Tôi lập topic này để nói chuyện tùm bậy trúng tùm bạ, để khỏi nói trong topic người khác. Ai muốn nói gì cứ tự do. Nói về Phong Thủy Phong cùi Phong đòn gánh thôi nhen để khỏi bị di chuyê?n :D
Tôi lập topic này để nói chuyện tùm bậy trúng tùm bạ, để khỏi nói trong topic người khác. Ai muốn nói gì cứ tự do. Nói về Phong Thủy Phong cùi Phong đòn gánh thôi nhen để khỏi bị di chuyê?n :D
Mọi người cho tui hỏi Ngô Kỳ Sơn là ai và làm sao liên lạc người này . Cảm ơn
Từ khi Dương Quân Tùng đại ca để lại bốn câu ai tinh trong thanh nang áo ngữ:
Khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất
cấn bính tân vị vị thị phá quân
tốn thìn hợi tận thị vũ khúc vị
giáp quý thân tham lang nhất lộ hành.
đã làm cho mấy tiểu ca như Trương Trọng Sơn, Thẩm Trúc Nhưng, Trưởng Đại Hồng, Đàm Dưỡng Ngô xất bất sang bang mỗi người một ý.
Thẩm Trúc Nhưng thì có câu khẩu quyết:
TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nhất lộ hành,
NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn,
CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, liên TUẤT Vũ Khúc danh,
DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân,
DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH thượng, Hữu Bật tứ tinh lâm,
nghe nói cũng là khẩu quyết của Khương Diêu bỏ 3000 lạng vàng ra mới có được từ miệng của Tưởng Đại Hồng.
Mới vừa rồi đây tôi lại đọc một quyển sách của người bạn gởi cho trong này lại ghi câu khẩu quyết hơi khác chút tí tì ti nhưng cũng đủ đảo lộn càn khôn làm Thẩm Trúc Nhưng phải ngồi dậy cải cho ra lẽ :
giáp quý thân tham lang nhất lộ hành ,
khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất ,
tý mùi mão tam san lộc tồn đáo ,
tuất kiền tị văn khúc tương liên thứ
tốn thìn hợi tận thị vũ khúc vị ,
cấn bính tân vị vị thị phá quân ,
dần canh đinh dĩ lệ khởi phụ tinh ,
ngọ dậu sửu hữu bật thất bát cửu
Các cao nhân thấp nhân có suy nghĩ gì về hai khẩu quyết mơ huyền mờ này không, có liên quan gì tới xảo quái, thất tinh, tam ban hong nhỉ ?
Mời rút kiếm!
ai kiu tui đóa......
Thẩm Trúc Nhưng thì có câu khẩu quyết:
TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nhất lộ hành,
NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn,
CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, liên TUẤT Vũ Khúc danh,
DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân,
DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH thượng, Hữu Bật tứ tinh lâm,
nghe nói cũng là khẩu quyết của Khương Diêu bỏ 3000 lạng vàng ra mới có được từ miệng của Tưởng Đại Hồng.
Đây là khẩu quyết dùng cho bình dương: "Triều nghênh thuỷ lộ khởi tham-Ai tinh nhất quyết", dùng để định cát hung thuỷ lâm chiếu. Thẩm Trúc Nhưng không hiểu được căn nguyên của quyết pháp này. Tuỳ bút của Khương Diêu viết mập mờ, cố tình làm cho người ta nghĩ là Thế quái ca quyết và Thẩm Trúc Nhưng đã sập bẫy, lấy đó làm Thế quái khởi tinh. Cái này chính là một trong những Trấn sơn quyết pháp của Liên Thành phái, do Tưởng Đại Hồng dùng mà không nói rõ nên mọi người theo đó mà sai hết cả.
Mới vừa rồi đây tôi lại đọc một quyển sách của người bạn gởi cho trong này lại ghi câu khẩu quyết hơi khác chút tí tì ti nhưng cũng đủ đảo lộn càn khôn làm Thẩm Trúc Nhưng phải ngồi dậy cải cho ra lẽ :
giáp quý thân tham lang nhất lộ hành ,
khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất ,
tý mùi mão tam san lộc tồn đáo ,
tuất kiền tị văn khúc tương liên thứ
tốn thìn hợi tận thị vũ khúc vị ,
cấn bính tân vị vị thị phá quân ,
dần canh đinh dĩ lệ khởi phụ tinh ,
ngọ dậu sửu hữu bật thất bát cửu
Cái này là Nguyên vận Ai tinh của Cổ huyền không(Nguyên không), với mấy câu trong Thanh nang Áo ngữ của Dương Quân Tùng là tương đồng như nhau. Mấy câu khẩu quyết này là chỉ cách bày Cửu tinh của Tam đại quái trên cung vị của Tiên thiên bát quái, mỗi một quái đều thống lĩnh cửu tinh trong đó. Thiên nguyên 1 quái thống 9 tinh; Địa nguyên 1 quái thống 9 tinh; Nhân nguyên 1 quái thống 9 tinh. Nói rằng "Tuất Kiền Tị Văn khúc tương liên thứ", thực ra chỉ có Tị và Tuất là Văn khúc(4) mà thôi, riêng Kiền chính là Liêm trinh(5), đây chính là 10 năm đầu của vận 5 quy vào vận 4; Nói rằng "Tốn Thìn Hợi tận thị Vũ khúc vị", thực ra chỉ có Hợi và Thìn là Vũ khúc(6) mà thôi, riêng Tốn chính là Liêm trinh(5), đây chính là 10 năm sau của vận 5 quy vào vận 6.
Các cao nhân thấp nhân có suy nghĩ gì về hai khẩu quyết mơ huyền mờ này không, có liên quan gì tới xảo quái, thất tinh, tam ban hong nhỉ ?
Tôi không dám nhận là cao nhân hay thấp nhân gì cả :big_grin: Khẩu quyết thứ nhất chẳng ăn nhập gì với Xảo quái, Thất tinh, Tam ban nhưng lại có quan hệ khá lớn với BÀI LONG của Trung Châu; Khẩu quyết thứ hai thì có đấy, thậm chí liên quan khá sâu sắc nửa, nhưng là liên quan với CHÂN CHÍNH THẤT TINH ĐÃ KIẾP PHÁP, TAM BAN QUÁI KHÍ PHÁP, chứ không phải Xảo quái, Thất tinh, Phụ mẫu tam ban quái theo kiểu Thẩm thị huyền không(Thẩm Trúc Nhưng), Cổ dịch huyền không(Hồ Kinh Quốc)...
mấy bác cho em hỏi Tết năm nay xuất hành hướng nào thì tốt? ngày nào tốt? xuất hành mấy giờ thì tốt????
