quỷ nhập tràng có thật 100%
Câu chuyện hơi dài nhưng các bác ráng đọc nhé:
_Câu chuyện này tôi nghe bà ngoại kể từ khi còn nhỏ xíu. Gần ba mươi năm qua rồi, nhưng chi tiết trong câu chuyện vẫn cứ như in trong đầu tôi, có lẻ hồi đó nó đã để lại một dấu ấn ghê gớm trong trí óc non nớt của một đứa trẻ là tôi.
Quê của bà ngoại ở Ninh Bình (một tỉnh nhỏ thuộc miền Bắc). Bà ngoại tôi quen người có họ là Nhieu Trinh, năm đó cũng bãy mươi ba tuổi rồi. Ở nhà quê hồi đó người ta khắng khít đùm boc nhau lắm, nhất là bà Nhieu Trinh lại là một tấm gương đáng để mọi người phụ nử noi theo. Cả cuộc đời bà từ tấm bé tới khi nhắm mắt lìa đời, luôn sống vì mọi người, bà không nề hà bất cứ việc gì có thể giúp đở được cho người khác. Hầu như tất cả những người phụ nử cũa làng bà và kể cả những làng lân cận mọi khi tới ngày sinh đều phải nhờ tới tay bà. Bà là bà mụ mát tay nổi tiếng khắp vùng. Ðiều đặc biệt là bà làm vậy thôi chứ không lấy tiền công, người nhà quê nghèo lắm, họ đối với nhau bằng tình nghĩa hơn là vật chất. Chính vì vậy họ hàng và làng xóm ai cũng kính yêu bà, tới trẻ con người lớn trong làng ai cũng gọi bà là bà ngoại. Người ta thường mang quà biếu bà mổi khi có chút quà mọn dù là cũ khoai lang hay mo trầu không. Cha mẹ bà mất sớm, nên bà phảinuôi một đàn em thơ dại nên mãi tới năm ba mươi tuổi bà mới lấy chồng. Bà làm lẻ cho ông Nhieu Trinh ( một chức sắc trong làng ). Gia đình chồng hiếm hoi, từ đời ông cố tới đời chồng của bà đều cũng chỉ có duy nhất một người con trai. Ông lấy ba bà vợ trước đó nhưng không bà nào sinh cho ông được một mụn con, vậy mà khi bà về làm bạn với ông thì một năm sau lại sinh ra cho ông một đứa con nối giỏi. Ông cưng cậu con trai quý như trứng mơng, chính vì thế bà cũng được thơm lây. Tiếng là ông có nhiều vợ nhưng các bà luôn thuận hoà vói nhau, trên kính dưới nhường. Cả bốn bà chung nhau một ông chồng và một thằng con trai theo đúng nghĩa, các bà đều quý mến cưng chiều thằng nhỏ, nó muốn gì là cho nấy. Thời gian trôi qua, ba bà vợ trước và ông Nhieu Trinh lần lượt qua đời. Bà lại một mình cheo chồng nuôi con, thay chồng gánh vác mọi việc hiếu hỉ của làng xóm cũng như họ hàng.
Khi anh Trúc lấy vợ, bà mừng lắm, bà mong có con dâu ngoan hiền của bà sẽ chóng sinh cho bà một bầy cháu nội, để cho vui nhà vui cửa . Nhưng rồi cũng vẫn như một lời nguyền dai dẳng, anh Trúc lấy vợ cũng phải tới mười sáu năm sau mới có được một thằng con trai. Khi thằng cháu ra đời, bà coi như những tâm nguyện của mình đã đạt được một phần nào, tuy nhien bà vẫn mong muốn là anh Trúc sẽ cho bà thêm vài đứa cháu nửa. Thằng Vinh cháu bà năm đó mới có ba tuổi, Bà thương cháu lắm. Ngày ngày chính bà là người tắm rửa và chăm nôm đứa bé. Khi tuổi già sức yếu, người mà bà lo lắng nhất vẫn là đứa cháu đích tôn. Mổi khi nhìn cháu là bà lại chảy nước mắt vì bà cũng đoán được cái ngày mà bà cháu bắt buộc phãi xa lìa nhau cũng gần tới nơi rồi. Bà thường nhường nhịn từng miếng quà tấm bánh mà bà con họ hàng mang tới thăm để cho cháu.
Người ta trong đời ai rồi cũng có sinh ly tử biệt, dù là người tốt hay người xấu thì cũng tới lúc phải nhắm mắt xuôi tay từ giả cuộc đời . Bà cũng vậy, rồi cũng tới ngày mà bà không còn gắng gượng được nửa, bà không ăn được cũng đã gân mười ngày rồi, bà chỉ có thể thắm môi vài giọt nước thôi. Ðêm trước hôm bà chết có con chim heo cứ đậu ử đầu hiên nhà kêu liên hồi,. người nhà quê tin là nếu chim heo bay tới đậu lên mái nhà nào và cất tiếng kêu thì y như nhà đó có người chết. Hôm bà chết trời mưa tầm tả, sấm chớp liên hồi, giữa trưa mà chẳng thấy được một tia nắng. Ðúng giờ Ngo thì bà trút hơi thở cuối cùng trong sự thương tiếc của mọi người. Vì chết vì bệnh già và lại cũng không ăn uống gì đã cả chục ngày nên bà đã gầy nay lại càng khẵng khiu hơn. Bà con xóm giềng xúm vào mọi người một tay lo cho hậu sự của bà. Người thi lo chặt cây chuối để trước hòm áo quan, người thì lo luộc trứng vớt dừa. Bà chết nhằm ngày xấu và cả mấy ngày sau cũng vậy, nhưng không thể để cái áo quan quá lâu được nên mọi người bàn với nhau chắc là bà cả đời nhân đức nên cũng không sao. Người ta dự định sẽ chôn bà vào ngày thứ ba. Ðêm đều trôi qua bình thường. Ðêm cuối cũng tự nhiên có rất nhiều điều kỳ lạ xảy ra. Tiếng chim heo kêu không dứt mặc dù trong nhà đã có người chết. Mèo gào suốt đêm và chó thì sũa ầm ỉ cả làng. Không ai bảo ai nhưng mọi người mơ hồ cảm thấy lo lắng về một điều gì đó sắp xảy ra.
Có tới hơn chục người thức đêm trông quan tài của bà. Ðám thanh niên ngồi túm lại một góc kể chuyện ma. Mấy người già cũng nhóm lại với nhau để nói chuyện mùa màng làng nước. Cách đó vài chục bước chân là quan tài cũa bà Nhieu Trinh. Khoãng ba giờ sáng bổng có tiếng động nhẹ. Mới đầu không ai để ý nhưng rồi sau đó tiếng động càng lúc càng rõ ràng hơn. Mọi người thi nhau phỏng đoán xem là tiếng động đó được phát ra từ đâu. Người thì nói là chuột chạy kẻ thì kêu là chó phá. Chẳng ai dám thừa nhận tiếng động đó là từ phía quan tài phát ra bởi vì ai cũng cố không tin vào điều đó. Bổng thằng Vinh đang ngũ bật ngồi dậy gọi bà nội. Nó nói là vừa nghe thấy bà nó gọi nó và nó cứ chăm chăm nhìn vào chiếc hòm nơi mà bà nó đang nằm trong đó. Mọi người không ai dám nói một tiếng nào nửa. Chó cũng ngừng sủa và mèo cũng chẳng còn kêu gào. Trong không khí ngột ngạt và im lặng như trước một cơn giông ấy thì tiếng bà Nhieu Trinh từ trong áo quan yếu ớt vang lên “cho tôi ra, cho tôi ra, tôi vẩn còn sống đây”. Hồn vía lên mây, chẳng ai rủ ai mà tất cả cũng nhao nhao chạy trốn ra khõi căn nhà của anh Trúc.
