-
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 – 2014 87
TRẦN THỊ AN ()
THỜ NỮ THẦN Ở ĐẢO PHÚ QUỐC
TỪ TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ THỦY ĐẾN TÍN NGƯỠNG
THỜ THÁNH MẪU
Tóm tắt: Đảo Phú Quốc, thuộc huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang, là nơi có cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, địa hình đa dạng.
Để bám trụ lại hòn đảo này, dù không hành nghề chài lưới, người
dân nơi đây cũng phải thường xuyên đối diện với biển, thích ứng
với biển, nương tựa vào biển để sống. Sự thích ứng và nương tựa
đó dẫn đến lòng biết ơn và tình yêu với biển, và nó đã được chưng
cất thành những biểu tượng của đời sống tâm linh con người đảo
Phú Quốc. Một trong những biểu hiện của sự thích ứng và nương
tựa vào biển là tín ngưỡng thờ nữ thần, mà người dân đảo Phú
Quốc quen gọi là Bà, và di tích thờ Bà được gọi là Dinh Bà. Bài
viết này bước đầu khảo cứu về hệ thống Dinh Bà và tín ngưỡng thờ
Bà ở đảo Phú Quốc.
Từ khóa: tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thủy thần, tín ngưỡng
thờ Bà - Cậu, Dinh Bà, Dinh Cậu, đảo Phú Quốc, Kiên Giang.
1. Khái quát về hệ thống Dinh Bà ở đảo Phú Quốc
Đảo Phú Quốc có bốn Dinh Bà là Dinh Bà Dương Đông, Dinh Bà Ông
Lang (còn gọi là Dinh Bà Lớn Tướng), Dinh Bà Hàm Ninh, Dinh Bà Cửa
Cạn. Các di tích này nằm ở 3/5 khu dân cư/làng chài trên đảo Phú Quốc.
Dinh Bà Dương Đông (đường Võ Thị Sáu, khu 1, thị trấn Dương
Đông) trông ra biển, dưới chân núi Dinh Cậu. Bên cạnh Thủy Long
Thánh Mẫu, di tích này còn thờ Tiền hiền (bên phải) và Hậu hiền (bên
trái). Ban thờ Thủy Long Thánh Mẫu được thiết kế gần giống với điện
thờ Tứ phủ gồm phía trên thờ Mẫu, phía dưới là một khám nhỏ. Nhìn vào
cách bài trí của Dinh Bà Dương Đông, có thể thấy, đây là sự hội nhập
giữa thờ Mẫu với tín ngưỡng thờ các vị khai canh (Tiền hiền, Hậu hiền),
vốn là một bước đệm cho việc xây dựng biểu tượng của tín ngưỡng
. PGS.TS., Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
88 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
88
Thành hoàng từ Trung Bộ vào Nam Bộ. Bên trái gian thờ là một tủ quần
áo của Bà do người dân cúng, giống như tủ quần áo ở đền thờ Bà Chúa
Xứ (huyện Châu Đốc, tỉnh An Giang).
Một số tài liệu cho biết, Dinh Bà Dương Đông (cùng với Dinh Bà Cửa
Cạn) thờ bà Kim Giao, tương truyền là một công chúa Vương quốc
Khmer có công khai phá đảo Phú Quốc. Trong khi đó, Trương Thanh
Hùng lại cho rằng, Dinh Bà Dương Đông thờ Thủy Long Thánh Mẫu,
được gọi là Dinh Bà Ngoài để phân biệt với Dinh Bà Trong thờ bà Kim
Giao(1)
. Điều này được xác nhận thêm bởi chị Tư (Ngọc Lệ), người trông
coi Dinh Bà Dương Đông. Trao đổi với chúng tôi, chị Tư cho biết, Dinh
Bà Dương Đông thờ Thủy Long Thánh Mẫu. Trong di tích này hiện có
bức cuốn thư trang trí rất đẹp đề “Thủy Long Thánh Mẫu Cung” (phụ đề
ghi “kỷ niệm tái thiết năm Canh Tuất ngày 18/10/1970”) khẳng định đây
là nơi thờ Thánh Mẫu, chí ít từ năm 1970. Hai bên cửa ra vào của gian
thờ Thánh Mẫu là đôi câu đối: “Siêu tứ thủy dĩ vi vương công năng phối
địa/ Mại quần long nhi lập cực đức khả tham thiên” (Vượt qua bốn bể
làm vương, công sánh cùng với Đất/ Cao hơn cả đoàn rồng để lập ngôi
cao, đức lớn ngang Trời). Đôi câu đối này đã dùng hai chữ Thủy và Long
ở hai vế để chỉ danh xưng Thủy Long của Thánh Mẫu và dùng những lời
ca ngợi công đức sánh ngang trời đất của Ngài.
Dinh Bà Ông Lang (ấp Ông Lang, xã Cửa Dương) nằm sát bờ biển
phía bắc đảo Phú Quốc. Tọa lạc trong một khuôn viên rộng, nhưng Dinh
Bà cũng chỉ có một gian thờ nhỏ. Theo đại tự ghi ngay cửa vào, cơ sở thờ
tự này được dựng năm 1946, tu sửa lại năm 2007 với kiến trúc rất mới.
Thần điện chỉ có một ban thờ bà Lê Kim Định (còn gọi là Bà Tướng
Lớn). Ngai thờ được bài trí bằng một bức tượng Bà mặc quần áo màu sắc
rực rỡ, đeo vòng xuyến rất đẹp, bên trái là chân dung Nguyễn Trung
Trực. Dọc hai bên ban thờ là hai dòng chữ đắp nổi: “Anh hùng dân tộc”
và “Trung trinh liệt nữ”. Lối vào bên trái gian thờ có một tủ quần áo Bà
Lớn Tướng được người dân cúng như ở Dinh Bà Dương Đông. Ngoài
sân, trông ra biển có hai pho tượng Quan Âm Nam Hải.
Bà Lê Kim Định, đối tượng chính được thờ ở Dinh Bà Ông Lang,
tương truyền là vợ của người anh hùng Nguyễn Trung Trực. Bà đã cùng
ông tham gia chống quân Pháp những năm cuối đời nên được dân gian
tôn vinh là Bà Lớn Tướng. Cách đó khá xa, ngay sát mé biển là ngôi mộ
của bà được xây cất tương đối khang trang.
Trần Thị An. Thờ Nữ thần ở đảo Phú Quốc… 89
89
Dinh Bà Hàm Ninh, còn được gọi là Dinh Bà Thủy Long Thánh
Mẫu, không sát biển mà nằm sâu trong xã Hàm Ninh. Theo người dân địa
phương, trước đây, Dinh Bà nằm sát biển nhưng do sạt lở đã được
chuyển vào vị trí hiện nay. Ông Võ Vạn (65 tuổi, thành viên Ban Quản trị
Hội Dinh Bà Hàm Ninh) và chị Phúc (47 tuổi, nhà ở ngay cạnh Dinh Bà
Hàm Ninh) cho biết, khi họ về nơi đây (cách đây 40 năm), Dinh Bà đã
được chuyển về địa điểm này.
Dinh Bà Hàm Ninh có 2 gian thờ là Dinh Ông Nam Hải và Dinh Bà
Thủy; hai bên phía ngoài sân là hai khám thờ nhỏ kiểu như ban thờ cô, thờ
cậu trong tín ngưỡng Tứ phủ. Trong Dinh Ông Nam Hải có một bộ xương
Cá Ông, trong Dinh Bà Thủy có hai cung thờ, cung phía ngoài chỉ có một
bát hương và hai con hạc chầu hai bên; cung phía trong có một pho tượng
Bà cao chừng 30 cm. Hai bên ban thờ Bà có 2 chiếc thuyền gỗ và một số
sản vật biển. Phía trái lối vào có một tủ quần áo cúng Bà. Quần áo treo ở
đây bằng kích thước quần áo của người bình thường và một số bộ quần áo
nhỏ để thay cho Bà vào dịp lễ hội (tối 22, ngày 23/3 âm lịch hằng năm).
Ngay trước cửa gian thờ Bà Thủy là một tấm liễn nhỏ bằng gỗ, chính
giữa khắc chữ Tâm, với dòng lạc khoản hai bên ghi là: “Quang Tự, Quý
Mão niên, quý xuân nguyệt, cát đán, Hải Nam tín phàm Hoàng Ứng Tinh,
Hoàng Khánh Vân, Hoàng Đắc Lan, Quách Viễn Phiên đồng kính
phụng” (ngày tốt, đầu tháng ba năm Quý Mão, niên hiệu Quang Tự
(1903), tín chủ ở Hải Nam là Hoàng Ứng Tinh, Hoàng Khánh Vân,
Hoàng Đắc Lan và Quách Viễn Phiên kính thờ). Thông tin này cho biết,
đây là tấm liễn do người dân ở đảo Hải Nam ghé lên bờ cúng. Có thể, đây
là những người làm ăn trên biển, trên đường buôn bán đã lên cúng, được
Bà phù hộ nên đã trở lại lễ tạ. Nếu đúng, có thể nói, Dinh Bà Hàm Ninh
là một địa chỉ đã nổi tiếng linh thiêng ít nhất vào đầu thế kỷ XX.
Về đối tượng được thờ ở Dinh Bà Hàm Ninh là Nam Hải (Cá Ông) và
Bà Thủy (Thủy Long Thánh Mẫu). Theo ông Võ Vạn, Thủy Long Thánh
Mẫu là Thiên Ya Na được người dân địa phương rước từ Khánh Hòa vào
thờ. Ngày rước Bà, cũng là ngày Nam Hải (Cá Ông) lụy, nên đó là ngày
lễ hội của cơ sở thờ tự này.
Dinh Bà Cửa Cạn (thường gọi là Dinh Trong để phân biệt với Dinh
Ngoài thờ Thủy Long Thánh Mẫu ở Dương Đông) nằm ở hữu ngạn sông
Cửa Cạn, đảo Phú Quốc. Như đã đề cập, theo truyền thuyết, Dinh thờ bà
90 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
90
Kim Giao, một phụ nữ thuộc dòng dõi Hoàng gia Campuchia lánh nạn,
khai khẩn đảo Phú Quốc.
Tóm lại, nhìn một cách tổng thể, việc hình thành tín ngưỡng thờ Bà và
lập Dinh để thờ là một quá trình khá lâu dài, thể hiện trước hết là nhu cầu
về đời sống tâm linh của người dân đảo Phú Quốc. Cư dân đảo Phú Quốc
đã nỗ lực không ngừng để chung sống với môi trường địa lý - xã hội mới,
thể hiện rõ trong đời sống tâm linh khi tín ngưỡng được hình thành, trở
thành một động lực tinh thần vô giá cho con người lạ lẫm nơi vùng đất mới
và chơi vơi giữa biển khơi. Bên cạnh đó, tín ngưỡng thờ Bà ở đảo Phú
Quốc còn thể hiện quá trình hội nhập không ngừng các chiều cạnh của
niềm tin. Đến nay, đảo Phú Quốc đã hình thành tín ngưỡng thờ Bà trong
các Dinh, dù đã được định vị phần nào, nhưng vẫn là một hệ thống mở để
đón nhận những sắc thái mới của đời sống tâm linh người dân địa phương.
2. Các lớp văn hóa trong tín ngưỡng thờ Bà ở đảo Phú Quốc
Qua giới thiệu khái quát bốn Dinh Bà nêu trên, có thể thấy, các lớp
văn hóa đan xen trong tín ngưỡng của người dân đảo Phú Quốc như sau:
Tín ngưỡng thờ thần biển
Phần lớn người đi lễ Dinh Bà ở đảo Phú Quốc là ngư dân. Theo khảo
sát của chúng tôi vào tháng 6/2013, hầu hết chủ ghe tàu ở đảo Phú Quốc
đều gửi niềm tin vào sự phù hộ của các vị thần ở các cơ sở thờ tự nêu
trên. Khi đi đánh cá, họ có thể không lên cầu cúng ở các Dinh Bà, vì ghe
tàu nào cũng có ban thờ Quan Âm Nam Hải. Nhưng khi đi qua các cơ sở
thờ tự này, họ đều bái vọng. Ông Võ Vạn, thành viên Ban Quản trị Hội
Dinh Bà Hàm Ninh, cho biết: “Dân ở đây tin dữ lắm. Vào ngày vía Bà,
người dân Hàm Ninh dù có đánh bắt xa bờ đến đâu cũng quay về đến
lễ… Dân ở đây làm nghề hạ bạc, ông Nam Hải độ cho đánh được nhiều
cá, ghe cộ chìm thì ông đưa vô bờ. Bà phù hộ cho ngư dân chài lưới,
nghèo khổ, không con cái, buôn bán, sức khỏe, ai cầu gì được nấy”
(phỏng vấn ngày 5/6/2013).
Trong Dinh Bà Hàm Ninh có một gian thờ Nam Hải. Trong sân Dinh
Bà Ông Lang có hai pho tượng Quan Âm Nam Hải. Các Dinh Bà đều tọa
lạc ở ngay bờ biển và trông ra biển (trừ Dinh Bà Hàm Ninh do bị sạt lở
nên chuyển sâu vào trong đảo). Câu đối ở Dinh Bà Dương Đông, như đã
đề cập, thể hiện sự ca tụng của người dân đảo Phú Quốc đối với một vị
vua của biển cả. Đôi câu đối ở Dinh Cậu cũng thể hiện một cảm hứng
Trần Thị An. Thờ Nữ thần ở đảo Phú Quốc… 91
91
ngợi ca như thế: “Phong điều vũ thuận dân an lạc/ Hải yến hà thanh thế
thái bình” (Mưa thuận gió hòa, dân an lạc/ Sông yên biển lặng, đời thái
bình). Ước muốn về mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng là ước muốn
thường trực nhất của cư dân biển. Và, họ đã tìm thấy nơi nương tựa về
mặt tinh thần ở những vị thần biển.
Hơn nữa, trong các Dinh Bà ở đảo Phú Quốc thì hai nơi có tên là Thủy
Long Thánh Mẫu. Riêng cung thờ Dinh Bà Hàm Ninh lại ghi là Dinh Bà
Thủy. Điều này cho thấy, lớp tín ngưỡng thờ thần biển là khá rõ ở các
Dinh Bà trên đảo Phú Quốc.
Tín ngưỡng thờ người mở cõi
Dinh Bà Dương Đông và Dinh Bà Cửa Cạn đều thờ vị thần Kim Giao.
Theo truyền thuyết, bà Kim Giao được cho là người khai khẩn đảo Phú
Quốc và dạy người dân nơi đây cách làm ruộng. Hiện nay ở khu vực Dinh
Cửa Cạn vẫn còn vết tích cánh đồng bà Kim Giao khai hoang và hàng loạt
cột buộc trâu xưa kia. Ở Dinh Bà Dương Đông vẫn còn dấu vết của tín
ngưỡng thờ thần khai canh. Dù người trông coi Dinh Bà Dương Đông khẳng
định, nơi đây thờ Bà Thủy Long. Nhưng trong hậu cung của cơ sở thờ tự này
có hai ban thờ Tiền hiền và Hậu hiền, nghĩa là thờ những người có công
khai khẩn trong tín ngưỡng của người dân từ Miền Trung đến Miền Nam.
Tín ngưỡng thờ nhân vật lịch sử
Một hiện tượng khá phổ biến trong tín ngưỡng Việt Nam là xu hướng
“lịch sử hóa truyền thuyết” và “truyền thuyết hóa lịch sử”. Điều này
nghĩa là, các lớp truyền ngôn thường có xu hướng được dân gian gắn vào
một sự kiện lịch sử nào đó để tăng tính chính thống của nhân vật được kể
trong truyền thuyết. Ngược lại, nhiều khi các nhân vật lịch sử được thần
thánh hóa bằng cách gán cho họ những chi tiết nhuốm màu sắc thần kỳ để
tăng tính kỳ vĩ. Hai xu hướng này đan quyện vào nhau khiến cho nhiều
nhân vật truyền thuyết đi vào lịch sử và nhiều nhân vật lịch sử được tôn
vinh như những vị thánh thần.
Xu hướng này có thể thấy trong tín ngưỡng thờ bà Lê Kim Định (được
cho là phu nhân Nguyễn Trung Trực) ở Dinh Bà Ông Lang. Đáng chú ý
là, sách sử viết về chiến công của Nguyễn Trung Trực đều không ghi
chép về vợ của ông. Tuy nhiên, do Nguyễn Trung Trực đã gắn bó với đảo
Phú Quốc vào hai năm cuối đời (1885 - 1886), nên người dân đảo Phú
Quốc đã viết thêm một trang sử mới về ông, tạo nên những vầng hào
92 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
92
quang lung linh khiến cuộc đời của người anh hùng này có thể sống với
người dân trong những thời khắc đương đại, đó là việc tạo nên truyền
thuyết về bà Lê Kim Định. Truyền thuyết này được lưu truyền không chỉ
ở đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Gành Dầu (một bãi biển đẹp của đảo
Phú Quốc), mà còn ở Dinh Bà Ông Lang và hội nhập với tín ngưỡng thờ
Bà Thủy nơi đây. Việc thờ cúng hai nhân vật (một lịch sử, một dã sử) này
đã tạo nên sự gắn kết giữa lịch sử chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc
với đời sống của cư dân trên đảo Phú Quốc.
3. Tín ngưỡng thờ Bà ở đảo Phú Quốc: sự hội tụ và phát triển của
tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Bà - Cậu
Nói đến tín ngưỡng thờ Bà của cư dân đảo Phú Quốc không thể không
nhắc đến tín ngưỡng thờ Bà - Cậu. Tín ngưỡng này đã được nhắc đến
trong các nghiên cứu của Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Thanh Lợi (2004 và
2012)
(2)
, Dương Hoàng Lộc (2010)
(3) và Trương Thanh Hùng (2012)
(4)
.
Về vấn đề này, Trương Thanh Hùng viết: “Hầu hết người dân hoạt động
trên sông nước đều rất tin tưởng “Bà Cậu”. Họ cho đó là một vị thần có
quyền năng rất lớn, chi phối đến đời sống, làm ăn của dân làm nghề sông
biển, kể cả dân đánh bắt và giao thông. Đến nay, nhiều người không hiểu
Bà Cậu là ai, là một người hay hai người. Chỉ biết rằng, nếu Bà Cậu độ thì
làm ăn sẽ phát đạt, đánh bắt trúng, an toàn khi hành nghề. Hình tượng Bà
Cậu đối với dân sông nước nói chung có thể là bà Thiên Hậu (đối với
người Hoa), bà Chúa Liễu, Thủy Long Thánh Mẫu, là một vị hoàng tử
con của Long Vương, là một vị thủy thần, sau cùng là những người khuất
mặt, khuất mày nào đó tế độ cho người làm nghề sông nước… Trên ghe
tàu có một bàn thờ Bà Cậu mà bài vị được viết bằng chữ Hán là “Thủy
Long Thánh Mẫu” hay “Thánh Mẫu Nương Nương”. Như vậy, chúng ta
thấy rằng, Bà Cậu không còn là hai vị thần Bà và Cậu, mà đó là một vị
thần gọi là Bà Cậu. Tuy nhiên, nếu trên bờ thì lại phân biệt rõ ràng Bà và
Cậu, có Miễu Bà và Dinh Cậu”. Về nguồn gốc tục thờ này, Trương
Thanh Hùng đã dẫn ý của Huỳnh Tịnh Của cho rằng: “Bà - Cậu chính là
“ba Bà, bảy Cậu” gắn với việc thờ Liễu Hạnh Công Chúa”(5)
.