Một câu hỏi của huynh PTS đã thu cả các phái, phi tinh, đại quái, nguyên không....
Bạn nhattam đã nói sơ qua rồi.
3 ngày Tết đầu năm xét theo Cửu tinh và Sinh khắc can chi thì có sự đánh giá ngược nhau giữa hai lịch,. Theo cách tính sinh khắc can chi 3 ngày đầu năm đều không được tốt nhưng theo cách tính Cửu tinh thì cả 3 ngày đều đẹp.
Riêng ngày mùng 1 là ngày khi kết hợp tham khảo thêm lịch Hoàng Đạo là ngày Minh Đường (đẹp) và cách tính thập nhị chỉ Trực là Trực Kiến (đẹp) nên ta có thể coi đây là ngày bình thường còn ngày mùng 2 và mùng 3 đều không được tốt.
Vì vậy, khi xuất hành hay khai trương công việc chỉ cần theo hướng và giờ tốt là được...Giờ đẹp xuất hành tính theo bát quái lịch của ngày đầu năm là:
Ngày mùng 1: Từ 7h-9h sáng giờ Thìn- quẻ Thủy Hoả Ký Tế tính theo Kinh Dịch là giờ đẹp còn tính theo cách tính giờ Hoàng Đạo còn có giờ Mão từ 5-7h, giờ Tỵ từ 9-11h , giờ Thân từ 15-17h
Còn để khai trương, mở cửa hàng cửa hiệu hay mở đầu công việc của năm mới thì ngày :
6/01/2011 – Giáp Ngọ (hành Kim) tức ngày 08/02/2011 (DL) – Theo Sinh khắc Can Chi của ngày có thiên can Giáp (Mộc) sinh cho địa chi Ngọ (Hoả) nên đây là ngày Bảo Nhật - Đại Cát. Xét theo Cửu tinh đây là ngày Tứ Lục - Cửu Tinh tiếp tục đi Thuận (bình thường). Giờ đẹp từ 7h-9h sáng - quẻ Hoả Địa Tấn, 9h-11h sáng - quẻ Hoả Thiên Đại Hữu.
Vận khí năm Tân Mão (2011)
Thuộc năm Thuận Hoá: Thủy Vận; Kim khí
Khí sinh Vận; Khí thịnh, Vận suy
Đại Vận cả năm Tân Mão: Thủy Vận -- Đại Khí: "Táo Kim" Tư Thiên
Khí hậu năm Tân Mão ( 2011) sẽ biến thiên chủ yếu theo Táo Kim : Đầu năm nhiều mưa nhưng nửa cuối năm thiên về khô táo, khí hậu hanh khô. Dễ sinh bệnh táo nhiệt, bệnh thời khí, đường hô hấp, mũi họng.
Theo cơ chế “Âm Dương” năm Tân Mão là năm Thiên Vận thuộc Kim (Tân) khắc Địa khí thuộc Mộc (Mão) nên theo thuyết Vận Khí, nhiều khả năng khí hậu thiên về khô táo vốn là bản chất của Tân – Kim.
Về nhân sự là năm “thiên thời’ khắc chế “địa cục”, vì vậy sẽ có nhiều khó khăn về thời cơ, cần lưu ý.
Cửu tinh năm Tân Mão (2011)
Niên Mệnh: Thất Xích - Kim Tinh
Hướng sinh vượng: Trung cung, chính Tây và Tây Bắc.
Đại Cát hướng: Chính Tây
Các hướng Cát Lợi: Chính Bắc, Đông Nam, Chính Nam, Đông Bắc
Hướng bình thường - hướng hao Mệnh (sinh xuất):Tây Nam
Hướng Đại Hung - Đích sát hướng: Chính Đông
Các hướng Hung kỵ: Chính Bắc, Chính Nam
Cửu tinh các tháng năm Tân Mão (2011)
Tháng Giêng – Tháng Mười : Bát Bạch - Thổ tinh
Nhị Hắc - Thổ tinh
Tháng hai - Tháng mười một: Thất Xích - Kim tinh
Nhất Bạch - Thủy tinh
Tháng ba - Tháng mười hai: Lục Bạch - Kim tinh
Tháng tư: Ngũ Hoàng - Thổ tinh
Tháng năm: Tứ Lục - Mộc tinh
Tháng sáu: Tam Bích - Mộc tinh
Tháng bảy: Nhị Hắc - Thổ tinh
Tháng tám: Nhất Bạch - Thủy tinh
Tháng chín: Cửu tử - Hỏa Tinh
Theo GS.TS Hoàng Tuấn, đối với nước ta do chúng ta đang sống ở tiểu vận thứ 8 (từ 2004 - 2023) thuộc Bát Bạch thổ tinh.
Nước ta thuộc phương Nam - Cửu tử Hỏa tinh. Thổ và hỏa tương sinh nên tương đối tốt - đất nước hưng thịnh - thời cuộc tốt chung cho mọi người.
Năm nay năm Tân Mão có Thiên khí là “Thất xích - kim” được Địa khí luôn là “Ngũ hoàng - thổ” tương sinh nên điều kiện xã hội tạo ra thời vận tốt cho mọi việc không có trở ngại về mặt xã hội đương thời.
Con người có thể tạo ra thời vận, triển khai mọi việc lớn, dễ thành sự nghiệp nhưng cũng tốn rất nhiều công lao, hao nhiều sức lực.
Giờ tốt trong 3 ngày Tết
Ngay đêm giao thừa, từ 23h đêm 30 tháng Chạp năm Canh Dần đến 1h sáng ngày mồng Một tháng Giêng năm Tân Mão thuộc giờ Giáp Tý - ngày Ký Sửu, thuộc giờ bình thường.
Người dân có thể đi du xuân hái lộc, còn muốn tìm ngày "xuất hành" đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình trong cả năm thì nên chọn các giờ tốt phù hợp với mình trong cả 3 ngày Tết như sau:
Ngày mồng Một Tết (03/2/2011) là ngày có sự đánh giá ngược nhau giữa hai lịch. Theo phương pháp cửu tinh thì mồng Một là ngày Bát Bạch (Tốt) nhưng theo sinh khắc can chi thì đây là ngày Đồng khí Âm thổ -Nhân dân ly- Hung (xấu).