Tính tò mò bao giờ cũng mang lại cho người ta rất nhiều phiền phức và có khi những lổi lầm đó còn có thể dẩn tới tai họa. Sau khi ra khõi nhà anh Trúc một quãng, mọi người dừng lại và đứng tụm lại một chổ để nghe động tỉnh. Một lúc lâu sau không thấy có gì xãy ra, mấy anh thanh niên thách đố nhau quay trở lại ngôi nhà xem có gì xãy ra không. Vợ chồng anh Trúc lúc chạy vội vàng quá tới nổi quên cả thằng Vinh. Người này cứ tưỡng người kia cơng thằng bé đi rồi, giờ nhìn lại thì mới biết là cả hai vợ chồng lo chạy quá mà quên mất con. Hai vợ chồng bàn nhau quay trở lại nhà để đưa thằng Vinh ra. Lạ một điều là trước tới giờ thằng nhỏ chẳng bao giờ chịu ở đâu một mình, lúc nào cũng phải có người ở bên cạnh, thế mà từ nảy tới giờ chẳng thấy nó khóc lóc gì. Anh Trúc dẫn đầu cả đám thanh niên quay trở lại. Người nào cũng cố tỏ ra không sợ hãi, cứ bụng bão dạ là làm gì có ma mà sợ. Thực ra thì trong ngực anh nào cũng đánh thùm thụp cả. Tới đầu hè thì nghe thấy tiếng thằng Vinh bi bo nói chuyện, cứ một câu bà hai câu cháu. Thế là cả đám lại ù té chạy ra cách đó một quãng. Mẹ thằng Vinh sợ quá đứng run cằm cặp. Anh Trúc lúc này bổng nhiên thấy hết sợ, tình cha con là hơn hết, anh một mình bước rón rén lại căn nhà. Trong nhà vẫn chẳng có tiếng động nào khác ngoài tiếng của thằng Vinh. Thu hết can đãm anh bước vội vào nhà và bê thằng con chạy ra ngoài. Cả đám nhao nhao hỏi chuyện thằng bé. Ai cũng chung một thắc mắc " thằng Vinh nói chuyện với ai?". Thằng bé lên ba cứ từng câu từng câu nói ra một cách rành mạch. Nó kể là bà nội nó chưa chết, bà nội nó chỉ bị mệt rồi ngủ quên, bà đang nằm trong hòm chờ bố Trúc vào mở cho bà ra. Anh Truc nghe tới đây thì thấy hết sợ hẳn, anh chỉ thấy thương mẹ nằm trong hòm suốt hai ngày một đêm. Anh vội vàng chạy vào để đưa mẹ ra ngoài.
Vào tới nơi, anh Trúc nghe thấy tiếng bà Nhieu Trinh gọi thì thào "Trúc ơi, cho mẹ ra, nằm mõi quá rồi, đứa nào nó bó tao mà chật thế?". Nghe thấy vậy, anh lại càng tin là mẹ còn sống . Thế là anh nhào lại mở nấp hòm để đưa bà ra. Lúc này mọi người đã quay trở về đông đũ, ai cũng thấy mừng vì bà còn sống nhưng vẫn không hết hồi hộp. Mấy người thanh niên xúm vào khiêng bà ra khõi hòm. Lạ một điều là lúc trước bà nhẹ như đứa trẽ thì bây giờ thấy có vẽ nặng hơn nhiều. Ông Bách là người hôm trước tự tay khâm liệm bà, giờ lại cũng tự tay tháo đi những lớp vãi bó đi, vừa làm ông cứ vừa luôn miệng trách mình tại sao lại bất cẩn tới nổi bà còn sống mà cũng không biết
Từng lớp vãi được tháo dần ra, mọi người vì quá vui nên chẳng chú ý một điều là bà Nhiêu Trinh bây giờ nói nhiều và cộc cằn khác hẳn tính điềm đạm trước đây. Miệng vãi liệm cuối cùng được tháo ra, bà lừ mắt nhìn mọi người và gằn giọng "thế chúng mày mong bà chết lắm hay sao mà bà mới ngũ quên một chút mà đã vội vàng làm đám ma cho bà?". Mọi người ngồi nán lại để nói chuyện với bà nhưng bà cụ luôn miệng trách móc và đòi ăn. Anh Trúc thấy mẹ biết đói thì mừng lắm, từ lúc thấy mẹ chồng tỉnh lại, mẹ thằng Vinh đã chạy vội ra sau bếp đặt nồi cháo, định là để cho bà húp chút nước lấy lại sức. Cháo chưa chín nhừ nhưng bà Nhieu đói quá nên chị cũng đánh liều múc một bát lên mời mẹ. Nhìn thấy bát cháo, mắt bà Nhiêu sáng rực, bà nhào lại giật lấy từ tay con dâu húp luôn một hơi. Cháo mới nấu còn nóng, vậy mà bà dường như chẳng có cãm giác gì cả. Chắc là cả mười ngày nhịn đói trước đó và hai ngày nằm không một giọt nước trong hòm làm bà trở nên như vậy. Bà giục con dâu chạy xuống bếp lấy nửa. Chị Trúc lật đật chạy xuống bưng nguyên nồi cháo lên cho bà. Trong lúc chờ con dâu, bà thấy nải chuối để đầu hòm, bà sai một người đứng gần đó mang lại cho bà. Chuối mới chặt là chuối còn xanh, thế mà bà cứ từng quả từng quả ăn ngon lành. Có lẻ cách ăn cũa bà bây giờ phải gọi là nuốt vội vì bà khộng có răng thì làm sao mà nhai? Ngối với bà một lúc lâu rồi mọi người bắt đầu bảo nhau về cho bà nghĩ. Bà chẳng muốn thế vì bà còn đang thích nói chuyện. Sau khi người cuối cùng rời khõi nhà, bà vẫn còn đang thao thao. Tới sáu giờ sáng bà mới ngáp dài rồi kêu là buồn ngũ, anh Trúc dìu mẹ vào giường và giục vợ phụ anh dọn dẹp những thứ trước đây dùng cho đám ma. Cái hòm thì để lại góc nhà (ở nhà quê ngày trước người ta có thói quen tích trử áo quan trong nhà khi gia đình có người già cả).
Cả ngày bà Nhieu Trinh ngũ li bì, mấy lần anh Trúc tới mời mẹ dậy ăn cơm mà cũng chẳng thấy bà nhúc nhích , anh Trúc thỉnh thoảng lại phải sờ tay mẹ xem mẹ có còn sống hay không. Bà nằm đó, cũng giống như thời gian trước đây, yếu ớt và hơi thở thì thỉnh thoãng lại đứt quãng, khác hẳn với sự linh hoạt cũa đêm hôm qua. Thằng Vinh cứ khóc đòi bà nội bế nhưng bà chẳng hé mở mắt suốt từ lúc ngũ tới sầm tối. Chừng sáu giờ chiều thì bà cựa mình thức dậy, câu đầu tiên là kêu đói và sau đó là mắng thằng Vinh không để yên cho bà ngũ. Chị Trúc có nấu sẳn nồi cháo, bèn đưa lên mời mẹ. Cũng lại như đêm trước, bà chẳng cần chờ nguội mà cứ húp luôn một hơi. Hết bát này tới bát khác, làm cho cuối cùng chị Trúc phải bưng nguyên nồi lên. Chị định nấu nồi cháo đó cho mẹ ăn tới tối vậy mà chỉ trong một lúc là bà ăn hết sạch trơn. Thằng cháu đứng cạnh đó cứ ngẫn cả người vì thèm quá, trước đây, chẳng bao giờ bà không nhường cho nó.
