-
guidingstar4u
The greatest WordPress.com site in all the land!
Skip to content
TRANG CHỦABOUT
Lục Thập Hoa Giáp – Ngũ Hành
Chu kỳ 60 năm
Muốn
tìm "năm sanh" chẳng hạn, bấm một lượt Ctrl và F
Ngũ đế: Hoàng đế (Huỳnh đế),
Bạch đế, Hắc đế, Thanh đế, Xích đế, năm vị thần trấn năm hướng vào đây xem
thêm! Ý nghĩa cũa Phú Quí,
Cô Bần, Tân Khổ, v.v. xem bên dưới!
*Chú ý trong bài này
tôi đề cập đến 2 loại Mệnh:
Sinh mệnh và Cung mệnh. Sinh mệnh gắn liền với con giáp của một người và thường
dùng trong tướng số, cân xương đoán số, là mạng "thiên định". Ngoài
ra còn có Cung mệnh, trừ một số ít người, cung mệnh nam và nữ thường khác nhau
(trai 7 vía, gái 9 vía) và cũng trừ một số ít người Cung mệnh thông thường khác
với Sinh mệnh của một người.
Khác với Sinh mệnh, tất cả các câu hỏi trong đó thắc mắc của người xem là
"có hợp hay là không?" thì phải xem Cung mệnh
theo "Cung phi" (theo bảng này). Thí dụ một vài câu hỏi:
vợ chồng có hợp hay không? chọn người làm ăn hùn hạp có hợp hay không? đeo đá
phong thủy, mặc trang phục màu ngũ hành theo phong thủy như vậy có hợp hay
không? xây nhà theo hướng (đông/tây/nam/bắc) như vậy có hợp hay không? tức là
tất cả những gì "nhân định" chính mình có thể thay đổi vận số cho
mình.
Sinh
Mệnh = Cung Ký = Cung Sanh : hễ cùng tuổi với nhau thì đàn ông cung gì thì đàn
bà cũng cung đó
Cung Mệnh
= Cung Phi Mệnh = Cung Phi (gồm Cung Phi Bát Trạch và Cung Phi Bát Tự)
Có đứa quen than với
tôi rằng: "theo bảng này, em là con nhà Xích đế, cô bần! vậy là em thua
chắc…", rồi mặt mày và thân người nó xìu và thểu nảo như cọng bún riêu.
Tôi không thể nhịn cười, nói với nó: "hôm bửa nghe khoe xương 5 lượng 4
chỉ mà! Sao hôm nay mặt giống như mới bị ai giựt đồ vậy?".
Như đã có nói trong "Cân xương đoán số",
số mạng con người không chỉ dựa vào có mấy chử trong Lục Thập Hoa Giáp này mà
quyết định được trọn một đời người.
Tại sao biết bao nhiêu người sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng giờ,
nhưng số mạng lại không giống nhau? Kẻ đang trên lưng voi bổng xuống cởi chó,
người đang cực kỳ quang vinh lại phải vô ngồi tù? Ở xã hội nào cũng đều đọc
được những tin tức đó!
Đời người từ khi mới sanh đã chịu ảnh hưởng môi trường bên ngoài, xã hội xung
quanh cũng như tiềm năng, tánh nết ở bên trong, mầm mống, gien, phước đức hoặc
gian ác, tham lam của cha mẹ ông bà tích lũy. Một số người tự mình lại nẩy sinh
lòng tham, tham ô, tham nhũng, tham lời nhiều nên cuối cùng mất hết bởi vì y
như người mê cờ bạc, càng thắng họ càng tham mà có ai nghe nói chủ casino nghèo
bao giờ đâu? Tiền chưa chắc đem lại hạnh phúc và may mắn mà đôi khi nó mang lại
họa diệt thân, trong một tíc tắc Họa Phúc, Thời Cơ có thể chuyển biến.
Ai nói số mạng không thể thay đổi? theo tôi thì "số mạng có thể đổi"
không đổi được hoàn toàn, cũng có thể tạm thời thay đổi. Bởi vì giữa trời đất
không có gì là tuyệt đối. Nếu đã tới số, đoán biết trước được thì mình tìm cách
tránh, không được thì cũng không ân hận vì trước đó mình đã có thử né roài
hihihi. Người nghiên cứu phong thủy cũng giống như người nhìn thiên nhiên mà
đoán biết được hôm nay có mưa hay không? hôm đó họ muốn xuất hành và đã mang
theo dù. Họ đã đoán đúng, trời trở mưa, nhờ có dù che mà họ có thể tránh được
cảm lạnh, bịnh hoạn. Thiên thời trong thiên nhiên luôn luôn là như vậy, điều gì
đến nó sẽ đến (trời mưa), may mắn cho những ai đoán biết được để có chút xíu
lợi thế hơn những kẻ khác.
Vì Thiên cơ không nên nói ra, nên mình coi cho mình là tốt nhứt, vận số tự
chính mình nắm trong tay. Quyết định đúng hay sai là do ở mình coi và hiểu được
đến đâu về luật phong thủy, là những điều luật gom góp từ kinh nghiệm lâu đời
truyền lại chứ không phải ai đó tùy tiện nói đại.
Có câu: "Đức năng thắng số" Đức ở đây không phải đem hết tiền cho ăn
mày hay cúng nhà thờ hay "thầy" chùa để trông mong thần phật giúp, mà
Đức chính là giúp người từ tâm của mình, giúp không kể công, cũng không cầu
mong sự đền đáp và kỵ nhứt là lường công người khác.
Trong mọi việc làm, ăn uống, không nên làm ác hay giảm bớt cái ác. Bởi vì tích
đức không những cho con cháu mà là cho chính mình trong kiếp này đó vậy.
1974,2034 GiápDần – cung Cấn – Dương Thủy –
Đại Khê Thủy
: Nước dưới khe lớn – Lập định chi hổ: cọp ngồi yên – xương con cọp, tướng tinh
con trâu – khắc Sơn Hạ Hỏa – con nhà Hắc đế, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Đoán xem số mạng Giáp Dần,
Đại Khê mạng Thủy nước sông chảy hoài.
Số tuổi lúc nhỏ gian nan,
Có lúc bịnh tật khóc hoài khó nuôi.
Lớn lên làm có của kho,
Có rồi lại hết sớm đầy tối vơi.
Số này phải chọn phương xa,
Lập nên cơ nghiệp vậy mà mới yên.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu,
Về sau mới được an hòa gia môn.
Trung vận phát đạt giàu sang,
Cũng nhờ hồng phước của Trời ban cho.
Nhưng nhà chẳng đặng yên vui,
Trở về vận cuối gia môn đắc thành.
Nữ mạng Giáp Dần có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Giáp Dần số gái khôn ngoan,
Đại Khê mạng Thủy nước khe chảy dài.
Đàn bà sanh thuận Thu Đông,
Thanh nhàn sung sướng có chồng giàu sang.
Xuân Hạ sanh ra lỗi mùa,
Đêm ngày lo lắng muôn phần chẳng an.
Nhưng số vận mạng gian nan,
Tưởng đâu âm phủ đòi sanh đã rồi.
Số gái lập nghiệp phương xa,
Duyên tình trắc trở nhiều lần mới nên.
Anh em cha mẹ chẳng gần,
Ở gần sung khắc đi xa nhớ buồn.
Tiền vận có của như không,
Hậu vận tụ của gia đình ấm no.
1975,2035 Ất Mẹo – cung Ly – Âm Thủy – Đại Khê Thủy – xương con mèo, tướng tinh
con dơi – khắc Sơn Hạ Hỏa – con nhà Hắc đế, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Số tuổi Ất Mão như vầy,
Đại Khê nước lớn chảy về thiên nhiên.
Thu Đông sanh thuận mới yên,
Thanh nhàn sung sướng sáng kiến nhiều nghề.
Xuân Hạ lỗi số bị chê,
Giàu có làm đặng công thần cũng lo.
Xét qua trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm hương nhụy trăng vòng tròn gương.
Chẳng qua gãy gánh giữa đường,
Duyên sau chắp nối mới yên gia đàng.
Tiền bạc làm có trong tay,
Ba chìm bảy nổi đổi thay gia đình.
Số phải xa mẹ khắc cha,
Tha phương lập nghiệp tiền tài thạnh hưng.
Nữ mạng Ất Mão có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Ất Mão mạng Thủy cung Ly,
Nước trong khe lớn tự nhiên chảy hoài.
Thu Đông sanh đặng hạp thời,
Có phần sung sướng hưởng đời giàu sang.
Xuân Hạ lỗi số gian nan,
Phần đông vất vả tấm thân lạc loài.
Con người lòng dạ thông minh,
Bụng nghi thì có thật tình chẳng sai.
Làm ăn tiền bạc có hoài,
Ba chìm bảy nổi đổi thay gia đình.
Nhưng mà trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm hương nhụy trăng vòng sáng gương.
Chẳng qua gãy gánh giữa đường,
Duyên sau chắp nối mới yên gia đàng.
1976,2036 Bính Thìn – cung Khảm – Dương Thổ – Sa Trung Thổ
: Đất lẫn trong cát, Đất ở sa mạc – xương con rồng, tướng tinh con chuột – khắc
Dương Liễu Mộc – con nhà Huỳnh đế, phú quí.
Nam mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Bính Thìn số mạng tuổi này,
Tuổi cùng với mạng ấy là tương sanh.
Số người tánh nết hiền lành,
Tánh thì đằm thắm thuận hòa tương lân.
Mạng này có phước lộc trời,
Phong sương cũng lắm gian nan cũng nhiều.
Số phải lập nghiệp phương xa,
Cửa nhà yên ổn gia môn hiệp hòa.
Trung vận làm có của kho,
Nhưng mà hậu vận mới là hiển vinh.
Số này phước lớm mới an,
Không thời chết hụt chết oan đã rồi.
Giận ai nói dữ nói nhiều,
Lòng không độc ác nói rồi bỏ qua.
Nữ mạng Bính Thìn có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Bính Thìn cung Khảm sanh ra,
Mạng Thổ cát trắng thật là chẳng sai.
Mùa Hạ sanh đặng thời may,
Giàu nghèo cũng sướng guốc giày nhởn nhan.
Mùa Xuân sanh cái khổ nàng,
Rất là cực nhọc chẳng màng tấm thân.
Anh em cũng chẳng được gần,
Tình đầu trắc trở bởi sầu lương duyên.
Về sau nhờ phước lộc trời,
Cửa nhà yên ổn gia môn phát tài.
Trung vận còn phải bôn ba,
Trở về cuối vận mới là hiển vinh.
Nếu nàng tích đức tu thân,
Về sau con cháu muôn phần nhẹ lo.
1977,2037 Đinh Tị – cung Khôn – Âm Thổ – Sa Trung Thổ : Đất pha cát – xương con
rắn, tướng tinh con cú – khắc Dương Liễu Mộc – con nhà Huỳnh đế, phú quí.
Nam mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Trong tâm thường có tánh linh thường thường.
Số người khôn khéo mọi đường,
Nếu mà lỗi số thiên đình sầu vương.
Có khi mắc phải tai ương,
Phu thê cắn đắng đôi phen mới bền.
Thấy ai thất thế lỡ đường,
Ai mà than thở thì thương giúp liền.
Nhiều lúc làm có của tiền,
Cũng bị tan rã phá tan rã rời.
Bà con thân thích chẳng trông,
Một tay lập nghiệp gia môn an hòa.
Số này Trời đã ban cho,
Trở về hậu vận mới là thảnh thơi.
Nữ mạng Đinh Tỵ có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Đinh Tỵ mạng Thổ cung Khôn,
Đất mà pha cát số này như sau.
Nếu sanh mùa Hạ thời sang,
Như cá gặp nước như rồng lên mây.
Thu Đông cũng chẳng đặng an,
Mùa Xuân khắc Mộc nên nàng cực thân.
Lỗi sanh cha mẹ chẳng gần,
Ly hương tổ quán tại phần số ta.
Vợ chồng phải gặp xứ xa,
Tánh tình ăn nói ai mà chẳng thương.
Nhiều khi lắm phải tai ương,
Cũng nhờ Phật độ qua tuông khỏi nàn.
Tiền vận số phải lao đao,
Hậu vận toại hưởng giàu sang mấy hồi.
1918,1978,2038 Mậu Ngọ – cung Chấn – Dương Hỏa – Thiên Thượng Hỏa
: Lửa trên trời; nắng – xương con ngựa, tướng tinh con heo – khắc Sa Trung Kim
– con nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mậu Ngọ mạng Hỏa lửa trời sáng soi.
Xuân Hạ sanh đặng gặp thời,
Thong thả sung sướng an nơi thanh nhàn.
Tiền vận vất vả bôn ba,
Kể từ trung vận mới mong thanh nhàn.
Anh em xa cách chẳng gần,
Vắng mặt thương nhớ lại gần chẳng yên.
Bởi vì số nghịch đắng cay,
Gia đình lập trễ mới là bền lâu.
Nếu người tích đức thiện tâm,
Tu hành giải bớt oan gia nghiệp đời.
Trung vận chẳng đặng thảnh thơi,
Số người vận cuối giàu sang thanh nhàn.
Nữ mạng Mậu Ngọ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Mậu Ngọ mạng Hỏa số này,
Lửa trời soi sáng chiếu cùng khắp nơi.
Xuân Hạ sanh gái là nàng,
Thanh nhàn sung sướng có chồng giàu sang.
Thu Đông lỗi số cực thân,
Cuộc đời chẳng đặng thong dong an nhàn.
Số này khắc mẹ khắc cha,
Anh em chẳng thuận phải xa chớ gần.
Mậu Ngọ quý tướng gái này,
Ban ngày mà hạp ấy là số ta.
Lỗi sanh duyên số lỡ làng,
Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.
Thấy ai nghèo khổ xót xa,
Tiền bạc giúp đỡ vậy mà phản ngay.
Số này tiền vận lao đao,
Hậu vận có của có nhà mới yên.
1919,1979,2039 Kỷ Mùi – cung Tốn – Âm Hỏa – Thiên Thượng Hỏa : Lửa trên trời –
xương con dê, tướng tinh con rùa – khắc Sa Trung Kim – con nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi Mùi,
Mạng Hỏa là lửa chơi vơi trên trời.
Thuận sanh sung sướng biết bao,
Xuân Hạ sanh đặng như cua gãy càng.
Thu Đông cực khổ lỗi thay,
Dù giàu cũng khổ tảo tần lo âu.
Tình duyên lỡ dỡ buổi đầu,
Phải duyên chắp nối mới mong sắt cầm.
Vợ chồng gặp gỡ xứ xa,
Khác làng khác xã mới là an thân.
Số người thân cận người sang,
Trên thì yêu mến dưới hay thương tình.
Tuổi trẻ khó đặng yên thân,
Trở vể hậu vận phước lai thanh nhàn.
Nữ mạng Kỷ Mùi có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng Kỷ Mùi,
Cung Tốn mạng Hỏa ấy là số ta.
Xuân Hạ sanh đặng thuận mùa,
Thu Đông lỗi số cực thân lắm lần.
Số gái hiếu thảo mẹ cha,
Khổ vì duyên nợ lao đao lắm bề.
Một đời chẳng đặng buồn lâu,
Phải duyên chắp nối mới mong sắt cầm.
Số gái nếu thuận giàu sang,
Chồng thì thương mến họ hàng tương lân.
Tuổi già mới được an thân,
Trung niên lo tảo chạy tần chưa nên.
Số này thân kẻ bề trên,
Chơi cùng bạn hữu chẳng bền phản ta.
Làm ăn tiền bạc có hoài,
Nhiều nghề biết đặng đàn bà ít ai.
1920,1980,2040 Canh Thân – cung Khôn – Dương Mộc – Thạch Lựu Mộc
: Gỗ cây Thạch Lựu – xương con khỉ, tướng tinh con chó sói – khắc Bích Thượng
Thổ – con nhà Thanh đế, cô bần.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Bởi vì lỗi số sanh rày ban đêm.
Nếu mà sanh đặng Đông Xuân,
Hai mùa vượng tướng ung dung thanh nhàn.
Tánh người nhờ ở hiền lương,
Gia đạo dời đổi lương duyên không bền.
Số người duyên nợ đa đoan,
Đời sau mới đặng phỉ quyền yến anh.
Tuổi nhỏ chẳng đặng yên thân,
Trở về lớn tuổi mới yên thanh nhàn.
Nếu mà niệm Phật tụng kinh,
Ngày sau con cháu phước lành hưởng lâu.
Tiền vận nhà cửa đổi thay,
Nhiều lúc giàu có khiến rồi phải tan.
Nữ mạng Canh Thân có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Canh Thân số mạng như vầy,
Cung Khôn mạng Mộc rõ ràng đá xanh.
Hạ Thu lỗi số bất thành,
Thuận Thu sanh đặng Đông Xuân mới nhàn.
Số cô có bị hàm oan,
Nhưng mà nhờ phước trời ban yên lành.
Khuyên cô tích đức tu thân,
Về sau mới được an nhàn tấm thân.
Chỉ buồn duyên nợ đa đoan,
Người sau mới đặng thỏa nguyền ước mơ.
Tuổi nhỏ chẳng đặng yên thân,
Trở về lớn tuổi mới hòng làm nên.
Nếu mà niệm Phật ăn chay,
Ngày sau được hưởng của Trời ban cho.
1921,1981,2041 Tân Dậu – cung Càn – Âm Mộc – Thạch Lựu Mộc – xương con gà,
tướng tinh con chó – khắc Bích Thượng Thổ – con nhà Thanh đế, cô bần.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Tân Dậu số mạng như vầy,
Là cây lựu đá cung Đoài chẳng sai.
Đông Xuân sanh đặng thời này,
Suốt đời thong thả gặp may tới hoài.
Hạ Thu lỗi số chơi vơi,
Dù cho giàu có cũng lo cũng buồn.
Tánh người vui vẻ dễ thương,
Hai bàn tay trắng tạo nên cơ đồ.
Tân Dậu tâm tánh thật thà,
Gặp người hung dữ thì ra tay liền.
Nhiều lúc làm có của tiền,
Cũng đều tan rã chẳng yên khó cầm.
Tiền vận nhà cửa chẳng yên,
Hậu vận gia đạo mới yên an hòa.
Nữ mạng Tân Dậu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Tân Dậu mạng Mộc cung Càn tốt thay.
Cây lựu kề đá mọc tàng,
Đông Xuân sanh đặng thuận mùa số cô.
Hạ Thu sanh gái lỗi thời,
Dù giàu có của số nàng phải lo.
Đàn bà ít có lắm thay,
Ra vai gánh vác đảm đang cho chồng.
Nhưng mà có ở được đâu,
Duyên đầu chẳng thuận duyên sau mới hòa.
Tân Dậu vô số đàn bà,
Tánh tình cứng cỏi chẳng chìu lụy ai.
Lỗi sanh lao khổ tứ bề,
Nhà cửa dời đổi xa quê họ hàng.
Tuổi già số thọ trời ban,
Vinh hoa phú quý một đời ấm no.
1922,1982,2042 Nhâm Tuất – cung Đoài – Dương Thủy – Đại Hải Thủy
: Nước đại dương, Nước biển lớn – xương con chó, tướng tinh con chim trĩ – khắc
Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, Quan lộc, tân khổ.
Nam mạng có Phật độ mạng.
Nhâm Tuất số mạng như vầy,
Nước ở biển lớn chảy vào tràn sông.
Thuận sanh gặp đặng Thu Đông.
Mạng đặng sung sướng ở không ăn hoài.
Sanh nhằm tháng khác chẳng may,
Thìn Tuất Sửu Mùi Dần Mão chẳng hay.
Tưởng đâu chết hụt đã rồi,
Nhờ Trời Phật độ thuở hồi ấu niên.
Số này phải giữ phải kiên,
Có khi té nặng tật nguyền chẳng sai.
Không phần chơi với bạn bè,
Bạc tiền giúp đỡ sau là phản ngay.
Tiền vận phải chịu gian truân,
Nhà cửa nhiều lớp kinh dinh đổi dời.
Hậu vận mới được yên thân,
Lập nên cơ nghiệp ở thời bền lâu.
Nữ mạng Nhâm Tuất có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Nhâm Tuất mạng Thủy số này,
Nước ở biển lớn chảy hoài chẳng thôi.
Tuổi nàng hạp số Thu Đông,
Ấy mùa vượng phát ở không ăn hoài.
Lỗi sanh Tuất Sửu Thìn Mùi,
Dần Mão sáu tháng đắng cay vô ngần.
Số này bị nạn nhiều lần,
Cũng may nhờ có Phật Trời độ qua.
Số nàng phải giữ phải kiên,
Sợ e nạn có tật nguyền chẳng sai.
Vô phần chơi với bạn bè,
Thương người giúp đỡ vậy mà phản ta.
Tiền vận phải chịu linh đinh,
Nhà cửa tay có vậy mà cũng tiêu.
Hậu vận mới được tụ tài,
Lập nên cơ nghiệp ở thời bền lâu.
1923,1983,2043 Quý Hợi – cung Cấn – Âm Thủy – Đại Hải Thủy – xương con heo,
tướng tinh con gà – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, Quan lộc, tân khổ.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Quý Hợi số mạng như là,
Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông.
Số này thuận hạp Thu Đông,
Cuộc đời sung sướng ít ai sánh bằng.
Nhưng sanh Xuân Hạ lỗ thay,
Nghèo giàu cũng cực tay chân không ngừng.
Vợ chồng có khắc chẳng an,
Con thì nhiều đứa làm phiền cho ta.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Người dưng giúp đỡ lập nên nghiệp nhà.
Số này tài lộc có nhiều,
Tuổi nhỏ chưa đậu tuổi già hiển vinh.
Lắm lúc buôn tảo bán tần,
Nhà cửa dời đổi nhiều lần chẳng an.
Nữ mạng Quý Hợi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Quý Hợi cung Cấn số này,
Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông.
Số gái sanh thuận Thu Đông,
Thanh nhàn sung sướng ít ai sánh bằng.
Xuân Hạ thì lỗi số nàng,
Giàu nghèo cũng cực thân nàng thảm thương.
Tưởng đâu chết hụt chết oan,
Cũng nhờ mạng lớn khỏi mang tật nguyền.
Có chồng cũng kể như không,
Vì đâu nên nỗi duyên thừa đắng cay.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở gần gây gỗ đi xa thì buồn.
Miệng thì nói dữ lòng hiền,
Biết người phản phúc có tiền cũng đưa.
Trung niên tài lộc có thừa,
Vậy mà hậu vận hưởng phần giàu sang.
1924,1984,2044 Giáp Tý – cung Chấn – Dương Kim – Hải Trung Kim
: Vàng dưới biển – xương con chuột, tướng tinh con chó sói – khắc Bình Địa Mộc
– con nhà Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Luận xem số mạng tuổi này,
Giáp Tý số cực chịu nhiều nổi trôi.
Ly hương tổ quán xứ xa,
Anh em cô bác ai giàu nấy ai.
Lỗi sanh phải chịu bơ vơ,
Cực nhọc lo lắng tại giờ sinh ra.
Số người chết hụt nhiều lần,
Người nào thất đức phải sa ngục hình.
Tu nhân tích đức hiển vinh,
Rủi bị tai nạn thánh thần độ cho.
Số này hậu vận mới no,
Tiền vận làm có của kho chẳng còn.
Nữ mạng có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Giáp Tý số mạng như vầy,
Dời đổi nhà cửa sau này mới yên.
Anh em giàu có chẳng mong
Tự tay lập nghiệp chẳng trông cậy nhờ.
Lương duyên trắc trở buổi đầu,
Phải quen nhau trước mới hầu lập gia.
1925,1985,2045 Ất Sửu – cung Tốn – Âm Kim – Hải Trung Kim : Vàng trong biển –
xương con trâu, tướng tinh con chó – khắc Bình Địa Mộc – con nhà Bạch đế, phú
quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Ất Sửu số mạng cuộc đời,
Bà con dòng họ chẳng nhờ chẳng trông.
Anh em sung khắc chẳng gần,
Người dưng giúp đỡ thân nhân chẳng nhờ.
Phụng thờ của quý có duyên,
Lợi danh được chút hảo huyền mà thôi.
Tánh người chơn chánh thật thà,
Làm ơn cho bạn sau là phản ngay.
Bạc tiền trợ giúp hỏi vay,
Ăn rồi đá bát trở tay đâm mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi ai thì có thiệt tình chẳng sai.
Số phải tu niệm ăn chay,
Không thì khổ nảo bị mang giam cầm.
Nữ mạng Ất Sửu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Ất Sửu cũng là số tuổi cao,
Đời cô lắm nổi sóng ba đào.
Phong trần mưa nắng đầy gian khổ,
Duyên nợ chua cay lắm dạt dào.
Thân thế từng phen sầu lận đận,
Hồng nhan nhiều lúc bận lao đao.
Bốn mươi mới được hưởng huy hoàng.
Vườn hồng có lúc nhạt tình Xuân,
Phong sương nào quãn đời gian khó,
Mưa nắng trải bao chuyện nợ nần.
Tài sắc đa mang sầu khổ lụy,
Huy hoàng trung vận bỏ phong trần.
1926,1986,2046 Bính Dần – cung Khảm – Dương Hỏa – Lư Trung Hỏa
: Lửa trong lư hương, Lửa trong lò (Lộ Trung Hỏa) – Sơn lâm chi hổ: cọp trong
rừng, trên núi – xương con cọp, tướng tinh con chim trĩ – khắc Kiếm Phong Kim –
con nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Bính Dần cung Khảm lửa lư,
Nếu sanh Xuân Hạ ấm no thanh nhàn.
Thu Đông chẳng thuận lỗi thời,
Lỗi sanh cực nhọc nên chàng âu lo.
Số này bất luận gái trai,
Khôn ngoan mưu trí ít ai thiệt thà.
Nhưng mà vô số đàn bà,
Vậy mà sự nghiệp tự tay mình làm.
Sanh thành cốt cách bền lâu,
Gia đình sự nghiệp tự tay tự làm.
Tiền vận chẳng đặng an thân,
Chẳng bằng trung vận tròn vành mấy phân.
Kiểng già nhưng lộc còn xuân,
Số năm tuổi vẫn còn nợ duyên.
Nữ mạng Bính Dần có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Bính Dần cung Khảm lửa lư,
Tuổi sanh Xuân Hạ ấm no thanh nhàn.
Thu Đông sinh gái là nàng,
Lỗi sanh cực nhọc sanh nàng âu lo.
Lỗi sanh mang giỏ hái dâu,
Cực xác mệt trí điên đầu vì đâu.
Đặng sanh an ngủ có giờ,
Kẻ hầu người hạ đợi chờ khiến sai.
Tuổi Dần bất luận là ai,
Khôn ngoan mưu trí ít ai sánh bằng.
Giận ai muốn tới ăn gan,
Ai quấy biết lỗi than van chịu liền.
Tiền vận chẳng được an thân,
Hậu vận sung sướng tròn vành mấy thân.
1927,1987,2047 Đinh Mẹo – cung Càn – Âm Hỏa – Lư Trung Hỏa : Lửa trong lò –
xương con thỏ, tướng tinh con gà – khắc Kiếm Phong Kim – con nhà Xích đế, cô
bần.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Số này cốt cách ngang tàng,
Lư trong lửa đỏ lâu tàn mau nguôi.
Giận ai không thể giận lâu,
Ai tới năn nỉ nắm tay dịu hiền.
Xin lỗi bạn chớ có phiền,
Ít bữa dịu ngọt có tiền cũng đưa.
Số nhờ biết được nhiều nghề,
Cho nên doanh nghiệp tự nhiên có hoài.
Ra ngoài kẻ mến người thương,
Kết bạn phản phúc họ quên ơn mình.
Thương người giúp đỡ của tiền,
Ăn rồi quẹt mỏ phản liền theo tay.
Hậu vận nhờ đặng cháu con,
Tiền vận lao khổ chẳng bằng vận sau.
Nữ mạng Đinh Mão có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Đinh Mão mạng Hỏa cung Càn,
Lư nhang lửa đổ mau tàn mau nguôi.
Giận ai nóng nảy không day,
Người tới năn nỉ nắm tay dịu liền.
Xin lỗi bạn chớ có phiền,
Ít bửa dịu ngọt có tiền cũng đưa.
Gái mà sanh đặng số này,
Phần đông giàu có số cao có thừa.
Con nhà cốt cách thu phong,
Cửa nhà tổ nghiệp tự mình làm nên.
Hậu vận lao khổ những còn sầu bi.
Tai nạn nhiều lúc hiểm nguy,
Cũng đều qua khỏi nhờ thì ơn trên.
1928,1988,2048 Mậu Thìn – cung Đoài – Dương Mộc – Đại Lâm Mộc
: Cây trong rừng lớn – xương con rồng, tướng tinh con quạ – khắc Đại Trạch Thổ
– con nhà Thanh đế, trường mạng.
Nam mạng có Phật độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Tuổi cùng với Mạng thuận hòa tương sanh.
Số như cây trái nở đua,
Nhưng mà bị khắc vì sanh lỗi mùa.
Mùa Xuân vượng tướng phát tài,
Mùa Hạ giàu có muôn ngàn cực thân.
Anh em cô bác chẳng gần,
Người dưng giúp đỡ ân cần độ ta.
Phiêu lưu xứ khác xa quê ông bà.
Có tài có đức trong tay,
Xuân xanh thất bại sau này thuận hưng.
Lòng ở ngay thẳng mới hay,
Phật Trời dòm ngó có ngày làm nên.
Nữ mạng Mậu Thìn có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng Mậu Thìn,
Lâm Mộc cây lớn có tàng mái to.
Đông Xuân sanh đặng thời sang,
Mùa Xuân vượng Mộc chẳng an đặng mùa.
Mùa Hạ như tù chẳng an,
Dầu làm có của muôn ngàn cực thân.
Anh em cô bác chẳng gần,
Người dưng giúp của ân cần độ ta.
Tuổi này vô số đàn bà,
Gặp chồng mạng lớn phải là nhịn ngay.
Buổi đầu chồng vợ đổi thay,
Nhiều chổ đi hỏi ngại nàng chẳng ưng.
Tuổi sanh biết đặng nhiều nghề,
Phiêu lưu xứ khác xa quê ông bà.
1929,1989,2049 Kỷ Tị – cung Cấn – Âm Mộc – Đại Lâm Mộc: Cây trong rừng lớn –
xương con rắn, tướng tinh con khỉ – khắc Đại Trạch Thổ – con nhà Thanh đế,
trường mạng.
Nam mạng có Phật độ mạng.
Kỷ Tỵ cung Cấn tốt thay,
Mạng Mộc cây lớn mọc ngay giữa rừng.
Đông Xuân thuận số quá chừng,
Có kẻ tưới nước vua chân lâu tàn.
Hạ Thu là lỗi số chàng,
Lỗi sanh cực nhọc nên đành khổ thân.
Số người chết hụt mấy lần,
Quới nhơn độ mạng mới hòng khỏi nguy.
Hạn xưa vất vả long đong,
Tới hồi vận cuối mới hòng thạnh hưng.
Cuộc đời có lắm cát tường,
Không thì vất vả chịu đường linh đinh.
Tạo nên gia nghiệp sau này,
Nhờ Trời Phật độ có ngày làm nên.
Nữ mạng Kỷ Tỵ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Tỵ cung Cấn số này,
Mạng Mộc cây lớn mọc ngay giữa rừng.
Nếu mà sanh đặng Thu Đông,
Như cây gặp nước như rồng gặp mưa.
Sanh nhằm ls Hạ Thu,
Số phần cực nhọc nắng mưa phũ phàng.
Số nàng chết hụt mấy lần,
Quới nhơn độ mạng có phần khỏi lo.
Tuổi này sáng láng thông minh,
Thấy thì làm đặng thiệt tình chẳng sai.
Tiền vận chưa biết nên hư,
Hậu vận mới khá của dư có xài.
Lòng ở ngay thẳng mới hay,
Phật Trời hộ độ có ngày làm nên.
1930,1990,2050 Canh Ngọ – cung Ly – Dương Thổ – Lộ Bàng Thổ
: Đất giữa đường; Đất đường đi, Đất ven đường – xương con ngựa, tướng tinh con
vượn – khắc Tuyền Trung Thủy – con nhà Huỳnh đế, bần cùng.
Nam mạng có Phật độ mạng.
Canh Ngọ số mạng như vầy,
Đất ở đường lộ muôn ngàn người đi.
Thuận sanh sung sướng lo gì,
Tháng Chạp tháng Chín không thì tháng Ba.
Đặng sanh ba tháng an hòa,
Cũng nhờ ơn đức ông cha để dành.
Thu Đông lỗi số gian lao,
Mùa Xuân Dần Mão biết bao khổ rày.
Số này thân tự lập thân,
Được người giúp đỡ có phần làm nên.
Lộc cao như núi Thái Sơn,
Cơ mưu khéo léo chẳng hề ai hay.
Lập nên cơ nghiệp số này,
Kể từ vận giữa mọi đường đặng nên.
Nữ mạng Canh Ngọ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Cung Ly mạng Thổ là đất đường đi.
Mùa Hạ sanh đặng lo chi,
Thuận sanh tháng Chín tháng Ba thanh nhàn.
Thu Đông phải chịu lao đao,
Mùa Xuân Dần Mão biết bao khổ sầu.
Sanh kỵ tháng Giêng tháng Hai,
Nặng hơn tháng khác khổ rày cực thân.
Có điều nhờ được phước trời,
Không thì bỏ xác rồi đời đã xong.
Sanh ra thuở nhỏ long đong,
Thay tên đổi họ hai dòng mới an.
Ai nói thiết yếu thở than,
Lòng cầm không được có tiền liền trao.
Số gái Canh Ngọ mà hiền,
Lỗi sanh khổ nảo như thuyền linh đinh.
1931,1991,2051 Tân Mùi – cung Khảm – Âm Thổ – Lộ Bàng Thổ – xương con dê, tướng
tinh con gấu – khắc Tuyền Trung Thủy – con nhà Huỳnh đế, bần cùng.
Nam mạng có Phật độ mạng.
Đoán xem số mạng Tân Mùi,
Mạng Thổ là đất có nhiều người đi.
Nếu sanh mùa Hạ lo chi,
Nhiều người giúp đỡ thiếu gì tình thương.
Tân Mùi tâm tính hiền lương,
Giận ai làm dữ nghĩ thương lại người.
Nhưng mà cách trở mẹ cha,
Ly hương tổ quán sau này mới nên.
Số này cốt tướng ít trường,
Tu nhơn tích đức không thì qui tiên.
Nhỏ thời cầm của không bền,
Ngày sau mới khá trở nên vững bền.
Tuổi này Hậu vận về sau,
Vinh hoa phú quý thảnh thơi an nhàn.
Nữ mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng Tân Mùi,
Cung Khảm mạng Thổ đặt ngoài đường đi.
Sanh đặng mùa Hạ lo chi,
Tháng Chạp tháng Chín không thì tháng Ba.
Thổ vương tứ quý bốn mùa,
Sanh đặng tháng Sáu ai mà dám đương.
Tân Mùi tâm tánh hiền lương,
Giận ai nói dữ mà lòng xót thương.
Tháng Giêng tháng Hai lỗi thời,
Bị Mộc khắc Thổ cực đời số ta.
Anh em chẳng đặng thuận hòa,
Ở gần gây gỗ đi xa nhớ hoài.
Vợ chồng chẳng hạp âm dương,
Sánh thương tuổi nhỏ sót thương đáo đầu.
Tuổi này bốn chục về sau,
Vinh hoa phú quý hưởng ngày giàu sang.
1932,1992,2052 Nhâm Thân – cung Khôn – Dương Kim – Kiếm Phong Kim
: Vàng đầu mũi kiếm – xương con khỉ, tướng tinh con dê – khắc Phúc Đăng Hỏa – con
nhà Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Tuổi cùng với mạng lắm lần gian nan.
Tha hương thân lập lấy thân,
Tổ tông sản nghiệp khó phần cậy trông.
Thuận sanh có kẻ rước đưa,
Ăn trên ngồi trước bẩm thưa đón chào.
Lỗi sanh vất vả biết bao,
Tay bùn chân lấm mắt hòa mồ hôi.
Duyên tình phải chịu lôi thôi,
Anh em phận nấy khó mà giúp nhau.
Có khi gặp hội tao phùng,
Nhiều phen đổi chác mới xong môn đình.
Số này tuổi nhỏ tay không,
Lớn lên có của vợ chồng làm nên.
Nữ mạng Nhâm Thân có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Vàng trong cây kiếm ít người tìm ra.
Sanh nhằm tháng Chạp tháng Ba,
Mùa Thu rất tốt sanh ra đặng mùa.
Thuận sanh kẻ đón người đưa,
Kẻ hầu người hạ sớm trưa rộn ràng.
Lỗi sanh cực khổ lang thang,
Tay bùn chân lấm lang bang ngoài đường.
Nợ tình cũng chẳng thuận đôi,
Khiến cho tan rả cuộc đời quạnh hiu.
Số phải chịu cảnh xa quê,
Lập nghiệp xứ lạ mới nên gia đàng.
Ba mươi có của chẳng an,
Bốn mươi mới chắc mới an cuộc đời.
1933,1993,2053 Quý Dậu – cung Chấn – Âm Kim – Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi
kiếm – xương con gà, tướng tinh con đười ươi – khắc Phúc Đăng Hỏa – con nhà
Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Luận xem số mạng con Gà,
Mạng Kim cung Chấn ráng tìm thì ra.
Số này bất luận là ai,
Mùa Thu sanh thuận đố ai dám bì.
Nhưng mà nhiều kẻ hiền lành,
Ít ai ở dữ gian manh bạo tàng.
Hậu vận có của mới an,
Tiền vận làm có của kho chẳng còn.
Hai dòng cha mẹ mới an,
Không thì chồng vợ khó toan một đời.
Năm xưa tận khổ đã thường,
Vận sau bốn chín Trời ban phước lành.
Anh em xung khắc hay rầy,
Cô bác có của ta đây chẳng màng.
Nữ mạng Quý Dậu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Vàng trong gươm trắng có phần giàu sang.
Gái mà sanh đặng can này,
Nam Nhâm Quý nữ rõ ràng chẳng sai.
Đặng sanh sáng suốt tinh thần,
Nói năng lưu loát mọi người mến thương.
Quý Dậu nhiều kẻ hiền lành,
Ít ai ở dữ gian manh bạo tàn.
Hậu vận có của mới an,
Không thì chồng vợ khó bền ở yên.
Trung niên nay đổi mai dời,
Ai mà có chí mới mong vẹn toàn.
Sanh ra đặng gái đầu lòng,
Làm ăn có khá mới mong làm giàu.
1934,1994,2054
Giáp Tuất – cung Càn – Dương Hỏa – Sơn Đầu Hỏa
: Lửa trên núi – xương con chó, tướng tinh con ngựa – khắc Sa Trung Kim – con
nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Tuổi cùng với mạng thuận hòa tương sanh.
Nếu sanh Xuân Hạ thời mừng,
Có quyền có chức thanh nhàn tấm thân.
Thu Đông là lỗi số ta,
Giàu có cũng cực nghèo thì bơ vơ.
Vận hanh thì ở hạn sau,
Tự nhiên phước lộc theo nhau tới lần.
Tuổi này thuở nhỏ chẳng an,
Bịnh tật đau ốm liên miên tối ngày.
Tâm tánh sáng dạ rất hay,
Nghề nào cũng biết ít ai dám bì.
Giáp Tuất có chí làm nên,
Quyền tước khá lớn vững bền an thân.
Nữ mạng Giáp Tuất có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Giáp Tuất mạng Hỏa số này,
Lửa ở đầu núi rõ ràng sáng trưng.
Thuận sanh mùa Hạ mùa Xuân,
Giàu nghèo cũng sướng lo buồn mà chi.
Số gái sanh đặng hạp thời,
Làm ăn có của chồng giàu vinh sang.
Lỗi sanh ở ác trật giờ,
Cuộc đời như thể nắm bèo trôi đi.
Tuổi sanh thuở nhỏ chẳng an,
Bịnh tật đau ốm liên miên tháng ngày.
Số nàng lại khắc mẹ cha,
Đi xa thương nhớ ở gần ốm đau.
Xét qua trang sử lương duyên,
Ngựa Trâu Long Hổ kết duyên mới thành.
Tuổi nhỏ hậu vận gian nan,
Trở về lớn tuổi mới mong thanh nhàn.
1935,1995,2055 Ất Hợi – cung Đoài – Âm Hỏa – Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi – xương
con heo, tướng tinh con hươu – khắc Sa Trung Kim – con nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Ất Hợi mạng Hỏa số này,
Lửa ở trên núi sáng bay đỏ trời.
Thuận sanh Xuân Hạ gặp thời,
Giàu nghèo cũng sướng được nơi thanh nhàn.
Thu Đông chẳng lợi hao tài,
Trai thì lỡ dỡ duyên tình phôi pha.
