http://fengshuiexpress.net/
Printable View
https://www.youtube.com/watch?v=gYDlbHuRsY0
KHAI QUANG GIÁC LINH VẬT KHÍ PHONG THỦY
https://www.youtube.com/watch?v=sy84s4tFIH0
Hướng dẫn đọc chú đặt và an vị vật phẩm phong thủy kích hoạt tài lộc trong nhà
Các Hội quán của người Hoa ở Hội An
(31/03/2015)
Người Hoa có mặt tại Hội An rất sớm, từ thế kỷ XVII họ đã đến đây buôn bán, lập phố phường để giao thương với người bản địa, cư dân các vùng thượng nguồn sông Thu Bồn và thương nhân của nhiều nước đến buôn bán tại Hội An. Trong nhiều thế kỷ sinh sống tại đây, họ đã tạo dựng nhiều công trình kiến trúc rất có giá trị như nhà ở, nhà thờ tộc, đền miếu, hội quán... Trong số đó, Hội quán được xem là những công trình tiêu biểu nhất về cả kiến trúc lẫn công năng sử dụng. Hội quán được xây dựng với mục đích chính là để làm nơi sinh hoạt của đồng hương, đồng thời là nơi thờ cúng các vị thần bảo trợ và những bậc tiền hiền của từng bang.
Hiện nay, trong khu phố cổ Hội An còn 5 hội quán của người Hoa đó là:
1) Trung Hoa Hội Quán: còn gọi là Dương Thương Hội quán, Chùa Bà, Chùa Ngũ Bang, trường Lễ Nghĩa,...
Hội quán toạ lạc ngay tại trung tâm khu phố cổ Hội An (số 64 Trần Phú), mặt nhìn ra hướng sông Hoài. Theo các văn bia và tư liệu Hán - Nôm hiện đang tồn tại cho biết hội quán này được xây dựng vào khoảng năm 1741, đến nay công trình này đã trải qua nhiều lần trùng tu nhưng cơ bản vẫn giữ nguyên gốc theo lối kiến trúc nguyên thuỷ ban đầu.
Hội quán Trung Hoa được xây dựng theo hình chữ “Quốc”, gồm nhà tiền giảng (tiền điện), chánh điện, tả vu và hữu vu (còn gọi là nhà Đông và nhà Tây). Nhà tiền giảng gồm 3 gian với nhiều cột gỗ cao to, từơng lắp bằng các mảng đá lớn được vận chuyển từ Trung Quốc sang. Chính giữa tiền điện là cửa ra vào chính, bên trên là bức hoành đá chạm khắc 4 chữ “Trung Hoa Hội Quán”, bức hoành phía sau chạm 4 chữ “Thiên hạ vi công”, tương truyền chữ này là lấy nguyên mẫu theo thủ bút của Tôn Trung Sơn. Hệ kèo của tiền điện là vì chồng rường giả thủ được chạm trổ tinh vi, sắc xảo, các đầu dư của kèo được chạm trổ hình đầu rồng. Hai gian bên của tiền điện còn có 2 cửa Đông - Tây đó là Hoà bình môn và Bác ái môn.
Tiếp sau tiền điện là khoảng sân rộng được lát đá và trang trí nhiều cây cảnh, hoa lá. Phía Đông và Tây của sân có hai dãy nhà dài là tả vu và hữu vu. Trước đây, hai dãy nhà này được người Hoa sử dụng làm nơi giảng dạy tiếng Hoa các cấp sơ - trung học cho con em của họ, vì vậy nơi đây còn có tên là Trung Hoa công học hay trường Lễ nghĩa.
Chính điện được nôí với nhà tiền điện bởi tả vu và hữu vu. Kết cấu bên trong của chánh điện chủ yếu là khung gỗ với hệ thống cột kèo cao to, sơn son tráng lệ. Vì kèo được tạo theo kiểu chồng rường giả thủ, chạm trổ đơn giản, ít cầu kỳ. Gian giữa là khám thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu vị nữ thần hộ biển của người Hoa. Hai gian bên thờ Tài Bạch Tinh Quân và Quan Âm Bồ Tát. Ngoài ra, trong hội quán còn thờ hai thần Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ và mô hình thuyền buồm, đây là mẫu thuyền ngày xưa được người Hoa sử dụng làm phương tiện hàng hải giao thương buôn bán.
Hội quán Trung Hoa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng và hội họp đồng hương chung của cả 5 bang Phúc Kiến, Triều Châu, Gia ứng, Hải Nam và Quảng Đông.
2) Phước Kiến Hội Quán: còn gọi là Kim Sơn Tự, chùa Phúc Kiến.