…Ăn xong, bà lấy một cái nón lá đội lên đầu rồi đi ra khõi nhà. Dáng đi cũa bà thoăn thoát không giống như là một người già và nhất là cũa một người vừa qua cơn thập tử nhất sinh. Anh Trúc hơi băn khoăn khi thấy mẹ đội nón vì trời không còn có nhiều nắng nhưng anh cũng không hỏi gì bỡi vì anh cho là mẹ vừa chết đi sống lại thì thế nào cũng có những việc khác với thói quen lúc trước. Bà Nhieu Trinh đi ra tới đầu ngõ là đã gặp bà con lối xóm, người nào cũng vồn vã hỏi han và mừng cho bà thoát qua cơn hiểm nguy, nhưng đáp lại sự chân tình cũa mọi người là thái độ khinh khinh cũa bà. Chẳng nói chẳng rằng, bà cụ rườm rườm nhìn lại, làm cho người bắt chuyện cãm thấy ngạc nhiên và còn pha một chút sợ hãi. Qua tới cửa nhà ông Bách, thấy bà Bách và đứa cháu nội đang thơ thẩn chờ ngoài ngõ, bà xắn ngay lại nhiếc móc chuyện ông Bách bõ vãi bà chật quá. Bà Bách cứ luôn miệng xin lổi và mời bà vào trong nhà uống nước. Thằng cháu nhỏ cũa bà Bách có cũ khoai đang cầm trên tay, chẳng nói chẳng rằng, bà Nhieu giành lấy nuốt vội, thằng bé khóc ré lên, bà nội nó chẳng hiểu có chuyện gì mà thằng nhỏ lại trở chứng như vậy. Trời xầm tối nên gà nhà bà Bách lục tục kéo nhau lên chuồng, nhìn thấy mấy con gà mẹ với đám gà con, mắt bà Nhieu Trinh sáng rực lên. Ngồi nói chuyện được một chút thì bà lại quay qua ra đi. Ði ngang qua chuồng gà, bà liếc mắt nhìn có vẽ toan tính điều gì đó. Anh Trúc ở nhà chờ cơm mẹ mà chẳng thấy bà đâu, sốt ruột quá, anh chạy ra tận ngoài đường để ngóng. Trời đã tối hẳn, anh thấy thấp thoáng đằng trước có bóng người đang tiến lại thật nhanh về hướng nhà mình, trong chốc lát, người đó đã đi tới gần ngay trước mặt anh, đó chính là bà Nhieu Trinh. Lúc này bà đã không còn đội nón nữa, bà nhìn anh với cặp mắt *****g sòng sọc nhưng vẽ mặt lại tươi tắn hơn trước lúc đi rất nhiều. Ngồi vào mâm cơm, bà ăn liền mấy bát, bà cứ chọn những thứ ngon nhất để ăn cho thoả thích. Thằng Vinh cứ hết nhìn vào mâm cơm lại nhìn bà nội, chắc là nó đang thắc mắc lắm. Anh chị Trúc rửa tay xong lên chuẩn bị ăn cơm thì thấy chỉ còn có vài miếng cơm cháy dưới đáy nồi. Thức ăn cũng gần hết chỉ còn loe ngoe mấy cọng rau. Trong lúc đó bà Nhieu Trinh ngồi uống nước chè xanh ở đầu giường, bà cho cã hai chân lên giường rồi ngửa mặt sục ngụm nước on gong trong miệng. Thấy mẹ khác lạ quá , anh Trúc hơi sợ sợ nhưng chẳng dám nói ra. Ở nhà quê người ta đi ngũ sớm lắm, thường thì ăn cơm xong là chuẩn bị đi ngũ rồi. Gia đình bà Nhieu Trinh cũng vậy. Vợ chồng con cái anh Trúc đã đi nằm, nằm được một lúc rất lâu mà vẩn còn thấy bà Nhieu ngồi xỏm trên giường uống nước và nói chuyện một mình. Nhưng câu chuyện mà bà nói chẳng đâu vào đâu, nhưng bà nói liên tục không ngơi miệng. Hai vợ chồng cứ hỏi nhau là có chuyện gì xảy ra với mẹ nhưng cả hai cũng đành chịu vì chẳng biết trả lời ra làm sao. Thức quá thì cũng mệt, anh chị Trúc ngũ lúc nào không biết...
... Sáng sớm hôm sau, anh Trúc dậy để đi ra đồng thì lại thấy mẹ đang nằm thiêm thiếp trên giường, hơi thỏ bà yếu lắm. Anh Trúc đinh ninh là đêm qua vì mẹ thức quá khuya nên hôm nay mới vậy. Dặn dò vợ lo cho mẹ cẩn thận, anh quay người lấy cày cuốc để đi làm công việc nhà nông. Cũng như ngày hôm qua, bà cứ nằm lã trên giường, một chút nước cũng không thể nhấp môi được. Ở làng này từ trước tới nay chẳng hề xảy ra chuyện trộm cắp, người làng chẳng bao giờ phải lo lắng chuyện mất mát này nọ. Thế mà hôm nay, nhà bà Bách lại mất một con gà mái, bà đi tìm nó loanh quanh luôn quận mà chẳng thấy đâu. Ðàn gà con không có mẹ cứ ngơ ngác rất là tội nghiệp, cũng may là nhà bà có mấy con gà mái khác cũng đang nuôi con nên bà đành để cho chúng nó nhập chung đàn.
Chiều tối anh Trúc về vào thăm mẹ thì chẳng thấy bà đâu, hỏi vợ thì chị nói bà vừa ăn xong nồi sắn luộc và đội nón đi rồi. Chị còn nói cho chồng nghe là hôm nay bà nội mang thằng Vinh ra đầu hè lấy chổi đập túi bụi vì cái tội nó cứ đòi bà bế, chị xót con lắm nhưng chẳng dám nói sợ mẹ không vui.
Từ đó trở đi, ban ngày thì bà nằm thiêm thiếp như con cá được mang lên cạn, còn mổi khi mặt trời chuẩn bị khuất bóng là bà lại cắp nón đi ra khõi nhà. Hàng xóm láng giềng thấy tính tình của bà ngày càng thay đổi, nhất là mấy đứa trẻ con mổi lần nhìn thấy cặp mắt long sòng sọc của bà là lại lẩn trốn ra đàng sau lưng người lớn. Mới đầu người ta vẫn còn cho là bà bị thay đổi tính tình sau lần chết hụt nhưng dần dần về sau ai cũng sợ bà, không những trẽ con mà cả người lớn cũng rất ngại gặp bà. Mỗi khi nhìn thấy bà từ xa là người ta đã tìm cách lẩn ngay sang chổ khác nhưng thường là không thành công vì bà đi nhanh lắm, chỉ thoáng một chốc là đã tới ngay bên cạnh họ rồi. Mỗi khi gặp ai, bà thường gầm gừ những gì không rõ, thỉng thoảng có câu nào nghe được thì toàn là nuốt và bóp chết, cặp mắt cũa bà ngày càng sáng rực, giống y hệt cặp mắt mèo bật ánh sáng trong đêm. Trong làng liên tục xảy ra các vụ mất trộm gà, người ta cho là gần đây có cáo. Mọi nhà ra sức buộc cửa chuồng gà mổi khi trời tối rất kỷ càng nhưng tình trạng đó vẫn liên tục tiếp diễn, ngày ít thì một con, ngày nhiều có khi là hai hay ba con. Lạ một điều là mấy con gà mái nuôi thường kêu rất lớn mổi khi bị chạm vào người, đằng này, chẳng bao giờ có tiếng động gì để chủ nhà biết mà chạy ra xem. Mổi sáng thấy đám lông gà ở ngay góc tre đầu nhà nào là y như răng nhà dó đêm qua vừa bị mất trộm. Dân làng hoang mang lắm, quyết rình bắt bằng được con cáo tinh ranh.