Tham khảo thêm lịch Hoàng Đạo là ngày Minh Đường (đẹp) và cách tính thập nhị chỉ Trực là Trực Kiến (đẹp) nên ta có thể coi đây là ngày bình thường. Khi xuất hành hay khai trương công việc chỉ cần theo hướng và giờ tốt là được.
Hướng tốt nhất để xuất hành ngày này là hướng Tây Nam (Đại Cát Hướng - Sinh khí), tiếp đến là hướng chính Tây (Diên Niên - Khỏe mạnh), Đông Bắc (Phục Vị), Tây Bắc (Thiên Y).
Hướng tuyệt đối không nên đi là hướng Đông Nam (Tuyệt Mệnh), Chính Đông (Lục Sát - hay mâu thuẫn cãi cọ với người thân, chính Bắc (Ngũ Quỷ - hay bị quấy phá), Chính Nam (Họa Hại - dễ gặp tai nạn, phiền hà.
Từ 7h-9h sáng giờ Thìn- quẻ Thủy Hoả Ký Tế tính theo Kinh Dịch là giờ đẹp.
Giờ tốt tính theo Hoàng Đạo là: Giờ Mão (5 - 7 giờ sáng), giờ Tị (9 - 11 giờ sáng), giờ Thân (15 - 17 giờ).
Ngày mồng 2 Tết (ngày 04/2/2011) cũng là ngày có sự đánh giá ngược nhau giữa hai lịch. Theo Cửu Tinh đây là ngày Cửu Tử , Rất Tốt, nhưng theo sinh khác can chi thì lại là ngày Phạt nhật - đại hung - rất xấu.
Hướng tốt nhất - đại cát hướng - là hướng chính Đông (sinh khí), Đông Nam (Thiên Y), chính Nam (Phục Vị), chính Bắc (Diên Niên).
Các hướng không có lợi là Tây Bắc (Tuyệt Mệnh), Tây Nam (Lục Sát), Đông Bắc (Họa Hại), chính Tây (Ngũ Quỷ),
Giờ Hoàng Đạo là giờ Thìn (từ 7 - 9 giờ sáng), giờ Tị (9 - 11 giờ sáng) và giờ Mùi từ 13 - 15 giờ.
Ngày mồng 3 Tết (Ngày 05/2/2010) là ngày xét theo Cửu tinh đó là ngày Nhất Bạch, còn theo Sinh khắc Can chi là ngày Phật nhật - Đại Hung - xấu.
Đại cát hướng xuất hành có lợi là Đông Nam (Sinh Khí), tiếp đến là Chính Đông (Thiên Y), Chính Bắc (Phục Vị), chính Nam (Diên Niên).
Hướng xấu là Tây Nam (Tuyệt Mệnh), Tây Bắc (Lục Sát), Đông Bắc (Ngũ Quỷ), chính Tây (Họa Hại). Giờ tốt nhất là giờ Mão từ 5 - 7 giờ sáng, giờ Ngọ 11 - 13 giờ sáng và giờ Mùi (13 - 15 giờ)...
Bất kể phương pháp tính ngày, chọn hướng nào cũng đều mang tính tương đối và không có gì tuyệt đối nên ta cũng không nên quá câu nệ mà ảnh hưởng tới công việc.
Nếu có công việc phải đi hướng xấu thì chỉ cần tìm một đoạn hướng tốt để đi vòng, sau đó vòng sang là được.
Thứ 5, ngày 3 tháng 2 năm 2011, nhằm ngày 1 tháng 1 năm Tân Mão. Can chi thuộc ngày Kỷ sửu, tháng Kỷ sửu, khởi giờ Giáp Tý, thuộc tiết Đại hàn, năm Canh Dần.
Bởi vì ngày 4/2/2010, tức ngày 2 tháng 1 âm lịch mới sáng tiết Lập xuân và bắt đầu năm Tân Mão. Thế nhưng, dân tộc ta vẫn coi trọng ngày đầu năm, tức là ngày mồng một Tết hơn là ngày đầu tiết Lập xuân.
Theo tục lệ ngày đầu xuân người Việt thường xuất hành hái lộc, mong sao cho gia đình, con cháu được trọn một năm an khang thịnh vượng.
Tuy nhiên, để xuất hành được hanh thông và thuận lợi, “vạn sự khởi đầu nan”, người xưa rất chú trọng việc chọn lựa giờ giấc để bước chân ra khỏi cửa. Đặc biệt hơn nữa là việc chọn người, chọn tuổi tới nhà xông đất.
Mồng một Tết Nguyên đán Tân Mão nhằm ngày Kỷ sửu, sao Đẩu, Trực kiến. Trực kiến chủ cát: Vạn vật sanh dục, cường kiện; là ngày kiện tráng.
Nghi: chiêu hiền, giao thiệp, huấn binh, phó nhậm, thi ân phong bái, thiêm ước, thượng quan, tuyển tướng, xuất hành, xuất sư. Sao đẩu chủ cát: Đẩu tinh tạo tác chủ chiêu tài, văn vũ quan viên vị đỉnh đài.
Điền trạch gia tài thiên vạn tiến, phần doanh tu trúc phú quý lai. Khai môn phóng thủy chiêu ngưu mã, vượng tàm nam nữ chủ hòa hài. Ngộ thử cát tinh lai chiếu hộ, thời chi phúc khánh vĩnh vô tai.
Ngày Kỷ sửu Tài thần tại Phương Nam, Hỷ thần tại Đông Bắc, Hạc thần tại Bắc, Đinh Kỳ Tại phương Đông Bắc, Bính kỳ tại Phương Nam thượng cát.
Giờ tốt, giờ hoàng đạo gồm: Dần, Mão, Tị, Tuất và Hợi. Xuất hành nên dùng giờ Dần, Mão, Tị đi về hướng Đông Bắc nghênh đón Hỷ thần, hướng Nam nghinh đón Tài Thần.
Cầu tài cầu lộc thì nghinh Tài thần, rất tốt với những người Kinh doanh, buôn bán. Cầu hạnh phúc, bình an, hỷ khí đầy nhà, thăng quan tiến chức nghinh Hỷ thần.
Phá bại Ngũ Quỷ hướng Tây Bắc không nên đi về phương này chủ tài vật hư hao. Hạc thần hướng Bắc cũng không nên dùng, giờ Thân Dậu triệt lộ không vong, giờ Mùi xung, hại Ngọ nên tránh.