Hội quán toạ lạc trên khoảng đất rộng, mặt giáp đường Trần Phú, lưng giáp đường Phan Chu Trinh. Theo các tài liệu hiện tồn cho biết hội quán được khởi dựng vào khoảng năm 1757.
Tương truyền, vào thời xa xưa, khu vực này còn là rừng cây cối rậm rạp, dãy phố phía trước còn là dòng sông, có một tượng Phật dạt trôi đến. Thấy trong tượng có nhiều vàng, dân địa phương lấy số vàng đó thuê người đốn gỗ xây dựng chùa thờ Phật. Qua nhiều năm tháng mưa nắng dãi dầu, chùa hư hỏng dần. Năm 1697, đó là thời kỳ hưng thịnh của đô thị thương cảng Hội An, thương nhân Phước Kiến đến Hội An ngày một nhiều nên đã mua lại chùa này để xây dựng hội quán để làm nơi thờ tiền hiền, thần và làm nơi hội họp đồng hương.
Với mặt bằng khuôn viên đất kéo dài từ đường Trần Phú đến đường Phan Chu Trinh, hội quán Phước Kiến được kiến trúc theo hình chữ Tam. Cổng ngoài bằng bê tông cốt thép, xi măng đúc liền một khối. Qua một số bậc cấp thì lên đến sân trước tam quan, tam quan là dãy tường dài, giữa có ba lối đi, hai dãy tường bên đắp nổi hình cửu long mô phỏng theo cửu long bích trong Tử Cấm Thành Bắc Kinh. Sau tam quan là khoảng sân rộng dùng để đặt chậu cảnh, hồ nuôi cá.
Khu vực chính bao gồm tiền điện, nhà Đông Tây, chính điện và hậu điện theo kiểu nội công ngoại quốc (trong hình chữ công, ngoài hình chữ quốc). Cấu trúc kèo tiền điện dạng chồng rường giả thủ, kết cấu chồng đấu con sơn chạm trổ tinh vi, đẹp mắt. Đặc biệt là các bức giả màn được chạm lộng theo hình chim, cây, hoa, lá xếp chồng ẩn hiện. ở đây còn có những bức hoành lớn sơn son thếp vàng hoặc chạm xoi, chạm nổi tạo nên vẻ khang trang, uy nghi. Sau tiền điện là sân trời có mái che lợp ngói vảy cá, hai bên là nhà giải vũ chạy dài ra đến hậu điện. Chính điện rộng lớn với hệ cột kèo bằng gỗ quy mô sơn son, mái lợp ngói ống, bờ nóc trang trí đồ án lưỡng long triều dương và nhiều tượng người, tượng thú rất có giá trị về mặt tạo hình dân gian. Trong chính điện thờ tượng Thiên hậu Thánh mẫu, tương truyền đây là vị thánh có công cứu giúp những người bị nạn trên biển nên được đại đa số người Hoa thờ cúng. Trước tượng Thiên hậu Thánh mẫu bày hai hàng lỗ bộ bát bửu, bên trái đặt mô hình thuyền buồm. Đây là mẫu hình thuyền của thương nhân người Hoa từng sử dụng để vượt biển buôn bán. Hậu điện cũng được xây dựng quy mô với hệ cột tròn to lớn liên kết bởi các vì chồng rường giả thủ, các khám thờ được chạm trổ cầu kỳ, sơn son thếp vàng. Gian giữa hậu điện thờ Lục tánh Vương gia. Gian phía Đông thờ Kim Hoa nương nương (ba bà chúa Sanh Thai và 12 Bà Mụ), gian phía Tây thờ Tài Bạch Tinh quân.
3) Triều Châu Hội Quán: còn gọi là chùa Triều Châu, chùa Âm Bổn, chùa Ông Bổn, được khởi dựng vào khoảng năm 1845 và được trùng tu vào các năm 1887, 7970...
Hội quán Triều Châu được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngọai quốc, mặt quay theo hướng Nam - Tây Nam. Phần trước hội quán là nhà tiền điện được làm chủ yếu bằng gỗ và đá. Mặt tiền được lắp dựng bằng nhiều mảng đá lớn có chạm trổ nhiều đồ án trang trí như: lý ngư hoá long, long mã, hồ điệp, tứ linh, hoa điểu... Nội thất tiền điện được kiến trúc theo kiểu chồng rường giả thủ, thân các vì kèo chạm trổ hết sức tinh vi, lộng lẫy. Ngoài ra, bên các rường chính còn gắn nhiều mảng chạm lộng, chạm lủng theo các môtíp bức bình phong, long mã, chim muông... Bờ nóc, bờ hồi được tạo dáng cong vuốt, mền mại với kết cấu đa tầng, khoảng cách giữa các tầng đắp nổi nhiều hình hoa điểu, nhân vật.