Trong lúc ấy ở nhà anh Trúc cũng liên tiếp xãy ra nhiều sự lạ. Bà Nhiêu Trinh ngày càng hồng hào và trẻ ra trông thấy. Bà đã bắt đầu mọc lại răng và tóc cũng xanh trở lại. Lúc này bà không còn nằm lã suốt cả ngày nửa mà mỗi trưa bà đều thức dậy khoẻ mạnh y như lúc mặt trời khuất bóng, qua giờ Ngọ một chút thì bà lại nằm vắt xuống ngũ li bì. Thằng Vinh hồi trước được bà cưng chiều chừng nào thì bây giờ bị bà ghét chừng đó, không thấy nó thì thôi chứ hể thấy là thế nào bà cũng lôi ra đánh. Riết rồi thằng bé sợ bà cũng giống như những đứa trẽ trong làng sợ bà vậy. Bà ăn ngày càng khoẽ, sức ăn cũa bà thì hai người thanh niên cũng không lại. Mỗi bữa tối bà có thể ăn hết cả một nồi cơm hai đấu (một đấu bằng một kg). Ðặc biệt bà thích những thứ còn tươi sống, hôm trước chị Trúc mua được mớ cá người ta mới tát ao trong làng, chị đem thả vào vạc nước định đến trưa dọn dẹp xong sẽ làm. Xong xuôi chị trở ra thì chẳng thấy cá đâu, loang quanh luân quẩn một hồi chị vào lại trong nhà, nhìn thấy mẹ nằm trên giường chẳng hiểu nghĩ thế nào chị lại gần để xem thì ôi thôi, mép bà còn dính mấy cái vẩy cá. Chị đem chuyện này kể cho chồng nghe, anh Trúc gắt ngayđi và cho là vợ nói chuyện vớ vẫn. Thực ra anh nói vậy là để trấn an mẹ thôi chứ chính anh mấy hôm trước nhìn thấy mẹ bắt con thằn lằn trên tường nuốt sống.
Tháng trôi qua kễ từ khi bà Nhiêu Trinh sống lại, ngôi làng nhỏ bé đó có quá nhiều thay đổi. Ðiều quan trọng nhất là mọi người đã mất đi tiếng gọi “bà ngoại” thân thương đối với bà Nhieu. Hôm đó vào giữa trưa, cái quán nước đầu làng cũa chi Thắm có người khách lạ. Ông khách này trông chừng ngoài sáu mươi, người gầy đét và đen thui, vẽ mặt khắc khổ, chỉ có mổi đôi mắt là tinh anh. Ông ngồi uống nước mà mắt cứ chăm chăm nhìn về phía cuối làng, ông hỏi chị Thắm là gần đây trong làng có chuyện gì lạ xãy ra không. Chị Thắm mang đầu đuôi câu chuyện ra kể cho ông già nghe. Vừa lúc đó bà Nhiêu Trinh đội nón lá đi thoăn thoắt ngang qua. Chị Thắm chưa kịp lên tiếng thì ông già lạ đã hõi “người kia có phải là cái bà già mà chị nói là chết đi sống lại hay không?”. Chị Thắm gật đầu. Ông khách nói tiếp “nếu chị thực tình muốn cứu gia đình người con trai cũa bà đó thì làm cách nào bảo người nhà cũa họ ra đây gặp tôi càng sớm càng tốt, mà nhớ là đừng để cho bà cụ biết nhé”. Chị Thắm chẳng hiểu có điều gì xãy ra nhưng nghe giọng ông cụ có vẽ nghiêm trọng, chị vội vàng để quán lại nhờ ông trông rồi chạy đi tìm anh Trúc.
Lúc tới nơi, chị không dám lên tiếng mà đứng thập thò ngoài đầu ngõ bỡi vì chị nghe thấy tiếng bà Nhieu đang chửi bới gì đó ở trong nhà, chị nhìn thấy vợ chồng anh Trúc đang đứng ngay gần đó. Ðang loay hoay tìm cách để ngoắc chị Trúc ra thì bổng chị Thắm nghe tiếng ba Nhieu nhắc tới tên mình “con Thắm mà dám ló mặt qua đây thì bà vặn ngược cổ từ đằng trước ra đằng sau”. Nghe thấy vậy hồn vía lên mây, chị Thắm ba chân bốn cẳng chạy mất biệt. Về tới quán nước, chị nói cho ông khách lạ nghe câu chuyện vừa rồi. Ông già chăm chú nghe và cuối cùng thì nói mỗi một câu “thế là nó biết rồi đây”. Ông trả tiền nước rồi đi, trước đó ông dặn lại chỉ một câu “cô nói với anh Trúc là sáng sớm ngày mai ra đây gặp tôi, chuyện gắp lắm, nguy hiểm tới tính mạng”. Chị Thắm không dám quay lại nhà anh Trúc mà phải nhờ một người hàng xóm có thửa ruộng ngay cạnh ruộng anh Trúc nhắn anh Trúc ra gặp. Nghe tin, anh Trúc vội vàng bỏ việc lại đấy để ra xem có chuyện gì mà hồi trưa mẹ mình giận dử thế và giờ thì chị Thắm nhấn ra gặp. Chị Thắm kể lại cho anh Trúc nghe những lời ông khách hồi trưa nói với chị và dặn anh phải thật cẩn thận không để bà Nhieu biết.
Tối đó khác hẳn mọi bửa, bà Nhieu không đi ra khõi nhà nửa, bà ngồi xõm trên giường, luôn miệng chửi bới và hơn nửa bà lại còn giử chặt thằng Vinh không cho nó đi đâu mặc cho thằng bé khóc khan cả giọng. Anh Trúc thấy tình hình có vẽ không ổn nên sáng sớm hôm sau khi bà Nhieu vừa nằm xuống ngũ thì anh vội vàng chạy ngay ra đầu làng gặp ông già lạ. Tới nơi, anh chưa kịp thở thì đã thấy ông già đứng chờ với vẽ mặt hiện rõ sự sốt ruột. Chờ cho anh Trúc lấy lại hơi, ông bắt đầu hỏi từng chuyện một. Anh Trúc mang tất cả những chuyện lạ lùng ra nói cho ông nghe. Sau cùng ông già đó mới nói cho anh Trúc biết hiện giờ người đó không còn là mẹ anh nửa, vì mẹ anh chết vào giờ linh nên bị quỷ nhập tràng rồi. Hôm qua tôi đi ngang làng này, nhìn thấy phía cuối làng toàn là âm khí, nhất là khi ngồi uống nước ở đây tôi đã nhìn thấy nó đi nhón gót ngang qua đây. Hiện giờ nó đã lấy được nhiều sức mạnh. Chuẩn bị tới một trăm ngày kể từ hôm mẹ anh sống lại, con quỷ đó sẽ không còn bắt trộm gà hay ăn cá sống nữa mà nó sẽ chuyễn sang thằng bé nhà anh. Anh Trúc nghe tới đây thì tái mặt, mồ hôi tuôn như mưa, anh van lạy ông già tìm cách cứu gia đình và làng xóm. Ông già đưa cho anh ba lá bùa màu đỏ và dặn dò cẩn thận. Chẳng hiểu ông nói gì mà anh Trúc cứ vâng dạ luôn miệng.