Nhưng một số ý kiến khác như Dương Hoàng Lộc, Nguyễn Thanh Lợi,
ông Nguyễn Văn Minh - người trông coi Dinh Cậu ở đảo Phú Quốc lại cho
rằng, Bà là Bà Thủy, còn Cậu là Cậu Tài và Cậu Quý. Dương Hoàng Lộc
nhấn mạnh: “Đặc biệt, đối với các nghề liên quan đến sông nước và biển cả
Trần Thị An. Thờ Nữ thần ở đảo Phú Quốc… 93
93
ở Nam Bộ, người ta thường vái van Bà Cậu để cầu mong độ trì qua cơn
sóng gió. Chắc vì thế mà người ta thường hay gọi dân làm nghề thương hồ
hạ bạc là “dân Bà Cậu”. Bà Cậu chính là Bà Thủy và hai người con trai:
Cậu Tài và Cậu Quý”. Nguyễn Thanh Lợi cho biết, Bà - Cậu trong tín
ngưỡng của người dân ở Bà Rịa - Vũng Tàu là Bà Thủy và Cậu Tài, Cậu
Quý. Còn theo chị Tư (Ngọc Lệ), người trông coi Dinh Bà Dương Đông và
ông Nguyễn Văn Minh, người trông coi Dinh Cậu, Bà là Thủy Long Thánh
Mẫu và Cậu là Cậu Tài, Cậu Quý. Ông Nguyễn Văn Minh thậm chí còn
gọi tôn xưng Cậu là “Ông”, và cho biết thêm: Dân đến Dinh Cậu cúng lễ
không ai dám gọi là Ông Cậu, chỉ dám gọi là Ông Cù.
Nguyễn Thanh Lợi (2004) và Dương Hoàng Lộc (2010) đều cho rằng,
Cậu Tài và Cậu Quý là con của Thiên Ya Na Diễn Ngọc Phi, và ở đây,
Thiên Ya Na đã được đồng nhất với Bà Thủy. Nguyễn Thanh Lợi viết:
“Bà Chúa Tiên (Chúa Ngọc) còn có hai người con là Cậu Tài và Cậu
Quý, là những vị thần đặc biệt “bảo hộ” cho vùng sông nước. Dân sống
bằng nghề hạ bạc và dân thương hồ đã đồng hóa Pô Nưgar với Thủy
Long thánh phi, kèm theo hai người con của Bà là Cậu và Bà Cậu -
những vị thần cai quản các hải đảo hoặc cù lao ven sông, biển”. Còn theo
Dương Hoàng Lộc: “Người ta còn có quan niệm Bà Thủy chính là hóa
thân của Thiên Ya Na. Trong văn bia của Phan Thanh Giản tại Tháp Bà
Nha Trang, có đoạn kể về Thiên Ya Na đã hóa phép nổi sóng gió nhấn
chìm thuyền của thái tử Trung Quốc, biến chiếc thuyền này thành tảng
đá. Do đó, Thiên Ya Na và hai người con của Bà (Cậu Tài, Cậu Quý)
được xem là vị thần của sông biển, cù lao”. Tuy dẫn nguồn nhưng hai
nghiên cứu trên đều đã có chỗ khúc xạ. Trong văn bia do Phan Thanh
Giản soạn năm 1856 và truyền thuyết vùng Khánh Hòa thì hai người con
của Thiên Ya Na là một trai, một gái. Người con trai tên Trí và người con
gái tên Quý. Như vậy, chúng ta thấy xuất hiện ở đây một nhân vật mới là
Cậu Tài. Danh xưng cũng như nguồn gốc xuất thân của cậu, truyền
thuyết không giải thích rõ. Chúng ta cần cắt nghĩa nguyên nhân xuất hiện
“Cậu Tài” trong các truyền thuyết về Bà - Cậu ở Nam Bộ.
Tại Dinh Cậu trên đảo Phú Quốc, chúng ta thấy một phức thể thú vị.
Tên di tích là Dinh Cậu, nhưng bài vị ở ban thờ chính lại ghi là Chúa
Ngọc Nương Nương (một tên gọi khác của Thiên Ya Na), hai bên có hai
tượng thờ nhỏ dưới hai dòng chữ Nhị hiền vương Thái tử (tương truyền
là Cậu Tài, Cậu Quý - hai con của Thiên Ya Na). Tuy nhiên, ông Nguyễn
94 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
94
Văn Minh, người trông coi di tích này, lại giải thích với chúng tôi rằng:
“Hai ông cậu (Cậu Quý và Cậu Tài) là hai thiên thần được phái xuống
trần gian 2.000 năm, một người trông coi toàn vùng biển, một người
trông coi rốn biển. Nay hai ông chưa được về Trời vì giặc dưới biển còn
quậy quá, biển đảo còn xuất hiện nhiều cơn bão lớn. Bên cạnh đó, hai
ông còn phải cai quản các luồng cá ở khu vực đảo Phú Quốc”. Như vậy,
theo truyền thuyết này, hai cậu đã trở thành người Trời, và dường như
không có liên quan gì đến Bà Thủy, Bà Thiên Ya Na hay Bà Thủy Long
Thánh Mẫu ở đây.
Bên cạnh truyền thuyết giải thích Bà là Thủy Long Thánh Mẫu và Cậu
là Cậu Tài và Cậu Quý (hai con của Thiên Ya Na), Nguyễn Thanh Lợi
(2012) cho biết một truyền thuyết khác. Theo đó, ở Côn Đảo, Bà được
đồng nhất với Bà Phi Yến (Lê Thị Răm), tương truyền là thứ phi của
Nguyễn Ánh, mẹ của Hoàng tử Cải; Cậu được đồng nhất với Hoàng tử Cải,
người bị ông vua đầu triều Nguyễn ném xuống biển khi vừa lên bốn tuổi
(6)
.
Theo chúng tôi, các lớp truyền ngôn về Bà và Cậu phản ánh tính động
và tính lỏng của truyền thuyết về Bà - Cậu, hệ quả của một tín ngưỡng
mở mà tục thờ và truyền thuyết đã và đang tiếp tục đón nhận những lớp
đắp bồi qua thời gian và trong không gian để trở thành một phức thể rộng
hơn và thống nhất hơn.
Từ tín ngưỡng thờ nữ thần biển đến tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu
Như đã đề cập, các Dinh Bà ở Phú Quốc đều nằm sát mép biển. Đây
hẳn không phải là một sự tình cờ. Vị trí này chắc hẳn thể hiện sự đáp ứng
nhu cầu của ngư dân về vị thần mà họ trông chờ sự độ trì. Các cuộc
phỏng vấn của chúng tôi cho thấy, ngư dân rất tin tưởng vào các Bà và
thường đến cầu xin khi ra khơi, tạ ơn khi trúng vụ, tham dự một cách
kính cẩn ngày vía Bà hằng năm. Ở khía cạnh này, các Bà xuất hiện với tư
cách là các nữ thần (Bà Thủy, Bà Kim Giao, Bà Lớn Tướng Lê Kim
Định) chở che, phù hộ cho người đi biển được bình an vô sự và đánh bắt
được nhiều tôm cá.
Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, phạm vi cứu độ của các Bà và
thành phần người đi lễ ở Dinh Bà và Dinh Cậu trên đảo Phú Quốc là khá
đa dạng. Chị Tư (Ngọc Lệ), người trông coi Dinh Bà Dương Đông và chị
Trần Thị Ngân, thành viên của Hội Dinh Bà Dương Đông cho biết, lượng
khách thập phương đến Dinh Bà cúng lễ hơn một nửa là người nơi khác,
gồm khách du lịch và khách trong đất liền đến cầu an, giải hạn. Điều đặc
Trần Thị An. Thờ Nữ thần ở đảo Phú Quốc… 95
95
biệt là, du khách muốn đến cầu an, giải hạn chỉ đến Dinh Bà, chứ không
đến Dinh Cậu; đi biển thì họ cúng lễ Bà - Cậu. Bên cạnh đó, người dân
còn đến lễ các Dinh Bà và Dinh Cậu ở đảo Phú Quốc để thỏa mãn nhiều
nhu cầu khác trong đời sống như cầu tự, chữa bệnh, học hành, buôn bán.
Địa chỉ được ghi trên ghế đá tặng Dinh Bà, Dinh Cậu cho thấy người đi
lễ trên đảo Phú Quốc đến từ nhiều miền quê khác nhau, trong đó có nhiều
người đang sinh sống ở nước ngoài.
Một hiện tượng đáng chú ý là việc tách riêng các đối tượng thờ như ở
Dinh Bà Hàm Ninh (Dinh Nam Hải và Dinh Bà Thủy). Như đã nêu, theo
người địa phương, ông Nam Hải độ cho người đi biển đánh được nhiều
cá, đưa ghe cộ chìm vào bờ biển. Bà Thủy phù hộ cho ngư dân chài lưới
nghèo khổ, không con cái, buôn bán, sức khỏe, nói chung là cầu gì được
nấy. Điều này tương tự như mối quan hệ giữa Dinh Cậu (vốn là nơi thờ
nam thần biển)
(7) và Dinh Bà ở Dương Đông. Trong khi ngư dân cầu cả
Dinh Bà và Dinh Cậu, thì người giải hạn, cầu an chỉ cầu ở Dinh Bà. Hiện
tượng này không chứng tỏ độ đậm nhạt của tính thiêng mà thể hiện độ
mở của một tín ngưỡng. Với tín ngưỡng thờ Long Vương hay Nam Hải,
người dân mong chờ sự độ trì cho những chuyến đi biển. Còn với tín
ngưỡng thờ Bà Thủy, nội dung cầu cúng có một độ mở không ngừng
trong thời gian nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân.
Tóm lại, có thể nói, tín ngưỡng thờ nữ thần biển đã mở ra để trở thành
một phức hệ tín ngưỡng mới, tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu. Bởi vì, chỉ có
Thánh Mẫu mới đáp ứng được nhu cầu muôn mặt đời thường của người
dân. Đây cũng là một biểu hiện cho tính mở của hệ thống tín ngưỡng thờ
Tứ Phủ. Cuộc hầu đồng được tổ chức lần đầu tiên ở Phú Quốc (tháng
8/2013 tại Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu ở Dương Đông) được người
dân nơi đây đón nhận một cách nồng nhiệt
(8) càng chứng tỏ điều đó.
4. Đôi lời kết luận
Tín ngưỡng thờ nữ thần thể hiện nhu cầu mãnh liệt về đời sống tâm
linh của người dân đảo Phú Quốc. Khảo sát bước đầu của chúng tôi về sự
hình thành và phát triển của tục thờ cúng, cách thực hành nghi lễ, sự phát
triển của quy mô lễ hội tại các di tích Dinh Bà cho thấy khá rõ nhu cầu
tâm linh của người dân hòn đảo này. Họ thực sự khát khao được thể hiện
đời sống ấy thông qua thiết chế di tích, tổ chức lễ hội, thực hành nghi lễ
thường ngày, gửi gắm niềm tin vào những phép lạ qua việc thờ Bà.
96 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
96
Tín ngưỡng thờ nữ thần ở đảo Phú Quốc khởi thủy là tục thờ Bà Thủy
với mong muốn cầu xin sự an toàn khi ra khơi vào lộng. Tuy nhiên, cùng
với thời gian, các truyền ngôn, cách thực hành nghi lễ, đối tượng hành lễ
và nội dung cầu cúng của người dân ngày càng đa dạng, tiệm cận với tín
ngưỡng thờ Thánh Mẫu mà tính linh động và độ dung hợp lớn của nó
đang là một ngôi nhà mở ra nhiều cánh cửa để tích hợp tất cả nội dung,
thu hút nhiều tầng lớp dân cư trên đảo cũng như khách thập phương trong
nước và ngoài nước.
Các lớp truyền ngôn, các Dinh Bà và Dinh Cậu, cũng như các địa
danh và chứng tích văn hóa vật thể trên đảo Phú Quốc cho thấy sự đan
xen của văn hóa các tộc người Việt, Hoa, Khmer, Chăm. Sự đan xen này
quyện chặt một cách nhuần nhuyễn và trở thành tài sản chung của người
dân đảo Phú Quốc hôm nay.
Dù còn cần nhiều thời gian để nghiên cứu sâu hơn, có thể thấy rõ,
trong phức thể tín ngưỡng Bà - Cậu của người dân đảo Phú Quốc hành
trang của ngư dân Nam Trung Bộ (Quảng Ngãi, Bình Định,...) đan xen
với tín ngưỡng của cư dân Tây Nam Bộ và hội nhập với tín ngưỡng Tứ
Phủ của Bắc Bộ để trở thành một phức thể đang dần định hình thành hệ
thống. Hệ thống này đã và đang là một hệ thống mở nên vừa có khả năng
đáp ứng nhu cầu gửi gắm niềm tin của mọi người dân lại vừa có thể dung
chứa được những biến đổi mau lẹ của nhu cầu tâm linh của họ trước tác
động của sự biến đổi kinh tế - xã hội và ảnh hưởng hội nhập quốc tế của
Việt Nam hôm nay./.
CHÚ THÍCH:
1. Trương Thanh Hùng & Phan Đình Độ (2012), Văn hóa dân gian huyện đảo Phú
Quốc và Lý Sơn, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội: 90.
2. Nguyễn Thanh Lợi (2004), “Tín ngưỡng thờ nữ thần ở Bà Rịa - Vũng Tàu”,
trong Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hóa văn nghệ dân gian Nam Bộ, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội: 146.
3. Dương Hoàng Lộc (2010), “Tín ngưỡng thờ Bà Thủy của cộng đồng ngư dân
An Thủy (huyện Ba Tri - tỉnh Bến Tre)”, Nguồn sáng Dân gian, số 2.
4. Trương Thanh Hùng & Phan Đình Độ (2012), Văn hóa dân gian huyện đảo Phú
Quốc và Lý Sơn, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
5. Trương Thanh Hùng & Phan Đình Độ (2012), Văn hóa dân gian huyện đảo Phú
Quốc và Lý Sơn, sách đã dẫn: 37.
6. Nguyễn Thanh Lợi trong bài viết “Câu chuyện bà Phi Yến ở Côn Đảo” tham dự
Hội thảo Côn Đảo - 150 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển, tháng 8/2012,
Trần Thị An. Thờ Nữ thần ở đảo Phú Quốc… 97
97
khẳng định: Miếu Bà Phi Yến và miếu Cậu trên Côn Đảo thực chất là tín
ngưỡng thờ Bà Cậu vốn rất phổ biến trong các cộng đồng của cư dân hải đảo và
ven biển Trung Nam Bộ.
7. Trong bài viết “Tục thờ Bà ở Phú Quốc” tham dự Tọa đàm Văn hóa tín ngưỡng
Mẫu Thoải - Thủy Long và nghi lễ chầu văn tại Phú Quốc, ngày 10/8/2013,
Nguyễn Thị Diệp Mai cho biết: GS. Trần Quốc Vượng khẳng định, Dinh Cậu
vốn là một ngôi miếu thờ Long Vương. Còn người dân ở Phú Quốc cho rằng,
trước đây, ngôi miếu này thờ Đông Hải Long Vương.
8. Trình diễn nghệ thuật hát chầu văn trên đảo Ngọc, Website của Sở Văn hóa -
Thể thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Thanh Hùng & Phan Đình Độ (2012), Văn hóa dân gian huyện đảo Phú
Quốc và Lý Sơn, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Nguyễn Thanh Lợi (2004), “Tín ngưỡng thờ nữ thần ở Bà Rịa - Vũng Tàu”,
trong Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hóa văn nghệ dân gian Nam Bộ, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
3. Dương Hoàng Lộc (2010), “Tín ngưỡng thờ Bà Thủy của cộng đồng ngư dân
An Thủy (huyện Ba Tri - tỉnh Bến Tre)”, Nguồn sáng Dân gian, số 2.
4. Cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, Nxb. Quân đội Nhân dân, 2008.
5. Nguyễn Hữu Thông (2001), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam, Nxb.
Thuận Hóa, Huế.
Abstract
THE WORSHIP OF GODDESS IN PHÚ QUỐC ISLAND
FROM THE WORSHIP OF WATER GODDESS TO THE
WORSHIP OF MOTHER GODDESS
Phú Quốc island is a part of Kiên Giang province as Phú Quốc district.
Phú Quốc’s natural landscape is so beautiful and its terrain is diversified.
For living in this island, people have to adapt themselves to sea and
depend on sea, so they love and respect sea very much. Their love and
respect have become symbol of spiritual life. One of manifestations is the
worship of Goddess who is called Bà by Phú Quốc islanders. The place
of worship of Bà is called Dinh Bà. This article firstly studies the system
of Dinh Bà and the worship of Bà in Phú Quốc island.
Key words: The worship of Mother Goddess, the worship of Water
Goddess, the worship of Bà, Cậu, Dinh Bà, Dinh Cậu, Phú Quốc Island,
Kiên Giang province.
http://www.vjol.info/index.php/rsr/a...le/23757/20299
-
THẦN CHÚ DA LA NI
KIỀNG TÂM KỈNH LỄ
Nam mô Phật.
Nam mô Pháp.
Nam mô Tăng.
–Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng Ðại Thiên Tôn. (3 lạy)
–Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên. (3 lạy)
–Nam mô A Di Ðà Phật Tam Thanh Giáo Chủ Thiên Tôn. (3 lạy)
–Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật Thiên Tôn. (1 lạy)
–Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lạy)
–Nam mô Di Lặc Vương Phật. (1 lạy)
–Nam mô Gia Tô Giáo Chủ Thiên Tôn. (1 lạy)
– Nam mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Ðại Bi Tâm Ðà La Ni. (1 lạy)
–Nam mô Chuẩn Ðề Phật Mẫu Vương Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (1 lạy)
– Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Bát Bộ Kim Cang. (1 lạy)
–Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Từ Hàng Bồ Tát. (1 lạy)
–Nam mô Bắc Ðẩu Thất Tinh Thiên Tôn. (1 lạy)
–Nam mô Nam Tào Lục Ty Tinh Quân Thiên Tôn. (1 lạy)
– Nam mô Thái Thượng Nguơn Thỉ Thiên Tôn. (1 lạy)
–Nam mô Hồng Quân Lão Tổ. (1 lạy)
–Nam mô Nhứt Trấn Oai Nghiêm. (1 lạy)
–Nam mô Già Lam Quan Thánh Phổ Tế Thiên Tôn. (1 lạy)
–Nam mô Chư Thiên Phổ Hóa Thiên Tôn. (1 lạy)
–Nam mô Thổ Ðức Thần Quang. (1 lạy)
–Nam mô Kim Ðức Thần Quang. (1 lạy)
–Nam mô Thủy Ðức Thần Quang. (1 lạy)
–Nam mô Mộc Ðức Thần Quang. (1 lạy)
–Nam mô Hỏa Ðức Thần Quang. (1 lạy)
–Nam mô Bổn Tôn Tam Thế Chư Phật. (1 lạy)
–Nam mô Chư Bồ Tát, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần . . . (1 lạy)
TỊNH TÂM THẦN CHÚ
Thái Thượng Thai Tinh, ứng biến lôi đình. Khu Tà phược Mị, bảo Mạng hộ Thân. Trí huệ minh tịnh, Tâm Thần an ninh. Tam Hồn vĩnh cửu, Phách vô tán khuynh.
“Cấp cấp như luật lịnh”
TỊNH KHẨU THẦN CHÚ
Ðơn châu khẩu Thần, thổ uế trừ phân. Thiệt Thần chánh luân, thông Mạng dưỡng Thần. La Thiên Sĩ Thần, khước Tà vệ Nhơn. Hầu Thần Hổ Bôn, Thần Khí dẫn chơn. Tâm Thần Ðơn Nguơn, Linh Ngã thông chơn. Tứ Thần luyện dịch,
Chánh Khí trường tồn.
“Cấp cấp như luật lịnh”
TỊNH THÂN THẦN CHÚ
Linh Bảo Thiên Tôn, an húy thân hình. Ðệ tử Hồn Phách, Ngũ Tạng huyền minh. Thanh Long Bạch Hổ, đội trượng phân vân. Châu Tước Huyền Võ, thị vệ Ngã Chơn.
“Cấp cấp như luật lịnh”
AN THỔ ÐỊA THẦN CHÚ
Nguơn Thỉ an trấn, phổ cáo vạn Linh. Nhạc Ðộc Chơn Quang, Thổ Ðịa kỳ linh. Tả xã hữu tắc, bất đắc vọng Kinh. Hồi hướng Chánh Ðạo, nội ngoại túc thanh. Các an phương vị, bị thủ đế đình. Thái Thượng hữu Mạng, sưu bộ Tà Tinh. Hộ Pháp Thần Vương, bảo vệ tụng Kinh. Qui Y Ðại Ðạo, Nguơn Hanh Lợi Trinh.