Chính điện rộng lớn gồm 3 gian, kết cấu chủ yếu là các cột gỗ to và các vì chồng rường giả thủ đặt trưng. Đặc biệt, các con ke trang trí được điêu khắc thành các hình thân rồng đầu cá, rồng dây, long mã... Các cánh cửa chính đều được làm bằng gỗ, chạm trổ nhiều đồ án cát tường như: thái bình hữu tượng, thái sư thiếu sư, sư tử hý tiền... Gian giữa chính điện có khám thờ chạm trổ lộng lẫy thờ tượng Phục Ba tướng quân - vị thần chém sóng, trị gió để biển yên gió lặng và phù hộ thuận buồm xuôi gió. Hai gian bên thờ Tài Bạch tinh quân và Phước Đức chánh thần.
Nối liền giữa nhà tiền điện với chánh điện là tả vu và hữu vu, nơi đây dùng để tiếp khách, chuẩn bị phẩm vật để hiến cúng trong các dịp đại lễ của hội quán. Phía sau của tả, hữu vu là nơi thờ linh vị của các bậc tiền hiền, hậu hiền của các bang Triều Châu. Hàng năm, vào dịp tết Nguyên tiêu (rằm tháng giêng), hội quán đều tổ chức lễ cầu phước và cúng giỗ tiền hiền.
4/ Quỳnh Phủ Hội Quán: còn gọi là hội quán Hải Nam, chùa Hải Nam.
Theo các tài liệu hiện còn lưu giữ tại hội quán cho biết công trình này được xây dựng vào khoảng năm 1875 và đại trùng tu vào năm 1931.
Một số tư liệu có ghi chép rằng vào thời nhà Nguyễn có một 108 thuỷ thủ người Hải Nam đi buôn gặp gió tấp thuyền vào lánh nạn tại cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn), bị quan quân nhà Nguyễn tưởng nhầm là tàu của giặc cướp nên đã nã đại bác bắn chìm thuyền, 108 người tử nạn oan uổng. Sau khi điều tra rõ sự tình, vua Tự Đức sắc phong họ là “Nghĩa Liệt Chiêu ứng”, cho phép xây đền thờ cúng để an ủi linh hồn.
Hội quán Hải Nam được kiến trúc theo hình chữ quốc với quy mô rộng lớn chạy dài từ đường Trần Phú đến đường Phan Chu Trinh. Nhà tiền điện là kiến trúc mới nên vật liễu xây dựng chủ yếu là bê tông cốt thép, ít có chạm trổ điêu khắc. Chính điện được tạo dựng khá quy mô với các hàng cột lớn đứng trên những chân tảng bằng đá cẩm thạch; các vì chồng rường đồ xộ liên kết các hàng cột với nhau tạo thành khung chịu lực chắc chắn. Các khám thờ trong chánh điện được điêu khắc tinh vi thể hiện sự tài tình giàu nghệ thuật trong kỹ thuật điêu khắc truyền thống. Đặc biệt, án thờ gian giữa chạm khắc nổi, mạ vàng cảnh sinh hoạt tam giới “trời, đất, thuỷ cung” hết sức lộng lẫy, uy nghi. Nối giữa chánh điện và tiền điện là hai dãy nhà Đông, Tây. Hai dãy nhà này cũng được kiến trúc chủ yếu bằng gỗ nhưng kết cấu đơn giản.
Hàng năm, vào dịp rằm tháng 6, người Hải Nam tổ chức vía 108 vị Nghĩa Liệt Chiêu ứng và cúng giỗ tiền hiền. Lễ cúng được tổ chức linh đình với sự tham gia của Hoa Kiều bang Hải Nam ở Hội An và nhiều nơi khác như: Tam Kỳ, Đà Nẵng, Huế...
5/ Hội quán Quảng Triệu: còn gọi là Hội quán Quảng Đông, chùa Quảng Triệu.
Hội quán Quảng Triệu nằm phía cực Tây của đường Trần Phú, cạnh phía Đông Bắc Chùa Cầu. Đây là hội quán có niên đại xây dựng muộn khoảng cuối thế kỷ thứ 19. Tuy vậy, niên đại xây dựng cụ thể của hội quán cần phải được nghiên cứu lại, bởi vì nhiều tài liệu ghi rằng Quảng Triệu hội quán được xây dựng vào năm 1885 tức năm thứ 11 đời vua Quang Tự nhà Thanh. Nhưng thực tế, cây xa cò hiện đang gắn trên di tích lại ghi trùng tu năm Quang Tự thứ 10 tức năm 1884, bồn hương hợp chất đặt trước chánh điện lại ghi Quang Tự năm thứ 9 tức năm 1883. Như vậy thì trùng tu trước, xây dựng sau. Có người cho rằng trước kia Hội quán được xây dựng tại Thanh Chiêm (phía Tây Hội An) và được dời về kiến dựng lại ở Hội An vào năm 1885, nhưng điều này vẫn chưa tìm được tư liệu ghi chép cụ thể.