Ất Hợi nhiều kẻ lòng hiền,
Ai mà nói dữ ta thời nhịn ngay.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Nói ra gây gỗ chẳng gần chẳng an.
Lớn lên cách trờ xứ xa,
Học hành nghề nghiệp sau mà mới nên.
Đầu tiên có của chẳng bền,
Làm có hao tán như trên mây hồng.
Nữ mạng Ất Hợi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Lửa ở đầu núi tỏa bay khắp trời.
Mùa Hạ sanh đặng hạp thời,
Là số sung sướng có trời giúp cho.
Ất Hợi mạng Hỏa nhưng hiền,
Lòng dạ chẳng chắp nói rồi bỏ qua.
Số nàng xung khắc anh em,
Chẳng nhờ chẳng cậy ai làm nấy ăn.
Nhỏ thời chìm nổi linh đinh,
Sau nhờ bền chí lập nên gia đình.
Tuổi già giàu có yên thân,
Sớm lập gia thất nhiều lần chẳng nên.
Số tuổi hai bốn mới là,
Lập nên chồng vợ cuộc đời an vui.
Bốn mươi sắp tới trở lên,
Làm ăn có của vững bền đặng lâu.
1936,1996,2056 Bính Tý – cung Cấn – Dương Thủy – Giáng Hạ Thủy
: Nước mù sương, Nước sông, nước dưới khe (Giản Hà Thủy; Giang Hà Thủy) – xương
con chuột, tướng tinh con rắn – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, cô bần.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Luận xem số mạng tuổi này,
Bính Tý mạng Thủy nước đầy tràn sông.
Trai mà sanh đặng Thu Đông,
Như cây gặp nước, như rồng gặp mây.
Bính Tý tánh ở hiền lành,
Có tiền ai hỏi cũng trao đưa liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên,
Đổi thời không khả nghịch liền tự nhiên.
Một thân thất ý đủ điều,
Nửa lành nửa dữ bao nhiêu chưa đành.
Tới hồi vận giữa hiển vinh,
Căn nguyên tất phát môn đình đổi thay.
Tuổi già vận đến càng hay,
Vinh hoa phú quý vàng son cửa nhà.
Nữ mạng Bính Tý có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Bính Tý Cung Càn sinh ra,
Mạng Thủy là nước mà ta nhờ nguồn.
Đàn bà sanh thuận Thu Đông,
Kẻ đưa người rước người mong chuyện tình.
Tuổi này lúc nhỏ khó nuôi,
Hai lần chết hụt nổi trôi nhiều lần.
Cũng nhờ âm đức cha ông,
Nghi đâu có đó khó mong ai lường.
Bính Tý người nữ thì sang,
Nhưng mà lở dở chẳng an một đời.
Đầu tiên trắc trở lôi thôi,
Duyên sau mới hợp mới thôi lỡ làng.
Số này cách trở mẹ cha,
Ly hương tổ quán cửa nhà làm nên.
1937,1997,2057 Đinh Sửu – Cung Ly – Âm Thủy – Giáng Hạ Thủy – xương con trâu,
tướng tinh con trùn – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, cô bần.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Đinh Sửu số mạng như là,
Giang Hà là nước chảy dài ra sông.
Trai mà sanh thuận Thu Đông,
Mùa Hạ lỗi số làm không nên trò.
Số như nổi sóng linh đinh,
Đầu đội tay xách vác cày lùa trâu.
Sanh ra nhiều lúc hiểm nguy,
Tưởng chết thuở nhỏ lúc thì mới sanh.
Số này quyền tước công danh,
Không thầy cũng thợ mới đành số ta.
Tuổi này tánh nết thật thà,
Giận đi nói dữ nhưng lòng vị tha.
Đầu tiên làm có của kho,
Nhiều lần làm khá hiệp rồi lại tan.
Nữ mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Đinh Sửu mạng Thủy cung Ly,
Giang Hà nước chảy từ từ đi qua.
Gái mà sanh thuận Thu Đông,
Có chồng sung sướng ở không ăn hoài.
Sanh nhằm Xuân Hạ lỗi thay,
Đầu đội tay xách tay mang gánh gồng.
Đinh Sửu số cũng thong dong,
Âm đức phải giữ mới mong thanh nhàn.
Số đặng nên cửa nên nhà,
Tự tay lo lắng đàn bà mấy ai.
Bôn ba nào có ích gì,
Số trời đã định nghĩ gì xa xôi.
Khuyên ai phận này thôi mà,
Đông Tây vùng vẫy cũng là uổng công.
Miễn sao ăn ở hiền lành,
Về sau cũng có đôi phần ấm no.
1938,1998,2058 Mậu Dần – cung Khảm – Dương Thổ – Thành Đầu Thổ
: Đất trên thành – Quá sơn chi hổ: cọp vượt qua núi – xương con cọp, tướng tinh
con thuồng luồng – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, phú quí.
Nam mạng có Phật độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mậu Dần mạng Thổ đất thành đền vua.
Số này trước vắn sau dài.
Anh em thân thích lạc loài phương xa.
Số cao có số quá chừng,
Duyên tình trắc trở lòng dòng đôi ba.
Tâm cơ tân khổ những là,
Bởi vì số mạng trở ra muộn màng.
Một thân toan tính trăm đường,
Đến khi vận giữa mới yên tấm lòng.
Tuổi sau mới được hưng long,
Cây già kết trái bông hồng tốt tươi.
Nữ mạng Mậu Dần có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Số này sau ngắn trước dài,
Anh em thân thích lạc loài phương xa.
Nếu mà sanh thuận mùa Hạ,
Ấy là sung sướng khác thì lỗi ngay.
Mùa Xuân lỗi số chẳng mong,
Vợ chồng chẳng hạp duyên đầu phải xa.
Anh em sung khắc chẳng hòa,
Nói ra gây gỗ tự nhiên rầy rà.
Số tuổi tự lập gia đình,
Một mình toan tính trăm đường tự do.
Tuổi già y lộc hưng long,
Cây già kết trái những chồng phước dư.
1939,1999,2059 Kỷ Mẹo – cung Khôn – Âm Thổ – Thành Đầu Thổ – xương con thỏ,
tướng tinh con rồng – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, phú quí.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Số này tuổi nhỏ có tiền,
Nhưng không giữ được bay liền theo tay.
Mùa Xuân lỗi số đắng cay,
Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.
Gặp hồi cực khổ gian nan,
Vợ chồng khắc bạc muôn ngàn thảm thương.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.
Thấy ai năn nỉ xót xa,
Bạc tiền ủ sẵn móc ra đưa liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên,
Ơn đâu không thấy oan liền theo tay.
Chờ cho vận cuối phát tài,
Cây già kết trái bằng hai những ngày.
Nữ mạng Kỹ Mão có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Mão mạng Thổ số này,
Đất ở trên vách vậy mà chẳng khô.
Mùa Hạ sanh gái an nhàn,
Có danh có vị giàu sang một đời.
Đặng sinh tiếp đãi dạ thưa,
Hiển vinh một cách có thừa chẳng sai.
Mùa Xuân lỗi số đắng cay,
Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.
Tuổi Mão tài trí có thừa,
Không học cũng biết ít người giỏi hơn.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.
Tiền vận có của có nhà,
Nhưng mà tuổi nhỏ khó an phải tàn.
Hậu vận mới đặng vinh quang,
Lập nên nhà cửa vững vàng hậu lai.
1940,2000,2060 Canh Thìn – cung Chấn – Dương Kim – Bạch Lạp Kim : Vàng trong
đèn cầy, Vàng có sáp trắng, Chân kim loại dùng cắm đèn cầy- xương con rồng,
tướng tinh con quạ – khắc Phúc Đăng Hỏa – con nhà Bạch đế, trường mạng.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Canh Thìn là số rất cao,
Số có kẻ đón người đưa rộn ràng.
Thuận sanh tiếp đãi dạ thưa,
Hiển vinh một cách có thừa chẳng sai.
Mùa Xuân lỗi số đắng cay,
Mồ hôi nước mắt chảy ngay ròng ròng.
Anh em xung khắc chẳng xong,
Nói ra gây dữ tự nhiên chẳng hòa.
Lớn lên lập nghiệp xứ xa,
Cô bác có của thì ta không nhờ.
Can Canh Can Mậu bơ vơ,
Tại sanh lỗi số trật giờ khổ thân.
Thuận sanh sung sướng mười phần,
Lòng ở ngay thẳng thánh thần độ cho.
Nữ mạng Canh Thìn có bà Chúa Tiên độ mạng.
Canh Thìn cung Chấn mạng Kim,
Vàng trong sáp trắng đi tìm khó ra.
Mùa Thu sanh đặng mới là,
Số sanh tháng sáu tháng ba được mùa.
Đông Xuân cũng chẳng ăn thua,
Tỵ Ngọ Hỏa khắc như cua gảy càng.
Tuổi nàng lập nghiệp xứ xa,
Cô bác có của thì ta chẳng nhờ.
Chữ Canh chữ Mậu số cơ (cơ bần),
Ấy là lỗi số nên nàng khổ thân.
Có người sung sướng an nhàn,
Vì là thuận số sanh nhằm ban đêm.
Ba mươi có của có tiền,
Vậy mà chẳng giữ được bền rã tan.
Tuổi gần bốn chục mới sang,
Giàu sanh đến lúc mới là hanh thông.
1941,2001,2061 Tân Tị – cung Tốn – Âm Kim – Bạch Lạp Kim: Vàng chân đèn – xương
con cọp, tướng tinh con thuồng luồng – khắc Phúc Đăng Hỏa – con nhà Bạch đế,
trường mạng.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Số này cách trở quê hương,
Lập nên cơ nghiệp phải hai ba lần.
Thành nhân cũng tự lập thân,
Hai bàn tay trắng tạo nên gia đình.
Thuận sanh giàu có đã đành,
Nghịch sanh như thể cua con gãy càng.
Đặng sanh sung sướng là chàng,
Lòng ở ngay thẳng thánh thần độ cho.
Ở cho biết phải biết điều,
Lòng thành kính Phật ít nhiều có ăn.
Số có chức phận môn đình,
Không thầy cũng thợ ít khi bần hàn.
Khi nên Trời cũng chìu lòng,
Thái vinh sự nghiệp thanh nhàn hồi sau.
Nữ mạng Tân Tỵ có bà Chúa Tiên độ mạng.
Tân Tỵ cung Tốn mạng Kim,
Vàng ở trong sáp khó tìm lắm thay.
Mùa Thu thuận số là may,
Thổ vượng tứ quý ít ai dám bì.
Lâm nạn có kẻ giải nguy,
Giàu nghèo cũng sướng sau thì an thân.
Nếu sanh mùa Hạ khổ bần,
Đông Xuân cũng lỗi chịu phần gian nan.
Đặng sanh trúng tuổi là nàng,
Hiền lương quân tử là nàng tiểu thơ.
Tuổi sanh lỗi số sai giờ,
Vét mương phát cỏ đắp bờ nám da.
Duyên tình lỡ dỡ đôi ba,
Tiền vận có của cũng là lôi thôi.
Hậu vận đặng khá an nơi,
Phật Trời độ mạng thảnh thơi thanh nhàn.
1942,2002,2062 Nhâm Ngọ – cung Ly – Dương Mộc – Dương Liễu Mộc
: Gỗ cây Dương Liễu – xương con ngựa, tướng tinh con rắn – khắc Lộ Bàng Thổ –
con nhà Thanh đế, trường mạng.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Mộc cây liễu số người phong lưu.
Mùa Thu lỗi số bơ vơ,
Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân.
Số này thuở nhỏ gian nan,
Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.
Cây khô mà đặng mọc chồi,
Ấy là Nhâm Ngọ rõ ràng chẳng sai.
Một tay chỉnh đốn gia môn,
Điền viên lưu để tử tôn lâu bền.
Kể từ vận giữa sắp lên,
Làm ăn nên cửa nên nhà mới yên.
Số này lanh lợi khôn ngoan,
Ít kẻ ngu dốt cơ hành lênh đênh.
Nữ mạng Nhâm Ngọ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Nhâm Ngọ mạng Mộc cung Ly,
Là cây Dương Liễu số này làm nên.
Nếu là sanh thuận Đông Xuân,
Gái thì hữu phước gia môn yên hòa.
Mùa Thu bị khắc bơ vơ,
Mùa Hạ cũng lỗi trật giờ khổ thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Đi xa thương nhớ lại gần chẳng an.
Tuổi sanh thuở nhỏ gian nan,
Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.
Tuổi nàng lanh lợi khôn ngoan,
Ít kẻ ngu dốt cơ hàn linh đinh.
Tuổi nhỏ làm có đủ xài,
Nhiều lần đặng khá khiến rày rã tan.
Lớn tuổi có của mới an,
Lập nên sự nghiệp an nhàn ấm no.
1943,2003,2063 Quý Mùi – cung Càn – Âm Mộc – Dương Liễu Mộc : Gỗ cây Dương Liễu
– xương con dê, tướng tinh con cọp – khắc Lộ Bàng Thổ – con nhà Thanh đế,
trường mạng.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Quý Mùi cung Chấn trực Kiên,
Là cây dương liễu hiên ngang giữa trời.
Sanh đặng tháng Giêng tháng Hai,
Mùa Đông cũng tốt tự nhiên thanh nhàn.
Lỗi sanh Thu Hạ bẽ bàng,
Nên người khổ não khiến chàng cực thân.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Người ngoài khác họ lại thương mến mình.
Tuổi trẻ vất vả linh đinh,
Giàu sang phú quý để dành vận sau.
Số người sau có đất điền,
Nhà cửa mua sắm tự mình làm ra.
Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba,
Trở về vận cuối mới là thảnh thơi.
Nữ mạng Quý Mùi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Cung Cấn mạng Mộc số nàng như sau.
Sanh đặng tháng Hai tháng Giêng,
Mùa Đông cũng tốt tự nhiên thanh nhàn.
Hạ Thu sanh gái là nàng,
Lỗi sanh vất vả số nàng âu lo.
Sanh ra sung khắc mẹ cha,
Anh em chẳng thuận sống nhờ người dưng.
Ly hương tổ quán số này,
Xứ xa lập nghiệp cửa nhà làm nên.
Trung niên có của chẳng bền,
Có rồi mất đó như diều đứt dây.
Số tuổi sau có đất nhà,
Ruộng vườn mua sắm tự mình làm ra.
Tuổi nhỏ chớ khá bôn ba,
Tuổi già có của mới yên gia đàng.
1944,2004,2064 Giáp Thân – cung Khôn – Dương Thủy – Tuyền Trung Thủy
: Nước giữa dòng, nước trong giếng – xương con khỉ, tướng tinh con heo – khắc
Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, từ tánh, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Giáp Thân mạng Thủy số này,
Nước ở trong giếng họ đồn chẳng sai.
Thu Đông sanh thuận là trai,
Giàu nghèo cũng sướng sanh thai đặng mùa.
Xuân Hạ là lỗi số sanh,
Bần cùng vất vả như cua gãy càng.
Số này trắc trở nhiều bề,
Cung thẻ có khắc chẳng hề sai ngoa.
Tuổi nhỏ khắc mẹ khắc cha,
Anh em chẳng thuận chẳng hòa cùng nhau.
Nếu mà ăn ở thẳng ngay,
Phật Trời phù hộ có ngày đặng an.
Tuổi nhỏ phải chịu gian nan,
Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.
Số người trung vận chẳng an,
Hậu vận tiền của giàu sang hơn người.
Nữ mạng Giáp Thân có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Giáp thân mạng Thủy số này,
Nước ở trong giếng họ đồn chẳng sai.
Nếu nàng sanh đặng Thu Đông,
Giàu nghèo cũng sướng bởi sanh thuận mùa.
Xuân Hạ sanh ra cực phần,
Như cây rụng lá như cua gãy càng.
Lỗi sanh vất vả bần hàn,
Không ai nương tựa ngó ngàng đến ta.
Số cô trắc trở tư bề,
Vợ chồng sung khắc vậy mà đông con.
Lỗi sanh ăn ở thẳng ngay,
Phật Trời chẳng độ khó lòng làm nên.
Số này tiền của có thừa,
Nếu mà đức tốt cuộc đời giàu sang.
1945,2005,2065 Ất Dậu – cung Chấn – Âm Thủy – Tuyền Trung Thủy : Nước trong
giếng – xương con gà, tướng tinh con cua – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc
đế, từ tánh, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Số này tuổi nhỏ khó nuôi,
Lớn lên mạnh khỏe tài ba hơn người.
Thu Đông sanh đặng thời yên,
Có phần sung sướng như cua đủ càng.
Xuân Hạ lỗi số cực thân,
Làm ăn có của vậy mà phải lo.
Năm xưa vận hãy dỡ dang,
Tới hồi vận giữa lại càng vinh hoa.
Bởi nhờ người quý giúp ta,
Sau này lập nghiệp vinh hoa thanh nhàn.
Số người tính đức hiền lương,
Nhưng mà anh em chẳng thuận chẳng hòa.
Có tay tạo lập cửa nhà,
Phước theo vận cuối tới già hiển vinh.
Nữ mạng Ất Dậu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Ất Dậu cung Cấn số nàng,
Mạng Thủy nước giếng chảy hoài liên miên.
Thu Đông sanh thuận thời yên,
Gái thì sung sướng như tiên giáng trần.
Xuân Hạ lỗi số cực thân,
Có chồng chẳng đặng trọn niềm gối chăn.
Trung niên cũng chẳng có phần,
Lo lắng bương bãi tảo tần lo thân.
Lập nên nhà cửa nhiều lần,
Vậy mà cũng rả vì phần chưa an.
Hậu vận mới được an nhàn,
Làm dư có của tụ tài số cô.
Số phải thuận niệm ăn chay,
Thì Trời Phật độ họa may sang giàu.
Tấm thân an mạnh thảnh thơi,
Gia tài sự nghiệp có thời mới nên.
-
https://www.youtube.com/watch?v=px_I0cjsRtw
TTT THÔNG LAI / Indio, CA “Tang Lể Ni Trưởng Thượng Như Hạ Thủy” Michael Hòa... March 24, 2018
-
1946,2006,2066 Bính Tuất – cung Tốn – Dương Thổ – Ốc Thượng Thổ
: Đất trên nóc nhà – xương con chó, tướng tinh con trâu – khắc Thiên Thượng Hỏa
– con nhà Huỳnh đế, phú quí.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Thổ là đất nóc nhà ở an.
Số người lao lực lao tâm,
Làm ăn vất vả mới mong sang giàu.
Số nhờ kẻ quý giúp nên,
Thang mây bước tới hanh thông có ngày.
Xét qua tâm tánh ở đời,
Thấy ai nghèo khó thua mình giúp cho.
Vậy mà người ấy chẳng lo,
Ăn rồi quẹt mỏ trả cho oán thù.
Lòng dạ rất tốt cho nên,
Thương người phải chịu không thù giận ai.
Con người ăn ở thẳng ngay,
Rủi gặp tai nạn ơn trên độ liền.
Nữ mạng Bính Tuất có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Bính Tuất mạng Thổ số này,
Ít tìm thấy ở nóc nhà mà ra.
Thuận sanh mùa Hạ thì sang,
Gái thì sung sướng thanh nhàn lo chi.
Mùa Xuân lỗi số khổ bần,
Thu Đông cũng lỗi lắm phần gian nan.
Lỗi sanh cực nhọc thở than,
Thuận sanh phú quý vinh sang hơn người.
Số có bụng tốt thẳng ngay,
Rủi gặp tai nạn nhờ thần độ cho.
Đàn bà Giáp Bính can Canh,
Người nào cũng quý cũng sang không bền.
Số nàng lắm kẻ mến thương,
Thang mây bưc tới hanh thông có ngày.
Hạn xưa còn khó nhọc thay,
Đến chừng bốn bốn vận này mới nên.
1947,2007,2067 Đinh Hợi – cung Cấn – Âm Thổ – Ốc Thượng Thổ : Đất ở nóc nhà;
Đất ổ tò vò – xương con heo, tướng tinh con dơi – khắc Thiên Thượng Hỏa – con
nhà Huỳnh đế, phú quí.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Đinh Hợi cung Cấn số này,
Đất ở dưới thấp bò lên nóc nhà.
Thuận sanh mùa Hạ thì sang,
Có phần sung sướng người sang nể vì.
Thổ vượng tứ quý lo chi,
Thu Đông Xuân mộc khắc lòng chẳng an.
Làm trai Đinh Hợi gan lì,
Nhưng mà ngay thẳng ít ai bạo tàn.
Số người chết hụt chết oan,
Nhưng nhờ trời độ qua cơn tai nàn.
Vợ chồng lỡ dỡ đò ngang,
Duyên sau mới hiệp mới an cửa nhà.
Ra ngoài sang quý số này,
Vận sau càng lại thêm phần giàu sang.
Nữ mạng Đinh Hợi có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Đinh Hợi cung Cấn số nàng,
Đất ở dưới thấp mà leo nóc nhà.
Số sanh mùa Hạ thuận mùa,
Gái thời tốt số chồng thương nể vì.
Thổ vượng tứ quý lo chi,
Tháng Chín, tháng Chạp lo gì tháng Ba.
Mùa Xuân Mộc khắc khô khan,
Thu Đông lỗi số sanh ra cực hoài.
Đinh Hợi số gái tài hay,
Hiền lành ngay thẳng ít ai bạo tàn.
Số người tánh nết đoan trang,
Họ hàng cốt nhục ai mà chẳng thương.
Số nàng sang quý tự nhiên,
Vận sau sẽ thấy có duyên phú hào.
Tuổi sanh cho đến niên cao,
Tự mình tự lập biết bao tủi hờn.
1948,2008 Mậu Tý – cung Càn – Dương Hỏa – Tích Lịch Hỏa 霹靋火
: Lửa sấm sét – xương con chuột, tướng tinh con chó sói – khắc Thiên Thượng
Thủy – con nhà Xích đế, phú quí.
Nam mạng có bà Quan Âm độ mạng.
Vốn người cốt cách cang cường,
Ấy là Mậu Tý con người đảm đang.
Thuận sanh thì đặng làm quan,
Cha mẹ vui vẻ lập đàng ăn chay.
Số này phước lớn chẳng vừa,
Nhờ ơn Trời Phật độ trì là may.
Duyên nợ cũng phải đời đời,
Sau này gia đạo mới là bình yên.
Vận xưa lận đận lo phiền,
Đến khi vận giữa tài nguyên tới gần.
Vận sau sẽ thấy tấm thân thanh nhàn.
Nữ mạng Mậu Tý có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Mậu Tý mạng Hỏa cung Càn,
Lửa trời chớp nhoáng có làn sáng trưng.
Nếu Cô sanh đặng Hạ Xuân,
Ấy là thuận số nên mừng cho thân.
Thu Đông bị khắc hao mòn,
Mẹ cha chạy thuốc sanh con lỗi mùa.
Số phải tu niệm ăn chay,
Ở ăn thiếu đức vào ngay ngục hình.
Buồn thay cho chuyện duyên tình,
Đầu trên dang dỡ bất bình nhiều phen.
Mậu Tý sung sướng hơn người,
Nếu mà bởi số người thời linh đinh.
Số cứ lận đận lo phiền,
Chờ khi vận giữa tài nguyên tới lần.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi đâu trúng đó thật tình chẳng sai.
Cho hay Mậu Tý có tài,
Trao rèn âm đức có ngày hiển vinh.
1949,2009 Kỷ Sửu – cung Đoài – Âm Hỏa – Tích Lịch Hỏa – xương con trâu, tướng
tinh con heo – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Xích đế, phú quí.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Sửu số mạng như là,
Lửa trời chớp nhoáng có ngày cũng tan.
Số người mạng Hỏa tương sanh,
Làm ăn thuận lợi công danh dễ dàng.
Thu Đông sung khắc chẳng an,
Phòng người phản phúc mưu toan hại mình.
Chớ có tranh tụng hiểm nguy,
Ở đời nhịn nhục nhẹ thì cho ta.
Anh em nghịch ý chẳng hòa,
Ở gần gây gổ đi xa nhớ hoài.
Số tuổi sau có đất điền,
Ruộng vườn mua sắm của tiền làm ra.
Đầu tiên làm chẳng đặng an,
Hậu vận có của làm ăn mới bền.
Nữ mạng Kỷ Sửu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Sửu số mạng như vầy,
Lửa trời sấm chớp sáng đầy trời mưa.
Nếu sanh mùa Hạ thì sang,
Gái mà Kỷ Sửu số nàng như trai.
Lòng dạ cứng cỏi nam trang,
Thấy mạnh hiếp yếu ra tay binh liền.
Số này chẳng chịu ở yên,
Có tay buôn bán lại chuyên nhiều nghề.
Bạc tiền như giấc chiêm bao,
Có rồi lại hết sớm vào tối ra.
Số cô phải chịu phong ba,
Ba mươi sáu tuổi mới là yên thân.
Số cô tuổi nhỏ bôn ba,
Nhưng mà cô số chẳng qua ông trời.
Làm giàu phải tự tay ta,
Chẳng cần cha mẹ cùng là phu quân.
Kỷ Sửu lập nghiệp nên nhà,
Công danh sẳn có bởi nhờ căn tu.
1950,2010 Canh Dần – cung Cấn – Dương Mộc – Tùng Bách Mộc
: Gỗ cây Tùng Bách – Xuất sơn chi hổ: cọp ra khỏi núi – xương con cọp, tướng
tinh con heo – khắc Lộ Bàng Thổ – con nhà Thanh đế, trường mạng.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số tuổi Canh Dần,
Người giàu mệt trí kẻ nghèo khổ tâm.
Thuận sanh thì số lại Đông,
Canh Dần là số vợ chồng đôi ba.
Đặng sanh sung sướng vô cùng,
Có người sai khiến có bồi nấu ăn.
Nhưng mà cũng số lạ kỳ,
Có khi hưng thạnh có khi điêu tàn.
Ra ngoài doanh nghiệp có duyên,
Quý nhân phù trợ phước trời ban cho.
Tánh tình ăn ở thẳng ngay,
Ai mà hiếp yếu ra tay binh liền.
Gặp ai thách đố chẳng kiên,
Giận dữ mất trí như điên sợ gì.
Nữ mạng Canh Dần có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Canh Dần cung Cấn số này,
Mạng Mộc Tòng Bá ấy là quý thay.
Đông Xuân thuận số lo chi,
Tuổi gặp sung sướng ít khi khổ nghèo.
Hạ Thu là lỗi số sanh,
Kẻ giàu mệt trí người nghèo khổ thân.
Thuận sanh sang trọng vô cùng,
Có người sai khiến có chồng vinh thân.
Lỗi sanh như thể nhện giăng,
Miệng thì nói chỉ tay phăng cẳng đùa.
Số này cũng lắm ly kỳ,
Có khi hưng thạng có khi điêu tàn.
Ra ngoài kẻ đón người đưa,
Quý nhân giúp đỡ phước dư có thừa.
1951,2011 Tân Mẹo – cung Ly – Âm Mộc – Tùng Bách Mộc – xương con thỏ, tướng
tinh con rái – khắc Lộ Bàng Thổ – con nhà Thanh đế, trường mạng.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Số gian nan lắm dãi dầu,
Bởi sanh lỗi số khẩn cầu ơn trên.
Hạ Thu lo lắng khôn lường,
Hưu tù xung khắc ví chưng lỗi mùa.
Lỗi sanh mà đặng làm vua,
Bị giặc vây khốn chịu thua hàng đầu.
Nhưng nhờ số tuổi hiền lành,
Nhờ Trời Phật độ ngày nay mới còn.
Nhân nghĩa phước đức giữ tròn,
Tham tài ở ác chẳng còn chẳng sai.
Vô duyên với kẻ thân nhân,
Anh em như thể người dưng láng giềng.
Số này tiền vận khác xa,
Đến khi vận cuối nghiệp nhà mới nên.
Nữ mạng Tân Mão có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Tân Mão mạng Mộc cung Ly,
Cây Tòng cây Bá ai bì mạng ta.
Đông Xuân sanh thuận hai mùa,
Giàu sang cũng có quới nhơn cũng nhiều.
Nhưng mà Thu Hạ chẳng an,
Cũng vì xung khắc sanh ra lỗi mùa.
Đặng sanh như ở nhà lầu,
Nghịch sanh như thể cây cầu gảy ngang.
Gái mà tuổi Mão rất hiền,
Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa.
Vợ chồng lở dỡ duyên xưa,
Nhiều chỗ hỏi cưới chẳng vừa ý ta.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở gần gây gỗ đi xa nhớ rày.
1952,2012 Nhâm Thìn – cung Khảm – Dương Thủy – Trường Lưu Thủy
: Giòng nước lớn; nước chảy dài – xương con rồng, tướng tinh con chó sói – khắc
Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, trường mạng.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Nhâm Thìn số mạng như là,
Trường lưu mạng Thủy chảy hoải luôn luôn.
Lỗi sanh Xuân Hạ phải buồn,
Giàu sang cũng mệt khổ thân cực hoài.
Thu Đông sanh đặng thời này,
Như cá gặp nước như rồng gặp mây.
Đàn ông thuận số Can Nhâm,
Số thì quyền tước không thì cũng ông.
Đặng sanh là số tự trời,
Nhờ Trời Phật độ mới toàn mạng thay.
Số phải đợi vận làm giàu,
Hạn quá bốn chín lên cao lần lần.
Phước dư Trời báo thiện nhân,
Thọ khương phú hậu riêng xuân một nhà.
Nữ mạng Nhâm Thìn có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Nhâm Thìn cung Khảm số này,
Mạng Thủy nước chảy chẳng hề ngừng tuông.
Lỗi sanh Xuân Hạ phải buồn,
Giàu có mệt trí thức luôn đêm ngày.
Thu Đông sanh đặng thời may,
Nữ nhân là gái chẳng chìu lụy ai.
Tới đâu thân kẻ bề trên,
Anh em xung khắc chẳng nên ở gần.
Vợ chồng cũng phải một lần,
Đôi dòng tha thứ tại phần số ta.
Ly hương tổ quán ông bà,
Xứ xa lập nghiệp cửa nhà đặng an.
1953,2013 Quý Tị – cung Khôn – Âm Thủy – Trường Lưu Thủy: Nước chảy dài – xương
con rắn, tướng tinh con chó – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, trường
mạng.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Quý Tỵ mạng Thủy nước chảy tuông ra vàm.
Thu Đông thuận số thời sang,
Giàu nghèo cũng sướng tấm thân thanh nhàn.
Xuân Hạ lỗi số cực thân,
Hai mùa cũng lỗi tảo tần gian nan.
Số này thân tự lập thân,
Lộc trời có bởi ông cha để dành.
Số đặng vinh hưởng gia đình,
Bôn ba nào có ích gì bôn chôn.
Phong trần ngồi những đợi thời,
Năm ba mươi tuổi có cơ làm giàu.
Một mai vận đặng hanh thông,
Phong lưu sung sướng trong vòng trần ai.
Nữ mạng Quý Tỵ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Cung Không mạng Thủy nước đầy chảy ra.
Nếu nàng sanh thuận mùa Đông,
Giàu nghèo cũng sướng tấm thân thanh nhàn.
Xuân Hạ sanh ra khổ bần,
Chịu phần khổ sở lắm lần gian nan.
Số này xém chết một lần,
Nhưng nhờ ơn đức thánh thần chỡ che.
Lỗi số vận mạng đổi đời,
Ly hương tổ quán ở thời mới an.
Anh em có kẻ giàu sang,
Ta nghèo phải chịu khó toan cậy nhờ.
Ngày mai mọi sự thành công,
Thanh nhàn giàu có hưởng phần ấm no.
1954,2014 Giáp Ngọ – cung Ly – Dương Kim – Sa Trung Kim
: Vàng trong cát – xương con ngựa, tướng tinh con chim trĩ – khắc Thạch Lựu Mộc
– con nhà Bạch đế, an mạng, phú quí.
Nam mạng có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Giáp Ngọ cung Cấn số trai,
Vàng ở trong cát ráng tìm giàu ngay.
Số tuổi no đủ mọi đường,
Phước kiêm phú quý thọ khương một đời.
Ôn hòa trung hiếu tánh người,
Gia đình giáo dục tự người hiền lương.
Bạc tiền không có thì thôi,
Có thì ai hỏi cũng trao tay liền.
Ăn rồi phản phúc tự nhiên,
Ơn đâu không thấy oán liền theo tay.
Có tánh nóng nảy chẳng hay,
Gặp ai thách đố ra oai đánh liền.
Mạnh yếu người cũng chẳng kiên,
Ai cản chẳng được như điên biết gì.
Nữ mạng Giáp Ngọ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Giáp Ngọ Cung Ly mạng Kim,
Vàng trong bãi cát nếu tìm giàu ngay.
Nếu sanh thuận Thìn Tuất Sửu,
Thân Dậu năm tháng ít ai dám bì.
Hạ Xuân lỗi số gian nan,
Tỵ Ngọ hai tháng chẳng sang chút nào.
Lỗi sanh cực nhọc biết bao,
Tiền bạc chẳng có thân rày đó đây.
Nhưng người tính nóng hay gây,
Ấy là Giáp Ngọ số nàng chẳng sai.
Tánh người chẳng chịu hiếp ai,
Gặp mạng đuổi yếu ra tay binh liền.
Nhưng mà phải lỡ đò duyên,
Nhiều khi đau bịnh đứng ngồi chẳng nên.
Đàn bà Giáp Ngọ chẳng hiền,
Gặp chồng mạng lớn phải nhường nhịn ngay.
1955,2015 Ất Mùi – cung Khảm – Âm Kim – Sa Trung Kim : Vàng trong cát – xương
con dê, tướng tinh con gà – khắc Thạch Lựu Mộc – con nhà Bạch đế, an mạng, phú
quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Vàng trong cát trắng khó mà tìm ra.
Đặng sanh sung sướng quý thay,
Mùa Thu cũng tốt số trai thanh nhàn.
Thuận sanh phú quý chẳng sai.
Nghèo giàu cũng sướng guốc giày nhởn nhan.
Số người no đủ y lương,
Bôn ba lúc trẻ an khương về già.
Một tay gầy dựng cửa nhà,
Lao tâm phí lực tự mình làm ra.
Chờ cho vận giữa giao qua,
Tài nguyên phát đạt việc nhà thịnh hưng.
Vợ chồng con cái sum vầy,
Lập nên gia thất vui vầy ấm no.
Nữ mạng Ất Mùi có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Ất Mùi cung Khảm mạng Kim,
Vàng trong cát trắng dễ gì tìm ra.
Thuận sanh Thìn Tuất Sửu Mùi,
Mùa Thu cũng tốt thanh nhàn.
Xuân Hạ thì lỗi số nàng,
Phải đành cam chịu trăm phần lao đao.
Con người có tánh tài lanh,
Cửa nhà chẳng có hỏi vay giúp người.
Ất Mùi số gái đáng thương,
Ít kẻ hung dữ nhiều người hiền lương.
Ai nói hung ác thì nhường,
Nhiều người lối xóm rất hay thương tình.
Hoa niên lập đặng gia đình,
Mấy lần nên nghiệp thình lình vở tan.
Hậu vận có của mới an,
Lập nên gia đạo ngày càng vinh quang.
1956,2016 Bính Thân – cung Khôn – Dương Hỏa – Sơn hạ Hỏa
: Lửa dưới chân núi – xương con khỉ, tướng tinh con quạ – khắc Tích Lịch Hỏa –
con nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Bính Thân mạng Hỏa cung Khôn rõ ràng.
Tuổi sanh Xuân Hạ gặp thời,
Giàu nghèo cũng đặng an nơi thanh nhàn.
Thu Đông lỗi số chẳng an,
Có của cũng cực lưng mang quần dài.
Hạn xưa chưa được hanh thông,
Như thuyền trôi dạt không phương bến bờ.
Số Trời định những bao giờ,
Tài ba vận mạng chờ ngày phát sanh.
Một đời tài sắc phong danh,
Đến khi vận giữa lần lần nối theo.
Ra ngoài kẻ quý người yêu,
Đắc tài đắc lộc còn nhiều hạn sau.
Nữ mạng Bính Thân có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Bính Thân mạng Hỏa cung Khôn,
Lửa ở dưới núi cháy lan đỏ trời.
Tuổi sanh Xuân Hạ gặp thời,
Giàu nghèo cũng đặng an nơi thanh nhàn.
Thu Đông lỗi số chẳng an,
Có của chẳng hưởng số nàng cực thân.
Số cô cực khổ quá tay,
Thuận sanh thong thả giàu sang mấy hồi.
Có điều lỡ dỡ duyên đầu,
Chồng sau mới hạp thuận hòa lứa đôi.
Số trời định xuống an bày,
Tài ba cho lắm chẳng qua số phần.
Cuộc đời tài sắc phong danh,
Đến khi vận mới hoàng làm nên.
Số người có của giúp thương,
Đắc tài hữu lộc phải ngoài ba mươi.
1957,2017 Đinh Dậu – cung Chấn – Âm Hỏa – Sơn Hạ Hỏa : Lửa dưới núi – xương con
gà, tướng tinh con khỉ – khắc Tích Lịch Hỏa – con nhà Xích đế, cô bần.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đinh Dậu cung Tốn tuổi ta,
Lửa ở dưới núi cháy hoài ngày đêm.
Mùa Xuân mùa Hạ sanh ra,
Đặng sanh sung sướng làm nên chức quyền.
Thu Đông lỗi số tự nhiên,
Hỏa bị Thủy khắc đảo điên cực hoài.
Số này trung vận bôn ba,
Khá rồi tan rã khiến ta chưa cầm.
Hậu vận mới đặng an tâm,
Dư ăn dư để của cầm khỏi rơi.
Số này vận mạng đổi đời,
Xa quê xa xứ ở thời mới an.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi đâu có đó thiệt tình chẳng sai.
Số tuổi lòng dạ thẳng ngay,
Của rơi không lượm gặp người chỉ cho.
Nữ mạng Đinh Dậu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đinh Dậu cung Cấn số này,
Lửa ở dưới núi cháy hoài ngày đêm.
Xuân Hạ sanh đặng hạp thời,
Hỏa bị Thủy khắc đảo điên cực lòng.
Thu Đông cũng lỗi số nàng,
Làm ăn vất vả tiền tài chẳng an.
Số tuổi tai nạn hải hùng,
Tưởng đâu bỏ xác nhiều nơi đã rồi.
Nhưng nhờ ơn đức Phật Trời,
Độ cho qua khỏi mấy lần nạn tai.
Số này trung vận lao đao,
Khá rồi tan rã số ta chưa cầm.
Hậu vận mới được an thân,
Dư ăn dư mặc của tiền đầy kho.
Nhưng mà vận mạng đổi đời,
Lập nên gia nghiệp phải xa quê nhà.
1958,2018 Mậu Tuất – cung Tốn – Dương Mộc – Bình Địa Mộc
: Cây ở đồng bằng; Cây mọc đất bằng – xương con chó, tướng tinh con vượn – khắc
Sa Trung Kim – con nhà Thanh đế, phú quí.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Mộc bình địa là cây đất bằng.
Hạ Thu lỗi số khó khăn,
Hai mùa vất vả lăng xăng cực hoài.
Đông Xuân thời đặng gặp may,
Thanh nhàn sung sướng ít ai dám bì.
Có lúc tai nạn hiểm nguy,
May nhờ Phật độ không thì bỏ thân.
Tiền vận lắm lúc lôi thôi,
Nhà cửa nhiều lớp có rồi cũng tan.
Nhưng mà mạng số giàu sang,
Vinh hoa phú quý an nhàn tấm thân.
Số đặng vui vẻ thảnh thơi,
Người nhờ âm đức của Trời ban cho.
Nữ mạng Mậu Tuất có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Mộc bình địa là cây đất bằng.
Gái sanh nghịch số Hạ Thu,
Thanh nhàn sung sướng ít ai dám bì.
Có lúc tai nạn hiểm nguy,
Vậy mà Phật độ được qua tai nàn.
Buổi đầu tai nạn lôi thôi,
Nhà cửa nhiều lớp có rồi cũng tiêu.
Vợ chồng khắc khẩu cải hoài,
Vậy mà con cháu đầy đàng phải lo.
Nữ nhân ít kẻ hiền lương,
Gặp chồng mạng nhỏ thì cầm quyền ngay.
Số gái tánh cũng như trai,
Giận ai muốn xé nuốt tươi mới vừa.
Có tánh khẳng khái đảm đương,
Thấy mạnh hiếp yếu thì thương nhảy vào.
1959,2019 Kỷ Hợi – cung Cấn – Âm Mộc – Bình Địa Mộc : Cây mọc đất bằng – xương
con heo, tướng tinh con gấu – khắc Sa Trung Kim – con nhà Thanh đế, phú quí.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Mộc bình địa cây trên đất bằng.
Đông Xuân cũng thuận ai bằng,
Hai mùa thuận số có ăn thanh nhàn.
Số này có nạn vào thân,
Gian truân lắm độ phong trần lắm khi.
Tha hương lập nghiệp xứ xa,
Trở về vận cuối làm ra có tiền.