“Cấp cấp như luật lịnh”
TỊNH THIÊN ÐỊA THẦN CHÚ
Thiên Ðịa tự nhiên, uế khí phân tán, Ðông trung huyền hư, hoảng lảng thái nguyên, Bát Phong oai Thần, sử ngã tự nhiên, Linh Bảo phù Mạng, phổ cáo Cửu Thiên, Kiền ra đát na, động cang thái huyền, Trảm yêu phược Tà, sát Quỷ vạn thiên, Sơn Trung Thần Chú, Nguơn Thỉ ngọc văn. Ngã tụng nhứt biến, khước Quỷ diên niên, An hành Ngũ Nhạc, Bát Hải tri văn, Ma Vương thúc thủ, thị Vị Ngã hiện, Hung uế tiêu đảng, Ðạo Khí trường tồn.
“Cấp cấp như Thánh Ðế luật lịnh sắc”
NG ỌC HOÀNG THIÊN TÔN BỬU CÁO
Ðại La Thiên Ðế, Thái Cực Thánh Hoàng. Hóa dục quần sanh, Thống ngự vạn vật. Diệu diệu “Huỳnh Kim Khuyết”. Nguy nguy “Bạch Ngọc Kinh”. Nhược thiệt nhược hư, Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. Thị không thị sắc, Vô Vi nhi dịch sử quần Linh. Thời thừa Lục Long, Du hành bất tức. Khí phân Tứ Tượng, Hoát triền vô biên. Càn kiện cao minh, Vạn loại thiện ác tất kiến. Huyền phạm quảng đại, Nhứt toán họa phước lập phân. Thượng chưởng Tam thập Lục Thiên, Tam Thiên thế giới. Hạ ốc Thất Thập Nhị Ðịa, Tứ Ðại Bộ Châu. Tiên Thiên Hậu Thiên, Tịnh dục Ðại Từ Phụ. Cổ Ngưỡng Kim Ngưỡng, Phổ Tế Tổng Pháp Tông. Nải Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân. Vi Thánh, Thần Tiên, Phật chi Chủ. Trạm tịch Chơn Ðạo, Khôi mịch tôn nghiêm. Biến hóa vô cùng, Lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế. Linh oai mạc trắc, Thường thị Thần giáo dĩ lợi sanh. Hồng Oai, Hồng Từ, Vô Cực Vô Thượng Ðại Thánh, Ðại Nguyện, Ðại Ðạo, Ðại Bi.
-Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng Tích Phước Hựu Tội Ðại Thiên Tôn. (3 lạy)
TẠO HÓA CHƠN KINH
Thiên lực khai hiệp tùng Thượng Ðế,
Máy huyền vi linh thể Ðạo sanh.
Nay con trực giác Tâm thành,
Trừ mê tạp niệm, tịnh thanh độ Hồn.
Lòng đại nguyện giải cơn Tứ Khổ…
Tĩnh Hồi Quang liễu ngộ xét mình,
Trau giồi phục bổn Chơn Linh,
Giây oan, nhiễm tục sắc tình trừ tiêu !
Dưỡng Nguơn Tinh hòa điều Khí Phách;
Hiệp Chơn Thần tẩy sạch phàm Tâm.
Huệ thông khử ám mê lầm…
Qui y Phật Tánh Pháp Thân Ðạo Vàng.
Tùy cơ duyên, kỹ cang cảm hóa;
“Ðốn” vô minh mô tả “Huờn Chơn”,
Ðộ căn chí nguyện tỉnh Hồn,
Nay con diệt ngã qui tông hòa mình.
Hoằng Ðại Ðạo siêu minh Kỳ Mạt,
Trọn hy sinh, tỉnh giác thiện duyên,
“Vô Thừa Tối Thượng” gieo truyền…
Xiễn dương Chơn lý thâm uyên“NhãnTàng”.
- Nam mô Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng Ðại Thiên Tôn. (3 lạy)
PHẬT MẪU CHƠN KINH
Trưởng “Ðạo Huỳnh” hư linh Phật Mẫu,
Chiếu Bạch Quang kỳ hậu Vô Vi.
Nay con hồi tỉnh tu trì,
Nương hành Chơn Pháp châu nhi “Thái Hòa”,
Hiệp Âm Dương Tam Hoa qui nhứt,
Chuyển Tiên Thiên, Vô Cực khai minh,
Trừ tiêu nghiệp chướng hữu tình,
“Huờn Lai Nguyên Bổn” Chơn Linh thoát trần!
Hằng Chánh Niệm tu thân lập Ðức;
Vẹn công phu khuôn luật “Qui Y”,
Trau giồi “Phục Bổn Anh Nhi”,
Công trình tinh tấn Mâu Ni nội hành …,
Hoát viên minh Ý Thanh ôn dưỡng…,
Tu “Ðại Ðạo Tối Thượng Vô Thừa”,
“An bần chay lạc muối dưa”,
“ Chí chơn Ðịnh Tĩnh sớm trưa năng trì…”,
Lòng khẩn nguyện Huyền Vi chứng chiếu,
Rưới Ðiễn lành, hòa “Khiếu Huyền Quang”,
Viên minh “Chánh Pháp Nhãn Tàng” ,
Cầu xin Phật Mẫu ân ban Tâm thành.
- Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên. (3 lạy)
HUY ỀN ÐẾ BÁ TỰ THÁNH HIỆU
Hỗn nguơn Cửu Thiên,
Truyền Pháp Giáo Chủ,
Tu Chơn ngộ Ðạo,
Tế độ quần mê.
Phổ huệ Chúng Sanh,
Tiêu trừ tai chướng.
Bát Thập Nhị Hóa,
Tam Giáo Tổ Sư,
Ðại Từ Ðại Bi,
Cứu khổ cứu nạn.
Tam Nguơn Ðô Tổng Quản,
Cửu Thiên du diệc sứ.
Tả Thiên Can Bắc Cực,
Hữu hằng Ðại Tướng Quân.
Trấn Thiên trợ thuận,
Chơn Võ linh ứng.
Phước đức kiển khánh,
Nhơn từ chánh lệ,
Hiệp vân Chơn Quân,
Trị thế phước Thần,
Ngọc Hư Sư Tướng,
- Huyền Thiên Thượng Ðế,Kim Khuyết Hóa Thân,Ðãng Ma Thiên Tôn. (3 lạy)
NG ỌC HOÀNG BỬU CÁO
hí Tâm qui mạng lễ : (3 lạy)
Thái Thượng Di La Vô Thượng Thiên, diệu hữu Huyền Chơn Cảnh, ách ách tử Kim Khuyết, Thái Di Ngọc Thanh cung Vô Cực Vô Thượng Thánh, Quách Lạt Pháp quang minh, tịch tịch hạo vô tông, huyền khích tổng thập phương, trạm tịch chơn thường, Ðạo khôi mạt đại thần thông, khung thương chơn lão diệu viên Thanh Tịnh, trí huệ biện tài, chí Ðạo chí Tôn, Tam Giái Sư Hổn Nguơn Tổ, Vô Vi Thánh Chủ Tứ Sanh Từ Phụ cao.
Thiên Thượng Thánh, đại từ nhơn dã, thập hiệu viên mãn, vạn đức châu thân, vô lượng độ nhơn, bạc sanh Tứ Khổ, Chúng Thánh chi Vương, chư Phật chi Sư, Thái Thượng Khai Thiên, chấp phù ngự lịch, hàm chơn thể Ðạo, Kim Khuyết vân cung, Cửu Khung lịch ngự, Vạn Ðạo Vô Vi, Thông Minh Ðại Ðiện, Hạo Nhiên Kim Khuyết.
- Ngọc Hoàng Ðại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Ðế. (3 lạy)
KINH NGUƠN THỈ THIÊN TÔN
THÁI THƯỢNG NGUƠN THỈ THIÊN TÔN THUYẾT “TAM QUAN BỬU HIỆU ”
Nhỉ thời : Nguơn Thỉ Thiên Tôn tại Ðại La Thiên Thượng, nhập cảnh cung trung, dử chư Thiên Thần Vương Nhựt Nguyệt Tinh Tú; Thượng Thánh Cao Tôn, Vô Cực Chúng Thánh thuyết vô thượng chí chơn Diệu Pháp, hữu nhứt Chơn Nhơn danh viết Xích Khước Ðại Tiên, việt ban nhi xuất, Kinh quyến trường quì thượng bạch Thiên Tôn viết: Hạ giới nhơn dân hoặc hữu Thủy, Hỏa, đao binh, tật bịnh, sanh sản, Quỷ Mị Tinh Tà, Thiên La Ðịa Võng, nhứt thiết ách nạn, hà do cứu hoan? Thiên Tôn ngôn : “Ðắc Ðạo Thần Tiên giai tùng Tam Quan Bảo Cử, hạ phương sanh nhơn đảng trì Tam Quan Bửu Hiệu, năng trừ ách nạn, tất giai tiêu diệt.”
gô kiêm thọ nhữ hạ thế lưu truyền, nhơn gian khán tụng dã, đắc phước vô lượng, tiêu nhứt thiết ách, tức thuyết Bửu Hiệu viết:
Bắc Cực Huyền Khung,
Tử Vi Ðế Ðình,
Thái Sơn cao nhạt,
Thủy quốc thanh linh,
Võng di Tam Giái.
Thống ngự Vạn Linh,
Tam Nguơn giảo tích,
Thiện ác nhu phân.
Nam nữ lễ tụng,
Vô nguyện bất thành.
Tiêu tai thích tội,
Giáng phước diên sanh.
Chí chơn diệu Ðạo,
Công đức vô biên.
Ðại Bi Ðại Nguyện,
Ðại Thánh Ðại Từ.
Thượng Nguơn Nhứt Phẩm,
Tứ phước Thiên Quan.
Tử Vi Ðại Ðế,
Trung Nguơn Nhị Phẩm.
Xá tội Ðịa Quan,
Thanh Hư Ðại Ðế.
Hạ Nguơn Tam Phẩm,
Giải ách Thủy Quan,
Ðộng Âm Ðại Ðế,
Tam Nguơn chủ tể,
Tam Bá Lục Thập,
Ứng cảm Thiên Tôn.
Nữ thanh Chơn Nhơn,
Khảo đảo Tào Quan.
Nhỉ thời: Xích Khước Ðại Tiên, dử chư Thiên Thần Vương, Chơn Tiên Ðại Chúng. Văn thiết Bửu Hiệu, giai đại hoan hỉ, tác lễ Khể thủ nhi thối, tín thọ phụng hành.
Thái Thượng Nguơn Thỉ Thiên Tôn thuyết: “Tam Quan Bửu Hiệu.”
Tam Nguơn Thần cộng hộ, vạn Thánh nhãn đồng minh.
Tam Nguơn tứ phước, xá tội giải ách Ðại Thiên Tôn.
Tam Quan diệu Ðiễn, Công Ðức vô lượng, hành hành tự tự tấc chơn truyền, nghĩa lý tối u huyền, tứ phước Thiên Quan, Ðịa Thủy miễn oan khiên.
- Ðại Thánh Tam Nguơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần, 3 lạy)
Nguyện dĩ Thử Công Ðức,
Phổ cập ư nhứt thiết.
Tụng Kinh bảo bình an,
Tiêu tai tăng phước thọ.
(12 lạy, 4 tiếng chuông)
***
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN THUYẾT THƯỜNG THANH TỊNH KINH
L ão Quân viết Ðại Ðạo vô hình sanh dục Thiên Ðịa, Ðại Ðạo vô tình vận hành Nhựt Nguyệt. Ðại Ðạo vô danh trưởng dưỡng vạn vật. Ngô bất tri kỳ danh, cượng danh viết Ðạo.
Ph ù Ðạo dã hữu thanh hữu trược hữu động hữu tịnh. Thiên thanh Ðịa trược, Thiên động Ðịa tịnh, nam thanh nữ trược, nam động nữ tịnh, giáng bổn lưu mạc nhi sanh vạn vật. Thanh dã trược chi nguyện, động dã tịnh chi cơ, nhơn năng thường “Thanh Tịnh, Thiên Ðịa Tấc Giai Qui.”
Phù Nhơn Thần háo thanh nhi Tâm nhiễu chi, nhơn Tâm háo tịnh, nhi dục khiển chi, thường năng khiển kỳ dục nhi Tâm tự tịnh trừng kỳ Tâm nhi Thần tự thanh, tự nhiên Lục Dục bất sanh “Tam Ðộc” tiêu diệt.
Sở dĩ bất năng dã vị Tâm vị trừng dục vị khiển dã. Năng khiển chi dã nội quan kỳ Tâm, Tâm vô kỳ Tâm ngoại quan kỳ hình, hình vô kỳ hình, viễn quan kỳ vật, vật vô kỳ vật, tam dã kỳ ngộ, duy kiến Hư Không. Quan không diệc không, không vô sở không, sở không ký vô, vô vô diệc vô, vô vô ký vô, đạm nhiên thường tịch, tịch vô sở tịch dục, khởi năng sanh, dục ký bất sanh tức thị Chơn Tịnh.
Chơn thường ứng vật, chơn thường đắc Tánh, thường ứng thường tịnh, thường Thanh Tịnh hỉ, như thử Thanh Tịnh, tiệm nhập Chơn Ðạo, ký nhập Chơn Ðạo danh vi đắc Ðạo, tùy danh đắc Ðạo thiệt vô sở đắc, vi hóa Chúng Sanh danh vi đắc Ðạo năng ngộ chi dã khả truyền Thánh Ðạo.
Thái Thượng Lão Quân viết: Thượng Sĩ vô tranh, Hạ Sĩ háo tranh, Thượng Ðức bất Ðức, Hạ Ðức chấp Ðức, chấp trứ chi dã bất minh Ðạo Ðức Chúng Sanh sở dĩ bất đắc Chơn Ðạo dã vị hữu Vọng Tâm ký hữu Vọng Tâm tức Kinh kỳ Thần, ký Kinh kỳ Thần tức trứ vạn vật, ký trứ vạn vật, tức sanh tham cầu, ký sanh tham cầu, tức thị phiền não, phiền não vọng tưởng, ưu khổ Thân Tâm, tiện tao trược nhục, lưu lảng sanh tử, thường trầm khổ hải vĩnh thất Chơn Ðạo. Chơn Thường chi Ðạo ngộ dã tự đắc, đắc ngộ Ðạo dã thường Thanh Tịnh hỉ.
BẮC ÐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG
1)- Nam mô Tham Lang Tinh, Thị Ðông phương Tối Thắng Thế Giới, Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật (1 lạy)
2)- Nam m ô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phương Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự Tại Như Lai Phật. (1 lạy)
3)- Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phương Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật. (1 lạy)
4)- Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phương Vô Ưu Thế Giới, Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật. (1 lạy)
5)- Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phương Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật. (1 lạy)
6)- Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phương Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật. (1 lạy)
7)- Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phương Lưu Ly Thế Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật. (1 lạy)
- Nam mô A Di Ðà Phật (7 lạy)
(Trì tụng mỗi tối 7 hoặc 21 biến)
BẮC ÐẨU CỬU TINH THÁNH CHÚ
Bắc Ðẩu Cửu Thần,
Trung Thiên Ðại Thần,
Thượng triều Kim Khuyết,
Hạ phúc Côn Lôn.
Ðiều lý can kỹ,
Thống chế Càn Khôn,
Ðại Khôi, Tham Lang,
Cự Môn, Lộc Tồn,
Văn Khúc, Liêm Trinh,
Vũ Khúc, Phá Quân,
Cao Thượng Ngọc Hoàng,
Tử Vi Ðế Quân.
Ðại châu Thiên Giái,
Tuế nhập vi trần,
Hà tai bất diệt,
Hà phước bất tràng,
Nguơn hoàng chánh khí,
Lai hiệp ngã thân,
Thiên Can sở chỉ,
Trú dạ thường luân,
Thiện tín đệ tử,
Háo Ðạo cầu linh.
Nguyện kiến tôn nghi,
Vĩnh bảo trường sanh,
Tam Thai hư Tinh,
Lục Thuần khúc sanh,
Sanh Ngã dưỡng Ngã,
Hộ Ngã thân hình.
Khôi, Câu, Hoang, Hạnh,
Tất, Phủ, Phiêu,Tôn, Ðế.
“Cấp cấp như luật lịnh”
Trở lại trang chánh
http://antruong.free.fr/thanchudalani.html
-
Long Hải - đất và người - Ashui.com
ashui.com › Home › Tương tác › Điểm đến
Translate this page
Sep 22, 2013 - Các áng khác thờ Diêu Trì Phật mẫu, Chúa Cậu (nhị vị công tử, là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành nương nương, Tứ Pháp nương nương, Ông Địa và Thần Tài. Ngoài ra, ngư dân còn lập thêm các bàn thờ khác, để thờ cúng: Cửu Thiên huyền nữ, Chúa Ngọc nương nương, Chư vị, Bà Mẹ sanh, Hỏa tinh ...
==========
Long Hải - đất và người
CHỦ NHẬT, 22 THÁNG 9 2013 13:00 TBKTSG ONLINE Viết email In
Long Hải là một thị trấn thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Long Hải được nhiều người biết đến nhờ có bãi biển nên thơ, sóng nhẹ, là nơi nghỉ dưỡng tuyệt vời và còn hấp dẫn bởi dinh Cô và lâu đài chú Hỏa với nhiều huyền thoại.
Nhiều người đi Long Hải nhắm vào điểm đến chính là Dinh Cô. Dinh Cô được xây dựng kiên cố, áp sát chân núi Minh Đạm, trên một diện tích hơn 1.000 mét vuông. Cổng tam quan vào Dinh Cô nằm bên chân mũi Thùy Vân với ba lớp mái, mái giữa nhô cao. Phía trên lớp mái giữa đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, hai lớp mái hai bên đắp nổi hình chim phượng. Hai bên cổng có cặp sư tử chầu. Qua cổng tam quan là 37 bậc cấp đưa khách vào chánh điện.
Ảnh bên: Dinh Cô ở Long Hải, Bà Rịa-Vũng Tàu. (Ảnh: Cát Lộc)
Bên trong chánh điện có 7 áng thờ, áng giữa thờ Bà Cô với bức tượng Bà Cô cao hơn nửa thước. Bà Cô mặc áo choàng đỏ viền kim tuyến, đội mão gắn ngọc. Các áng khác thờ Diêu Trì Phật mẫu, Chúa Cậu (nhị vị công tử, là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành nương nương, Tứ Pháp nương nương, Ông Địa và Thần Tài. Ngoài ra, ngư dân còn lập thêm các bàn thờ khác, để thờ cúng: Cửu Thiên huyền nữ, Chúa Ngọc nương nương, Chư vị, Bà Mẹ sanh, Hỏa tinh thánh mẫu, Quan Thánh đế quân, Quan Thế Âm bồ tát...
Khởi thủy, Dinh Cô là một ngôi miếu nhỏ đơn sơ được xây cất theo một trong vài truyền thuyết gần giống nhau: Cách đây khoảng 200 năm, cô gái trẻ Lê Thị Hồng (tục danh Thị Cách - có tư liệu ghi Lê Thị Hồng Thủy), quê ở Phan Rang đi đường biển qua đây thì gặp giông bão lớn. Bão làm lật thuyền khiến Cô rơi xuống biển tử nạn. Xác Cô tấp vào hòn Hang và được ngư dân chôn cất trên đồi Cô Sơn rồi lập miễu thờ, theo tập quán. Mộ Cô nằm cách Dinh Cô hiện nay chừng 1 cây số. Đây cũng là một nơi khang trang, đẹp đẽ, thu hút nhiều người đến viếng thăm, chiêm bái, đặc biệt là vào ngày lễ hội Nghinh Cô.
Từ khi lập miếu, ngư dân nơi đây thường được Cô báo mộng điềm lành, giúp tránh được nhiều dịch bịnh nên họ tôn tạo cái miễu nhỏ ấy ngày càng khang trang hơn và đã nhiều lần được tu bổ tương đối. Sau một trận hỏa hoạn, Dinh Cô bị thiêu rụi. Năm 1987, Dinh Cô được xây dựng lại như hiện nay.