Tuy có niên đại xây dựng muộn nhưng hội quán Quảng Triệu được tạo dựng khá công phu độc đáo không kém gì các hội quán khác. Công trình được kiến trúc theo kiểu hình chữ quốc trên một nền đất rộng, cao ráo. Nhà tiền điện khá quy mô với các mảng tường được lắp dựng bằng đá, hệ cột kèo cao to, chạm trổ tinh xảo, lộng lẫy, mái tạo dáng cong vuốt, nhiều tầng, khoảng cách giữa các tầng gắn nhiều tượng người, tượng thú theo các điển tích xưa.
Chính điện rộng lớn khoáng đãng với hệ cột kèo đồ xộ được liên kết bởi các vì chồng rường giả thủ vững chắc. Điện chia làm 3 gian, gian giữa thờ Quan Công và ngựa Bạch, Xích thố; Hai gian còn lại thờ Tài Bạch tinh quân và Phước Đức Chánh thần. Ngoài ra ở hai phía Đông Tây còn có tả, hữu vu được tạo dựng đơn giản để nối giữa nhà tiền điện với chánh điện. Khoảng giữa sân có hồ nước lớn đắp nổi hình rồng uốn lượn uyển chuyển theo tích “lý ngư hoá long”.
Hàng năm, vào dịp rằm tháng giêng, hội quán tổ chức lễ hội Nguyên tiêu, cúng giỗ tiền hiền. Lễ hội này diễn ra sôi nổi với các nghi thức tế lễ truyền thống, đãi tiệc mừng hội ngộ đồng hương và cầu chúc đầu năm gặp vận may, phát tài, phát lộc.
Các bang của người Hoa đều xây dựng hội quán, riêng bang Gia ứng (còn gọi là Khách Gia, người Hẹ) do số lượng người quá ít nên họ không xây dựng hội quán mà sinh hoạt chung tại Trung Hoa hội quán. Các hội quán đều có tổ chức Lý Sự Hội do hoa kiều trong bang bầu ra để đảm nhiệm, điều hành công việc của hội quán. Riêng ở Trung Hoa hội quán, ngoài tổ chức Lý Sự Hội điều hành công việc chung của 5 bang còn có Đổng Sự Hội để điều hành việc dạy học tiếng Hoa tại trường Lễ Nghiã.
Các hội quán người Hoa là những công trình kiến trúc tiêu biểu, độc đáo. Các lễ hội, phong tục tập quán của người Hoa... cũng góp phần làm đa dạng phong phú loại hình văn hoá ở di sản văn hoá Hội An. Ngoài ra trong các di tích còn lưu giữ khá nhiều hiện vật, tài liệu quý giá giúp cho những người nghiên cứu có điều kiện nghiên cứu về quá trình di nhập cư, sinh hoạt thương mại của người Hoa ở nhều thế kỷ trước.
Phòng Văn hóa và Thông tin Hội An
http://hoiantourism.info/CMSPages/Ba...DBaiViet=12524
Độc đáo hoa tre trong “cúng bổn mạng” đầu năm ở Huế
14/02/2016 15:15
Không biết có tự bao giờ mà hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong lễ “cúng bổn mạng” đầu năm của mỗi gia đình xứ Huế. Nội tôi kể rằng: Thuở xưa khi chưa có “ông tổ” khai sinh ra loại hoa tre thì người ta “cúng bổn mạng” bằng hoa thọ. Hoa thọ mang ý nghĩa trường tồn, cầu mong được sống lâu để sum vầy cùng con cháu.
Những điều cần biết về lễ cúng ông Công, ông Táo
Thời gian đẹp nhất để làm lễ cúng ông Công ông Táo là mấy giờ?
Hết Tết, lễ hóa vàng tiễn Tổ tiên cúng sao cho đúng?
Thông thường lễ “cúng bổn mạng” từ ngày mùng 4 – 16 tháng Giêng. Tuy nhiên, tập trung nhiều nhất là tối mồng 8 - 9, vì đó được coi là ngày “tiên sư giáng hạ”. Tại một số địa phương, phong tục “cúng bổn mạng” còn được tiến hành suốt tháng Giêng.