Đại ca thịnh copy bài của ông nào mừa tôi đọc xong thì liên tưởng tới ông đầu bếp hong biết nấu cơm dương châu cứ đụng thứ gì cũng thẩy vào xào một hồi thành cơm âm châu luôn rồi! khổ thật.
Mà thôi kệ, dân tào lao nói chuyện tào gật, dần tào tháo nói chuyền tào lợi mà ;)
Nói về cái vụ xuất hành thì tụi ấn độ có người cũng mê lắm, mê tới nỗi mỗi ngày phải coi giờ nào tốt mới bước ra khỏi cửa, giờ thì văn minh chút rồi tụi trẻ hong thèm coi nữa cứ xọt giày bước thí hà .
Mà kể cũng ngộ, sáng tôi đi ra sớm trể khác nhau về phương nam, chiều lại đi về sớm trể khác nhau về phương bắc, đi hoài cả 10 năm mà vẫn ok, chắc phải đợi thêm 2 năm nửa cho chẳn 12 năm. hihihi
Tôi thì hứng thú tới việc đại ca Tưởng Đại Hồng làm sao có khẩu quyết này thôi. Nói khẩu quyết thế quái của TTN chỉ dùng cho thủy long thì hơi miễn cưỡng nhen thầy nhattam, Trung Châu đâu có dùng nó cho thủy long không đâu. Vừa rồi tôi có thấy qua đồ hình trong quyển Quách Thị huyền không chân đế, thấy có vẽ có nhiều nguyên lý lắm, tìm hoài không thấy sách, ông có xem qua chưa?Trích dẫn:
Tôi không dám nhận là cao nhân hay thấp nhân gì cả Khẩu quyết thứ nhất chẳng ăn nhập gì với Xảo quái, Thất tinh, Tam ban nhưng lại có quan hệ khá lớn với BÀI LONG của Trung Châu; Khẩu quyết thứ hai thì có đấy, thậm chí liên quan khá sâu sắc nửa, nhưng là liên quan với CHÂN CHÍNH THẤT TINH ĐÃ KIẾP PHÁP, TAM BAN QUÁI KHÍ PHÁP, chứ không phải Xảo quái, Thất tinh, Phụ mẫu tam ban quái theo kiểu Thẩm thị huyền không(Thẩm Trúc Nhưng), Cổ dịch huyền không(Hồ Kinh Quốc)...
lòi sỉ đã sẳn sàng rồi, mừ đại ca chừng nào mọc cánh ? chưa mọc mà muốn bay là vô vách đó nhen . :D
sách của họ Quánh nhattam chưa xem qua. Nếu hứng thú với các nguyên lý thì anh tìm quyển Địa lý biện chính dực của Vinh Tích Huân mà xem(hình như đời nhà Minh-Trung quốc). Xem ra cách tính khẩu quyết này(như tý quý giáp thân vì sao là Tham lang; nhâm mão ất mùi khôn vì sao là Cự môn...) thì anh đã biết rồi, thôi tôi khỏi giải thích thêm. Việc Tưởng công làm sao biết khẩu quyết này thì... chịu thôi. Khương Diêu đi theo ổng gần cả đời mà còn không biết nửa kìa.
Riêng khẩu quyết thứ hai: Nguyên vận Ai tinh thì để hôm nào rảnh rổi một chút Nhattam sẽ thuyết minh tường tận cho quý vị. Nhưng xin nói trước với các bạn học về Tam hợp, Bát trạch và Huyền không phi tinh: nó khác rất xa với những gi các bạn đã học.
Đưa cho ổng một chay thần tiên tửu với em phương linh thủy mộng mơ là ổng cái gì cũng nói hết
Tại đang làm mấy cái báo cáo quyết toán cuối năm. Chừng 3 hôm nửa xong hết sẽ quay lại đây để bàn.
Tình cờ đụng hàng, một miếng đất hình đa giác không vuông, không cân, mặt tiền nhà từ hợi tới canh, là cạnh dài của miếng đất. Ông phong thủy này, cũng là thân nhân chủ nhà ở xa mới về sứ, đã bố trí cầu thang ở hướng đông thuận chiều kim đồng hồ, cửa mở ở cung tây bắc, để né cái ngã ba nhỏ bên kia đường thẳng ở tân tuất cung. Cái bật tam cấp lại làm 3 bật đây. Tôi cũng là thân nhân bên họ trai của miếng đất này, tình cờ ghé thăm nhà ông anh, thế là vợ ông anh đã đưa tôi về nhà xem lại miếng đất đang được xây dựng (trước đây tôi cũng xem một lần cho miếng đất khác cũng gần con đường này, như mặt bên kia đường, mặt tiền hết 2 cung đông và đông nam, đất cũng chẳng vuông vứt).
Thế là hai anh em cùng đàm trên bàn ăn tối, tôi hỏi sau anh làm 3 bật. Ông Trả lời tôi tính mở lối đó là hướng vượng khí, còn ba bật kết hợp với cái kia để cho kết ( hai bàn tay diễn tả cái búa và cái bao, bao cái bú, không nói trường phái nào ).
Một cái đáng để ý là ông có đi theo hậu nhân của Trương Tam Phong ? ( đời thứ 128 gì đó ), cũng có nói về Chu dịch (sách ngoài đời) chưa hoàn toàn đúng, nên người học xem chỉ đúng 50 %.
Tào lao một tí nữa rồi.
Nguyên vận Ai tinh quyết:
"giáp quý thân tham lang nhất lộ hành ,
khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất ,
tý mùi mão tam san lộc tồn đáo ,
tuất kiền tị văn khúc tương liên thứ
tốn thìn hợi tận thị vũ khúc vị ,
cấn bính tân vị vị thị phá quân ,
dần canh đinh dĩ lệ khởi phụ tinh ,
ngọ dậu sửu hữu bật thất bát cửu"
Tôi lấy đồ hình "Tiên thiên nguyên vận đồ" trong "Nguyên không pháp giám" minh hoạ:
http://upnhanh.sieuthinhanh.com/tmpi...y1ym54916.jpeg
Khẩu quyết bên trên và đồ hình bên dưới nếu chú ý sẽ thấy hai sơn Càn Tốn khác nhau Vũ Văn-Văn Vũ, tôi không giải thích cái khác nhau này, tạm chấp nhận là khẩu quyết đúng nhé(để ông PTS khỏi cãi nửa).