Về tới nhà thì đã là giờ trưa, bà Nhieu không còn ngũ nửa mà đã ngồi dậy đòi ăn và ôm khư khư thằng Vinh. Anh Trúc tìm cách nói là cho thằng bé đi cắt tóc để bà thả nó ra nhưng nhất khoát bà không nới lơng dù chỉ một ngón tay. Anh Trúc nhìn thấy vậy lộ rõ vẽ lo lắng trên khuôn mặt. Suốt trưa hôm đó bà không rời khõi nhà, ăn uống xong là tới giờ bà ngủ, bà vừa ngủ vừa quặp chặt thằng Vinh. Thằng bé khóc suốt từ hôm qua tới giờ nên cũng không còn sức nữa, nó lã cả người đi rồi. Tới chiều thức dậy bà đổi giọng không chịu ăn cơm, bà đòi ăn thịt gà, chị Trúc cũng cố làm vừa lòng bà để mong bà thả thằng bé ra nên chạy qua nhà hàng xóm mua vội con gà về làm lông rồi luộc mang lên. Thấy con gà luộc, bà lại bắt đầu chửi bới, bà chửi chị Trúc ngu, con gà tươi thế mà lại giết chết mới mang lên cho bà. Chị Trúc nghe tới đâu dựng tóc gáy tới đó. Cuối cùng thì bà cũng làm sạch con gà. Mẹ thằng Vinh van lạy bà thả nó ra để cho nó ăn chút cháo, bà Nhiêu không đồng ý mà bắt chị đưa cháo cho bà đút cho thằng nhỏ ăn. Ngày hôm đó là ngày thứ chín mươi tám kể từ khi bà sống lại.
Sang tới ngày chín mươi chín thì sức khoẽ cũa bà gần như là tăng vườt trội, bà không còn ngũ một chút nào nữa, bà thức sáng đêm rồi lại thức nguyên ngày. Nghe lời ông già dặn, anh Trúc nói vợ vẩn cứ mang gà luộc lên cho bà, mặc dù bà yêu cầu mang gà tươi. Bà vừa ăn vừa chửi, mắt bà vằn lên những tia đỏ như máu, bà luôn miệng nói và bây giờ người ta có thể nghe rõ là bà nói gì. Bà nói sẽ ăn thịt uống máu từng đứa trong làng, cho tới lúc nào không còn một móng mới thôi. Ðêm hôm đó, chị Thắm đã chuyển lời cũa ông già tới những người cao niên trong làng, các cụ hợp mặt ở đình làng (là nơi linh thiêng nhất trong làng) để bàn chuyện cơ mật. Sau đó các cụ sai người đi gọi mấy anh thanh niên to khoẽ nhanh nhẹn nhất làng để bàn giao công việc.
Hôm nay là ngày thứ một trăm. Ngay từ lúc gà mới gáy, bà Nhiêu đã tõ vẻ vui mừng lắm, bà cười nói ầm ĩ và có vẽ chờ đợi điều gì đó. Càng tới gần trưa thì bà lại càng hoạt bát và dữ tợn. Trong lúc đó, anh chị Trúc không biết bằng cách nào để mang thằng bé ra ngoài bởi vì bà nhất quyết không rời nó ra một chút nào. Nghĩ ngơi một lúc, tự nhiên chị Trúc nãy ra sáng kiến. Cũng vào lúc đó ở trên nhà bà Nhieu đang la hét đòi ăn. Thay vì chị mang lên cho bà gà luộc như mấy hôm trước thì lần này chị mang cho bà một con gà mái to còn sống. Thấy con gà, mắt bà sáng rực lên, bà nhào tới giật lấy nó từ tay chị Trúc, chỉ chờ có thế anh Trúc đang nấp sẳn nhanh như cắt nhảy tới giật lấy thằng Vinh rồi chạy ra khõi nhà. Bà Nhieu sững người một chút rồi thét lên đuổi theo. Lúc này bên ngoài mấy người thanh niên và ông già lạ mặt đã chực sẳn, họ lấy cành dâu quay liên hồi làm bà không dám nhảy ra phía ngoài cửa, tuy nhiên lúc này bà trở nên nhanh nhẹn và hung dử khác thuong, bà nhảy tới nhảy lui trong ba gian nhà mà chân không bén dất. Lúc đó, ông già tiến vào nhà, trên tay ông là một nhánh dương liễu và một bình nước thiêng. Ở phía bên kia (cửa bếp) anh Trúc cũng tiến vào. Bà nhìn thấy ông già liền nhãy lui lại về phía cửa bếp. Thấy anh Trúc bà rú lên như nhìn thấy con mồi. Anh Trúc hoảng hốt toan bỏ chạy, ông già vội la to lên “ném bùa vào nó đi, không thì nó giết chết bây giờ” anh Trúc quay lại lấy hết tinh thần ném một lá bùa về hướng bà Nhiêu. Thấy lá bùa, bà Nhiêu khựng lại có vẽ sợ hãi nhưng khi thấy anh Trúc ném trượt, bà tiếp tục nhào lại phía anh. Anh Trúc ném tiếp lá bùa thứ hai, lại trượt. Lúc này bà Nhieu chỉ còn cách anh Trúc khoảng hai lần với tay, anh Truc chắc mẫm cái chết ở gần kề rồi. Nhắm mắt quăng liều lá bùa thứ ba. Ðúng là ở hiền gặp lành, lá bùa thứ ba trúng ngay vào giữa ngực bà Nhiêu. Lúc này hình dáng bà đã hoàn toàn thay đổi. Không còn chút nào là dáng vóc cũa bà Nhieu lúc trước. Tóc bà dựng ngược, mắt đỏ lòm như muốn lồi ra khõi hốc mắt, miệng thì ngoác ra nhìn thấy cà hàm răng trắng nhởn. Khi lá bùa chạm vào người, bà thét lên một tiếng kinh hoàng rồi ngã vật ra đất. Lúc bấy giờ mọi người kéo vào chật ních trong nhà. Dưới đất bây giờ là một cái xác thối rữa, không còn một bộ phận nào nguyên vẹn, ngay cả khuôn mặt cũng không còn nhận dạng ra được nửa. Thì ra đây mới là thể xác thực cũa bà Nhiêu Trinh vì bà chết đã một trăm ngày rồi.
Ngay ngày hôm đó, anh Trúc lại đem bà đi chôn trong cái hòm mà cách đây hơn ba tháng bà đã từng nằm trong đó.
Câu chuyện trên đã gần một thế kỷ rồi, bà ngoại tôi lúc đó mới chỉ mười ba tuổi. Bà tôi đã qua đời cách đây hai mươi lăm năm và hưỡng thọ tám mươi bãy.