Hằng năm, cứ từ ngày 10 đến 12 tháng Hai (âm lịch), tại Dinh Cô diễn ra lễ hội Nghinh Cô, thu hút rất đông người từ khắp nơi đến tham dự. Lễ hội có các đoàn lân của người Việt, dàn nhạc ngũ âm của người Khmer góp vui. Đêm trước lễ chính là lễ cầu an tại chánh điện, bên ngoài diễn ra đêm hội hoa. Sáng ngày 12, lễ rước long trọng diễn ra trên biển với hàng chục ghe thuyền trang hoàng lộng lẫy, cầu mong trời yên biển lặng, tôm cá đầy khoang...
Lâu đài Chú Hỏa trước đây, khi còn có người ở. (Ảnh: NĐH.)
Đường đến Dinh Cô đi ngang một lâu đài sừng sững cao, in hình trên nền trời xanh biếc. Đó là nhà chú Hỏa. Theo các tư liệu, chú Hỏa tên là Hui Bon Hoa (tên Việt là Hứa Bổn Hòa, thường gọi chú Hỏa), là một thương gia giàu có nhất nhì vùng Sài Gòn - Chợ Lớn hàng trăm năm trước. Chú Hỏa gốc người Phúc Kiến (có tư liệu ghi là Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc). Cha mẹ ông sang Việt Nam định cư vào thế kỷ XVII.
Đến đầu thế kỷ XX, chỉ với mỗi một cái nghề mua bán ve chai lông vịt, chú Hỏa đã trở thành người giàu có bậc nhất, nổi tiếng khắp xứ. Với cái gánh cần xé và ý chí nhẫn nại, kiên trì, chú Hỏa lê đôi chân dẻo dai của mình khắp nơi kiếm ăn và sống hết sức cần kiệm. Giàu có rồi, chú Hỏa hay giúp đỡ đồng hương nghèo khó, góp công góp của quan trọng trong sự hình thành bộ mặt đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn trong thời gian đó, hiện nay còn, như Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM, khách sạn Majestic, bệnh viện Từ Dũ, trung tâm Cấp cứu Sài Gòn, khu nhà khách Chánh phủ...
Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển đã viết về chú Hỏa như sau: “Tuy làm giàu cho mình đã đành, nhưng cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thịnh vượng kinh tế miền Nam”. Ngoài những căn nhà, dãy phố ở Sài Gòn - Chợ Lớn, chú Hỏa còn xây dựng một lâu đài ở Long Hải nhằm những lúc cần thư giãn đưa gia đình đến đây nghỉ ngơi.
Ngôi nhà bị bỏ hoang niều năm nay. (Ảnh: PHN.)
Lâu đài chú Hỏa ở Long Hải được xây bằng đá xanh và gạch theo kiểu Pháp, trên ngọn đồi được người địa phương gọi là “đồi chú Hỏa”, rộng trên 6.000 m2. Lâu đài có hai tầng, có 6 phòng ngủ, 1 phòng khách, 1 nhà bếp, với khoảng 100 cửa sổ lớn và nhỏ toàn bằng gỗ dầu. Hệ thống các phòng đều được thiết kế thoáng mát.
Theo cụ Hồ Văn Khoan, người giúp việc chú Hỏa hàng chục năm liền, thì khi sang Pháp định cư, lâu đài nầy được bà Lê Thị Long (Sài Gòn) thuê. Bà cho sửa sang nhiều hạng mục, trong đó có một nhà hàng để biến lâu đài thành một khách sạn hạng sang và đã thu hút nhiều khách đến vui chơi, nghỉ dưỡng. Chiến tranh diễn ra ác liệt, kinh doanh bất lợi, năm 1965, bà Long cho ông Mai Văn Ba (Sài Gòn) thuê lâu đài. Dù đã hết sức cải tạo, nhưng lâu đài vẫn ngày một vắng khách, xuống cấp.
Năm 1986, Công ty Du lịch Đồng Nai tiếp nhận lâu đài, đầu tư, nâng cấp khai thác kinh doanh du lịch với tên gọi khách sạn Palace, với 18 phòng ngủ, 1 nhà hàng, 1 nhà bếp, 1 sân tennis. Tuy nhiên khách sạn Palace chẳng hấp dẫn được bao nhiêu khách. Theo một số người ở địa phương cho biết, sau khi cất lâu đài nầy, chú Hỏa cho cô con gái đến ở. Một thời gian sau, cô bị bịnh cùi rồi chết, hồn ma vơ vẩn... Từ đó lâu đài bị bỏ hoang.
Nhưng theo một tư liệu, khoảng năm 1972, khi quay bộ phim “Con ma nhà họ Hứa", đạo diễn Lê Hoàng Hoa đã kéo đoàn làm phim từ Sài Gòn ra lâu đài nầy thực hiện các cảnh quay. Phim “Con ma nhà họ Hứa” kể chuyện một cô gái xấu xí vì bịnh cùi nên bị nhốt trong lâu đài. Một hôm, người phục vụ mang cơm đến và nhìn thấy bộ mặt gớm ghiếc của cô nên ngã lăn ra chết, thành ma. Bộ phim hấp dẫn nhưng để lại hậu quả nghiêm trọng là lâu đài ngày càng trở nên hoang vắng. Đứng sừng sững trên ngọn đồi cao, lâu đài được bao quanh bằng những hàng cây sứ nở bông trắng toát, tỏa mùi thơm dịu nhẹ, cùng những cây phượng bông đỏ rực nổi bật trên nền lá xanh tươi. Hấp dẫn, quyến rũ nhưng không thành điểm kinh doanh khách sạn được!
Bãi biển làng chài ở Long Hải. (Ảnh: Cát Lộc)
Bãi biển cạnh Dinh Cô có khá nhiều hàng quán. Quán ăn với các loại hải sản tươi sống, cùng với các quán cà phê giải khát phục vụ khách tham quan, cúng viếng. Đi dọc bãi biển, chẳng thấy cảnh rừng dương xanh mướt xào xạc tiếng lá reo năm nào, thay vào đó là những nhà cửa, quán xá, resort che khuất con đường dẫn đến Dinh Cô. Đi một đoạn biển trên nền cát mềm mát, khoảng nửa cây số, thấy một làng chài nằm buồn hiu trên bãi biển. Trên bãi, sát chân sóng có nhiều ngư dân đang luôn tay bận bịu với công việc vá lưới, thu hoạch hải sản vừa mới đánh bắt, bên những chiếc ghe nhỏ (sõng nan) hay thuyền thúng gối mình trên bãi cát.
Chị Đàm Thị Nụ, một người dân ở đây cho biết họ chỉ “nhá ghẹ” chứ không đánh bắt các loại cá khác. Nhá là dụng cụ làm bằng sắt hình tròn, đường kính khoảng 50cm, mắc vào giàn lưới. Vòng sắt có một thanh sắt chắn ngang, gắn mồi cá chình phân hủy, có mùi tanh, để dụ ghẹ vào... Ghẹ thường sống ở độ sâu 3 đến 6 mét, trong các rạn san hô sát đáy biển. Tìm đúng nơi nầy, canh đúng thủy triều sẽ thu hoạch được nhiều ghẹ. Nhá ghẹ lý tưởng nhất là từ tháng 8 đến tháng 3 năm sau, tính theo âm lịch. Tuy nhiên cũng có người dùng lưới đánh bắt ghẹ.
Nghe giọng nói nằng nặng của ngư dân đánh bắt ghẹ, hỏi và được ông Trần Văn Đính cho biết họ là người từ Thanh Hóa, Nghệ An vào đây lập làng sinh sống. Hàng ngày, họ rời bến vào lúc 1 giờ khuya, ra khơi khoảng 10 cây số. Khoảng 4 - 5 giờ sáng, họ trở về. Ghe hoặc thuyền thúng gác lên bãi, cả nhà xúm nhau gỡ ghẹ khỏi lưới.
Vì đánh bắt không xa nên ghẹ ở đây lớn lắm chỉ bằng ba ngón tay người lớn. Loại nầy có giá nhất, khoảng 150.000đ/kg. Còn lại, ghẹ các loại có giá: 20.000đ tới 120.000đ/kg. Loại sau cùng nầy bán cho người ta xay làm thức ăn gia súc. Mỗi ngày, ngư dân đánh bắt được khoảng 30kg ghẹ các loại, trừ chi phí cũng giúp gia đình họ đủ sống qua ngày. Cực nhọc, vất vả là vậy, nhưng vào mùa mưa bão họ phải đối mặt với những cơn thịnh nộ của biển khơi. Thật là nguy hiểm.
Cát Lộc
http://ashui.com/mag/tuongtac/diem-d...-va-nguoi.html
-
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi 49 Ñaø Naüng
Cuốn sách Tín ngưỡng thờ Nữ Thần của
người Việt ở xứ Quảng của tác giả Nguyễn
Xuân Hương (NXH) do Nxb Đà Nẵng ấn
hành năm 2011. Sách dày 100 trang,
gồm: Lời mở đầu (tr. 5-9), Chương 1: Môi trường của
tín ngưỡng thờ Nữ Thần của người Việt xứ Quảng (tr.
10-23), Chương 2: Diện mạo tín ngưỡng và nghi lễ thờ
Nữ Thần ở xứ Quảng (tr. 24-75); Chương 3: Nét chung
và riêng trong tín ngưỡng thờ Nữ Thần ở xứ Quảng (tr.
76-89); và Kết luận (tr. 90-93). Ngoài ra, cuối sách còn
có danh mục Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục (tr.
93-100).
Trong cuốn Tín ngưỡng thờ Nữ Thần của người Việt
ở xứ Quảng mà tôi đang bàn luận trong bài viết này
có nhiều điểm đáng ngờ, khiến tôi thấy cần có ý kiến
trao đổi với tác giả NXH. Để đọc giả tiện theo dõi và
khảo chứng, tôi xin trao đổi theo từng vấn đề mà NXH
đã viết trong cuốn sách này.
1. Về thời điểm người Việt định cư ở xứ Quảng
và thời điểm ra đời làng Hải Châu
NXH viết: “Lớp cư dân Việt đầu tiên đến sinh sống
ở xứ Quảng là vào đầu thế kỉ XV, đời Hồ Quý Ly (1402),
khi phần đất Chiêm Động và Cổ Lũy của Chăm pa được
sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt”. (tr. 14) …“Hải Châu là
một làng lớn ở Thanh Hóa theo dòng Nam tiến vào xứ
Quảng vào năm 1602, tên làng này đã được lặp lại trên
đất Quảng. Hiện nay, 43 tộc họ còn lưu dấu trong nhà
thờ Tiền Hiền làng Hải Châu, nay là phường Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng”. (tr. 16).
Ai cũng biết cuộc hôn nhân giữa công chúa Đại
MẤY Ý KIẾN VỀ CUỐN SÁCH
"TÍN NGƯỠNG THỜ NỮ THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở XỨ QUẢNG"
CỦA NGUYỄN XUÂN HƯƠNG
?Lê Văn Hảo*
*
Nhà nghiên cứu, Thành phố Đà Nẵng.
Việt và quốc vương Chiêm Thành vào năm 1306, thực
chất là sự bang giao chính trị. Công chúa Huyền Trân
được gả cho vua Chế Mân của nước Chiêm Thành là
để đổi lấy hai châu là Ô và Lý của Chiêm Thành. Vua
Trần Anh Tông đổi châu Ô thành Thuận Châu và châu
Lý làm Hóa Châu. Đà Nẵng, Quảng Nam, mảnh đất
nằm về phía nam của đèo Hải Vân lúc bấy giờ thuộc
về Hóa Châu.1
Năm 1306, quan Hành khiển Đoàn Nhữ Hài được
Nghiên cứu - Trao đổi
50 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
vua Trần Anh Tông tín nhiệm, cử vào kinh lý vùng đất
mới này, đã phủ dụ nhân dân và tổ chức guồng máy
cai trị địa phương.2
Trong thời suy tàn của nhà Trần, Hóa Châu luôn
bị Chiêm Thành cướp phá, là mục tiêu đầu tiên trong
các cuộc xâm lăng. Việt sử thời đó khi chép về vùng
đất này thường gọi đây là vùng đất “ki mi”, nghĩa là
“ràng buộc lỏng lẻo”.
Năm 1337, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga tiến
đánh Đại Việt và đã từng làm chủ vùng đất từ Hóa
Châu cho đến Nghệ An và nhiều lần tấn công vào
Thăng Long, kinh đô của Đại Việt khiến vua nhà Trần
phải bảy lần bỏ kinh đô Thăng Long mà chạy. Năm
1391, tướng nhà Trần là Hồ Quý Ly tái chiếm lại Hóa
Châu.
Sau khi nhà Hồ (1400 - 1407) soán ngôi nhà Trần,
thì vào năm 1402, vua Hồ Hán Thương (1401 - 1407),
con trai của Hồ Quý Ly, đã sai đại tướng Đỗ Mãn, tấn
công Chiêm Thành và đã giành được một vùng đất
rộng lớn, kéo dài từ Chiêm Động đến Chiêm Lũy (Cổ
Lũy), tức là từ nam Quảng Nam cho đến Quảng Ngãi
ngày nay.3
Tuy nhiên, vùng đất này luôn bị Chiêm Thành
quấy phá, kể cả khi triều Lê đã đại định đất nước,
thì Chiêm Thành cũng nhiều lần cất quân tấn công
đánh phá đến tận Hóa Châu vào các năm 1434 (đời
vua Lê Thái Tông), 1444, 1445 (đời vua Lê Nhân Tông)
và 1470 (đời vua Lê Thánh Tông). Vì thế, sau khi lên
ngôi, vị vua anh minh Lê Thánh Tông, với tầm nhìn
chiến lược, nhìn xa trông rộng, quyết tâm triệt tiêu
cho được cái họa cướp phá do Chiêm Thành gây ra và
mở mang bờ cõi về phương Nam để làm hậu cứ vững
chắc cho đất nước. Vì thế, năm 1471, vua Lê Thánh
Tông đã tiến hành một cuộc đại viễn chinh quy mô
vào Chiêm Thành, đẩy biên giới phía bắc của nước
Chiêm Thành lùi vào cho đến Thạch Bi Sơn (Phú Yên).
Dải đất rộng ở phía nam núi Hải Vân được đặt tên là
Quảng Nam từ đấy.4
Sách Thiên Nam dư hạ chí, niên hiệu Hồng Đức của
vua Lê Thánh Tông có ghi huyện Điện Bàn thuộc xứ
Quảng Nam lúc bấy giờ có tất cả 12 tổng, 96 xã, trong
đó có xã Mục Châu và Lang Châu.5
Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An viết năm
1553, có đề cập đến “ngũ xã” của Đà Nẵng lúc đó gồm:
Hải Châu, Liên Trì, Thạc Gián, Cẩm Lệ, Hóa Khuê. Hải
Châu là xã được hình thành bởi sự sáp nhập hai xã
Mục Châu và Lang Châu. Xã Mục Châu trồng nhiều
hoa hồng, xã Lang Châu sản xuất nhiều lụa trắng.6
Gia phả tộc Phan ở Cổ Mân (nay thuộc phường
Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng) phát
xuất từ ông thỉ tổ Phan Công Thiên ở Thanh Hóa vào
lập nghiệp tại Đà Sơn (nay thuộc phường Hòa Khánh,
quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng) vào năm 1318,
sau cuộc hôn nhân của Huyền Trân công chúa với
vua Chiêm Chế Mân. Đến thời chúa Nguyễn (1558 -
1775), chi tộc Phan (hệ 1 - hệ tộc 3) phân nhánh sang
lập nghiệp tại Trà Sơn Úc (Vũng Thùng) cùng với tộc
Phạm, thành lập làng Cổ Mân vào năm 1665.7
Từ năm 1527 cho đến 1568, phần đất thuộc Quảng
Nam Thừa tuyên, trải dài từ đèo Hải Vân đến Thạch Bi
Sơn, nằm dưới quyền cai quản của quan đại thần nhà
Lê là Bùi Tá Hán. Năm 1558, Nguyễn Hoàng mới vào
Nghiên cứu - Trao đổi
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi 51 Ñaø Naüng
cai quản đất Ái Tử (Quảng Trị). Đến năm 1600, sau khi
Bùi Tá Hán chết (1568) Nguyễn Hoàng mới tiến dần về
phương Nam tiếp quản vùng đất nói trên.8
Qua những chứng cứ nêu trên thì người Việt đầu
tiên vào lập nghiệp ở đất Quảng (bao gồm cả Đà
Nẵng ngày nay) đâu phải vào năm 1402 và làng Hải
Châu ở Đà Nẵng đâu phải là làng được thành lập năm
1602 như tác giả NXH đã viết.
2. Về căn nguyên của tín ngưỡng thờ Mẫu
NXH giải thích: “Để được bình yên trong cuộc sống,
được an toàn trong lao động sản xuất, các cộng đồng cư
dân đã tin tưởng vào sự hỗ trợ của các vị thần linh, trong
đó có vai trò của các Nữ thần/Mẫu”. (tr. 12). Viết như thế
thì quá sức sơ lược, không giải thích được căn nguyên
của vấn đề vì sao người Quảng nói riêng, người miền
Trung nói chung lại có tín ngưỡng thờ Mẫu.
Lịch sử loài người từ thuở hồng hoang đã nghĩ
đến thần: thần sông, thần núi, thần đất, thần gió, thần
mây, thần mưa, thần sấm sét... Từ đa thần, phiếm thần
cho đến nhất thần giáo được quy kết vào Thượng đế,
Chúa, Phật... Niềm tin tín ngưỡng, tâm linh, tính tôn
giáo, tính triết học xuất hiện là lẽ đương nhiên để đáp
ứng những nhu cầu và khát vọng của đời sống vật
chất và tinh thần của con người nói chung, người Việt
đất Quảng nói riêng khi phải đối mặt với những cản
trở của tự nhiên trong khi khả năng có giới hạn của
mình chưa thể vượt qua. Đồng thời, Việt Nam nằm
trên bán đảo Đông Dương, hấp thụ hai luồng văn
hóa lớn là Ấn Độ và Trung Hoa. Các nền triết học được
giao thoa chủ yếu qua ba tôn giáo chính là Nho (đạo
Khổng - Khổng Tử), Lão (đạo Lão - Lão Tử), Thích (đạo
Phật - Thích Ca). Xứ Quảng xưa thuộc về vương quốc
Chiêm Thành, chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ rất
đậm nét. Thời kì huy hoàng “tu viện Phật giáo Đồng
Dương” (nay là xã Bình Định, huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam) rất nổi tiếng vào thế kỉ thứ IX. Bởi vậy,
tín ngưỡng thờ Nữ Thần ở xứ Quảng có liên quan đến
Phật giáo Ấn Độ và các danh xưng trong Phạn ngữ.
- Chữ Thượng Đế trong tiếng Phạn (sanskrit) là
Bhagwan. Bhag nghĩa là “tử cung, cơ quan sinh dục nữ,
nguồn gốc”. Còn Wan nghĩa là “cơ quan sinh dục nam”.
Bhagwan nghĩa là “đấng sáng tạo”, “người đã dùng âm
hộ của vũ trụ để sáng tạo”. Ví dụ: Bhagwan Gautama
Buddha (Phật Thích Ca).9
- Chữ Như Lai trong tiếng Phạn là Tathagata, được
người Trung Hoa phiên âm và giải nghĩa như sau: 如
所 從 來 亦 無 所 去, 故 名 如 來 “Như sở tùng
lai, diệc vô sở khứ, cố danh như lai”, nghĩa là: “không từ
đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, là như lai”.10 Tathagata
(Như Lai), được định nghĩa trong tiếng Phạn là “yoniso
manaskara” (như lý tác ý).
- Yoni nghĩa là “tử cung, cái cung của đứa con, mọi
người sinh ra đều từ đó”. Vì thế Yoni có nghĩa là “cội
nguồn”. Khi đưa về đúng cội nguồn, không lạc hướng
thì gọi là Yoniso (như lý).
