát được hình thành trong dân gian, mang tính chất cộng đồng rõ rệt. Song phường hát lại có một lề lối sinh hoạt khá chặt chẽ, buộc những người trong phường hát phải tuân theo, dưới sự chỉ đạo của một người cao tuổi, có uy tín, am hiểu nghề hơn cả. Đó là người quản giáo. Người quản giáo có nhiệm vụ đôn đốc các thành viên trong phường hát, khi rỗi rãi thì luyện tay đàn, tay phách sao cho "ngọt". Học đàn, học hát rồi lại còn phải học cả múa nữa. Người nghệ nhân ca trù xưa bước vào nghề với một sự tự giác cao như thế, nó đã cắt nghĩa vì sao đã có những nghệ sĩ nổi danh một thời như bà Quách Thị Hồ, một giọng ca lấp lánh với một tay phách rất luyện, mà cùng thời với bà, ít có ai sánh kịp.
Hát cửa đình là một lối hát và trình diễn của ca trù khá quy mô. Thông thường thì phường hát phải phục dịch từ khi cuộc tế thần Thành Hoàng làng bắt đầu. Trong cuộc tế, ả đào vừa phải hát, lại vừa phải múa theo các tiết mục hành lễ do người chủ tế quy định. ở phần này, phường hát thường phải trình bày một tổ hợp những bài hát, múa bao gồm chín khúc, thường được gọi là "cửu khúc". "Cửu khúc" được bắt đầu bằng khúc hát "nguyên hòa", tức là khúc hát dâng rượu cúng thần... Cho đến khúc "ung hòa" là khúc hát thứ chín, tức là lúc cuộc tế lễ đã xong. Lúc này là phần "hát chúc" và đốt văn tế. Những ả đào lại phải chạy quanh người cầm văn tế đang cháy và múa theo kiểu múa trang trí cho đến khi văn tế đã cháy hết thì phần trình diễn "cửu khúc" mới xem như chấm dứt.
Vào khoảng chín, mười giờ đêm, khúc hát "cửa đình" mới chính thức được bắt đầu, trong cảnh đèn nến sáng trưng, khói hương nghi ngút. Chầu hát thường được bắt đầu bằng khúc giáo trống, dâng hương, rồi chuyển sang phần chính của chầu hát, trong đó chủ yếu là "hát giai", đọc phú, ngâm thơ và có trình diễn một số tiết mục múa như múa bỏ bộ, múa "bài bông"....
Hát "cửa đình" mang tính chất của một khúc hát thờ. Bởi vậy, nó vẫn phải giữ được tính chất trang nghiêm, bên cạnh những nét hay, nét đẹp của ca trù để người xem thưởng thức. Những bài hát được trình diễn ở đây, đặc biệt là phần hát sử, kể lại chiến công của các vị thần trong chiến trận đã quên thân vì nước, cho nên được dân làng ngưỡng mộ, tôn thờ như một vị thánh. Đó là thần Thành Hoàng làng, được thờ cúng ở đình làng.
Hát "cửa đình" thực chất là một loại hình sinh hoạt văn hóa bổ ích trong dân gian. Nó vừa giáo dục truyền thống yêu nước, lại vừa có tính vui chơi, giải trí lành mạnh. Với những lời ca thấm đẫm tình yêu làng xóm, yêu quê hương, đất nước.
(Theo Nguyễn Thế Vinh)
HELLBOY
-
Hát Ghẹo - một nét đẹp trong văn hóa dân gian vùng đất Tổ
Hát Ghẹo - một nét đẹp trong văn hóa dân gian vùng đất Tổ
Hát ghẹo là một hình thức hát giao duyên, đối đáp nam nữ phổ biến khắp nơi, từ miền xuôi đến miền ngược mỗi khi xuân đến, khi mùa màng bội thu, khi nông nhàn hay những đêm trăng sáng. Mỗi vùng có một cách hát ghẹo khác nhau: khác về cách hát, tổ chức hát, giọng hát cũng như lề lối, phong tục hát. Sự khác nhau đó cũng tuỳ theo sự giao lưu văn hoá và những yếu tố xã hội của từng địa phương. Trong sự giao lưu đa sắc đó, hát ghẹo ở Phú Thọ mang trong mình một nét riêng duyên dáng, dường như đất tổ nơi đây mới là chốn neo đậu và thăng hoa của loại hình nghệ thuật dân gian này.
Hát ghẹo ở huyện Tam Nông (nay là Tam Thanh) và Thanh Sơn cũng như hát xoan đã trở thành sản phẩm riêng của Phú Thọ. Nó mang phong cách đậm đà màu sắc địa phương, phát triển liền mạch theo thời gian. Cứ vậy, hát ghẹo Phú Thọ không bị lẫn với hát ghẹo ở bất cứ nơi nào. Nguồn gốc hát ghẹo được gắn với câu chuyện dựng lại ngôi đình làng Nam Cường thờ Xuân Nương công chúa.
Chuyện kể rằng ngôi đình làng thờ nữ tướng Xuân Nương bị cháy, trai tráng Nam Cường cùng nhau lên rừng đại ngàn kiếm gỗ về dựng lại đình. Đến địa phận xã Thục Luyện, mệt quá, trai tráng ngồi nghỉ chân, trai gái Mường biết vậy liền đưa thịt rừng rượu thơm ra đãi. Lại cùng nhau lên rừng ngả gỗ đóng bè cho trôi theo dòng sông xuôi về. Qua địa phận xã Thục Luyện bè bị mắc cạn, đẩy mãi không qua, những cô gái Mường ở thôn Hùng Nhĩ đi hái măng về bèn khuyên vừa đẩy bè vừa hát thì thần thác mới hài lòng để cho bè xuôi. Quả thật, khi trai gái hai bên cùng nhau đẩy và hát đối đáp với nhau thì bè nhích dần rồi chảy về xuôi. Thác thần từ đó được gọi là thác ?đôi ta?, khúc hát đẩy bè trên được gọi là ?hát ghẹo? hay ?ghẹo nước nghĩa? (nghĩa là hát giữa các thôn làng kết nghĩa với nhau), ?hát anh chị?. Sở dĩ có tên ?hát anh chị? vì hai bên hát đối đáp với nhau sẽ gọi nhau là anh, là chị. Hát ghẹo ở Nam Cường trở nên nổi tiếng và được gọi là hát ghẹo Nam Cường để phân biệt với hát ghẹo của các vùng khác.
Các thôn làng hát ghẹo để giao lưu tình cảm cũng như nghệ thuật hay còn ý nghĩa thiêng liêng là tế thần chứ không để mong cầu về vật chất của nhau. Các làng kết nghĩa này trai gái gọi nhau là liền anh, liền cô hay quan anh, quan cô. Trai gái những làng kết nghĩa thì không được lấy nhau.
Ở Nam Cường người ta tổ chức hát ghẹo vào ngày khánh thành đình làng - ngày mồng 9, mồng 10 và 11 tháng 9 âm lịch. Hai ngày đầu thì tiến hành việc tế lễ, ngày hôm sau thì tổ chức hát ghẹo thành những nhóm ở từng nhà dân. Vì thế mà hát ghẹo không phải là một loại hát tế lễ hay dân ca tín ngưỡng hay ?hát cửa đình?, cũng không phải loại hình hát tự do như hát trống quân, hát ví, hát đúm mà hoàn toàn chỉ là một kiểu sinh hoạt văn hoá cộng đồng mang đậm tính dân gian, tự do. Các thôn kết nghĩa và hát với nhau, năm nay thôn này làm chủ thì sang năm lại làm khách. Đội khách bao giờ cũng chọn nam và đội chủ thì ngược lại chọn nữ. Nam Cường tổ chức hát ghẹo vào tháng 9 âm lịch là chủ, đến lượt Thục Luyện, Hùng Nhĩ hát ghẹo tổ chức vào tháng 3 âm lịch thì Nam Cường lại là khách.
Để tổ chức ngày lễ hát ghẹo nước nghĩa thì trước ngày tế lễ hàng năm khoảng một tháng, những vị chức sắc trong làng thường họp nhau lại bàn bạc về việc tổ chức cúng tế cho phù hợp với khả năng kinh tế của làng. Tuỳ theo năm được mùa hay mất mùa mà tổ chức tế lễ mời khách nhiều hay ít và tất nhiên phí tổn đều do dân làng đóng góp. Dân làng cũng cử ra số người tương đương đội khách mà tập luyện hát mừng đón tiếp anh em nước nghĩa. Những chị em được chọn hát ghẹo của làng (đội chủ) là những người không bận việc gia đình, không có chuyện tang bụi và chắc chắn phải có giọng hát khoẻ, ngọt ngào, phải nhớ được nhiều câu. Nước nghĩa được mời thì chuẩn bị những nam thanh trạc tuổi tương đương có tài năng ca hát để đáp lễ. Tất cả chuẩn bị công phu để chờ ngày tế lễ. Và cũng đã thành truyền thống, trong ngày hội hát ghẹo, người ta quy định cụ thể về cách ứng xử, ăn mặc, giọng hát, thể lệ và nơi chốn sẽ được tiến hành.
Với cách xưng hô trang trọng, những ông già, bà già trong dịp tế lễ được gọi là, ?quan trùm?, ?bà trùm?, các anh, các chị được gọi là ?quan anh?, ''quan chị''. Hai bên nước nghĩa đều dùng cách xưng hô trang trọng này không phân biệt chủ khách. Những bộ áo the, quần trắng, khăn xếp đội đầu đẹp nhất dành cho ngày hội là trang phục của các quan anh và áo năm thân, áo cánh trắng, quần lụa sồi, yếm điều, thắt lưng bao các mầu, xà tích đeo, khăn mỏ quạ chít đầu là trang phục của các quan chị.
Chỗ hát thường được bắt đầu từ nhà của một ai đó trong làng. Nhà được chọn để hát phải khá sạch sẽ, mát mẻ, rộng thoáng và đặc biệt gia đình không có chuyện gì buồn. Các quan trùm, quan anh là khách thường ngồi trên sập, trên giường giữa nhà, còn các bà trùm, các quan chị thường giải chiếu ngồi trên dãy giường của gian bên.
Cách hát là hình thức hát đối đáp nam nữ, nên các anh cũng như các chị mỗi lần thường hát hai người, khi hát họ nhìn thẳng vào nhau vừa để biểu lộ tình cảm vừa để khi hát ra vào cho ăn khớp với nhau.
Đối với giọng hát trong ngày hội được quy định bốn loại giọng gắn liền với từng giai đoạn của ngày hội. Mở đầu là giọng ví đãi trầu diễn ra cùng lúc với việc các chị mời quan khách dùng trầu. Trầu thường được để vào khăn tay, hoặc đặt trên khay, trên đĩa và các chị hát mời các anh bằng giọng lễ phép ngọt ngào: Em thưa với các anh em, miếng trầu để đĩa bưng ra, xin anh nhận lấy để mà thở than, thưa anh. Sau khi kết thúc ví đãi trầu thì giọng hát chuyển sang giọng sổng, đây là lúc mà câu chuyện đã vào đề hai bên hát đối đáp chuyện trò thân mật với nhau. Giọng thứ ba gọi là sang giọng, được hát để các liền anh, liền chị thể hiện tài nghệ đối đáp của mình. Đây được coi là cao điểm của ngày hội, theo các cụ ngày xưa thì sang giọng gồm có 36 chất giọng khác nhau. Hát hết 36 giọng này cũng là lúc trời vừa sáng, dân làng dọn cơn để khách ăn và chuẩn bị ra về. Tiễn khách ra về hai bên cùng hát giọng ví tiễn chân, các câu ví lúc này được thốt lên từ đáy lòng của mỗi người sau một cuộc chuyện trò chứa chan tình cảm. Vậy nên, lời ca ứng tác đầy cảm xúc, đầy sáng tạo nghệ thuật, vừa bay bổng vừa thắm đượm tình người, đến nay vẫn còn nguyên vẹn từng câu từng chữ:
Anh về có chốn thở than
Em về ngồi tựa phòng loan một mìmh
Anh về tự bóng sao mai
Đêm khuya em biết lấy ai bạn cùng
(Theo Hoàng Trung Định)
HELLBOY
-
Hôn lễ xưa và nay
Hôn lễ xưa và nay
Xưa việc dựng vợ gả chồng là việc của ông bà, cha mẹ. Làm con nhất là con gái thì chỉ biết vâng lời, hẳn bạn đã từng nghe câu "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Sự định đoạt duyên phận cho con cháu được ông bà, cha mẹ tiến hành từ rất sớm. Phương ngôn có câu: "nữ thập tam, nam thập lục".
Tục lệ cưới xin của Việt Nam xưa nhiều phần bắt chước theo phong tục Trung Quốc và rất cẩn trọng trong vấn đề giá thú. Nói đến những tục lệ về hôn lễ, trước hết xin định nghĩa hai chữ Giá Thú. Giá là gả chồng, thú là cưới vợ. Giá thú nói chung là sự dựng vợ gả chồng.