Vợ chồng trắc trở nhiều phen,
Nếu không thì cũng lòng dòng đôi ba.
Kỷ Hợi có số hiền lương,
Thấy ai ngọt dịu thì thương giúp liền.
Số tuổi tu niệm ăn chay,
Lòng ở nhân đức có ngày làm nên.
Nữ mạng Kỷ Hợi có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Hợi cung Cấn số này,
Mạng Mộc bình địa cây trên đất bằng.
Đông Xuân sanh đặng thời sang,
Hai mùa thuận số có căn thanh nhàn.
Hạ Thu sanh gái là nàng,
Ấy là lỗi số thiếp đành cực thân.
Thuận sanh gái sướng hơn trai,
Giàu cũng thong thả guốc giày nhổn nhang.
Gái thì có tánh hiền lương,
Thấy ai nghèo khó thì thương giúp liền.
Số phải niệm Phật ăn chay,
Lòng ở nhân đức có ngày làm nên.
Số người ăn trước ngồi trên,
Chức cao tước trọng kẻ trên giúp mình.
1960,2020 Canh Tý – cung Càn – Dương Thổ – Bích Thượng Thổ
: Đất trên vách – xương con chuột, tướng tinh con dê – khắc Thiên Thượng Thủy –
con nhà Huỳnh đế, quan lộc, bần cùng.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Canh Tý mạng Thổ cung Càn,
Đất ở đầu vách khó mà tìm ra.
Nhỏ thờ vất vả phiêu lưu,
Lớn lên lập nghiệp lắm ưu lắm phiền.
Số tuổi khẳng khái đảm đương,
Thấy mạnh hiếp yếu thì thường nhảy vào.
Bạc tiền như thể chiêm bao,
Giàu có như thể sớm vào tối ra.
Tạo lập lắm cửa lắm nhà,
Mua cất rồi bán thế là trắng tay.
Thấy người yếu thế cô đơn,
Có tiền cũng giúp chẳng cần đền ơn.
Số tuổi có chức có quyền,
Có tay quán xuyến có quyền khiển binh.
Vợ chồng xung khắc hay rầy,
Vậy mà con cháu đầy nhà phải lo.
Nữ mạng Canh Tý có bà Chúa Tiên độ mạng.
Canh Tý mạng Thổ cung Càn,
Đất ở đầu vách vậy mà cứng ghê.
Canh Tý sanh thuận tháng này,
Thìn Tuất Sữu Mùi số này tài cao.
Gái sanh Xuân mộc khắc chồng,
Cho hay lỗi số không đồng mùa sanh.
Số cô y lộc đủ dùng,
Không dư chẳng thiếu có chừng mà thôi.
Gái mà Canh Tý quyền hành,
Gặp chồng mạng nhỏ phải đành nhịn ngay.
Tánh người vui vẻ dễ thương,
Thấy mạnh hiếp yếu thì thường nhảy vào.
Tiền vận làm có của kho,
Bởi không biết giữ trời cho không còn.
Bạc tiền như thể chiêm bao,
Buổi đầu làm khá sớm vào tối ra.
Cho hay số ở thiên đình,
Tu nhơn tích đức giữ gìn mai sau.
1961,2021 Tân Sửu – cung Đoài – Âm Thổ – Bích Thượng Thổ – xương con trâu,
tướng tinh con đười ươi – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, quan lộc,
bần cùng.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Tân Sửu mạng Thổ tuổi này,
Số cùng với mạng lắm lần khắc khe.
Vận thời dời đổi ngửa nghiêng,
Nhiều phen lận đận lắm lần gian nan.
Nếu sanh mùa Hạ thời may,
Thanh nhàn thong thả ít ai dám bì.
Số này chết hụt nhiều khi,
Nhờ ơn Trời Phật không thì mạng vong.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Nếu không chồng vợ lòng dòng đôi ba.
Nếu không thay vợ đổi nhà,
Cuộc đời luống chịu vui chiều buồn mai.
Cho hay số phận Thiên Tài,
Tu nhân tích đức phước nhờ mai sau.
Nữ mạng Tân Sửu có bà Chúa Tiên độ mạng.
Tân Sửu mạng Thổ cung Đoài,
Đất ở đầu vách ít ai cuốc đào.
Tháng Giêng lỗi số biết bao,
Thu Đông cũng cực số sao hẫm hiu.
Số này khắc mẹ khắc cha,
Gần nhau xích mích đi xa lại buồn.
Tánh người nói dữ nói hung,
Khẩu xà tâm Phật nói rồi bỏ qua.
Gái thì lập nghiệp phương xa,
Tình đầu luống chịu vui chiều buồn mai.
Cho hay trời đã an bày,
Tu nhơn tích đức để rày mai sau.
1962,2022 Nhâm Dần – cung Cấn – Dương Kim – Kim Bạc Kim
: Vàng pha bạch kim – Quá lâm chi hổ: cọp đi qua rừng – xương con cọp, tướng
tinh con ngựa – khắc Lư Trung Hỏa – con nhà Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Tuổi Dần cung Cấn mạng Kim,
Tướng người tật bịnh khó tìm chẳng an.
Tuổi nhỏ như thể chỉ mành,
Ốm đau bịnh tật đã đành khó nuôi.
Tánh tình ăn nói bải buôi,
Khôn ngoan mềm mõng hay vui hay cười.
Nam nhân cao số hơn người,
Số tu tích đức Phật Trời độ cho.
Số cao có số hơn người,
Đôi dòng ba thứ vợ ngoài vợ trong.
Nhưng mà chết hụt phải phòng,
Tướng mạng lớn lắm mới hòng sống lâu.
Huynh đệ cũng chẳng thuận hòa,
Tuổi nhỏ tự lập tuổi già nhờ con.
Nữ mạng Nhâm Dần có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Nhâm Dần cung Cấn mạng Kim,
Lá vàng tây trắng dễ gì tìm ra.
Nếu người sanh thuận mùa Thu,
Là người tốt số được phần giàu sang.
Đông Xuân ở mức trung bình,
Nếu là mùa Hạ là mùa lỗi sanh.
Số này tuổi nhỏ khó nuôi,
Ốm đau bịnh tật triền miên nhiều ngày.
Lớn lên y lộc đủ dùng,
Không dư chẳng thiếu ung dung thanh nhàn.
Nữ nhân sau số nhân người,
Gặp chồng hiền đức phải thời nhịn ngay.
Làm ơn cho bạn chẳng nài,
Bạc tiền trợ giúp có ngày hại ta.
Anh em cũng chẳng thuận hòa,
Tuổi nhỏ tự lập tuổi già hiển vinh.
1963,2023 Quý Mẹo – cung Ly – Âm Kim – Kim Bạc Kim – xương con thỏ, tướng tinh
con hươu – khắc Lư Trung Hỏa – con nhà Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Nhìn xem số mạng tuổi này,
Như vàng tây trắng có ngày giàu sang.
Tiền vận vất vả khó con,
Trung vận mạnh khỏe làm ăn hơn người.
Trai thì lại có lắm nghề,
Bụng người ngay thẳng không hề tham lam.
Mùa Thu sanh đặng thuận mùa,
Mùa Hạ hỏa khắc phải dời đổi thay.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi đâu trúng đó thiệt tình chẳng sai.
Nếu thuận thì phước lại tăng,
Tuổi già sung sướng lộc tài thiếu chi.
Tuổi nhỏ phải chịu gian nan,
Tuổi già vinh hiển giàu sang hơn người.
Nữ mạng Quý Mão có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Quý Mão mạng Kim cung Ly,
Là vàng tây trắng đặng thì giàu sang.
Nếu sanh thuận số mùa Thu,
Như là nước chảy bon bon chẳng ngừng.
Mùa Hạ nóng bức chẳng hay,
Như cây mọc ở đầu làng gió bay.
Gái mà sanh đặng số này,
Hiền lành giàu kẻ sang giàu lắm thay.
Ăn nói ngọt dịu mỏng mềm,
Ít ai ghen ghét kẻ trên thương mình.
Bụng người cũng có tánh linh,
Nghi ai thì có thiện tình chẳng sai.
Số này cũng lắm nghề hay,
Tánh tình ngay thẳng chẳng ưa làm phiền.
1964,2024 Giáp Thìn – cung Tốn – Dương Hỏa – Phúc Đăng Hỏa
: Lửa ngọn đèn; lửa đèn nhỏ – xương con rồng, tướng tinh con rắn – khắc Thoa
Xuyến Kim – con nhà Xích đế, tân khổ.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Giáp Thìn số mạng may thay,
Tuổi cùng với mạng hợp hòa thuận sanh.
Thu Đông sanh ra khổ hèn,
Xuân Hạ sanh đặng như đèn sáng trưng.
Trai thì vui vẻ đào hoa,
Tánh thì hiền hậu không hay gian tà.
Thuận sanh sung sướng biết bao,
Lỗi sanh cực nhọc gian lao lắm lần.
Ví như cờ bạc đánh thua,
Về nhà lo lắng như cua gảy càng.
Số này trước ngắn sau dài,
Vợ chồng thay đổi ba lần mới yên.
Số phải tu niệm ăn chay,
Sống lâu hưởng phúc lộc Trời ban cho.
Nữ mạng Giáp Thìn có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Đoán xem số mạng Giáp Thìn,
Mạng Hỏa lò lửa ở quanh ngọn đèn.
Thu Đông sanh đặng khổ hèn,
Xuân Hạ sanh thuận như đèn sáng trưng.
Thuận sanh con gái là nàng,
Gặp chồng mạng nhỏ chịu đầu hàng ngay.
Giáp Thìn mạng Hỏa như vầy,
Tuổi cùng với mạng hợp hòa tương sanh.
Có duyên vui vẻ hiền lành,
Tánh người điềm tĩnh không hay gian tà.
Số người duyên nợ bền lâu,
Vợ chồng con cái yên hòa gia môn.
Số có tu niệm thì hay,
Sống lâu hưởng phước triền miên tuổi già.
1965,2025 Ất Tị – cung Đoài – Âm Hỏa – Phúc Đăng Hỏa: Lửa đèn nhỏ – xương con
rắn, tướng tinh con trùn – khắc Thoa Xuyến Kim – con nhà Xích đế, tân khổ.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Ất Tỵ mạng Hỏa số này,
Cung Đoài lửa cháy sáng ngời tọa đăng.
Thu Đông lỗi số khó khăn,
Hai mùa khắc nghịch có ăn lo hoài.
Xuân Hạ mà đặng sanh thai,
Kẻ hầu người hạ có bồi bếp sai.
Số này tuổi nhỏ gian nan,
Trở về lớn tuổi có phần an thân.
Số người cách trở lương duyên,
Bằng không thì cũng vợ trong vợ ngoài.
Số mạng phước lớn nhờ Trời,
Khỏi bị chết hụt cũng thời cầm giam.
Phải nên phước đức tu tâm,
Phật Trời hộ độ mới an gia đình.
Nữ mạng Ất Tỵ có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Ất Tỵ mạng Hỏa cung Đoài,
Ấy là lửa chác ở đèn tọa đăng.
Thu Đông lỗi số khó khăn,
Xuân Hạ sanh đặng làm ăn phát tài.
Hiền lành ăn ở thẳng ngay,
Chớ nên gian xảo mà mang tội tù.
Thân tộc giàu có không ham,
Nghèo thì phải chịu ai làm nấy ăn.
Anh em cũng chẳng đặng gần,
Khó khăn nghịch ý nói năng chẳng hòa.
Đầu tiên nhiều lớp cửa nhà,
Nhưng mà chẳng giữ sau mà mới nên.
Số này trắc trở lương duyên,
Vợ chồng lỡ dỡ chẳng yên một đời.
1966,2026 Bính Ngọ – cung Càn – Dương Thủy – Thiên Hà Thủy
: Nước trên trời – xương con ngựa, tướng tinh con thuồng luồng – khắc Thiên
Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, tân khổ.
Nam mạng có bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Số cùng với mạng lắm lần gian nan.
Có lúc nguy hiểm chẳng an,
Tưởng đâu chết hụt chết oan đã rồi.
Duyên tình lỡ dỡ lôi thôi,
Trước khi sum họp sau rồi lại tan.
Anh em gia đạo bất hòa,
Đi xa thương nhớ về nhà chẳng yên.
Tiền vận vất vả lao đao,
Trở về hậu vận mới nhàn tấm thân.
Tuổi này cũng có tánh linh,
Nghi đâu trúng đó thiệt tình chẳng sai.
Số này tướng mạng lớn thay,
Quyền hành chấp chưởng lo thay cho người.
Nữ mạng Bính Ngọ có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Bính Ngọ mạng Thủy cung Càn,
Mạng Thủy là nước ở sông Giang Hà.
Thu Đông sanh đặng tuổi nàng,
Đặng mùa vương tướng số ta thanh nhàn.
Xuân Hạ sanh thiếp lỗi mùa,
Lỗi sanh cực nhcọ nên nàng gian nan.
Cho nên thân gái dặm tràng,
Duyên tình lỡ dỡ đôi đàng chia ly.
Anh em xung khắc bất hòa,
Đi xa thương nhớ về nhà chẳng yên.
Tuổi này lại có tính linh,
Nghi đâu trúng đó thiệt tình chẳng sai.
Gặp kẻ ăn nói bất bình,
Giận người lỗ mãn thiệt tình khó dung.
Tiền vận số phải lao đao,
Hậu vận vinh hiển giàu sang có thừa.
1967,2027 Đinh Mùi – cung Đoài – Âm Thủy – Thiên Hà Thủy – xương con dê, tướng
tinh con rồng – khắc Thiên Thượng Hỏa – con nhà Hắc đế, tân khổ.
Nam mạng có Cậu Tài, Cậu Quý độ mạng.
Đinh Mùi tuổi nhỏ khó nuôi,
Thiên Hà nước chảy rỏ hoài như mưa.
Thu Đông sanh đặng mới vừa,
Lớn lên mạnh khỏe tài ba hơn người.
Xuân Hạ lỗi số chẳng vừa,
Gian nan lắm độ hiểm nguy lắm lần.
Số mạng tưởng đã qui tiên,
Nhiều lúc nguy hiểm đảo điên gặp hoài.
Số người phải chịu truân chuyên,
Tuổi trẻ cực nhọc tuổi già hiển vinh.
Tiền bạc như thể chiêm bao,
Nhiều lúc làm khá tốn hao chẳng còn.
Lắm khi trách trộm buồn thầm,
Người sao cùng tuổi họ cầm bạc muôn.
Nữ mạng Đinh Mùi có bà Chúa Ngọc độ mạng.
Đinh Mùi mạng Thủy số này,
Thiên Hà nước chảy nhỏ hoài như mưa.
Thu Đông sanh đặng thuận mùa,
Xuân Hạ lỗi số gái mà chẳng nên.
Không phần làm bạn với ai,
Ăn rồi quẹt mỏ rõ loài phản ta.
Số này thân gái âu lo,
Chồng con lo lắng một tay dựng nhà.
Tiền bạc như thể chiêm bao,
Buổi đầu giàu có sau rồi cũng tan.
Nhiều khi trách phận buồn than,
Cũng thời một tuổi họ cầm bạc muôn.
Có tay thương mại bán buôn,
Vậy mà chẳng được tình thương đậm đà.
Vợ chồng cách trở đôi ba,
Nếu mà có phước mới hòa thường nhau.
1968,2028 Mậu Thân – cung Cấn – Dương Thổ – Thành Đầu Thổ – xương con khỉ,
tướng tinh con lạc đà – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà Huỳnh đế, quan lộc.
: Đất đầu thành, đất thuộc khu lớn, đất nền nhà (Đại Dịch Thổ; Đại Trạch Thổ).
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Số cùng với mạng lắm lần gian truân.
Thìn Tuất Sửu Mùi sanh thai,
Tỵ Ngọ sáu tháng đặng mai thanh nhàn.
Số người cốt nhục không hòa,
Tự tay lập nghiệp mà nên cửa nhà.
Tuổi nhỏ chết hụt đôi lần,
Không thì bịnh tật khổ thân sau này.
Đầu tiên có của chẳng an,
Nhà cửa nhiều lớp rả tan đổi dời.
Tuổi nhỏ cực trí lao tâm,
Trở về lớn tuổi mới mong thanh nhàn.
Số người lại có biệt tài,
Làm ăn nên cửa bằng bàn tay không.
Nữ mạng Mậu Thân có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Mậu Thân cung Cấn số nàng,
Mạng Thổ đất lớn nhiều người tài cao.
Thuận sanh Thìn Tuất Sửu Mùi,
Tỵ Ngọ sáu tháng đặng may thanh nhàn.
Thu Đông sanh gái là nàng,
Mùa Xuân cũng lỗi sanh nàng cực thân.
Số cô chết hụt đôi lần,
Chớ ở gian xảo vậy mà chẳng qua.
Răn lo tích đức tu thân,
Về sau mới được an nhàn tấm thân.
Số phải thay đổi nợ duyên,
Chồng sau mới được phỉ quyền yến anh.
Tuổi nhỏ chẳng đặng yên lành,
Trở về hậu vận mới hòng yên thân.
Nếu lòng tin tưởng Phật Trời,
Ngày sau con cháu một đời vinh quang.
1969,2029 Kỷ Dậu – cung Ly – Âm Thổ – Thành Đầu Thổ (Đại Trạch Thổ : Đất nhà
lớn) – xương con gà, tướng tinh con thỏ – khắc Thiên Thượng Thủy – con nhà
Huỳnh đế, quan lộc.
Nam mạng có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Dậu mạng Thổ cung Khôn,
Đại trạch đất lớn ở thì say mê.
Thìn Tuất Sửu Mùi chẳng chê,
Tỵ Ngọ sáu tháng đặng bề an thân.
Thu Đông hữu tú phân vân,
Hai mùa làm đặng công thần cũng lo.
Số này lúc nhỏ lao đao,
Hậu vận sung sướng phong lưu thanh nhàn.
Tánh người ngay thẳng chẳng gian,
Lại thêm có số thuận hành thọ thân.
Tha phương lập nghiệp mới nên,
Cửa nhà yên ổn gia môn thuận hòa.
Số này hưởng lộc tuổi già,
Cũng như áo gấm lại càng thêm hoa.
Nữ mạng Kỷ Dậu có Phật Bà Quan Âm độ mạng.
Kỷ Dậu mạng Thổ cung Ly,
Đất ở nhà lớn dễ gì tìm ra.
Hạp thì Thìn Tuất Sửu Mùi,
Tỵ Ngọ sáu tháng hạp mùa thuận sanh.
Thu Đông chẳng hạp chẳng an,
Tuy làm giàu có cũng là cực thân.
Đầu tiên là có của kho,
Vậy mà chẳng đặng vững bền tiêu hao.
Nhà của nhiều lớp rã tan,
Sắm rồn bán đó chẳng bền về sau.
Nhưng mà nhờ đức Phật Trời,
Làm ăn có của ở thời vận sau.
Lỗi sanh vô phước xấu phần,
Chơi bạn không tốt nhiều lần hại ta.
Vợ chồng chẳng được thuận hòa,
Vậy mà con cái đầy đàng phải lo.
1970,2030 Canh Tuất – cung Khảm – Dương Kim – Thoa Xuyến Kim
: Vàng trang sức; xuyến bằng vàng – xương con chó, tướng tinh con cáo – khắc
Đại Lâm Mộc – con nhà Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Canh Tuất cung Ly số này,
Mạng phần khó dưỡng lúc còn tuổi thơ.
Thuận sanh thì đặng mùa Thu,
Mùa Hạ Hỏa khắc như cua gãy càng.
Đông Xuân cũng lỗi số sanh,
Người thì vất vả gặp điều chẳng may.
Sớm ra có bịnh chẳng an,
Trong mình yếu đuối hoặc là tật chi.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu,
Không thì chồng vợ lòng dòng đôi ba.
Tiền vận cực khổ lao đao,
Trở về hậu vận mới an gia đình.
Tu nhân tích đức thì may,
Trời ban phước lộc tiền tài thiếu chi.
Nữ mạng Canh Tuất có bà Chúa Tiên độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Kim xoa xuyến là vàng đeo tay.
Mùa Thu sanh đặng gặp may,
Như cây gặp nước như cua đủ càng.
Mùa Hạ Hỏa khắc chẳng an,
Đông Xuân cũng lỗi khiến nàng cực thân.
Gái mà tuổi Tuất chẳng hiền,
Gặp chồng mạng nhỏ phải đành nhịn ngay.
Canh Tuất số gái chẳng yên,
Chữ Canh chữ Mậu đảo điên nhiều chồng.
Số nàng lập nghiệp phương xa,
Làm ăn có của có nhà chẳng yên.
Lỗi sanh tiền bạc khó cầm,
Khi ăn chẳng hết lúc cần chẳng ra.
Số người hậu vận lao đao,
Không bằng vận giữa như tiên giáng trần.
1971,2031 Tân Hợi – cung Khôn – Âm Kim – Thoa Xuyến Kim – xương con heo, tướng
tinh con cọp – khắc Đại Lâm Mộc – con nhà Bạch đế, phú quí.
Nam mạng có ông Quan Đế độ mạng.
Số này cung mạng tương sanh,
Chẳng sang cũng quý số người thuận sanh.
Mùa Thu là hạp với chàng,
Đều đặng sung sướng thanh nhàn lo chi.
Mùa Hạ bị khắc hàn vi,
Đông Xuân cũng lỗi giàu thì cực thân.
Số này cách trở quê hương,
Tha phương cầu thực mới nên cửa nhà.
Trung vận vất vả gian nan,
Kể từ hậu vận thạnh hưng một bề.
Tiền vận rắc rối lôi thôi,
Ngay gian cũng bị kéo lôi ngục tù.
Số may gặp được phước hồng,
Không thì cũng ở ngục tù từ lâu.
Nữ mạng Tân Hợi có bà Chúa Tiên độ mạng.
Đoán xem số mạng tuổi này,
Mạng Kim thoa xuyến là vàng đeo tay.
Mùa Thu là thuận số nàng,
Đều đặng sung sướng an nhàn tấm thân.
Mùa Hạ thì bị lỗi thời,
Đông Xuân cũng cực làm giàu chẳng nên.
Anh em xung khắc chẳng gần,
Ở xa thương nhớ lại gần khắc xung.
Giận ai nói dữ nói hung,
Mà lòng chẳng hận giận ai bao giờ.
Số này là gái thật thà,
Vì trời phú tánh nên nàng dễ thương.
Số nàng cách trở nợ duyên,
Trước thì có của nhiều lần rã tan.
Trung niên vất vả gian nan,
Kể từ hậu vận an hưởng thanh nhàn.
1972,2032 Nhâm Tý – cung Chấn – Dương Mộc – Tang Đố Mộc
: Gỗ cây Dâu – xương con chuột, tướng tinh con heo – khắc Ốc Thượng Thổ – con
nhà Thanh đế, Quan lộc, tân khổ.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Nhâm Tý số mạng như vầy,
Phong sương cũng lắm tha phương cũng nhiều.
Số này cách trở quê hương,
Đi ra xứ khác sanh phương nên nhà.
Số phải khắc khẩu mẹ cha,
Ở gần cắng đắng đi xa thì buồn.
Số này cách trở lương duyên,
Thay nhà đổi bạn truân chuyên lắm bề.
Chẳng nhờ cốt nhục họ hàng,
Tự mình lập nghiệp cửa nhà mới nên.
Tiền vận chẳng đặng thảnh thơi,
Trở về vận cuối an nhàn tấm thân.
Nhâm Tý nhờ có quới nhân,
Tu nhân tích đức phước Trời ban cho.
Nữ mạng Nhâm Tý có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Nhâm Tý cung Chấn số này,
Tang đố mạng Mộc cây tầm trồng dâu.
Sanh ra lỗi số mùa Thu,
Mùa Hạ cũng chẳng có mưu chước gì.
Bởi sanh lỗi số cực thân,
Sáng lo chạy gạo bước chân không ngừng.
Đông Xuân thì đặng thuận mùa,
Làm ăn có của chẳng thua bạn bè.
Nhưng mà duyên lỡ buổi đầu,
Nhiều chổ đi nói khẩn cầu không nghe.
Bởi số Nhâm Tý cứng đầu,
Ai mà nói khích chẳng cầu chẳng ưa.
Chịu người ngọt dịu đầu môi,
Bởi vậy phải khổ lôi thôi nhiều lần.
Nhưng người trí sáng thông minh,
Ai tính mưu kế thì nàng biết ngay.
Số cô nhờ có quới nhân,
Tu nhân tích đức Thánh Thần đỡ cho.
1973,2033 Quý Sửu – cung Tốn – Âm Mộc – Tang Đố Mộc: Cây Dâu – xương con trâu,
tướng tinh con cua biển – khắc Ốc Thượng Thổ – con nhà Thanh đế, Quan lộc, tân
khổ.
Nam mạng có ông Tử Vi độ mạng.
Số này lúc nhỏ gian nan,
Lao tâm khổ trí vui chiều buồn mai.
Thân phận phải chịu lao đao,
Tình duyên trể nải bằng không đổi đời.
Số người thân tự lập thân,
Tha phương cầu thực gia môn an hòa.
Họ hàng như thể người xa,
Cũng như giá lạnh đám đông điêu tàn.
Lúc nhỏ chẳng đặng an thân,
Hậu vận phú lúc an môn gia hòa.
Mùa Xuân mới đặng thảnh thơi,
Thanh nhàn sung sướng đố ai sánh bằng.
Nữ mạng Quý Sửu có bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.
Quý Sửu số cô như là,
Tang đó mạng Mộc cuộc đời ít lo.
Mùa Thu sanh lỗi khó khăn,
Cuộc đời gian khổ phải lo tháng ngày.
Mùa Xuân sẽ mới vui tươi,
Thanh nhàn sung sướng cuộc đời lên hương.
Số cô thuở nhỏ gian nan,
Tưởng đâu đã chết ngày nay đâu còn.
Nhưng mà nhờ đức ông cha,
Ngày nay an hưởng cuộc đời ấm no.
Số này tự lập một mình,
Tha phương cầu thực gia môn an hòa.
Họ hàng thân thích chẳng trông,
Cũng như giá lạnh đêm đông điêu tàn.
Lúc nhỏ chẳng đặng an nhàn,
Trở về hậu vận gia đình vui tươi.
QUY LUẬT NGŨ HÀNH
Tương sinh : Thổ sinh
kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ.
Tương khắc : Thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc
thổ.
Tỷ hòa : âm thổ +
dương thổ ; âm thủy + dương thủy…
Tương tranh : dương thổ + dương thổ ; âm kim + âm kim…
Mạng Kim: hợp màu
trắng, màu vàng; Màu sắc tương sinh: Thổ sinh Kim: hợp màu nâu
Mạng Thủy: hợp màu đen, xanh da trời; Kim sinh Thủy: hợp màu trắng, xanh nước
biển đậm, vàng
Mạng Mộc: hợp màu xanh lá cây; Thủy sinh Mộc: hợp màu đen, xanh da trời
Mạng Hỏa: hợp màu tím, hồng, đỏ; Mộc sinh Hỏa: hợp màu xanh lá cây
Mạng Thổ: hợp màu nâu; Hỏa sinh Thổ: hợp đỏ, tím, hồng.
Âm
Sinh – Khắc
Dương Sinh – Khắc
Ngũ Hành Sinh – Khắc
Đôi khi gặp Tương Sinh
không hẳn là tốt, gặp Tương Khắc chưa hẳn là xấu:
thí dụ: Người tuổi Mậu
Dần, ngũ hành thuộc Thổ, thì
– hành Kim được lợi: Vượng do Thổ Sinh Kim.
– Thổ với Thổ: lưỡng thổ thành sơn, Thổ được bồi đắp thêm thành núi.
– Hỏa sinh Thổ: Hỏa đốt Mộc nên cả hai Hỏa và Mộc đều bị tổn hại để Thổ được
sinh, tức Thổ được sinh nhập.
– Thổ khắc Thủy: Thổ bị hao tổn, còn Mộc được hóa sinh, nên Thổ bị khắc nhập.
Qua thí dụ trên, sự tương sinh hay tương khắc chỉ có một chiều: Thổ sinh được
Kim chứ Kim không sinh được Thổ; Thổ khắc Thủy chứ Thủy không khắc Thổ …
– Lấy một ví dụ: tại sao cho là Thiên Thượng Hỏa khắc Thiên Hà Thủy? Là bởi vì
trước tiên là Hỏa khắc Thủy, nước có thể dập tắt đám cháy, lửa hay nắng gắt có
thể làm cạn khô nước. Cả 2 đều là Thiên tức trên trời, thiên thượng hỏa nghĩa
đơn giản là nắng, thiên hà thủy nghĩa đơn giản là mưa. Có nắng thì không có mưa
và ngược lại, khắc nhau là như vậy.
– Hành được sinh (sinh nhập) có lợi: Kim được Thổ sinh thì Kim được lợi, còn
Thổ thì hao tổn (sinh xuất).
– Hành bị khắc (khắc nhập) thất lợi, còn hành khắc cũng hao tổn, như Thổ là
hành khắc (khắc xuất), còn Thủy là hành bị khắc (khắc nhập).
Theo lý thuyết, được sinh nhập, khắc xuất là tốt. Còn bị sinh xuất, khắc nhập
là xấu. Nhưng còn tính chất hóa hợp xung của Thiên Can, Địa Chi nên không vì
những điều trên mà phải lo lắng.
Tương sinh có nghĩa là nuôi dưỡng, thúc đẩy, trợ giúp; còn tương khắc có nghĩa
ràng buộc, khắc chế. Nhưng xét theo Vượng Tướng Hưu Tù Tử sẽ có ứng dụng khác
nhau:
Gặp Tương Sinh chưa hẳn là tốt:
– Kim dựa vào Thổ sinh (Thổ sinh Kim), nhưng Thổ vượng thì Kim bị vùi lấp, mất
tích.
– Thổ dựa vào Hỏa để sinh (Hỏa sinh Thổ), nhưng Hỏa vượng thì Thổ trở thành
khoáng sản than đá, Kim loại.
– Hỏa dựa vào Mộc sinh (Mộc sinh Hỏa), nhưng Mộc vượng thì Hỏa đang thuộc hưu,
tù, tử, không thể bốc lên đốt cháy được cây to.
– Mộc dựa vào Thủy để sinh (Thủy sinh Mộc), nhưng Thủy vượng thì Mộc trốc gốc,
trôi giạt.
– Thủy dựa vào Kim sinh (Kim sinh Thủy), nhưng Kim vượng thì Thủy đục nước, có
nhiều tạp chất đầy nguy hại.
Gặp Tương Khắc chưa
phải là hung:
– Kim khắc Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim phải mẻ.
– Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ khô thì Mộc chết.
– Thổ khắc Thủy nhưng Thủy dây cao thì Thổ bị trôi, bị sụp lở.
– Thủy khắc Hỏa nhưng Hỏa vượng thì Thủy khô cạn.
– Hỏa khắc Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa phải tắt.
Vì vậy hành nào là
Vượng, Tướng, dù bị khắc nhập hay sinh xuất đều vượt qua, còn những hành được
sinh nhập hay khắc xuất đang ở thế Hưu, Tù, Tử, chuyển hung ra cát, chuyển cát
thành hung.
Chúng ta thấy sự sinh khắc của ngũ hành đều có những yếu tố xác định, như Mộc
là cây cối tăng trưởng được là nhờ có Thủy, nhưng cây không sống được ở sông mà
phải sống trên đất, như vậy phải có Thổ. Khi Mộc vượng thì Thủy lẫn Thổ đều gặp
hao tổn. Trong ngũ hành đều có sự tương trợ hay khống chế nhau, như Thổ bị khắc
với Mộc cần có Kim khống chế lại Mộc, v.v.
Trong hôn định chẳng hạn, lỡ gạo đã thành cơm, Mộc lấy Thổ, để khắc chế hai
mệnh Mộc và Thổ, cần sinh đứa con tuổi Kim, gia đình tức khắc hòa thuận, hạnh
phúc.
Ấu
– Tráng – Lão của Ngũ Hành
Ngoài yếu tố Vượng,
Tướng, Hưu, Tù, Tử nên tính thêm độ số Ngũ Hành Ấu Tráng Lão. Ấu như mới sinh
chưa phát huy được tính chất cát hung cao như Tráng là đã trưởng thành, hay Lão
không còn sức công phá như thời thanh niên trai tráng. Trong chu kỳ Lục Thập
Hoa Giáp với 60 tên gọi, cứ hai cặp Can Chi có chung một tên Ngũ Hành Nạp Âm và
mỗi hành gồm có 6 tên gọi khác nhau để đánh giấu giai đoạn Ấu, Tráng, Lão nói
trên.
Như
hành Thổ có "Lục Thổ" có thứ tự:
1. Lộ Bàng Thổ
2. Thành Đầu Thổ
3. Ốc Thượng Thổ
4. Bích Thượng Thổ
5. Đại Trạch Thổ
6. Sa Trung Thổ
Hành nào là Ấu, Tráng,
Lão của vòng Trường sinh thuộc giai đoạn nào?
– Nếu Ngũ hành đi từ
Ấu rồi trở về Ấu theo chu kỳ 60 năm, lúc về già sẽ hồi xuân, mang tính trẻ
trung vô tư như thời niên thiếu (Ấu), nếu mệnh hợp có tài lộc, hưởng được thú
an nhàn, còn mệnh khắc phải chịu gian nan, sống trong tuổi già phải nhờ con
cháu nuôi dưỡng như mới sinh ra đời.
– Nếu Ngũ hành đi từ Tráng, Lão, Ấu sang Tráng, nếu bị khắc sẽ có tiền cát hậu
hung; nếu đi từ Lão, Ấu, Tráng rồi về Lão, dù mệnh khắc cũng đều có hậu vận tốt
đẹp.
– Thổ sinh Kim thì Thổ hao, kim lợi, nhưng hành Thổ nào cho hành Kim lợi? Xét
qua bảng Lục Thổ, chỉ có hai loại Thổ có thể cho Kim lợi, là Sa Trung Thổ, Đại
Trạch Thổ hoặc tối thiểu là Lộ Bàng Thổ, là những hành Thổ có thể tạo ra kim
loại, tức Kim được sinh nhập.
– Còn Kim sinh Thủy, Kim hao Thủy lợi là sinh xuất xấu. Nhưng xấu hay tốt với
hành Thủy nào? Khi xét bảng Lục Thủy, chỉ có Đại Khê Thủy, Đại Hải Thủy mới làm
cho hành Kim gặp hao tổn, còn Giang Hà Thủy, Tuyền Trung Thủy và Trường Lưu
Thủy, hành Kim ít bị hao tổn, nếu gặp Thiên Hà Thủy lại không tương sinh hay
tương khắc với Kim.
Khi tương khắc cũng tính theo biện pháp trên, đồng thời hành bị khắc (là hành
đứng sau) đang trong giai đoạn Ấu, Tráng hay Lão và độ số ở vòng Trường sinh
như thế nào, để tính cát hung cho thích hợp.
Lưỡng mộc thành lâm (tương sinh) nghĩa là mộc với mộc thành rừng (tốt). Lưỡng
mộc mộc chiết (tương khắc: gảy mất một).
Lưỡng kim thành khí (ts: vật dụng kim khí). Lưỡng kim kim khuyết (tk: bể mất
một): hai kim loại hợp lại sẽ quá cứng, có thể làm tổn thương nhau (tương đối
xấu).
Lưỡng hỏa thành viên (ts: hợp thành sức nóng). Lưỡng hỏa, hỏa diệt (tk: lửa
tắt): lửa quá mãnh liệt, có thể hủy diệt nhau (xấu).
Lưỡng thổ thành sơn (ts: tốt). Bích Thượng Thổ và Đại Trạch Thổ gặp nhau thì
tốt.
Lưỡng thổ tương khắc: Thổ liệt, nhảo nát không dùng được.
Lưỡng thủy thành xuyên (hợp thành sông), đại hà. Lưỡng thủy, thủy kiệt (khô cạn
hết): sông lớn, tràn ngập, không còn lối đi (xấu).
Hành Kim muốn lưỡng Kim thành khí, thì khi mệnh thuộc Hải Trung Kim, Sa Trung
Kim hoặc Bạch Lạp Kim, tức kim loại chưa tinh chế, nhờ Hỏa mới thành khí nhưng
phải là Lư Trung Hỏa hay Phúc Đăng Hỏa mới thích hợp. Những Hỏa khắc kỵ với
Kim: Thoa Xuyến Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạch Kim mà gặp Thiên Thượng Hỏa, Tích
Lịch Hỏa sẽ trở thành Kim khuyết, ví như kim loại gặp lửa bị nóng chảy hay sức
mẻ.
Có sách lại ghi rằng: Bạch Lạp Kim, Kim Bạch Kim đều kỵ Hỏa, còn Hải Trung Kim
và Sa Trung Kim thì Hỏa khó khắc, duy chỉ sợ có Tích Lịch Hỏa. Riêng Kiếm Phong
Kim và Thoa Xuyến Kim thì phải nhờ Hỏa tôi luyện mới nên vật có ích.
Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì khắc hành Mộc và không sợ Hỏa khắc, trái lại
phải nhờ Hỏa mới trở thành khí cụ hữu ích, nhưng nếu rơi vào Can – Chi Thiên
khắc, Địa xung thì lại xấu, thí dụ: Nhâm Thân, Quí Dậu là Kiếm Phong Kim gặp
Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa thì Hỏa khắc Kim, Nhâm, Quí hành Thủy khắc
Bính, Đinh hành Hỏa tức Thiên khắc. Thân và Dần, Dậu và Mão thì xung nhau tức
Địa xung. Thiên khắc, Địa xung nên rất xấu.
Hành Mộc muốn lưỡng Mộc thành lâm tức phải có nhiều cây chụm lại mới thành
rừng, những cây như Tùng Bách Mộc, Dương Liễu Mộc, Bình Địa Mộc, nhưng phải nhờ
Đại Trạch Thổ, Sa Trung Thổ hay Lộ Bàng Thổ thuộc những vùng đất lớn thì Tùng
Bách và Dương Liễu Mộc không khắc Thổ, trái lại phải nhờ Thổ. Còn Đại Lâm Mộc
khắc với ba hành thổ trên (khắc xuất) nhưng gặp Kim sẽ thành Mộc chiết (khắc
nhập). Tất cả các loại Mộc đều sợ Kim khắc. Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì
khắc mạnh hành Mộc, trừ có Bình Địa Mộc không sợ Kim khắc, nếu không có Kim thì
lại khó cầu công danh, phú quí.
Có sách lại ghi rằng: Tùng Bách Mộc, Dương Liễu Mộc, Tang Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc
đều kỵ Kim, nhứt là Kiếm Phong Kim, chỉ có Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc là không
sợ Kim vì phải nhờ kim đao mới được thành gia dụng.
Hành Thủy, lưỡng Thủy thành giang phải là Tuyền Trung Thủy hợp với Đại Khê Thủy
hay Giang Hải Thủy mới thành sông lớn, biển lớn, Thiên Hà Thủy (mưa) hợp với
Đại Hải Thủy thì tốt. Những hành thủy này tạo thành sông bằng chính bản thân
không nhờ Kim, Mộc. Thổ chỉ khắc Thủy, làm Thủy kiệt với các hành như Tuyền
Trung Thủy, Đại Khê Thủy, Trường Lưu Thủy. Đất bồi làm mất dòng chảy của nước,
nhưng không thể ngự được với Giang Hà Thủy, Đại Hải Thủy hay Thiên Hà Thủy.
Hành Hỏa, lưỡng Hỏa thành viên Lư Trung Hỏa hợp Phúc Đăng Hỏa hay Sơn Đầu Hỏa
với Sơn Hạ Hỏa, hoặc Tích Lịch Hỏa với Thiên Thượng Hỏa. Về 4 mệnh Hỏa đầu cần
có thêm Mộc để đạt được lửa to cháy lớn. Còn hai Hỏa từ trên trời thì không cần
đến Mộc vẫn tạo được lưỡng Hỏa thành viên. Hỏa diệt khi Lư Trung, Phúc Đăng,
Sơn Đầu, Sơn Hạ Hỏa gặp nước là khắc nhập. Riêng Tích Lịch Hỏa, Thiên Thượng
Hỏa chỉ khắc Thiên Hà Thủy mà thôi.
Hành Thổ, lưỡng Thổ thành sơn chỉ có Lộ Bàng Thổ, Sa Trung Thổ hay Đại Trạch
Thổ hợp nhau không cần sự tiếp tay của những hành khác. 3 mệnh Thổ còn lại
không thể thành núi vì Thổ này rời rạc nhỏ bé, muốn thành núi phải nhờ Hỏa tiếp
tay diệt Mộc, tức lửa đốt cây thành đất. 3 mệnh Lộ Bàng, Sa Trung, Đại Trạch
Thổ nếu có Hỏa sẽ thêm tốt, công danh sự nghiệp sẽ phất càng cao thêm. Tính đến
Thổ liệt, cả 6 loại Thổ đều kỵ Mộc, tức khắc nhập (Mộc khắc Thổ), cây có thể
mọc khắp nơi trên mọi loại đất.