- Manaskara (tác ý) nghĩa là “khởi ý niệm, tư duy,
nghĩ về”. “Như lý tác ý” là “nghĩ về bầu thai mẹ, về mẹ,
về cội nguồn, nguồn sáng của vũ trụ”.11
- Bhagwan, Tathagata, Garbha, Sugata đều ám chỉ
đến Phật, Như Lai, Chúa, Thượng đế.12
Như vậy, Thượng đế, Chúa, Phật, Như Lai, Vũ Trụ,
Tạo Hóa, Nữ Thần, Mẫu, Mẹ, Bà đều có chung một ý
niệm. Những ngôi mộ xưa tại xứ Quảng - mộ đất hoặc
mộ xây - hình dáng chính giữa nấm mộ hình tròn,
chung quanh bao bọc khuynh bờ có cửa vào. Đứng
trên cao nhìn xuống mộ, trông giống tử cung của phụ
nữ. Người Việt miền Trung quan niệm rất rõ: “ta sinh ra
nơi nào, khi chết về lại nơi đó”.
3. Về tên gọi và gốc tích của các nữ thần
- NXH viết: “Trong phạm vi gia đình, tín ngưỡng của
người Việt xứ Quảng cũng khá đa dạng. Trong các gia
đình, thường có các hình thức thờ cúng như sau: Thờ
Ngũ Tự gia đường - 5 bà: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ...”. (tr.
21).
Đây là một suy diễn chủ quan hoặc do mắc phải
căn bệnh “cận thị sử quan” của NXH. Tôi xin dẫn chứng
một câu chuyện liên quan đến “Ngũ Tự gia đường” mà
NXH đã đề cập trong đoạn văn trên:
Tại chợ Ái Nghĩa (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam),
khi Tú Quỳ ghé thăm nhà một người bạn, nhằm lúc vợ
Nghiên cứu - Trao đổi
52 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
của bạn vừa gọi thợ làm xong trang thờ Ngũ Tự, tức
là 5 vị thần: Nội Gia Viên Trạch, Ngoại Gia Viên Trạch,
Ông Táo, Lứu Thần (thần xối), Thổ Địa, chứ không phải
là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như NXH giải thích (vì Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là Ngũ hành hay Ngũ tinh). Tú Quỳ
vui vẻ viết cho vợ bạn 6 chữ Hán 眾 三 乎 千 上 流
“Chúng tam hồ, thiên thượng lưu” để thờ trên trang
Ngũ Tự theo lời cầu xin của bà. Ai cũng biết Tú Quỳ
văn hay chữ giỏi, thường viết câu đối, chữ liễn cho
dân làng nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, ở đây không ai
hiểu ý nghĩa của 6 chữ trên. Sau này, Tú Quỳ giải thích
cho một người bạn như sau: chúng là “đông”, tam là
“ba”, hồ là “ôi”; ba chữ này diễn Nôm là “đông ba ôi”,
nói lái là “đôi ba ông”, hàm ý “hai (đôi) + ba = năm”;
thiên là “ngàn”, thượng là “trên”, lưu là “trôi”; ba chữ
này diễn Nôm là “ngàn trên trôi”, nói lái là “ngồi trên
trang”.13
Ngũ Tự gia đường không phải là Ngũ hành. Những
gia đình sau này nếu có thờ Phật, thờ tổ tiên ông bà,
thờ Ông Táo hay Tài Thần, Thổ Địa riêng lẻ thì không
cần thờ Ngũ Tự gia đường nữa. Những ngôi nhà mới
làm, chưa thờ ai cả, nếu để cái nhà trống trơn thì cảm
thấy nguội lạnh, nên phải lập bàn thờ Ngũ Tự để có
sinh khí trong nhà.
- Ở một đoạn khác, NXH viết: “Thờ Nữ thần/Mẫu.
Đó là các Nữ thần: Thiên Y A Na và các hóa thân... Ngoài
Thiên Y A Na có nguồn gốc Chăm đang được thờ phụng
phổ biến, còn một số nữ thần khác tuy cũng gốc Chăm,
nhưng chủ yếu chỉ còn vang vọng trên văn tế, như: Hồng
Phi phu nhân, Hồng Ba công chúa, Ma Lũ Man Nương,
Lồi Phi phu nhân, Chúa Ngung Man Nương...” (tr. 19).
“Thiên Y A Na là một từ ghép Hán Việt-Chăm. “Thiên”
là Trời, A Na là Mẹ/Mẫu, Thiên Y A Na có nghĩa là Bà mẹ
linh thiêng trên trời - Bà Trời”. (tr. 90).
Bác sĩ Albert Sallet xứng danh là nhà “dân tộc học
của xứ Trung Kỳ”. Ông đã lặn lội, sưu tầm trong tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng suốt 4 năm để viết nên bài
khảo cứu Lưu dấu Chàm trong phong tục và tín ngưỡng
của người An Nam tại Quảng Nam in trong tập san của
Hội đô thành hiếu cổ (B.A.V.H.). Trong bài khảo cứu
này Albert Sallet cho rằng: “Thánh Mẫu Thiên-Y-A-Na
Chúa Ngọc tất nhiên thuộc nguồn gốc Chăm. Truyền kì
về “Bà” có xuất xứ từ phía Nam loan đi. Ông bạn Đào
Thái Hanh có cung cấp cho chúng ta một thuyết theo
sách “Bách Thần” (Livres des Cent Génies) và “Địa lý lịch
sử học An Nam” (Géographie historique de l’Anam),
ngay từ những số đầu của tập san Hiếu Cổ Huế. Theo
Léopold Michel Cadière, bà Thiên-Y-A-Na đại diện cho
thần “U Ma” mà người An Nam thường viết qua sự chỉ
danh và phát âm thành “Ngu Ma”.
14 Còn nhà nghiên
cứu Đào Thái Hanh thì cho rằng: “Thiên-Y-A-Na sẽ
không định nghĩa được, mà phải xem như là sự phiên
âm của một danh xưng”. 15
Trong bài khảo cứu của bác sĩ Albert Sallet cũng
đã nói đến “Bài văn cúng đất” của nhân dân Nam Ngãi
trở vào, khi thỉnh các âm hồn về dự lễ cúng, có đoạn:
“Cảm kiền cốc vu: ...Chăm, Chợ, Mọi Rợ, Chủ Ngu Ma
Nương... đẳng chúng cô hồn đồng lai phụng hưởng...”
(Nghĩa là: Dám thành khẩn trình với: ...ma Chăm, ma
Chợ, ma Mọi, ma Rợ, Chúa Ngu Ma Nương... cùng các
hạng cô hồn cùng đến thụ hưởng...). Chủ Ngu Ma
Nương phải chăng là danh hiệu phiên âm từ Sanskrit
ngữ “Umâ” là một trong những tên của vợ thần Civa là
Cakti. Ta cũng không nên quên rằng vương triều sáng
lập ra nước Chiêm Thành, theo huyền thuyết, là thỉ
hoàng đế Sri Mara, cũng lại là tá danh của nữ thần Umâ
tức là Po Naga (Thiên-Y-A-Na)”.16
Như vậy, Thiên-Y-A-Na hay Chủ Ngu Ma Nương,
Chủ Ngung Man nương, Man Nương Thần Nữ, Chủ
Ngung cổ tích, chúa Tiên, chúa Ngọc,... đều là danh
xưng chỉ Thiên-Y-A-Na, không phải là hóa thân như
lời của NXH.
- NXH viết: “Phần nội cảnh/nội điện, là nơi có ban
thờ và cốt tượng Bà Chúa Ngọc: chính giữa thờ Bà, hai
Nghiên cứu - Trao đổi
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi 53 Ñaø Naüng
bên thờ Đệ nhất tiên Ông và Đệ nhị tiên Ông - là hai con
trai của Bà, cùng ba cậu giữ Cung, gồm: Cậu Xuân, Cậu
Quý, Cậu Tài”. (tr. 29).
“Bà Chúa Ngọc là tên rút gọn của Thánh Thiên Y
A Na Chúa Ngọc... một pho tượng có 3 đầu, người An
Nam thì cho rằng hình tượng này biểu thị một bà mẹ
và 2 người con: mẹ là bà Chúa Ngọc; 2 con là Quý và
Tài. Pho tượng này được sắc phong Thánh Nữ Diêm Phổ
(thuộc tổng Đức Hòa, phủ Tam Kỳ ngày xưa)”. Bà Chúa
Ngọc ở điện Hòn Chén (Huế) cũng cùng với 2 con,
Cậu Quý, Cậu Tài.
Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của
(quyển 1, 1895, tr. 19), mục “Bảy bà ba cậu” giải thích:
“Bà chúa Tiên, bà chúa Ngọc, bà chúa Xứ, bà chúa Động,
bà Cổ Hỉ, bà Thủy, bà Hỏa. Theo huyền thuyết, bà chúa
Ngọc làm bạn với một thái tử Trung Hoa sinh ra Cậu
Trày (Tài), Cậu Quý, Cậu Lý, Cậu Thông, nói theo vần, kể
là 3 cậu”.
17
Vậy thì “Đệ nhất tiên Ông”, “Đệ nhị tiên Ông” là hai
con trai của bà, cùng ba cậu giữ cung, gồm: Cậu Xuân,
Cậu Quý, Cậu Tài là ý nghĩa gì? Con trai của bà tên gì,
theo chủ quan của tác giả NXH?
- Ở vài đoạn khác, NXH viết: “Hóa thân từ đá: Thần
Thiên Sanh Thạch Tượng (mom đá có hình voi nằm -
làng Nam Thọ, Đà Nẵng); Bà Cổ Dàng (Hội An); Bà Thu
Bồn (Duy Xuyên). (tr. 20).
“Trước hết, có một số Bà được thác sinh từ đá, trên
vết tích kiến trúc thờ tự của người Chăm xưa. Bà Cổ
Vàng (Hội An), Bà Bô Bô (Thu Bồn) thuộc dạng này”. (tr.
34).
“Một hôm, đá nhập đồng vào một người đàn bà
“nói” mình là linh hồn một nữ tướng đánh giặc bị thua
trận...”. (tr. 35).
“Truyền thuyết thứ nhất kể: Bà Thu Bồn là một nữ
tướng Chiêm Thành...”. (tr. 36).
“Truyền thuyết thứ hai kể: Bà Thu Bồn được sinh ra
trong một gia đình phú hộ...”. (tr. 37).
“Truyền thuyết thứ ba kể: Bà Thu Bồn là một nữ tướng
nhà Lê bị giặc Chiêm Thành truy đuổi đến thôn Thu Bồn
thì ngã ngựa. Tóc bà quấn vào chân ngựa, không kịp
thoát, nên bị giết...”. (tr. 38).
Qua các trích dẫn trên, tôi nhận thấy tác giả NXH
không nhất quán, trước sau lộn xộn, mâu thuẫn. Đã
kết luận rằng một số bà “thác sinh từ đá”, nhưng rồi lại
viết họ như là người, “có linh hồn nhập xác”. Câu “đá
nhập đồng vào một người đàn bà “nói” mình là linh hồn
nữ tướng” khiến tôi phải thắc mắc: tại sao NXH biết
là “đá nhập đồng”? Tại sao không viết là “linh hồn nữ
tướng nhập đồng” cho dễ hiểu?
- Về “thân thế” một số nữ thần khác, NXH đưa ra
giả thuyết: “Bên cạnh thờ Thiên Y A Na theo dạng chính
danh, cư dân Việt xứ Quảng còn thờ phụng một số Bà
khác, trong đó có một số Bà là “hóa thân” của Thiên Y
A Na/Chúa Ngọc... Đó là: Bà Chúa Lồi (Khuê Trung - Đà
Nẵng), Bà Dàng phi (Quá Giáng - Đà Nẵng), Bà Dàng
què, Bà Dàng Râu (Sơn Trà - Đà Nẵng), Bà Thân xứ và Bà
Đa xứ (An Hải - Đà Nẵng), Bà Dàng Chào (Điện Dương -
Quảng Nam), Bà Phường Chào (Đại Cường, Đại Lộc), Bà
Dàng Lồi (Cẩm Thanh - Hội An), Bà Cổ Vàng/ Dàng (Cẩm
Hà - Hội An), Bà Dàng Bô/ Bà Bô Bô - Thu Bồn; Bà Chiêm
Sơn (Duy Xuyên, Duy Hải - Quảng Nam), Bà Chợ Được
(Thăng Bình - Quảng Nam)”. (tr. 32-33).
Nếu Bà Bô Bô (Thu Bồn) là hóa thân của nữ thần
Thiên-Y-A-Na thì tại sao gọi là “thác sinh từ đá” như
NXH đã viết trên đây? Riêng việc cho Bà Thân Xứ, Bà
Đa Xứ cũng là hóa thân của nữ thần Thiên-Y-A-Na thì
tôi xin giới thiệu NXH nên tìm đọc bài viết Về các địa
Nghiên cứu - Trao đổi
54 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Chú thích
1, 4 Lê Văn Hảo. “Về các địa danh Bà Thân, Hà Thân, Hà
Thị Thân ở Đà Nẵng”. Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Số
16+17/2011, 77.
2, 3 Lê Duy Anh. Lược sử Đà Nẵng 700 năm (1306 - 2006).
(Đà Nẵng: Đà Nẵng, 2006), 9-12.
5, 6 Phan Khoang. Việt sử xứ Đàng Trong. (Sài Gòn: Khai Trí,
1970), 41- 42, 113.
7
Lê Văn Hảo. “Khảo sát danh xưng Cổ Mân tên làng
xưa tại Đà Nẵng”. Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Số
5+6/2010, 48.
8
Lê Văn Hảo. “Về những ngôi mộ cổ ở thành phố Đà
Nẵng”. Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Số 7+8/2010, 70.
9 Đỗ Tư Nghĩa. Cuộc đời của Luận sư Rajneesh Chandra.
(TPHCM: Trẻ, 2007), 221-230.
10 Kinh Kim Cang.
11 Nhất Hạnh. Trái tim của bụt. Quyển 1. (Sài Gòn: Lá Bối,
1996), 208.
12 Junjiro Takakusu (Tuệ Sĩ dịch). Tinh hoa triết học Phật
giáo. (TPHCM: Phương Đông, 2007), 55.
13 Thy Hảo Trương Duy Hy. Thơ văn Tú Quỳ. (Hà Nội: Văn
hóa Thông tin, 2008), 212-213.
14 Dẫn theo: Nguyễn Sinh Duy. Quảng Nam và những
vấn đề sử học. (Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2006), 504
15 Đào Thái Hanh. “La deseesse Thiên-Y-A-Na”. B.A.V.H,
No 2/1914.
16, 17, 18, 19 Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề
sử học. (Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2006), 504-505, 522.
danh Bà Thân, Hà Thân, Hà Thị Thân ở Đà Nẵng đăng
trên tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng (số
16+17, năm 2011) để biết thêm về lai lịch Bà Thân.
Về Bà Chúa Lồi, thì có liên quan đến sự tồn tại của
các phế tích bằng đá của vương quốc Chiêm Thành.
Sau khi Chiêm Thành bị Đại Việt thôn tính, các tượng
thờ bằng đá, bằng đồng, các văn bia của người Chăm
đã bị bỏ mặt, không được phụng thờ như trước nên
cái thì bị chôn vùi dưới những dòng sông hay trong
cồn cát; cái thì bị thất lạc trong núi đồi, rừng rậm. Trải
qua thời gian, nhiều chỗ, nhiều nơi bị mưa nắng gió
sương bào mòn, nên các tượng thần linh của người
Chăm xưa lại xuất lộ, như “lồi lên” từ lòng đất, được
người dân Việt có tính tâm linh, kính trọng đem về
thờ, hoặc xây miếu thờ tại nơi phát hiện. Do không
biết tượng đá ấy là biểu hiện cho vị thần nào, hoặc
tảng đá văn bia trong đó viết những gì, nên khi thờ tự,
họ đều gọi chung là chúa Lồi, chúa Lạc. Trong văn sớ
cúng thí thực cô hồn của nhà chùa có câu: “Chúa Lồi,
chúa Lạc, phục thi cố khí, thổ mộc tà tinh...” là chỉ chung
cho các sự vật này.
Bác sĩ Albert Sallet viết: “Các “Bà Lồi” cũng họp
thành một nhóm không quan trọng. “Lồi” nghĩa là “trồi
lên từ mặt đất” nhưng nghĩa này rất thường áp dụng
cho những đồ vật đại để thuộc xuất xứ lưu dấu Chăm”.18
Albert Sallet chú giải thêm trong bài viết dẫn
thượng của mình: “Lồi” nghĩa là “trồi lên từ mặt đất”;
chữ này ít thích đáng hơn ý nghĩa chữ “mọc” thường
dùng cho thảo mộc và tinh tú. Từ “mọc” này, Léopold
Michel Cadière có dịp thông báo về một phiến đá
được sùng bái tại Quảng Trị: đích thị một cánh tay của
tượng Chăm gọi là “Bụt mọc” [L.Cadière, “Croyances
et pratiques religieuses des Annamites dans les
environs de Hué” (Tín ngưỡng và thực hành tôn giáo
của người An Nam trong phạm vi Huế), Les Pierres II
(Tục thờ cúng thần đá II), B.E.F.E.O. Tome XIX, No2,
p. 8, 1919]. Tôi có nghe chữ “mọc” này ở Quảng Nam,
không với ý nghĩa trực tiếp như trường hợp phiến đá ở
Quảng Trị, mà bằng nghĩa gốc của một nguyên cứ, đôi
khi còn nghe dùng đến chữ “lên”. Tôi hiện có 5, 6 lai cảo
nói về cách dùng lối xưng hô này”.19
Sau cùng, NXH khẳng định: “Sự thống nhất trong
cách thức thờ phụng Thiên Y A Na ở xứ Quảng (Đà
Nẵng) có thể còn xuất phát từ một nguyên nhân nữa.
Đó là Thiên Y A Na đã được “phát tán” từ một trung
tâm “Núi Chúa” - Ngũ Hành Sơn. Tại núi Ngũ Hành Sơn,
người Việt đã tiếp quản và thờ phụng hai Nữ thần của
người Chăm để lại trong hang Chiêm Thành. Đó là Bà
Chúa Ngọc và Bà Chúa Lồi. Cả hai Bà đều có tượng. Rồi
chính từ nơi này mà khuyếch tán sự thờ phụng Bà Chúa
Ngọc trong cộng đồng cư dân xứ Quảng, tạo nên tính
thống nhất trong ngày lễ và nghi thức đối với một Bà Mẹ
đất/Chúa Xứ”. (tr. 32).
Với đoạn viết này của NXH, tôi không dám tranh
luận nữa, chỉ có thể kết luận rằng tác giả đang làm
một công việc mà nhà nông gọi là “trồng cây bằng
cách chôn ngọn cây xuống đất, để gốc rễ vươn lên
trời”.
L.V.H.
Nghiên cứu - Trao đổi
http://dised.danang.gov.vn/LinkClick...m8%3D&tabid=70
-
thờ giữa bức vách ...
[PDF]vai trò của tín ngưỡng dân giantrong đời sống của ngư dân đảo phú ...
tckh.tvu.edu.vn/sites/default/files/...pdfs/tapchiso22_pdf_08.pdf
Translate this page
Cậu Trài (Tài) – Cậu Quý, gọi là thở Bà Cậu”. (Nguyễn Bình Phương Thảo 2016, tr. 56). Ngư dân Phú Quốc rất tin tưởng vào Bà-Cậu và họ gọi nghề “hạ bạc” đi biển đánh cá của mình là nghề Bà-Cậu. Bà-Cậu là dạng tín ngưỡng phổ biến nhất của dân chài ở vùng biển Nam Bộ, hầu hết ghe tàu nào cũng thờ Bà-Cậu với ...
http://tckh.tvu.edu.vn/sites/default...o22_pdf_08.pdf
-
[ Sưu Tầm ] Các loại thần thú
Cùng tìm hiểu và đóng góp thêm
★★★★★
« Sơn Hải Kinh » từ cổ chí kim có nhiều loại định nghĩa cùng thể loại, có học giả đem thể loại là địa lý sách, có học giả đem thuộc về là "Ngũ Hành thuật sách", Lỗ Tấn tiên sinh là đem định nghĩa là "Thượng cổ Vu sách" . Trong quyển sách này nội dung là các đời Vu Sư đem chính mình nghe thấy mô tả giảng thuật ghi lại mà thành, trải qua người hậu thế nhiều lần sửa đổi bổ sung, là thành hôm nay chúng ta thấy chi phiên bản.