Theo ông Thân Trọng Huề trong Học luật lệ An Nam, giá thú là một cái lễ mà người đàn bà rời bỏ nhà mình để về nhà chồng. Khi đôi trai gái kết duyên trăm năm bảo hợp, gọi là hôn nhân. Theo sách "Thuyết văn", thì hôn là nhà của người vợ. Sách "Lễ Ký" nói: cưới vợ thường đi đón dâu về buổi chiều, cho nên gọi là hôn, vì hôn có nghĩa là buổi chiều. Nhân là nhà của người chồng (chú rể), người vợ vì việc cưới mà về ở nhà chồng nên gọi là nhân.
Xưa trong việc giá thú có sáu lễ: lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp tế, thỉnh kỳ và thân nghinh.
1- Lễ nạp thái: là một lễ đến nhà gái để ngỏ ý về việc đã chọn một người con gái gia đình ấy.
2- Vấn danh: theo đúng nghĩa chữ vấn danh, lễ này cốt để nhà trai hỏi rõ tên, tuổi người con gái và mẹ đẻ người ấy, để biết rõ hơn về thân thế cũng như sự giáo dục của người này.
3- Nạp cát: lễ này có nghĩa là nhà trai đã bói được quẻ tốt về hôn nhân giữa đôi trai gái.
4- Thỉnh kỳ: lễ này có mục đích xin nhà gái ấn định ngày làm lễ cưới dựa theo ngày tháng tốt xấu.
5- Nạp tế: đưa sính lễ tới nhà gái.
6- Thân nghinh: là lễ đón dâu về nhà trai.
Đó là sáu lễ của người xưa, theo "Chu Công Lục Lễ", nhưng trên thực tế người Việt Nam ta thường thu gọn vào làm ba lễ:
- Lễ chạm ngõ hay dạm.
- Lễ ăn hỏi (vấn danh).
- Lễ cưới.
1- Lễ chạm ngõ (nạp thái)
Sau khi đôi bên trai gái đã được thỏa thuận việc cưới gả, người mối sẽ hẹn ngày với bên nhà gái để đưa người chủ hôn (cha mẹ) bên nhà trai và chú rể, đem lễ vật trầu cau đến nhà gái xin đính ước. Lễ này gọi là lễ chạm ngõ, lễ dạm hay nạp thái. Theo lệ xưa, lễ nạp thái có đưa một tờ hoa tiên, ghi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con trai để nhà gái xem xét và chấp nhận cho việc đính hôn ấy. Theo tục cổ, sau lễ chạm ngõ cả hai bền trai gái đều phải làm lễ cáo từ đường để trình với tổ tiên về việc tạm đính ước này. Lễ nạp thái mới chỉ là một chuyện đính ước lúc ban đầu thôi, từ đó bên nhà trai có thể thường đi lại với bên nhà gái, để tỏ tình thân mật cho sự thông gia và bàn tính đến lễ vấn danh sau này. Nếu vì lý do gì đôi bên không muốn cưới gả nữa, cũng không có vấn đề trách nhiệm nếu chưa chính thức ăn hỏi.
2- Lễ ăn hỏi (vấn danh)
Lễ này là một lễ trọng thể có tính cách chính thức trước khi cưới. Người mối đưa cha mẹ đàng trai, chú rể và mấy người họ hàng thân thuộc đem lễ vật như: cau, trầu, chè mứt hay bánh đến nhà gái để nhà gái làm lễ cáo gia tiên. Sau đó, nhà gái đem các phẩm vật này ra chia phần cho các bạn hữu và họ hàng thân thuộc để rõ là mình đã quyết định gả con gái rồi, không thay đổi gì nữa.
3- Lễ cưới (thân nghinh).
Thời xưa tại miền quê ở cùng làng xóm với nhau, người ta thường hay đi đón dâu vào ban đêm. Lúc đi phải chọn giờ tốt, nhất là được giờ hoàng đạo. Vào ngày đó, nhà trai nhờ một cụ già vui tính phải có đủ vợ chồng song toàn, nhiều con cháu, thay mặt họ đi đón dâu. Cụ già tay cầm nhang theo sau cụ là người dẫn lễ với đầy đủ lễ vật và kế là chú rể cùng với số người tùy tùng khác. Vào nhà, chú rể phải làm lễ gia tiên rồi mới được rước vợ về. Ra khỏi nhà, cô dâu phải bước qua một bếp lò đang cháy, kể như là xả xui.
Trong nhiều trường hợp, cô dâu chú rể còn làm lễ tơ hồng. Đây là lễ tạ ơn ông tơ, bà nguyệt đã xe duyên phận họ lại với nhau, khiến cho họ nên vợ nên chồng và ăn đời ở kiếp bên nhau. Sau tiệc cưới là hợp cẩn. Lễ này dành riêng cho đôi tân hôn. Họ sẽ uống chung một ly rượu, sau đó người vợ đi trải chiếu và lạy chồng ba lạy, người chồng xá lại vợ ba xá. Sau hôn lễ hai hoặc bốn ngày vợ chồng dắt nhau về gia đình nhà vợ, gọi là nhị hỷ hay tứ hỷ. Ngoài ra hôn lễ ngày xưa còn có vài tục lệ khác như: siêu, lệ nộp cheo, lệ thách cưới.
Trên đây là những nghi thức thông thường của một đám cưới thời xưa. Trong thời gian gần đây vì hoàn cảnh sinh hoạt biến đổi, nên việc cưới hỏi đã giảm bớt đi nhiều tục lệ xưa.
Ngày nay việc hôn nhân không do sự định đoạt, ép buộc của cha mẹ, mà do đôi nam nữ tìm hiểu quen biết và đi đến quyết định trình với cha mẹ cho phép tiến hành hôn lễ. Do đó hôn lễ ngày nay chỉ còn giữ lại hai lễ: ăn hỏi (đính hôn) và lễ cưới (thân nghinh). Lễ chạm ngõ cũng đơn giản hơn.
Tuy nhiên hiện nay có nhiều đám cưới quá câu nệ hình thức, tổ chức rườm rà hơn cả thời cổ, trang phục lòe loẹt kiểu cách quá mức... làm mất vẻ trang trọng, thân mật là ý nghĩa chính của hôn nhân.
Ở thôn quê hiện nay, nhiều lễ cưới hỏi tổ chức linh đình có cả nhạc sống, bò lợn thịt tưng bừng, thanh niên tha hồ say xỉn, nhảy múa...
Có hiện tượng lạm dụng đưa việc cưới hỏi vào kinh doanh vụ lợi, có đám cưới tính lời lỗ...
Ngày xưa người ta mời khách bằng cách chia trầu cau, có thiếp báo hỷ những bạn hữu thì ngày nay mời ăn người ta dùng thiếp mời đính kèm thiếp báo hỷ. Và mời ăn, có khi tiệc trà người ta không mời tới nhà mà mời ngay tới nhà hàng. Nhân trong bữa ăn này, chú rể cô dâu được dẫn ra chào khách bạn bè của hai họ.
Ngày xưa khi khách tới dự tiệc cưới mới mang đồ mừng tới, ngày nay đồ mừng được gửi tới trước. Và cả đồ mừng ngày nay cũng khác đồ mừng ngày xưa. Xưa người ta thường dùng trường điều, liễu điều, trà rượu, có vùng lại dùng cả cổ xôi, quả bánh, thì ngày nay đồ mừng thường là đồ dùng thiết dụng cho cặp trai gái mới lập gia đình. Quà cưới ngày nay hầu như không còn mang ý nghĩa tinh thần như xưa nữa, mà mang tính kinh tế hơn. Quà cưới thường là: tiền, vàng, nữ trang... có khi cả tủ lạnh, ti vi, vidéo, máy giặt.
- Nghi thức kết hôn: Là nghi lễ trao giấy chứng nhận kết hôn cho công dân. Đây là phần công nhận của chính quyền và sự ra đời của đôi vợ chồng mới, là thủ tục chính thức pháp lý của việc kết hôn. Phần nghi lễ này, chính quyền phải đứng ra tổ chức và công nhận, đảm bảo cả về pháp lý và sự trân trọng đối với hạnh phúc công dân.
- Phần vui họp mặt: Phần này nên tổ chức trang trọng và tiết kiệm, lược bỏ những tục lệ rườm rà. Trong lễ hỏi và lễ cưới đều phải làm lễ gia tiên, bỏ qua lễ tơ hồng, lễ thách cưới và bài trừ dần việc coi tuổi trước khi cưới. Trong lễ cưới nhất thiết phải có khay trầu rượu, cau rượu và chung rượu được sui trai mời sui gái tại buổi lễ. Chấp nhận vui vẻ là để chứng tỏ chẳng những đón nhận cái hạnh phúc của con gái trong lễ vu quy mà còn đón nhận hạnh phúc của cha mẹ được hoàn tất nhiệm vụ lớn lao trong việc dưỡng dục con cái nên người.
Tiệc cưới tổ chức cần thực hiện tiết kiệm tránh xa hoa lãng phí, nên tổ chức sao cho phù hợp với kinh tế gia đình, tạo được không khí vui tươi, ấm cúng, trang trọng.
(Theo Đỗ Thạch)
HELLBOY
-
Hôn nhân của người Thái
Hôn nhân của người Thái
Việc hôn nhân của dân tộc Thái chủ yếu theo chế độ một vợ một chồng. Thời trước, khi kết hôn, nhà trai phải đem đến nhà trưởng bản mấy chục đồng bạc, và cũng phải đem tiền đến cho cha mẹ cô gái, đồng thời cũng phải mang cả tiền đến biếu "người chị cả" trong bản nữa. Sau khi làm lễ cưới, người con trai phải đến nhà gái ở rể ba năm. Trong ba năm ấy chàng rể phải gánh vác mọi việc trong nhà. Tục ngữ của người Thái có câu: "Được một chàng rể, là được một người làm". Nếu đi ở rể chưa hết thời hạn, mà người con trai muốn trở lại nhà mình, bên nhà trai phải nộp cho cha mẹ cô dâu mấy chục gánh thóc (mỗi gánh chừng 40 kg) và trên 100 chiếc chiếu.
Không những khi cưới vợ phải mất tiền mà ngay khi ly hôn cũng mất tiền. Nếu bên nam đòi ly hôn, thì bên nữ được tiền bồi thường, nếu như bên nữ đòi ly hôn thì ngược lại. Nếu chưa bồi thường đủ, bên nữ còn chưa được đi lấy chồng mới, phải chờ đến khi nào chàng rể bồi thường đủ số tiền quy định, mới được đi bước nữa. Nếu cô gái đi lấy chồng lần thứ hai thì nói chung tiền cưới cũng đã nhẹ đi rất nhiều, với lý do mà người Thái vẫn thường nói: "Bát nước đổ, không bốc đầy lại được".
Thời trước, con cái nhà thường dân không được phép "đeo đuổi" con gái các nhà Thổ Ty tầng lớp trên, và không được phép kết hôn với những cô gái ấy. Ngược lại, con cái nhà thổ ty có thể tuỳ tiện "theo đuổi" con gái nhà dân thường và cũng có thể kết hôn với họ. Song vợ cả của những chàng trai ấy bao giờ cũng phải là những cô gái của tầng lớp trên, tuyệt đối không được là con gái nhà dân thường. Những cô gái nhà thường dân một khi đã thất thân với con trai nhà tầng lớp trên thì suốt đời không lấy được chồng nữa. Bởi vì trong dân chúng đã có câu: "ở nơi hổ đã ngủ qua, thì ta làm sao lại tới chỗ đó mà ngủ được".
Việc ly hôn của người Thái cũng rất tự do, và tỷ lệ ly hôn khá cao. Hai bên nam nữ, sau khi đính hôn, nếu không tiến hành hôn lễ đúng định kỳ, thì được coi như đã ly hôn, và được phép tuỳ ý đi tìm đối tượng mới. Chồng đi khỏi nhà ba năm không về, quan hệ vợ chồng coi như được huỷ bỏ. Khi người vợ hoặc người chồng qua đời, người vợ hoặc người chồng còn sống cũng phải làm "thủ tục" ly hôn. Cách thức cắt đứt quan hệ ấy rất đơn giản: Khi đem mai táng, người ta lấy một sợi dây thừng, buộc vào thân người chết, hoặc buộc vào quan tài, rồi một người già lấy dao cắt đứt sợi thừng ấy đi, là thủ tục ly hôn coi như đã làm xong. Hoặc người sống đưa ma ra đến cửa nhà sàn cũng là xong.
Thủ tục ly hôn của người Thái rất giản đơn. Hai bên nam nữ chỉ cần trao cho nhau một đôi nến là xong. Hoặc có thể lấy một mảnh vải trắng, cho hai bên cầm kéo ra, rồi một trong hai bên cắt đứt ở phần giữa, mỗi bên giữ một nửa, thế là coi như hai kẻ hai nơi. Bên phía nữ muốn ly hôn, chỉ cần trao cho bên nam một cặp nến, miệng nói "xin lỗi, xin lỗi", rồi sau đó mang tư trang tài sản của mình ra đi.
Trong gia đình người Thái, phụ nữ chiếm quyền thừa kế tài sản; nhà cửa, ruộng đất, gia súc đều do người con gái nhỏ, hoặc người vợ có chồng ở rể kế thừa, đương nhiên họ có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng cha mẹ vợ. Người phụ nữ dân tộc Thái còn có quyền quản lý tài sản. Lương thực trong nhà đều do phụ nữ quản, muốn đem bán trâu bò, gia súc, cần phải được sự đồng ý của người phụ nữ chủ gia đình. Số tiền sau khi đem bán trâu bò mang về phải trao cả cho người phụ nữ đó. Trước kia tên con cái trong gia đình người Thái thì chữ cuối cùng nhất thiết phải giống với một chữ trong tên của người mẹ, gọi là "liên danh".