Có sách lại ghi: chỉ trừ Lộ Bàng Thổ, Đại Dịch Thổ và Sa Trung Thổ không sợ bị
Mộc khắc, nếu có Mộc thì càng tốt, cuộc sống cao sang, thi đậu dễ dàng. Các thứ
Thổ còn lại thì sợ Mộc khắc.
Ngoài Mộc, nhiều mệnh Thổ còn đại kỵ khi gặp các hành Thủy sau (dù khắc xuất
nhưng từ thứ hung sang đại hung):
– Lộ Bàng Thổ và Đại Trạch Thổ gặp Giang Hà Thủy và Trường Lưu Thủy sẽ làm đất
lỡ lún.
– Sa Trung Thổ gặp Đại Khê Thủy hay Tuyền Trung Thủy là đất sói mòn.
– Thành Đầu Thổ, Bích Thượng Thổ, Ốc Thượng Thổ rất sợ Thiên Hà Thủy, làm cho
đất nhão nhoẹt đến hủy diệt.
https://guidingstar4u.wordpress.com/...giap-ngu-hanh/
-
Đại Kỷ Nguyên Việt Nam: số tết 2018 - Google Books Result
https://books.google.com.vn/books?id=FMxJDwAAQBAJ - Translate this page
Nhìn thấy James ngủ ở nơi ngoài rìa chân cầu, một ông lão đầu tóc bạc trắng chầm chậm đi đến, vỗ nhẹ vào vai anh rồi nói: “Này người anh em, cậu hãy đến ngủ ... tờ báo danh tiếng hàng đầu thế giới bàng hoàng nhận ra, sự rách rưới, bẩn thỉu, tàn tật hay nghèo khó, không ngăn cản con người trở nên tôn quý và cao cả.
https://books.google.com.vn/books?id...%C3%BD&f=false
-
Giải pháp giảm cân từng làm nghiêng ngả “sao” trên khắp thế giới
Chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời với thân hình cân đối của các sao U50, U60 từ giới showbiz Hàn hay Hollywood chắc chắn nhiều người đã từng thắc mắc về bí quyết giữ cân của họ?
Sử dụng phương pháp hút mỡ? Lạm dụng phẫu thuật dao kéo nguy hiểm?
Hoàn toàn không! Bí quyết của họ đến từ một “bí mật” đặc biệt chưa bao giờ được tiết lộ công khai - một giải pháp tuyệt vời mang lại hiệu quả nhanh chóng với mức chi phí vô cùng tiết kiệm
Cách đây vài tuần, trong chương trình chăm sóc sức khỏe và làm đẹp tại Hàn Quốc – “kinh đô sắc đẹp” của cả thế giới, bác sỹ nổi tiếng Hàn Quốc Lee Hwang Won – chuyên gia dinh dưỡng, sức khỏe cho rất nhiều sao nổi tiếng đã chia sẻ một điều chưa bao giờ được tiết lộ về phương pháp làm đẹp của các sao.
Bí quyết khiến hàng triệu khán giả xem đài không khỏi ngạc nhiên với vô số cảm xúc ngỡ ngàng khi nó hoàn toàn khác xa với những gì họ tưởng tượng về chi phí mà người nổi tiếng phải bỏ ra để làm đẹp. Tiết kiệm tối đa, hiệu quả ưu việt là những gì người xem nhận xét sau khi theo dõi chương trình của bác sỹ Lee Hwang Won.
Giải pháp giảm cân tuyệt vời được mang tới bởi bác sỹ Lee Hwang Won
Là một chuyên gia sinh dưỡng, chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho rất nhiều sao Hàn, lắng nghe những chia sẻ của họ, bác sỹ Lee Hwang Won hiểu được vai trò vô cùng to lớn của một thân hình cân đối cùng một cơ thể gợi cảm khỏe mạnh khi xuất hiện trước công chúng.
Vì thế, ông đã từng có quãng thời gian dài cùng các cộng sự của mình tìm tòi và khám phá ra một giải pháp toàn diện hỗ trợ giữ gìn vóc dáng, tìm lại cơ thể săn chắc.
Tuy nhiên, do môi trường làm việc với người nổi tiếng, vì những lý do cá nhân, giữ đời tư của họ, tiến sỹ - bác sỹ Lee Hwang Won thường rất kín đáo trong việc chia sẻ phương pháp làm đẹp mà ông áp dụng cho họ.
Nhưng, một vài tháng gần đây, khi chứng kiến những ca phẫu thuật nguy hiểm hay những phụ nữ từng rơi vào cảnh nợ nần vì chi trả quá nhiều tiền cho các sản phẩm chống lão hóa đắt tiền nhưng hoàn toàn không mang lại hiệu quả. Là một người đứng đầu trong lĩnh vực làm đẹp, với trách nhiệm của mình, ông quyết định không thể giữ mãi những bí quyết đó như một bí mật.
Đó chính là lý do để trên chương trình chăm sóc sức khỏe và làm đẹp tại Hàn Quốc cách đây vài tuần, tiến sỹ - bác sỹ Lee Hwang Won đã chia sẻ công khai cho tất cả độc giả một: giải pháp giảm cân an toàn mà bản thân ông thường tư vấn cho rất nhiều sao Hàn Quốc chỉ với duy nhất một sản phẩm đặc biệt.
Sản phẩm có khả năng giảm 25-30kg trong 1 tháng với độ an toàn tuyệt đối cùng mức chi phí vô cùng hợp lý. Bí mật đó mang tên Chokolate Slim
Sự kỳ diệu làm nên điều đặc biệt của Chokolate Slim: thành phần tự nhiên
Hiểu những tâm lý chung của tất cả mọi người đối với việc sử dụng thực phẩm chức năng, đặc biệt là người nổi tiếng, họ vô cùng chú trọng và đề cao tầm quan trọng đặc biệt của những nguyên liệu tự nhiên đến chất lượng sản phẩm. Vì thế, bác sĩ Lee Hwang Won đã luôn nỗ lực không ngừng để tìm ra một sản phẩm từ tự nhiên. Và Chokolate Slim đã giúp ông giải quyết được mong muốn đó.
Thành phần chính của Chokolate Slim đến từ 2 nguồn thực phẩm:
Cacao tự nhiên: Là món ăn tự nhiên hoàn toàn dễ kiếm nhưng nhiều người lại không biết về khả năng giảm cân thần kỳ của nó. Với cơ chế đẩy tăng tốc quá trình oxi hóa chất béo, ngăn chặn quá trình tích mỡ, tăng cường hệ miễn dịch trong quá trình cơ thể giảm béo, cắt đứt mọi cảm giác thèm ăn, cacao tự nhiên đã được chiết xuất để trở thành sản phẩm chính trong Chokolate Slim
Chiết xuất từ Linh Lucidum: có tác dụng giúp giảm nồng độ cholesterol trong máu, bình thường hóa quá trình chuyển hóa chất béo, cải thiện mọi hoạt động để cơ thể luôn khỏe mạnh, xóa bỏ mọi vấn đề tim mạch hay huyết áp…
Chokolate Slim – giải quyết mọi vấn đề thời gian của những người bận rộn, trong đó có sao Hàn
Được nghiên cứu từ mục tiêu ban đầu hướng tới đối tượng người nổi tiếng với công việc bận rộn, thời gian làm việc liên tục, vì thế Chokolate Slim dựa trên yếu tố dễ dàng tiện lợi, sử dụng nhanh chóng bằng cách:
Xé bao bì đựng sản phẩm, và tiến hành đổ bột cacao Chokolate Slim vào tách
Lấy khoảng 100 – 150ml nước nóng ở nhiệt độ 80 – 100 độ C vào tách và khuấy đều
Để hương vị thêm hấp dẫn, sản phẩm hoàn toàn có thể sử dụng cùng mật ong hoặc không tùy thuộc sở thích và khẩu vị người sử dụng
Chokolate Slim được sử dụng thay cho bữa ăn sáng, tựa như bạn đang thưởng thức một ly cacao nóng để bắt đầu một ngày mới vậy.
Qúa trình sử dụng sản phẩm từ nhân vật trải nghiệm
Do sự tò mò, phấn chấn sau chương trình của tiến sỹ Lee Hwang Won, không ít phụ nữ Việt đã tiến hành trải nghiệm sử dụng sản phẩm Chkolate Slim với khát khao cải thiện vóc dáng. 2 ngày trước, một chia sẻ - kết quả giảm cân được gửi tới chúng tôi trong sự hưng phấn cùng niềm vui to lớn
Hành trình trải nghiệm của Nguyễn Thiên An (Bến Tre) sau 14 ngày
Bắt đầu trở nên nặng nề và tăng cân không kiểm soát sau khi sinh nhóc tỳ thứ 2, Thiên An từng cảm thấy tự ti cũng như thất vọng vì những sản phẩm giảm cân mình sử dụng, tuyệt vọng và chán nản. Không ít lần, cô từng nghĩ tới việc tìm đến những phương pháp thẩm mỹ, hút mỡ nguy hiểm. Đó là lý do sau khi biết tới Chokolate Slim, cô đã rất hào hứng và muốn tự mình trải nghiệm:
Ngày 1: Ngày đầu tiên dùng Chokolate Slim thay bữa sáng thông thường, thực sự tôi cảm thấy ngạc nhiên vì những tác động tức thì trong cơ thể. Không còn cảm giác đầy hơi thường thấy, không bị chứng rối loạn tiêu hóa, cơ thể tôi hoàn toàn không còn thèm ăn hay đói, và luôn tràn đầy năng lượng.
Ngày 7: quyết định bước lên bàn cân sau 1 tuần trải nghiệm, tôi thực sự không tin vào mắt mình, cân nặng của tôi giảm tới 12kg. Vui sướng đến tột cùng, tôi cảm thấy mình được “sống” lại thêm 1 lần nữa và thêm quyết tâm, tự tin và an tâm hơn với hành trình mình đang đi cùng Chokolate Slim
Ngày 14: Mọi thứ đã thực sự thay đổi, 20 kg mỡ thừa được thổi bay khỏi cơ thể. Thay đổi với một diện mạo mới xinh đẹp và trẻ trung hơn rất nhiều, chưa bao giờ trong đời, tôi dám hi vọng về một cơ thể hoàn hảo như vậy, nhưng Chokolate Slim đã giúp tôi làm được. Một hành trình thử nghiệm tuyệt vời. Đó là lí do tôi muốn kể cho tất cả mọi người mà mong muốn những chị em khác như tôi sẽ có cơ hội biết tới điều tuyệt vời này cùng Chokolate Slim
Màn hóa thiên nga tuyệt vời của cô gái trẻ sau khi sử dụng sản phẩm
Với Chokolate Slim, bạn hoàn toàn có thể giảm tới 25kg trong vòng 1 tháng, sản phẩm giảm cân này sẽ giúp tan mỡ bụng, xóa bỏ mọi nếp nhăn, chảy xệ của cơ thể xồ xề.
Còn bạn, bạn có muốn trải nghiệm thử với Chokolate Slim để có cơ hội tận hưởng những cảm giác tuyệt vời giống Thiên An?
Hãy tự mình trải nghiệm và kể cho chúng tôi những thay đổi mới mẻ nhé.
Nếu bạn đang mong muốn tìm kiếm thông tin và để tận hưởng giải pháp giảm cân này, ngay bây giờ bạn có thể thực hiện ngay hôm nay bởi nhà sản xuất vẫn đang khuyến mại 50% cho Chokolate Slim.
Nguyễn Thanh Trúc - 22 tuổi, đến từ Thừa Thiên Huế: Thật tuyệt vời, đây đúng là sản phẩm em kiếm tìm từ rất lâu rồi. Em đã có được cân nặng như ý muốn rồi. Xin cảm ơn Chokolate
Phạm Quỳnh Chi (25 tuổi - Lạng Sơn): không còn mỡ bụng, không còn mỡ thừa. Giờ đây em sở hữu vòng 2 tuyệt vời nhờ Chokolate Slim.
Trịnh Lê Minh Hiền (20 tuổi - Hà Nội) Từ khi sử dụng Chokolate Slim, tôi hoàn toàn tự tin với vóc dáng của mình.
Giá đã giảm
1180000VND
590000VND
Hãy đặt với giá khuyến mãi trước khi ưu đãi này được chuyển qua cho người đọc tiếp theo!
Mức giá ưu đãi của bạn sẽ kết thúc sau: 08 : 39
Xin hãy nhập tên
Chung Đình Toàn
Xin hãy nhập số điện thoại
+84 123456789
ĐẶT HÀNG CHOKOLATE SLIM VỚI GIẢM GIÁ 50%!
Lưu ý, chương trình khuyến mãi -50% có hạn tới ngày 7.04.2018
Thu Thủy -Mình đã uống sản phẩm giảm cân được một thời gian rồi, tốt lắm.
Like Reply 4 Hôm qua lúc 23:53
dũngUống thuốc này cần phải kiêng gì không, hiệu quả không để mình uống và giới thiệu có các bạn mình nhé
Like Reply 38 Hôm qua lúc 20:59
Hạnh -Tôi 97kg cao 1m70 giờ tôi đã giảm xuống còn 72kg thân hình cân đối. Cảm ơn nhà thuốc nhé
Like Reply 13 Hôm qua lúc 19:34
Mai -Mình dùng được 2 tuần mà đã giảm được 10kg rồi cám ơn nhé
Like Reply 98 Hôm qua lúc 18:38
Hồng anh -Mình dùng Chokolate Slim rồi, k hề có tác dụng phụ. Kết quả thật bất ngờ!
Like Reply 15 Hôm qua lúc 15:57
Lan -Cho mình một liệu trình địa chỉ đỗ Thị Linh thôn Ngọc tiền xã Đăk xú huyện Ngọc hồi tỉnh Kon Tum
Like Reply 25 Hôm qua lúc 14:20
Tiến -ảm ơn Chokolate Slim tôi dùng hết một liệu trình tôi đã giảm được 15kg
Like Reply 68 Hôm qua lúc 14:15
Mỹ Linh -Bao nhiêu liệu trình thì nói để chị em bt mà chuyển bị tiền mua chứ cứ nói nhiêu đó hoài vậy. Thuoc giảm cân Chokolate Slim
Like Reply 22 Hôm qua lúc 13:28
Ngọc Vy -Mới dùng được 1 tuần mình đã giảm được 11 kg rồi. Gọi lại cho mình để mình đặt thêm cho bạn nhé!
Like Reply 47 Hôm qua lúc 11:54
Mỹ Tâm -Cảm ơn nhà thuốc Mình mua lâu rồi nhg giờ mới sử dụng, chưa hết 1lieu trình đã giảm dc 5kg cam ơn nha thuốc ạ
Like Reply 29 Hôm qua lúc 10:45
Hoài Thu -Cảm ơn nhà thuốc. Em đã dùng hết một liệu trình . Em chưa cân lại nhưng em thấy nhẹ nhõm lăm ạ. Em muốn dùng thêm chút nữa có được k
Like Reply 16 Hôm qua lúc 10:40
Phúc -Mua nhiều có giảm giá không nhà thuốc
Like Reply 19 Hôm qua lúc 10:21
Sa Nhân -Sản phẩm hoàn toàn tự nhiên và chất lượng lại rất hiệu quả cám ơn Chokolate Slim nhe
Like Reply 12 Hôm qua lúc 10:01
Cẩm Tú -Mình rất tin dùng thuốc giảm cân Chokolate Slim vì độ tin cậy và tác dụng của nó, chỉ sau 3 tháng mình đã giảm được 25 kg
Like Reply 9 Hôm qua lúc 09:55
Nguyễn Hồng Phúc -Thành phần hoàn toàn tự nhiên không gây tác dụng phụ nhé các bạn
Like Reply 4 Hôm qua lúc 09:44
Đình Tiến Dũng -Mình quá bận rộn với lũ trẻ nên không có thời gian tìm kiếm những thông tin như thế này. Mình tin những người đang dùng sản phẩm hẳn là rất sáng suốt!
Like Reply 11 Hôm qua lúc 09:32
PMinh Tuân -Trước tôi rất béo và đã sử dụng qua rất nhiều sản phẩm tăng cân nhưng giờ tôi có thể hoàn toàn yên tâm vào Chokolate Slim
Like Reply 14 Hôm qua lúc 09:11
Tấn Thịnh -Mình cao mết 6 nặng 70kg giới tính nữ, nếu mình sử dụng thuốc thì bao nhiêu ngày có kết quả ạ
Like Reply 77 Hôm qua lúc 09:00
Kim Anh -Cảm ơn thông tin nhé! Mình đã bắt đầu sử dụng
Like Reply 18 Hôm qua lúc 08:47
An -Có thể tư vấn thêm cho mình đc k? Mình đang có nhu cầu muốn giảm 22 ký
Like Reply 44 Hôm qua lúc 08:39
Anh Đức -Mình muốn giảm 15 ký. tư vấn thêm cho tôi nhé
Like Reply 29 Hôm qua lúc 08:29
Quân -Thuốc giảm cân tốt nhất mình từng dùng cám ơn các bạn nhé
Like Reply 61 Hôm qua lúc 08:05
Hoàng Thị Mơ -Gọi điện thoại toàn báo máy bận là sao vậy nhà thuốc
Like Reply 47 Hôm qua lúc 08:07
Đỗ Thủy -Hôm nay mình mua hàng được cô nhân viên gọi điện tư vấn rất nhiệt tình, chưa sử dụng nhưng thấy thái độ làm việc rất chuyên nghiệp như thế là mình thất rất yên tâm rồi
Like Reply 54 Hôm qua lúc 07:51
Mr. Đạt -Bác sĩ tư vấn thêm cho mình nhé
Like Reply 35 Hôm qua lúc 07:45
Bảo Ngọc -Không nghĩ là các bạn có thể đạt được kết quả tốt đến vậy.
Like Reply 17 Hôm qua lúc 07:37
Lộc -Em là nữ cao mét 5 nặng 60kg mong bác sĩ tư vấn em bị bệnh đái tháo đường liệu có sử dụng được không
Like Reply 41 Hôm qua lúc 07:33
Trâm Anh -Rất hài lòng với Chokolate Slim . Mình sẽ dùng thử xem sao. Thật ra, mình đã dùng qua nhiều loại sản phẩm nhưng đến giờ vẫn không có gì hiệu quả.
Like Reply 25 Hôm qua lúc 07:20
Thanh Quyên -Sản phẩm thuốc giảm cân của đức thì chị em còn lo nghĩ gì nữa mình cũng đã sử dụng và giờ đã giảm được 25 kg rồi nhé
Like Reply 37 Hôm qua lúc 07:11
Kỳ Anh -Mới đầu cũng chả tin đâu nhưng sau khi Chokolate Slim cứu mình khỏi thân hình phì nộn và bệnh đái tháo đường thì mình tin rồi
http://s.umseller.com/2821/2456448/?...4O0L1D12IO9DRE
-
-
http://www.viraldost.com/watch.aspx?v=5sBgTPdVwMw
Cậu Tuấn - CUNG NGHINH TƯỢNG ĐÀI ĐỨC ÔNG TRẦN QUỐC TẢNG THƯỢNG SƠN.- ĐỀN CỬA ÔNG- LẦN 2
-
Độc quyền: Bác sĩ Ryan Thamrin và cộng sự đã cứu người khỏi bệnh béo phì nguy hiểm chết người
07.04.2018 Làm thế nào các sao lưu giữ được vóc dáng tuyệt đẹp ở tuổi 40, 50 hay thậm chí 60? Nhiều tờ báo lá cải đưa tin giật gân khi những người nổi tiếng chọn sử dụng dao kéo để có thân hình xinh đẹp. Nhưng, theo khẳng định của vị bác sĩ Ryan Thamrin đáng kính thì đó là nói dối!
Thế thì bí quyết thân hình lý tưởng và cơ thể khỏe mạnh của những người nổi tiếng nằm ở đâu? Để biết được làm sao họ lại thành công lưu giữ vẻ ngoài hoàn hảo của mình mà không can thiệp dao kéo và các loại thuốc, chúng tôi đã tìm đến nhóm của bác sĩ Ryan và nhận được câu trả lời hết sức bất ngờ!
Ở một trong số những chương trình mới nhất của mình, bác sĩ Ryan Thamrin có chia sẻ phương pháp giảm cân của những người nổi tiếng, những người muốn bỏ đi cân thừa nhanh chóng mà không phải đi phẫu thuật thẩm mĩ và không tốn thời giờ ở phòng tập. Chúng tôi đã rất ngạc nhiên với một điều là bác sĩ Ryan đã tìm ra được một phương pháp đơn giản, giá phải chăng, nhưng lại hiệu quả tối đa đến nhường nào! Vì vậy, chúng tôi quyết định tiến hành thử nghiệm và viết một bài đặc biệt về kết quả!
Giải pháp giảm cân hiệu quả nhất mà bạn biết đến
Bác sĩ Ryan Thamrin chưa bao giờ quảng cáo các phương pháp giảm cân mà ông dùng khuyên cho những người nổi tiếng. Nhưng hiểu được rằng nhiều người hủy hoại sức khỏe của mình và tiêu tốn hàng ngàn đô-la chỉ để được giống như những người nổi tiếng, bác sĩ đã quyết định làm một điều hào nhoáng và chia sẻ khám phá của mình. Đó là tâm huyết cả đời của bác sĩ, cho nên ông đã rất chú ý đến từng thí nghiệm một. Kết quả là, bác sĩ đã tiết lộ bí mật giảm cân thần tốc và an toàn mà ông thường hay khuyên cho những người nổi tiếng!
Nhiều sao đã tìm đến bác sĩ hỏi xin giúp đỡ để cứu cánh sự nghiệp của mình. Lịch trình công việc khắt khe, quay phim và đi diễn liên tục, ăn uống không điều độ và lối sống không khi nào cũng đúng gây nguy hại vừa đến sức khỏe các sao, vừa đến vẻ ngoài của họ.
Trong số những khách hàng thường xuyên mua sản phẩm cũng có siêu sao nổi tiếng nước ta là Phương Thanh. Trong một cuộc phỏng vấn riêng, Phương Thanh thừa nhận:
“Trước đây em từng theo chế độ ăn kiêng rất nghiêm ngặt. Em thực sự không cho phép mình ăn gì cả. Với lịch trình của em thì lại thêm 10 lần khó hơn nữa. Đôi khi một ngày quay từ 7 giờ sáng đến 10 giờ tối, ngày tiếp theo bắt đầu lúc 3 giờ sáng và cũng đến 9-10 giờ tối. Em đơn giản là quên bẵng đi cần ăn gì và khi nào, nhưng lại có đủ thứ để vớ lấy khi đói. Do đó thường có những lần"phì đại" mà sau đó phải nhịn đói để lấy lại con số cân nặng trước đó. Từng nghĩ rằng mấy trận tra tấn này không có hồi kết…
Nhưng đã tìm được cứu cánh! Đồng nghiệp giới thiệu dùng Vita Energy, giúp cải thiện trao đổi chất, và không còn phải cân đo lượng calo nữa. Cơn đói kéo đến thường là do thiếu những nguyên tố vi lượng quan trọng. Vita Energy bổ sung những nguồn này, “một mũi tên trúng hai đích” – khẩu phần ăn ít hơn, nhưng bổ ích hơn.
Thế nên em chỉ có thể khuyên một điều là – hãy uống Vita Energy và không phải hạn chế bản thân gì cả!” Phương Thanh chia sẻ.
Bác sĩ đã rất hãnh diện khi kể về những thành tựu của mình ở chương trình, bởi vì sau vài tháng thử nghiệm và nghiên cứu, nhóm của ông đã phát hiện được rằng chỉ một sản phẩm có thể giảm cân nặng đến 30-40-50 kg một tháng! Ngoài ra sản phẩm này còn tuyệt đối an toàn và không gây dị ứng. Và mạnh đến nỗi trong trường hợp lạm dụng có thể dẫn đến suy dinh dưỡng! Sản phẩm mà ông bật mí cho khán giả chương trình là Vita Energy.
Thức uống Vita Energy là gì?
Các thành phần chính:
1. Cacao không béo
Trong các tế bào cacao có chứa những chất chống ô-xy hóa và tanin giúp tách các tế bào mỡ và tiêu diệt chúng hiệu quả.
2. Protein thủy phân
Đây là chất thu được từ những phản ứng hóa học phức tạp. Nó thúc đẩy đốt mỡ thừa trong cơ thể và hỗ trợ trao đổi chất nhanh. Tất cả những thành phần tự nhiên này được hợp nhất để đốt mỡ ở mức tế bào – vì vậy chúng hoạt động nhanh chóng và hiệu quả đến vậy.
3. Whey Protein
Chất đạm được thanh lọc đặc biệt, kích thích và tái tạo mức tế bào của cơ thể.
4. Peptide
Peptide hỗ trợ làm giảm cảm giác thèm ăn và nhờ đó giảm được lượng chất độc hại trong cơ thể.
Cách chế biến thức uống?
Cách chế biến Vita Energy rất đơn giản. Hòa bột thức uống với nước, nước trái cây hoặc sữa. Không chứa bất cứ tạp chất hay phụ gia độc hại nào. Bạn cần sử dụng thức uống này 30 phút trước khi ăn, một hoặc hai lần một ngày. Khi sử dụng thức uống đều đặn, bạn sẽ thấy được sự thay đổi trong cơ thể mình chỉ ngay sau vài ngày!
Thí nghiệm thực tế của bác sĩ!
CÔNG BỐ! Bác sĩ Ryan đã cung cấp riêng cho chương trình chúng ta tư liệu thí nghiệm mà ông gọi là “Hãy về với cuộc sống cùng Vita Energy”!
Người đồng ý thử nghiệm có tên là Phan Văn Quân. 41 tuổi, đã ly hôn, làm nhân viên trực tổng đài điện thoại, sống với bố mẹ. Và đây là câu chuyện của anh ấy…
Vài tháng trước anh Quân được chẩn đoán thừa mỡ nội tạng ở các cơ quan nội tạng. Thoạt nhìn thì có thể cho rằng Quân bị thừa cân loại thường mà cứ mỗi một trên năm người dân nước ta mắc phải. Nhưng trên thực thế thì đây là một chẩn đoán rất đáng sợ! Những biểu hiện chính là:
Thở hổn hển
Đau khớp khi di chuyển
Run tay
Khó thở
Thường có cảm giác đói
Hay quên, phân tâm
Nhịp tim nhanh
Thừa cân
Thường xuyên buồn ngủ, chóng mặt
Tâm trạng không tốt, nhanh chóng mệt mỏi
Đổ mồ hôi nhiều (toàn thân, cả chân và tay) và tứ chi lạnh
Nổi mụn toàn thân (nhiễm nhiều độc tố)
Rụng tóc
Đau trong người (thoái hóa các cơ quan nội tạng)
Đau đầu
Tưởng như đây là những biểu hiện thường ở bất cứ căn bệnh phổ biến nào. Nhưng sau khi chẩn đoán, kết quả phân tích cho thấy mức mỡ nội tạng trong cơ thể anh Quân vượt quá đến 13 lần! Điều này có nghĩa là anh Quân ở bờ vực giữa sự sống và cái chết, khi mỡ nội tạng bao phủ hoàn hoàn các cơ quan nội tạng, ngăn cản không cho chúng hoạt động, làm thoái hóa chúng. Như vậy, sau một khoản thời gian các cơ quan nội tạng của anh Quân có thể dần dần bắt đầu ngừng hoat động, khiến anh phải chịu những cơn đau thấu trời và đầy man rợ. Những hậu quả như vậy có thể dẫn đến tử vong. Anh Quân hầu như không thể di chuyển, bởi vì các khớp của anh suy yếu đi nhiều và đều như thể nát vụn mỗi lần đi lại. Anh Quân không đứng lâu được vì nhịp tim nhanh và chóng mặt, còn đau đầu và khó thở không để anh ngủ ngon mỗi đêm.
Quân đã tìm đủ cách để giải quyết vấn đề thừa cân. Ban đầu ở những thử nghiệm của mình, anh đã dùng thuốc giảm thèm ăn. Anh Quân đã trộn đủ các loại thuốc khác nhau (để có được hiệu quả tối đa trong thời gian ngắn), do đó bị ngộ độc nặng và dị ứng không thể khắc phục 90% các sản phẩm thuốc giảm cân. Thậm chí chỉ một lượng nhỏ thôi cũng đủ làm anh mất mạng như chơi. 10% còn lại hoặc là quá đắt với Quân, hoặc được sản xuất ở nơi quá xa và không được chuyển về Việt Nam.
Quân quyết định vay ngân hàng đi phẫu thuật khâu nhỏ bớt dạ dày và hút mỡ. Tiếc thay là cơ thể anh Quân chưa hoàn toàn sẵn sàng cho những can thiệp dao kéo, thế nên cả hai lần phẫu thuật đều thất bại và Quân phải tốn nhiều thời gian để phục hồi lại. Hơn nữa, các cuộc phẫu thuật đã không giúp gì được cho Quân và anh ấy lại thêm tăng cân nữa. Quân đã cực kỳ tuyệt vọng và gần như đã có ý định tự vẫn. Người nhà anh Quân đã muốn cho anh ấy vào bệnh viện tâm thần.
Như vậy, nhiệm vụ của bác sĩ bao gồm giúp anh Quân giảm cân nhanh chóng và hiệu quả mà không tạo áp lực, không giới hạn lối sống thường ngày của anh ấy và không ép phải đi tập gym vì đau các khớp bị hỏng vì thừa cân. Ngoài ra, bác sĩ còn phải có cách tiếp cận hết sức tinh tế trong việc điều trị anh Quân để về sau không phải đưa anh đi bệnh viện tâm thần. Giải pháp rất rõ ràng – thức uống Vita Energy.
Cân nặng của anh Quân ở thời điểm ban đầu thí nghiệm – 109 kg.
Trong vòng 30 ngày anh Quân đã phải dùng thức uống 2 lần một ngày 40 phút trước khi ăn, đồng thời tránh những hoạt động thể chất nặng nhọc.
Kết quả của Quân
10 ngày – giảm 16 kg.
Hết run tay, chóng mặt; giấc ngủ được cải thiện, khả năng chú ý và tập trung được nâng cao, không còn tâm trạng xấu và nhanh chóng mệt mỏi, cân nặng bắt đầu giảm.
15 ngày – giảm 24 kg.
Hết thở hổn hển, khó thở, hết đau khớp và các cơ quan nội tạng. Không còn cảm thấy đói liên tục và buồn ngủ, tuyến mồ hôi và nhịp tim được bình thường hóa, cân nặng tiếp tục giảm.
20 ngày – giảm 38 kg.
Các biểu hiện bệnh tan biến hoàn toàn. Tất cả chức năng của cơ thể được khôi phục.
Cân nặng của Quân khi thí nghiệm kết thúc – 71 kg.
Kết luận của bác sĩ Ryan: Vita Energy tuyệt đối hữu hiệu để giảm cân an toàn và nhanh chóng. Bây giờ anh Quân đang có một thân hình khá ổn đối với đàn ông tuổi anh ấy và lối sống như vậy. Anh ấy tiếp tục sử dụng thức ăn nhanh và không đi tập ở phòng gym, nhưng trong khi đó dùng thức uống hàng ngày và cảm thấy tốt hơn nhiều so với trước đây. Thức uống hỗ trợ giữ dáng, phục hồi các quá trình rối loạn, đưa cơ thể anh Quân về lại tình trạng hoạt động bình thường. Sau khi Quân ngưng sử dụng thức uống, vóc dáng anh vẫn sẽ được như trước và cơ thể sẽ hoạt động điều độ.
Các phân tích của anh Quân sau một tháng sử dụng thức uống: lượng mỡ nội tạng trong các cơ quan nội tạng về lại mức chuẩn, không có gì còn làm nguy hại đến tính mạng của anh Quân nữa, cân nặng ổn định.
Sản phẩm này có thích hợp cho bạn?
Bác sĩ Ryan cung cấp bảng đo lượng cân giảm đi khi sử dụng Vita Energy. Dựa vào bảng này, bạn sẽ có thể tính được khoản thời gian để giảm số cân mà bạn muốn.
CẶN NẶNG (kg) Thời gian Kết quả
cân nặng bình thường 3 - 5 ngày đến 7 kg
cao hơn trung bình 60-70 6-10 ngày đến 15 kg
70-80 11 - 15 ngày đến 20 kg
80-90 16 - 21 ngày đến 27 kg
béo phì 90-100 21 - 30 ngày đến 35 kg
>100 30 ngày >49 kg
Ngày nay trên thị trường có rất nhiều các sản phẩm giảm cân được bán bởi những kẻ lừa đảo. Đáng tiếc là thức uống Vita Energy cũng bị làm giả. Bác sĩ Ryan đã cung cấp trang web chính thức của thức uống Vita Energy – nhà phân phối sản phẩm duy nhất tại Việt Nam. HÃY TRÁNH HÀNG GIẢ HÀNG NHÁI!
CHUYỂN ĐẾN TRANG WEB CHÍNH THỨC VÀ ĐẶT MUA Vita Energy
Ban biên tập chúng tôi hi vọng quý khán giả sẽ theo gót những gì bác sĩ Ryan Thamrin giới thiệu. Chúng tôi rất quý trọng việc làm của ông và muốn nó thêm phát triển!
*Để tiện cho quý bạn đọc chúng tôi đã cung cấp liên kết đến trang web chính thức được giới thiệu bởi bác sĩ Ryan Thamrin. Trong vòng hai ngày nhà sản xuất có giảm giá 50% đối với Vita Energy.
TIN MỚI NHẤT
Như Quỳnh: Mỡ bụng và hông sẽ BIẾN MẤT MÃI MÃI chỉ trong 2 ngày! Nếu trước bữa ăn...
4 07.04.2018
Giảm 89 kg xuống 56 kg trong một tháng! Mỡ bụng sẽ sợ bạn, thường xuyên…
7 06.04.2018
Xem cách giảm 12 kg mỗi tuần không cần ăn kiêng! Mỗi tối, bạn cần...
3 05.04.2018
Cách giảm 10kg trong 1 tuần không cần tập luyện? Dùng...
5 04.04.2018
Tôi giảm mỡ bụng -27 kg trong 3 tuần. Trước khi đi ngủ, uống một cốc...
1 03.04.2018
THỜI GIAN ƯU ĐÃI CÓ HẠN CHO ĐỘC GIẢ
(Sản phẩm thử nghiệm không còn nhiều. Nhanh chân đặt hàng trước khi ưu đãi kết thúc**)
Cập nhật: Chỉ còn lại 6 hộp sản phẩm. Ưu đãi kết thúc: 07.04.2018 Lưu ý: Hiện có 5 khách hàng đang đặt mua Vita Energy
07.04.2018 Đặc biệt: Nhận ngay Một hộp Vita Energy với 50% chiết khấu
Đặt mua Vita Energy hôm nay
Khuyến mại sản phẩm miễn phí kết thúc vào: 07.04.2018
Thêm bình luận
Bình luận gần đây
Thu Hà
Mình đã uống viên nang giảm cân này khoảng 3 tuần, và thực sự giảm được 20 kg. Kết quả không được tốt như mẹ này, nhưng cảm ơn nhiều vì đã chia sẻ về sản phẩm này!
Trả lời . 13 . Thích . 12 phút trước
Thanh Hằng
Mình thấy sản phẩm này được giới thiệu trên truyền hình cách đây ít lâu và hiện tại mình đang dùng, đã dùng được 6 tuần rồi. Nói thật, khó mà tin, nhưng mình phải nói là QUÁ TUYỆT!
Trả lời . 6 . Thích . 13 phút trước
Nông Hương
Một người bạn của mình đã dùng và khuyên mình dùng cách đây 3 tuần. Mình đã đặt mua viên nang giảm cân này và nhận hàng sau 3 ngày (mặc dù mình không được giảm giá). Kết quả thật tuyệt vời, mình nóng lòng quá, không biết sau 3, 4 tuần thì kết quả ra sao.
Trả lời . 19 . Thích . 25 phút trước
Nguyệt Ánh
Ước gì tôi được biết đến sản phẩm này trước khi đi hút mỡ! Nếu vậy tôi đã có thể tiết kiệm được một khoản tiền kha khá rồi!
Trả lời . Thích . 46 phút trước
Kim Anh
Chưa bao giờ nghĩ đến việc sử dụng sản phẩm giảm cân. Nhưng thấy rất ưng ý sau khi sử dụng.
Trả lời . 53 . Thích . nửa giờ trước
Hoài Thu
Mình có thấy sản phẩm này trên báo. Mẹ nó thật may mắn vì đã tìm thấy cơ hội này!!! Cảm ơn vì đã chia sẻ mẹo này nhé! Mình cũng đã đặt mua rồi.
Trả lời . 3 . Thích . 1 giờ trước
Cẩm Tú
có lẽ tôi lớn tuổi hơn phần lớn các bạn. Nhưng viên nang này cũng hiệu quả với tôi! Chỉ biết nói là tôi rất vui. Cảm ơn nhé!
Trả lời . . Thích . 2 giờ trước
Sa Nhân
Chị gái mình cũng dùng sản phẩm này vài tháng trước. Mình thì còn chờ hàng dùng thử xem có tác dụng không mới đặt mua thì họ lại hết hàng thử. Thật may lại có ưu đãi nữa. Mình đã nhanh tay đặt hàng rồi.
Trả lời . 12 . Thích . 2 giờ trước
Kiều Oanh
Rất hài lòng với Vita Energy . Mình sẽ dùng thử xem sao. Thật ra, mình đã dùng qua nhiều loại sản phẩm nhưng đến giờ vẫn không có gì hiệu quả.
Trả lời . 30 . Thích . 2 giờ trước
Mai Chi
hiệu quả với mình nè! Y chang như mình nghĩ. Đơn giản lắm. Mình chỉ muốn khoe vậy thôi!
Trả lời . 53 . Thích . 2 giờ trước
Ái Nhi
Cảm ơn thông tin nhé! Mình đã bắt đầu sử dụng.
Trả lời . 16 . Thích . 2 giờ trước
Ngọc Lan
Mình quá bận rộn với lũ trẻ nên không có thời gian tìm kiếm những thông tin như thế này. Mình tin những người đang dùng sản phẩm hẳn là rất sáng suốt!
Trả lời . 2 . Thích . 2 giờ trước
Bích Trâm
Thứ này mới tuyệt diệu làm sao! Cô bạn thân của mình đang dùng sản phẩm này. Nhiều năm nay mình luôn tìm cách giảm cân nhưng không hiệu quả. Các bạn cho mình ý tưởng hay để có thể đạt được mục tiêu sao cho có một ngoại hình hoàn hảo nhất cho đám cưới của con gái mình. Mình vừa đặt hàng sản phẩm này rồi. Có cảm giác khả quan.
Trả lời . 33 . Thích . 2 giờ trước
Hoài Phương
Mình vừa đặt hàng rồi. Đang hồi hộp chờ hàng về. Cảm ơn mẹ nó nhé xoxoxo.
Trả lời . 23 . Thích . 3 giờ trước
Mai Hồng
Mẹ mình vừa gửi tin nhắn cho mình biết một người bạn mách cho mẹ về sản phẩm này. Mình đoán là nó rất công hiệu
Trả lời . 6 . Thích . 3 giờ trước
Thanh Vân
Cũng không chắc chắn về việc đặt hàng trên mạng nhưng ưu đãi này có vẻ hấp dẫn và mình không muốn bỏ lỡ. Mình đã kiểm tra trang web, mọi thứ đều rất ổn. Đang chờ xem diện mạo mới của mình sẽ thế nào đây!
Trả lời . 2 . Thích . 3 giờ trước
Quỳnh Như
Mình đã mạnh tay đặt hàng rồi. Không thể chờ đợi để có thể bắt đầu và xem điều kì diệu gì sẽ xảy ra với mình.
Trả lời . 8 . Thích . 6 giờ trước
Lan Anh
Mình đã thử nhiều loại sản phẩm kiểu như này. Một mặt cũng muốn dùng thử sản phẩm này xem sao, mặt khác lại hơi lăn tăn. Ai đó xác nhận dùm sản phẩm này công hiệu chứ.
Trả lời . 10 . Thích . 8 giờ trước
Hoàng Thị Mơ
Mình đã uống viên nang giảm cân được một thời gian rồi, tốt lắm.
Trả lời . 13 . Like . 8 giờ trước
Mai Khanh
Lần đầu tiên mua thứ gì đó tân trang cho bản thân mà không cảm thấy có lỗi khi tiêu tiền.
Trả lời . 3 . Thích . 8 giờ trước
Chiều Thu
Không nghĩ là các bạn có thể đạt được kết quả tốt đến vậy.