Tam đại quái minh yết trên 24 sơn của Tiên thiên nguyên vận đồ theo khẩu quyết như trên:
Thiên nguyên nhất quái 1 4 7, quái là Khảm Tốn Đoài.
Xét Khảm quái tam sơn: Quý Tham, Nhâm Cự, Tý Lộc. Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Tham lang, Cự môn, Lộc tồn 3 tinh.
Xét Tốn quái tam sơn: Tị Văn, Tốn Vũ, Thìn Vũ, kỳ thực Thìn là Liêm quản 10 năm sau vận 5 nên quy về Vũ(vận 6). Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc 3 tinh.
Xét Đoài quái tam sơn: Tân Phá, Canh Phụ, Dậu Bật. Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Phá quân, Tả phụ, Hữu bật 3 tinh.
Như vậy Thiên nguyên nhất quái phụ mẫu thống Cửu tinh: Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
Nhân nguyên nhất quái 3 6 9, quái là Chấn Càn Ly.
Xét Chấn quái tam sơn: Giáp Tham, Ất Cự, Mão Lộc. Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Tham lang, Cự môn, Lộc tồn 3 tinh.
Xét Càn quái tam sơn: Tuất Văn, Càn Văn, Hợi Vũ, kỳ thực Tuất là Liêm quản 10 năm đầu vận 5 nên quy về Văn(vận 4). Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc 3 tinh.
Xét Ly quái tam sơn: Bính Phá, Đinh Phụ, Ngọ Bật. Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Phá quân, Tả phụ, Hữu bật 3 tinh.
Như vậy Nhân nguyên nhất quái phụ mẫu thống Cửu tinh: Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
Địa nguyên nhất quái 2 5 8, quái là Khôn Trung Cấn.
Xét Khôn quái tam sơn: Thân Tham, Khôn Cự, Mùi Lộc. Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Tham lang, Cự môn, Lộc tồn 3 tinh.
Trung cung vô quái đối ứng, thực ra Mậu Kỷ nắm quyền, Liêm trinh quy độn tại trung cung cùng Văn quản 10 năm, cùng Vũ quản 10 năm. Nhất cung quản tam sơn kỳ thực thống Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc 3 tinh.
Xét Cấn quái tam sơn: Cấn Phá, Dần Phụ, Sửu Bật. Nhất quái quản tam sơn kỳ thực thống Phá quân, Tả phụ, Hữu bật 3 tinh.
Như vậy Địa nguyên nhất quái phụ mẫu thống Cửu tinh: Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
Như vậy Tiên thiên nguyên vận đồ hay Nguyên vận Ai tinh quyết là chỉ rõ Tam đại quái thống Cửu tinh phân bố 24 sơn hướng, nói cụ thể hơn một chút là Nguyên lý Tam quái khí vận hành trong một vòng chu thiên 24 tiết khí, 72 hậu(một hậu 5 ngày). Đây cũng chính là 5 hành quản niên, nguyệt, nhật(12 thời). "Ngũ tinh phối xuất Cửu tinh danh" là lời đinh ninh của Thánh nhân rằng kẻ học hiểu thấu Cửu tinh thì phải biết đó chính là hình ảnh của Đại ngũ hành. "Tiền đầu tẩu đáo ngũ lí sơn, Ngộ trước tân chủ tương giao tiếp" là Long, Hướng, Thuỷ 3 cái phải chiếu Tiên Hậu thiên nguyên vận đồ mà xét.
Tiên thiên Càn Khôn đối giao mà Càn Tiên thiên quản 3 sơn Bính Phá, Đinh Phụ, Ngọ Bật kỳ thực là 3 nữ. Khôn Tiên thiên quản Quý Tham, Nhâm Cự, Tý Lộc kỳ thực là 3 nam.
Tiên thiên Khảm Ky đối giao mà Ly tiên thiên quản 3 sơn Giáp Tham, Ất Cự, Mão Lộc kỳ thực là 3 nam. Khảm tiên thiên quản 3 sơn Tân Phá, Canh Phụ, Dậu Bật kỳ thực là 3 nữ.
"Lai long giang Nam giang Bắc vọng
Giang Tây long khứ vọng Giang Đông"
là như thế.
Rất nhiều người nói Tưởng Đại Hồng được Vô Cực Tử truyền thụ "Thiên Tâm Chính Vận đồ" mà không biết ý nghĩa cái đồ hình đó ra sao. Tiên thiên nguyên vận đồ và Khẩu quyết Nguyên vận Ai tinh bên trên đã thâu tóm cả "Thiên tâm chính vận đồ", nó chẳng liên quan gì với Huyền không phi tinh, người học Huyền không phi tinh mà nói về Thiên tâm chính vận đồ là biết một không biết hai vì bản thân Phi tinh là sự biến hoá của Lạc thư, hoàn toàn không liên quan với Tiên thiên tâm pháp. Dương trạch dụng sự còn được chứ âm trạch mà dùng Phi tinh nhỡ phạm "Bản sơn lai long lập bản hướng, phản ngâm phục ngâm hoạ nan đương", "Toạ linh triều chính, sai thác không vong","Chính thần bách bộ thuỷ thành long, thuỷ đoạn tiện tao hung"... là tiêu.
Bát trạch trong lý luận của mình dùng Thái dương Thái âm làm một nhóm Tây quái, Thiếu dương Thiếu âm làm một nhóm Đông quái, dùng Tiên thiên nạp giáp để phân định lưỡng lộ Đông Tây 24 sơn. Đâu biết rằng Thái dương Thái âm, Thiếu dương Thiếu âm là sự phân chia của quẻ để định Tứ tượng, lấy đó phân 2 nhóm mà không xét đến Chân âm Chân dương của Tiên thiên quái là sai lầm lớn.
Hết.
Hehehe, tôi tưởng ông giải thích ai tinh ai dè ông giải thích tam ban. Như vậy ai tinh trong đồ hình đó vẫn còn là sự bí ẩn ;) Thôi ăn tết vui vẽ nhé .
PTS: Nghe anh ca cẩm Ai tinh hoài, tôi biết một chút nói với anh vậy.
Như Tiên thiên nguyên vận đồ, vòng bên trong 8 quái Tiên thiên phối cửu tinh: Chấn-Tham lang; Cấn-Cự môn; Khảm-Lộc tồn; Khôn-Văn khúc; Càn-Vũ khúc; Đoài-Phá quân; Tốn-Tả phụ; Li-Hữu bật. Nguyên do của nó do đâu? Tôi có biết một bài cổ quyết như sau:
Tiên thiên cửu tinh quyết:
Chấn Tham Tốn Phụ lưỡng ngung phân,
Cấn Cự môn hề Đoài Phá quân.