Lễ “bổn mạng” cúng ở trang ông, trang bà và thờ tranh bổn mạng – một loại tranh do các nghệ nhân ở làng Sình (xã Phú Mậu, Phú Vang, Thừa Thiên Huế) vẽ. Mục đích của lễ “cúng bổn mạng” là cầu cho thân mạng của người đàn ông hoặc đàn bà được vẹn toàn, thoát khỏi những “tai ương” và rủi ro trong cuộc sống thường nhật, ước nguyện gặp điều tốt lành trong năm. Hay nói cách khác là cầu mong được bảo toàn tính mạng.
Độc đáo hoa tre trong “cúng bổn mạng” đầu năm ở Huế - Ảnh 1
Người dân xứ Huế làm hoa tre - một trong số các lễ vật không thể thiếu khi làm lễ "cúng bổn mạng".
Lễ vật dâng cúng cũng thật đơn giản, chỉ có hoa quả tươi, bánh trái, cau trầu rượu, một đĩa xôi, và cặp bông tre. Gia đình nào theo đạo Phật nghĩa là đã “gửi thân mạng” của mình cho Quan Âm Bồ Tát thì lễ bổn mạng gồm xôi chè, hoa quả, bánh kẹo và cặp bông tre. Ngoài 60 tuổi thì không còn phải làm lễ “cúng bổn mạng” nữa.
Ngay từ tháng 11, tháng Chạp người ta đã chuẩn bị tre, chọn tre để làm hoa. Để làm hoa tre trước hết là chọn tre còn tươi, sau đó cưa tre thành từng đoạn dài khoảng 20 cm có hình tròn to bằng ngón tay cái, rồi dùng mác (rựa) thật bén để vót tre. Mác càng bén thì đường tre vót ra càng cong vút và sắc nét. Sau khi các cọng tre được vót ra đầy đặn thì dùng tay vo cho hoa tre được tròn trịa hơn, phía dưới vót nhọn để khi cúng cắm vào dĩa xôi gọn gàng.
Hoa tre được nhuộm màu đỏ, màu gạch, màu cánh sen, màu vàng đậm để người mua tùy sở thích mà chọn lựa. Thông thường người mua chọn màu đỏ nhiều hơn vì người ta quan niệm rằng đầu năm sẽ được gặp nhiều may mắn, cái gì cũng “đỏ” như bông hoa tre.
Độc đáo hoa tre trong “cúng bổn mạng” đầu năm ở Huế - Ảnh 2Hoa tre đã nhuộm đỏ
Ở nông thôn, người làm hoa tre chỉ cần vài chục ngàn đồng mua phẩm nhuộm vì nguyên liệu tre đã có sẵn trong vườn nhà. Ông Trần Đình Luyện (xã Thủy Dương, TX.Hương Thủy-Thừa Thiên Huế), sau 3 ngày miệt mài ngồi vót hoa tre cũng có thu nhập thêm vài trăm ngàn đồng, góp phần cải thiện bữa cơm gia đình. Còn bà Lê Thị Quỳnh ở xã Phú Dương (huyện Phú Vang,Thừa Thiên Huế) cho biết: Hằng năm, sau khi ăn Tết xong thì cả 3 mẹ con tui vót hoa tre suốt cả tuần, vót đến đâu khách quen đến lấy hết hàng chừng đó. Thu nhập trong mùa cúng bổn mạng cũng được cả triệu bạc. Giá bán sỉ hoa tre mỗi cặp là 2.000đ, còn giá bán lẻ dao động từ 3.000đ- 5.000đ/ cặp tùy theo từng phiên chợ, từng khách mua.
Hằng năm, từ ngày 4 – 16 tháng Giêng, hoa tre được bày bán khắp các chợ trong thành phố Huế. Từ chợ Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự, Tây Lộc, Nam Giao… cho đến các chợ ở những vùng quê xa như chợ Mai, Sịa, Truồi, Thuận An, Vinh Thanh… đâu đâu cũng thấy có bán hoa tre.
Ở xứ Huế, mỗi loài hoa đều có nét đẹp riêng, có giá trị sử dụng trong từng lễ nghi riêng biệt. Nếu hoa giấy được thờ cúng ở trang ông, trang bà, bếp thờ táo quân, thì hoa tre là lễ vật không thể thiếu trong “cúng bổn mạng” đầu năm. Âu cũng là nét phong tục đẹp, góp phần tô điểm cho mùa xuân - mùa của lễ hội càng thêm rực rỡ và thi vị hơn nhiều…
Dân việt\
http://baodansinh.vn/Images/2016/02/...bon-mang-3.jpg
http://baodansinh.vn/Images/2016/02/...bon-mang-2.jpg
http://baodansinh.vn/hoa-tre-trong-c...ue-d26335.html
Bulletin - Museums of Art and Archaeology, University of Michigan
https://books.google.com.vn/books?id=k5HrAAAAMAAJ
1978 - Art
(Om Varunaya svaha.) Then clasp your ... (Om VarQtryai svaha.) The "body" mudra: ... The mental heart dharani: Om maha sriye. mri ve svaha. (Om Great Devi ..