Trả lời . 5 . Thích . 9 giờ trước
http://www.ggtrf.info/azeuxyaibg/GNiHXf8PayNk1cy/sdfsdf
-
https://102phim.com/video/rkuKb3FrOW...ua-ho-cau.html
Quỉ vương lên câu hồn đều có lý do của họ - Cậu tuấn 0978350768 - 01656488989
-
Dân gian
Tục Thờ Mẫu Và Nghi Lễ Ngồi Đồng - Múa Bóng Ở Khánh Hoà
Nguyễn Man Nhiên
cùng viết với NGUYỄN TỨ HẢI
Từ năm 1653 khi những lưu dân Việt từ các tỉnh phía Bắc theo chân chúa Nguyễn vào khai hoang lập làng, tạo lập cuộc sống mới trên dải đất ven biển cực nam Trung bộ này, họ đã mang theo cả nền văn hóa nơi quê hương bản quán của mình, trong đó có tục thờ Mẫu và nghi lễ ngồi đồng - múa Bóng. Tín ngưỡng thờ Mẫu từ cái nôi của văn minh Đại Việt là đồng bằng Bắc bộ đến đây giao thoa, hòa nhập cùng tín ngưỡng thờ nữ thần Mẹ xứ sở (Pô Inư Nagar) của dân tộc Chăm bản địa đã làm nên tín ngưỡng thờ Mẫu ở Khánh Hòa đầy bản sắc và độc đáo, để lại những dấu ấn văn hóa quan trọng trong khu vực.
Tục thờ Mẫu đã có từ rất lâu ở Việt Nam, do ảnh hưởng từ thời kỳ mẫu hệ xa xưa. Trong quá trình phát triển của lịch sử đã dệt nên hệ thống thần thoại, huyền thoại về Mẹ nhân từ và rất đỗi quyền uy. Người Việt vào định cư ở Khánh Hòa đã tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa của người Chăm bản địa. Tục thờ Mẫu như bắt gặp sự đồng điệu trong tâm hồn giữa hai dân tộc Việt - Chăm, với cùng quan niệm về đức Mẹ nhân từ, Mẹ là tất cả. Cùng là biểu tượng văn hóa nên dễ hội nhập, mẹ Chăm cũng như mẹ Việt đều được phụng thờ. Vì thế người Việt tôn thờ nữ thần Pô Nagar của người Chăm như một vị phúc thần, gọi Bà là Thiên Y A Na Thánh Mẫu hay Bà Chúa Ngọc, vừa linh thiêng vừa gần gũi. Các triều vua nhà Nguyễn cũng phong tặng cho Bà nhiều tước hiệu cao quí như “Thiên Y A Na diễn Ngọc Thánh Phi”, “Hồng nhơn phổ tế linh ứng thượng đẳng thần”… Khu quần thể đền tháp Pô Nagar ở Nha Trang có niên đại xây dựng khoảng từ thế kỷ IX - XIII, là một trong những di tích kiến trúc tôn giáo quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá, tín ngưỡng của người Chăm xưa, nay là nơi thờ Mẫu của cả người Chăm (Pô Nagar - nữ thần Mẹ xứ sở) và của người Việt (Thiên Y A Na Thánh Mẫu). Các thế hệ người Việt vừa nối tiếp nhau giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của mình, vừa biết bảo tồn văn hóa Chăm Pa, tôn tạo điện thờ Thiên Y A Na, làm cho ngọn tháp Pô Nagar mãi đứng vững với thời gian.
Múa Bóng trong lễ hội Tháp Bà
Tục thờ Mẫu chiếm vị trí quan trọng trong thế giới tâm linh của người dân, có sức sống mãnh liệt trong văn hóa cộng đồng. Ngoài Tháp Bà Pô Nagar, Khánh Hòa còn có cả một hệ thống kiến trúc thờ tự tín ngưỡng Thiên Y A Na khá đa dạng, gồm các am (Am Chúa ở Diên Điền, Diên Khánh), các miếu thờ độc lập (miếu Cây Ké thôn Phú Lộc Tây, miếu Thiên Y xã Diên Bình, miếu Cổ Chi ở thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh…), các miếu thờ Thiên Y A Na trong quần thể di tích đình làng (đình Vạn Thạnh ở Nha Trang, đình Khánh Cam ở Cam Ranh…), hoặc phối thờ Bà Thiên Y A Na ngay trong đình (trong hầu hết các ngôi đình làng Việt trên đất Khánh Hòa, người dân luôn dành một phần trang trọng để thờ Bà Thiên Y A Na cùng với chư vị thần linh, các bậc Tiền hiền Hậu hiền của địa phương).
Tục thờ Mẫu còn được thể hiện qua các huyền thoại, truyền thuyết về Bà Mẹ xứ sở, về Thiên Y Thánh Mẫu, các trò diễn dân gian và điệu múa dâng Bà trong lễ hội… Tục thờ Mẫu còn được thể hiện sinh động qua lối diễn xướng nhạc chầu văn tế Thánh Mẫu, hát dâng hoa, ngồi đồng - múa Bóng.
1. Tục thờ Mẫu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng:
Điểm nổi bật trên bức tranh toàn cảnh của văn hóa Khánh Hòa là những hình thức lễ hội dân gian, phản ánh rõ nét về lao động sản xuất, phong tục tập quán, tín ngưỡng của nhân dân. Nông dân có tục lệ mùa xuân cúng đình, hát bộ, gọi là lễ hội đình làng. Ngư dân từ mùa xuân đến mùa thu cúng lăng - đình, hát bộ, gọi là lễ hội cầu ngư. Làng nào cũng có đình, vạn lạch cửa biển nào cũng có lăng (thờ Ông Nam Hải, tức cá Voi). Lễ hội đình - lăng ở Khánh Hòa kéo dài từ tháng Giêng đến hết tháng 10, nhưng rộn ràng hơn cả là từ tháng 2 đến hết tháng 5 âm lịch hàng năm. Ngoài ra còn một số lễ hội khác như lễ hội Thiên Y A Na ở Am Chúa (thuộc xã Diên Điền, huyện Diên Khánh) và lễ hội Tháp Bà ở Nha Trang. Cứ vậy “xuân thu nhị kỳ”, một năm hai mùa vui tế lễ. Nếp sinh hoạt văn hóa này chiếm vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân.
Trong đình làng, vị trí của Mẫu rất được tôn vinh, xuất phát từ quan niệm của người dân: “Mẫu sinh ra đất trời, sinh ra thế giới vạn vật, sinh ra con người… Mẫu luôn bảo vệ, chăm lo sự sống, dạy dỗ và dưỡng nuôi con người. Mẫu là tất cả!”. Gian giữa đình là chánh điện thờ Thành hoàng, bên hữu thờ Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ, bên tả thờ Mẫu. Mẫu ở đây tùy từng đình, có đình thờ Ngũ Mẫu (như cụm đình - lăng Cửa Bé thuộc phường Vĩnh Trường), có đình thờ Mẫu Cửu Thiên. Còn gian thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu thì đình nào cũng có. Phần đại lễ hát tuồng thứ lễ dâng Mẫu thì lúc nào cũng phải hát tuồng Bà như vở “Ngũ sắc châu” nói về 5 chị em với 5 màu da khác nhau, đa tài, đẹp sắc, giàu tình cảm, sống nhân hậu, từng giúp vua cha dẹp giặc dữ, cứu dân độ thế.
Ở lăng, gian giữa tức chánh điện thờ Ông Nam Hải - được triều đình nhà Nguyễn sắc phong là “Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần” thuộc hàng Thượng đẳng thần, bên tả thờ Bà Vạn Lạch - người mẹ đã có công dạy cho con người biết làm nhà để ở, biết sống đoàn kết vạn chài, bên hữu thờ Bà Thiên Y A Na, gian trong thờ các bậc Tiền hiền.
Lăng cũng như đình, có thờ tự là có lễ tế. Nghi lễ tế Mẫu đều có múa dâng hoa, múa đèn. Trong lễ nghinh thủy triều của lễ hội cầu ngư diễn múa dâng hoa trước, rồi mới đến múa siêu, múa bá trạo sau.
Vạn lạch nào giàu khi tế lăng đều tế 3 heo: heo tế Ông Nam Hải, heo tế Mẫu, heo tế Tiền hiền.
Tóm lại, từ cấu trúc xây dựng đình - lăng đến các nghi thức lễ tế, các trò diễn xướng đều tập trung tôn vinh vai trò của Mẫu, thể hiện tục thờ đa thần trong đời sống tâm linh dân gian. Người dân rất tin Bà nên thành tâm làm “lễ trả hiếu”, tự nguyện quyên góp tài lực cho làng vào hội. Dân làng quan niệm vào hội “vui hơn Tết”, vì Tết chỉ có 3 ngày, còn hội diễn ra đến 7 ngày! Không khí toàn làng như bừng vui, náo nhiệt, sự rạo rực hiện rõ trên mỗi khuôn mặt người. Con cháu của làng dù làm ăn xa ở đâu cũng về đông đủ. Lễ tế đủ đầy, tuồng hát tưng bừng... là dấu hiệu của sự làm ăn phát đạt, ấm no hạnh phúc. Người ta hy vọng sự may mắn, tấn tài tấn lộc sẽ đến với mọi gia đình, mọi ngành nghề. Đây cũng là mục đích của lễ hội đình - lăng.
Múa Bóng trong lễ hội Tháp Bà
Ngoài tế Mẫu trong lễ hội đình - lăng, ở Khánh Hòa còn có lễ hội dành riêng cho Mẫu, đó là lễ tế Thiên Y A Na (còn gọi lễ vía Bà). Hệ thống điện thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na khởi đầu từ Miếu Bà Chăm vùng chùa Suối Ngổ, đến Am Chúa (cả hai đều ở huyện Diên Khánh) rồi đến Tháp Pô Nagar (người Việt quen gọi là Tháp Bà) bên cửa sông Cái Nha Trang. Hệ thống này từ sâu trong rừng núi đi dần theo lạch sông Cái ra vùng cửa biển. Như vậy Mẫu Thiên Y A Na vùng chùa Suối Ngổ, Am Chúa có trước, tháp Pô Nagar là có sau. Lịch thờ Am Chúa tế ngày 2 tháng 3, tháp Pô Nagar tế ngày 23 tháng 3 âm lịch.
Nghi lễ tế Mẫu Thiên Y A Na đã được Việt hóa rất nhiều. Từ phần chính như tắm tượng, múa hát dâng hoa đến các vật tế như thịt heo, hát tuồng thứ lễ dâng Bà, lễ tôn vương và hát bộ kéo dài luôn mấy ngày đêm hoàn toàn theo nghi lễ của hội đình làng Việt. Về quy mô tế, ở Miếu Bà Chăm (vùng chùa suối Ngổ) chỉ làm lễ dâng hương, còn ở Am Chúa đã là một lễ hội mang tính khu vực. Tuy gọi là “am” (nơi thờ tự nhỏ) nhưng Am Chúa nay là một công trình kiến trúc lớn, đồ sộ giống như một ngôi chùa, có ngoại Tam quan, nội Tam quan, sân chầu, bái đường và chính điện (điện thờ). Trong điện thờ được bài trí hệ thống tượng thờ, các vật thờ… rất bài bản. Nơi đây ngày càng thu hút được đông đảo khách thập phương nên đã dần dần được trùng tu tôn tạo rộng lớn hơn trước để có đủ chỗ cho các tín đồ đến đây bái cúng.
Đến lễ hội Pô Nagar ở Tháp Bà thì thực sự đã mang tầm cỡ quốc gia vì có rất đông quần chúng tham gia với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa.
Trên ngọn đồi Cù Lao nằm sát tả ngạn sông Cái Nha Trang sừng sững một quần thể tháp Chăm mà nhân dân địa phương quen gọi là Tháp Bà. Đây là nơi người Chǎm xưa thờ Bà Pô Inư Nagar (Bà Mẹ Xứ), nữ thần duy nhất trong vô vàn thần của người Chăm được người Việt thờ phụng dưới tôn xưng Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Lễ Vía Bà không những là một lễ hội truyền thống vào loại lớn nhất ở địa phương mà còn thu hút hàng ngàn du khách từ khắp nơi, nhất là các tỉnh phía Nam, nô nức về đây dâng hương, trẩy hội.
Trong tín ngưỡng dân gian của dân tộc Chǎm, hình tượng Pô Inư Nagar chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Theo truyền thuyết, Bà là nữ thần Mẹ của đất nước, người tạo ra cây lúa và dạy dân trồng lúa. Các vua Chăm tôn vinh Bà là “Bà Đại Phúc”, “Người bảo hộ tối cao của Vương quyền”. Đối với người Chăm, việc thờ phụng Pô Inư Nagar đã có từ lâu và tồn tại liên tục trong nhiều thế kỷ ở thánh đô Pô Inư Nagar “được xây dựng ở cạnh Kauthara và cạnh biển”. Định cư trên vùng đất này, người Việt đã tiếp thu những yếu tố đặc sắc của văn hóa Chăm, tạo nên một quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa Việt - Chăm rất độc đáo. Tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu ở Khánh Hòa và các tỉnh Nam Trung bộ có nguồn gốc sâu xa từ tục thờ Mẫu (Mẹ) ở đồng bằng Bắc bộ. Tín ngưỡng ấy chính là hành trang tinh thần của lưu dân Việt mang theo vào đây tờ thuở đi mở cõi.
Múa Bóng
Trước Tháp Chăm với điện thờ Bà và bao câu chuyện huyền thiêng còn đó, người Việt tìm thấy ở tín ngưỡng này điểm tương đồng với những thần thánh cũ ở quê hương bản quán như Mẹ Âu Cơ, Công chúa Liễu Hạnh, Bà Chúa Thượng Ngàn... tuy khác về tên gọi, nhưng vẫn là tiêu biểu cho hình tượng Bà Mẹ đất, Mẹ Thị tộc, Mẹ lúa, những vị Mẫu - Thần khuyến thiện trừng ác, cứu nhân độ thế. Xuất phát từ điểm chung đó, nữ thần Pô Inư Nagar của người Chăm đã được Việt hóa thành Thánh Mẫu Thiên Y A Na hay còn gọi là Bà Chúa Ngọc, được các triều đại phong kiến phong là “thượng đẳng thần” và tiếp tục thờ tự ngay tại trú sở cũ của Bà.
Hàng nǎm từ ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch, lễ vía Bà tức lễ hội Tháp Bà được nhân dân địa phương tổ chức rất trọng thể. Trước đây mọi nghi lễ đều do người Chǎm đảm nhiệm, nay chủ yếu do người Việt tiến hành, vì vậy, có một số thay đổi cho phù hợp với tập quán dân tộc. Trước hết là lễ thay y vào giờ ngọ ngày 20 tháng 3. Khi chủ tế dâng cúng trầm hương, hoa quả và khấn vái xong, mười thiếu nữ nết na, xinh đẹp được Ban tổ chức chọn sẵn bắt đầu tháo gỡ toàn bộ xiêm y, mũ miện cũ của Bà đễ lau chùi tỉ mỉ từng đường nét điêu khắc cho đến khi không còn lấy một hạt bụi nhỏ rồi mới mặc xiêm y, mũ miện mới vào. Trang phục của Bà đều may bằng hàng vải quý, thêu thùa công phu, đính kim tuyến, kim sa lóng lánh.
Sau nghi thức tắm tượng và thay y, vị chủ tế bắt đầu một tuần tế gọi là tế gia quan. Sáng ngày 22, các vị tǎng ni, đạo hữu Phật giáo đem hương hoa, ngũ quả, xôi chè, thiết hương án trước tiền sảnh ngôi tháp chính, tụng niệm theo nghi thức nhà Phật, cầu mong Bà phù hộ cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Lễ tế sanh diễn ra đúng nửa đêm 22 rạng 23. Lễ vật có thêm một heo để nguyên con đã cạo lông sạch sẽ và một bát tiết có nhúm lông. Chủ tế đọc vǎn tế thỉnh Bà về chứng giám, có chiêng trống và đội nhạc lễ phụ họa. Lễ tế dứt, diễn ra lễ múa Bóng do các đội múa Bóng người Việt ở địa phương cùng các đội múa Bóng của người Chǎm đến từ Ninh Thuận biểu diễn. Vũ công áo xiêm lộng lẫy, đầu đội hoa tươi, đèn ngũ sắc, uốn lượn nhịp nhàng dưới ánh đèn rực rỡ, cảnh tượng vô cùng ngoạn mục. Những vũ điệu múa Bóng của người Chăm thường điêu luyện, đẹp, có những pha hấp dẫn ghê hồn như vũ công múa trong khi tháp giấy trên đầu đang bốc cháy ngùn ngụt, trong tiếng trống, tiếng kèn dồn dập. Cái khó và nguy hiểm của vũ điệu là những lúc vũ nữ sà sát người xuống mặt đất, uốn lượn như rắn, mà trên đầu ngọn tháp lửa vẫn cháy phừng phừng.
Lễ chánh tế cử hành vào rạng sáng 23 tháng 3 theo nghi thức tế thần của người Việt: có chánh tế, bồi tế, tư chúc, thông xướng… đội khǎn xếp, mặc áo thụng xanh, mang hia theo kiểu cung đình. Các động tác dâng hoa, trầm hương, rượu, đọc vǎn tế diễn ra trang nghiêm, thành kính trong âm thanh trầm bổng của dàn nhạc lễ. Trong thời gian lễ hội còn có một số nghi lễ và trò diễn dân gian mang đậm sắc thái đạo Mẫu như xin xǎm, hầu bóng, thu hút hàng vạn lượt người ngày đêm lũ lượt đến chiêm bái, cầu xin Bà ban cho nhiều tài lộc…
Hệ thống Mẫu đều là các bậc thánh, tồn tại trong thế giới tâm linh của con người. Trong nghi thức tế Mẫu, việc tế lễ dâng hương là nghĩa cử trả hiếu của con người, thông qua người đại diện là ban chánh tế để “Cửu soát tế vật” (kiểm tra lễ vật), rồi “Cung hiến ca diên tựu án tiền khởi võ” (dâng hiến lời ca, tập trung trước án bắt đầu múa). Con người cầu khẩn hầu mong các thần linh chứng giám, độ trì cho được mùa lúa, bội thu mùa cá, cho quốc thái dân an. Tế Mẫu để ngồi đồng múa bóng thì chánh tế không chỉ dừng lại ở đây mà có sự “nhập xác”. Hồn linh của thần nhập vào xác người rồi múa. Xác múa ấy gọi là múa Bóng. Đây là điểm cốt yếu nhất mà chuyên luận này sẽ tập trung giới thiệu.
2. Chuyện kể dân gian và quan điểm của các nhà tôn giáo thần bí về Mẫu:
Mẫu trong thế giới tâm linh của người dân không chỉ thể hiện trong các lễ hội văn hóa mà còn được thể hiện một cách sinh động bằng những chuyện kể, sự tích, huyền thoại… Nội dung các chuyện kể chủ yếu phản ánh những việc làm phi phàm của Mẫu chăm lo cho thế giới vạn vật, bảo vệ con người - vốn là những sinh linh của Mẹ.
Dân gian có chuyện kể về Mẹ khai thiên lập địa, Mẹ sinh ra đất, ra trời, sinh ra loài người, dạy cho con người biết trồng lúa để sinh sống, hái lá thuốc để chữa bệnh, biết trồng dâu, chăn tằm, dệt vải… Rồi chuyện bà Ngũ Thiên, bà Chúa Kho, bà Liễu Hạnh, bà Nữ Oa... Ở Khánh Hoà có chuyện Thiên Y A Na là tiên nữ bị đọa, ở với vợ chồng ông Tiều bòn khoai, mót lúa, rồi nhập vào cây gió hóa thành trầm kỳ, về sau gặp hoàng tử kết duyên…
Chuyện xưa như vậy, chuyện nay sao? Các cụ thủ từ chăm lo tháp Pô Nagar trước đây kể rằng vào các ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng, đặc biệt ngày vía 23 tháng 3 âm lịch, có hiện tượng Mẫu Thiên Y A Na “bay” từ Am Chúa trên núi Đại An về Tháp Bà, rồi lại bay ra Ghềnh Bà mãi ngoài hải đảo thuộc huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Khi Mẫu bay, tà áo dài thướt tha thành vệt sáng dài như dải lụa ngang trời, “nhiều người thấy lắm!”. Dân gian còn truyền tụng rằng cái năm Nhâm Thìn xa xưa, thành phố Nha Trang bị sóng thần, Mẫu cản gió to sóng dữ, chỉ cho sóng chạy dọc đường Độc Lập (nay là đường Thống Nhất), gây thiệt hại không đáng kể. Lại nữa, những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Mỹ- Ngụy điên cuồng dùng máy bay ném bom phản công lực lượng giải phóng của Cách mạng tại khu vực Tháp Bà, Xóm Bóng. Mẫu đã đưa tay gạt bom ra, nên bom chỉ nổ ở trên sông và giữa cầu, đâu có vào dân, đâu có vào Tháp!
Người dân Khánh Hoà lâu nay thờ mẫu Thiên Y A Na ở các đình, miếu hay trong các điện thờ như Am Chúa hay tháp Pô Nagar. Phàm làm những việc đại sự thắng lợi, người ta tổ chức tế đình hoặc tế lăng; đến ngày vía Mẫu, người ta tổ chức múa dâng hoa, làm lễ trả hiếu, hát bộ, hội hè tưng bừng.
Từ đức tin trong thế giới tâm linh của dân gian về Thánh Mẫu, các nhà tôn giáo thần bí đã “tranh thủ” khẳng định học thuyết của mình. Họ cho rằng có hai thế giới và mọi người đều có khả năng gặp được Thánh Mẫu. Thuyết “Tứ phủ công đồng” nhằm khẳng định trên có trời, dưới có đất, giữa có con người và thứ tư nữa là có thế giới của thần linh, của người âm (người đã chết). Họ bảo rằng “âm dương đồng nhất lý” nghĩa là hai cõi giống nhau, con người có thể giao tiếp được thế giới thần tiên ấy.
Họ cho rằng trong tâm trí của con người tự nhiên có khả năng sáng suốt đến kỳ lạ, sự sáng suốt kỳ lạ ấy do thần linh can thiệp vào trí não của con người ta mà có. Nghi thức thờ Mẫu được các nhà tôn giáo thần bí xây dựng, bồi đắp lên khá sinh động, trong đó điểm nổi bật là diễn xướng nhạc chầu văn tế thánh mẫu, hát dâng hoa, ngồi đồng múa bóng. Trò diễn nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người muốn vươn tới thế giới thần linh chứa đầy sự thiêng liêng, bí ẩn.
3. Lịch thờ và sự sắp xếp điện thờ Mẫu:
Ở Khánh Hòa, ngoài các điểm thờ Mẫu ở đình, lăng, tháp, còn có các miếu thờ, điện thờ rải rác ở các làng xóm, hoặc tại gia. Hệ thống điện thờ tại gia là của những người tự đặt mình “có bổn phận” chăm lo hương khói cho Mẫu, đồng thời cũng là những nghệ nhân trong trò diễn dân gian ngồi đồng, múa bóng.
Múa Bóng
3.1 Lịch thờ Mẫu (ngày vía) theo âm lịch:
- Vía Thiên Y A Na ở Am Chúa: 2 tháng 3
- Vía Thiên Y A Na ở tháp Pô Nagar: 23 tháng 3
- Vía Ngũ Mẫu (Ngũ Thiên): 8 tháng 5 (Ngũ mẫu tức năm Bà: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ (Ngũ hành). Quan niệm của các nghệ nhân múa Bóng cho rằng Ngũ Mẫu rất quan trọng. Mẫu lấy đất nặn Phật, đất để cây cối sinh sôi, con người sống trên đất, thác về nằm ngủ yên trong lòng đất của mẹ).
- Vía Cửu Thiên Huyền Nữ (lễ Đức mẹ sanh mẹ đỡ): 9 tháng 9
- Vía đức Diêu Trì Kim Mẫu khai thiên lập địa: 18 tháng 10 (Đây là Mẹ của mọi người Mẹ. Mẹ sanh ra năm vị vua: Thiên Hoàng (được mẹ nhường ngôi), Địa Hoàng (Huỳnh Đế), Phục Hy (Thầy thuốc chữa bệnh), Thần Nông (Thần ngũ cốc), Nhơn Hoàng).
Ngoài ra còn cúng tế vào các ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng ở các điện thờ tại gia, hoặc ở các điện thờ Mẫu rải rác nơi làng xóm.
Nếu gặp mùa màng thất bát, làm ăn đói kém thì lịch tế Mẫu vào các ngày trên không liên tục. Còn ở đình, lăng thì chỉ khi nào tế đình, tế lăng mới tế mẫu.
3.2 Sự bài trí và sắp xếp các Thánh Mẫu trong điện thờ:
Điện thờ Mẫu thường chỉ một gian, còn rộng hay hẹp tùy từng điều kiện cho phép. Trước cửa chánh điện là bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát tay cầm bình nước cam lồ, đi trên tòa sen, theo sau là đồng tử. Từ bàn thờ Bồ Tát vào trong chánh điện có sân khấu nhỏ dùng để ngồi đồng múa bóng. Ở giữa gọi là chánh điện, có hai bàn thờ ở hai bên gọi là bên tả và bên hữu.
Ngồi cao nhất nơi Chánh điện là Đệ Nhất Mẫu, mặc áo nhung đỏ, đầu đội mão uy nghi, hai tay xếp vòng ngay ngắn phía trước, chân đi hài đỏ, khuôn mặt trái xoan hồng hào phúc hậu. Bên cạnh Đệ Nhất Mẫu (phía tả) là Mẫu Đệ Nhị, mặc áo xanh, đầu đội khăn đóng, chân đi hài. Bên cạnh, phía hữu là Mẫu Đệ Tam mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng chân đi hài.
Giữa chánh điện là đức vua Thiên Hoàng. Hai bên có hai vị quan nhất phẩm hầu. Vua mặc áo vàng, đội mũ cửu long vàng, còn các quan mặc áo xanh, áo đỏ.
Ngồi cuối cùng, tức là ngồi đầu của bệ thờ chánh điện: Cậu Nhất ở bên tả, Cậu Út ở bên hữu. Cậu Út mặt mày tròn trịa xinh tươi, dáng vẻ tinh nghịch. Đầu Cậu thắt khăn lưỡi rìu màu xanh, áo cộc tay chỉ cài một cúc ở bụng. Chân Cậu ngồi vắt ngang, một tay để lên đầu gối, một tay vắt vẻo điếu thuốc chuẩn bị đưa lên miệng để hút. Cậu Nhất về cơ bản cũng vậy, xong đáng vẻ có phần chững chạc hơn.
Bên tả của bệ thờ chánh điện: điện thờ Quan Thánh (Quan Công), có Châu Xương, Quan Bình, hai hầu cận đắc lực của Quan Công đứng hai bên. Ngồi bên dưới là quan Hoàng Bẩy và quan Hoàng Mười.
Bên hữu của bệ chánh điện là Mẫu Chúa Sơn Lâm. Sau lưng Mẫu là bức tranh rừng núi rậm rạp hùng vĩ. Ngồi dưới chân là Cô Bẩy, Cô Mười. Dưới chân bệ chánh điện có tấm gương to, hai bên để các loại mỹ phẩm, nước uống, gối xếp, các loại đồ trang sức như kim găm cài đầu, vòng đeo tay, đeo cổ mạ vàng bạc lấp lánh. Tất nhiên chủ của điện thờ là nữ, vì hầu hết “Cô” mới ngồi đồng múa bóng.
Đối diện với gian chánh điện: miếu thờ Cô ngoại cảnh, chuyên trông coi điện thờ Mẫu. Đó là Cô Ba mặc áo trắng, Cô Năm mặc áo xanh. Cả hai Cô dáng vẻ đều xinh tươi, nhanh nhẹn.
Có nơi đàn ông ngồi đồng múa bóng, họ nặng về Quan Ngài. Khi múa bóng thường thấy xuất hiện cả Tam thánh là Tề - Huyền – Đô (Tề là Tề Thiên khi đã thành Phật, Huyền là Huyền Dân, Đô là Đô Giông). Đây là các nhân vật trong chuyện thần thoại, trong sử cổ đại Trung Quốc, thường được các nghệ nhân ở hai huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh thể hiện.
Góc điện thờ đặt một tủ đứng treo phục trang đủ loại, đủ sắc mầu cho nghệ nhân sử dụng trong quá trình múa bóng.
Đây là bức tranh tổng thể về điện thờ Mẫu, nơi thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng tế Mẫu và hát chầu văn ngồi đồng múa bóng. Tuy nhiên đây chỉ là đại diện, có tính khái quát, bởi tùy từng người, tùy phái, tùy nơi thờ mà các thánh mẫu được sắp xếp khác nhau. Nếu nặng về Ngũ Mẫu thì Ngũ Mẫu ngồi ở chánh điện như ở điện thờ cụm đình làng Cửa Bé, Vĩnh Trường; nếu nặng về Thiên Y A Na thì mẫu Thiên Y A Na ở vị trí chính như ở điện thờ đình Phước Hải. Còn cho Diêu Trì Kim Mẫu là quan trọng thì Kim Mẫu ngồi cao hơn cả như điện thờ của Cô Năm Vạn Thắng (tất cả đều ở Nha Trang). Nhìn chung, cấu trúc điện thờ mang đậm tính dân gian, nên yếu tố thích nghi rất cao. Sự bài trí sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng nơi. Tuy vậy vẫn không mất đi nét đặc trưng tiêu biểu của nó.
Dù có tùy người, tùy phái, tùy cách thế nào chăng nữa, điện thờ Mẫu vẫn có yếu tố chung nhất là ngoài các Mẫu còn có hệ thống các Cô, các Cậu. Bên cạnh Cô Ba nhí nhảnh còn có Cô Năm, Cô Bảy, Cô Mười. Có Cô phải có Cậu. Cậu Út hay “quậy” bên Cậu Nhất chỉnh tề. Ở đây, sự phân biệt cụ thể tính nết từng nhân vật làm phong phú, sinh động trò diễn. Rồi còn có các quan, từ quan nhất phẩm đến quan nhị phẩm, quan hoàng Bẩy, quan hoàng Mười… Có quan nên phải có vua. Ngoài ra còn có các nhân vật trong truyện Tàu, như bộ ba Châu Xương, Quan Bình, Quan Công. Và có cả Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát.
Điều đáng chú ý là trong các đình làng, người dân thờ Mẫu để đền ơn sâu đáp nghĩa cả, trả hiếu cho Mẫu. Chữ hiếu ở tại tâm, thờ tự mang tính tượng trưng, nên bàn thờ đơn giản. Còn tại các điện thờ tại gia, bàn thờ có nhiều Thần, cách thờ tự cầu kỳ, cách thể hiện trò diễn trên sân khấu hấp dẫn hơn. Ví dụ: ngôi điện thờ Mẫu trên hòn đá Chữ ở cửa sông Cái, Nha Trang có hàng chục bức tượng được sắp đặt theo ngôi thứ, chức phận cụ thể. Mẫu lớn nhất ở điện thờ này là Thiên Y A Na. Bàn thờ Mẫu ở tư gia thầy Tám Đũa (tức nghệ nhân Lê Bộc ở Xuân Tự, Vạn Hưng, Vạn Ninh) được thiết kế 3 tầng theo lối giật cấp. Trên ngôi cao nhất thờ Tam Tòa Thánh Mẫu có ba bức tượng của Bà Thiên Y, Bà Địa Mẫu và Bà Cửu Thiên ngồi rất uy nghi. Tầng hai có án thờ Ngũ Hành và Quan Thánh. Tầng dưới cùng để bình hoa và kệ đựng sách kinh.
3.3 Các đội múa Bóng, các nghệ nhân múa Bóng tiêu biểu ở Khánh Hòa:
- Đội Hoa Sơn (Diên Điền, Diên Khánh)
- Đội Kim Thuyền (Suối Đổ, Diên Khánh)
- Đội Nguyên Nhung (thị trấn Diên Khánh)
- Đội Hồng Hoa Điện (Diên Khánh)
- Đội Điện Bà Lương Sơn (Nha Trang)
- Đội Kim Linh Điện (Nha Trang)
- Đội Kim Huyền Ngọc Sơn (Nha Trang)
- Đội Núi Sạn (Nha Trang)
- Đội Bửu Lâm Ngọc (Ninh Hòa)
- Đội Chung Quốc Mẫu (Ninh Hòa)
- Đội Kim Trung Điện (Ninh Hòa)
- Đội Mẹ Hiền Đá Bàn ở Ninh An (Ninh Hòa)
- Đội Năm Mẹ Ngũ Hành (Ninh Hòa)
- Đội Hoa Sen ở Vạn Giã (Vạn Ninh)
- Nghệ nhân Lê Bộc tức thầy Tám Đũa ở thôn Xuân Tự (Vạn Hưng, Vạn Ninh)
- Cô Ba (Suối Cạn, Hòn Hèo, Ninh Hòa)
- Cô Đốc Như ở phường Vạn Thạnh (Nha Trang)
- Cô Năm ở đường 2 tháng 4 (Nha Trang)
- Cô Kiến An ở đường Sinh Trung (Nha Trang)
- Cô Ba Kẹp ở Xóm Bóng, Cù Lao, phường Vĩnh Thọ (Nha Trang)
- Cô Mười Hòa ở Vĩnh Thọ (Nha Trang)
- Gia đình nghệ nhân Lê Tấn ở phường Phương Sơn (Nha Trang)
- Cô Tám Mứt (Diên Thọ, Diên Khánh)
- Nghệ nhân Mười Trầu ở thôn Lập Thạch (Cam Tân, Cam Lâm)
…
4. Quy trình ngồi đồng - múa bóng:
Toàn bộ điện thờ được trang hoàng lộng lẫy, khói trầm thơm bay nghi ngút, quyện với hương của hoa, của trái cây, âm thanh nhạc chầu văn ngắt quãng, run rẩy, lốp bốp ngập ngừng. Tất cả như gợi sự mông lung huyền ảo, đưa con người đến với thế giới của mộng du.
Hai hàng mâm trái cây chất đầy ăm ắp, xếp ngay ngắn hai bên điện thờ. Trên sân khấu nhỏ, những chiếc chiếu hoa được trải vuông vức, ngồi bên là các ca công và dàn nhạc. Dàn nhạc chầu văn chủ yếu có đàn nguyệt, trống bản, song loan, sáo trúc, gần đây thêm cây đàn ghi-ta điện phím lõm.
Trên điện thờ, ngoài trái cây còn có đồ tế là cơm chay, đậu phụ, canh hoa lý được cúng bày la liệt. Sau lễ tế chính, ai đến dự đều được ăn tự do cơm cúng. Người cúng quan niệm rằng con người sống trên đất Mẹ, cây cũng từ đất Mẹ mà cho trái cho hoa, không chỉ nuôi người và mọi sinh linh mà còn làm cho sự sống thêm phần thi vị. Vì vậy các con chọn những bông hoa đẹp nhất, những trái cây tươi ngon nhất, những chén cơm thơm nhất kính dâng lên Mẹ với tất cả tấm lòng thành.
Trong số trái cây cúng có mâm trầu cau được xếp nguyên buồng xòe hình đuôi công, bó hoa để giữa trông rất đẹp. Đây là lễ vật trọng tâm, vì chỉ có mâm trầu cau mới được để ngay ngắn giữa điện, trước mặt Mẫu Đệ Nhất. Khi ngồi đồng, mâm cau được tế rất kỹ, lộc mẫu phát đầu tiên cho mọi người trái cau này, rồi mọi người cùng ăn trầu. Có khi Mẫu nhập xác, miệng cũng nhai trầu bỏm bẻm.
Đặc biệt là chỉ cúng các loại trái cây và đồ chay. Một phần trái cây do gia chủ điện thờ mua, phần nhiều còn lại do những người “chịu ơn” dâng lễ (hoặc bằng trái cây, hoặc bằng tiền để mua trái cây). Bởi vậy nếu gặp mùa màng thất bát, làm ăn đói kém thì lịch cúng trên cũng không được liên tục.
Ngày tế là ngày vía, ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng. Giờ tế tùy chọn giờ tốt trong ngày. Lệ thường sáng từ 8 đến 10 giờ là thời gian cúng tế, 10 đến 11 giờ là hát dâng bông, đến 12 giờ (giờ Ngọ) là giờ Cô ngồi đồng. Thời gian ngồi đồng từ 12 giờ đến 20 giờ trong ngày. Sở dĩ kéo dài như vậy bởi có xen các trò diễn dân gian như múa dâng hoa, múa lục bình, múa đèn. Số Cô ngồi đồng chủ yếu là 1. Có khi ngồi 2 Cô hoặc cả một tập thể.
Nếu là ngày vía Đệ Nhất Mẫu, vía Thiên Y A Na hoặc Ngũ Mẫu… thì Cô làm chủ lễ. Đọc lên ngày vía, địa điểm, họ tên danh tánh xong, chủ lễ cùng các con của người đồng làm lễ dâng hương. Nếu ngày mồng một hay ngày rằm thì chỉ cần vái lạy Mẫu chính của điện, dâng hương đăng, dâng hoa, trái cây, mâm cơm chay lên tế Mẫu và các chư thần, sau đó vào ngồi đồng múa bóng ngay.
- Phần nhạc tế: Lễ dâng hương Mẫu có nhạc chầu văn nổi lên trước. Ở một số nơi không có nhạc công thì người ta dùng máy cassette, nếu không có máy thì người ta dùng trống, song loan đổ theo nhạc tế đình.
Sau phần nhạc tế là khâu dâng nhang, rượu, tiếp đến là phần múa dâng hoa (ở huyện Vạn Ninh còn gọi là múa rổi, múa trả hiếu).
Đoàn múa dâng hoa chủ yếu là người ở Khánh Hòa, đôi khi có sự phối hợp của đội múa ở Phan Rang ra. Nếu lễ lớn có cả đội vũ nhạc từ Sài Gòn đồng tham gia biểu diễn. Trong ngày vía Thiên Y A Na ở Tháp Bà, phần múa dâng hoa tế mẫu chủ yếu do các vũ nữ người Chăm thực hiện.
Đoàn múa dâng hoa gồm 6, 8, hoặc có khi đến 12 người nữ. Họ mặc áo dài đủ màu, đầu đội khăn đóng, vai vắt khăn vàng cột xuống chéo thắt lưng, dây lưng dài thướt tha, nhìn chung trang phục rất đẹp mắt. Dàn nhạc gồm có kèn, trống vỗ, sáo nhỏ, mã la và lục lạc nhỏ. Nếu không có nhạc công thì dùng máy cassette.
Phần đầu: Đội vũ nữ hai tay kẹp loại dây làm bằng bột giấy quyện với sáp nấu lỏng, xe lại, xoắn như thừng, đốt cháy như nến, gọi là múa dâng hoa linh .
Phần hai: Đầu các vũ nữ đội các mâm hoa và trái cây, gọi là múa dâng hoa hay múa lục bình.
Phần ba: Đầu các vũ nữ đội các mâm có nến thắp sáng, có mâm tháp cao tầng làm bằng giấy, gắn cờ xí, gắn hoa. Có tháp thì đính các loại bánh in bọc giấy kính đủ màu gọi là múa dâng hoa đăng. Nếu ngày vía mẫu Cửu Thiên thì mâm tháp cao chín tầng, gọi là Cửu trùng đài; ngày vía Ngũ Mẫu thì ngũ tháp đài; ngày vía Thiên Y A Na cũng dựng tháp cao tầng song không phân ngũ hay cửu đài, độ cao mỗi mâm tháp từ 60cm đến 80cm, sau đó tháp giấy chính được đốt cháy lên.
Khi múa hát dâng bông, nhìn toàn cảnh trong điện thờ thật tuyệt vời. Hai hàng vũ nữ xinh đẹp, cứ tươi nguyên như mâm hoa trái trên đầu. Họ múa uyển chuyển, khi cong tay, lúc vòng chân, khi sát người trên mặt đất đưa duyên, mình lắc, lúc khoan, lúc nhặt theo điệu nhạc cuốn hút người xem.
Phần sau điệu múa nhạc tấu dồn dập, trên đầu người vũ nữ mâm tháp được đốt lên. Ánh lửa bập bùng trong tiếng hú, tiếng vỗ tay của mọi người chung quanh. Nhạc càng sôi động, nhịp phách gõ mạnh hơn, múa càng nhanh hơn. Lúc này đây ta mới thấy được tài nghệ của vũ nữ dân gian tuyệt diệu làm sao, khiến người xem như cũng hòa vào, nhập vào cái hồn của điệu múa.
Phần múa dâng hoa của lễ trả hiếu đến đây là hết. Riêng ở các vùng Vạn Ninh, Ninh Hòa, các nghệ nhân thường thêm phần múa siêu, rồi màn Tam thánh Tề- Huyền- Đô xuất hiện hát múa vỗ an chúng dân.
Đúng giờ linh (giờ Ngọ), Cô mặc y phục bình thường, mặt tô son điểm phấn xinh tươi. Cô ngồi vào giữa sân khấu nhỏ, trước tấm gương lớn. Hai người phục dịch Cô hai bên, người bên phải hầu y phục, người bên trái hầu nước uống, đồ cúng. Nước hoa thơm nức được vẫy đến mọi người, giờ ngồi đồng bắt đầu.