_các bác cố gắng đọc nhé em sẽ cố sưu tầm về hiện tượng này
bạn biết gì về quỷ nhập tràng
Quỷ nhập tràng là một hình thức của xác chết biết đi, mượn xác người chết mà đội mồ sống lại. Hình như ở châu lục nào cũng có những loài tương tự như quỷ nhập tràng. Phương Tây có ma cà rồng, Ấn Độ có Vêtala, Trung Quốc có cương thi, thi biến… còn ở VN thì gọi là quỷ nhập tràng.
Điểm đồng nhất với nhau về các loại trên là tìm đến những người vừa mới chết, mượn thể xác họ sống dậy để làm những việc mà bình thường khả năng nó không làm được (vì không có thân tứ đại).
Thật sự là Thanh không có hiểu biết sâu về ma cà rồng của phương Tây, hy vọng có vị nào hiểu biết hơn sẽ trình bày đầy đủ và sâu sắc ở những bài nối tiếp. Xuất xứ của ma cà rồng phải chăng từ Rumani , gắn liền với tên tuổi của Bá tước Dracula- nhân vật có thực trong lịch sử quốc gia Rumani thời xưa, một nhân vật có thực mà sự độc ác vô song đã trở thành huyền thoại? Vùng đất của ma cà rồng mở rộng đến Bungari- xứ sở hoa hồng, Hung gary, Balan, Mônđavi… Tại sao những người chết lại có thể trở thành ma cà rồng? điều này vẫn đang chờ câu giải đáp của các vị nghiên cứu huyền thuật, ma quỷ phương Tây. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận là linh khí đất đai ở những nơi đó tạo ra chủng loại này. Ở những nghĩa địa lâu năm trong các làng ven núi các vùng Rumani, Balan, người ta nghe có những tiếng động ở dưới đất. Khi mở những ngôi mộ ra, họ thấy những xác chết- cả đàn ông và đàn bà đều hãy còn tươi tắn như đang sống, máu hồng làm thắm những đôi môi của họ, phải chăng họ đã dùng máu để nuôi sống thể xác? Để có thể tự cứu vãn linh hồn và cuộc sống của mình, dân làng đã đóng cọc vào tim các xác chết, sau đó bỏ làng dọn đến cư ngụ ở những làng khác, vì những làng xung quanh cũng có nghĩa địa, nhưng tại sao không hề có hiện tượng này. Trong quyển tiểu thuyết “Dracula” của nhà văn Bram Stoker, ta thấy bá tước ma cà rồng Dracula khi đi sang đất nước khác đã cho chở theo những chiếc thùng chứa đấy đất ở lâu đài mà hắn ở. Phải chăng những thùng đất ấy là nguồn sống của chủng loại này?
Những vùng giáp Vân Nam – Trung Quốc và Tây Bắc nước ta, có một số làng bản có người chết, họ không chôn xuống đất mà **c vách núi đặt quan tài vào hoặc đưa quan tài vào những động đá sâu thẳm trên dải Hòang Liên Sơn rộng lớn. Phải chăng những vị đạo sĩ, thầy mo ở đó đã nhận ra điều gì bất bình thường từ trong đất?
Cách chống ma cà rồng thường là nước Thánh, các vật đã được làm phép Thánh, Thánh giá, tỏi… biện pháp trừ tận gốc ma cà rồng là đóng cọc vào tim, cắt đứt đầu, nhét tỏi vào miệng xác chết và cuối cùng là thiêu hủy ( mấy vụ này là do đọc sách với lại xem phim mà kể lại, không phải do kinh nghiệm thật).
Vêtala ở Ấn Độ cũng là một loại quỷ nhập tràng. Ngày xưa, Ấn Độ có phong tục quấn vải vào xác chết, đem thây vào rừng, treo lên cành cây hoặc để dưới gốc cây cho đến khi rữa nát. Nơi để xác chết được gọi là Thi Lâm Một loài quỷ sống ở đó đã mượn những xác còn mới để sống dậy trở thành Vêtala, ăn thịt những xác thối xung quanh. Chuyện kể rằng, có một tay nhà buôn gần sạt nghiệp, được vị đạo sĩ huyền thuật tặng cho câu chú luyện Vêtala hy vọng đổi đời. Anh ta phải ra nghĩa địa, ngồi lên bụng xác chết mà trì tụng bảy đêm, cho đến khi nào xác chết cử động được và chịu hàng phục thì anh ta sẽ toại nguyện. Trì đến đêm thứ bảy, xác chết bổng mở mắt nói cười, anh nhà buôn hỏang hốt vọt mình bỏ chạy. Nhưng dù anh có đi đến đâu, con quỷ Vetala trong cái xác vẫn chạy theo tìm bén gót. Cho đến một ngày, anh quẫn trí nhảy lầu tự vẫn… (Tài liệu về loại quỷ này mình cũng không có, chỉ một ít cóp nhặt được từ trong sách vở dân gian của Ấn Độ trước đây mà thôi).
Ở Trung Quốc, phép luyện cương thi đã có từ lâu, nhưng phổ biến nhất là vào giai đọan cuối TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa Dân quốc. Mục đích luyện cương thi của các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những người đi làm ăn buôn bán, làm quan kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đường. Nếu mang xác chết về đến quê nhà e rằng đã trở thành đống xương mục nát. Vả lại, đường xa, xác chết bốc mùi làm sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cương thi, mở cõi trung giới trục thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông cứng, di chuyển được theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cương thi sợ ánh sáng mặt trời nên các thầy chỉ di chuyển vào đêm, vừa tránh dương quang vừa dễ di chuyển mà không phiền phức. Khi đưa về đến quê nhà, thường thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng hòang rồi mới làm phép giải thi, đưa các chủng loại ấy trở về cõi trung giới. Việc giúp người chết hồi quy cố hương của các đạo sĩ tạo điều kiện cho các chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa.
Tuy nhiên, càng về sau những đạo sĩ bất chính đã lợi dụng phép luyện cương thi để làm vật hại người, làm điều mờ ám như buôn bán thuốc phiện, chuyên chở thuốc súng… hàng được dấu trong mình cương thi, thậm chí họ còn giả cương thi để mang hàng. Mà mấy ai ngày xưa dám ngăn chặn đạo sĩ để khám xác chết bao giờ? Mãi về sau sự việc vỡ lỡ, nhà nước cấm đóan, phép luyện cương thi dần dần mai một…
(còn típ)
1 bài rất hay về quỷ nhập tràng mới
Vì đây là chuyện sưu tầm nên nhân vật xưng "tôi" trong chuyện không phải manhmocm đâu nhé các bác đừng lộn
câu chuyện như sau:
_Rất có thể xung quanh chúng ta hoặc bất thần trong gia đình 1 ai đó đã gặp hiện tượng Chết đi sống lại. Có thể đó là hiện tượng Hồn của người chết tự tìm được về với thể xác của mình (Y học quen gọi là Chết Lâm Sàng). Thế nhưng chuyện Quỷ Nhập Tràng lại là 1 chuyện khác tiềm ẩn bên trong nó sự khiếp đảm và kinh hãi của 1 thế giới Thần Bí mà đến tận bây giờ Lý giải nó chỉ là điều nan giải mà thôi.