Nhưng do chế độ một vợ một chồng không ngừng được củng cố, nên địa vị của người đàn ông trong gia đình cũng được nâng cao. Tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng đã bắt đầu thẩm thấu vào quan hệ nội bộ gia đình. Thí dụ như, trong gia đình người Thái, cha mẹ thường dạy con gái là "gối đầu của người vợ bao giờ cũng phải thấp hơn gối đầu của chồng mấy phân, khi ngủ không được đặt đầu mình ngang bằng với đầu chồng..."
(Theo Lê Bầu)
HELLBOY
-
Tục hái lộc đầu xuân
Tục hái lộc đầu xuân
Theo truyền thuyết, khi thấy các con mình khôn lớn , vua Hùng bèn triệu tập các quần thần ,bô lão cùng các con đến phán bảo:
- Nay các con đã khôn lớn, ta muốn các con đi dạy dân làm ăn và trấn cứ các nơi.
Nghe vua cha truyền, các con đều có ý ngần ngại và chỉ muốn được ở lại cùng cha mẹ. Quần thần không biết tâu với vua thế nào thì bà hoàng hậu thưa:
- Các con vì lưu luyến cha mẹ nên không muốn đi xa. Tôi trộm nghĩ nhà vua nên làm lễ tế trời đất rồi dùng cách "bẻ lộc" cho con. Ai nhận được cành lộc nào thì cứ phương ấy mà đi.
Thấy phải, Vua thuận ý rồi truyền cho quần thần cà các con đi nghĩ, không ai được động tĩnh... Sau đó, Vua cho dựng đàn làm lễ tế trời đất trên đỉnh núi suốt cả đêm. Đến giữa canh ba, Vua Hùng đi bẻ lá xem giờ sang canh, bà hoàng hậu đi bẻ cành lộc để chia cho các con. Sáng hôm sau,Vua ban cho mỗi con một cành lộc và dạy rằng: "Non ở nhà, già ở ấp (trại ấp). Chẵn lên non, còn xuống biển. Trên đường đi, nếu gặp điều không may, các con cứ lấy cành lộc còn đẫm sương đêm nay mà vẫy lên thì giặc giã, tà ma nào cũng sẽ tan hết. Con nào lên núi Vua ban cho mây và ngựa, các con xuống biển Vua cho gio; và thuyền".
Y lệnh Vua cha, các con qùy lạy và nhận mỗi người một cành lộc rồi lên đường đi trấn cứ mỗi miền. Vua xiết đỗi mừng vui, truyền cho muôn dân mở hội mừng các "tiểu vương" đến trị vì xứ của mình.
Từ đó, "hái lộc đầu xuân" đã trở thành phong tục của dân tộc ta. Hái lộc là để "lấy may,cầu may" khi bước sang năm mới. Do vậy , người ta thường đi hái lộc sau giao thừa hoặc sớm tinh mơ ngày mồng một Tết. Cây lộc được chọn là cây cổ thụ ở đầu làng bên giếng nước. Cành lộc được nâng nui, không được cho ai, vì như vậy sẽ "mất lộc". Sau khi hái lộc về, cành lộc được treo ở hiên nhà, trước gian giữa hoặc cửa ra vào để trừ ma qủy và để báo cho mọi người biết: đã có người xuất trình "xin" lộc đất trời.
HELLBOY (st).
-
Tục hát cửa đình ở Hà Nội xưa
Tục hát cửa đình ở Hà Nội xưa
Cho đến nay chưa biết chắc tục hát cửa đình (còn gọi là hát ca trù, ả đào) ra đời từ bao giờ. Có nhà nghiên cứu cho rằng ca trù là nhạc dân gian của Hà Nội. Sách Đại lược sử ký toàn thư chép rằng: năm 1025 vua Lý Thái Tổ thấy có cô gái là Đào Thị giỏi nghề hát được nhiều người mến mộ nên tất cả các nữ ca sĩ đều cho gọi là Đào nương và dân gian gọi là ả đào. Có thể ca trù đã ra đời từ trước thời Lý, dân gian gọi là hát cửa đình sau đó phát triển đi vào cung đình phục vụ vua quan.
Ở làng Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm còn nhà thờ Ca Công có tấm bia đá dựng thời Tự Đức thờ một nữ danh ca họ Vũ, người nàng xinh đẹp, hát hay được tuyển vào cung vua. Khi về già, bà về làng dạy con cháu dòng họ Vũ hát ca trù. Bà được vua cho cắm ruộng để hưởng lộc. Đến khi bà mất, dòng họ lập đền thờ, vua có sắc phong "Nam quốc danh ca Đào thị mẫu". Từ đó dòng họ Vũ ở Phú Mỹ lập giáo phường chuyên đi phục vụ trong các ngày hội làng ở huyện Từ Liêm.
Ca trù được phát triển mạnh vào thời Lê sơ, hiện nay có hai giáo phường nổi tiếng đều có đền thờ tổ, đó là giáo phường Lỗ Khê huyện Đông Anh và giáo phường Phú Đô huyện Từ Liêm thờ Đinh Dự hiệu là Thanh Sà Đại vương và vợ là Mãn Đường Hoa công chúa. ở đình làng Phú Đô hiện còn cuốn ngọc phả bằng chữ Hán do ông Đào Cử đỗ Tam giáp tiến sĩ năm Quang Thuận thứ 7 (1466) làm quan tới chức Hộ bộ thượng thư biên soạn. Nội dung: Đinh Dự là con trai quan Khai quốc công thần là Đinh Lễ và bà vợ họ Trần quê ở làng Lỗ Khê. ở Phú Đô còn thờ hai bà chúa có công chấn chỉnh giáo phường đó là Nguyễn Thị Phương và Nguyễn Thị An con gái ông Nguyễn Duy Tình người làng. Hai cô Phương và An vốn xinh đẹp hát hay. Một hôm cô Phương vào vùng Thập tam trại trong thành Thăng Long cắt cỏ, vừa cắt cô vừa hát, tình cờ gặp một vị hoàng thân trong triều Lê đi tới làm quen và kết làm vợ chồng. Sau đó vị hoàng thân lên ngôi là vua Lê Anh Tông (1557-1573) bà Phương được phong là Hoàng thái hậu, bà em cũng được đưa vào cung và phong làm An tuyên phi. Về sau hai người trở về làng dạy trai gái trong dòng họ Nguyễn Hát ca trù. Hàng năm đến ngày 3/3 giỗ tổ, các giáo phường trong huyện Từ Liêm vẫn đến đền Ca Công ở Phú Đô tế lễ tổ nghề.
Ngoài các giáo phường nổi tiếng đã kể trên, nay thông qua một số di vật cổ cho thấy còn có thêm một số giáo phường khác. ở đình làng Văn Trì, xã Minh Khai huyện Từ Liêm còn tấm bia vuông bốn mặt dựng năm Chính Hoà thứ 21 (1701) cho biết ngôi đình của làng vốn là trụ sở của giáo phường huyện Từ Liêm, sau tổ chức này giải tán nên những người đại diện của giáo phường Phương Canh và Thượng ốc đứng ra bán cho dân làng Văn Trì, như vậy đã có thời tổ chức giáo phường quy mô toàn huyện.
Về các bài hát cửa đình, có thể xưa kia có nhiều tác giả sáng tác các bài bằng chữ Hán hoặc đào hát tự đặt lời nên không thấy ghi lại. Người được coi sáng tác các bài hát cửa đình bằng quốc âm đầu tiên là Lê Đức Mao sinh năm 1462 ở làng Đông Ngạc huyện Từ Liêm.
Tương truyền hồi còn trẻ ông là người thông minh hiếu học, hay làm thơ. Nhân thấy hàng năm dân làng mở hội mừng xuân có mời các giáo phường về hát cửa đình. Lê Đức Mao nẩy ra ý định đặt bài hát có nội dung thiết thực để cho các cô đào hát mừng dân làng. Bài hát đầu tiên do Lê Đức Mao sáng tác theo thể lục bát và song thất lục bát nhan đề "Bát giáp thưởng đào văn" - ca ngợi quê hương giàu đẹp trong khung cảnh thanh bình.
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê... là những người sáng tác nhiều ca trù nhất trong thời Nguyễn. Sau này có thêm nhiều tác giả sáng tác các bài ca trù có nội dung yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Đại,...
(Theo Thạch Thảo)
HELLBOY
-
Khóc than càng nhiều thì cô dâu càng hạnh phúc
Khóc than càng nhiều thì cô dâu càng hạnh phúc
Chuyện cô dâu khóc khi từ biệt mẹ cha về nhà chồng thì chẳng có gì lạ, nhưng khóc lóc thảm thiết đến ai oán nỉ non thì chỉ có ở phong tục người Sán Dìu. Ây là khi cô dâu ra lễ tổ tiên, rồi đi lạy ông bà, cha mẹ, chú bác để về nhà chồng... Cô dâu khóc và hết thảy người thân của cô đều khóc. Việc than khóc đối với cô dâu không đơn giản chỉ rơi lệ hoặc đỏ hoe con mắt hay khóc thế nào cũng được, mà phải khóc sao cho thật mùi mẫn. Vì thế cô dâu phải tập luyện trước cả tháng trời, vào lúc chập tối và gà gáy. Người Sán Dìu quan niệm: Tiếng khóc càng nỉ non ai oán bao nhiêu thì chứng tỏ cô gái đó càng có hiếu với cha mẹ bấy nhiêu và cuộc sống của vợ chồng cô sau này càng gặp nhiều may mắn. Cô nào quá vụng về không biết khóc than thì cô, dì, các bác phải dạy cho cẩn thận. Một điều đặc biệt là khi nhà trai đến đón dâu, cô dâu chỉ bước ra khỏi ngưỡng cửa, sau đó anh trai hay người anh họ sẽ cõng cô đi ba bước, ra khỏi giọt gianh nhà gái thì đặt xuống. Trên đầu cô dâu phủ hai tấm khăn dài màu đỏ. Cô dâu không được đi nhanh, không tỏ vẻ hớn hở, nói cười mà đi từng bước chậm chạp, nặng nề tỏ lòng quyến luyến cha mẹ, nhớ thương anh chị em trong nhà. Đến gần nhà chồng mà trời chưa tối, cả đoàn đưa dâu phải dừng lại ở cổng làng, chờ xẩm tối, nhà trai mang trầu nước ra mời mới được vào nhà. Cô dâu cứ việc đi thẳng vào buồng tân hôn. Khi bước tới cửa buồng, anh chồng không được quên một việc quan trọng là nhanh chóng cướp lấy một cái khăn ở trên đầu cô dâu, trước khi cô bước vào buồng. Nếu không cướp được thì bạn bè của chú rể phải hát đối đáp với bạn bè của cô dâu, nếu đối chuẩn thì chú rể mới được nhận khăn. Sau đó, cô dâu được một bà cô (bà cô này gia đình đề huề, vợ chồng song toàn có nhiều con) trải chiếu mời ngồi.
Đám cưới của người Sán Dìu xưa có nhiều nghi lễ và có một nghi lễ rất quan trọng, đó là lễ "Khai hoa tửu" lúc đến đón dâu. Lễ vật là hai quả trứng luộc, hai sợi chỉ đỏ xuyên qua quả trứng và buộc vào mỗi bên quả trứng hai đồng xu. Sau khi đã cúng tổ tiên, đại diện nhà gái đứng lên nói với mọi người bằng những lời lẽ rất văn hoa và ra câu đối để quan lang chính (bà mối hoặc ông mối) đối lại. Sau đó, hai quả trứng được bóc vỏ, lấy lòng đỏ hoà vào rượu mời những người dự cùng uống, theo thứ tự, người nhiều tuổi uống trước, ít tuổi uống sau. Ai nấy đều hân hoan chúc mừng cô dâu chú rể hạnh phúc.
Ngày nay, các nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Sán Dìu đã mai một đi nhiều, thế nhưng người Sán Dìu ở Sơn Dương-Tuyên Quang vẫn còn giữ tục lệ, khi cô dâu về đến nhà chồng, thì cô em gái chú rể (hoặc em họ) bê vào chậu nước để chị dâu rửa chân. Rửa xong, chị dâu thả xuống chậu nước mấy đồng bạc lẻ hàm ý cám ơn cô em. Phải chăng đây là khởi đầu cho một mối quan hệ tốt đẹp giữa chị dâu và em chồng?
(Theo Minh Huệ)
HELLBOY
-
Kính lão đắc thọ
Kính lão đắc thọ
Người Việt Nam có câu: "Kính già, già để tuổi cho". Truyền thống kính trọng người cao tuổi được người Việt Nam giữ gìn và phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trọng lão vừa là sự tiếp nối của xã hội xưa, vừa là biểu hiện của đạo hiếu, của sự kính yêu ông bà, cha mẹ đã có tuổi trong gia đình và dòng họ của người Việt Nam. "Kính già yêu trẻ" là phương châm xử thế của người có văn hóa.