Hướng dẫn niệm Phật
Published on Apr 30, 2012
Niệm Phật mà không có lực thì không thành công được. Ví dụ sau đây sẽ làm rõ câu trên, tụi mình thử quan sát hai cách ném giấy của hai người sau đây: 1. Một lực sĩ cầm một tờ giấy lịch để nguyên như vậy và ném . Cho dù ông ta ném mạnh đến đâu đi nữa, ông cũng không thể ném xa được. 2. Một em bé lấy một cục đá và gói trong miếng giấy đó và ném thì khỏi cần nói: em bé có thể ném xa hơn lực sĩ kia mà không cần dùng sức nhiều cho lắm. Lực sĩ và tờ lịch để nguyên là hình ảnh của một người đang niệm Phật mà không có lực. Như vậy hình ảnh thứ hai là hình ảnh của người niệm Phật mà có lực. Như vậy muốn niệm Phật cho được việc thì nên ... gói cái gì trong câu niệm đó? “Niềm tin”: Vì tin rằng có một thế giới là Cực Lạc nên người niệm Phật chỉ mượn tạm cuộc đời
https://issuu.com/lubushow/docs/cachniemphat
CÁCH KHAI MỞ LUÂN XA
Cách khai mở luân xa
Tập trung tư tưởng và dùng mudras (các vị trí trên cơ thể mà chủ yếu là ở bàn tay, có ảnh hưởng đến nâng cao năng lượng cơ thể) và phát những âm thanh để mở Luân xa. Tạo dựng cho cơ thể chúng ta một sức khỏe bền bỉ, tinh thần minh mẫn.
Để tăng cướng hiệu quà cần phải phát âm, kêu lên những âm từ của Sanskrit (ngôn ngữ cổ của Án độ) , Khi phát âm nó tạo ra tiếng vang trong cơ thể chúng ta mà chúng ta có cảm giác rung động đúng luân xa đang gọi.
Khi phát âm, nhớ trong đầu là:
Chữ “A”, thì phát âm là “ah”.
Chữ “M”, thì phát âm “mmg”.
Một lần thiền định từ 7 đến 8 hơi thở. Phát âm nhiều lần cho 1 hơi thở (Vd: 3 lần).
1. Khai mở luân xa gốc rễ:
Để cho đầu ngón tay và đầu ngón trỏ của bạn chạm nhau.
mở luân xa
Tập trung tư tưởng vào vị trí luân xa gốc rễ (vị trí giữa hậu môn và bộ phận sinh dục).
Phát âm “LAM”.
2. Khai mở luân xa Xương cùn.
Đặt hai bàn tay vào lòng như hình, hai lòng bàn tay ngửa lên, bàn tay trái dưới, phải trên. Đầu hai ngón tay trỏ chạm nhẹ vào nhau.
mở luân xa
Tập trung tư tưởng vào luân xa xương cùn ( là phần tận cùng của xương sống ).
Phát âm “VAM”
3. Khai mở luân xa Rốn
Đặt hai tay trước bụng, hơi thấp một chút. Để cho các ngón tay châu vào nhau (như hình), chĩa ra ngoài. Đan chéo hai ngón cái. Nên nhớ quan trọng là làm cho các ngón ta thẳng.
mở luân xa
Tập trung vào luân xa rốn, nắm ở trên rốn một chút.
Phát âm RAM.
4. Khai mở luân xa Tim
Ngồi bắt chéo chân (theo kiểu ngồi thiền). Để ngón tay trỏ và tay trái chạm nhau (cả hai bàn tay). Đặt tay trên lên đùi trái và tay phải lên trước ngực (như hình).
mở luân xa
Tập trung tư tưởng vào Luân xa Tim, ngang với Tim.
Phát âm “YAM”
5. Khai mở luân xa vùng Yết hầu:
Đan ngững ngón tay vào nhau, hai ngón cái châu đầu vào nhau, kéo nó lên một chút.
mở luân xa
Tập trung tư tưởng vào Luân xa Yết hầu.
Phát âm “HAM”
6. Khai mở luân xa “Mắt thứ 3”:
Đặt tay trước ngực và bụng. Hai ngón tay giửa thẳng, chạm đầu ngón tay vào nhau, hướng ra (xem hình). Các ngón khác uốn cong chạm vào nhau. Ngón cái chạm đỉnh và hướng vào bạn.
mở luân xa
Tập trung tư tưởng vào Luân xa “Mắt thứ 3”. Nằm giửa hai chân mày.