« Sơn Hải Kinh » bên trong nhiều dị thú thần tiên ma quái vật, âm dung kỳ lạ cổ quái, bút mực khó mà tẫn.
Bài viết được mò trên đây ai muốn chém giết thì qua đó chém đừng chém em:
http://www.kootinlok.com/share3.X/vi...hp?f=5&t=41523
Thượng Cổ dị thú chi tứ đại Thần Thú, từ trên xuống thứ tự là:
1, Thanh Long, cũng là "Thương Long", cổ đại trong thần thoại Đông Phương thần. Long là Trung Hoa Dân Tộc đồ đằng, tự Hoàng Đế Thụ Mệnh Vu Thiên, Uy Trạch tứ phương, Long liền trở thành Trung Hoa Dân Tộc thậm chí còn toàn bộ Trung Quốc tượng trưng, mà tương đối rõ ràng định hình là ở Hán Triều, từ Đại Hán hướng bắt đầu, Long liền bị xác định là Hoàng Đế tượng trưng cùng đại biểu. Ở Đông Phương trong truyền thuyết, Thanh Long thân tựa như Trường Xà, Kỳ Lân thủ, cá chép đuôi, mặt có râu dài, góc tựa như Lộc, có Ngũ Trảo, tướng mạo uy vũ, mà ở Tây Phương trong thần thoại, Long càng giống như là cánh dài Tích Dịch.
2, « Bạch Hổ » tại Trung Quốc, Bạch Hổ là chiến thần, sát phạt thần. Hổ có Tị Tà, cầu an tai kiếp, cầu phúc cùng trừng Ác dương Thiện, phát tài trí phú, vui kết Lương Duyên cùng nhiều loại thần lực. Mà hắn là Tứ Linh một trong, dĩ nhiên cũng là do Tinh Túc biến thành. Là do Nhị Thập Bát Tinh Tú bên trong, Tây Phương Thất Túc: Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tuy, Tham. Cho nên là Tây Phương đại biểu, mà hắn bạch, là bởi vì là Tây Phương, Tây Phương ở trong ngũ hành thuộc kim, sắc là bạch. Cho nên nó kêu Bạch Hổ không phải là bởi vì nó là màu trắng, mà là từ Ngũ Hành mà nói.
3, « Chu Tước » Phượng Hoàng tại Trung Quốc mà nói, là một loại đại biểu hạnh phúc Linh Vật. Nó nguyên hình có rất nhiều loại. Như Cẩm Kê, Khổng Tước, Ưng Thứu, hộc, Huyền Điểu (Yến Tử ) vân vân, lại có nói là Phật Giáo đại bàng Kim Sí Điểu biến thành. Phượng hoàng thần trong lời nói nói Phượng Hoàng là có gà đầu, Yến Tử cằm, cổ rắn, đuôi cá, có Ngũ Sắc văn. Lại mời phượng là có năm loại phẩm loại, lấy màu sắc tới phút: Đỏ là phượng, xanh là Loan Điểu, bạch là thiên nga, có…khác vàng cùng Tử Phượng phượng hoàng lại có thể nói là Chu Tước hoặc Huyền Điểu
4 « Huyền Vũ » Huyền Vũ là một loại do con rùa cùng rắn tổ hợp thành một loại Linh Vật. Huyền Vũ bổn ý chính là Huyền Minh, Huyền là màu đen ý tứ; Minh, chính là Âm ý tứ. Huyền Minh mới đầu là đối với con rùa Bói hình dung: Quy Bối là màu đen, con rùa Bói chính là mời con rùa đến Minh đang lúc đi nghệ hỏi tổ tiên, đem câu trả lời mang về, lấy bốc triệu hình thức lộ vẻ cho thế nhân. Con rùa cuộc sống ở Giang Hà Hồ Hải (bao gồm Hải Quy ), cho nên Huyền Minh thành Thủy Thần; Ô Quy Trường Thọ, Huyền Minh thành trường sinh bất lão tượng trưng; lúc ban đầu Minh đang lúc ở bắc phương, Ân Thương Giáp Cốt xem bói gần "Kỳ Bói tất bắc hướng", cho nên Huyền Minh lại thành bắc phương thần.
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 15 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), hadesloki10 (26-12-17), ꧁๖ۣۜℋứą❇๖ۣۜƬᶖêϰღ (29-04-16), Kcin2003 (25-04-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), sephjr0th (12-07-17), shinigami19923 (29-11-17), Sloth (19-11-16), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), XxGoblinxX (22-02-18), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16), ๖ۣۜKing๖ۣۜKiller (25-04-16), ๖ۣۜ†im☪ (11-03-17), ꧁༺ζℏأȇท༒₦ℏᶏᶖ ༻꧂ (01-03-18)
25-04-16, 06:29 PM #2
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
Thượng Cổ dị thú chi tứ đại hung thú, do lên tới xuống chia ra làm:
1 Thượng Cổ dị thú chi tứ đại hung thú: « Hồn Độn » là cổ đại hung thần. Truyền thuyết nó hình dáng mập tròn, giống hỏa như thế đỏ bừng, chiều dài bốn con cánh, sáu cái chân, mặc dù không có ngũ quan, nhưng là lại có thể thông hiểu ca múa Khúc Nhạc. Còn có một loại cách nói danh hiệu Hồn Độn là giống chó hoặc gấu như thế động vật, nhân loại không cách nào nhìn thấy nó, cũng không cách nào nghe nó, nó thường thường cắn chính mình cái đuôi hơn nữa cười ngây ngô; nếu như gặp phải cao thượng người, Hồn Độn sẽ gặp cổ động thi bạo; nếu như gặp phải ác nhân, Hồn Độn sẽ gặp nghe theo hắn chỉ huy
2 Thượng Cổ dị thú chi tứ đại hung thú: « Cùng Kỳ » Trung Quốc trong truyền thuyết ức thiện Dương ác Ác Thần, nó lớn nhỏ như trâu, bề ngoài giống hổ, phi có gai lông nhím da, dài có cánh, Cùng Kỳ tiếng kêu giống chó, dựa vào ăn thịt người mà sống. Nghe nói Cùng Kỳ thường thường bay đến hiện trường đánh nhau, sắp có lý nhất phương mũi cắn; nếu như có nhân phạm xuống làm ác, Cùng Kỳ sẽ bắt dã thú đưa cho hắn, hơn nữa khích lệ hắn nhiều làm chuyện xấu. Nhưng là, Cùng Kỳ cũng có là ích một mặt. Ở một loại xưng là "Đại na" đuổi quỷ nghi thức bên trong, có mười hai loại nuốt ác quỷ mãnh thú, xưng là mười hai thần hoặc mười hai thú, Cùng Kỳ chính là một cái trong số đó.
3 Thượng Cổ dị thú chi tứ đại hung thú: « Đào Ngột » Táo wù có thú yên, kỳ trạng thái như hổ mà chó lông, dài hai thước, mặt người, hổ chân, heo miệng răng, đuôi dài một trượng tám thước, đảo loạn Hoang bên trong, tên gọi Đào Ngột. Bị dùng để tỷ dụ ngoan cố không thay đổi, thái độ hung ác người. ? ? tương truyền là bắc phương Thiên Đế con trai của Chuyên Húc, nó còn có tên là ngạo ngoan, khó khăn giáo huấn, do này mấy cái tên trong, cũng có thể sơ lược suy ra nó thành tựu. Giống như Cùng Kỳ, Đào Ngột sau đó cũng được Tứ Hung một trong.
4 Thượng Cổ dị thú chi tứ đại hung thú: « Thao Thiết » Tāo Ti sắc truyền thuyết Hiên Viên đại chiến Xi Vưu, Xi Vưu bị chém, kỳ thủ rơi xuống đất hóa thành Thao Thiết. Sơn Hải Kinh hữu vân, có thú yên, kỳ trạng thái như dê thân mặt người, kỳ mắt tại dưới nách, hổ răng người móng, kỳ âm như trẻ sơ sinh, danh viết bào hào, là thực nhân. Cũng có truyền thuyết là "Long Sinh Cửu Tử" Cửu Tử một trong. Cố gắng hết sức tham ăn, thấy cái gì ăn cái gì, bởi vì ăn quá nhiều, cuối cùng bị chết no. Nó là tham lam tượng trưng.
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 11 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), PTT2003 (10-03-17), sephjr0th (12-07-17), shinigami19923 (29-11-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16), ๖ۣۜ†im☪ (25-04-16)
25-04-16, 06:32 PM #3
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
Từ trên cao đi xuống theo thứ tự là:
1 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Bạch Trạch » Côn Lôn Sơn bên trên trứ danh Thần Thú, cả người trắng như tuyết, có thể nói tiếng người, thông vạn vật tình, rất ít qua lại, trừ phi lúc ấy có thánh nhân thống trị thiên hạ, mới phụng sách tới. Là có thể làm cho người gặp dữ hóa lành cát tường thú. Hoàng Đế tuần du tới Đông Hải, gặp chi, con thú này có thể nói, đạt đến vạn vật tình. Vấn thiên hạ quỷ thần chuyện, từ xưa tinh khí là vật, du hồn là biến hóa người Phàm vạn nhất năm trăm hai mươi loại, Bạch Trạch Ngôn Chi, Đế làm mưu đồ viết chi, tỏ vẻ thiên hạ.
2 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Quỳ » kuí trong truyền thuyết nước Đông Hải trên có một tòa "Lưu phá núi", Quỳ liền cư ngụ ở nơi này núi trên. Quỳ thân thể và đầu giống trâu, nhưng là không có giác, hơn nữa chỉ có một chân, cả người màu xanh đen. Nghe nói Quỳ thả ra như đồng nhất tháng như vậy ánh sáng cùng như sấm tiếng kêu, chỉ cần nó ra vào trong nước, nhất định sẽ đưa tới gió giật. Ở Hoàng Đế cùng Xi Vưu trong chiến tranh, Hoàng Đế bắt được Quỳ, dùng nó làm bằng da làm trống quân, dùng nó xương coi như dùi trống, kết quả đập mì này tiếng trống vang có thể truyền khắp chu vi 500 trong, khiến cho Hoàng Đế quân sĩ khí đại chấn, Xi Vưu quân hoảng hốt
3 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Thủy Kỳ Lân » Man Hoang vạn tái Hàn Đàm xuất ra, tính thích chiếm đoạt Yêu Vật, có thể Ngự vạn thủy, chấn nhiếp bầy yêu. Truyện sau là Dị Nhân thu phục, là Linh Sơn thủ hộ. Tính cách nhân từ, Yêu Lực sinh vật cường đại, am Ngộ đời lý, thông hiểu thiên ý, có thể lắng nghe Thiên Mệnh, Vương Giả Thần Thú
4 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Chúc Long » lại tên gọi Chúc Âm, cũng sáng tác trác Long. Mặt người Long Thân, trong miệng hàm chúc, ở Tây Bắc Vô Nhật chỗ chiếu sáng với u Âm. Truyền thuyết hắn uy lực cực lớn, mở mắt lúc Phổ Thiên quang minh, tức là ban ngày; nhắm mắt lúc thiên hôn địa ám, tức là đêm tối. Một trong số đó, Chúc Long gần thái dương nói. Nói vậy cổ xưa nhất hai, Chúc Long gần vật dễ cháy nói thứ ba, Chúc Long là mở ra thần
5 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Tất Phương » (Hoa phương ) Trung quốc cổ đại trong truyền thuyết hỏa tai điềm. Tất Phương tên đến từ cây trúc cùng gỗ thiêu đốt lúc phát ra tiếng tí tách vang, nó là Hỏa Thần, cũng là Mộc Thần, cư ngụ ở trong cây cối. Tất Phương bề ngoài giống Đan Đính Hạc, nhưng là chỉ có một chân (nói một chút là chỉ có một cái cánh ), thân thể là màu lam, có màu đỏ lấm tấm, mỏ là màu trắng. Tất Phương không ăn ngũ cốc, nuốt ăn ngọn lửa, nghe nói Tất Phương xuất hiện biểu thị lửa lớn. Mà truyền thuyết Hoàng Đế ở Thái Sơn tụ tập quỷ thần lúc, ngồi Giao Long dẫn dắt chiến xa, mà Tất Phương là phục vụ tại chiến xa cạnh
6 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Giải Trĩ » xi sắc zhì nó thân hình Đại giả như trâu, Tiểu giả như dê, tướng mạo đại khái tương tự Kỳ Lân, toàn thân dài nồng đậm ngăm đen lông, hai mắt sáng ngời có thần, trên trán bình thường có một cái sừng, tục truyền sừng gãy thì chết ngay lập tức, có bị thấy chiều dài hai cánh, nhưng đa số không có cánh. Nắm giữ rất cao trí tuệ, có thể nghe hiểu tiếng người, nó trợn tròn đôi mắt, có thể biện thị phi khúc trực, có thể biết thiện ác Trung Gian, phát hiện gian tà quan chức, sẽ dùng giác đem hắn xúc ngã, sau đó ăn vào bụng tử.
7 Thượng Cổ dị thú: « Sói » hǒu Đông Hải có thú tên gọi Sói, có thể Thực Long não, bay lên không trên dưới, chí Mãnh dị thường. Mỗi cùng Long đấu, trong miệng phun lửa mấy trượng, Long triếp không khỏi. Hình loại ngựa, dài một 2 trượng, có miếng vảy, cả người có ánh lửa quấn quanh; có thể bay, cực kỳ hung mãnh. Cùng Long Tướng đấu lúc, trong miệng phun lửa, Long gần không địch lại. « thuật khác nhớ » bên trong miêu tả là, Sói chính là lấy rồng làm thức ăn, tương truyền là Kỳ Lân tổ tiên.
8 Thượng Cổ dị thú: « Ứng Long » Long năm trăm năm là Giác Long, ngàn năm là Ứng Long", Ứng Long gọi là Long bên trong chi tinh, cố dài ra cánh. Tương truyền Ứng Long là Thượng Cổ Thời Kỳ Hoàng Đế Thần Long, nó từng phụng Hoàng Đế lệnh chinh phạt qua Xi Vưu, cũng giết Xi Vưu mà trở thành công thần. Ở Vũ chữa hồng thủy lúc, Thần Long từng lấy đuôi quét sân, khai thông hồng thủy mà lập công, này Thần Long lại được đặt tên là Hoàng Long, Hoàng Long tức là Ứng Long, vì vậy Ứng Long lại vừa là Vũ công thần
9 Thượng Cổ dị thú thần thú: « Lục Ngô » Khai Minh Thú trong truyền thuyết Côn Lôn Sơn thần tên gọi. Gần vai ta. Nó tướng mạo là dài chín cái đuôi hổ thân đỡ lấy một viên nắm giữ sắc bén ánh mắt đầu người, nó chức trách là quản lý Thiên chi Cửu Bộ cùng Thiên Đế vườn trồng trọt thời tiết. Lục Ngô Thần Cách khá cao, trừ trông coi Thiên Giới chín cái khu vực giới hạn ra, có thể xử lí Thiên Thần vườn hoa thời tiết, vì vậy nó tuyệt không phải người làm vườn, mà là tương tự trung ương máy điều hòa không khí tùy thời điều chỉnh nhiệt độ tồn tại. [ 1] cái gọi là Thiên chi Cửu Bộ, liền là cả thượng tầng vũ trụ. Thiên Đế Uyển phố, treo phố thời lệnh cùng tiết, cũng thuộc về hắn quản, có thể nói là Thiên Đế Đại quản gia.
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 12 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), batdau (11-12-17), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), sephjr0th (12-07-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), traitimtoi_banggia_viai@ymail.com (29-07-17), XxGoblinxX (22-02-18), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16), ๖ۣۜ†im☪ (25-04-16)
25-04-16, 06:34 PM #4
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
1 Dị thú: « Cửu Vĩ Hồ » (sương Hoa ) Thanh Khâu Sơn, Yamanaka có một loại dã thú, hình dáng giống như hồ ly lại dài chín cái đuôi, tiếng hô thanh âm cùng trẻ sơ sinh khóc tương tự, có thể nuốt người; ăn nó thịt liền có thể khiến người không trúng Yêu Tà Độc Khí.
2 Dị thú: « Doanh Ngư » Lỏa đồ biển lớn lên ở khuê núi Dương trong nước. Cá có hai cánh, tiếng kêu giống như uyên ương. Bình thường tùy tiện không xuất hiện, một khi ở nơi nào xuất hiện, nơi nào liền muốn phát đại thủy. Ở Vị Thủy trong sông
3 dị thú: « Lăng cá » Giao Nhân, Nhân Ngư trong biển có Lăng cá, mặt người thân cá, có tay có chân, đề tiếng như tiểu nhi. Có Cổ Thư đem nó gọi là Giao Nhân, có nói chính là Nhân Ngư. « Sơn Hải Kinh » nhắc tới Nhân Ngư có hết mấy chỗ, đều nói nó sống ở trong con suối, nhìn miêu tả có thể là cán, gần kỳ nhông, không phải là người trong thần thoại cá
4, Dị thú: « tranh » sống ở nga núi, trên núi không có hoa cỏ cây cối, khắp nơi là Dao, Bích một loại mỹ ngọc. Trong núi thường thường xuất hiện cố gắng hết sức quái dị vật tượng. Sơn trung có một loại dã thú, hình dáng giống như Xích Báo, dài năm cái đuôi cùng một cái sừng, phát ra âm thanh giống như gõ Thạch Đầu tiếng vang, danh xưng là tranh.
5 Dị thú: « Phì Di » (chim ) Trung quốc cổ đại trong truyền thuyết Hạn Bạt điềm. Nghe nói Phì Di là một loại cư ngụ ở Thái Hoa Sơn sơn lộc Quái Xà, có một cái đầu, hai cái thân thể, sáu cái chân cùng bốn con cánh. Cũng có truyền thuyết danh hiệu Phì Di là một loại màu vàng am thuần lớn nhỏ chim, mỏ là màu đỏ, nghe nói ăn Phì Di có thể chữa bệnh, phòng ngừa ký sinh trùng. Sớm nhất ghi lại ở « Sơn Hải Kinh » chi Tây Sơn Kinh bên trong: Hoa trên núi có một loại tên là "Phì Di" Quái Xà, nó một khi xuất hiện, liền báo trước sắp có phạm vi lớn nạn hạn hán.
6 Dị thú:: « Cổ Điêu » xa hơn đông năm trăm dặm, là một tòa Lộc Ngô Sơn, trên núi không có hoa cỏ cây cối, nhưng có phong phú mỏ kim loại vật cùng Ngọc Thạch. Trạch càng nước từ ngọn núi này phát nguyên, sau đó hướng nam chảy vào bàng nước. Trong nước có một loại dã thú, danh xưng là Cổ Điêu, hình dáng giống như phổ thông điêu Ưng lại trên đầu sừng dài, phát ra âm thanh giống như trẻ sơ sinh khóc, là có thể ăn thịt người
7 Dị thú: « Ích Tà » người miền nam danh hiệu Tỳ Hưu (pí xiū ) lại tên gọi Thiên Lộc, loại này mãnh thú chia làm Thư Tính cùng Hùng Tính, Hùng Tính tên gọi "Tỳ", Thư Tính được đặt tên là "Hưu" . Ở thời cổ loại này Thụy Thú là phút một góc cùng hai giác, một góc xưng là "Thiên Lộc", hai giác xưng là "Ích Tà" . Sau đó lại không có phút một góc hoặc hai giác, nhiều lấy một góc hình dáng làm chủ. Là Trung quốc cổ đại trong truyền thuyết thần thoại một loại Thần Thú, Long Đầu, thân ngựa, Lân chân, hình dáng tựa như sư tử, màu lông trắng xám, có thể bay. Tỳ Hưu hung mãnh uy vũ, nó ở trên trời phụ trách dò xét công việc, ngăn cản yêu ma quỷ quái, ôn dịch tật bệnh nhiễu loạn Thiên Đình
8 Dị thú: « Hoành Công Ngư » sống ở thạch hồ, hồ này hằng băng. Dài bảy tám thước, hình như Cá chép mà Xích, ban ngày trong nước, đêm hóa thành người. Đâm chi không vào, nấu chi không chết, lấy ô mai hai miếng nấu chi tắc chết, ăn nhưng lại Tà bệnh.