Ông bà, cha mẹ đến tuổi 70, 80 tuổi, con cháu thường làm lễ "thượng thọ".
Mừng thọ cho cha mẹ được coi là sự thể hiện của lòng hiếu thảo. Tuổi càng cao, tám mươi, chín mươi tuổi càng được tổ chức trọng thể. Đó không chỉ là dịp vui mừng trong gia đình, mà còn là niềm vui chung của dòng họ, làng xóm. Trong dân gian thường có câu "trẻ cậy cha già cậy con", con cái có bổn phận và nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ khi già yếu.
Họ mạc, làng xóm thường khen ngợi những người con hiếu thảo, đối xử phụng dưỡng tốt ông bà, cha mẹ khi tuổi già, lúc mãn chiều xế bóng. Khi đi xa, lúc gặp nhau, người ta thường hỏi thăm sức khỏe ông bà, cha mẹ, những người nhiều tuổi trong gia đình. Khi biết tin các cụ còn khỏe mạnh người ta bầy tỏ lòng vui mừng và mong mỏi các cụ luôn khỏe mạnh, sống lâu trăm tuổi. Lòng hiếu thảo phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc tuổi già được coi là một truyền thống đẹp của gia đình Việt Nam. Đạo hiếu trong tâm khảm nhân dân ta, của người Việt Nam xưa có tính thiêng liêng và sâu nặng.
Ngay trong Luật Hồng Đức ban hành đời Lê Thánh Tông, tội bất hiếu bạc đãi ông bà, cha mẹ bị coi là trọng tội.
Theo truyền thống xưa, các cụ nhiều tuổi được trọng vọng trong làng xóm, ngoài xã hội. Các cụ ra đường, hoặc ở chốn đình trung điếm sở được mọi người kính trọng và chào hỏi ân cần. Tiếng nói, ý kiến của các cụ trong họ ngoài làng được lắng nghe, đặc biệt là trong gia đình.
Nhiều làng xã trước đây, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ, việc tôn kính người già được biểu hiện qua một số tập tục. Đáng lưu ý là tục "yến lão".
Hằng năm hoặc hai ba năm một lần tùy theo từng nơi, làng mở tiệc mừng thọ các "quan lão", các cụ già. Gọi là "yến lão" cho sang, thực ra đây là bữa cỗ, dân làng đãi các cụ có tuổi, cả các cụ ông và các cụ bà.
Ngày "yến lão" thường diễn ra vào ngày những ngày đầu năm, nhiều nơi tổ chức vào những ngày cố định. Tới ngày đó một số người dân trong làng theo quy định (thường theo hàng giáp) phải mang bánh trái, lễ vật đến đình làng, trước là cúng thành hoàng sau là để mừng cho các cụ.
Tục lệ tôn trọng người già không hoàn toàn giống nhau ở các làng quê, song truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ghi nhớ công lao của người già đóng góp cho nhà, cho làng, cho nước thì đâu cũng có.
Trong lịch sử Việt Nam, truyền thống trọng lão có rất nhiều sự kiện, một điển hình được ghi trong sử sách là Hội nghị Diên Hồng, vua Trần Nhân Tông đã hỏi ý kiến các đại biểu người nhiều tuổi trong cả nước trước nạn xâm lăng của bọn Nguyên Mông, ý chí quyết chiến giữ gìn non sông bờ cõi của các cụ đã củng cố lòng quyết tâm của Vương triều Trần trước sức mạnh ghê gớm của bọn xâm lược.
Tục kính già, trọng lão là một nét đẹp rất đáng ca ngợi của truyền thống, của nhân dân, của các làng xã Việt Nam, một biểu hiện cao quý về tình người, về đạo đức Việt Nam.
(Theo Nguyễn Dương Bình)
HELLBOY
-
Tục kết chạ ở làng quê
Tục kết chạ ở làng quê
Chạ là anh em. Kết chạ là kết nghĩa anh em. Nhưng không phải giữa hai người, hai nhà mà là giữa hai làng với nhau. Kết nghĩa giữa hai làng là hiện tượng không hiếm ở Bắc Giang và nhiều nơi khác trên đất nước ta. Đó là biểu tượng cho nét văn hóa làng đã có từ lâu.
Thời cổ xưa, quan niệm về sự kết nghĩa giữa hai làng, thường là sự tách đôi của một cộng đồng vốn cùng cư trú tại một chỗ, sau do có sự biến thiên nào đó, trở thành hai làng. Hai làng trở nên gắn bó nghĩa tình với nhau. Hiện tượng này thường xảy ra hai bên bờ một con sông. Làng Phú Cốc, xã Quang Minh, Hiệp Hòa, Bắc Giang với làng Soi Cốc, xã Tân Tiến, huyện Phổ Yên, Thái Nguyên là một ví dụ. Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy, mà còn bắt nguồn từ một việc làm tốt đẹp nào đó mà dẫn đến kết nghĩa anh em. Chẳng hạn như làng Cao Thượng và Liên Chung, huyện Tân Yên kết nghĩa với nhau là do nhân dân Liên Chung kéo gỗ làm đình giúp làng Cao Thượng. Hoặc như làng Trâu Lỗ (Hiệp Hòa) với làng Kim Lũ huyện Đa Phúc (nay là Sóc Sơn). Chuyện dẫn đến kết tình anh em quả là hiếm thấy. Theo các cụ thượng làng Trâu Lỗ kể lại: Kim Lũ là một làng quê bên kia sông Cầu, gần Ngã Ba Sà thuộc huyện Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên xưa. Lễ làng Kim Lũ tổ chức vào ngày 12/9 ta. Năm ấy làng chuẩn bị làm lễ tế thần thì xảy ra một sự bất ngờ. Con trâu được chọn làm vật tế, đứt chạc chạy đâu mất. Dân làng Kim Lũ đốt đuốc đổ đi tìm suốt đêm mà không thấy nên rất lo lắng, buồn rầu. Sáng sớm ngày 12/9 năm ấy (năm Quý Tỵ 1593), làng Trâu Lỗ đang thắp hương làm lễ trong đền, thì thấy một con trâu lạ từ đâu đến nằm phục ngoài bãi, đầu hướng vào trước cửa đền. Dân làng Trâu Lỗ cho đây là điềm tốt lành, làng có lộc. Theo truyền thuyết còn lưu giữ trong nhân dân về làng Trâu Lỗ là khi lập làng, các cụ chọn thế đất làng nằm trên lưng con trâu. Sự việc diễn ra vào ngày đại lễ trùng với truyền thuyết về làng như trời ban phước, nên làng coi giữ trâu rất cẩn thận. Khi biết con trâu là vật tế thần của làng Kim Lũ, dân làng Trâu Lỗ đã cử người đem trả trâu cho làng Kim Lũ. Cảm kích trước tấm lòng của dân làng Trâu Lỗ, dân làng Kim Lũ mang lễ vật sang đền Trâu Lỗ làm lễ tạ ơn thánh thần và xin được kết chạ giữa hai làng. Tình nghĩa keo sơn giữa hai làng có từ đấy và cho đến bây giờ tình nghĩa ấy vẫn thuỷ chung son sắt.
Qua tìm hiểu, ở Hiệp Hòa hiện nay có bốn làng còn giữ được nghĩa tình kết chạ. Ngoài Trâu Lỗ với Kim Lũ, còn có Xuân Biều với Cẩm Hoàng, Nga Trại với Đông Lâm, Phúc Linh với Hương Câu. Trong đó Hương Câu với Phúc Linh nghĩa tình anh em ngày càng đằm thắm như một di sản văn hóa làng đáng quý, cần được phát huy. Hương Câu tên cổ là Kẻ Cấu, Phúc Linh là Kẻ Chiêng. Hai làng thuộc xã Hương Lâm cách xa nhau chừng ba cây số. Kẻ Cấu, Kẻ Chiêng kết chạ với nhau trong hoàn cảnh lịch sử nào và từ bao giờ? Đó là câu hỏi mà mọi người trong hai làng đặt ra đã từ lâu, đến nay vẫn chưa tìm ra nguồn gốc. Vì không còn bút tích gì để lại. Chỉ biết tình nghĩa anh em giữa hai làng được truyền lại từ đời trước sang đời sau, theo nghĩa cha truyền con nối nên nghĩa tình ngày một thêm gắn bó keo sơn.
Tháng 2/1998, hai làng đã xây dựng được bản “Quy ước của hai dân Hương - Phúc”. Đó là bản hương ước của hai làng. Riêng về phần kết hôn, hai làng kết chạ đã là anh em thì trai gái hai làng không được lấy nhau. Hai làng kết chạ, làng nào cũng là anh, là em. Làng A gọi làng B là anh xưng em. Làng B gọi làng A cũng là anh xưng em. Điểm lại một số việc làm nghĩa tình trên tiến trình lịch sử kết chạ giữa hai làng Hương - Phúc, theo các cụ làng Hương Câu kể lại, cách đây khoảng 200 năm (thời mà Hiệp Hòa là một trong bốn huyện của phủ Bắc Hà), nhân dân hai làng phải đi đắp đê (vực đê Ao Cả) thuộc huyện Đông Anh ngày nay. Dân phu hai làng luôn luôn động viên giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau để cùng hoàn thành khối lượng công việc được giao và đi cùng đi, về cùng về. Khi nhân dân Phúc Linh làm ngôi đình mới (cách nay khoảng hơn 100 năm), nhân dân Hương Câu khiêng đá, kéo gỗ xuống giúp dân Phúc Linh làm suốt đêm, sáng sớm hôm sau đã xong. Một năm lúa đồng Hương Câu chín rũ, không kịp cắt, trời lại sắp có bão. Bà con Phúc Linh gặt đã vãn, thế là hàng trăm người quanh gánh, liềm hái kéo lên giúp dân Hương Câu trước khi cơn bão tràn về. Lại một năm trời hạn hán kéo dài, mạ đã đến tuổi mà không có nước cấy. Ngày ấy đồng ruộng Phúc Linh đa phần trông vào nước trời (chưa có hệ thống thuỷ nông như bây giờ). Khi trời đổ một trận mưa nước tràn bờ, Hương Câu đánh hơn trăm con trâu bò xuống cày bừa giúp Phúc Linh để cấy cho kịp thời vụ. Năm 1987, khi Hương Câu xây dựng phân hiệu II của trường cấp 2 (nay là trung học cơ sở) dân anh Phúc Linh thồ lên 2 tấn thóc và 6 vạn ngói giúp dân Hương Câu. Sáu phòng học xây dựng xong được mang tên là lớp học Hương - Phúc.
Đình Hương Câu, ngôi đình cổ đã được Bộ Văn hóa -Thông tin công nhận là di tích văn hóa lịch sử. Năm 2001, nhân dân Hương Câu tôn tạo lại ngôi đình. Mọi công đoạn, mọi phần việc đã được khoán gọn. Buổi sáng đại biểu hai làng làm lễ hạ giải, thì khoảng 12 giờ trưa dân anh Phúc Linh cho hai công nông chở người và 50 đôi sảo, cùng hơn 200 người đi xe đạp, xe máy lên. Hương Câu chưa kịp nổi trống làng huy động bà con dân làng ra, dân anh Phúc Linh đã đông đủ trước sân đình. Thế là chỉ hơn tiếng đồng hồ, 14 vạn ngói trên hai mái đình được gỡ xuống, xếp lại gọn ghẽ vào nơi quy định. Và một tuần sau, dân anh Phúc Linh lại chở lên 7 vạn ngói và 27 triệu đồng góp vào tôn tạo đình Hương Câu. Sức mạnh tình cảm, tinh thần khi đã thấm vào lòng người là như vậy.
Kết chạ là nét đẹp văn hóa làng, mang đậm bản sắc dân tộc rất đáng được duy trì và phát huy trong đời sống cộng đồng ở làng quê.
(Theo Dương Quang Luân)
HELLBOY
-
Lễ cưới tại gia đình
Lễ cưới tại gia đình
Hôn Lễ là một lễ trọng có quy định chặt chẽ từ nhiều thế kỷ qua của dân tộc ta không có gì thay đổi trên nền cơ bản. Tuy nhiên ở mỗi vùng, phong tục có điều chỉnh chút ít.
Bắc Bộ:
Nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác có quy định nghiêm ngặt hơn, nhưng trải qua một thời gian nghi thức đó cũng đã thay đổi theo tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, dù có thay đổi gì cũng phải giữ 3 lễ:
Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ở Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cần thiết, để giữa hai gia đình, " chỗ người lớn " thưa chuyện với nhau. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như có nơi có chốn, bước đầu để tiến tới chuyện hôn nhân.
Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể thiếu được cơi trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá... Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh "su sê", ngày xưa gọi là bánh "phu thê", một số địa phương gọi chệch ra là bánh "su sê" là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Thông thường lễ ăn hỏi gồm có 3 lễ: lễ đàng nội, lễ đàng ngoại và lễ tại gia. Lễ tại gia thường được chia ra đưa kèm theo người được mời cưới.