Cô mặc y phục lễ tế, ngồi theo tư thế ngồi thiền. Hay tay chấp phía trước, chân xếp tròn, tấm vải đỏ được phủ lên đầu. Gần 5 phút trôi qua, toàn thân Cô lắc đều, khi tấm vải đỏ được giở ra trông Cô như người khác lạ.
Người phục dịch đưa Cô mâm cau ở chánh điện với 3 cây nhang. Cô đỡ mâm cau trên tay, một tay cầm nhang vẫy đều quanh mâm, nhang được cắm lên, mâm cau như được thánh mẫu soi tỏ, và lại được đặt vào giữa điện.
Người phục dịch ghé tai Cô thì thầm, nội dung nhằm nhắc Cô có người xin lời khuyên về chuyện làm ăn, hay chuyện nhân tình thế thái, có khi xin thuốc chữa bệnh, Cô gật đầu như chấp nhận điều tâu! Thông thường thì Cô cứ ngồi đồng là múa bóng, hết “Thần” này lại đến “Thánh” khác nhập xác.
Sau lễ dâng cau, tấm vải đỏ lại được phủ lên, Cô ngồi đồng lắc mình đều đặn, nhạc tấu lên với giọng hát chầu văn lả lướt. Nội dung bài hát tả cảnh sông hồ, biển trời lai láng… cầu cho đất nước luôn thanh bình, dân no ấm, vua tôi thịnh trị vững bền.
Tấm vải đỏ được giở ra, người phục dịch bên phải mặc nhanh y phục cho Cô. Giờ đây trông Cô thật oai phong trong bộ y trang lộng lẫy. Tay tỳ lên chồng gối xếp, Cô dùng một ly rượu nhỏ trên điện thờ, con mắt và khuôn mặt Cô thật khác thường. Mọi người chung quanh nhìn nhau rồi ngồi nghiêm chỉnh. Tất cả cúi đầu vái lạy miệng lầm rầm: “Mẫu chúa Sơn Lâm!”.
Mẫu đi một vòng, mắt nhìn bao quát bốn phương, dáng vẻ oai phong lẫm liệt. Người phục dịch bên phải lại đưa cho Cô cặp song kiếm sáng loáng. Cô vái vào chánh điện, chắp kiếm, bất chợt Cô hú nhẹ một tiếng, xoay tròn một vòng rồi đứng tư thế đề kiếm. Bắt đầu cô múa, kiếm lướt nhanh loang loáng, nghe phựt… phựt!… Sức mạnh và tài năng nghệ nhân vượt sức tưởng tượng đối với người xem. Đây là bài kiếm thuật, qua các thế đánh ta hiểu Cô múa kiếm không phải để khua cho vui. Nhạc đệm bài kiếm thuật vẫn là nhạc chầu văn, nhưng nhịp phách mạnh hơn, sử dụng bộ gõ nhiều hơn.
Thời gian múa kiếm kéo dài từ 7 đến 10 phút. Sau bài kiếm Cô ngồi xuống, tư thế cũng đường bệ như ban đầu. Như vậy “hồn Bà chưa rời khỏi xác cô”, Cô nói lời thánh. Ai xin điều gì Cô phán điều ấy. Lời Cô nói nhỏ, giọng rất lạ, vì đây là lúc “Mẫu nói”. Phần này gọi là lời dạy của Mẫu.
Người phục dịch đưa Cô mâm cau hoặc trái cây và đĩa tiền lễ (nếu có). Số tiền lễ được Cô xếp vào đĩa trả về cho nguyên chủ, chỉ giữ lại phần nhỏ, rồi Cô lại chia đều vào các đĩa trái cây, cau trầu, thuốc lá phân phát cho tất cả mọi người. Phần này gọi là phát lộc của mẫu. Người nhận lộc cung kính vái vào chánh điện, cất phần quà của mình. Lúc này trước mặt mọi người, Cô thực sự là Thánh Mẫu. Mẫu nhìn ai cũng hiền từ, sâu thẳm, cái nhìn chinh phục mọi người. Ai cũng cảm thấy Mẫu như hiểu mình, hiểu mọi ngõ ngách đời tư của mình, không giấu được. Không khí trong điện thật ấm cúng. Từ Thánh Mẫu đến mọi người đều nhai trầu, môi đỏ mặt hồng hưng phấn. Thời gian kéo dài khoảng 15 phút, “Mẫu thăng”, hoàn hồn lại xác cho Cô, Mẫu không nhập nữa.
Tiếp tục lại có người dâng lễ xin lời thánh, mọi nghi lễ lại diễn ra như trên: ngồi đồng > nhập xác > múa bóng > lời Thánh dạy > phát lộc Mẫu. Quá trình này được lập đi lập lại nhiều lần, có khi trên 20 lần, nghĩa là có đến 20 vị Thánh nhập vào xác Cô. Cô múa bóng 20 lần khác nhau theo địa vị, tánh nết của các vị Thánh.
Vừa rồi là Mẫu, bây giờ đến Cô. Cô ngồi đồng lắc mình nhè nhẹ, khăn đỏ được giở ra, người phục dịch hớn hở: “Cô Bẩy về!”. Cô cười đưa duyên với tất cả mọi người, Cô mặc áo dài thướt tha, đầu giắt hoa, tai và tay đeo vòng lấp lánh, nước hoa lài xức thơm phức. Mắt Cô đưa tình, miệng cười xinh tươi. Người phục dịch đưa Cô hai sợi dây xoắn đốt cháy như nến, sáng rực. Cô kẹp vào hai ngón tay, dịu dàng vái vào chánh điện, Cô múa.
Sự hóa thân của nghệ nhân trong vai nữ trẻ tuổi mới tuyệt diệu làm sao. Từ nội tâm đến hình thức bên ngoài bộc lộ tính cách của thần cô ở tuổi độ trăng tròn, thông minh nhí nhảnh. Cô thướt tha trong bộ áo dài múa vờn theo ngọn lửa, ánh sáng bập bùng soi vào cặp mắt liếc ngang sống động. Cô múa khi lên cao, khi xuống thấp, đôi cánh tay mềm mại, toàn thân uốn mình như rắn trên nền nhạc chầu văn, lời thơ trữ tình tươi mát. Đôi chân Cô nhảy nhẹ, gót đánh đều trên sàn diễn theo nhịp phách của song loan, tiếng trống bốp bốp, tong tong, tong bốp… hòa vào tiếng đàn nguyệt, tiếng sáo trúc. Lời ca tả trời quang mây đãng, cành lê hoa điểm trắng, bướm vờn bay. Người phục dịch đóng vai trò quản ca thúc giục mọi người vỗ tay cùng hòa nhịp. Cô múa say sưa, cô cười thành tiếng, pha với lời hú nhè nhẹ phát ra thúc tiết tấu điệu múa dồn thêm.
Mọi người đồng thanh cổ vũ, vỗ tay đều nhịp, không khí trong điện thờ như hòa vui, nhất là với các vị thường xuyên đến hầu Mẫu, niềm vui thể hiện trên con mắt của họ như đang nói chuyện với thần cô vậy.
Nhạc chầu văn đoạn kết bao giờ cũng là lời cầu chúc cuộc sống yên lành. Hai sợi dây cháy cũng vừa ngắn, Cô trao cho người phục dịch, người phục dịch lại trao sợi dây đang cháy cho người đặt quẻ cầu Cô, nếu không thì cho người nào gần đấy. Người nhận lấy sợi dây đang cháy xông quanh mặt, quanh ngực, quanh người mỗi lần một vòng. Sau đó sợi dây được dập lửa, gói cẩn thận cầm về. Người ta quan niệm sợi dây cháy là của thần mẫu, soi quanh mặt như xua đi nỗi rủi ro, xuất u nhập minh, lo kế mưu sinh tính chi được nấy. Cô lại nói lời thánh, lại phát lộc như lần trước.
5. Mấy nhận xét ban đầu về bản chất của việc ngồi đồng - múa bóng:
5.1 Ngồi đồng:
Ngồi đồng như việc tĩnh tâm, thiền định, để phần Thần nhập xác Cô. Các nghệ nhân trong giới “đồng bóng” đều cho rằng ngồi đồng là sự vận động, điều khiển thần kinh, làm chuyển hướng hoạt động của con người từ trạng thái này sang trạng thái khác. Ngồi đồng là tập trung hệ thần kinh, du người sang thế giới khác, thoát tục, cảm nhận trong não bộ hình ảnh, tiếng nói, cả thế giới sống động của các Thánh Mẫu, các Cô, các Cậu, các vua và cả quần thần… Ngồi đồng là giai đoạn “thần linh nhập xác Cô”. Vì là đa thần nên quá trình ngồi đồng cũng rất đa dạng. Sự độc đáo nằm ở chỗ người ngồi đồng trong cùng một giá đồng lần lượt vào nhiều vai khác nhau.
Khi ngồi đồng cũng có nhiều kẻ lợi dụng lòng tin, làm điều bậy bạ, miệng hú, hét, nhảy dựng lên rồi dẫy đành đạch như "đỉa phải vôi", đây là hành động thái quá, hù dọa. Chúng tôi có hỏi một số nghệ nhân về hiện tượng trên, họ trả lời đây là hành vi của những kẻ làm tiền, không phải là người của Mẫu! Họ cũng cho rằng thời nào cũng vậy, đều có kẻ “mua thần, bán thánh”.
Ngồi đồng chỉ có ý nghĩa nếu người ngồi đồng thật sự đạt tới trạng thái “yoga tinh thần” một cách cao siêu. Khi đó họ sẽ quên hết thực tại và bắt đầu tiếp cận được những bồng bềnh ảo ảnh thực hư, ẩn chứa trong tâm hồn và tư duy con người. Nếu không có điều ấy thì ngồi đồng chỉ là một hình thức diễn xướng đơn thuần mà thôi.
5.2 Múa bóng:
Múa bóng là phần tiếp theo sau ngồi đồng. Múa bóng thể hiện tài năng, bản lĩnh của Cô khi hòa mình vào thế giới thần linh.
Tuy nghệ nhân hát, múa có bài bản, hành động thể hiện như có chủ định, song tâm sinh lý lại không ở trạng thái bình thường. Trạng thái không bình thường của Cô biểu hiện ở nhiều mặt: như hàng ngày nghệ nhân không biết uống rượu bia, không hút thuốc, không ăn trầu, vậy mà khi ngồi đồng múa bóng lại dùng được tất! Các nghệ nhân lý giải rằng đó là thánh hút thuốc, ăn trầu, thánh dùng bia rượu.
Tài năng của các nghệ nhân thể hiện ở chỗ múa đẹp, sinh động và được nhiều Thần nhập xác. Có lúc ta thấy Cô oai phong tay cầm kiếm lệnh, ra dáng mẫu nghi thiên hạ. Có lúc ta lại thấy Cô với dáng vẻ xinh tươi của tuổi 18 đôi mươi, miệng cười - hú - hát. Được xem nghệ nhân tuổi còn sung sức múa bóng cảnh Cô Năm chơi hoa mới đẹp làm sao! Miệng cô ngậm một cành bông cúc, sau lại chồng tiếp lên một cành nữa là hai, rồi chồng tiếp một cành nữa là ba... trong tiếng hò reo, vỗ tay kích động của mọi người. Còn cảnh Cậu Út nhập xác mới thật vui. “Cậu Út quậy lắm”, ai cũng nói vậy! Nhìn kìa, Cậu Út đi vài thế thái cực quyền, rồi cậu đến bên dàn nhạc cầm cái trống bản, trống lăn tròn trên vòng tay phía trước, trống lăn như trái bóng qua cổ, đến vai được hất lên đầu và quay tít. Trống nhảy múa trên đầu cứ như diễn viên làm xiếc.
Ở hai huyện Vạn Ninh và Ninh Hoà, sau phần tế Mẫu có làm lễ tôn vương (phần kết của tế). Thường có ba nhân vật xuất hiện, đó là Tam Thánh Tề - Huyền - Đô. Trong thế giới tâm linh của dân gian, Tam Thánh xuất hiện là để trấn an đời sống cõi trần, ngăn quỹ dữ quậy phá. Vùng này thường có nghi lễ Tá thổ, diễn trò “Phạt xà, trảm mộc” đậm chất phù thủy. Trò diễn được thể hiện bởi các nghệ nhân dân gian đầy tài nghệ, phần lớn trong số các nghệ nhân ấy là những thầy pháp cao tay ấn như thầy Năm Hiển, thầy Bốn Tá, thầy Hai Chẻ, thầy Dư ở xã Vạn Thắng, thầy Ba Chưởng ở Tu Bông, thầy Lê Huấn ở Vạn Hưng… Sau này có thầy Sỹ Hùng, Lê Bộc, Bùi Mãng, tất cả đều ở huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa.
Trong trò diễn ấy, Tam thánh đã diệt Mang Vưu Lang, Mang Vưu Hổ, phạt ngũ phương yêu mộc, diệt quỷ dữ Hỏa Linh, đưa Thần Nông về chăm lo ruộng nương. Bấy giờ mới “Trấn giữ được ngũ hành, càn khôn không chuyển, Thượng - trung - hạ, ngũ sắc huy hoàng, phân bốn mùa tám tiết”.
Múa bóng nơi đây thường thấy Tề Thiên xuất hiện. Động tác ngoại hình của các nghệ nhân khi thể hiện vai khỉ rất đẹp. Ngoài ra, nghệ nhân lại đọc thơ. Thơ chủ yếu theo thể biền ngẫu, ứng khẩu nhanh, nội dung nói về việc đối nhân xử thế ở đời. Lại có những nghệ nhân viết chữ Hán bằng bút lông khá đẹp.
Ở huyện Diên Khánh, ngồi đồng múa bóng gắn bó với hệ thống thờ Mẫu Thiên Y A Na. Ngoài các trò hát múa dâng hoa đăng, nếu nghệ nhân đông, có khi ngồi đồng múa bóng tập thể, nhiều cảnh xem khá rùng rợn.
Tại Nha Trang, nhiều nghệ nhân có tiếng như cô Đốc Như ở phường Vạn Thắng, cô Năm đường 2 tháng 4, cô Kiến An đường Sinh Trung, cô Ba Kẹp ở Xóm Bóng. Gia đình nghệ sĩ Lê Tấn ở Phương Sơn giỏi các loại nhạc cụ phục vụ nhạc chầu văn.
Nét nổi bật của văn hóa Khánh Hòa là sự đan xen văn hóa Việt - Chăm. Trong tâm linh cộng đồng cư dân, Mẹ Chăm như Mẹ Việt, thờ tự rất chu đáo. Xưa kia, ở tháp Pô Nagar nghi thức hát dâng hoa đăng ngồi đồng múa bóng phát triển mạnh. Chuyện xưa kể lại rằng, khi dân Việt vào ở dải đất ven biển đối diện tháp Pô Nagar, họ đặt tên vùng đất này là Xóm Cồn. Trước có mấy dãy nhà ngang để khách thập phương hành hương đất thánh, vừa là chỗ nghỉ, vừa là nơi các đoàn vũ công tập trung chuẩn bị cho ngày vía Mẫu. Từ chân tháp trở lên là Thánh địa. Các đội múa chỉ được đến các chân trụ lớn của phía trước tháp múa hát, còn các vũ công tài ba, với các vũ khúc truyền thống dành riêng cho phần đại lễ mới được đến cửa chánh điện biểu diễn. Ngày vía Mẫu các bậc đại sư của nghề mới được đến gần. Về sau, khi người Việt đã tiếp thu, ngoài các nghi lễ Tế Mẫu đã định, các nghệ nhân múa bóng nhiều nơi đổ về đây đua tài. Họ có đến chân Tháp, xong chủ yếu chỉ tổ chức ở mấy dãy nhà ngang này, cũng hát dâng bông, nhạc chầu văn ngồi đồng múa bóng. Họ đồn đại Thánh Mẫu linh thiêng, nên không chỉ ngồi đồng múa bóng ngày vía 23 - 3, mà cả ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng, có nhiều người tham dự. Chính vì thế Xóm Cồn được gọi là Xóm Bóng, mặc dù dân ở đây không ai làm nghề múa bóng. Cây cầu bắc ngang qua khúc sông Cái nơi Xóm Bóng này cũng gọi là Cầu Xóm Bóng.
Ở các điện thờ hay các tụ điểm múa bóng, ta thường bắt gặp nhân vật Quan Công, bên cạnh có Quan Bình, Châu Xương ứng hầu. Quan Công là nhân vật chính trong tiểu thuyết “Tam quốc chí” của Trung Quốc. Nghệ nhân dân gian đã lược trích những đoạn hấp dẫn trong tiểu thuyết này chế tác thành các vở tuồng để diễn trong phần đại lễ tế đình hoặc tế Ông Nam Hải trong lễ cầu ngư, gọi là tuồng Ông. Lễ hội cầu ngư phát triển mạnh ở Trung và Nam bộ, đặc biệt ở Khánh Hòa. Quan Công (Quan Ngài) được dân thờ tự vì nghĩa khí trung can sáng như vầng nhật nguyệt. Tinh thần Nho giáo được đề cao trong Tam giáo đồng hành khu vực. Điều lớn hơn nữa, Quan Công xuất hiện như để trấn an lòng người. Với tài thao lược, diệt ác trừ gian nịnh, đem lại thịnh trị thái bình cho đất nước. Trung can sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Kết cấu “có hậu” thường thấy ở vở diễn của tuồng. Đây cũng là những điều mong ước, khao khát của nhân dân. Chính tư tưởng văn hóa dân gian ở các lễ hội đình làng đã ảnh hưởng rất lớn, làm thay đổi diện mạo văn hóa đậm tính tôn giáo như tục tế mẫu ngồi đồng múa bóng .
Sức sống của trò diễn múa Bóng trước hết gắn với tục thờ Mẫu lâu đời ở Việt Nam, sau đó nó mang theo mình cả mảng văn hóa dân gian đặc sắc. Đó là hệ thống bài bản hát chầu văn với những giai điệu trữ tình độc đáo. Tuy là hệ thống bài bản, nhưng nhạc làm nền cho lời, lời không bì nhạc mà phải bẻ câu bẻ chữ. Bằng cách luyến láy theo chữ, nghệ nhân mặc sức mà thả hồn thể hiện tình cảm của mình.
Điệu nhạc phú dành cho Mẫu, các ông hoàng, các quan lớn. Phú có Phú trung, Phú hạ, Phú mùi. Phú mùi dành cho các Cô đi dạo chơi.
Điệu nhạc xá dành cho các Cô, các Cậu và cho lúc nhảy múa. Xá có xá thượng là mạnh thêm lên, xá pha quảng là vui tăng lên, gọi là xá quảng.
Điệu nhạc quảng dành chủ yếu cho các quan, đặc biệt lúc ngồi phát lộc người ta sử dụng điệu quảng. Điệu nhạc phú, xá, quảng… là những điệu nhạc cơ bản mà các nghệ nhân ở Khánh Hòa hiện nay hay sử dụng trong trò diễn múa bóng. Ngoài các nghệ nhân Khánh Hòa làm ca công, còn có các nghệ nhân ở Huế, Sài Gòn - Gia Định cũng thường xuyên đồng tham gia biểu diễn vào các ngày vía lớn. Tại đây ta sẽ bắt gặp giọng hát chầu văn ở miền Bắc với giai điệu mang các tố chất của dân ca đồng bằng Bắc bộ mà ở Chèo sử dụng rất nhiều. Đến các nghệ nhân Huế, vẫn tổ hợp ca khúc ấy, song ta lại được nghe giọng hát ngọt ngào, uyển chuyển của điệu hò vùng sông Hương núi Ngự. Nổi bật hơn cả vẫn là các nghệ nhân vùng Nam Trung bộ, ngoài các nét nhạc trữ tình man mác đặc trưng dân ca miền Trung, ta còn nghe yếu tố bi hùng, ai mà không lụy của sân khấu Tuồng. Bởi nghệ thuật hát Tuồng có sự ảnh hưởng lớn đối với toàn bộ văn hóa cộng đồng ở khu vực. Và cũng chính nhiều nghệ sĩ Tuồng trực tiếp đờn ca sáo thổi cho trò diễn múa Bóng này. Cuối cùng là các nghệ sĩ đất Sài Gòn - Gia Định. Họ đờn ca chầu văn hay múa bóng rất giỏi, gần như xiếc. Nét âm nhạc chầu văn của họ chủ yếu vẫn là nhạc chầu Bắc, đôi bài ta như bắt gặp nét nhạc tài tử thính phòng mang hơi ấm của dân ca Nam bộ, mênh mang mênh mang như cánh cò chở nắng sang sông Tiền, sông Hậu.
Tóm lại, về âm nhạc, mặc dù giai điệu chủ đạo vẫn là hát chầu văn tế mẫu từ Bắc vào, xong đến đây nỗi niềm âm nhạc ấy lại được điểm tô thêm làm cho phong phú hơn, sinh động hơn.
Hiện nay, múa bóng ở Khánh Hòa tồn tại theo hai phái: phái “Tứ phủ công đồng” và phái “Tam phủ”. Cả hai phái giống nhau ở chỗ là đều thờ Mẫu, ở nghi thức tế Mẫu, hát chầu văn, múa dâng hoa đăng và có sự nhập xác. Điểm khác cơ bản giữa hai phái là: “Tứ phủ công đồng” quan niệm 4 cõi, bao gồm: Thiên phủ (miền trời): có Mẫu đệ nhất (mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp; Nhạc phủ (miền rừng núi): có Mẫu đệ nhị (mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh; Thuỷ phủ (miền sông nước): Mẫu đệ tam (mẫu Thoải) trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp; Địa phủ (miền đất): Mẫu đệ tứ (mẫu Địa Phủ) quản lí vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Thánh Mẫu Thiên Y A Na được nhập vào hệ thống tứ phủ và thờ làm Mẫu Thiên. Phái này quan niệm “âm phủ dương gian đồng nhất lý” (hai thế giới giống nhau), thần linh nhập xác Cô, mỗi lần nhập là một lần Cô mặc một bộ đồ (mượn diện tiên). Trong hệ thống Mẫu của phái “Tam phủ” (hay còn gọi là tam cõi hội đồng thiên tiên, thượng - trung - hạ) chỉ có ba vị Mẫu nhất, nhị, và tam, không có Mẫu đệ tứ. Phái này không ngồi đồng, chỉ đứng trụ, Mẫu nhập xác về một lần, nói lời khuyên giải, nói bài cơ pháp, tuyên truyền để người ta tu thân, làm các việc từ thiện v.v… rồi “thăng” luôn, chứ không nhập xác vô ra như phái “Tứ phủ”. Mặt khác, Mẫu Tam phủ có nhập xác, xong không múa Bóng, Mẫu nhập rồi ngồi xen với các con của mình múa hát dâng hoa đăng, trái cây và các vật cúng tế, Mẫu phát lộc, Mẫu cho người bệnh "thuốc gia truyền" chữa bá bệnh.
6. Tổng kết:
Có thể nói Ngồi đồng - múa Bóng trong đầy đủ ý nghĩa của nó không chỉ là một trò diễn đơn thuần mà còn là một hiện tượng văn hóa tâm linh, trong đó hệ tư tưởng tôn giáo thần bí chi phối toàn bộ tuyến hành động của nghi thức ngồi đồng - múa bóng. Tư tưởng này khẳng định rằng con người có khả năng giao cảm do sự sáng suốt đột nhiên trong tâm trí, đưa ta đến cái Chân Thiện Mỹ trong thế giới siêu nhiên. Muốn được vậy, con người phải tĩnh tâm. Tĩnh tâm để du ta sang trạng thái siêu thoát hoàn toàn, ở đó con người được sống trong thế giới thần tiên, cũng sinh động như thực tại xã hội ta đang sống. Từ lý thuyết đến thực tế, xưa nay các nghệ nhân đều cố gắng dùng nghệ thuật nhằm truyền đạt, lý giải mục tiêu ấy cho mọi người. Điểm xuất phát của giáo lý, của trò diễn bắt đầu từ tục thờ Mẫu lâu đời của người Việt. Hình tượng Mẹ trong truyền thuyết dân gian vừa nhân từ tình cảm, vừa có quyền uy tối thượng, như thể hiện sự nhận thức của con người về thế giới vạn vật và lòng khát khao vươn tới chế ngự mọi sức mạnh thần bí trong thiên nhiên. Từ những điều này mà các nhà tôn giáo thần bí đã dựa hẳn vào đời sống tâm linh dân gian để duy trì giáo lý của mình.
Hệ tư tưởng giáo lý của tập tục này là khuyên mọi người làm việc thiện, con người sống với con người phải có lòng từ bi bác ái, thần linh ở mọi nơi luôn cứu giúp người lành. Tư tưởng này nghiêng nhiều về đạo Phật. Tuy đây là giáo lý của các nhà thần bí, nhưng mang đậm tính dân gian. Ngoài tam giáo đồng hành là Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, còn gặp nét riêng là thế giới đa thần. Tất cả các thần có công cứu nhân độ thế đều được thờ tự và nhập xác múa bóng. Các vị thần ở đây mang tính bản địa, không thấy các vị Thánh Tây phương trong các giáo phái Thiên Chúa giáo xuất hiện.
Về mặt cơ bản, trò diễn múa Bóng vẫn giữ được nét truyền thống xưa, các nghệ nhân luôn trung thành với tư tưởng giáo lý của mình, tận tâm và hướng thiện. Các thế hệ nghệ nhân nối tiếp nhau giữ gìn và bồi đắp thêm cái hay cái đẹp trong lời ca, điệu múa. Tuy nhiên, hiện nay do sự truyền nghề vừa ít về số lượng, vừa “tam sao thất bản” về chất lượng, nên lớp nghệ nhân sau này không giỏi bằng các lớp người đi trước. Hơn nữa vì hoàn cảnh xã hội, vì sự nhận thức của con người ngày một khoa học hơn đã tác động không nhỏ vào trò diễn. Mặt khác, tính thực dụng đã làm biến thiên ngay trong tư tưởng của một số nghệ nhân tự cho mình là chính thống, làm hạn chế phần nào yếu tố tích cực của trò diễn. Thêm vào đó là một số kẻ “mua thần bán thánh” làm cho trò diễn bị thoái hóa, biến dạng, gây mất lòng tin trong dân gian. Theo các nghệ nhân cao tuổi trong nghề hầu bóng, thật ra ngồi đồng nguyên thủy không thay đổi nhiều trang phục theo từng giá đồng như hiện nay, và việc ban lộc, ban tiền cho người xem cũng chỉ là rất tượng trưng thôi. Còn khi vào đến thành thị hiện nay, ngồi đồng - múa Bóng dần chịu sự chi phối của kinh tế, thương mại khi người ta gắn nó với các yếu tố của đời thường, trở nên nặng về phô trương, hình thức và bị biến tướng đi khá nhiều. Chẳng hạn là tâm lý “tốt lễ dễ kêu”, đồ lễ càng đủ đầy, càng nhiều càng tốt. Làm như vậy thì hầu đồng đã đi xa khỏi bản chất của nó quá nhiều. Đó là chưa kể tới việc hầu đồng bị lợi dụng vào mục đích mê tín dị đoan. Bởi vậy xưa nay diễn xướng dân gian nhạc chầu văn tế Thánh Mẫu, hát dâng hoa, ngồi đồng - múa bóng luôn tồn tại hai trạng thái: một mặt mang tính tích cực, chính thống, nghệ thuật và mặt kia là sự tiêu cực, kỳ dị./.
2002 - 2010
Nguyễn Man Nhiên
Số lần đọc: 5659
http://www.vanchuongviet.org/index.p...etail&id=15297
-
TỪ NGHI LỄ CỦA DÒNG HỌ ĐẾN LỄ HỘI CỦA CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu Nghi lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi)
Cao Nguyễn Ngọc Anh*
* ThS., Khoa Dân tộc thiểu số, Đại học Văn hóa
TÓM TẮT
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn là nghi lễ truyền thống của người dân nơi đây.
Nó đã tồn tại hàng trăm năm qua và đã trở thành một sinh hoạt tinh thần tiêu biểu của cư dân
vùng biển đảo Lý Sơn. Sau nhiều thế kỷ, hiện nay nghi lễ này đã trở thành một lễ hội dân gian
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện tấm lòng tri ân của người dân đất đảo đối với những
người lính đã hy sinh vì chủ quyền của Tổ quốc. Trong bài viết, chúng tôi sẽ trình bày sự thay
đổi của nghi lễ này từ một nghi lễ riêng của một tộc họ ở Lý Sơn đã phát triển thành lễ hội
mang tầm vóc của quốc gia. Phải chăng các yếu tố văn hóa, chính trị, xã hội đã tác động đến
sự thay đổi trên?
1. MỞ ĐẦU
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn là nghi lễ truyền thống của người dân nơi
đây. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “khao lề thế lính Hoàng Sa”:
- Theo tài liệu của Nguyễn Đăng Vũ, khao lề là lệ khao định kỳ hàng năm như hình thức
cúng việc lề mà một số nơi trong nước còn gìn giữ, nhưng thế lính là nghi lễ mang đậm yếu tố
phù phép của đạo giáo nhằm thế mạng cho người đi lính Hoàng Sa luôn đối mặt với nguy
hiểm (Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, 2006, tr. 95).
- Một ý kiến khác cho rằng: Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa tức là lễ cúng cầu an cho
những người lính Hoàng Sa trước khi lên đường làm nhiệm vụ cho đất nước. Sau này, khi
không còn đội Hoàng Sa, những dòng họ có người đi lính Hoàng Sa đã gắn lễ cúng này với
cúng việc lề nên gọi là lễ khao lề tế lính Hoàng Sa.
- Một số ý kiến khác lại cho rằng: “lề” nghĩa là “lệ”. Cứ mỗi lần trai tráng lên đường làm
nhiệm vụ là một lần dân đảo tổ chức lễ. Sự lặp lại thường xuyên ấy đã thành "lệ" hằng năm,
dù sau này dân Lý Sơn không còn những cuộc ra đi như trước nữa”. “Khao lề” nghĩa là khao
quân thế những người đi lính Hoàng Sa hoặc khao tế tiên linh những người đã hy sinh.[1]
Như vậy, “khao lề thế lính Hoàng Sa” là một nghi lễ được tổ chức định kỳ hàng năm nhằm
tưởng nhớ những người lính đã hy sinh khi làm nhiệm vụ và ý nguyện cầu bình an cho những
người sắp đi lính. Tộc họ tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa vào thời điểm tháng hai âm lịch,
lấy ngày tế xuân làm ngày khao lề, vì tháng hai cũng là thời điểm mà trước đây những người
đi lính Hoàng Sa phải ra đi làm nhiệm vụ theo lệnh của vua ban. Ngày nay, không còn người
đi lính Hoàng Sa như trước, vì thế lễ tục này không mang ý nghĩa thế mạng nữa, chỉ còn là lễ
tế lính Hoàng Sa, nhưng người địa phương vẫn gọi theo tên gọi cũ là khao lề thế lính, không
gọi là khao lề tế lính.
Sau nhiều thế kỷ, hiện nay nghi lễ này đã trở thành một lễ hội dân gian mang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc, thể hiện tấm lòng tri ân của người dân đất đảo đối với những người lính đã hy
sinh vì chủ quyền của Tổ quốc. Bài viết này, chúng tôi đề cập đến sự thay đổi của nghi lễ này
từ một nghi lễ riêng của một tộc họ đã phát triển thành lễ hội của cộng đồng cư dân đảo Lý
Sơn. Phải chăng các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội đã tác động đến sự thay đổi trên?
Để lý giải một số vấn đề đặt ra trong bài viết, chúng tôi sử dụng quan điểm lý thuyết của
các nhà nhân học Macxit theo hướng kinh tế chính trị cho rằng những hoạt động văn hóa của
con người mang tính lịch sử, do vậy, để hiểu được sự hình thành, phát triển và các đặc điểm
của các hoạt động đó, chúng ta phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội cụ
thể. Đó không chỉ là bối cảnh của từng địa phương mà còn phải gắn chúng trong những bước
phát triển kinh tế và chính trị quan trọng của đất nước. Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa là sản
phẩm của tiến trình xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa qua nhiều thế kỷ. Vì thế, sự chuyển đổi
ý nghĩa của lễ hội này chịu sự tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị của quốc gia.
Chúng tôi còn sử dụng lý thuyết cấu trúc chức năng ở hai khía cạnh: chức năng tâm lý
của B. Malinowski và chức năng xã hội hay chức năng cấu trúc của Radcliffe Brown. Theo
Malinowski, môi trường xã hội càng bất trắc, nguy hiểm thì con người càng cần đến bùa chú,
cúng kiếng. Khi cuộc sống con người còn khó khăn, nhiều hiện tượng thiên nhiên chưa lý giải
được, trình độ khoa học kỹ thuật hạn chế thì họ càng tin rằng cúng kiếng sẽ giúp ngăn ngừa
các thế lực đe dọa cuộc sống của mình. Với tâm thức đó những gia đình có người đi lính
Hoàng Sa đã thực hiện nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa để những người đi lính cảm thấy yên
tâm vì đã có “hình nhân thế mạng” nghĩa là có người chết thay cho con cháu mình. Nếu như
B. Malinowski nhấn mạnh đến nhu cầu của cá nhân thì Radcliffe Brown đề cao phương pháp
luận tập thể và cho rằng xã hội có những nhu cầu cần được thỏa mãn bởi hành động của các
thành viên của nó. Trong quá trình khảo sát của chúng tôi, lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa
cũng mang ý nghĩa cộng đồng xã hội như quan điểm của Radcliffe Brown.
2. KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Lý Sơn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi, có diện tích 9,965 km2
, dân số 20.195
người, nằm cách đất liền khoảng 25 hải lý về phía Đông Bắc gồm một đảo lớn (Cù Lao Ré) và
một đảo bé (Cù Lao Bờ Bãi).
Theo tài liệu lịch sử, người Việt Bắc Bộ di cư vào Quảng Ngãi theo ba đợt: Đợt thứ nhất ở
thời nhà Hồ vào hai châu Thăng Hoa và Tư Nghĩa năm 1402. Năm 1471, đợt di dân thứ hai
vào thời vua Lê Thánh Tông. Đợt di dân thứ ba khi Nguyễn Hoàng vào Nam mở mang vùng
đất phương Nam vào năm 1558. Đây là ba cuộc di dân chính do nhà nước tổ chức, ngoài ra
còn có những cuộc di dân tự do của nông dân miền Bắc ở thời Trần hay thời loạn Nam Bắc
triều. (Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, 2001, tr. 46 - 48)
Cư dân Việt đến khai khẩn làng mạc trên đảo Lý Sơn vào khoảng cuối thế kỷ XVI - đầu
thế kỷ XVII. Trong Non nước xứ Quảng của Phạm Trung Việt, tác giả cho rằng thời điểm khai
khẩn đảo Lý Sơn của người Việt là vào năm 1604. Họ là những cư dân vùng An Hải, Sa Kỳ
của huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Theo các cụ già kể lại, ở Lý Sơn có thờ 15 vị tiền hiền của 15
dòng họ khác nhau, được xem là những người đầu tiên đến khai phá vùng đất này. Ở
phía Tây đảo Lý Sơn có 7 vị tiền hiền của các dòng họ: Phạm Khắc, Phạm Văn, Võ Xuân, Võ
Văn, Lê, Nguyễn, Đặng đã đến lập nên phường An Vĩnh. Tám vị tiền hiền còn lại của các dòng
họ: Nguyễn, Dương, Trương, Trần, Võ, Nguyễn Đình, Nguyễn Văn, Lê đã đến khai khẩn một
vùng đất rộng lớn ở phía Đông đảo Lý Sơn, lập nên phường An Hải. Trải qua thời gian không
rõ vì lý do gì ở làng An Hải và An Vĩnh đều không có thờ vị tiền hiền của dòng họ Lê.[2] Để tỏ
lòng biết ơn những người có công khai khẩn, cư dân đảo Lý Sơn đã thờ các vị tiền hiền trong
đình.
Với đặc điểm là một hải đảo, nằm ở vị trí “có khoảng cách gần quần đảo Hoàng Sa nhất
so với các nơi khác” nên ở Lý Sơn đã hình thành hải đội Hoàng Sa hoạt động trên biển Đông
từ rất sớm. Nhiều tài liệu thư tịch cũ có ghi chép về một đội làm việc trên biển có tên là đội
Hoàng Sa, làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, tìm kiếm sản vật, bảo vệ lãnh thổ. Những ghi chép
đầu tiên liên quan đến đội Hoàng Sa được đề cập đến trong Toàn tập Thiên Nam Tứ chí lộ
đồ của Đỗ Bá viết năm Chính Hòa thứ 7 - 1686: “Bãi Cát vàng dài tới 400 dặm, rộng 20
dặm… Họ Nguyễn mỗi năm, vào cuối mùa Đông, đưa 18 chiếc thuyền đến lấy hàng hóa, được
phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn” (Nguyễn Nhã, 2002, tr. 24)
Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi chép về hoạt động của đội Hoàng Sa như
sau: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên
mỗi năm cứ tháng hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc
thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim cá mà ăn. Lấy
được hóa bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, sung, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, cũng là kiếm lượm
vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo đến
thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạn xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba,
hải sâm rồi mới lĩnh bằng trở về” (Nguyễn Nhã, 2002, tr. 25)
Ngoài ra, Đại Nam thực lục chính biên của triều Nguyễn, Lịch triều hiến chương loại
chí của Phan Huy Chú, Đại Nam thực lục do các sử thần trong quốc sử quán biên soạn, Việt
sử cương giám khảo lược của Nguyễn Thông, Đại Nam nhất thống chí... đều có những trang
ghi chép cụ thể về đội Hoàng Sa. Những tài liệu trong sử cũ là một trong minh chứng khẳng
định sự tồn tại của đội Hoàng Sa ở nước ta từ rất sớm.
Theo tài liệu của Nguyễn Đăng Vũ, đội Hoàng Sa được thiết lập dưới thời Chúa Nguyễn
và sau này là triều Nguyễn, họ là những người của làng An Vĩnh, An Hải trong đất liền và cả
người của làng An Vĩnh, An Hải ngoài Lý Sơn, nhưng chủ yếu là người của hai làng An Vĩnh
(Nguyễn Đăng Vũ, 2001, tr. 31). Qua các tài liệu còn lưu giữ trong nhà thờ của các tộc họ:
Phạm Văn, Phạm Quang, Võ Văn, Nguyễn… cho thấy đến đầu thế kỷ XIX trở về sau, đội
Hoàng Sa chủ yếu là người An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. Các cụ già trên đảo Lý Sơn cho biết 70
định suất đi Hoàng Sa được chia đều cho các tộc họ trên đảo, theo nguyên tắc luân phiên
nhau, người con trưởng ở nhà lo việc tế tự, con thứ phải đi lính. Vì thế, hầu như các tộc họ
thuộc làng An Vĩnh và làng An Hải đều có người đi lính Hoàng Sa.
Dù đội Hoàng Sa đã chấm dứt hoạt động từ lâu nhưng hình ảnh về những người lính
trong đội Hoàng Sa xưa vẫn tồn tại bởi dấu ấn của họ còn để lại trong nhiều di tích. Tại đảo Lý
Sơn, hiện nay còn rất nhiều di tích gắn liền với hoạt động của đội Hoàng Sa. Sự ra đời của đội
Hoàng Sa với những chuyến hải trình nguy hiểm trên biển đã dẫn đến hình thành nghi lễ khao
lề thế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn với sắc thái riêng, độc đáo, không lẫn với địa phương
khác.
3. NGHI LỄ KHAO LỀ THẾ LÍNH HOÀNG SA TỪ CÁC TỘC HỌ Ở ĐẢO LÝ SƠN
Theo ghi chép trong gia phả của các tộc họ có người đi lính Hoàng Sa thì đã có rất nhiều
người lính ra đi không trở về. Do vậy, để tạo cho người lính yên tâm làm nhiệm vụ, triều đình
đã tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa trước khi những người lính lên thuyền ra đảo.
Để tiến hành nghi lễ khao lề, các tộc họ trên đảo tổ chức họp mặt phân công công việc
cho các thành viên trong họ, ít nhất là một tuần.
“Trong tộc họ có một người làm thư ký, theo cách gọi trước đây là tư văn, chuyên lo soạn
thảo giấy tờ, văn bản của họ, làm nhiệm vụ ghi cụ thể tên tuổi, số tiền của thành viên trong họ
đóng góp và một người làm thủ quỹ, trước đây gọi là tư hóa, lo mua sắm các vật phẩm chuẩn
bị cho cúng tế. Thuyền lễ được giao cho người nào trong họ khéo tay làm. Ngoài ra, các công
việc quét dọn và nấu nướng cũng được phân công rõ ràng” (Tư liệu điền dã, 3/ 2010)
Kinh phí cho tế lễ là nguồn hoa lợi thu được từ ruộng hương hỏa và sự đóng góp của các
thành viên trong dòng họ. Ngày trước, mỗi dòng họ, chi phái đều có đất “hương hỏa” do
trưởng tộc quản lý. Trưởng tộc họ có thể canh tác, hoặc cho thuê phần đất hương hỏa để lấy
lợi tức cúng tế hàng năm. Sau giải phóng phần đất hương hỏa được xung vào hợp tác xã nên
hàng năm để tổ chức cúng tế trong nhà thờ họ, con cháu phải đóng góp trên tinh thần tự
nguyện tùy theo khả năng của mình. Một người dân cho biết “cúng nặng thì 100.000đ, cúng
nhẹ thì 50.000đ”.