Tôi xin trích ngang câu chuyện mà tôi đã được bà ngoại kể từ hồi còn nhỏ nhưng câu chuyện đó còn động lại trong tôi đến tận giờ. Người thầy của bà ngoại tôi, cụ học phép phù thủy của Không Minh và Quỷ Cốc tử. Chính vì vậy mà những cáo huyền bí xung quanh đạo Học cụ đều nắm rõ. Chỉ có điều riêng Thuật Bắt Ma thì có lẽ cụ không cao tay. Điều này không phải là do Đạo học của cụ kém mà do chính Thiên Can Địa Chi quyết định. Cụ tuổi Tý mệnh Mộc nên cái Uy hay đúng hơn là cái Khí Sắc không thể đủ Uy Lực Trừ tà sát quỷ. Riêng Bà ngoại tôi-người học trò-người con nuôi duy nhất được cụ truyền hết bá học lại có cái uy đó. Bà tôi kể rằng có 1 lần cụ nói với bà tôi rằng: Con có căn mệnh của cụ Ngộ Không (bà tôi tuổi thân mệnh Kiếm Phong Kim - thanh kiếm thần)vậy nên con có cái uy sát quỷ trừ ma, nhưng nhớ là cái nghề này nó bạc. Mình càng giúp dân độ thế được nhiều thì Quỷ ma càng oán mình nhiều. Và đây là câu chuyện của 1 lần bắt ma của bà ngoại tôi.
Một buổi sáng sớm 1 người phụ nữ dắt 1 cô gái mặt mũi ngây dại đến gõ cửa nhà bà ngoại tôi. Nhìn sắc mặt ngây dại nhưng vẫn nhơn nhơn của cô gái thì ai cũng bảo là nó bị điên rồi, cho vào nhà thương điên kia đi. Nhưng chỉ có người phụ nữ kia - Mẹ của cô gái hiểu rõ là con bà ta bị ma nhập. Bởi theo lời bà ta kể thì cứ thỉnh thoảng con ma kia lại mượn lời của cô gái và luôn mồm nói muốn lấy cô làm vợ. Bà đã chữa trị nhiểu nơi nhưng chỉ được lúc tức thời, còn về nhà đâu lại hoàn đấy. Mẹ tôi mở của cho 2 mẹ con người kia vào trong nhà. Người con gái mặt còn nhơn nhơn nằng nặc đòi mẹ dẫn về, vừa bước qua cửa để vào nhà bà tôi thì mặt chuyển sắc không dám nói năng mà khuôn mặt cũng không còn vẻ ngây dại nữa, cô ta ngồi im không nói không dằng, không còn có biểu hiện điên loạn hò hét nữa. Bà tôi cứ để 2 mẹ con họ ngồi đấy, bà đi đánh răng rửa mạt xong, pha ấm trà rồi mời mẹ con họ uống. Người con gái lễ phép cầm cốc trà lên uống. Vừa uống xong thì chân tay cô gái co quắp lại và quỳ xuống than khóc:
"Con lạy thầy, thầy tha cho con. Con chỉ là bộ đội chết ở cây đa gần nhà Hoa (tên cô gái) con thương Hoa nên muốn lấy Hoa làm vợ chứ con đâu có muốn làm Hoa điên. Nhưng vì con mụ này (hắn chỉ vào mặt mẹ cô gái) lại mời thầy bà về bắt con nên con điên con quyết làm Hoa điên để bắt Hoa làm Vợ con. Thầy thương con..."
Hóa ra à sau này tôi mới biết là trong cốc nước trà bà tôi đưa cho cô gái đã được bà dùng Trú quyết trong đó (Trú đó là Trú trói ma) đồng thời bàn chân phải của bà luôn di trên sàn nhà như kiểu viết chữ gì đó để khoán tà ma. Bà tôi chậm dãi uống cốc trà và bảo với anh bộ đội kia :
- Ngươi chết kiểu gì?
- Con chết bom trong 1 trân càn của địch
-Thế ngươi có định đi đầu thai không?
- Con không thích đi đầu thai, con muốn sống với Hoa. Anh bộ đội trả lời.
- 2 ngươi 1 trần 1 âm mà lại còn đòi lấy nhau thì là loạn Lẽ Trời. Không những Trời người không dung mà người còn bị đánh tan hồn vía vĩnh viễn không được nhìn thấy áng mặt trời ở dưới ngục A tỳ thôi. Ngươi xem nếu ngươi yêu Hoa thì lỡ để cô ta chết cùng ngươi à, hay để cô ta ngớ ngẩn thế này mãi. Người cúng có gia đình người thân. Gia đình người đau khổ thế nào khi ngươi mất đi thì Mẹ Hoa, gia đình cô ta cũng vậy.
Người bộ độ cúi đầu lặng yên. Bà tôi dần không di chân phải nữa, người cô gái không còn bị co quắp nữa và tay chân được thoái mái hơn. Cô gái khóc, giọt nước mắt của anh bộ đội. Hắn đã thấu hiểu và không còn muốn cái ước vọng lấy Hoa làm vợ nữa. Nhưng hắn đòi làm cho hắn 1 mâm cỗ, 1 hình nhân nữ giống Hoa, tiền bạc, thuyền để hắn còn đi đầu thai chịu tội. Mẹ cô gái ghi hết những lời hắn yêu cầu. Cuối cùng bà tôi nói với hắn rằng : "Ngươi đã hiểu ra là tốt, nhưng đã hứa buông tha là phải buông tha. Người nhà Hoa sẽ làm theo đúng thỉnh cẩu của nhà người để cho ngươi mau đi đầu thai chịu tội. Còn nếu mà ngoan cố lừa gạt thì lúc đấy ta dùng Phép trục hồn ngươi ra khỏi người Hoa để ngươi mãi không được siêu sinh. Ngươi nhớ đấy."
Và rồi bà tôi thi 3 nén hương trước mặt cô gái, cô ta giật mình và chạy tới ôm bà mẹ khóc nức nở sợ hãi. Người bộ đội đã thoát mệnh thể khỏi người cô
Bà tôi kéo mẹ cô gái vào phòng trong nhà, đưa cho bà ta 5 đạo Dấu (Bùa của Đức Thánh Trần) và dặn là đeo trước cửa nhà 2 lá, cô gái 2 lá, 1 lá đốt cho cô gái uống. Bà tôi dặn rõ ràng như vậy bởi sợ rằng con ma kia bội tín.
Khoảng 1 tháng sau, 2 mẹ con cô gái đến nhà bà tôi tạ lễ bởi cô gái đã bình ổn. Nét mặt cô rạng rỡ hơn sau 3 năm ngây dại.
Sau này khi tôi đã được 8 tuổi bà đã không còn theo cái Nghiệp Bắt ma nữa bởi vì bắt nhiều quá nên Quỷ ma nó oán và nó luôn theo để báo thù con cái cháu chắt của Bà ngoại tôi. Và Mẹ tôi cũng đã bị 1 lần ma nhập báo thù. Và sau lần chữa cho Mẹ tôi thì bà đã quỳ trước Điện tiền xin không theo nghiệp bắt ma nữa.
Và câu chuyện Quỷ nhập tràng của bà như sau : Ở 1 nhà nọ, người Vợ bị ốm đã lâu mà không thấy thuyên giảm. Người chồng hàng ngày vẫn bán hàng nước để nuôi vợ và kiếm kế sinh nhai. Có 1 lần người vợ đột nhiên qua đời, người chồng đau khổ lắm mới để đến sáng hôm sau thì Niệm. Không ngờ 4 tiếng sau khi tắt thở, người Vợ đột nhiên bừng tỉnh và khỏe hơn bao giờ hết. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Người Chồng thấy Vợ sống lại thì mừng lắm và ông còn mừng hơn nữa khi bệnh tình của Vợ cũng khỏi luôn. Nhưng chỉ có 1 điều là Vợ ông từ lúc sống lại cả ngày chỉ ở trong phòng, ăn xong rồi trùm chăn mà rất sợ ánh sáng. Ông cũng thấy lạ nhưng nghĩ là chắc Vợ mới khỏi bệnh nên mệt. Thấm thoát đã được 3 tháng trôi qua, người Vợ giỡ đã bớt sợ ánh sáng hơn và sắc mặt trở nên sạm đen hơn nhưng đặc biệt là rất khỏe.