Thời gian sau khi ăn hỏi đến lễ cưới thông thường là dưới 10 ngày. Lễ rước dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu có địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng dây, đầu làng hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ 20 vẫn còn), muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong ngày cưới). Sau khi Hà Nội đô thị hóa, dân cư tập trung chủ yếu ở trung tâm thành phố, là khu vực 36 phố phường thì phong tục cưới xin cũng vì thế thay đổi do tiếp thu trình độ văn hóa phương Tây. Ðám cưới bắt đầu xuất hiện thiệp báo hỷ, khi đưa thiệp mời cưới phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Ðến nay tục này vẫn còn được giữ lại. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả, phải có quả phù tang (dùng để đựng đồ lễ, dài từ 80cm đến 1m) do hai người khiêng, đựng trầu cau, lợn sơn son (tục này vẫn được giữ trước năm 1945). Sâm banh được mỡ ra báo hiệu một lễ cưới bắt đầu, rượu sâm banh với bánh sâm ba là hai thứ không thể thiếu trong lễ cưới của những người phong lưu. Nhưng dù là người giàu hay nghèo trong đám cưới cũng chỉ dùng tiệc ngọt (không dùng mặn).
Trong khi đón dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên. Sau lễ thành hôn, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên gọi là lễ lại mặt. Lễ này hiện nay một số đám cưới bỏ qua, từ sau lễ lại mặt bố mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà thông gia, vì trong lễ cưới mẹ cô dâu không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau lễ cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ).
(Theo Nguyễn Vinh Phúc)
Trung Bộ:
Quy trình tổ chức lễ cưới ở Huế cũng có đủ các bước thủ tục như các địa phương khác, từ lễ chạm ngõ, hỏi cưới, đến tân hôn vu quy... Nhìn tổng thể, các đám cưới Huế thường diễn ra tiết kiệm, giản đơn, không phô trương, nhưng ở mỗi phần cụ thể khá cầu kỳ, với quan niệm "trọng lễ nghi khi (khinh) tài vật".
Chuẩn bị lễ hỏi, lễ cưới, người Huế thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau khi chọn ngày giờ, hai bên thông gia sẽ báo cho nhau bằng một cuộc thăm đơn giản. Việc này cũng đôi khi do đôi bạn trẻ thực hiện, nhưng phải là hai nhà có thân tình từ trước.
Ðối với đám hỏi, người Huế chỉ xem là buổi gặp mặt giữa hai gia đình và tông tộc thân thích để giới thiệu đôi bạn trẻ, không tổ chức rầm rộ. Ðám cưới Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, và đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà trai có thể thêm bánh kem, bánh dẻo; không có "lợn quay đi lộng" như nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ thường là 1 trai 1 gái, tuổi tương đương cầm lồng đèn hay cầm hoa.
Trong đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng hoa chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi bạn trẻ phài nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm. Còn rượu giao bôi thì theo đúng với lễ giáo phong kiến của Trung Hoa cũ.
Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái sẽ không theo xe, mà hôm sau mới sang nhà trai, với ý nghĩa xem cô con gái ngày đầu về làm dâu có làm điều gì phật lòng nhà chồng. Buổi gặp này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái cho nhau, và căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình bên vợ hoặc bên chồng. Hiện nay, lễ này đã được nhiều gia đình Huế giảm bớt, bằng cách khi rước dâu, bố cô gái theo về nhà trai bằng một chiếc xe khác xe hoa, và tại tiệc đãi sẽ trao đổi với nhà trai. Ba ngày sau lễ cưới, cô dâu mới được trả lại nhà bố mẹ để thu dọn tư trang về nhà chồng, bắt đầu cuộc sống làm dâu.
Tính cầu kỳ của người Huế tại lễ cưới chủ yếu trong cách hành xử. Không hề có chuyện ầm ĩ ồn ào thái quá trong các lễ và tiệc cưới. Trao đổi ngôn từ giữa hai bên thông gia, giữa bà con thân thuộc đều rất thận trọng. Việc thưa gửi, trình bày của chủ hôn, bố mẹ hai bên đều rất khuôn sáo và không bỏ sót ai.
Ðặc biệt, quan hệ tuổi mạng rất được coi trọng ở đám cưới Huế. Vị chủ hôn thường là vị cao niên trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ, không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Các phù dâu phù rể là người chưa có chồng vợ, tính tình vui vẻ nhanh nhẹn. Một số nhân vật khác cũng được lực chọn tùy phần nghi lễ phù hợp. Ðơn cử trước ngày cưới đôi tân hôn có thể đưa nhau đi may áo cưới (nếu gia đình khá giả), thì ngày giờ đi may phải tốt, chủ tiệm may là người còn cả vợ chồng, nhiều con cái, gia đình hòa thuận. Việc bài trí phòng tân hôn phải do một người phụ nữ lớn tuổi, phúc hậu sửa soạn. Lễ vật rước dâu, nhà trai nhờ một người cao tuổi, đủ vợ chồng con cái, gia đình hòa thuận kiểm tra. Người này cũng sẽ têm trầu cau, bày cặp nến hồng trên bàn thờ gia tiên nhà gái. Sau khi lễ xong, cặp nến hồng cũng phải được người này thổi tắt. Số người nhà trai đi rước dâu luôn ở số chẵn. Trước khi đi và khi đón dâu về, nhà trai thường cử vài người đàn ông trẻ tuổi hoạt bát, đã có vợ con ra đứng đón sẵn để "lấy hên" cho đôi tân hôn.
(Theo Tôn Thất Bình)
Nam Bộ:
Hôn lễ chính cử hành tại gia đình. Vì là lễ điều kiện tiên quyết là trang nghiêm, sạch sẽ. Vị trí buổi lễ là khu vực thờ tổ tiên, trong nhà, trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ "hương đăng hoa quả".
Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật đưa đến, ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau, truyền thống này nay vẫn giữ, nghe đâu có từ thời Hùng Vương dựng nước. Ðó là nét văn hóa, linh thiêng của dân tộc Việt. Phải có cặp đèn (nến) thật to, trùng với kích thước của đôi chân đèn trên bàn thờ. Ðại diện nhà trai đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. hai bên bàn bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì giờ vì đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của đàng gái tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn". Hiểu đó là kiểu "ký tên, đóng dấu" chính thức.
Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng liêng nhất, bắt buộc phải có. Hai ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ ông bà. Người trưởng tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do đàng trai đem đến. Rồi thì ông đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng. Hai ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa). hai ngọn đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang áp vào hai tay, như khấn vái. Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao cho hai người trợ lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn. Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều đặn, nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn hiếp chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỷ, sợ gió tạt hoặc tạm thời tắt quạt máy. Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất, không làm bằng sáp ong như xưa nên dể tắt bất ngờ. Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lửa ở ngay cà những Thế vận hội. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi.
(Theo Sơn Nam)
HELLBOY
-
Lễ cưới của các dân tộc ở Tây Nguyên
Lễ cưới của các dân tộc ở Tây Nguyên
Nam nữ thanh niên được tự do tìm hiểu. Nơi gặp gỡ, tỏ tình có thể là trong rừng, trên rẫy, ở nhà rông, vào những ngày cưới, hội lễ của làng. Các thiếu nữ người Giẻ Triêng đến tuổi lấy chồng được cha mẹ làm cho những cái lều chung quanh làng làm nơi hẹn hò. Khi ưng ý người bạn trai nào đó, nàng mời chàng tới ở cùng. Sau năm đêm tâm sự, nếu chàng trai chưa thổ lộ tình cảm, thì phải nộp phạt cho nhà gái một con gà và một ché rượu. Thông thường sau khi hai bên trai gái đồng ý, cha mẹ nhờ người mối đi hỏi. Qua ông mối, các thiếu nữ Gia Rai và Ê Đê nhắn ngỏ tình cảm và đưa tặng người yêu chiếc vòng tay. Nếu người bạn trai nhận vòng, hôn lễ sẽ được tiến hành. Trong lễ hỏi của người M'nông, người mối đem hai ống lồ ô trong đựng măng chua và da trâu thái nhỏ sang nhà gái cầu hôn. Nếu nhà gái đồng ý thì nhận hai ống lồ ô làm vật giao ước. Nếu việc cầu hôn bị từ chối, ông mối mang bát gạo do nhà gái đưa cho để báo lại việc từ hôn. Sau lễ ăn hỏi, người Ê Đê thường có tục ở "gửi dâu", họ hàng nhà gái dẫn cô gái đến nhà chồng chưa cưới ở như con trong gia đình. Thời gian "gửi dâu" càng lâu thì sính lễ nhà gái phải nộp cho nhà trai sẽ giảm đi.
Đám cưới thường được tổ chức vào cuối năm, lúc rỗi rãi và no đủ. Lễ cưới của người M'nông mở đầu bằng việc nhà gái mang biếu họ hàng nhà trai mỗi người một bát gạo đầy. Mỗi bát gạo này sẽ tương ứng với một cái ché mà nhà trai phải tặng lại nhà gái. Hôm cưới, hai người làm chứng đại diện cho hai họ xúc cho cặp tân hôn mỗi người ba miếng cơm, và ngược lại, đôi tân hôn cũng xúc trả lại cho hai người làm chứng ăn. Sau đó đôi vợ chồng mới uống chung rượu (trước tiên) để mở đầu cho bữa tiệc kéo dài vài ba ngày. Sau khi cưới 7 ngày, đôi tân hôn tránh gặp người lạ và không ra khỏi nhà.
Lễ đính ước của người Gia Rai được tổ chức qua bữa tiệc rượu cần ở nhà gái. Hôm đó, đôi trai gái cùng vít cần rượu uống chung. Tiếp theo là "đoán số phận qua giấc mơ lành, dữ".
Trong đêm tân hôn, nếu đôi vợ chồng thấy giấc mơ xấu thì lập tức phải đến nhờ ông mối cầu thần linh cho chung sống trong một năm để hoãn mộng. Đúng vào hẹn đó, vợ chồng vẫn gặp mộng xấu có thể phải ly dị.
Trong đám cưới của người Cà Dong có tổ chức lễ ăn thề không bỏ nhau của đôi vợ chồng. Hai vợ chồng trao cho nhau 9 miếng trầu, 9 miếng cau, ý chúc nhau sức khỏe và sum họp mãi mãi. Tiếp đó, chồng trao cho vợ chuỗi cườm, và ngược lại vợ trao cho chồng vòng đồng. Cặp vợ chồng trẻ còn lấy cơm nắm bôi lên đầu nhau, ý muốn hồn hai người nhập vào nhau; và bôi máu gà lên trán, ý muốn xua đuổi hồn dữ ra khỏi thể xác.
Ngày cưới của người Mạ người ta phủ một cái chăn lớn thêu đẹp lên đôi trai gái không mặc quần áo và cụng đầu hai người vào nhau bẩy lần. Sau một lúc tượng trưng cho thời gian nửa đêm hoa chúc hai người thức dậy, lấy một bát thịt gà, rượu và vòng tay. Chồng đeo vòng cho vợ và ngược lại. Vợ chồng uống chung rượu và cũng ăn thịt gà, sau một thời gian, nhà gái mang củi sang nhà trai để "làm lễ củi". Số lượng gùi củi tương ứng với số khăn mà nhà gái tặng họ hàng nhà trai.
Người Giẻ Triêng quan niệm lễ cưới được tổ chức bất ngờ bao nhiêu thì đôi vợ chồng trẻ càng hạnh phúc bấy nhiêu. Hôm cưới, người ta làm lễ hợp cẩn đôi trai gái trao nắm cơm với ít gan gà cho nhau ăn, tiếp đó uống rượu chung. Có nơi, trong buổi lễ này người ta đánh chiêng tập hợp dân làng, bắt đôi nam nữ nằm trên chõng tre để giữa nhà, cùng đắp chung tấm chăn. Lại có nơi người chủ trì buổi lễ dứt mấy sợi tóc của đôi trai gái bỏ lẫn lên đầu nhau ngụ ý hợp hai hồn của họ làm một.
Trong đám cưới của người Ê Đê có tục "té nước" vào chú rể như tục "mở cửa nhà" ở người Thái. Khi rước rể về nhà vợ, bạn bè của chàng rể chạy trước đón đường té nước vào người cô dâu chú rể, mỗi lần như vậy nhà gái phải nộp cho họ một số lễ vật. Người Ê Đê cho rằng đám cưới nào có nhiều người chặn đường té nước thì đôi trai gái sau này cuộc sống sẽ hạnh phúc và khi chết sẽ có nhiều người thương kẻ khóc.
Sau ngày cưới, chồng ở nhà vợ (Gia Rai, M'nông, Ê Đê, Cơ Ho), hoặc ở nhà chồng (Mạ), hoặc luân phiên ở nhà chồng từ ba đến năm năm rồi lại chuyển ở nhà vợ bằng thời gian ấy (Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng).
(Theo Đăng Khánh)
HELLBOY
-
Lễ cưới của người Bru Vân Kiều
Lễ cưới của người Bru Vân Kiều
Bru Vân Kiều là một tộc người sinh sống ở ba huyện Vĩnh Linh, Đác Rông, Hướng Hóa (tây Quảng Trị) và huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế). Với số dân khoảng 53 nghìn nhân khẩu, người Bru Vân Kiều nổi tiếng về đức chung thủy.
Mùa xuân đến, các nam thanh nữ tú của dân tộc Bru Vân Kiều tỏa về các bản để cùng nhau đàn hát quên đi bao nhọc nhằn. Ngồi bên bếp lửa hồng của nhà sàn, họ đàn hát giao duyên với cây đàn ta lư (A chung) làm từ cây bương và chiếc đàn môi làm từ lá đồng nhỏ và mỏng (n'coái). Bên trai tài, bên gái sắc quây quần bên bếp lửa hồng đang rực cháy.