Mỗi tộc họ có người đi lính đều tổ chức cúng khao lề vào ngày giỗ họ. Vào ngày này con
cháu trong họ tập trung về nhà thờ họ để dự lễ cúng. Qua điền dã, chúng tôi được biết các tộc
họ ở Lý Sơn cúng khao lề vào những ngày khác nhau trong tháng 2 âm lịch. Họ Phạm Văn
cúng vào ngày 20/2, họ Võ văn ngày 12/2, họ Lê ngày 2/2, các tộc họ khác cúng khao lề vào
ngày 19, 20 tháng 2 âm lịch. “Ngày 19, 20 tháng 2 âm lịch được xem là ngày thương xuân,
ông bà kể lại, ngày thương xuân tốt cho việc tế xuân kết hợp với cúng khao lề” (Tư liệu điền
dã, 7/ 2008)
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là việc của tộc họ nên tất cả các thành viên trong họ đều
tham gia. Ngoài ra, trong buổi tế lễ này, tộc họ còn mời các vị chức sắc trong làng, cả làng,
chủ xóm, chủ lân đến dự.
* Diễn trình diễn ra lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa được các tộc họ trên đảo Lý Sơn tổ chức vào các ngày khác
nhau trong tháng 2 âm lịch nhưng nhìn chung diễn trình của buổi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
đều diễn ra với các nghi thức: nhập yết (tế cáo tổ tiên), lễ chính (lễ khao lề thế lính Hoàng Sa)
Trong đợt diền dã vào tháng 3 năm 2010, chúng tôi đã có dịp quan sát lễ khao lề thế lính
Hoàng Sa của tộc họ Phạm Văn như sau: Mở đầu lễ khao lề, tộc họ trên đảo thực hiện lễ
nhập yết tại nhà thờ họ.
“Thực hiện lễ yết để tế cáo, xin phép tổ tiên được tổ chức buổi lễ, đồng thời mời ông
bà về dự khao lề. Sau lễ yết tộc họ sẽ chuẩn bị lễ vật mặn cúng khao lề” (Ông PVĐ, 75
tuổi, xã An Vĩnh).
17 giờ chiều, ngày 19 tháng 2 âm lịch, con cháu tập trung tại nhà thờ họ để dự lễ. Lễ vật
trong lễ nhập yết gồm trầu, rượu, cau, hoa quả, giấy cúng, nhang đèn. Vị trí đứng bái của các
thành viên trong ban tế lễ của họ được qui định cụ thể. Trưởng tộc là người chủ tế đứng ở bàn
thờ chính giữa, hai người là bồi tế, giúp chủ tế, đứng sau chủ tế, hành lễ theo chủ tế. Bàn thờ
bên Đông là trưởng, thứ chi phái 1, bàn thờ bên Tây là trưởng, thứ chi phái 2. Ngoài ra, còn
có Đông xướng, Tây xướng là người phụ trách xướng nghi thức trong lúc tế, đứng đối diện
nhau. Trong buổi tế lễ còn có 6 - 8 người đứng hai bên phụ trách việc dâng hương, dâng rượu
gọi là chấp sự.
Trong buổi tế lễ bao giờ cũng có nhạc lễ gồm trống cái, chiêng, trống bồng, cặp sinh tiền,
kèn, chiêng, chập chõa.
“Nhạc lễ cũng đóng vai trò quan trọng trong buổi tế lễ. Nó phụ họa cho vị chủ tế lúc ông
hành lễ theo qui ước thống nhất. Ví dụ, một tiếng trống thì chủ tế tiến lên một bước, hai tiếng
trống thì tiến hai bước, một hồi trống thì mãn tế” (Trích tư liệu điền dã, tháng 3/2010)
Buổi lễ nhập yết diễn ra ở nhà thờ họ. Một hồi trống vang lên báo hiệu buổi lễ bắt đầu.
Xướng văn đọc thứ tự vào vái tổ tiên, đầu tiên là trưởng tộc họ, trưởng các chi phái, sau đó
đến cả làng, chủ xóm, chủ lân rồi đến con cháu trong họ. Đầu tiên vị trưởng tộc họ sẽ tế cáo tổ
tiên ở trong nhà, đọc văn tế của họ. Sau đó, tộc trưởng bái lạy cỗ bàn ở ngoài sân, theo các
bước từ sơ hiến, á hiến, chung hiến. Lễ thức “sơ hiến, á hiến, chung hiến” là nghi thức dâng
rượu chỉ có trong cúng đình, giỗ tộc họ hoặc các lễ lớn. “Sơ hiến lễ” là nghi thức dâng rượu lần
thứ nhất, “á hiến lễ” nghi thức dâng rượu lần thứ hai, “chung hiến lễ” nghi thức dâng rượu lần
thứ ba. Trong buổi tế lễ này, trưởng tộc họ sẽ vái cúng ông bà, tổ tiên thể hiện lòng biết ơn của
con cháu đối với tổ tiên, nhằm cầu an cho dòng họ, khấn vái ông bà tổ tiên phù hộ cho con cháu
tránh mọi điều rủi ro, dịch bệnh. Sau khi trưởng tộc tế cáo tổ tiên xong theo thứ tự đã qui định từ
trước, con cháu vào bái lạy tổ tiên. Lễ nhập yết kéo dài trong khoảng 1 giờ, sau đó, tộc họ chuẩn
bị sửa sang các lễ vật cho buổi tế chính.
* Lễ chính (lễ khao lề thế lính Hoàng Sa)
Theo lệ xưa, đúng 0 giờ, ngày 20 tháng 2 âm lịch, tộc họ bắt đầu thực hiện lễ khao lề thế
lính Hoàng Sa. Các cụ già ở Lý Sơn cho biết sở dĩ chọn cúng khao lề vào thời điểm này vì 0
giờ được xem là thời khắc linh thiêng, chuyển giao giữa hai ngày, mọi lời nguyện cầu vào thời
khắc này sẽ hiệu nghiệm.
Trong lễ khao lề thế lính Hoàng Sa có sự hiện diện của thầy pháp. Thầy pháp giữ vai trò
chính toàn bộ buổi lễ, là người điều hành lễ tế. Thầy pháp đầu đội mũ tam sơn, mặc áo dài,
quàng dải khăn màu đỏ. Trưởng tộc và trưởng các chi phái đứng hầu thần.
Lễ vật trong dịp cúng khao lề thế lính Hoàng Sa ở các dòng họ trên đảo Lý Sơn tùy theo
khả năng kinh phí của mỗi dòng họ nhưng bao giờ cũng có: trầu, rượu, hoa quả, thịt cá, gạo,
muối, nếp nổ, bánh khô. Theo các cụ già ở Lý Sơn kể lại trước đây, lễ vật để tế lính Hoàng
Sa là một con gà, một con cá, gỏi cá nhám và một con cua. Lễ vật cúng bắt buộc phải có cá
nhám vì theo quan niệm của cư dân Lý Sơn, cá nhám hay, còn gọi là cá giác, là loại cá có
họ với cá mập. Cá mập được xem là cá ác, những người chết biển thường hay bị cá này ăn
thịt nên người ta dùng cá nhám để tế. Hơn nữa, thịt cá nhám không tanh, được xem là lễ vật
sạch để cúng người tử trận ở biển. Giải thích vì sao lễ vật cúng thế lính Hoàng Sa bắt buộc
phải có ba thức “gà, cá, cua”, qua tìm hiểu chúng tôi được biết, điều này xuất phát từ quan
niệm dâng tam sanh và Lý Sơn là một vùng biển đảo nên việc cúng tế như thế có thể xuất
phát từ quan điểm “vùng nào thức ấy”. Theo dân gian, “gà, cá, cua” được xem là ba con vật
thuộc tam sanh hạ, “heo, trâu, bò” là tam sanh thượng. Bên cạnh các thứ phẩm vật đã nêu,
trên đàn lễ còn có: muối, gạo, củi, mắm, nồi niêu…, là những thứ mà lính Hoàng Sa phải
mang theo trên thuyền (và cũng là những thứ mà người đi làm biển phải mang theo).
Hiện nay, lễ vật cúng khao lề thế lính Hoàng Sa đã có sự thay đổi, tùy theo kinh phí của
tộc họ mỗi năm lễ vật có thể là heo hoặc bò, gà.
“Lễ vật cúng bây giờ không còn gà, cá, cua nữa vì cá nhám bây giờ tìm không có, ngày
xưa ở đảo, cá, cua nhiều, chỉ cần ở gần bờ vẫn bắt được. Bây giờ không còn được như trước
nữa. Với lại tìm được con cá nhám để cúng khó lắm. Hơn nữa, để cho tiện lợi thì người ta làm
nguyên con heo để cúng. Các tộc họ ở đây, mổ heo, lấy phần đầu để cúng tế, các phần còn
lại thì chế biến các món khác”
(Ông PTT, 72 tuổi, An Vĩnh, Lý Sơn)
“Ngày xưa cúng có những qui định về lễ vật chặt chẽ không như bây giờ có gì cúng nấy.
Mấy ông đi Hoàng Sa chết thiêng lắm, cúng phải đúng lễ. Nhưng bây giờ kiếm không ra
những thức cúng xưa ấy thì cũng phải chịu thôi”
(Chị NT, 36 tuổi, An Vĩnh, Lý Sơn)
Điều đặc biệt trong lễ vật dùng để tế lính Hoàng Sa là lễ vật có thêm chiếc thuyền bằng
thân cây chuối, hình nộm bằng đất sét hoặc gạo nếp, những linh vị ghi tên tuổi của những
người đi lính Hoàng Sa.
Các linh vị được làm bằng giấy màu đỏ, cao chừng 20 cm, rộng 7 cm, ở trên có ghi tên
tuổi của người lính Hoàng Sa trong tộc họ đã hy sinh. Linh vị được dán bìa cứng, nẹp tre phía
sau và được cắm trên bề ngang của thân cây chuối. Trong tộc họ có bao nhiêu người tử nạn
vì đi lính Hoàng Sa thì có bấy nhiêu linh vị.
Thuyền lễ cũng có đế bằng cây chuối, là ba cây chuối dài khoảng 1,5 m - 2 m, được xâu
lại với nhau bằng các thanh tre (đóng bè). Trên đế bè, người ta gắn con thuyền làm bằng tre
và giấy ngũ sắc, có buồm, cờ, phướn như thuyền buồm dùng để đi Hoàng Sa, Trường Sa.
Hình nộm (hình nhân thế mạng): Trong lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, hình nộm được xem là
hình nhân thế mạng cho những người lính. Ngày xưa, hình nhân được thầy pháp nặn bằng
đất sét hoặc bằng bột gạo, lấy cây dâu làm xương, đất sét trộn lòng trắng trứng gà nặn hình
người, lấy lòng đỏ trứng gà làm lục phủ ngũ tạng.
“Đất sét để nặng hình nhân thế mạng phải là loại đất lấy ở ngã ba đường. Người ta mang
con gà đến thả ở ngã ba đường, gà mổ ở vị trí nào thì lấy đất sét ở đấy về nặn làm hình nhân.
Sau khi nặn xong, thầy pháp sẽ hô thần chú, đọc tên tuổi của những người đi lính để soi hồn
nhập cốt” (Ông PTT, 72 tuổi, xã AnVĩnh, Lý Sơn, Tư liệu điền dã, 2010).
Người ta thường đặt ba hoặc bốn hình nhân lên một thuyền lễ dù trong họ có ít hoặc
nhiều hơn ba người đi lính. Giải thích điều này, Nguyễn Đăng Vũ cho rằng “Trong lễ thế khao
lề thế lính người ta chỉ làm ba hoặc bốn hình nộm. Bốn hình nhân đặt ở bốn góc thuyền, với
quan niệm làm vững con thuyền. Nếu chỉ có ba hình nhân (đặt ở đầu, giữa, cuối mạn thuyền)
là theo quan niệm "tam nhân đồng hành", và cũng theo cách hiểu là tổng lái, tổng mũi, tổng
khoang (Nguyễn Đăng Vũ, 2008, tr. 119)
Ngày nay, hình nhân thế mạng không còn được làm bằng bột gạo hay đất sét, tộc họ làm
hình nộm bằng khung tre và dán giấy ngũ sắc để giả hình người. Trước đây, làm hình nhân
thế mạng bằng đất sét thì sau khi cúng xong, tộc họ mời thầy pháp đọc thần chú nhập hồn và
mang đi chôn gọi là mộ chiêu hồn. Hiện nay, hình nộm bằng khung tre, dán giấy, người dân
sau khi tế xong sẽ đem thả ra biển hoặc là đốt đi cùng với văn tế.
Trước khi, pháp sư chuẩn bị làm lễ, trưởng tộc sẽ ghi tên tuổi của những người đã chết
trong một năm của họ vào gia phả hay còn gọi là phổ ý của tộc họ. Sau khi thầy pháp cúng tế
và làm các nghi thức bùa phép trước đàn thờ, "gửi tên tuổi và linh hồn (người sống)" vào hình
nhân (theo lễ thức trước đây), cúng phát lương phát hịch đốt vàng bạc cho binh lính. Sau đó,
thầy pháp đặt các hình nhân vào thuyền. Sau đó là lễ rước ghe bầu. Đi đầu là những thanh
niên mang cờ, phướn, tiếp theo là bốn thanh niên khiêng thuyền lễ, theo sau là thầy pháp, tộc
trưởng, các chi phái trưởng và đoàn người gồm bà con trong tộc họ, có cả những người trong
làng, cùng đội chiêng trống. Tại cửa biển trên đảo, sau khi pháp sư vái tạ tứ phương, chiếc
ghe được đem thả xuống nước. Như vậy có nghĩa là linh mạng và tàu thuyền của những
người lính trong đội Hoàng Sa đã được hiến tế cho thần linh và người lính yên tâm ra đi. Lời
nguyện cầu về sự bình yên cũng như xua đuổi rủi ro đã được thả ra biển. Kết thúc lễ tế
(khoảng rạng sáng ngày 20), thầy pháp và những người lớn tuổi sẽ về lại nhà thờ họ bắt đầu
cuộc giao đãi. Thanh niên trai tráng, phụ nữ phải đến 6 -7 giờ sáng mới được ngồi vào mâm.
Ngày nay, tại nhà thờ tộc họ có người đi lính Hoàng Sa đều tổ chức lễ khao lề thế lính
Hoàng Sa. Hiện tại gia đình của các tộc họ vẫn còn giữ bài Văn Khao Thế Lính Hoàng Sa gồm
một nửa chữ Hán, một nửa chữ Nôm .
Sau khi tế lễ xong, tộc họ sẽ mời các thành viên trong làng, pháp sư dự tiệc đãi. Lễ vật
sau khi cúng sẽ được chia cho các thành viên trong họ. “Để tỏ lòng biết ơn, tộc họ sẽ tặng
cái nọng của con heo cho người làm, sau đó mời dự lễ”. Thầy pháp sẽ nhận thù lao của
tộc họ “thường là 200.000đ hoặc 300.000đ. Nhưng nếu pháp sư là người trong họ thì tộc
họ vẫn trả tiền nhưng thông thường pháp sư không nhận vì đây cũng là công việc chung
đóng góp cho họ” (Ông PTT, 72 tuổi, Lý Vĩnh, Lý Sơn).
Như vậy, có thể nói, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là một nghi lễ chứa đựng giá trị nhân
văn sâu sắc, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng biết ơn đối với những người lính đã
xả thân vì đất nước. Hiện nay, nghi lễ này vẫn được các tộc họ ở Lý Sơn gìn giữ bởi “Ân đức
dựng xây miền đảo Lý/Nghĩa tình bồi đắp dải Hoàng Sa”.
4. LỄ HỘI KHAO LỀ THẾ LÍNH HOÀNG SA CỦA CỘNG ĐỒNG CƯ DÂN ĐẢO LÝ SƠN
Nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa đã tồn tại trên đảo Lý Sơn từ hàng trăm năm, hiện nay
nghi lễ này vẫn được các tộc họ trên đảo tổ chức. Bên cạnh đó, từ năm 2000 nghi lễ đã trở
thành lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa thu hút sự quan tâm không chỉ của những người dân ở
đảo mà còn các du khách ở những địa phương khác. Lễ hội này không chỉ có ý nghĩa đối với
tộc họ mà còn mang tính cộng đồng của cả cư dân.
Hiện nay, ở Lý Sơn vừa diễn ra nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa do mỗi tộc họ tự tổ chức
ở nhà thờ tộc họ, vừa có lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa có sự tham gia của chính quyền địa
phương và tất cả người dân trên đảo. Vì thế, có thể nói lễ hội này mang tính cộng đồng.
Bên cạnh mỗi tộc họ vẫn tổ chức nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ở nhà thờ riêng của
tộc họ, từ năm 2000, cũng vào tháng 2 âm lịch tại Lý Sơn tổ chức lễ hội khao lề thế lính Hoàng
Sa do các tộc họ cùng với chính quyền địa phương tổ chức tại Âm linh tự và đình làng An
Vĩnh.
Kinh phí để tổ chức lễ hội này do Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch cùng với Ủy ban nhân dân huyện đảo Lý Sơn tài trợ. Các công việc chuẩn bị buổi lễ được
giao cho Ban Khánh tiết của làng, Ban quản lý di tích Âm linh tự phụ trách.
Hiện nay, lễ được tỉnh và huyện tổ chức với qui mô lớn hơn, thu hút sự tham gia của
không chỉ nhân dân Lý Sơn mà còn nhiều nhà nghiên cứu, khách từ các địa phương khác
đến dự. Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa được tổ chức ở Âm linh tự (từ năm 2000-2009)
hay đình làng An Vĩnh (năm 2010) không khác gì so với nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
vẫn diễn ra ở các tộc họ.
Lễ hội diễn ra gồm: phần lễ và phần hội. Phần nghi lễ, nếu tổ chức ở Âm linh tự thì có
thêm phần lễ cầu siêu cầu an cho những vong hồn chết biển, cô hồn không nơi nương tựa và
cho những người lính Hoàng Sa đã chết. Sau đó, tái hiện lại nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
như các tộc họ vẫn làm ở nhà thờ họ. Theo chúng tôi, quan sát trong lễ hội khao lề thế lính
Hoàng Sa năm 2008, phần nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa vẫn được diễn ra như ở nhà thờ
họ của các tộc họ, chỉ có thêm phần lễ chào cờ theo nghi thức của nhà nước. Lễ vật vẫn là
thuyền lễ, hình nhân, linh vị, gạo, muối, củi, các vật dụng của lính Hoàng Sa thuở xưa vốn là
những thứ bắt buộc xưa đến nay. Ngoài ra, còn có trầu, rượu, hoa quả, heo để tế lính. Thầy
pháp vẫn là người điều hành buổi tế lễ, trưởng các tộc họ, chi phái đứng hầu trong suốt buổi
lễ. Nói chung, Lễ Khao lề tại Âm linh tự hay ở đình làng An Vĩnh là chuyện nâng tầm một lễ
thức vốn có trong vài ba thế kỷ của cộng đồng cư dân đất đảo.
Năm 2010, bên cạnh tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ở đình làng An Vĩnh thì huyện
đảo Lý Sơn còn khánh thành khu lưu niệm di tích đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa.
Như vậy, lễ hội Khao lề thế lính Hoàng Sa không chỉ nhằm tri ân đến những người đi lính
Hoàng Sa và góp phần khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc trên biển Đông mà còn
khơi dậy lòng yêu nước và giáo dục thế hệ trẻ về ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Đồng
thời, thông qua lễ hội này để giới thiệu di tích lịch sử - văn hóa, quảng bá về tiềm năng du lịch
của huyện đảo Lý Sơn nói riêng và Quảng Ngãi nói chung đến du khách trong nước và quốc
tế.
5. NGHI LỄ KHAO LỀ THẾ LÍNH HOÀNG SA: TỪ NGHI LỄ DÒNG HỌ ĐẾN LỄ HỘI CỘNG
ĐỒNG
Từ nghi lễ của dòng họ đến lễ hội cộng đồng, qua quan sát lễ hội khao lề thế lính Hoàng
Sa, chúng tôi nhận thấy có sự thay đổi trong cách thức của nghi lễ. Điều này xuất phát từ quá
trình biến đổi của văn hóa, tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, tín ngưỡng tâm linh trong
lễ hội.
* Biến đổi văn hóa, sáng tạo truyền thống
Biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội và đây là đối
tượng nghiên cứu trọng tâm của Nhân học. Hiện nay, các nhà nhân học đặt biến đổi văn hóa
trong sự ảnh hưởng mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của những quá trình giao lưu vượt phạm vi
quốc gia. Thế giới được nhìn nhận trong sự gia tăng hội nhập kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hóa. Các nhà nhân học nhìn nhận toàn cầu hóa như là những dòng chảy văn hóa mà trong đó
các yếu tố kinh tế, chính trị, thể chế định hình hoặc bị định hình bởi những dòng chảy này
(Nguyễn Thị Phương Châm, 2010, tr. 485)
Lễ hội là một phần quan trọng của văn hóa của tộc người. Trong quá trình phát triển, văn
hóa của tộc người luôn biến đổi để phù hợp với cuộc sống mới. Lễ hội khao lề thế lính Hoàng
Sa cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Qua phần trình bày về nghi lễ khao lề thế lính Hoàng
Sa cũng như lễ hội này, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt đáng kể như đã trình bày ở trên.
Sự biến đổi này thể hiện tính thích nghi của văn hóa trong thời kỳ hiện đại.
Trong một lần đi điền dã ở Lý Sơn chúng tôi nghe được câu chuyện thú vị “Một tộc họ ở
Lý Sơn cũng có người đi lính Hoàng Sa nhưng trước đây tộc họ này không tổ chức nghi lễ
khao lề thế lính Hoàng Sa. Đến năm 2010, ông trưởng tộc họ này cho biết bắt đầutừ năm sau,
sẽ tổ chức lễ khao lề ở tộc họ trên cơ sở xem cách thức tổ chức lễ hội khao lề hiện nay. Ở tộc
họ khác, trước đây có tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa nhưng sau đó, vì nhiều lý do, tộc
họ này đã không làm nghi lễ khao lề. Hiện nay, do ảnh hưởng của lễ hội khao lề thế lính
Hoàng Sa nên tộc họ này đang muốn làm lại lễ khao lề như trước đây". Như vậy, phải chăng
đó là sự sáng tạo truyền thống hay phục hồi văn hóa truyền thống?
Khái niệm “phục hồi văn hóa truyền thống” ở đây được chúng tôi sử dụng với ý nghĩa là
sự trở lại và thực hành các yếu tố văn hóa mà trước kia (phần lớn là trước năm 1945) người
dân đã thực hành. Theo Hobsbawn, truyền thống được tái tạo ra không có sự xung đột với
các nền văn minh như Hungtinton đề cập, mà khi truyền thống được tái tạo thì có sự thay đổi
của văn hóa để thích nghi với xã hội. Khi các nhà chính sách dùng truyền thống xưa để tạo ra
cái mới với mục đích tạo ra thị trường, nhu cầu mới để thúc đẩy kinh tế. Như vậy, vấn đề
được Hobsbawn đặt ra là tại sao con người cần sự tái tạo truyền thống? Tại sao một cái cũ có
thể làm cho nó mới? Tại sao con người cần cái ảo giác mới đó từ cái cũ đã làm mới? Làm thế
nào để phát minh ra truyền thống mới nào đó? Chức năng của truyền thống là gì? Để trả lời
cho những câu hỏi trên, Hobsbawn nhận định rằng: để tạo ra truyền thống nào đó và đặt nó
làm văn hóa thì nó phải trải qua quá trình lặp đi lặp lại. Sự lặp đi lặp lại của một hiện tượng,
nghi thức, nghi lễ sẽ tạo truyền thống. Hobsbawn cũng cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc
con người sáng tạo truyền thống có điểm xuất phát từ mô hình hiện đại ở phương Tây thế
kỷ XIX. Khi xã hội phát triển tạo ra một khoảng trống trong con người, họ cảm thấy chơi vơi, vì
thế, họ cần có một hệ tư tưởng nào đó để điền vào khoảng trống đó. Sự sáng tạo truyền thống
để lấp khoảng trống đấy và tạo sự gắn kết người dân trong nước với nhau, để họ đi theo hệ
thống giá trị mới nào đó, tạo cách nhìn, cách suy nghĩ, tư duy mới theo nhóm có quyền lực.
Theo quan điểm của Hobsbawn, chúng tôi đề cập đến khái niệm "tạo dựng", tất cả những
gì chúng ta cảm thấy như là truyền thống trên thực tế là sự tạo dựng. Chính sự tạo dựng này
là cần thiết cho một nhóm người hoặc là cho một giai cấp nào đó trong xã hội. Bản thân truyền
thống có tính chọn lọc. Truyền thống là sự lựa chọn và sự lựa chọn này cho một người cụ thể
chứ không phải là ngẫu nhiên mà nó phải được làm ra để thành truyền thống. Tại sao nghi lễ
khao lề thế lính Hoàng Sa chứ không phải là một loại hình văn hóa dân gian nào khác ở Lý
Sơn được nâng lên thành lễ hội với tầm vóc và quy mô lớn như hiện nay? Rõ ràng đó là một
sự chọn lựa có mục đích của nhóm người nào đó.
Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa được xem là một sự sáng tạo truyền thống có mục đích
phục vụ cho lợi ích của cộng đồng và quốc gia.
Như vậy, song hành với quá trình phục hồi và tái cấu trúc văn hóa truyền thống là quá
trình du nhập, hình thành và phát triển những yếu tố văn hóa mới. Khi ảnh hưởng của văn hóa
hiện đại, các yếu tố chính trị bên ngoài, khi văn hóa truyền thống dù đã được phục hồi và tái
cấu trúc lại vẫn không đủ đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng thì như một sự tất yếu
nhiều yếu tố văn hóa mới nảy sinh. Đó chính là lý do hình thành lễ hội khao lề thế lính Hoàng
Sa. Từ nghi lễ đến lễ hội là sự trình diễn văn hóa. Sự trình diễn này khác với nghi lễ ở điểm
trình diễn đưa cả yếu tố quyền lực của nhà nước vào trong nghi lễ.
* Yếu tố chính trị
Xét về nguồn gốc, lễ hội được hình thành từ yếu tố cộng đồng và đa phần mang yếu tố tín
ngưỡng phồn thực, tạ ơn, cầu mưa, cầu cho mùa màng bội thu… Ở hầu hết các tộc người
sinh sống tại Việt Nam cũng như trên thế giới đều luôn tổ chức các lễ hội mang những mục
đích này. Nếu xét về bối cảnh tổ chức lễ hội mang các mục đích nêu trên thì hầu hết đều gắn
liền với bối cảnh kinh tế và phục vụ cho hoạt động kinh tế của cộng đồng. Lễ hội mang yếu tố
phồn thực hay tạ ơn đều hướng đến sự bội thu của năm thu hoạch và mong ước một năm bội
thu tiếp theo. Lễ hội cầu mưa, giải trừ hạn hán cũng hướng đến mục đích hoạt động kinh tế
này. Ngoài ra, mục đích chính trị trong lễ hội cũng được đề cao, đặc biệt trong giai đoạn hiện
đại hóa và toàn cầu hóa như hiện nay. Việc khôi phục và phát triển các lễ hội truyền thống ở
nước ta từ những năm 90 của thế kỉ XX trở lại đây, nếu xét kỹ, đều ít nhiều mang yếu tố chính
trị - dân tộc, nhằm khẳng định chủ quyền lãnh thổ, tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, tưởng
nhớ những anh hùng liệt sĩ đã quên mình hy sinh cho độc lập tự do dân tộc.
Về chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng biển Đông, đặc biệt ở quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa đã có nhiều trang sử sách ghi chép, tiêu biểu như các bộ chính sử của Triều
Nguyễn như đã dẫn ở trên. Đó là chưa kể đến những trang ghi chép của các nhà truyền giáo,
các nhà buôn ở phương Tây viết về các binh thuyền của Đội Hoàng Sa - Trường Sa đang
họat đông trên vùng biển Đông từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX.
Trong thời điểm nhạy cảm của lịch sử hiện nay, việc nâng tầm nghi lễ của dòng họ thành
lễ hội của cộng đồng là một việc làm mang ý nghĩa về chính trị. Nhà nước, mà cụ thể là Ủy
ban Nhân dân tỉnh và Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi, đóng vai trò định hướng
cho việc tổ chức lễ hội. Bởi lẽ, bên cạnh những giá trị nhân văn như bảo tồn văn hóa, giá trị cố
kết cộng đồng, giá trị giáo dục truyền thống, giá trị nhân văn, thì giá trị lịch sử, góp phần khẳng
định chủ quyền của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên vùng biển Đông của
Tổ quốc được đề cao. Có lẽ đây chính là một trong những lý do để nghi lễ này phát triển thành
lễ hội trong những năm qua.
* Yếu tố kinh tế
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng nâng cao vì thế khôi phục các
giá trị văn hóa truyền thống được quan tâm. Nhiều lễ hội cũng như các loại hình văn hóa
truyền thống đã được khôi phục, mở rộng phạm vi. Lễ hội tạo cơ hội cho kinh tế địa phương
phát triển. Chị chủ nhà khách, nơi tôi nghỉ lại ở Lý Sơn, rất phấn khởi về việc tổ chức lễ hội
như những năm gần đây. Chị nói:“Nếu không có nghi lễ này thì ở Lý Sơn không khi nào đông
người đến như thế. Đây là cơ hội cho việc buôn bán của người dân trên đảo”. Thật vậy, sau
khi dự lễ những vị khách khi rời Lý Sơn đều mang theo vào đất liền đặc sản gồm hành, tỏi, hải
sản vốn là thế mạnh của địa phương. Lễ hội này còn trở thành một cơ hội để giới thiệu các di
tích khác trên Lý Sơn. Có lẽ đây cũng chính là mục đích của chính quyền địa phương, khi tỉnh
Quảng Ngãi vừa khai trương tuyến du lịch đảo Lý Sơn.
* Yếu tố tín ngưỡng, tâm linh trong lễ hội
Như trên đã trình bày, lễ hội được diễn ra trong cộng đồng đều mang nhiều chức năng,
trong đó chức năng tín ngưỡng, tâm linh được xem là một trong những chức năng quan trọng.
Chức năng này biểu hiện rõ nét nhất trong phần lễ. Sự kính cẩn trong nghi lễ, nghiêm túc
trong các khâu chọn và sắp xếp lễ vật, chỉnh chu trong khấn vái là những hình thức hướng nội
tâm, ước nguyện của cộng đồng, của mỗi người vào thế giới tâm linh nhằm hướng đến sự
cầu xin, tưởng niệm nào đó.
Thế giới tâm linh là thế giới không thể giải thích, miêu tả như thế giới trần tục. Con người
chỉ có thể tin và tưởng tượng ra nó theo từng quan niệm của mỗi cộng đồng xã hội, mỗi tôn
giáo. Nên thế giới tâm linh có thể khác nhau giữa các tộc người, các tôn giáo, nhưng lại giống
nhau ở chỗ hư ảo, không rõ ràng. Con người lại tin vào sự tồn tại, sự ứng nghiệm, sự giúp đỡ
của thế giới tâm linh này nên luôn hướng đến thế giới tâm linh để cầu xin và tìm kiếm sự phù
hộ từ sự hư ảo đó mỗi khi gặp khó khăn không thể giải quyết được trong cuộc sống. Quan sát
các nghi lễ diễn ra trong cộng đồng, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy yếu tố tâm linh này trong
phần lễ và gần như nó là một nghi thức không thể thiếu trong lễ hội.
Trong lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, ngoài những người trong tộc họ tham gia còn có sự
hiện diện của thầy pháp, là người giao tiếp với thần linh, người truyền đạt tấm lòng thành của
những thành viên trong tộc họ. Ông thầy pháp trong lễ tế lính Hoàng Sa đã "thổi linh hồn" vào
hình nhân, tống tiễn hình nhân ra khơi để hình nhân gánh chịu những rủi ro bất trắc thay cho
người lính. Nghi thức này giúp người lính tin rằng đã có “hình nhân thế mạng” chết thay cho
mình, vì thế họ yên tâm đi làm nhiệm vụ. Đối với gia đình của những người lính, họ tin rằng lời
cầu bình an cho người thân sẽ được hiển linh.
6. KẾT LUẬN
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa là một lễ thức dân gian vốn hiện diện trên đất đảo Lý Sơn từ
lâu đời và đến nay vẫn còn tồn tại. Đây là lễ thức chứa đựng yếu tố vật chất và tinh thần quí
giá cần được chú ý. Từ đồ dâng cúng như gà, cá nhám, cua; trang phục cúng lễ, nghi thức
cúng tế như “hình nhân thế mạng”, đến bài sớ dâng cúng đã biểu hiện một sắc thái văn hóa
riêng của cư dân biển đảo của người Việt ven biển và hải đảo miền Trung Việt Nam.
Bên cạnh những yếu tố lịch sử, văn hóa thì yếu tố tín ngưỡng, tâm linh là đặc trưng nổi
bật nhất trong nghi lễ Khao lề thế lính của cư dân ở đây. Đây chính là dịp dân làng cúng tế để
nhớ ơn các bậc tiền nhân và hướng về cuội nguồn. Nó còn là dịp để các bậc cao niên trên đất
đảo kể lại cho con cháu chuyện về các đội Hoàng Sa, chuyện về những chuyến hải trình đầy
gian khổ nhưng cũng rất đáng tự hào, chuyện về gương sáng vì nước vong thân của các vị
đội trưởng Hoàng Sa Võ Văn Khiết, Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật.
Vì vậy lễ Khao lề thế lính Hòang Sa cần bảo lưu và phát triển trong tình hình hiện nay và
mai sau. Nó chính là một trong nhữnghình thức góp phần khẳng định chủ quyền đảo Hòang
Sa, Trường Sa trong hệ thống biển đảo của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hobsbawm, 1983, Introduction: Inventing Traditions, Cambridge University Press
2. Lê Hồng Khánh, 2008, Một lễ hội thấm đẫm tình cảm yêu nước, Tạp chí Xưa và Nay , số
306,
3. Nguyễn Đăng Vũ, 2008, Quảng Ngãi một số vấn đề lịch sử, văn hóa, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Đăng Vũ, Từ việc xác lập nguồn gốc đội Hoàng Sa nghĩ về việc tôn tạo các di
tích liên quan trên đất Quảng Ngãi, Tạp chíVăn hóa nghệ thuật, số 11, 2001, tr.31 – 33.
5. Nguyễn Nhã, Luận án tiến sĩ "Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa",. Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM, 2002.
6. Nguyễn Thị Phương Châm, 2010, Khi làng vươn ra phố: Những xu hướng biến đổi văn
hóa (Nghiên cứu trường hợp làng Đồng Kỵ, Đồng Quang, Từ Sơn, Bắc Ninh, trong sách
“Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam những cách tiếp cận Nhân học,(quyển
2)”, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, tr. 485.
7. Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, 2002, Quảng Ngãi đất nước - con người - văn
hóa, NXB Quảng Ngãi.
8. Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, 2006, Văn hóa cư dân đảo Lý Sơn, NXB Quảng
Ngãi.
9. Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, 2008, Huyện đảo Lý Sơn và Lễ Khao lề thế lính
Hoàng Sa, Công ty in Bình Định.
[1] Tư liệu điền dã tháng 3/2010
[2] Theo tài liệu mà chúng tôi thu thập được khi đi điền dã ở Lý Sơn, các cụ già ở Lý Sơn giải
thích lý do họ Lê bị mất ngôi vị tiền hiền ở cả hai làng vì đã vi phạm qui ước trong cúng tế ở
đình, có tội với thần linh. Đây có thể chưa phải là một thông tin chính xác, cần tìm hiểu thêm.
Hiện nay ở đình làng An Vĩnh chỉ thờ lục tộc tiền hiền và làng An Hải thờ thất tộc tiền hiền.
Nguồn: Website khoa Nhân học (http://www.anthdep.edu.vn)
http://nhanhoc.hcmussh.edu.vn/Resour...20Ho%20Den.pdf
-
Phong tục tập quán
Cập nhật lúc 17:31 27/09/2016 (GMT+7)
Nghiên cứu so sánh với Bắc và Trung bộ:
Giá trị tinh thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ
(PGVN)
Là nước nông nghiệp, Việt Nam trong quá trình phát triển đã thể hiện dấu ấn ấy trong đời sống tinh thần, đặc biệt là qua các hình thức tín ngưỡng nữ thần phong phú, đa dạng. Nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu trường hợp đã thực hiện việc phân loại tín ngưỡng[1] theo giới tính và lứa tuổi.
Một nhận định xác đáng, sâu sắc đã cho rằng: “Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp; và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần.
Tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực, cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các bà Mẹ, các Mẫu”[2].
Tuy vậy, tùy từng địa vực cư trú, từng vùng miền khác nhau đã đưa đến sự khác biệt khá rõ nét trong tư duy, thể hiện qua các hình thức thờ nữ thần ở 3 miền có nét đặc thù. Sự khác biệt ấy thể hiện qua các hình thức thờ tự những nữ thần nào? Từ việc thờ nữ thần đến thờ Mẫu ở Nam bộ có gì khác biệt so với ở miền Bắc và Trung bộ ?
Trong phạm vi một bài tham luận, bài viết chỉ giới hạn trong việc nêu lên các hình thức từ thờ nữ thần đến thờ Mẫu ở Nam bộ trong sự so sánh với ở Bắc và Trung bộ, từ đó góp phần nhận diện những giá trị tinh thần trong tín ngưỡng dân gian Nam bộ, nêu lên đặc trưng tín ngưỡng mang yếu tố văn hóa vùng Nam bộ; đồng thời cũng góp phần nhận diện quy luật thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
1. Từ việc thờ nữ thần đến thờ Mẫu ở Nam bộ
Nam bộ là vùng đất mới, trong quá trình khai hoang mở đất của cư dân cũng là quá trình cư dân mang theo hành trang tinh thần của mình từ nhiều vùng, miền khác nhau khi đến tụ cư tại Nam bộ. Tín ngưỡng ở Nam bộ vì vậy càng phong phú, đa dạng. Mặt khác, tín ngưỡng ở Nam bộ còn là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng cư dân sống cộng cư và cận cư.
Vì vậy, có thể thấy các thành tố có trong tín ngưỡng từng tộc người cư trú ở Nam bộ như Kinh, Hoa, Chăm, Khmer đều có một ảnh hưởng nhất định trong việc định hình thể loại, diện mạo của các tín ngưỡng thờ nữ thần cũng như thờ Mẫu ở Nam bộ.
Khó có thể thống kê hết số cơ sở thờ tự thuộc tín ngưỡng dân gian ở Nam bộ. Ngoài những đình, miếu, đền, điện được phân bố đều khắp có đặt thờ nữ thần, thần nữ còn được đặt thờ phối tự bên trong nhiều ngôi chùa Phật giáo. Không gian tín ngưỡng nữ thần vì vậy khá rộng rãi và mang tính phức hợp.
1.1. Thờ nữ thần
Có thể nêu một số nữ thần được thờ tự phổ biến ở Nam bộ, theo lịch đại cũng như đồng đại. Các nữ thần mang tính cổ xưa, nay ít được nhắc đến, hoặc chỉ còn một số nơi thờ tự như bà Cố Hỷ, bà La Sát, Hà Bá. Các nữ thần mang tính siêu nhiên, thể hiện các yếu tố có trong thiên nhiên như năm bà Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), được đặt thờ chung trong cùng một trang thờ, hoặc riêng từng vị như miếu thờ bà Thủy Long, bà Hỏa. Ngoài năm bà Ngũ Hành được thờ tự phổ biến ở cả miền Bắc, Trung, tại Nam bộ còn có hình thức tín ngưỡng thờ Bảy Bà.
Đây là dạng tín ngưỡng đặc biệt ở Nam bộ, cho thấy tư duy tổng hợp. Huỳnh Tịnh Paulus Của đã cho rằng: “đó là dạng kết hợp bà Chúa Tiên, bà Chúa Ngọc, bà Chúa Xứ, bà Chúa Động, bà Cố Hỉ, bà Thủy, bà Hỏa”[3]. Thực ra, Chúa Tiên và Chúa Ngọc chỉ là một, “tên bà Chúa Ngọc có lẽ là từ tên núi Ngọc Trản (chén ngọc) ở Huế (…) bà cũng mang một tên dân gian khác là bà Chúa Tiên, có lẽ là sự ảnh hưởng danh thần Thánh Mẫu Liễu Hạnh từ ngoài Bắc, vốn gốc là một thiên tiên trên thiên đình”[4]
Thờ nữ thần còn được đặt chung trong tổng thể cặp đôi như ông Bổn - bà Bổn trong tín ngưỡng của người Hoa như ở Phúc Đức cổ miếu (thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu); thờ Thái Âm – Thái Dương ở chùa Thuận Thiên (thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương).