Phát âm “OM hay AUM”
7. Khai mở luân xa “Đỉnh đầu”:
Đặt hai tay trước bụng. Hai ngón tay đeo nhẫn thẳng, chĩa lên, hai đầu chạm nhau. Đan cheó những ngón còn lại (xem hình). Ngón tay cái trái dưới ngón phải.chạm đỉnh và hướng vào bạn.
mở luân xa
Tập trung tư tưởng vào Luân xa “Đỉnh đầu”. Nằm ngay giửa đỉnh đầu.
Phát âm “NG”
http://thientamism.com/cach-khai-mo-luan-xa
Câu trả lời hay nhất: Trước hết bạn cần kiểm tra sức khỏe tổng quát, nhà cửa có bị gió lùa (cửa có kín không), tăng cường mở các cửa sổ ban ngày để thông khí và thu ánh sáng mặt trời.
1. Một số điều nhận biết khi có luồng năng lượng xấu xâm nhập:
- Gương thường bị mờ hoặc rỗ (gương tráng thủy)
- Hệ thống điện, nước thường xuyên bị trục trặc mặc dù đã kiểm tra kỹ về kỹ thuật
- Nhiệt độ trong nhà thấp bất bình thường đặc biệt vào các thời điểm: giữa trưa, giữa đêm, chạng vạng tối
- Mặt dù nhà đóng kín cửa nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện luồng gió lạ
- Tâm thường bất an dễ giật mình , rùng mình
- Cảm giác có một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng
- Thỉnh thoảng thấy có gió lạnh hiu hiu thổi tại huyệt Á môn (điểm lõm sau ót)
2. Các việc có thể thực hiện ngay:
- Thông khí, lau dọn nhà cửa. Pha ít muối vào nước để lau dọn nhà cửa.
- Đặt các lọ đựng muối hột vào các góc nhà, góc phòng
- Nấu lá bồ kết xông nhà
- Nếu được bạn đến chùa thỉnh tượng Phật (đặc biệt Đức Quán Thế Âm Bồ tát) về thờ và đốt nhang hàng đêm.
Thực hiện được, âm khí nếu có sẽ giảm, dương khí sẽ tăng, nhà sẽ ấm lên.
3. Đối với cá nhân bạn:
- Nếu có sân thì mỗi sáng sớm khi mặt trời mới ló dạng bạn đứng thẳng ngước mặt về phía mặt trời thở điều hòa . Trong đầu tự nhủ: "ánh sáng mặt trời ấm áp đang thấm vào thân thể bạn. Cảm giác thấy ấm ở ấn đường (khoảng giữa trên trán phía trên điểm giao của hai hàng lông mày). Đây là phương pháp hấp thụ tăng dương khí, tẩy uế khí.
- Thử bố trí lại phòng ngủ. đổi phòng hoặc thay đổi vị trí giường nằm, hạn chế đặt gương soi trong phòng ngủ. Chú ý: không để đầu nằm gần cửa, xem có dầm nhà phía trên giường ngủ không.
- Thường niệm Phật hiệu. Nên niệm: Nam mô Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát.
- Thật ra rất khó đề giúp tường tận cho bạn vì còn nhiều yếu tố phải xem xét : phong thủy ngôi nhà, bố trí các phòng trong nhà....Việc tẩy trừ các năng lượng xấu chắc bạn khó tự thực hiện được
Dưới đây là Bạch Y Thần chú, bạn có thể chép ra và đọc trước khi ngủ hoặc khi xuất hiện các triệu chứng bất tường. Đọc càng thường xuyên càng tốt, nếu thuộc lòng được là tốt nhất:
BẠCH Y THẦN CHÚ:
Tu lị tu lị ,ma ha tu li,tu tu lị ,ta bà ha ( đọc ba lần)
Tu đa lị ,tu đa lị ,tu ma lị ,ta bà ha ( đọc ba lần )
Nam mô tam mãn đà ,một đà nẫm ,án, tô rô tô rô,địa vĩ ,ta bà ha ( đọc ba lần )
Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn ,quảng đại linh cảm bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát . ( đọc ba lần )
Nam mô Phật ,nam mô Pháp ,nam mô Tăng ,nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Đát chỉ đá,án dà la phạt đá ,dà la phạt đá ,dà ha phạt đá ,la dà phạt đá ,la dà phạt đá ,ta ha.
Thiên la thần ,địa la thần ,nhân ly nạn ,nạn ly thân nhất thiết tai ương hóa vi trần.