Đàn hát ở nhà xong họ lại từng tốp, từng tốp đến bên bờ suối để cùng ngồi chung trên một tảng đá đã chọn, và ngồi cách xa nhau chừng vài mét. Lúc này chàng trai lại rút ra chiếc (n'coái) đưa lên gảy, tiếng đàn giúp họ xích lại gần nhau hơn. Ngày tiếp ngày và tháng cũng lại nối tháng, đến độ chín muồi là chàng trai trao cho cô gái chiếc vòng bạc (chiếc vòng cầu hôn). Còn phía cô gái, đã nhận lễ vật đó của chàng trai thì mang về thưa lại với bố mẹ, khi lễ vật đó không hoàn lại cho chàng trai có nghĩa là bên nội tộc nhà gái đã ưng thuận. Lúc này chàng trai phải đến gặp cô gái để cùng bàn bạc, chọn ngày lành tháng tốt để đón dâu về. Lễ đón dâu của chàng trai thật giản đơn, đồ dẫn cưới quan trọng nhất là chiếc nồi đồng vừa phải (A đêch lu hai) và thanh gươm cong bọc bao bạc (đao lu). Hai thứ này do chàng trai tự tay mang từ nhà mình đến nhà cô gái, tuyệt đối không được nhờ ai mang hộ e bị xui (tăm). Khi nhà trai đến nhà gái, không được phép lên nhà ngay, mà chỉ tạm nghỉ ở đầu hồi nhà cô gái. Lúc này, bên nhà cô gái mang xuống tấm chiếu mới để trải và chè thuốc mời đoàn khách nhà trai. Khi làm xong thủ tục ban đầu mới mời khách lên trên nhà và ngồi trên một chiếc chiếu hoa mới tinh trải giữa gian nhà. Bên nhà gái mang ra mấy chai rượu, hoặc ché rượu cần. Hai họ cùng nhau uống trong lúc nhà gái dâng lên bàn thờ tổ một con gà đã luộc chín xin phép giàng cho con gái đi lấy chồng.
Khi tiếng gà đã gáy dồn, chim chóc trên rừng đã thức giấc là bên họ nhà gái rộn rịp chuẩn bị cơm nước để đãi khách và gói giém các tư trang mới nhất cho cô dâu đem về nhà chồng. Lúc này, cô dâu trong bộ váy đủ hoa văn (xuân tu cọ) và chiếc áo mầu tím than (A Dooh xu he) được điểm hai hàng bạc xòe từ cổ áo trở xuống. Cô dâu xin phép ông bà, cha mẹ và nội tộc để theo chân chàng rể về nhà chồng. Chờ giờ lành, cô dâu bước xuống cầu thang, theo sau là dòng người đủ già trẻ, gái trai (Pớ ra pun) tiễn cô dâu về nhà chồng, dòng người theo phong tục Bru Vân Kiều, đám nhà trai dẫn đường đi trước, cách nhà gái khoảng 10-15m, để báo cho bên nhà chuẩn bị đón dâu về. Già bản là người đứng đầu thay mặt nhà trai để tiếp đón họ nhà gái và mọi thủ tục khác nữa.
Khi đoàn Pớ ra pun đến chân cầu thang, họ nhà trai niềm nở mời chào và mời vào gian nhà giữa (đông târ) - đây là ngôi nhà luôn để hội họp bàn việc lớn của dòng họ. Khi đoàn nhà gái vào xong, nhà trai dâng lên bàn thờ tổ một con gà trống đã luộc chín, báo cáo tổ tiên đã đón dâu về. Lúc này, bên nhà trai mang ra mấy chai rượu trắng, hai bên vừa uống rượu vừa chuyện trò chung quanh hạnh phúc trăm năm của đôi lứa. Sau đó, nhà trai dâng lên bàn thờ tổ một con gà nữa để cúng (pai a mút) - cô dâu được phép nhập vào dòng họ. Hai già bản mời chàng rể và cô dâu ra mắt hai dòng họ để căn dặn và khuyên bảo điều hay lẽ phải cùng nhau chung sống cho đến tóc bạc răng long, chung lưng đấu cật xây tổ ấm gia đình. Cô dâu chú rể tay nắm tay và đầu cộc đầu với nhau - hình ảnh này là nghi thức thề thốt trước hai dòng họ. Bên nhà trai lại mang ra một ché rượu cần mời nhà gái cùng uống, hai bên vừa uống vừa (oát), tới trận trưa mai. Khi mặt trời đã đứng bóng là lúc đôi bên phải chia tay nhau tiễn đưa họ nhà gái ra về.
(Theo Hồ Côn)
HELLBOY
-
Lễ Lập tĩnh của người Dao Tiền
Lễ Lập tĩnh của người Dao Tiền
Xóm Mít - xã Tu Lý, hyện Đà Bắc - Hoà Bình là một bản của người Dao Tiền hạ sơn hơn chục năm nay. Từ đường quốc lộ vào không xa lắm. Nhiều nhà có tivi, cát-xét, thế nhưng có một lễ tục từ xa xưa vẫn hiện hữu trong mỗi gia đình, dưới mỗi nếp nhà, đó là Lễ Lập tĩnh.
Lễ Lập tĩnh hay còn gọi là Lễ đặt tên, chỉ dành cho con trai khi 10-12 tuổi. Anh Bàn Văn Lâm - Trưởng thôn Xóm Mít, giải thích: Mỗi con trai là một nhà riêng, một giường thờ riêng, nối dõi cho tổ tiên thì mới đặt tên, còn con gái sau này đi lấy chồng sẽ theo dòng họ khác.
Như vậy, người đàn ông dân tộc Dao, ai cũng có hai cái tên, một tên thường gọi và một tên được đặt trong lễ Lập tĩnh chỉ để dùng trong những dịp cúng lễ, trình báo tổ tiên, gọi là bí danh, có nơi gọi nôm na là "tên âm". Thế nhưng, đây lại là cái tên có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đời người đàn ông Dao Tiền. Nếu anh không làm lễ Lập tĩnh, không có tên cúng cơm thì cũng đồng nghĩa với việc anh là người kém cỏi, chưa đủ tư cách làm người lớn, không có vai trò vị trí trong dòng họ, trong cộng đồng theo quan niệm từ bao đời truyền lại. Và quan trọng hơn theo người Dao, khi chết đi sẽ không về được với tổ tiên. Còn khi đã làm lễ đặt tên, ngoài mọi quyền lợi được hưởng, anh ta còn được mời đi làm thầy trong các lễ Lập tĩnh của con cháu bên họ ngoại.
Trước kia, nhiều người quá nghèo, khi còn sống không có tiền làm lễ Lập tĩnh cho con. Khi họ qua đời, người con ấy phải sắm lễ Lập tĩnh tự đặt tên cho mình. Và không ít người Dao Tiền khi bước vào tuổi cổ lai hy vẫn không có tên vì trong đời họ chưa bao giờ làm lễ Lập tĩnh. Thế nên, mới có chuyện có những cụ ông 70 - 80 tuổi, lứa tuổi có thể trở thành già làng, nhưng do chưa làm lễ đặt tên, họ bị xếp vào mâm dưới, ngồi ăn cùng đám con nít. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy, Lễ đặt tên của người Dao Tiền thực chất là lễ công nhận một thành viên chính thức của dòng họ đã đến tuổi trưởng thành, có quyền và mọi nghĩa vụ trong dòng họ. Lễ đặt tên còn là sự trình báo cho tổ tiên biết: một thành viên của dòng họ nhập vào tổ tiên, có nghĩa vụ nối dõi và làm tròn phận sự của mình...
Ngày làm Lễ Lập tĩnh là ngày vui của gia đình, dòng họ và cũng là ngày vui của cả bản làng. Nghi lễ gồm có gà, rượu, gạo và bắt buộc phải có 3 con lợn. Hai ông thầy mo có uy tín được mời đến cúng suốt hai ngày hai đêm. Đúng 12 giờ đêm đầu tiên của lễ, đứa bé sẽ phải cùng bố đẻ mình ăn hết 1 con gà. Cái tên được đặt vào lúc một giờ sáng. Người ta vừa hát vừa nhảy múa, gọi là hát chào chèo. Điệu hát chào chèo không được hát bất cứ ở đâu, làm đám Lập tĩnh mới được hát. Đó là điệu múa hát mời tổ tiên về chứng giám.
Có thể nói, lễ Lập tĩnh của đồng bào Dao Tiền còn tồn tại đến ngày nay đã góp phần lưu giữ nhiều loại hình văn hoá dân gian của dân tộc Dao. Tuy nhiên, để làm một cái lễ Lập tĩnh, người Dao Tiền phải có ít nhất 1 tạ gạo, 100 lít rượu, 50 con gà và 3 con lợn từ 50 đến 80 kg/con, tương đương khoảng 3 triệu đồng. Nay, thực hiện nếp sống mới, lễ Lập tĩnh có phần giản tiện hơn. Nếu muốn tham dự vào lễ Lập tĩnh của đồng bào Dao Tiền, bạn hãy đến các bản làng Dao khoảng tháng 11, 12 hoặc vào mùa xuân.
(Theo Đặng Minh Huệ)
HELLBOY
-
Lời dặn cô dâu, chú rể trước ngày cưới của người Mông
Lời dặn cô dâu, chú rể trước ngày cưới của người Mông
Dân tộc Mông rất nền nếp, khắt khe trong việc hỏi cưới, dựng vợ gả chồng. Ngày xưa, con trai phải qua tuổi 25 mới được phép cưới vợ, còn con gái sớm cũng phải qua tuổi 20. Muốn lập gia đình, người con trai phải biết làm ăn, ngoài chuyện nương rẫy còn phải biết đan gùi, đan nia, đan rổ... người con gái phải rành dệt khố, kéo chỉ, dệt váy... từ lúc tìm hiểu yêu đương đến lúc thành thân, người Mông phải tiến hành nhiều nghi lễ khác nhau. Lễ cưới chính thức thường diễn ra sau 1-3 năm, kể từ khi làm lễ dạm hỏi. Trong lễ cưới, hai bên gia đình chọn ông mai là một già làng có uy tín làm chủ lễ, tiến hành các lễ nghi và thay mặt gia đình có lời giáo dục cô dâu chú rể về ăn ở, cách sống, cư xử sau khi đã nên vợ, nên chồng.
Cô dâu chú rể ngồi bên nhau, vừa uống chén rượu cưới vừa để tâm lắng nghe những lời dặn dò, khuyên răn của ông mai. Ông ân cần đọc những câu thơ chứa đựng nội dung giáo dục sâu sắc, bày tỏ tâm tình với đôi vợ chồng trẻ, mọi người dự lễ vừa nghe vừa góp ý thêm. Lời giáo dục ấy đề cập nhiều vấn đề, nêu lên ý thức xây dựng, giữ gìn hạnh phúc gia đình, trong quan hệ gia đình phải thuận vợ, thuận chồng, những hành vi sau đây là tối kỵ, luôn bị phê phán, xử phạt: vợ chồng bất hoà, cãi cọ nhau, xé chiếu, xé chăn, làm rách quần áo, nhất là đánh nhau gây thương tích. Dù có tức giận đến mấy cũng không được cãi nhau trong bữa cơm, hai vợ chồng trót có xô xát thì cấm không được "khóc dai", không được nguyền rủa nhau, không được thách đố nhau, nhất là không được chửi rủa, xúc phạm đến cha mẹ, họ hàng hai bên; không được tự ý bỏ về nhà cha mẹ đẻ hoặc sang nhà người khác nói xấu nhau. Nếu có chuyện gì mâu thuẫn, hai vợ chồng phải thưa với cha mẹ hoặc báo với chủ làng để phân xử, giải quyết. Nếu việc bất hoà giữa hai vợ chồng không dàn xếp được thì có quyền ly thân, nếu không thể làm lành được thì trong thời gian 3 năm, người chồng mới được phép quay về nhà bố mẹ đẻ (vì trong hôn nhân người Mông, con trai lấy vợ phải ở rể).
Lời dạy bảo quan trọng nhất là đôi vợ chồng trẻ phải sống chung thuỷ, không được quan hệ ngoại tình. Trong ăn ở phải tuân thủ theo tục lệ của hai gia đình, mọi việc phức tạp phải hỏi ý kiến của người lớn tuổi và các già làng, ai tự tiện làm trái với những tục lệ gia đình đều phải chịu phạt theo phong tục. Vợ chồng ăn ở phải biết tôn trọng nhau, đi đâu, làm việc gì cũng phải trao đổi cho nhau biết, không được lén lút, bàn bạc làm ăn mua bán phải có sự nhất trí của vợ chồng, con dâu, con rể phải tôn trọng và giữ uy tín cho hai gia đình, không được làm những điều phi pháp trái với đạo lý, phong tục, ảnh hưởng đến hai gia đình.