9 Dị thú: « Thiên Cẩu » Âm Sơn, Sơn trung có một loại dã thú, hình dáng giống như mèo hoang nhưng là bạch đầu, danh xưng là Thiên Cẩu, nó phát ra tiếng kêu cùng "Lưu lưu" cách đọc tương tự, người chăn nuôi nó có thể tích hung tà khí.
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 11 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), ๖ۣۜNhấtღTïễnღSönġღĐïêü (25-04-16), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), Palogue (16-06-16), sephjr0th (12-07-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16), ๖ۣۜ†im☪ (25-04-16)
25-04-16, 06:37 PM #5
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
1 Dị thú: « Đương Khang » lại danh hiệu răng Lợn, là một loại triệu phong nhương chi Thụy Thú, dáng vẻ giống heo mà có răng, kỳ tiếng kêu giống như kêu tên mình. Yamanaka đậu một loại dã thú, bên ngoài hình tượng heo, lại dài đại răng nanh, tên gọi Đương Khang, nó phát ra tiếng kêu giống như đang kêu gọi tên mình. Truyền thuyết thiên hạ muốn đạt được được mùa thời điểm, nó liền từ Yamanaka đi ra đề kêu, nói cho mọi người được mùa buông xuống. Cho nên nó mặc dù dáng vẻ khó coi, lại là một loại Thụy Thú."
2 Dị thú: « Xích Ngư » rú trong truyền thuyết khác cá tên gọi. Mặt người, thanh âm như uyên ương, ăn có thể liệu bệnh. Kỳ nói mới thấy ở Tiền Tần. « Sơn Hải Kinh. Nam Sơn Kinh » : "Thanh Khâu chi núi... Anh nước ra đâu (chỗ này), nam lưu chú với gần cánh chi Trạch. Trong đó nhiều Xích Ngư, kỳ trạng thái như cá mà mặt người, kỳ âm như uyên ương, ăn không giới."
3 Dị thú: « diệt mông điểu » diệt mông điểu ở kết hung nước phía bắc, loại chim này là màu xanh, lại dài màu đỏ cái đuôi. Cũng gọi Mạnh chim
4 Dị thú: « Thiên Hồ » trong truyền thuyết có thông thiên thuật Tiên Hồ, hồ ly, năm mươi tuổi, có thể biến hóa vị phụ nhân; trăm tuổi là đẹp nữ, là Thần Vu... Sao biết được ngàn dặm chuyện bên ngoài, thiện Cổ Mị, khiến người mê muội mất Trí; Thiên Tuế gần cùng trời thông."
5 Dị thú: « Minh Xà » « Sơn Hải Kinh (nhị kinh ) » : "Đại thể như xà, nhưng có bốn cánh, phát bàn bàn chi âm. Thấy là kỳ Ấp đại hạn."
6 Dị thú: « Giác Đoan » Trung Quốc trong thần thoại một loại Độc Giác Thú, là ta quốc cổ thay mặt trong thần thoại một loại Thần Thú, có thể ngày đi 18000 trong, thông hiểu tứ phương ngôn ngữ, chỉ có minh quân, nó mới bưng sách tới, hộ giá bên người. Trong cổ thư miêu tả như vậy: ? « bên trên lâm phú » : "Kỳ thú là Kỳ Lân, Giác Đoan." Quách Phác chú thích: "Giác Đoan tựa như Mạch, giác ở trên mũi, bên trong làm Cung." ? « Lũng thục dư ngửi » : "Giác Đoan, sinh phòng ngói núi, không tổn thương người, duy ăn Hổ Báo. Núi tăng hằng nuôi dưỡng, lấy chi phí hộ vệ. Lại gần với Cừ lục soát phát trình diễn miễn phí chuột chó. Người thường đưa kỳ thạch tạc tượng với môn, trừ tà vậy."
7 Dị thú: « Chư ngực » lại bắc hai trăm dặm, viết Bắc Nhạc chi núi, nhiều Quất Cức mới vừa gỗ. Có thú đâu (chỗ này), kỳ trạng thái như trâu, mà bốn góc, người con mắt, Heo nái tai, tên gọi Chư ngực, kỳ âm như minh Nhạn, là thực nhân. Chư ngực nước ra đâu (chỗ này), mà tây lưu chú với ồn ào nước, trong đó nhiều nghệ cá, thân cá mà chó thủ, kỳ âm như trẻ sơ sinh, ăn đã cuồng
8 Dị thú: « Đương Hỗ » hù trong truyền thuyết chim tên gọi bên trên thân chi núi, kỳ chim nhiều làm hỗ, kỳ trạng thái như Trĩ, lấy nhiêm Phi, ăn không thuấn con mắt. , chim bay lấy cánh, làm hỗ là Tu, phí nhiều Nhậm ít, tràn trề có dư.
9 Dị thú: « Thiên Mã » coi thường cái đó giác đi, Trung Quốc Thiên Mã thần thoại hình tượng, lao nhanh tuấn mã, không có sừng vô song cánh. Vi biểu hiện tại kỳ "Thiên Mã" bất đồng, thường ở dưới ngựa phương hội chế đám mây, thể hiện Thiên Mã có thể đằng vân giá vũ. Kỳ trạng thái như chó trắng mà đầu đen, biết người là Phi, tên gọi Thiên Mã, kỳ minh tự 訆. (chẳng qua là, ta cảm thấy được (phải) đây là Độc Giác Thú! Cũng là trong thần thoại một loại Thụy Thú, tựa như tuấn mã mà đầu mọc một sừng )
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 12 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), Palogue (16-06-16), sephjr0th (12-07-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), ღᏠᎮღtinh❦khong❦❛❜ (09-11-17), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16), ๖ۣۜ†im☪ (25-04-16), ๖ۣۜSiêu๖ۣۜLười๖ۣۜCa (27-06-16)
25-04-16, 06:38 PM #6
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
1 Dị thú: « Chu Yếm » có một loại dã thú, thân hình giống con vượn, bạc đầu đỏ chân, tên là Chu Yếm. Loại này dã thú vừa xuất hiện, thiên hạ liền sẽ phát sinh Đại Chiến Tranh
2 Dị thú: « Phi Liêm » Phi Liêm, cũng làm Phỉ Liêm, là Trung Quốc trong thần thoại Thần Thú, văn hiến danh hiệu Phi Liêm là điểu thân Lộc đầu hoặc là điểu đầu Lộc thân, Tần Nhân Tổ Tiên một trong là Phi Liêm. Có nói kỳ vi Phong Bá.
3 Dị thú: « Hủy » sì « Sơn Hải Kinh. Hải Nội Nam Kinh » có như vậy hai đoạn ghi lại, "Hủy ở Thuấn chôn cất đông, Tương Thủy nam. Kỳ trạng thái như trâu, thương đen, một góc. Hủy, như Dã Ngưu mà xanh, Tượng Hình. —— « Thuyết Văn » trong sách cổ muốn hình dung địa phương hiểm ác, cũng nhiều lời "Trên đó nhiều Tê Hủy Hổ Hùng loại" .
4 Dị thú: « Tam Túc Ô » Tam Túc Ô lại tên gọi Tam Túc Kim Ô, Trung quốc cổ đại trong thần thoại Thần Điểu, cũng danh hiệu Kim Ô, dương ô, hoặc danh hiệu ba chân. Truyền người cổ đại nhìn thấy lỗ đen, cho rằng là có thể bay màu đen chim (Ô Nha ), lại bởi vì không giống với trong tự nhiên Ô Nha, thêm một cước lấy phân biệt, lại bởi vì cùng thái dương có liên quan, là kim sắc, cố là Tam Túc Kim Ô. ? Tam Túc Ô là trong truyền thuyết thần thoại cưỡi ngày Xe Thần chim tên gọi. Là Nhật trung Tam Túc Ô chi diễn hóa. Tam Túc Ô cũng danh hiệu "Mặt trời" . Ở Nhật trung, có ba chân.
5 Dị thú: « Họa Đấu » coi như Hỏa Thần tùy tùng, thậm chí có lúc chính là Hỏa Thần loài chó, Họa Đấu chỉ ăn ngọn lửa. Lôi Thần lái lôi xe ở đất đai tuần du thời điểm, Họa Đấu hãy cùng ở phía sau bọn họ. Lôi Thần ném xuống lôi phủ tiết thạch ở nhân loại rừng rậm, trong thị trấn đưa tới lửa lớn. Lúc này, Họa Đấu mới có cơ hội xông lên phía trước, miệng to nuốt ngọn lửa, lấp đầy đói bụng Dạ Dày
6 Dị thú: « Trọng Minh Điểu » Trọng Minh Điểu là Trung quốc cổ đại trong truyền thuyết thần thoại Thần Điểu. Này chim hai con mắt đều có hai cái con ngươi, cho nên gọi là Trọng Minh Điểu, cũng kêu nặng con ngươi chim. Nó thân hình giống như gà, kêu thanh âm giống như Phượng Hoàng liệu lượng êm tai. Nó thường thường đem trên người lông chim toàn bộ phủi xuống, dùng hết ánh sáng cánh đánh phía trước không có lông chim thân thể, ở giữa trời cao khởi vũ bay lượn. Nó có thể đuổi Hổ, Báo, Sói, chó sói các loại mãnh thú, khiến cho nhiều loại yêu ma quỷ quái không dám nguy hại nhân loại. Nó đối với nhân loại yêu cầu cũng rất thấp, nó không cái ăn vật, chỉ cần uống một chút Quỳnh Ngọc mỡ dịch, cũng rất hài lòng.
7 Dị thú: « Chư Kiền » hình ảnh không quá Phù cũng không có cách nào bằng văn tự tưởng tượng đi Trung quốc cổ đại Thần Thú, mặt người Báo thân, người cầm đầu (tai trâu) một mực, có đuôi dài, có thể phát to âm thanh. Lúc đi lại ngậm cái đuôi, lúc nghỉ ngơi bàn trứ cái đuôi.
8 Dị thú: “Phỉ Phỉ" cư ngụ ở Trung Nguyên đông bộ Thái Sơn, bề ngoài giống trâu, phần đầu là màu trắng, nhưng là lại dài đuôi rắn ba, hơn nữa chỉ có một con mắt. Làm "Phỉ" vào vào trong nước lúc, nguồn nước sẽ lập tức khô khốc; khi nó tiến vào bụi cỏ lúc, thảo sẽ lập tức khô chết, từ loại tình huống này xem ra, nó đồng thời là một loại Hỏa Hệ yêu quái. Thái Sơn bên trên nhiều tiền ngọc trinh gỗ. Có thú yên, kỳ trạng thái như trâu mà đầu bạc, một mực mà đuôi rắn, tên gọi Phỉ. —— « Sơn Hải Kinh » dẫn
9 Dị thú: « Phu Chư » Phu Chư: Giống Bạch Lộc, nhưng có bốn góc. Chiêu đại thủy. ? ? « Sơn Hải Kinh. Trung Sơn trải qua » : "Ngao bờ chi núi... Có thú yên, kỳ trạng thái như Bạch Lộc mà bốn góc, danh viết Phu Chư, thấy là kỳ Ấp đại thủy. Trạng thái như Bạch Lộc mà có bốn góc. Kỳ hiện tại là thủy tai điềm. Kỳ nói mới thấy ở Tiền Tần.
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 9 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), Palogue (16-06-16), sephjr0th (12-07-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16)
25-04-16, 06:42 PM #7
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
1 Dị thú: « Cửu Anh » bắc phương có một con sông lớn, nước sâu ngàn trượng, sóng mãnh liệt, người ta gọi là hung nước. Hung trong nước có một con Cửu Đầu Quái vật, tên là Cửu Anh, vừa có thể phun nước, vừa có thể phun lửa. Mười ngày cũng ra lúc, hung Thủy dã sôi sùng sục, Cửu Anh ngại trong nước quá nóng, liền nhảy lên bờ, biết người liền ăn, ăn thời điểm, phải có 9 dạng thực phẩm đồng thời cung nó ăn, vì vậy trở thành Hậu Nghệ thứ 3 cái chém chết mục tiêu.
2 Dị thú: « Tạc Xỉ » Tạc Xỉ cũng là Trung quốc cổ đại nhân vật thần thoại một trong: Trong truyền thuyết cư ngụ ở Trung Quốc nam bộ ao đầm mang quái thú hoặc người khổng lồ. ? Tạc Xỉ chiều dài giống cái đục như thế răng dài, đây đối với răng dài xuyên thấu hắn cằm xuyên ra, trong tay hắn cầm lá chắn cùng Mâu. Nghe nói Tạc Xỉ cướp thức ăn nhân loại, Đế Nghiêu mệnh lệnh Hậu Nghệ đi chinh phạt, đi ngang qua kịch liệt vật lộn sau, Hậu Nghệ ở Côn Lôn Sơn đuổi kịp Tạc Xỉ hơn nữa đưa hắn bắn chết. Tạc Xỉ hẳn là ở trong thần thoại bị yêu ma hóa Trung Quốc nam phương bộ lạc tượng trưng.
3 Dị thú: « Thừa Hoàng » nói trúng dị thú tên gọi. « Sơn Hải Kinh. Hải ngoại Tây Kinh » : "Bạch Dân chi quốc ở Long Ngư bắc, bạch người khoác phát. Có ngồi vàng, kỳ trạng thái như hồ ly, kỳ trên lưng có giác, ngồi chi Thọ hai ngàn tuổi.
4 Dị thú: « Áp Du » (Áp dũ ) truyền thuyết Áp dũ là Hậu Nghệ bắn chết thứ nhất quái thú. Áp Du từng là Thiên Thần, là con trai của Chúc Long. Áp dũ vốn là biết điều hiền lành, nhưng sau đó bị được đặt tên là "Nguy" (là Nhị Thập Bát Túc một trong, điểu đầu thân thể con người hình tượng, tay cầm mộc trượng ) thần giết chết chết, Thiên Đế không đành lòng nhìn Chúc Long thương tâm, sẽ để cho con của hắn sống lại, thật không nghĩ đến, sống lại sau, Áp dũ biến thành một loại tính cách hung tàn, thích ăn nhân loại quái vật
5 Dị thú: « Ba Xà » sửa rắn, cổ đại Trung Quốc Cự Xà, cũng gọi là Ba Xà, nghe nói thân dài đạt tới 180 thước, đầu màu xanh da trời, thân thể màu đen. Sửa rắn cư ngụ ở Động Đình Hồ khu vực, nuốt ăn đã qua động vật, nghe nói nó đã từng nuốt sống một con voi, qua 3 năm mới đem khung xương phun ra. Bởi vì sửa rắn cũng người tập kích loại, cho nên Hoàng Đế phái Hậu Nghệ đi chém chết, Hậu Nghệ đầu tiên dùng tên bắn trúng sửa rắn, sau đó một mực đuổi theo nó đến xa xôi Tây Phương, đem chém làm hai đoạn. Sửa xác rắn thể biến thành một gò núi, bây giờ xưng là Ba Lăng. Truyền thuyết có tham lam cố sự
6 Dị thú: « Lôi Thần » « Sơn Hải Kinh. Hải Nội Đông Kinh » : "Lôi Trạch bên trong có Lôi Thần, Long Thân đầu người, cổ kỳ bụng là lôi." ? Lôi Thần là một loại nửa người nửa thú, Long Thân đầu người Thần Thú, cuộc sống ở Lôi Trạch bên trong, nó ở Lôi Trạch trung du vai diễn chơi đùa, thường vỗ vào bụng, nó đánh một cái bụng, sẽ phát ra ùng ùng tiếng sấm
7 Dị thú: « Bình Bồng » sinh hai cái đầu, các ở một đầu, ý chí khắp nơi tương đối, một cái đầu muốn đi bên kia, một cái đầu muốn đi bên này, lấy tới lấy lui, dời bất động nhỏ bé nơi.
8 Yêu Thú: « Xích Nhãn Trư Yêu » đầu heo cẩu thân, thân thể to lớn, Hắc Mao, cứng rắn đâm, Xích con mắt, có thể âm thầm thấy vật. Thích ăn hủ vật, vui cư u ám ẩm ướt nơi.
9 Dị thú: « Câu Xà » trong truyền thuyết một loại loài rắn, lưỡng tê sinh vật, một loại cuộc sống ở trong nước, tính tình hung mãnh hiếu chiến, có kịch độc, rõ ràng nhất đặc thù chính là nó phần đuôi cùng phổ thông loài rắn bất đồng, phân nhánh giống như hai cái lưỡi câu một dạng hơn nữa Câu Xà vồ mồi phương thức cũng là dùng vĩ câu tới câu ở con mồi, lại tiến hành nuốt. Ở « Thủy Kinh Chú (Nhược Thủy ) » một văn trung có ghi lại. Chẳng qua là tựa hồ gần mấy trăm năm qua, lại cũng không có nghe nói có người thấy qua loại rắn này loại
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 9 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), Palogue (16-06-16), sephjr0th (12-07-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16)
25-04-16, 06:44 PM #8
♚๖ۣۜKabigon♌♔ đã rời mạng
Phấn Nộn Nộn Hồng Lâu
♚๖ۣۜKabigon♌♔'s Avatar Tham gia
Jan 2016
Bài viết
529
Thanked: 171
1 Dị thú: « Anh Chiêu » mặt người thân ngựa, có Hổ Văn, sinh cánh chim, thanh âm như lưu. Được xưng là thay trời Đế nhìn vườn hoa thần, nhưng nhìn nhiều nhất chẳng qua chỉ là chỉ Thần Thú mà thôi. Anh Chiêu đã tham gia mấy trăm lần chinh phạt Tà Thần Ác Thần rất nhiều chiến tranh, là bảo vệ thế đại bảo vệ hòa bình Thần chi một. Anh Chiêu cũng là bách hoa thần bằng hữu.
2 Dị thú: « Côn Bằng » kūn Trang Tử nói có một loại chim to kêu Bằng, là từ một loại gọi là Côn cá lớn biến hóa tới. Truyền thuyết có một đại cá danh viết Côn, dài không biết mấy dặm, rộng không biết mấy dặm, một ngày hướng vào mây trời, biến hóa làm một đại chim có thể Phi mấy vạn dặm, danh viết Bằng
3 Dị thú: « Bệ Ngạn » bì àn Bệ Ngạn, lại tên gọi hiến chương, tựa như hổ, là Lão Thất. Nó bình sinh tốt tụng, nhưng lại có uy lực, ngục trên cửa bộ kia Hổ Đầu hình trang sức chính là kỳ di tượng. Truyền thuyết Bệ Ngạn không chỉ có cấp công hảo nghĩa, bênh vực lẽ phải, hơn nữa có thể minh biện thị phi, công bình mà đứt, hơn nữa nó hình tượng uy phong lẫm lẫm, Tù này trừ trang sức ở ngục trên cửa bên ngoài, còn bò nằm ở Quan Nha Đại Đường hai bên. Mỗi khi nha môn sếp coi bệnh, hành chính sếp hàm bài cùng yên lặng tránh bài đầu trên, liền có nó hình tượng, nó mắt lom lom, đảo mắt nhìn xem xét, bảo vệ công đường nghiêm túc chính khí.
4 thượng cổ thần tiên: « Hình Thiên » Hình Thiên nguyên là một cái Vô Danh người khổng lồ, hắn đang cùng Hoàng Đế trong đại chiến, bị Hoàng Đế chém rơi đầu, lúc này mới mới kêu Hình Thiên."Hình Thiên" danh tự này ý tứ chính là: Thiên giả, điên cũng; Hình người, lục vậy. Trời chính là Thiên Đế, "Hình Thiên" liền biểu thị thề Lục Thiên Đế lấy báo thù. (có…khác nói một chút cho là, Hình là cắt, ngải ý tứ; ngày là thủ, gần đầu ý tứ ) hình ngày cùng Đế cạnh tranh thần, Đế đoạn kỳ thủ, chôn cất chi Thường Dương chi núi, là lấy Nhũ là con mắt, lấy Rốn là miệng, thao Kiền Thích lấy múa.