Li tị trung ương vi Hữu bật,
tức tri Khảm mậu Lộc tồn tinh.
địa lí thủ thông sơn trạch khí,
sơn trạch thông khí thị càn khôn.
dương tận Càn cương vi Vũ khúc,
âm giai Khôn thuận nãi Văn minh.
Đối chiếu với vòng phối quái của Tiên thiên nguyên vận đồ thì đúng như nhau. Cội nguồn của nó là cái này:
http://upnhanh.sieuthinhanh.com/tmpi...biyz28502.jpeg
Đối chiếu với Thái cực đồ ở bên cạnh anh nghiệm từ từ sẽ rõ: Tiên thiên Càn chân dương ở trong chân âm thống tam nam: tả trưởng-Chấn; hữu thứ-Khảm; trung út-Cấn. Tiên thiên Khôn chân âm ở trong chân dương thống tam nữ: tả trưởng-Tốn; hữu thứ-Ly; trung út-Đoài. Đây là chân âm chân dương của địa lý, tầm long, điểm huyệt, thu phóng thuỷ đều phải xét đến nó. Quán xét chân âm chân dương giao giới thì không cần phải coi đất đó là con rắn, phượng, lân làm cái gì cả. Đất có sát hay không có sát cũng từ đây hết. Nguyên bản Thất tinh đã kiếp, Tam ban đều ở đây...
Nguyên lý của nó thực đến từ Bắc đẩu chứ không phải Bát quái(Tinh thể núi sông bản gốc ở Đẩu xa), đi tìm nó trong Bát quái tiên thiên thì làm gì có?
Bây giờ đến vòng Ai tinh bên ngoài theo khẩu quyết:
giáp quý thân tham lang nhất lộ hành ,
khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất ,
tý mùi mão tam san lộc tồn đáo ,
tuất kiền tị văn khúc tương liên thứ
tốn thìn hợi tận thị vũ khúc vị ,
cấn bính tân vị vị thị phá quân ,
dần canh đinh dĩ lệ khởi phụ tinh ,
ngọ dậu sửu hữu bật thất bát cửu
Phép biến hào tiên thiên lần lượt từng hào đối giao(cái này quyển Nguyên không pháp giám viết chưa rõ, mặc dù không sai nhưng nếu sau này lên bước cao hơn sẽ khó khăn). Đoài Cấn lấy hào thượng làm chủ hào, Khảm Ly lấy hào trung làm chủ hào, Chân Tốn lấy sơ hào làm chủ hào, chủ hào biến tức 3 hào đồng biến.
Hậu thiên Khảm quái 3 sơn Nhâm Tý Quý thực do Tiên thiên Khôn quái đối giao Càn mà thành: Quý sơn đắc Khôn sơ hào đối giao Càn sơ hào thành Chấn-Tham lang; Tý sơn đắc Khôn trung hào đối giao Càn trung hào thành Khảm-Lộc tồn; Nhâm sơn đắc Khôn thượng hào đối giao Càn thượng hào thành Cấn-Cự môn.
Hậu thiên Cấn quái 3 sơn Sửu Cấn Dần thực do Tiên thiên Chấn quái đối giao Tốn mà thành: Dần sơn đắc Chấn sơ hào đối giao Tốn sơ hào, chủ hào biến tức 3 hào biến thành Tốn-Tả phụ; Cấn sơn đắc Chấn trung hào đối giao Tốn trung hào thành Đoài-Phá quân; Sửu sơn đắc Chấn thượng hào đối giao Tốn thượng hào thành Li-Hữu bật.
4 quái Hậu thiên Chấn Li Khôn Đoài lần lượt theo phép trên mà biến thì:
Giáp-Chấn Tham lang
Mão-Khảm Lộc tồn
Ất-Cấn Cự môn
Bính- Đoài Phá quân
Ngọ- Li Hữu bật
Đinh- Tốn Tả phụ
Mùi-Khảm Lộc tồn
Khôn-Cấn Cự môn
Thân-Chấn Tham lang
Canh-Tốn Tả phụ
Dậu-Li Hữu bật
Tân-Đoài Phá quân
Riêng 2 quái Tốn và Càn hậu thiên chính là Đoài và Cấn tiên thiên thì không theo phép trên mà liên quan đến 2 câu sau:
"địa lí thủ thông sơn trạch khí,
sơn trạch thông khí thị càn khôn."
Địa lí lấy cấn là càn đoài là khôn, nên Tam nguyên vận 4 5 6 phối càn khôn. Riêng ngũ hoàng là vị trí mậu kỉ đô thiên phối khảm li là tiên thiên thuỷ hoả. Một nửa của Khôn kí nơi tốn thìn, một nửa của càn kí nơi tuất vị. Cấn là càn, đoài là khôn. Đoài nhất hào giao thì âm hào nhập(sơ hào cấn giao sơ hào khôn), quái không biến vẫn là tứ văn; đoài nhị hào giao thì âm hào nhập(trung hào cấn giao trung hào khôn), quái không biến vẫn là tứ văn; đoài tam hào giao thì dương hào nhập, tam hào của đoài cấn chính là chủ hào, chủ hào biến thì tinh biến thành lục vũ.
Cấn nhất hào giao thì dương hào nhập(sơ hào đoài giao sơ hào càn), quái không biến vẫn là lục vũ; cấn nhị hào giao thì dương hào nhập(trung hào đoài giao trung hào càn), quái không biến vẫn là lục vũ; cấn tam hào giao thì âm hào nhập, tam hào của đoài cấn chính là chủ hào, chủ hào biến thì tinh biến thành tứ văn.
Như vậy Tị Tốn Tuất là Văn khúc, Hợi Càn Thìn là Vũ khúc.
Mạn phép chép lại bài Nguyên vận ai tinh ca quyết bên trên của anh có sửa lại hai sơn Càn Tốn(tôi có nói ở bài trước rồi):
giáp quý thân tham lang nhất lộ hành ,
khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất ,
tý mùi mão tam san lộc tồn đáo ,
tuất TỐN tị văn khúc tương liên thứ
CÀN thìn hợi tận thị vũ khúc vị ,
cấn bính tân vị vị thị phá quân ,
dần canh đinh dĩ lệ khởi phụ tinh ,
ngọ dậu sửu hữu bật thất bát cửu
Vì sao có sự khác nhau khi biến hào 2 quái tiên thiên Đoài Cấn? đó là ở bí quyết Kim long, nếu hiểu rõ về Kim long tức biết rằng thuỷ khẩu phong thuỷ là dùng Đoài Cấn, Sơn Trạch thông khí thị Càn Khôn.