Vấn đề con cái cũng được già làng nhắc nhở trước. Vợ chồng sinh con đẻ cái phải nuôi dưỡng chăm sóc tốt, không được chửi mắng, đánh đập chúng, cha mẹ không được cãi vã to tiếng với nhau vì bức xúc chuyện nuôi con gặp khó khăn. Khi con cái ốm đau phải thưa với cha mẹ hoặc hai bên gia đình trong nhà để bàn bạc tìm cách thuốc thang chữa trị, có cãi nhau, giận hờn đến mấy cũng không được chửi vợ chồng hoặc con mình là "ma lai" vì đồng bào rất sợ bị nghi là ma lai.
Việc giáo dục đôi vợ chồng trẻ là một nghi lễ bắt buộc trong một lễ cưới chính thức của vợ chồng dân tộc Mông. Đây là những lời dạy bảo nhẹ nhàng, thâm thuý của những người có trách nhiệm đối với con cháu khi bước vào cuộc sống gia đình, nó có ý nghĩa như phổ biến luật tục về hôn nhân, gia đình và những thành viên trong cộng đồng phải có trách nhiệm thực hiện. Đi kèm với lời khuyên răn nói trên là những lời nhắc nhở, răn đe, nếu ai vi phạm sẽ bị hình phạt tuỳ theo mức độ. Bản thân cha mẹ và các già làng cũng không được vi phạm những điều gì mà mình đã từng khuyên răn con cháu không nên làm.
(Theo Nguyễn Quốc Đằng)
HELLBOY
-
Những lễ tục thi dân gian
Những lễ tục thi dân gian
Thi cỗ
Vào đêm hôm rã đám hội làng, làng Thị Cầu (Võ Giàng, Hà Bắc) có tổ chức cuộc thi cỗ. Làng có bốn giáp, con trai các giáp từ 18 đến 20 tuổi được cử đi rước thần, và chính họ được phép dự cuộc thi cỗ.
Thi cỗ là của trai tân, nhưng làm cỗ lại là công việc của các thanh nữ. Cô gái nào có anh hoặc em trai dự thi cỗ, đều phải lo tới mâm cỗ thi. Các bà mẹ trong làng thường kén chọn con dâu qua các mâm cỗ này. Hội đồng chấm cỗ do dân làng cử ra. Khi chấm các vị chú ý tới sự tinh khiết, sạch sẽ và sáng tạo các món ăn. Các thiếu nữ cần có sáng kiến chế biến những thổ sản trong vùng tạo nên những món ăn hấp dẫn. Ngoài ra còn phải chú ý tới cách trình bày mâm cỗ cho mỹ thuật.
Cuộc chấm cỗ bắt đầu sau lễ cúng thần buổi tối. Các chàng trai gánh cỗ ra từ lúc trời còn sớm, cỗ giáp nào xếp riêng ra giáp đó. Cỗ chấm riêng cho từng giáp và cũng xếp hàng cho từng giáp đó. Khi Hội đồng đi chấm cỗ, những chàng trai thi cỗ cũng đi theo. Sau khi xem xét hết các mâm cỗ của bốn giáp, Hội đồng mới họp bàn và tuyên bố giải nhất của mỗi giáp.
Cuộc thi cỗ đối với dân làng đôi khi cũng kéo theo sự tốn kém, nên những gia đình phong lưu nhân dịp này khoe giàu với dân làng qua những mâm cỗ sang, thì đối với đa số gia đình, đây chỉ là một dịp để các con em cố gắng trong việc bếp núc, tự tạo lấy qua những sáng kiến riêng. Cách bày biện, trang trí mâm cỗ cũng đã chứng tỏ sự khéo léo của các thiếu nữ trong làng.
Thi cỗ và thi đèn
Trong tết Trung thu, người ta bày cỗ có bánh trái hình mặt trăng, trưng đèn kết hoa, có nhảy múa và ca hát, nhiều nơi có những cuộc rước đèn múa lân tưng bừng náo nhiệt. Lại có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh trung thu. Đây là dịp để khuyến khích các bà, các cô trong việc nữ công. Ngoài ra còn có treo đèn kết hoa để mâm cỗ thêm màu sắc, bánh mứt thêm hoa mỹ.
Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Đèn làm hình mặt trăng, làm hình các linh vật trên cung trăng. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em, trong mâm cỗ thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi trang trọng nhất, chung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, đến khuya các em cùng nhau phá cỗ.
Thi dệt vải
Trong dịp hội xuân hàng năm, ở làng Xuân ái (Võ Giàng, Hà Bắc) có tục thi dệt vải.
Dân làng này sống về nghề nông, nhưng trong thời gian sau vụ làm mùa, chờ đợi vụ gặt, những gia đình có con lớn đều có thêm nghề dệt vải. Ngày hội, cuộc thi dệt vải thật vui.
Các cô gái làng, mỗi cô một khung cửi, sợi do làng cung cấp. Hiệu lệnh ban ra, thoăn thoắt những con thoi chạy đi, chạy lại vừa nhanh, vừa đều. Các cô dệt nhanh, nhưng vải phải đều sợi, không được chỗ thưa, chỗ dầy. Cuộc thi kéo dài khoảng nửa giờ thì ban giám khảo ra lệnh ngừng thoi, để họ xác định hơn kém.
Thi diều sáo
Trong hội đền Hùng ở thôn Cổ Tích, Lâm Thao, Vĩnh Phú, có cuộc thi diều sáo. Đây là những chiếc diều thật lớn, bề ngang có khi tới sải rưỡi tay và có mang một hoặc nhiều chiếc sáo.
Khung diều làm bằng cật tre, giấy phất vào diều bằng gậy. Diều thả bằng dây mây hoặc dây thép nhỏ. Sáo diều có 3 loại chính phân theo tiếng kêu: sáo cồng, tiếng kêu vang như tiếng cồng thu quân; sáo đẩu, tiếng kêu rên rỉ như lời than; sáo còi, tiếng kêu the thé như tiếng còi.
Thi diều sáo, Ban giám khảo có thể chấm theo tiếng sáo, nhưng trước tiên bao giờ cũng phải xem diều có lên bổng, dây diều căng hay võng, nhất là lúc ở trên không diều có lắc lư đảo ngang đảo dọc hay không.
Thi dưa hấu
Làng Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú, có tục thi dưa hấu. Vào khoảng thượng tuần tháng Ba âm lịch hàng năm, hội đồng kỳ mục họp với các bô lão để quyết định ngày hái dưa, gọi là ngày xuống đồng, thường là ngày 25 tháng Ba.
Từ 5 giờ sáng ngày xuống đồng, trống, mõ và tù và báo hiệu khắp làng. Nghe báo hiệu, các gia đình mới ra ruộng hái dưa. Nếu ai tự hái dưa trước sẽ bị phạt rất nặng, nếu là chủ ruộng, làng phạt tiền, còn nếu là kẻ trộm, làng sẽ cùm ngay trước sân đình. Dưa hái xong, các chủ điền đích thân chọn những quả dưa già, to đen ra trình làng. Tại đây Hội đồng giám khảo sẽ xét dưa theo các tiêu chuẩn: giống tốt, đẹp mã, già, đầy đặn, bổ ra đỏ tươi hoặc vàng lại nhiều cát. Có hai đợt chấm thi dưa: đợt một, chọn những quả dưa đẹp, dưa già, đầy đặn; đợt hai, đưa dưa lên cân. Dưa được xếp hạng nhất và hạng hai.
Dưa hạng nhất được rửa sạch cúng thần ở đình, tên chủ dưa được loan truyền cho dân làng rõ. Dân làng tin rằng, chủ điền nào có dưa được chọn cúng thần, ngoài vinh dự ra, cả năm đó sẽ làm ăn thịnh đạt.
Thi đồ xôi và thổi cơm
Đây là một trong những môn thi để tuyển nữ quan ở thôn Hạc Đỉnh, Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Cuộc thi bắt đầu từ sáng tinh mơ ngày giáp tết. Hàng năm dân làng phải tuyển 48 (trong số hàng trăm) trinh nữ cho hội đền Mã Cương.
Sau tiếng trống lệnh, mỗi nữ thí sinh xuống một thuyền thúng trên đầm Giang Đình, mang theo kiềng, nồi chõ, gạo nếp, gạo tẻ cùng rơm ướt và bã mía tươi. Các cô chèo thuyền ra giữa đầm, chuẩn bị bếp, vo gạo để chờ lệnh bắt đầu cuộc thi. Sau tiếng trống lệnh mới được nhóm lửa, các cô thổi cơm hay đồ xôi trước tuỳ ý, miễn là xong sớm để chèo thuyền vào nộp cơm và xôi cho Ban giám khảo. Các cô xong trước nhưng cơm, xôi thì phải ngon, dẻo thì mới đạt điểm cao.
Khó khăn đối với các cô là ở chỗ nhóm bếp thổi lửa, phải giữ sao cho thuyền khỏi chòng chành, bếp lửa hướng ra phía gió dễ tắt. Các bà mẹ đã dạy các cô cách thức nhóm lửa bằng mồi ướt, thổi lửa mỗi khi bếp tắt, cách chọn hướng kê bếp theo chiều gió, giữ lửa cháy điều hoà, cách ước lượng thời gian. Các cô đốt những nén hương và trông theo những đoạn hương cháy để biết nồi cơm, chõ xôi đã vừa chín chưa.
Nếu gặp mưa phùn gió bấc, các cô sẽ trải qua một cuộc thi vất vả; còn nếu như mưa nặng hạt thì các cô sẽ được lên bãi Giang Đình, trổ tài dưới những mái tranh . Cuộc thi diễn ra suốt buổi sáng.
Thi khâu cắt quần áo
Ở nhiều làng xã, trong ngày hội xuân hàng năm, có cuộc thi cắt quần áo.
Mỗi thôn nữ được làng phát cho một tấm vải, rồi các cô tự cắt thành quần, áo, có khi cả quần lẫn áo, tuỳ theo số vải phát ra và lệnh của ban giám khảo. Quần áo các cô may theo một kích thước nhất định, lẽ tất nhiên các cô phải khâu tay. Trong lúc chấm thi, ban giám khảo còn chú ý đến sự đều đặn, mau thưa của mũi kim để xét vào hàng cao thấp.
Thi làm bánh
Trong việc tuyển nữ quan ở làng Hạc Đình, Hoằng Hoá, Thanh Hoá, có lệ thi làm bánh. Mỗi thí sinh phải làm vài ba thứ bánh theo sáng kiến của mình. Bánh có thể làm bằng bột gạo hoặc bột lọc và chế hoá tuỳ theo ý muốn và tài năng của các cô. Các cô lại phải đặt tên cho thứ bánh mình làm.
Thường thì công việc đặt tên này do các ông, cha đã tìm chữ đặt trước cho các con. Ví dụ bánh song phượng tề phi: hai con phượng cùng bay - chiếc bánh có thể to bằng cái mâm, bột lọc trong suốt, duy có hai con phượng hình đang bay có nhân đậu xanh làm nổi hình phượng nằm trên mâm bánh. Đại để các kiểu bánh đều mang những tên cầu kỳ, dùng các thứ hoa, các loài chim, tứ linh hoặc các điển tích để cho tên thật đẹp.
Tên đẹp mà bánh lại phải ngon mới được làng lựa chọn.
Thi làm cỗ
Trong lễ hội thôn Hạ Kì xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, Nam Hà, có tục thi làm cỗ.
Trước ngày hội, bãi trước đình được sửa san bằng phẳng làm thao trường. Trong bãi trồng một cây chuối hột cao, trên ngọn có treo một bì thóc tám. Một bên đặt một cối xay thóc, một bên đặt một cối xay gỗ có lỗ suốt luồn cây mây để kéo ra lửa. Một chuồng nhốt chim bồ câu, một chum lớn thả cá chạch. Trên bãi có vẽ những vòng tròn, đường kính khoảng 2m.
Đơn vị thi là hai giáp của hai thôn: thôn Tiền và thôn Hậu. Một giáp cử ông Thổ Công, một giáp cử Bà chúa Lốt. Thổ Công đội mũ võ, áo đại trào, đi hia (không mặc quần dài). Bà chúa Lốt chít khăn vuông mỏ quạ, áo cánh, mặc váy, ngồi trên thớt dưới cối xay cùn, tay nắm ngõng cối. Có bốn thanh niên lực lưỡng mang cờ quạt, khiêng chiêng trống, đàn sáo rước từ nhà ông Giáp chỉ ra trước bãi đình. ông Thổ Công công kênh Bà chúa Lốt lấy bì thóc ở ngọn chuối xuống, đổ thóc vào cối xay, xay thành gạo, chia cho hai đơn vị thổi cơm. Ông Thổ Công kéo co mạnh ở cây gỗ để lấy lửa, sau đó thả đôi chim bồ câu bay ra cánh đồng rồi đuổi bắt. Một số người thò tay vào chum bắt chạch đem về cho đơn vị làm cỗ.
Cỗ làm xong, cùng rước với hai nồi cơm vừa đi vừa thổi. Cách thổi như sau: Ba người mũ mãng, cân đai. Một người mang cây tre đực, uốn làm cần đeo nồi cơm đưa về phía trước, hai người cầm đuốc múa ở hai bên để nồi cơm sôi và cạn nước, sao cho đến khi đám rước ra đến sân đình là nồi cơm đã chín. Khi đặt mâm cỗ lên nhang án, là xới cơm cúng ngay. Giáp nào cỗ làm khéo, cơm thổi ngon là được giải.