Ngoài ra có thể đọc Ngũ bộ Quán âm chú dưới đây:
Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn:
oṃ raṃ - âm Việt: Án Lam
Văn Thù Hộ Thân Chân Ngôn:
oṃ śrīṃ - âm Việt: Án Sĩ-lâm
Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn:
oṃ maṇi padme hūṃ - âm Việt: Án Ma Ni Bát Di Hồng
Chuẩn Đề Cửu Thánh Tự Đà La Ni:
oṃ cale cule cunde svāhā - âm Việt: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha
Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh Chân Ngôn:
oṃ bhrūṃ - âm Việt: Án Bộ-lâm
Trước mắt chỉ có thể góp ý như trên, bạn thử thực hiện xem sao.
Chúc an tịnh thân tâm
https://vn.answers.yahoo.com/questio...j&guccounter=1
https://www.youtube.com/watch?v=TIIKKJgCYQk
10 Bí Quyết giúp TIỀN Đẻ Ra TIỀN của Người Do Thái - Biết Sớm Giàu Sớm
https://www.youtube.com/watch?v=gimE9f-mWwM
7 Cách Vượt Qua Sự KÉM CỎI và TẦM THƯỜNG (Chắc Chắn Thành Công)
https://i.ytimg.com/vi/4WqqVwv1glA/hqdefault.jpg
泰国神僧龙普班招财咒(梵文版) LP Parn Rich Gatha (Sanskrit
curvetube.com
泰国神僧龙普班招财咒(梵文版) LP Parn Rich Gatha (Sanskrit ...
http://curvetube.com/%E6%B3%B0%E5%9B...qVwv1glA.video
Những BÍ ẨN Khủng Khiếp về thành phố truyền thuyết ATLANTIS
https://www.youtube.com/watch?v=1U66kNmCWno
https://www.youtube.com/watch?v=n3SC6xUBKl8
47 List of tallest statues in the world.
47 List of tallest statues in the world
47 Lord Murugan Statue 室建陀神像
46 Kailashnath Mahadev Statue, Nepal
45 Phra Puttamingmongkol Akenakkiri Buddha, Phuket
44 Virgen del Socavón, Bolivia
43 Jixiang Dafo, 雲南西雙版納吉祥大佛
42 Nossa Senhora de Fátima, Brazil. 花地瑪聖母
41 Statue of Liberty 自由女神
40 Monumento a la Virgen de la Paz, Venezuela
39 Fo Guang Big Buddha 佛光大佛
38 Ten Directions Samantabhadra Bodhisattva峨眉山金頂十方普賢
37 Jinding Dafo 金鼎大佛
36 Donglin Dafo 廬山東林大佛
35 Dai Kannon of Kamaishi 斧石大觀音
34 Samadhi Buddha, Sri Lanka 三莫地菩薩
33 African Renaissance Monument 非洲復興紀念碑
32 Guerrero Chimalli (Chimalli Warrior) 奇馬利戰士
31 Taiwan Chengte Dafo 正德大佛
30 Sodoshima Dai-Kannon 小豆島大觀音
29 Usami Dai-Kannon 宇佐美觀音
28 Buddha Dordenma statue, Bhutan 舵登瑪大佛
27 Tokyo Wan Kannon 東京灣觀音
26 Aizu Jibo Dai-Kannon 會津慈母大觀音
25 Zheng Chenggong Dashenxiang 鄭成功大神像
24 Great Standing Maitreya Buddha 峨嵋湖彌勒大佛
23 Luangpho Yai, Thailand
22 Guan Yu of Yuncheng 山西運城關羽像
21 Guanyin of Mount Xiqiao 西樵山觀音像
20 Guze Jibo Daikannon 救世慈母大觀音
19 The Motherland Monument 祖國母親紀念碑
18 Son Tra Quan Am, Vietnam 山茶觀音菩薩像
17 Leshan Giant Buddha 樂山大佛
16 Confucius of Mount Ni 尼山孔夫子銅像
15 Kaga Kannon 加賀觀音
14 Guanyin statue in Tsz Shan Monastery 大埔慈山寺觀音
13 Bronze statue of Dizang at Mount Jiuhua 九華山地藏王菩薩銅像
12 Guanyin of Nanshan 海南島南山海上觀音聖像
11 Awaji Kannon 淡路島世界平和大觀音
10 The Motherland Calls 俄羅斯祖國母親在召喚
9 Grand Buddha at Ling Shan 靈山大佛
8 Yang'asha of Guizhou 貴州仰阿莎雕像
7 Dai Kannon of Kita no Miyako park 北海道大観音
6 Great Buddha of Thailand 泰國大佛像
5 Sendai Daikannon 仙台大観音
4 The sculptures of the Emperors Yan & Huang炎黄二帝巨型塑像
3 Ushiku Daibutsu 牛久大仏
2 Laykyun Sekkya, Myanmar 緬甸大佛
1 Spring Temple Buddha 中原大佛