Bên cạnh các nhiên thần, thì nhân thần vốn là những con người thật, như Hai Bà Trưng, được thờ trong đền, hiện còn ở Tp.HCM; huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An; chùa Bửu Lâm (Tiền Giang). Cửu Thiên Huyền Nữ, vừa là vị thần nữ ở cõi Trời (Thiên Phủ) được thờ ở chùa Thiên Phước (Vĩnh Long); chùa Bửu Lâm (Tiền Giang), bà còn là vị nữ thần độ mạng cho phái nữ trong từng gia đình. Mỗi gia đình nông thôn thường đặt trang thờ bà đối xứng với trang thờ ông quan Thánh Đế Quân, vốn được xem là vị độ mạng cho phái nam.
Tại các miếu của người Hoa như miếu Thiên Hậu – hội quán Quảng Triệu (quận 1, Tp.HCM) cũng có trang thờ bà. Trong miếu Hoa, ta cũng thấy phổ biến đặt thờ Mẹ Thai Sinh, còn gọi Kim Huê nương nương, là vị nữ thần hỗ trợ cho việc sinh nở, chăm sóc cho trẻ con.
Niềm tin vào việc được ban phúc cho “mẹ tròn, con vuông” cũng đưa đến tín ngưỡng Mười Hai Mụ Bà, khá phổ biến ở Tp.HCM như tại chùa Phước Hải (quận 1, Tp.HCM); hay chùa Minh Hương (Tp.Vĩnh Long). Long Mẫu nương nương, thường được đặt phối tự với tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu và Kim Huê nương nương, như trường hợp ở Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành hội quán (quận 5, Tp.HCM).
1.2. Thờ Mẫu
Thờ Mẫu có quan hệ mật thiết với thờ nữ thần. Ngô Đức Thịnh đã từng nhấn mạnh: “Mẫu đều là nữ thần nhưng không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu thần, mà chỉ một số nữ thần được tôn vinh là Mẫu thần (..) đạo Mẫu gắn liền với tục thờ Mẫu dân gian, nhưng như thế không có nghĩa mọi Mẫu thần đều thuộc điện thần của đạo Mẫu”[5].
“Mẫu có gốc từ Hán Việt, tiếng Việt là Mẹ. Nghĩa ban đầu, Mẫu hay Mẹ đều để chỉ một người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng hô của con đối với người sinh ra mình. Ngoài ý nghĩa xưng hô thông thường, từ Mẫu và Mẹ còn bao hàm ý nghĩa tôn xưng, tôn vinh, chẳng hạn như Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu nghi thiên hạ (..) là các vị thần linh gắn liền với các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ được người đời gán cho chức năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của con người. Đó là trời, đất, sông nước, rừng núi”[6].
Hai ngọn núi cao ở Nam bộ là nơi đặt thờ Linh Sơn Thánh Mẫu (núi Bà Đen) và Chúa Xứ Thánh Mẫu (núi Sam). Chúa Xứ Thánh Mẫu được đặt thờ không chỉ trên sườn núi Sam (phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc), mà còn trong những ngôi miếu riêng biệt tại nhiều vùng miền ở Nam bộ; trong sân chùa; trong điện thờ của Đạo Minh Sư như Nam Nhã Phật Đường (Tp.Cần Thơ)[7]. Ở Quang Nam Phật Đường (Tp.HCM), cũng thuộc đạo Minh Sư, trong chính điện còn đặt thờ Diêu Trì Kim Mẫu và Địa Mẫu tại vị trí trung tâm.
Người dân còn đặt tên cho các cơ sở thờ Bà ở nhiều nơi khác là Miếu Bà Chúa Xứ 2, Miếu Bà Chúa Xứ 3, như trường hợp ở Thủ Thiêm, ở Bình Dương để chỉ “mạng lưới” thờ tự Bà xuống khắp các địa phương, nhưng đồng thời cũng cho thấy tính thống nhất về một mối của ngôi miếu thờ mang tính trung tâm của các miếu khác, là ở núi Sam Châu Đốc. Người dân đến cúng bái đều cho là bà Chúa Xứ 2, 3 là em của chị cả Chúa Xứ ở Châu Đốc!
Cách thờ tự tại miếu bà Chúa Xứ núi Sam đã thể hiện nhiều lớp văn hóa được hình thành trong quá trình giao lưu từ nhiều vùng miền khác nhau trong cả nước và đọng lại qua hình thức thờ tự tại đây. Ngô Đức Thịnh đã dày công nghiên cứu và có nhận xét rằng:
“Nhìn vào các lớp văn hóa tạo nên biểu tượng tâm linh bà Chúa Xứ, chúng ta đều thấy thấp thoáng hình bóng bà Mẹ Xứ Sở - Pô Inư Nưgar của người Chăm, Thánh Mẫu Thiên Yana của người Việt, nữ thần Neang Khmau (Bà Đen), tục thờ Neak Tà của người Khơme và xa xưa hơn, nhưng cũng hiển hiện hơn là tất cả các biểu tượng trên đều được quy tụ trong linh tượng Shivalinga và Sakti của Shiva là nữ thần Uma của Bà la môn giáo, mà truyền thuyết bức tượng bà Chúa Xứ An Giang đã mách bảo chúng ta những điều như vậy, cho dù bề ngoài bức tượng đó cũng đã được cải trang dưới hình dáng Thánh mẫu của người Việt”[8]
Trong cộng đồng người Hoa cũng thờ phổ biến Thiên Hậu Thánh Mẫu. Mỗi triều đại ở Trung Quốc, Bà đều được vua phong tặng[9]: đời Tống (Tống Cao Trung) phong tước vị đầu tiên là Phu Nhân Linh Huệ kèm theo vinh hiệu là Thiên Ân vào năm 1156. Đời Nguyên, Bà được phong tặng Thiên Phi; đời Thanh Khang Hy 1682 Bà được gia phong Thiên Hậu Thánh mẫu.
Tổng cộng qua các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Bà được phong tặng 28 lần mỹ hiệu, tước hiệu[10]. Ngoài tước hiệu và danh vị chính thức, người Hoa còn tôn xưng Bà bằng nhiều tên gọi khác nhau. Người Phúc Kiến và Hải Nam thích gọi bà là Đại Mẫu. Người Quảng Đông gọi là Đức Bà. Ngôi miếu thờ Bà, người Quảng Đông gọi Phò Miếu.
Ở miền Bắc, tín ngưỡng thờ Mẫu với hình thức từ Tam Phủ (Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Thiên, Địa Mẫu) đến Tứ Phủ (Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Thiên, Địa Mẫu, Mẫu Thượng Ngàn) cho thấy hình thức tín ngưỡng nữ thần đã được phát triển, nâng cao địa vị các nữ thần, đặc biệt là những thần nữ có liên quan đến 4 yếu tố: Trời, Đất, Nước, Rừng, là 4 yếu tố chiếm vị trí quan trọng trong đời sống con người, trong sản xuất cũng như đời sống tâm linh, đã trở thành đạo Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu theo di dân đi dần vào Trung bộ. Ở đây, tín ngưỡng thờ Mẹ Xứ Sở của người Chăm là Bà Pô Inư Nưgar, còn được người Chăm gọi là Pô Nư Cành, đã được kết hợp với tín ngưỡng dân gian của người Việt, hình thành một dạng thức thờ tự mới, với cơ sở nổi tiếng là Điện Hòn Chén, nơi đặt thờ Bà Thiên Yana Ngọc Diễn Phi.
Ngô Đức Thịnh đã nhận xét rằng: “vị nữ thần Chăm này là sự kết hợp giữa nữ thần Chăm bản địa và nữ thần Uma, vợ của Shiva. Bà là vị thần cao nhất của Vương quốc Chămpa, được tôn xưng là Mẹ Xứ Sở [11]. Nếu như ý thức tôn vinh Thiên Phủ đã có trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc thì khi vào miền Trung và Nam bộ đã được chuyển hóa. Thời vua Khải Định, tín ngưỡng này được tôn thành Thiên Tiên Thánh mẫu (Bà Mẹ Trời, Tiên, Thánh).
“Ở Huế, tín ngưỡng thờ Mẫu nơi đây đã phân lập khái niệm thiên phủ ra hai cõi: thượng thiên và trung thiên. Khái niệm Địa phủ lại được chuyển hóa thành khái niệm Thượng ngàn. Trung thiên được hiểu là cõi trời trung gian giữa cõi trời thượng thiên và thế gian”.[12]
Ngoài cơ sở thờ tự dành cho Linh Sơn Thánh Mẫu tại núi Bà Đen, còn khá nhiều ngôi chùa, trong sân cũng đặt miếu thờ Bà như chùa Giác Lâm (quận Tân Bình, Tp.HCM); hay trong chùa cũng giành một trang thờ Bà riêng biệt trong chính điện (chùa Phụng Sơn, quận 11, Tp.HCM). Bà Chúa Xứ cũng được thờ tự trong ngôi miếu ở nhiều sân chùa.
Tại chính điện chùa Tây An (tỉnh An Giang), hai bên Chúa Xứ Thánh mẫu còn có Bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc chầu hầu. Hình tượng Địa Mẫu với tư thế đứng trên trái đất, mình khoác áo choàng màu đen, lại được đặt trước cửa vào điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu tại núi Bà Đen. Gần cửa vào điện thờ này ta cũng thấy có ngôi miếu nhỏ thờ Neak Tà, một dạng Thổ thần của người Khmer.
Có thể thấy trong ngôi chùa Bửu Sơn (thị xã Sóc Trăng) của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, ngoài các thần linh thể hiện đậm nét mối giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Việt, Hoa qua việc thờ Thiên Phụ, Địa Mẫu trên bàn lộ thiên đặt giữa sân như hầu hết các miếu của người Hoa, còn có bàn thờ riêng dành cho Phật Mẫu Diêu Trì.
Trên điện thờ của nhóm theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, một đạo giáo do thầy Tây An khai sáng ở Nam bộ, tại Ngọc Liên Hoa tịnh thất ở Tp.Hồ Chí Minh (quận 7, Tp.HCM), cũng đặt tượng Diêu Trì Kim Mẫu trên chính điện, phối tự với Ngọc Hoàng Thượng Đế và Mẫu Mẹ[13].
Trong đạo Cao Đài, vốn là tôn giáo bản địa, xuất hiện ở Nam bộ vào năm 1926, đã thể hiện ý thức thờ tự cặp đôi, đối sánh Âm - Dương, Trời - Đất qua việc đặt thờ vị trí tối cao dành cho Ngọc Hoàng Thượng Đế (Cha Trời) và Diêu Trì Kim Mẫu (Mẹ Đất).
Đạo Cao Đài quan niệm Phật Mẫu được nhân loại tôn xưng bằng nhiều danh hiệu khác nhau, tùy theo tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc và địa phương, bao gồm các danh xưng: Phật Mẫu; Diêu Trì Kim Mẫu; Kim Bàn Phật Mẫu; Cửu Thiên Huyền Nữ; Đại Từ Mẫu; Tây Vương Mẫu; Địa Mẫu; Mẹ Sanh.
Mỗi một thánh thất của đạo Cao Đài thuộc hệ phái Tây Ninh đều có thêm một điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu và được gọi tên là Điện thờ Phật Mẫu, được xây dựng cách thánh thất khoảng 10 đến 20 mét. Diêu Trì Kim Mẫu cũng được đặt thờ trong miếu, chùa của người Hoa như ở chùa Thiên Ý (quận 6, Tp.HCM).
Tại Huế, “từ người con gái trưởng thành cho đến người phụ nữ 60 tuổi, trước khi ra lão đều thờ Tây Cung Vương Mẫu, hay còn gọi là Đoài Cung Thánh Mẫu, một vị nữ thần hộ mệnh của mình. Nơi thờ là trang Bà, đặt ở vị trí cao của gian tả trong nhà, trông về hướng Tây”[14]
2. Giá trị tinh thần truyền thống trong thờ Mẫu ở Nam bộ
Như vậy, có thể thấy ở Nam bộ, hình tượng thờ Mẫu khá khác biệt so với miền Bắc và miền Trung.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ có kế thừa, tiếp thu và sáng tạo, đã chuyển hóa từ Linga - Yoni sang Ban Cô - Ban Cậu, được thờ phối tự với Chúa Xứ Thánh Mẫu (Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam)
Tín ngưỡng thờ Mẫu Nam bộ thể hiện mối quan hệ, giao lưu văn hóa giữa Việt - Khmer (Miếu ông Tà trong sân miếu bà Chúa Xứ núi Sam, hay trên núi Bà Đen), hay giữa Việt - Hoa (chùa Hải Phước An tự ở Sóc Trăng của người Việt có thờ Thiên Hậu Thánh mẫu) tạo ra một quần thể tín ngưỡng hay một điện thờ đa văn hóa. Ta thấy “có hiện tượng tích hợp nhiều lớp văn hóa - tín ngưỡng khác nhau: lớp văn hóa Phù Nam, lớp văn hóa cổ truyền Khmer, lớp văn hóa Chăm và lớp văn hóa Việt[15].
Một nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng: “Khi những tôn giáo đã không còn đủ sức thu hút và niềm tin cứu đời, thì Thánh mẫu xuất hiện”[16]. Từ đó có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà hai vị Thánh mẫu quan trọng nhất ở Nam bộ được đặt ở vị trí chiến lược, trên hai ngọn núi cao nhất Nam bộ, là vùng tiếp giáp biên giới.
Chính tâm thức của người dân có nhu cầu, khát vọng về một cuộc sống bình an, hạnh phúc đã đưa đến việc đặt để vị trí thờ tự trên. Khát vọng chính đáng ấy nói lên tư duy sáng tạo, xuất phát từ bối cảnh địa - chính trị, địa - lịch sử và địa - văn hóa của Nam bộ.
Tín ngưỡng Mẹ Xứ Sở đã được tôn vinh thành Thánh Mẫu ở miền Trung với Thiên Yana Ngọc Diễn Phi, một lần nữa lại tích hợp vừa là Địa Mẫu (Địa Phủ), vừa là Mẫu Thượng Thiên (Thiên Phủ) của đất Bắc. Chức năng tổng hợp dành cho các Thánh Mẫu ở Nam bộ nói lên nhu cầu cần thiết được bảo vệ, được che chở tại một vùng đất phải đối đầu với quá nhiều cuộc chiến tranh xâm lược trực tiếp, cần thiết phải bảo vệ biên cương lãnh thổ.
Huyền năng của các bà, các nữ thần đã được tôn vinh thành Thánh Mẫu ở Nam bộ đã nói lên tinh thần yêu nước, khát vọng thanh bình, hạnh phúc hơn nơi nào hết của cư dân vùng đất mới! Đồng thời với những huyền thoại, truyền thuyết do người dân nêu lên đã phản ánh một bức tranh đa dân tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa của Nam bộ.
Nghi thức cúng tế trong các miếu, điện thờ Mẫu cũng giống với nghi cúng đình vào dịp lễ Kỳ Yên ở Nam bộ. Tuy nhiên ở Đình không diễn ra múa bóng rỗi, mà chỉ có ở miếu.
Không gian thờ Mẫu ở Nam bộ khá rộng lớn, không chỉ là một cơ sở thờ tự riêng biệt mang tính cộng đồng là miếu, mà còn phối tự trong miếu, chùa, vườn chùa, hoặc ngay tại chính điện. Tuy vậy, thờ Mẫu ở Nam bộ ít thấy mang tính chất gia đình như hiện tượng thờ Tây Cung Vương Mẫu ở Huế, trừ trường hợp một số gia đình người Hoa tỉnh Sóc Trăng có thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu tại gia đình. Tính cộng đồng vẫn chiếm vị trí chủ đạo, vẫn là niềm tin và sự kỳ vọng chung của cư dân Nam bộ đối với các Thánh Mẫu.
Nơi thờ tự các Mẫu ở Nam bộ có tên gọi khác với ở Bắc và Trung bộ. Nếu ở miền Bắc, thờ Mẫu được đặt trong những phủ, đền, hay những quán của đạo Lão, hay một phần trong các chùa chiền, thì ở Nam bộ, Mẫu thường thấy phổ biến ở các đình làng, trong miếu, vốn là những nơi thờ tự phổ biến tín ngưỡng của cộng đồng cư dân tại đây.
Khảo sát danh xưng các Mẫu ở Nam bộ cho thấy những nữ thần được tôn vinh Mẫu đều được gọi qua danh xưng Thánh mẫu. Điều này khá khác biệt so với tên gọi Mẫu ở phía Bắc (Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thượng Thiên, Địa Mẫu).
Nếu như Mẫu chính là những nữ thần đã được tôn vinh, được đưa lên vị trí tột đỉnh, có liên hệ đến 4 yếu tố Trời, Đất, Nước, Rừng, thì khi vào miền Trung và Nam bộ, các yếu tố ấy vẫn được lưu giữ, nhưng cũng đưa đến hiện tượng đặt nặng yếu tố này hơn yếu tố khác, hoặc sáng tạo thêm một số yếu tố mới, như cõi Trung thiên ở miền Trung, hay kết hợp nữ thần với Thánh mẫu để hình thành một thần điện mới (thờ Bảy Bà).
Điều này được quy định từ tính chất địa - văn hóa của vùng miền. Khung cảnh thiên nhiên khác biệt, xa dần vùng rừng núi, tiếp cận với đồng bằng Nam bộ, nên Mẫu Thượng Ngàn đã trở nên mờ nhạt. Thiên Phủ đã được chuyển hóa, từ nhiên thần đến nhân thần (Thiên Phủ --> Liễu Hạnh) rồi lại từ nhân thần đến nhiên thần (Liễu Hạnh --> Cửu Thiên Huyền Nữ).
Địa Phủ, Thủy phủ được tôn thờ, được giữ lại qua các lớp văn hóa mới bao phủ, được gọi theo một danh xưng mới, nhưng về chất thì vẫn không thay đổi. Vì vậy, ta vẫn thấy về Địa Phủ còn lại tên gọi Địa Mẫu, nhưng đã hình thành những “Mẫu mới”, được thánh hóa thành Chúa Xứ Thánh Mẫu, thành Linh Sơn Thánh Mẫu, cai quản một vùng đất rộng lớn, là hình tượng của Mẹ Xứ Sở, một Pô Inư Nưgar ở góc trời Nam.
Những truyền thuyết khác nhau về hai vị Thánh mẫu này chính là những cốt lõi, định hình cho cuộc thánh hóa này, để đưa những vị Mẫu này, tuy ở vị trí tối cao nhưng có thể gần gũi hơn với con người, bởi vì họ cũng là người, được nhân dân gắn vào truyền thuyết nên có họ, có tên (Lý Thị Thiên Hương, Nàng Đênh,...)
Từ đó có thể thấy, thờ Mẫu ở Nam bộ đã bộc lộ được một giá trị tinh thần phong phú của cư dân vùng đất mới. Ý thức lưu giữ, nhớ lại cội nguồn qua việc thờ Tam Phủ, Tứ Phủ vẫn đang còn tiếp tục hoạt động tại Tp.HCM qua đền Sòng Sơn Thánh Mẫu (quận 3), đền Mẫu Tuyên, đền Mẫu Thiên Hoàng, đền thờ Hai Bà Trưng và Thánh Mẫu Phủ Giầy; dù rằng về kiến trúc, bày trí tượng thờ đã có một ít khác biệt.
Tiếp tục tôn thờ triết lý âm dương, ngũ hành nhưng có sáng tạo, tích hợp những yếu tố mới do quá trình giao lưu văn hóa ở miền Trung (chúa Tiên, chúa Ngọc) để hình thành tín ngưỡng Bảy Bà ở Nam bộ. Đó là kết quả của tư duy tổng hợp giữa các nữ thần (bà Chúa Động, bà Cố Hỉ, bà Thủy, bà Hỏa và Thánh mẫu (Chúa Tiên, Chúa Ngọc, bà Chúa Xứ).
Cũng dễ dàng nhận thấy yếu tố sông nước được đặt lên vị trí tối cao của Mẫu Thoải, vì Nam bộ là vùng sông nước. Nhưng vào miền Nam, do quá trình cộng cư với người Hoa, nên tín ngưỡng Thiên Hậu Thánh Mẫu, vốn có nguồn gốc từ vị nữ thần của biển cả, bảo vệ người đi lại trên sông nước, đã được người Hoa tín ngưỡng phổ biến rộng rãi, đã chiếm đa số, có mặt hầu hết các vùng miền.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, khá nhiều ngôi miếu thờ Bà đã được xây dựng cách nay hơn một trăm năm. Người Hoa ở Cà Mau, Bạc Liêu còn gọi Bà là Bà Mã Châu, phiên âm của tên gọi Mazou, có từ Trung Quốc[17]. Tại Thiên Hậu Thánh miếu (xã Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc, An Giang) có cặp đối treo trước cửa vào miếu, ca ngợi Bà, với 4 chữ đầu của hai cặp này, đọc theo hàng dọc thành Thiên Hậu Thánh Mẫu:
Thiên đức cao minh bảo hộ thôn hương hỷ lạc
Hậu cung phổ chiếu phù trì xã ngọc vĩnh khang
Thánh tích uy linh lê dân lạc nghiệp
Mẫu nghi chiếu diệu bổn hội an hòa.
Miếu thờ Bà tại quận 3, Tp.HCM còn xác nhận sự tôn vinh này qua bảng ghi trước cổng 5 chữ Hán “Thiên Hậu Thánh mẫu miếu”.
Trong nhiều gia đình người Hoa ở Nam Bộ, đặc biệt là ở huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng, Bà còn được thờ tự ở gian trước, với bài vị màu đỏ, trang trọng ghi 4 chữ Hán nhũ vàng: “Thiên Hậu Thánh mẫu”.
Quá trình người Hoa sống cộng cư với người Việt và người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, cũng đã đưa đến hiện tượng giao lưu văn hóa thú vị: trong ngôi chùa của người Việt cũng đặt tượng thờ Bà (Hải Phước An Tự, ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng).
Cũng lưu ý rằng, tên gọi Thánh mẫu là danh xưng gia phong cho bà Lâm Mặc, thời nhà Thanh (Khang Hy) 1682, còn các đời trước, chưa phong tặng Thánh mẫu[18]. Phải chăng do ảnh hưởng gia phong danh xưng Thiên Hậu Thánh Mẫu dưới thời Thanh mà từ thế kỷ 17 về sau, ở Nam bộ, các Mẫu được gọi phổ biến là Thánh mẫu?
Ảnh hưởng giao lưu văn hóa qua danh xưng từ đời nhà Thanh có điều kiện du nhập và lưu giữ ở Trung và Nam bộ rõ nét hơn Bắc bộ, nhất là từ sau sự kiện phân chia đàng Trong và đàng Ngoài, di dân và tín ngưỡng - tôn giáo từ Trung Quốc đã có điều kiện đi thẳng vào Trung và Nam bộ.
Trong đạo Cao Đài, một tôn giáo mang yếu tố dân tộc khá rõ nét, đã nêu chủ trương nổi bật trong giáo lý mang tính tổng hợp của đạo là “Quy nguyên tam giáo, ngũ chi phục nhất”. Phương châm hành đạo ấy cho thấy một nhân sinh quan, một nếp sống đạo vừa mang tính tổng hợp, vừa thể hiện quá trình tâm linh trong việc tu chứng.
Theo đạo Cao Đài, quá trình tiến tu ấy phải tiến lên 5 bậc, đi từ Nhân đạo đến Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Khi hình tượng, thiêng hóa các Mẫu, đưa lên vị trí tôn vinh các Mẫu ở Nam bộ, ta thấy có danh xưng Thánh mẫu (Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu), còn vị trí tối thượng, cao nhất trong 5 bậc, được nâng lên hàng Phật, tương xứng với Phật Mẫu dành cho Diêu Trì Kim Mẫu, vì trong đạo Cao Đài chủ trương “tam giáo quy nguyên” trong đó có Phật giáo.
Như vậy, ngoài danh xưng Thánh mẫu phổ biến cho các mẫu, thì cũng thấy có Phật Mẫu. Do đó, từ tín ngưỡng nữ thần, qua quá trình dung hợp văn hóa, từ địa bàn chuyển cư miền Bắc vào Nam, Nam bộ là vùng đất cuối cùng của tổ quốc, đã tích hợp, dung chứa trong nó bức tranh khá toàn cảnh về quá trình phát triển tâm thức về Mẫu, đã thể hiện 5 bậc thang tiến hóa, hướng thượng, giành cho một số nữ thần ở Nam bộ, có liên quan đến các yếu tố Trời, Đất, Nước được tôn vinh, được đưa lên vị trí cao hơn nữ thần, để trở thành Thánh Mẫu, Phật Mẫu.
Từ yếu tố này đã bộc lộ trong tín ngưỡng thờ Mẫu một tư duy hướng thượng và hướng thiện. Tâm thức phiếm thần của cư dân Việt dung chứa trong nó tư duy hướng thiện sâu sắc. Không phải ngẫu nhiên mà Lý Thị Thiên Hương (hay nàng Đênh) lại được ngưỡng vọng và tôn kính đến nhường ấy.
Huyền thoại về cái chết của cô gái trung trinh Lý Thị Thiên Hương, mượn cái chết để bảo toàn phẩm giá, là bài học lớn về việc giáo dục nhân cách cho người phụ nữ. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Bà Thiên Hậu lại được du nhập vào điện thờ Phật giáo, được đặt thờ phổ biến trong chùa Việt, trong miếu của người Hoa.
Lòng hiếu thuận và tinh thần vô úy, xả thân vì mọi người như Bà đáng được làm tấm gương soi cho nhiều thế hệ phụ nữ đời sau, và lại cũng gần gũi với tinh thần vô úy (không sợ hãi); với cái “dũng”, một trong ba yếu tố cơ bản của người theo đạo Phật phải có là Bi, Trí, Dũng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu nếu như đã góp phần mang lại nhiều ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, thì một mặt khác, cũng chính xuất phát từ những điều kiện và các yếu tố ấy lại làm cho dạng thức tín ngưỡng này nhuốm màu sắc mê tín, nặng tính thần quyền, đưa đến một số suy nghĩ có thể sai lệch.
Các bàn thờ Mẫu, thờ Cô (cô Hồng, cô Hạnh), thờ Chúa (Chúa Hòn) bên trong chính điện đã “góp phần” đưa vào đây nhiều nghi lễ liên quan đến việc cầu cúng, xin xâm, bói quẻ, xin keo. Hình ảnh, tên gọi Phật mẫu, vô hình chung đã đưa lại trong tư duy một số phật tử về một đạo Phật ngưỡng vọng Thượng đế, tin rằng Thượng đế ngự trị, ban phúc giáng họa, có quyền năng chi phối cuộc sống con người[19].
Những pho tượng thờ Thần, Thánh, đã làm mờ nhạt đi quan niệm và vai trò tự lực của con người. Tha lực của Phật, Bồ tát chỉ góp phần hỗ trợ, vì Phật Thích Ca đã chẳng từng khuyên nhủ các đệ tử của mình: “ Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”.
Các hình thức cúng tế như múa bóng, lên đồng, đâu phải lúc nào tự nó cũng đủ sức thuyết phục về một sự tích hợp các giá trị văn hóa - nghệ thuật. Từ các công trình nghiên cứu về hát văn, múa bóng, về đạo Mẫu Việt Nam[20] quả đã mang lại một giá trị khoa học, một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần làm rõ, đi đến việc thừa nhận những giá trị văn hóa - nghệ thuật mà trong suốt tiến trình đi về phương Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc Việt Nam đã được tích hợp.
Như vậy, có thể thấy, thờ Mẫu ở Nam bộ không mang tính khuôn mẫu như ở Bắc bộ, không trở thành một đạo Mẫu, vì trong quá trình du nhập và phát triển ở Nam bộ, do giao lưu văn hóa với nhiều vùng miền khác nhau, thờ Mẫu ở Nam bộ đã mang tính thoáng, mở, đã tích hợp nhiều loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu khác nhau.
Từ nữ thần, một số Bà đã được nâng lên vị trí mới, phổ biến với tên gọi Thánh mẫu, có liên quan đến Đất, Nước, Trời. Trong thờ Mẫu ở Nam bộ vẫn còn đọng lại những hình thức thờ tự của đạo Mẫu Bắc bộ. Thờ Mẫu ở Nam bộ vừa mang tính chung nhất vừa thể hiện nét đặc thù. Vì vậy, có thể nói rằng, thờ Mẫu ở Nam bộ đã góp phần minh chứng cho quy luật thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Tiến sĩ Trần Hồng Liên - Viện Phát triển Bền vững vùng Nam bộ
Báo cáo tại Hội thảo khoa học: “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập” do Đề tài KX. 03.14/06-10 (Chương trình KX.03/06-10) và khoa Văn hóa học (Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM) tổ chức ngày 17/09/2009 tại Biên Hòa, Đồng Nai.
Tài liệu tham khảo:
---
1. Đặng Việt Bích 2005. Thờ mẫu - Tín ngưỡng truyền thống bản địa Việt Nam. T/c Dân tộc học số 1/2005.
2. Keith Stevens 1997. Chinese Gods. Collins & Brown.
3. Liêu Địch Sinh 1996. Hương Cảng Thiên Hậu sùng bái. Tam Liên thư điếm. Hương Cảng. Bản chữ Hán.
4. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) 2005. Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb Tôn giáo.
5. Ngô Đức Thịnh 2009 đạo Mẫu Việt Nam. Tập I. Nxb Tôn giáo. Hà Nội
6. Tạ Chí Đại Trường 2006. Thần, người và đất Việt. Hà Nội: Nxb Văn hoá Thông tin.
7. Trần Đại Vinh. Tín ngưỡng dân gian Huế 1995: Nxb Thuận hoá
http://m.phatgiao.org.vn/phong-tuc-t...-Nam-Bo-24241/
https://khaudeng.files.wordpress.com...copy.jpg?w=816
https://khaudeng.files.wordpress.com...1082.jpg?w=616
https://khaudeng.files.wordpress.com...0958.jpg?w=616
https://khaudeng.files.wordpress.com...la-2.png?w=616
-
https://www.migolatravel.com/12-vi-t...-thoai-hy-lap/
12 vị thần trong thần thoại Hy Lạp - Migola Travel
https://www.migolatravel.com › Hy Lạp
Translate this page
May 29, 2017 - Ông sinh sống ở đảo và trở thành một thợ rèn bậc thầy, sau này được trở lại hàng ngũ các vị thần trên Olympus. Những mất mát của Hephaestus đã được bù đắp bằng việc ông lấy Aphrodite – nữ thần của tình yêu và sắc đẹp làm vợ. Thế nhưng, đáng tiếc là vợ ông lại phản bội ông, ngoại tình với người ...
-
-
-
-
-
goddess Lakshmi, and her Sanskrit name Vasundhara indicates she is the source of the eight "bountiful Vasus."
Full text of "Deva - Chư Thiên Hộ Pháp Bộ" - Internet Archive
https://archive.org/stream/deva.../C...ap-Bo_djvu.txt
Translate this page
Chan Ngon la : "An, a nga na due, sa ba ha" OM _ AGNAYE SVAHA 31 _Trong Kim Circng Gioi Man Da La (Vajra-dhatu-mandala) . ...... 74_ Santa 75_ Suklamalambara 76_ Bhaskari 77_ Bilvanilaya 78_ Vararoha 79_ Yasasvini 80_ Vasundhara 8 1_ Udaranga 82_ Harini 83_ Hemamalini 84_ Dhanadhanyaki 85_ Siddhi ...
-
Full text of "Maha-Pratisarah Sutras and Sadhanas - Đại Tùy Cầu Bồ ...
https://archive.org/stream/.../Dai-T...Phap-Kinh_djvu....
Translate this page
OM TRISULA SVAHA (Tam Co Xoa) OM CINTAMANI SVAHA(Bao:vienngocNhu Y) OM MAHA-VIDYA-DHARANI SVAHA (Phan Khiep :Ruong Kinh Phan). ...... PURAYA SARVA DUSTAN PURAYA ASAM MAMA_ SARVA SATTVANANCA KURU KURU SRI VASUNDHARE JAYA KAMALE JULI JULI VARA DlKUSE OM ...
-
Vasundara (Chai Yuan Fo Mu / Jai Xi Mu): Merupakan perwujudan lain dari Tara Kuning, beliau merupakan Bunda Bumi, yang mampu untuk menganugerahkan semua kekayaan dari Bumi, di Indonesia, beliau sering disebut sebagai Dewi Sri, beliau merupakan pasangan dari Jambhala Kuning yang mampu menganugerahkan kemakmuran dan kecukupan pangan.
Mantra: "Om Vasundhara Svaha" (Om Fasu Tali Soha)
http://yasatangkas.blogspot.com/2016...-kekayaan.html
===========
Macam - Macam Mantra Menambah Rezeki dan Kemakmuran
9 مايو، 2014، الساعة 10:32 م
Jambhala Kuning (Huang Jai Shen): merupakan perwujudan Buddha Ratnasambhava untuk mengentaskan kemiskinan (dalam beberapa Versi disebutkan sebagai Perwujudan Raja Vaisravana), beliau mampu menganugerahkan kekayaan, kesehatan dan merealisasikan kebijaksanaan. Beliau sangat sesuai untuk orang dengan tingkat ekonomi menengah. Mantra: Om Jambhala Jalendraye Svaha (Om Cempala Caleng Canaye Soha)
Jambhala Merah(Hong Jai Shen): ada dua; dalam keyakinan Cen Fo Cong, Gelug dan Tantra Timur, beliau adalah Ganesha; sedangkan dalam keyakinan Tantra Kargyud di Tibet, beliau adalah Jambhala Marpo, merupakan perwujudan dari Vajrasattva, kali ini kita membahas Jambhala Merah sebagai Jambhala Marpo; beliau mampu untuk menambah kekayaan dan meningkatkan keharmonisan serta loyalitas orang lain (baik customer maupun karyawan) kepada kita. sangat sesuai untuk orang dengan tingkat ekonomi atas. Manta: Om Jambhala Jale Daya Dana Me Dhe Hrih (Om Cempala Cale Caye Tana Me Te She)
JambhalaPutih (Pai Jai Shen): merupakan Perwujudan welas asih dari Avalokitesvara untuk mengentaskan kemiskinan, beliau mampu menghilangkan dan mempurifikasi karma buruk, halangan dan penyakit kita, serta menambah dan memberkati diri kita dengan kelimpahan dan kebijaksanaan. Mantra: Om Padma Kroda Arya Jambhala Hri Day A Hum Phet (Om Pema Cota Aliya Cempala Se Ta Ye Hum Pe)
Jambhala Hitam (He Jai Shen / Black Kubera): merupakan perwujudan dari Buddha Aksobhya (dalam beberapa Versi merupakan perwujudan Mahakala untuk memberikan kekayaan), merupakan Jambhala yang sangat kuat dan cepat, sangat sesuai untuk orang dengan tingkat ekonomi kurang dan para pertapa, mampu untuk memberikan perlindungan serta menambah kekayaan dan menjauhkan kita dari segala hal yang buruk (black magic, halangan, hantu, dsb) Mantra: Om Indrayani Mukhang Bhra Mari Soha (Om Yan Ca Ni Mukam Ja Ma Li Soha)
Jambhala Hijau (Li Jai Shen): Merupakan perwujudan dari Buddha Aksobhya, masuk dalam Anutarayoga Tantra, merupakan Jambhala yang sangat tinggi, pelafalan mantra dari Jambhala Hijau sangat bermanfaat bagi semua makhluk, untuk mengikis kemiskinan dan menambah kesejahteraan. Mantra: Om A Hung Ho Hang Ciah Jambhala Biru (Lan Jai Shen): Merupakan perwujudan Buddha Aksobhya, merupakan Anutara Yoga Tantra, merupakan Jambhala yang sangat tinggi, sadhana ini diajarkan dalam sekte Tantra Tibet. Mantra: Om Jambhala Jalendraye Basudharini Svaha
Ganesha (Vinayaka): Merupakan perwujudan dari Avalokitesvara, merupakan Jambhala yang mampu menganugerahkan kekayaan, kecerdasan serta mampu untuk menghilangkan halangan, beliau juga mampu untuk menganugerahkan cinta dan keharmonisan. Mantra: Om Ganapatiye Svaha (Om Kana Patiye Soha)
Mahakala Putih (Pai He Tien): Merupakan perwujudan dari Sahasrabhuja Avalokitesvara (Kuan Im Tangan 1000), untuk menganugerahkan kekayaan, memiliki kekuatan dan wibawa yang sangat agung. Ganesha merupakan deity yang memiliki Devosi untuk membantu Mahakala Putih menyebarkan kekayaan. Mantra: Om Guru Mahakala Hari Ni Sa Siddhi Dza
Tara Kuning: Merupakan perwujudan dari 21 Tara untuk mengentaskan kemiskinan dan memberkati kehidupan kita dengan kekayaan dan kemakmuran. Mantra: Om Jamba-mohe Svaha
Tara Untuk Mengentaskan Kemiskinan (Pao Yuen Tu Mu): merupakan perwujudan dari 21 Tara untuk mengentaskan kemiskinan dan menambah rejeki, merupakan wujud lain dari Tara Kuning. sebaiknay menjapakan mantra Tara Hijau terlebih dahulu sebelum menjapakan mantra ini. Mantra: Om Tare Tuttare Ture Dzambeh Moheh Dana Meti Shri So Ha
Vasundara (Chai Yuan Fo Mu / Jai Xi Mu): Merupakan perwujudan lain dari Tara Kuning, beliau merupakan Bunda Bumi, yang mampu untuk menganugerahkan semua kekayaan dari Bumi, di Indonesia, beliau sering disebut sebagai Dewi Sri, beliau merupakan pasangan dari Jambhala Kuning yang mampu menganugerahkan kemakmuran dan kecukupan pangan. Mantra: Om Vasundhara Svaha (Om Fasu Tali Soha)
Sri Maha Devi (Jixiangtiannü): merupakan perwujudan dari Tara Kuning yang lain, merupakan seorang Devi yang Tinggal di surga sebelah Utara di Wilayah Surga Dewa Vaisravana. beliau gemar untuk membagikan kekayaan dan mampu untuk membantu kita untuk mencapai Samadhi Suvarnaprabhasa (Sinar Emas), dengan cara itu kita mampu untuk menghancurkan Kilesa, Karma dan Vipaka, serta mencapai tiga kebajikan (Prajna, Vimoksa dan Dharmakaya) Dharani: Namo Buddha, Namo Dharma, Namo Sangha, Namo Srimaha-deviya Tadyata Paripurna, Calisamanta, Dharsani, Maha-vihara-gate, Samanta-vinigate, Maha-karya, Pani, Parapani, Sarivartha, Samanta-suprite, Purena, Alina, Sharmate, Maha-vikubite, Maha-maitrete, Rupa-sanghite, Hetisei, Sanghiheti, Samanta, Atha-anu, Dharani.
Raja Jambhala (Vaisravana, Jae Po Thien Wang, Tuo Wen Thien Wang, Kubera): Merupakan salah satu dari Catur Deva Raja, merupakan Raja yang menguasai surga bagian Utara, mampu menganugerahkan kekayaan dan keberhasilan. dalam legenda Tao, merupakan ayah dari Na Cha. Mantra: Om Vaisravanaye Svaha
Kurukulla: Merupakan perwujudan dari Tara Merah, mampu untuk menganugerahkan keharmonisan dalam bisnis, beliau dianggap sebagai Jambhala, karena Beliau mampu menaklukkan Raja Naga yang merupakan seorang Dewa kekayaan. Mantra: Om Kurukulle Hrih Svaha (Om Kurukulle Sri Soha)
Raja Naga: Merupakan Dewa yang paling kaya di laut, merupakan seorang dewa kekayaan yang mampu melimpahkan hujan, keberuntungan dan kekayaan Mantra: Namo Samanta-buddhanam Vajra Me
Pertivi: Merupakan Penguasa Bumi, merupakan emanasi cinta kasih dari Ksitigarbha Bodhisattva, mampu menganugerahkan segala berkah dari Bumi Mantra: Tan Che Ta, Che Li Che Li, Chu Lu Chu Lu, Ci Lu Ci Lu, Chi Cu Chi Cu, Tu Cu Tu Cu, Puo He Puo He, Fa She Fa She, So Ha.
Amurva Bumi: Merupakan Dewa lokal yang mamapu untuk memberkahi kita dengan keberuntungan usaha Mantra: Namo Samanta-buddhanam Om Duru Duru Devi Svaha (Namo Samanta Buddhanam Om Tulu Tulu Tiwei Soha)
https://ar-ar.facebook.com/notes/jin...1511050633164/