Thanh Nang Tự mở đầu 8 câu thâu tóm toàn bộ trong đó:
Dương Công dưỡng lão khán thư hùng.
Thiên hạ chư thư đối bất đồng
Tiên khán kim long động bất động
Thứ sát huyết mạch nhận lai long
Long phân lưỡng phiến âm dương thủ
Thủy đối tam xoa tế nhận tung
Giang Nam lai long Giang Bắc vọng
Giang Tây long khứ vọng Giang Đông
Câu 1 nói chân âm chân dương Tiên thiên, câu 2 nói phần lớn sách phong thuỷ đều không chính thống, câu 3 nói Kim long thuỷ khẩu, câu 4 nói xem mạch nhận long, câu 5 nói 24 sơn thuận nghịch lưỡng dụng, câu 6 nói bình dương nhận long phải xem thuỷ, câu 7 và 8 là cái ai tinh bên trên mới giải thích.
Cảm ơn nhattam,
Tôi không phải ca cẩm ai tinh gì đâu, thật ra ngoài hai khẩu quyết ai tinh tôi nêu ra còn hai khẩu quyết ai tinh nữa, một trong hai dùng trong tư mã thành môn quyết . Tôi có nghiên cứu chút tí về bắc đẩu và được biê't vị trí của các sao trong 7 tinh có thay đổi theo thời gian. Trong bài trên này vấn đề thất tinh (cửu tinh) phối quái tôi cần phải tham khảo thêm.
Trên bước đường trở về cội nguồn này đầy gian nan đấy nhattam, chọn định nơi khởi đầu quá sớm sẽ dẫn tới sự sụp đổ tất cả các thuyết thu lượm được. Cần phải cẩn thận lắm mới được! như PTLV đi một đoạn đường dài chứng minh đủ thứ, logic tùm lum tà la nhưng cái gốc bị sâu cho nên toàn thể công trình đều sụp. Những người không có khả năng đi tới cái gốc thì làm sao biết được có sâu đây!
Ờ lần trước anh nói tới đái công có phải Đái Hồng viết quyển phiên quái ai tinh gì đó không
anh PTS: nói vui với anh thôi, chứ quyết tâm tìm hiểu cội nguồn để gạn lấy cái Chân như anh là rất quý. Tư mã thành môn quyết thực sự là Bảo chiếu Ai tinh, cái này dùng trong âm trạch rất lợi hại. Tôi đang cố hiểu tường tận về nó.
Đúng như anh nói, chọn định nơi khởi đầu sớm sẽ thất bại(tôi bị rồi). Ai tinh bên trên tôi vẫn còn phân vân ở Liêm trinh(riêng vấn đề âm quái bên trên, dương quái bên dưới trong Bắc đẩu thì tôi đã chắc chắn đúng rồi). PTLV tôi cũng không muốn bàn vì khi hiểu thấu cách bài quái của Văn Vương trên Hậu thiên bát quái là tiếp tế Tiên thiên quái để tận thiện tận mỹ cho nhân gian, 2 bát quái Tiên Hậu thực sự là một thể chứ không phải 2, một cái là hồn một cái là xác, thì cái sai lầm khi đổi Tốn Khôn đã làm hỏng Hậu thiên quái, Khôn đi vào chổ bất nhàn nên hỏng cả Càn, Tốn đi vào nơi trắc trở nên hỏng cả Chấn; Do vậy sớm hay muộn cũng sụp đổ thôi.
Đái Công tôi nói không phải Đái Hồng Nhuận mà là Đái Lý Thai, viết quyển Địa Lý Biện Chính Đồ Giải Chưởng Quyết vào năm 1819(trước Nguyên Không Pháp Giám 20 năm), bao gồm 50 đồ hình cùng khẩu quyết, tựa như Nguyên Không Pháp Giám nên không dễ nuốt chút nào. Phải khá vững Hà-Lạc, Tiên-Hậu thiên mới đọc hiểu chút đỉnh, anh tìm đọc sẽ có thu hoạch.
Thân chào.
Hi pts!
Bây giờ đến vòng Ai tinh bên ngoài theo khẩu quyết:
giáp quý thân tham lang nhất lộ hành ,
khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất ,
tý mùi mão tam san lộc tồn đáo ,
tuất kiền tị văn khúc tương liên thứ
tốn thìn hợi tận thị vũ khúc vị ,
cấn bính tân vị vị thị phá quân ,
dần canh đinh dĩ lệ khởi phụ tinh ,
ngọ dậu sửu hữu bật thất bát cửu
- Cái khẩu khuyết này bạn áp dụng trong thế quái kim hướng thì sẽ rỏ, chứ không có gì đâu bạn ạ. Còn vấn đề âm trạch như bạn nói thì phải lấy gốc làm nền tản, không nóng vội mà dẩn đến sự mâu thuẩn trong ta, mà như vậy thì sẽ hại người hại mình. Tôi rất tôn trọng những người có tâm huyết trong việc nghiên cứu, sẽ ngộ ra được nhiều điều hay đấy.Đầu năm chúc anh em sức khỏe vui vẻ hạnh phúc.
voluongtamphap
Ý của anh PTS nói tôi chọn Bắc đẩu để giải thích Nguyên vận Ai tinh là có phần vội vàng, đây là một ý tốt, nếu không phải tôi và anh ấy cùng mắc nợ phong thuỷ thì chẳng ai nói với nhau câu này đâu. Cái Ai tinh quyết này là của Nguyên Không, Lục Pháp, Ngọc Hàm thì còn dùng tới chứ Huyền không phi tinh đâu biết cách mà dùng?
http://upnhanh.sieuthinhanh.com/tmpi...xmw813478.jpeg
Hai ông nghĩ sao, cần phải xem xét "Sao Bắc Đẩu theo quốc gia" ?... như hình thiên văn trên
Chào bạn voluongtamphap,
Cám ơn lời nhắc nhở "hại người hại mình" của bạn. Tôi thì cũng sợ cái vụ đó lắm nên hong dám làm thầy chỉ nghiên cứu cho thỏa chí thôi, có thể sau này khi hơn hẳn Gia Cát, người mà tôi ngưỡn mộ, trội hơn Cứu Bần, người mà tôi tâm phục, lúc đó mới dám ra vươn oai diệu võ. Chứ còn giờ mục "nhọt" của tôi là chứng minh phong thủy không phải là khoa học. Độc cô cầu bại mà ;).