Một buổi sáng nọ, có 1 ông già dáng vẻ hành khất đến quán nước của người Chồng uống nước (Đó là thầy của bà ngoại tôi). Cụ già này sắc mặt hồng hào nhưng bàn tay trái thì bị tật nên hơi khó cầm các thứ. Cụ ngồi lại nơi quán hàng nước của người Chồng và nhâm nhi chén trà chát. Thỉnh thoảng lại thấy người Chồng chạy vào trong phòng rồi lại chạy ra, rất tất bật như chăm con thơ vậy. Cụ già cất lời :
- Ta thấy Bác vất vả quá nhỉ, nhà có người ốm à hay phải chăm sóc bà đẻ vậy.
- Dạ, không ạ. Nhà cháu đấy ạ. Nhà cháu vừa mới khỏi bệnh nên ăn nhiều lắm mà lạ là ăn không biết no a. Người Chồng vui vẻ đáp lời.
Cụ già ngồi đó nhâm nhi mẩu ô mai mặn và đang định bước đi thì bất thần cụ nhìn thấy cái bát mà người Chồng mang ra rửa sau khi cho Vợ ăn. 1 vết xước dài đen ngòm hằn trên bát. Vết đen này chắn chỉ nhãn quang như cụ mới nhìn thấy được. Cụ giật mình và tim đập mạnh, trong đầu cụ hiện lên 3 chữ QUỶ NHẬP TRÀNG. Cụ ngồi lại nơi quán nước để đợi người Chồng ra tính tiền. Cụ lân la hỏi chuyện:
- Này Bác, cho tôi hỏi là bác gái nhà mình bệnh gì vậy mà ăn khỏe thế?
- Cụ ơi, nhà con khỏi rồi cụ ạ. Cũng may mắn lắm cơ, nhờ Trời nhờ Phât mà hóa rủi thành may. 3 tháng trước con tưởng là mất nhà con rồi cơ cụ ạ thế mà nhà con sống lại mà lại mạnh khoe mới mừng chứ cụ ạ!
- Được 3 tháng rồi cơ à? Cụ già lộ vẻ lo sợ
- Vâng, được tròn 3 tháng rồi cụ ạ! Con giờ chỉ chăm sóc nhà con thôi cũng thấy vui. Người Chồng đáp lời trong sự vui mừng khôn tả.
Kinh Nghiệm và lòng nhân hậu của người Thầy đã thôi thúc cụ già phải cứu anh Chồng và cả gia đình họ hàng anh ta. Nhưng giờ cứu như thế nào đây khi mà con Quỷ Nhập Tràng kia đã được 3 tháng rồi. Gờ nó tinh ranh và ma quái hơn nhiều.
Xin cho tôi ngừng chuyện để giải thích QUỶ NHẬP TRÀNG là gì? Quỷ Nhập Tràng là cụm từ mà trong giới phù thủy bắt ma gọi là hiện tượng Khi 1 người mất đi thì hồn người đó sẽ bị 2 ông quỷ sai(Chiêu Hồn Sứ) dẫn đi chịu tội. Nhưng trong cái khoảnh khắc đó thì có 1 hồn ma khác lại nhẩy vào chiếm cái thể xác kia khi mà cái xác đó vẫn còn hơi ấm và sự sống( như kiểu sống ký sinh). Nhưng tai hại là do mượn xác nên ko thể hòa nhập ngay với cái xác kia được mà phải mất đúng 3 tháng 10 ngày mới hoàn toàn điều khiển được cái xác mượn kia. Chỉ có điều là Quỷ Nhập Tràng rất sợ ánh sáng, ăn rất khỏe và không biết no. Tai hại hơn là sau 3 tháng 10 ngày hắn sẽ đi tìm bằng hết họ hàng của cái xác mượn kia để ăn thịt.
Trở lại với câu chuyện của người Chồng. Sau 1 hồi suy nghĩ khá lâu, cụ già kéo người Chồng ra 1 chỗ cách xa nhà của anh ta rồi mới nói hết những cái mà cụ nhin thấy về gia cảnh hiện tại của anh. Anh thanh niên lạc quan cười bảo : Cụ ơi nhà con con biết, nhà con không bị Quỷ Nhập Tràng đâu.
- Thế anh có thấy dạo này gà vịt hay lợn trong nhà anh bị mất con nào không?
- Cụ nói con mới nhớ, gần đấy con nuôi 2 con lợn định đem bán thì hôm nọ mất 1 con, chả hiểu là bị ai bắt mà vào chuồng chỉ thấy 1 vũng máu. Còn gà thì mất nhiều cụ ạ, con nghĩ chắc mấy đứa trẻ quanh xóm nó bắt chơi.
- Không đơn giản như anh nghĩ đâu. Đấy là Quỷ Nhập tràng nó ăn đấy. Bởi vì đến tầm 3 tháng là nó đã cứng lắm rồi, giờ nó thích máu tươi hơn. Anh phải nghe tôi để cứu anh và cả dòng họ anh nữa. Anh phải làm theo tôi thì mới mong thoát tai kiếp này.
- Vaaang, cụ dạy co... Người Chồng đã bắt đầu run sợ thật sự.
- Giờ nó rất tinh ranh, không biết chừng giờ nó đã biết tôi gặp anh để bày trò bắt nó nên nó coi chừng đấy. Bởi nó đọc được suy nghĩ của anh. Giờ anh về là nó bắt anh nó cắn xé đấy. Chúng ta phải thu bát nó ngay đêm nay. Giờ anh làm đúng như tôi nhé, nếu không là cả tôi và anh cung không thoát nổi nó đâu. Ỏ đấy có 7 lá bùa Thái Thượng Lão Quân. Giờ anh kiếm cho tôi 1 con gà sông và 7 cái bát sành. Anh dán 7 cái dấu này vào lòng 7 cái bát sành. Anh mang con gà và 7 cái bát đã dán dấu trèo lên mái nhà anh, chỗ có phòng ngủ mà con Quỷ Nhập Tràng ở, ném con gà xuống trước, đợi cho nó ăn xong con gà thì lần lượt ném 7 cái bát xuống. Tôi sẽ ở ngoài Trấn Huyệt hộ anh. Ânh đi làm ngay đi.
Người Chồng đi làm đúng theo lời cụ già dặn. Anh nhẹ nhàng trèo lên nóc nhà, lấy miếng ngói đỏ ra và ném con gà xuống. Con Quỷ nhào ra nhai ngấu nghiến con gà trong thèm khát, người Chông quay mặt đi ghê sợ. Rồi khi lần lượt từng cái bát sứ chiu vào bụng con Quỷ Nhập Tràng, đến cai bát thứ 7 thì nó lăn ra, 1 mùi hôi thối của cái xác người Vợ 3 tháng bốc lên nồng nặc. Cụ già vẫn ở ngoài Trấn huyệt. Cụ thấy 1 luồng khí xanh bay qua rồi vụt chạy thẳng vào tít xa mà không thấy quay trở lại. Sang hôm sau, người Chồng an táng vợ.