Thi luộc gà
Nhân ngày hội xuân, hàng năm ở làng Chuông ( Hà Tây) có tục thi luộc gà. Luộc gà không chỉ đơn giản cho con gà vào nồi, đổ nước vào đun sôi là xong. Luộc làm sao để cho gà chín mà không mất chất béo, làm sao cho thịt gà ăn còn chất ngọt mà không sống. Các cô gái làng này được trau dồi về nghệ thuật luộc gà, nên con gà các cô luộc cũng vừa chín tới, không bị lòng đào, ăn vừa ngon với đủ chất béo của gà.
Thi nấu thịt, ăn thịt
Ở Thanh Uyên và Xuân Quang (Vĩnh Phú) vẫn còn đền thờ Cao Sơn Phúc thần và Quí Minh Đại Vương. Hàng năm ở đây đều mở lễ hội tế thần.
Trong lễ hội có một tục lạ là tổ chức cuộc thi vừa chạy vừa nấu, vừa ăn thịt. mỗi giáp trong làng cử ra một đội gồm chín người. Thịt lợn lột da, bốn người nắm bốn góc da lợn làm nồi, đổ nước vào, năm người kia cầm 5 bó đuốc thi nhau tiếp lửa cho nồi da nấu thịt. Các đội theo lệnh trống, hiệu cờ vừa chạy vừa nấu. Đội nào về đích mà nấu được thịt chín thì được bày lên bàn thờ tế thần Cao Quí.
Hội thi này nhắc nhở dân gian ngàn năm sau nhớ đến cuộc hành quân thần tốc của hai vị thánh anh linh của làng mình, giúp Tản Viên đánh giặc.
Thi ông Đô
Làng Thổ Tang (Vĩnh Tường, Vĩnh Phú) có tục thi ông Đô (lợn). Trong phiên chợ Thổ Tang ngày 16 tháng Chạp, người ta đưa các ông Đô ra chợ để ăn một mẻ đậu phụ và bún thoả thích. Đến gần trưa tất cả các ông Đô được tập trung vào một địa điểm. ở đây, những người chăm sóc ông Đô còn mang theo những chậu đậu phụ bà bún để "các ông" tiếp tục ăn.
Một hội đồng gồm các kỳ mục bô lão trong làng chấm thi lựa chọn theo bốn tiêu chuẩn: đẹp, nặng, lớn, chân tốt. Các ông Đô phải là loại đen tuyền, tục làng không chấp nhận lợn lang, ông Đô nào dù chỉ có một chiếc lông trắng cũng bị làng loại, khi các ông Đô đã được làng lựa chọn, các ông sẽ được đưa lên cân để xem nặng nhẹ.
Những "ông" được giải sẽ được dùng để tế các vị Thành hoàng và thần Hổ.
Thi thày
Làng Trực Chính (Nam Trực, Nam Hà) thờ Từ Đạo Hạnh tại chùa làng. Hàng năm làng mở hội từ ngày 20 đến ngày 24 tháng Giêng. Trong những ngày hội có tục thi thầy rất đặc biệt.
Các thày đạo sĩ khắp nơi, nhân ngày hội chùa làng này, kéo nhau tới để dự cuộc thi Thày bắt đầu từ ngày 20 tháng Giêng. Các Thày cùng nhau ngâm vịnh những bài văn cúng, văn tế của cổ nhân. Người nào vịnh được nhiều bài hay, lạ, có nhiều ý nghĩa, mang nhiều điển tích thì được bầu trúng giải và được thưởng cỗ bánh.
Thi thổi cơm của đàn ông
Hàng năm nhân dịp hội xuân, làng Chuông (Hà Tây) có tổ chức cuộc thi thổi cơm dành cho đàn ông.
Một loạt bếp bắc trên rìa đầm. Mỗi thí sinh ngồi trên một chiếc thuyền nan ở mé bờ bên kia, trong thuyền có đủ gạo nước, củi diêm. Sau hồi trống lệnh, tất cả các thí sinh phải bơi thuyền bằng tay. Bơi thuyền nhỏ bằng tay đối với họ không khó, cái khó là ở chỗ bơi thuyền rồi tay ướt sờ tới củi, tới diêm, làm sao nhóm được bếp. Bếp bắc ở giữa trời, khi có gió rất gay. Bếp trên bờ, người dưới thuyền, vừa giữ cho lửa cháy trong bếp, lại vừa giữ cho thuyền khỏi chòng chành, đâu phải dễ. Có chàng trai mải thổi lửa, thuyền mất thăng bằng, bị lật úp. Trong trường hợp này, thổi chín được nồi cơm thật là một kỳ công.
Thi thơ
Vùng Hoa Lư, Ninh Bình, có phong cảnh nên thơ, hùng vĩ. Hàng năm, nhân ngày hội đền vua Đinh, để giữ gìn nếp xưa và khuyến khích dân chúng trên đường văn học, dân làng mở hội thi thơ, không những riêng cho dân sở tại mà còn cho tất cả những ai văn hay chữ tốt, muốn được giải và muốn lấy tiếng tăm với mọi người.
Đề thơ tuỳ ban tổ chức lựa chọn. Giải thưởng thường chỉ mấy vuông nhiễu điều, gói chè, mươi quả cau. Những người được giải hãnh diện vì thơ hơn vì giải. Hàng năm có 3 giải thưởng cho cuộc thi này, vì Ban giám khảo gồm các tay văn học nổi tiếng trong vùng. Có khi Ban tổ chức mời cả những bậc đại khoa có danh chấm giải. Ngày xưa, thường vị tuần phủ chủ tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng chấm thơ.
Những bài được giải, Ban tổ chức cho bình lên để mọi người cùng thưởng thức.
Thi thơ
Hàng năm làng Yên Đổ (Nam Hà) tổ chức cuộc thi thơ vào ngày 24 tháng Chạp, nhân phiên chợ Đồng.
Buổi sáng hôm đó, cuộc thi văn thơ đã được các bô lão trong làng tổ chức ngay tại ngôi đình cạnh chợ. Văn sĩ khắp nơi đến tụ tập ở Tưởng Đền để dự cuộc thi thơ. Các vị khoa mục làng Yên Đổ và các làng gần đó làm giám khảo. Thí sinh nào trúng giải thưỏng sẽ được hoan hô và được ban thưởng phần thưởng rất hậu. Thực là cuộc thi tao nhã và hào hứng với mục đích khuyến khích thí sinh dùi mài kinh sử, tranh khôi đoạt giáp sau này.
Sau cuộc thi, những người trúng giải được mời nếm rượu ở Tưởng Đền với các bô lão trong làng.
Thi thuyền trên sông Lô
Hàng năm vào hôm dã đám hội làng, làng Bạch Hạc (Vĩnh Phú) có cuộc thi bơi thuyền trên sông Lô.
Làng có 4 giáp, mỗi giáp có một chiếc trải (thuyền) bằng gỗ trò dài hơn 20 thước và rộng chừng thước rưỡi. Chiếc trải có năm chục bơi chèo ở hai bên. Đầu trải uốn hình đầu rồng, và đuôi trải cũng lượn khúc như đuôi rồng. Mỗi giáp phải kêu trong làng dân đinh năm chục tay chèo khoẻ mạnh, một người điều khiển đứng trên mũi trải, cầm chiếc hiệu lệnh riêng của hàng giáp, một người giữ nhịp cho các tay cầm trống đứng ở giữa trải, và một người cầm lái ngồi ở cuối.
Trải muốn bơi nhanh, cần có sự hoà nhịp của năm mươi tay. Năm mươi người này hợp sức tạo sức mạnh qua những chiếc bơi chèo để chiếc chải đi đều. Họ phải nghe nhịp trống và phải nhìn theo hiệu lệnh của người đứng mũi chịu sào. Bốn chiếc chải xuất phát ở trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã ba sông Lô.
Tục truyền, đây là dân đinh diễn lại tích đức Thổ Lệnh đại vương tiễn đức Tản Viên khi xưa, lúc đức Tản Viên tới thăm ngài ra về. Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưởng và làng sẽ mừng bánh pháo.
Thi tuyển nữ quan
Đây là một tục đặc biệt của thôn Hạc Đình, Hoằng Hoá, Thanh Hoá, tuyển lựa những trinh nữ tham dự các buổi hát lễ mừng đức Thành hoàng và lo việc cỗ bàn dâng cúng ngài. Tuy đền Mã Cương thờ Lê Phụng Hiểu ở thôn này, nhưng cuộc tuyển lựa trinh nữ cũng mở rộng cho tất cả các thôn xã có thờ ông.
Muốn dự cuộc tuyển lựa này, các thanh nữ không những phải là con gái, mà còn là những cô chưa hề bị mang tai tiếng về nết na, nhất là đức hạnh về phương diện trinh thục. Đối với dân chúng vùng này, được kén vào hàng trinh nữ là một điều vinh dự, bởi vậy số thiếu nữ thi tuyển rất đông. Các bà mẹ đã dạy các cô những điều cần thiết để các cô có thể thắng được cuộc thi.
Cuộc thi tuyển được tổ chức ở bãi Giang Đình. Trước bãi, một con đường thẳng tắp chạy tới đền Mã Cương. Sau bãi là đầm nước không sâu lắm, nước thường chỉ đến bụng, đây là đầm Giang Đình- trung tâm cuộc thi. Các trinh nữ phải kinh qua các cuộc thi về nữ công bếp núc và về khả năng văn nghệ.
Thi vật
Trong hội làng Mai Động (Hà Nội) có thi vật ở ngay trước bãi đình làng. Các đô vật ở các nơi kéo về dự giải rất đông. Làng treo giải vật gồm nhất, nhì, ba và nhiều giải khác.
Trong lúc vật, các đô vật cởi trần và chỉ đóng một chiếc khố cho kín hạ bộ. Cởi trần cốt để đôi bên không thể nắm áo, nắm quần nhau gây lợi thế cho mình được. Khố các đô vật phần nhiều bằng lụa, nhiều màu. Trước khi vào vật, hai đô vật lễ vọng vào trong đình.
Cuộc thi bắt đầu, các đô vật lên lễ đài. Sau một hồi khua chân múa tay để rình miếng nhau, họ mới xông vào ôm lấy nhau. Họ lừa nhau, dùng những miếng để vật ngửa địch thủ. Với miếng nằm bò, có tay đô vật nằm lì mặc cho địch thủ bẩy mình, rồi bất thần họ nhỏm đứng dậy để phản công.
Thường thì giải ba được vật trước, rồi đến giải nhì và sau cùng là giải nhất. Mỗi một giải vật xong, người trúng giải được làng đốt mừng một bánh pháo.
HELLBOY (st).
-
Đồng bào Xuồng với lễ mừng thọ
Đồng bào Xuồng với lễ mừng thọ
Dân tộc Xuồng là một ngành của dân tộc Nùng (theo số lượng hống kê dân số năm 1999 người Nùng có 856.412 người) thuộc nhiều ngành như: Nùng Phàn Slình, Nùng Inh, Nùng An, Nùng Dín, Nùng cháo, Nùng Lòi? Mỗi ngành Nùng (một nhóm địa phương) có một phương ngữ khác nhau. Đồng bào Xuồng sống ở Hà Giang, Lạng Sơn, bắc Kạn, Yên Bái, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng? nhưng tập trung đông nhất ở tỉnh Tuyên Quang.
Đồng bào Xuồng thường tổ chức lễ mừng thọ, tiếng dân tộc là khay khoăn gọi hồn về khi bị ốm hoặc cầu mong tăng cường sức khoẻ (pủ lường) cho người già. Thầy cúng (then) hoặc (Pựt) được mời đến để tính chọn ngành lành tháng tốt. Số lượng khác được mời đến khu tổ chức lễ cúng lần đầu là bà con nội ngoại, bà con trong làng ngoài bản càng đông càng tốt.
Người nhà chuẩn bị đồ cúng ngoài rượu, thủ lợi, gà, xôi đỏ, trứng, trầu cau, câu chúc thọ viết trên giấy màu còn phải có một thúng gạo, một thúng không bên trong đựng một chiếc ống bằng tre hoặc bằng sắt tây được bọc giấy đỏ bên ngoài.
Đến giờ tốt, thầy cúng thắp hương lầm rầm khấn cầu mong trời đất thần linh phù hộ cho người già được khoẻ mạnh, sống lâu cùng con cháu. Cúng xong thầy lấy một cái chén nhỏ múc gạo từ thúng dổ vào chiếc ống trẻ (sắt). Tiếp đến, con cháu trong nhà lần lượt đến lấy chén múc gạo đổ vào ống. Cứ thế, hết người này đến người khác khi nào thúng đầy gạo mới thôi. Mỗi người đến đổ gạo lại để vào thúng một số tiền nhỏ (với ý nghĩa chúc thọ người già).
Các năm sau cứ đến ngày tháng đã chọn cúng chúc thọ của năm trước con cháu lại tổ chức lễ cúng. Khách cũng nhớ ngày, không cần mời nữa mà tự đến dự. Chăm sóc cha mẹ là lẽ sống, là tập tục có từ lâu đời của người Nùng Xuồng. Nghi lễ mừng thọ là một nét đẹp văn hoá có ý nghĩa sâu sắc, mang tính truyền thống.
(Theo Hải Vân).
HELLBOY