Nói về sách thì có nhiều loại, dụng, lý, quyết. Sách viết ở loại "dụng" thì tầm thường, người đọc chỉ biết cách làm không biết lý. Sách viết ở loại lý thì hạng trung, người đọc hiểu lý tất hiểu dụng, từ đó có thể phán đoán đúng sai. sách viết ở loại quyết thì đã cao hơn lý một bật, người không hiểu lý không thể nào hiểu được quyết.
năm mới chúc bạn hai chử TỊNH, TINH
ThienLoc: xem cái này nè: http://www.astronexus.com/node/81
Thienloc: Đúng là cái gàu múc nước này đấy, "Đẩu" tức cái đấu, cái gàu. Nó ở cực bắc, là con tim của chòm Đại hùng. Trên hình của mình Nhattam không nối 1 và 4 lại cho thành cái gàu là có lý do riêng. Nhattam xem xét sao Đẩu đặc biệt quan tâm tới cái đuôi của nó để rõ một số vấn đề của Bộ Thanh nang(Áo ngữ, Thanh nang kinh..). Riêng vấn đề xem sao Đẩu theo quốc gia thì Nhattam xin chịu thua, chừng nào thấu rõ cái LÝ của nó thì mới tính tiếp.
PTS: cám ơn cái hình của anh, nhưng sao không thấy hai tinh "phụ, bật". Xem cái đuôi nó quét như vậy hẳn hình này chụp khoảng giữa Xuân-Hạ
Tôi hong phải nói tới cái hình cái gàu không đâu, bên tay phải có hai cái nút tròn, bấm vào nút dưới đi. Tôi thật sự hong biết phụ bật nằm ở đâu, có sách cho là nó nằm hai bên liêm trinh, có sách cho là nó nằm hai bên vũ khúc, có sách cho là nó nằm phía trên thất xích 1 các ra ngoài xa bên tay phải 1 cái, có sách lại cho là phụ bật là hai sao không có tượng .
Vấn đề nhìn bộ sao này ở đâu thì có khác nhau là việc đương nhiên rồi, người ở úc châu đâu có thấy các sao ở phía bắc. Những người dùng các thiên tượng mà hong biết hiệu chỉnh theo hiện đại, cứ ôm những gì viết trong sách cổ thì sai quá rồi, đây là việc tôi muốn nói, học lý thì sẽ rõ dụng, học dụng thì tất sẽ sai.
Thì ra là vậy, rất cảm ơn anh PTS với cái hình di chuyển này.
Từ trước đến nay nhiều sách khi vẽ về Bắc đẩu đều nối 2 sao Tham lang(1) và Văn khúc(4) lại với nhau thành hình cái gàu. Riêng tôi sau khi chú tâm ngẫm nghĩ thấu đáo một số cổ quyết thì quả quyết không thể nối 2 sao này lại với nhau(ở trên tôi cũng mới nói) mà chúng phải là một dãy lượn sóng. Ví dụ như: "Bắc đẩu thất tinh khứ đã kiếp, ly cung yếu tương hợp", nhiều phái đã diễn giải câu này là phép Thất tinh đã kiếp cần tương hợp ở cung Ly(như Phi tinh dùng Ly Khảm làm chân giả đã kiếp vậy). Riêng tôi cho rằng câu này nói phép Thất tinh đã kiếp là phải tan ra, tức dịch chuyển quái hào(ly cung) mới tìm được sự tương hợp, như người thân ở xa đi lại để gặp nhau vậy, như vậy Đã kiếp thực sự có ở mọi cung, dịch viết "biến tắc thông" nên Thất tinh đã kiếp thực sự không phải là cướp khí mà là Nghịch chuyển Càn Khôn để suy hoá vượng. Tiếc rằng cái quyết biến hoá này tôi chưa hiểu.
Nay nhìn cái hình Bắc đẩu dịch chuyển này, khi thấy Tham lang kéo dãn và Phá quân thu lại không còn hình cái gàu, toàn bộ 7 tinh chuyển động, cảm giác tôi rất lạ, tôi mường tượng mình đã hiểu đúng về Thất tinh đã kiếp và càng chắc chắn rằng Tam đại quái chính là chìa khoá mở nó. Phụ mẫu quái nghịch 4 vị mà khởi, trong Cửu tinh thì 1 nghịch khởi phụ mẫu ở 7, 1 thuận đến 7 cũng là 7 bước Thất tinh. Phụ tinh và Bật tinh có thể không có tượng, mà là cái tiếp tế cho Thất tinh, cũng như sao 5 không phương vị mà tiếp tế 8 phương cho Hậu thiên.
"Thức đắc Phụ mẫu Tam ban quái, tiện thị chân thần lộ.
Bắc đẩu thất tinh khứ đã kiếp, ly cung yếu tương hợp"
Phụ mẫu Tam ban quái là cái Lý, Thất tinh đã kiếp là dụng.
Hi bạn!
- Tôi cũng sợ lắm cái " hại người hại mình", nên chỉ truyền giảng nhưng cái thuộc về cơ bản mà thôi. Còn đối với tôi, nghiên cứu để chứng Phong Thủy là khoa học, mỗi người có một quan điểm , nhưng cái gì nghiên cứu sau này sẽ ngộ ra được nhiều cái hay trong cuộc sống. Chúc anh em năm mới vui vẽ và tinh tấn trong cuộc nghiên cứu huyền thuật.
voluongtamphap
kê dép ngồi hóng hớt...ai rớt gì lụm bỏ túi.
nhattam: Theo nhận xét của tôi, vào thời những quyễn sách đó viết ra tác giả không có đủ điều kiện để biết bắc đẩu sẽ thay đổi.
thienloc: Theo tôi thì Dương Quân Tùng đã đi một bước hiệu chỉnh hướng chuẩn rồi, tuy nhiên để xác định điều này cần phải biết lúc ông sáng lập phùng châm vào thời gian nào và lúc đó ông ở đâu. Cũng như lại bố y, lúc ông sáng lập trung châm vào thời gian nào và ở đâu, như vậy mới có thể khẳng định lý do bên trong của việc sáng lập này, từ đó mới hiệu chỉnh được.