So với « Sơn Hải Kinh » bên trong ghi lại, này 57 loại quái thú Thần Thú Tiên Thú thật sự là toàn bổn số lượng 1% mà thôi.
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 10 Users Say Thank You to ♚๖ۣۜKabigon♌♔ For This Useful Post:
anhquaylavodoi (07-09-16), Kcin2003 (25-04-16), khaox8896 (27-11-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), Palogue (16-06-16), sephjr0th (12-07-17), thiendieu04@yahoo.com.vn (25-11-16), ๖ۣۜCà ๖ۣۜPhê (25-04-16), ღQuỳnhღHươngღ (25-04-16)
25-04-16, 08:16 PM #9
๖ۣۜSiêu๖ۣۜLười๖ۣۜCa đã rời mạng
Âm Dương Điếm
๖ۣۜSiêu๖ۣۜLười๖ۣۜCa's Avatar Tham gia
Dec 2015
Vị trí hiện tại
nơi may mắn nhất cái trái đất này :v
Bài viết
1,262
Thanked: 928
1. Cửu Dư – 犰狳
Name: anh1.jpg
Views: 53686
Size: 204.0 KB
SonHaiDiThuChi-[001]
Tựa như con thỏ mà mỏ chim, mắt cú mèo mà đuôi rắn, thấy người thì giả chết. Các nhà khí tượng cổ đại cho rằng Cửu Dư xuất hiện là dấu hiệu nông trại có châu chấu hại mùa. Cửu Dư có nguyên hình ở trong thực tại, còn được gọi là “Khải thử”, bởi vì cơ thể và hình dạng của nó giống như là một con chuột lớn khoác áo giáp. Cái vỏ trên người Cửu Dư được tạo thành bởi rất nhiều mảnh xương nhỏ, trên mỗi mảnh xương mọc ra một lớp chất sừng, vô cùng cứng rắn. Cho nên, bộ vỏ này đã trở thành vũ khí phòng thân tốt nhất của nó.
《Sơn Hải Kinh · Đông Sơn Kinh · Núi Dư Nga》 ghi chép: “Có loài thú, dạng nó như con thỏ mà mỏ chim, mắt cú mèo mà đuôi rắn, thấy người thì ngủ, tên là Cửu Dư 犰狳, tiếng nó tự kêu tên mình, thấy thì châu chấu hại mùa.”
Giết Một Người Cũng Xuống Địa Ngục
Giết Vạn Người Cũng Xuống Địa Ngục
Vậy Sao Không Giết Cả Tỷ Người
Để Rồi Hiên Ngang Xuống Địa Ngục Như Một Vị Thần
Râm Trùng Team
ღ๖ۣۜTiểu๖ۣۜTâm
Trả lời kèm trích dẫn Trả lời kèm trích dẫn
The Following 11 Users Say Thank You to ๖ۣۜSiêu๖ۣۜLười๖ۣۜCa For This Useful Post:
Maybe Next Time (25-04-16), ๖ۣۜChym Vô Tà (25-04-16), anhquaylavodoi (07-09-16), Kcin2003 (25-04-16), khongtu123 (21-03-18), Vân Vũ Phong Trần (01-05-17), Palogue (16-06-16), sephjr0th (12-07-17), ๖ۣۜ†im☪ (25-04-16), ღQuỳnhღHươngღ (25-04-16), ♚๖ۣۜKabigon♌♔ (25-04-16)
25-04-16, 08:18 PM #10
๖ۣۜSiêu๖ۣۜLười๖ۣۜCa đã rời mạng
Âm Dương Điếm
๖ۣۜSiêu๖ۣۜLười๖ۣۜCa's Avatar Tham gia
Dec 2015
Vị trí hiện tại
nơi may mắn nhất cái trái đất này :v
Bài viết
1,262
Thanked: 928
Thiên Cẩu
Name: anh2.jpg
Views: 53484
Size: 192.0 KB
Ở trong truyền thuyết Trung Quốc, hiện tượng nguyệt thực được gọi là “Thiên Cẩu ăn mặt trăng”, mọi người hoang mang lo sợ khua chiêng gõ trống bắn pháo để xua đuổi Thiên Cẩu. Loài động vật giống con cáo mà đầu trắng này rất có thể là một loài động vật có vú cổ đại nào đó, đã từng thật sự tồn tại qua.
Thiên Cẩu của Trung Quốc xuất hiện sớm nhất từ trong 《Sơn Hải Kinh · Tây Sơn Kinh》: “Lại hướng tây 300 dặm là Âm Sơn 陰山. Dòng sông Trọc Dục 濁浴 đi ra, rồi chảy về hướng nam trút vào đầm Phiền 蕃, trong nước nhiều sò vằn. Có loài thú, dạng nó như con cáo mà đầu trắng, tên là Thiên Cẩu, tiếng nó như tiếng “ríu ríu”, có thể ngăn điềm dữ.”
http://forum.truyencv.com/showthread.php?t=645
-
https://www.youtube.com/watch?v=uZiePJLCT3E
Hướng dẫn làm bùa chiêu tài cho 1 năm - Pháp sư Quách Hiền Lương
-
https://www.youtube.com/watch?v=CFdF_jfmNgU
May mắn cả đời nếu biết 11 cách giải đen đơn giản hiệu quả này
NHỮNG ĐIỀU CẤM KỴ
Published on Jun 24, 2017
SUBSCRIBE 30K
May mắn cả đời nếu biết 11 cách giải đen đơn giản hiệu quả này. Hãy cùng Những Điều Cấm Kỵ tìm hiểu May mắn cả đời nếu biết 11 cách giải đen đơn giản hiệu quả này. Đăng ký kênh để là người đầu tiên theo dõi video mới nhất. Comment nội dung bạn quan tâm với chúng tôi nhé.
Đăng ký kênh NHỮNG ĐIỀU CẤM KỴ : https://goo.gl/KPsqgz để cập nhật những điều cấm kỵ, kiêng kỵ, đại kỵ... trong cuộc sống mỗi ngày.
Theo dõi NHỮNG ĐIỀU CẤM KỴ trên:
-
https://www.youtube.com/watch?v=DkZXz2Mw7Cg
Khóa lễ cầu siêu sản nạn thai nhi đợt II ngày 19 - 08 - 2017 tại chùa Tân Hải
Hoạt Động Hoằng Pháp Chùa Tân Hải
Published on Oct 8, 2017
SUBSCRIBE 656
Khóa lễ cầu siêu sản nạn thai nhi đợt II ngày 19 - 08 - 2017 tại chùa Tân Hải
-
https://www.youtube.com/watch?v=yzL9fgjkPsY
Lễ Cầu Siêu Thai Nhi Vô Tội, Hởi những người Cha người Mẹ thời @ hãy lắng nghe
-
-
Tượng bà Linh Sơn thánh mẫu
Cập nhật ngày: 14/07/2016 - 08:33
https://sv1.uphinhnhanh.com/images/2...59_tuongba.jpg
Tượng bà Linh Sơn thánh mẫu
Tượng Bà trên điện Bà ở núi Bà Đen.
Không còn nhớ năm, nhưng lại nhớ rõ ngày! Đó là ngày 4.6 còn năm thì vào khoảng 2011 đến 2012. Là thời điểm núi Bà có lễ rước rất trọng thể cỗ ngọc ấn của bà Linh Sơn thánh mẫu. Lễ có các quan chức tỉnh và cả Trung ương về dự. Người hiến tặng cũng có tên tuổi lớn. Đó là gia đình Phó GS, Tiến sĩ Huỳnh Quang Thuận, nguyên viện trưởng một viện nghiên cứu. Gia đình này tự kể, rằng là hậu duệ đời thứ 5 của vua nhà Nguyễn- Gia Long. Sau khi xong các nghi thức đón rước, an vị rất là long trọng, thì ấn được mở ra đóng thử ngay tại điện Bà. Bằng con mắt của một người am hiểu chữ Hán cổ kim, một vị sư bảo: ngọc thì ngọc thật, nhưng chữ là mới khắc, vì người ta đã không còn dùng chữ Hán cổ, thường được khắc trên ấn tín thời xưa. Vậy đã có thể khẳng định, cỗ ngọc ấn kể trên không phải là ấn cổ. Mà nếu Bà Linh Sơn xưa có ấn (nghe nói được vua ban) thì ấn này cũng là mới chế trên một viên đá ngọc xanh màu lục bảo mà thôi!
Lần lên núi gần đây nhất, vào tháng 4.2016, mới thấy trong điện Bà, ngoài cỗ ngọc ấn còn thêm một pho ngọc tượng nữa. Các nhà sư bảo, đấy cũng là tượng của gia đình hậu duệ vua Gia Long từng cung hiến ngọc ấn trước đây đem hiến tặng khoảng năm 2013. Quả thật, pho tượng mới này làm sáng cả một ngai thờ.
Bà thì đen nhưng đá ngọc lại trắng có vân màu tím. Vì thế, mặt tượng phương phi, tươi sáng. Tượng ngồi trên ngai, áo mão đàng hoàng chạm khắc tinh vi, cao chừng trên dưới 1 mét. Nghĩa là cao bằng pho tượng Bà xưa cũ đứng cùng cậu Tài, cậu Quý ở phía sau. Nghe nói, khối đá ngọc ấy được tín chủ mua tận mỏ đá Myanmar, đem về thuê nghệ nhân chế tác.
Nhiều chùa Tây Ninh có gian riêng thờ Bà, có tượng. Phần lớn tượng Bà trước đây đều có dáng nét trầm luân khắc khổ. Chứ đâu được ánh nhìn thanh thản, rỡ ràng như trên pho ngọc tượng. Chợt nhớ đến pho tượng Bà tạo bằng đá núi Bà ở chùa Thiền Lâm- Gò Kén. Trong các pho tượng Bà hiện có ở Tây Ninh, pho ở Gò Kén chắc chắn là lớn nhất. Cao tới gần 2 mét, khối đá có tiết diện gần vuông với cạnh khoảng 1 mét, nên tượng ấy nặng đến 3 tấn. Điều đáng chú ý là cũng giống như pho ngọc tượng, pho này cũng tạc Bà trên ngai ngồi thanh thản, hai tay ung dung đặt trước gối. Cặp mắt mở to dưới đôi mày cong vút. Có lẽ để cho thêm phần sinh động, người ta đã sơn vẽ trên phần đầu từ cổ trở lên. Để mặt tượng có nước da hồng mịn với mắt mi đen và cả môi son… Như nhiều tượng cổ dân gian, tượng bà Gò Kén cũng được tạo hình cách điệu với sự trau chuốt chủ yếu trên gương mặt phúc hậu, biểu lộ một tinh thần sáng trong thuần khiết, một phong thái ung dung. Tuy vậy, khối thân tượng dù đơn giản hơn nhưng cũng đã chú ý đến từng nếp lượn và các chi tiết trên trang phục. Bà có đầu tóc bới cao như phụ nữ Nam bộ xưa, vận áo dài xưa. Tiếc rằng, cũng như nhiều pho tượng khác, Bà đã được phật tử sùng kính khoác thêm cho nhiều lớp áo khăn thêu ren lộng lẫy, cầu kỳ kể cả đội chiếc mũ miện có gắn kết hình chim phượng cùng nhiều chuỗi đá, pha lê lấp lánh. Vậy nên, tài năng của người nghệ sĩ dân gian tạc tượng được rất ít người biết đến. Được biết, pho tượng này do anh Sáu Phước, chủ một xưởng chế tác đá ở Long Thành Trung hiến tặng.
Hai pho tượng vừa kể chỉ là tượng mới! Thế còn tượng xưa của Bà có trong khá nhiều ngôi chùa, miếu Tây Ninh? Pho cổ nhất, theo truyền thuyết cũng như Huỳnh Minh chép trong sách Tây Ninh xưa là pho tượng do “vua Gia Long truyền cho quan địa phương đúc cốt bà Đênh bằng đồng đen mà thờ tại động trên non linh”. Nếu đúng vậy thì tượng đã có hơn 200 năm tồn tại. Số phận pho tượng này cũng rất long đong, lận đận. Mà sự lận đận này có khi lại bắt nguồn từ chính truyền thuyết về pho tượng. Ấy là vào khoảng năm 1945- 1946 khi lính Pháp tái chiếm Tây Ninh, chúng cho quân lên chiếm núi Bà. Nghe đồn tượng quý nên lính Pháp đã lấy đem về tỉnh bán. Chuyện không rõ vì sao mà sau đó tượng lưu lạc đến đền thờ Phật mẫu của Toà thánh Cao Đài. Theo lời kể, cô Mười- một vị sư phụ trách điện Bà khi ấy đã về chùa Vĩnh Xuân lánh giặc, do được Bà mách bảo trong giấc chiêm bao, nên đã đi “xin” lại. Đến năm 1957, sau hơn 10 năm lưu lạc rồi pho tượng cũng được trở về an vị tại chùa Phước Lâm- chi nhánh của cụm chùa núi Bà Đen.
Sự thật là không có đồng đen, mà tượng bằng đồng đỏ, được đúc rỗng, cao khoảng 60cm. Phần đế phía sau bị móp, có lẽ do vết đạn bắn thời Pháp chiếm. Không một con số hoặc chữ nào để người xem biết tượng đúc năm nào. Nhưng cứ nhìn vào khối tượng, cũng có thể đoán là tượng xưa nhất. Bởi hình tượng còn gần gũi với người bình thường nhất. Cũng tóc bới cao với một vài vành khăn buộc giản đơn. Mũi thẳng, mày cong, mắt dõi xa xăm về phía trước. Tư thế ngồi vô cùng gần gũi, thân quen; chân trái xếp bằng, gối phải chống lên, tay phải đặt trên gối, tay trái nâng một cành sen. Trông bà y hệt một phụ nữ Nam bộ trên những trang sách xưa viết, vẽ về con người Nam bộ. Ngay sau tượng Bà trên cung thờ, còn có một bộ ba tượng gỗ. Ngoài pho chính, còn có 2 pho đứng hai bên, là các cậu Tài, cậu Quý- những người thân tín theo hầu. Ở pho tượng gỗ này, hình tượng về Bà đã được trau chuốt và “quan trọng hoá” hơn, bởi Bà đã “ngồi ngai” với mão áo, trang sức cầu kỳ lộng lẫy. Điều khác biệt lớn nhất là ở tay phải nâng một nhành hoa, không phải hoa sen.
Ngay trên điện Bà hiện nay, ngoài các pho tượng đã kể, vẫn cần biết một pho tượng mới. Đó là vào năm 2011, sau khi hoàn thành chuông lớn núi Bà nặng hơn 6 tấn, còn dư lại một khối lượng đồng. Ni trưởng Viện chủ mới đề nghị đúc thêm một tượng Bà, có thêm một số nữ trang vàng, bạc bỏ vào để nấu. Thế mới có một pho tượng đồng rất đẹp, được bày ngay phía trước cung thờ Bà trong điện. Đến lúc này chăng, hình tượng về Bà mới thật rõ ràng, sinh động. Tượng vừa có sự kế thừa pho tượng cổ xưa của núi, với tư thế chống gối phải, nâng cầm tay trái; lại vừa có sự minh triết trên nét mặt trầm tư tĩnh tại của một bậc chân tu.
Hoặc là Bà linh thiêng biến hoá. Hoặc là tượng luôn có gì đó gần gũi với con người tại thời điểm được sinh ra. Ngắm những pho tượng này thôi, cũng đủ để hình dung một phần lịch sử tu tụng ở núi Bà- đã một phần tư thiên niên kỷ trôi qua dưới trời mây trắng.
TRẦN VŨ
http://baotayninh.vn/tuong-ba-linh-s...au-a49161.html
-
Phương pháp học bùa chú hóa giải vận hạn
Thứ bảy , 03/12/2016, 15:06 GMT+7
Pháp bảo của Đạo gia trong việc hàng ma phục quỷ là linh bùa và chú ngữ, bùa chú hóa tai có bùa chú trấn trạch phục phù, có bùa chú trị bệnh, có bùa chú hòa hợp, có bùa chú thêm đinh vượng tài. Phải căn cứ vào yêu cầu khác nhau để vẽ bùa và niệm chú.
Bùa chú là một phù hiệu, là công cụ đặc thù để nồi liền con người với quỷ thần và là cầu nối giữa con người với thần quỷ. Pháp sư thông qua bùa chú, đem yêu cầu và nguyện vọng của con người nói cho thần quỷ biết, để thần quỷ giúp đỡ đạt được mục đích, ở trên đã nói, Phật giáo cho rằng, con người có nhân quả báo ứng ba đòi, Đạo gia cũng có thuyết người sau khi chết có luân hồi sáucõi. cả hai luồng tư tưởng đểu cho rằng cát hung họa phúc của con ngươi đều là kết quả của những hành vi ở đời trước và đời này. Có người sinh ra có vận mệnh tốt, hưởng thụ vinh hoa phú quý, đòi trước bản thân và ông nội, cha của anh ta làm không ít việc tốt, tích đức hành thiện nhiều, cho nên đời này anh ta được hậu báo. Nhưng cũng có người từ khi sinh ra đến lúc chết chịu không biết bao nhiêu vận hạn, thậm chí mất mạng, nguyên nhân là do đòi trước bản thân, ông nội và cha của anh ta làm không ít chuyện thất đức, tội nghiệp trầm trọng, thì đời này anh ta phải gánh vác quả báo thay cho đời trước của mình hoặc tổ tiên.
Ác nghiệp của đời trước phải dùng đời này để trả, tô tiên ông bà tác ác, vì chưa trả hết nợ nên con cháu đòi sau phải trả thay. Nếu đời này trả mà vận hạn vẫn còn thì phải dùng bùa chú để hóa giải, đa phần là dùng các tế phẩm như tiền vàng, áo quần..., mục đích chính là để trả hết ác nghiệp đời trước. Tế phẩm hóa sát càng nhiều thì mục tiêu càng nhanh hoàn thành, vận hạn sẽ dần dần được tiêu trừ, biến hung thành cát. Cho nên, đời này thường xuyên hành thiện, tích đức, không những có thể làm cho vận hạn tiêu trừ mà còn có thể tăng thêm phúc thọ, đồng thời để lại phúc ấm cho con cháu đời sau. Vẽ bùa giải tai là dùng thông tin trong bùa chú để nói cho quỷ thần biết, nợ có thể tiếp tục trả, lại không làm việc ác nữa, mong thần linh trên trời mở lượng từ bi, giữ thái độ bình hòađể đời này được mở mày mở mặt. Nếu như phạm phải Thái tuế thì bày vật phẩm cúng Thái tuế, cầu Thái Quân mở lòng từ bi, làm cho người xung phạm với Thái tuế được xử lý, để cuộc sống của người đó được bình yên. Cho nên, vẽ bùa có thể hóa giải được vận hạn nguyên nhân là ở đó. Phương pháp dùng bùa chú giải tai cũng chính là phương pháp dùng bùa chú chế hóa.
Nguyên tắc học bùa
- Phàm người học làm pháp sư bùa chú hoặc người tự học, nhất định đều phải là người trung nghĩa, không được làm những chuyện thương thiên hại lý, tổn âm công dương đức. Kẻ bất trung bất hiếu cũng không được học, để tránh vận hạn giáng xuống, tự chuốc lấy cái chết, lại tuyệt tự con cháu. Vì thế, học tập bùa chú để cứu nhân độ thế là nguyên tắc, cũng là mục đích.
- Mỗi năm vào các ngày 9/3, 2/6, 6/9, 2/12 cấm kỵ vẽ bùa. Vẽ bùa nên chọn ngày Hoàng đạo, vẽ bùa vào ban đêm càng tốt. Vào ngày mùng 1, 15 hằng tháng phải ăn chay, vào ngày Cửu độc vợ chồng không được sinh hoạt phòng the, không được ăn lươn, và cuối cùng là phải phóng sinh, không được sát sinh.
Vẽ bùa thỉnh thần chú và các thần quản nước, giấy, mực, bút
Trước khi vẽ bùa phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ, vệ sinh răng miệng. Sau đó cầm những công cụ vẽ bùa (bút, giấy, mực, nước, chu sa), khi bắt đầu, dâng hương báo với thần linh và trời cao, nói rõ vẽ bùa gì (tiêu trừ tai ách hay chữa bệnh), mặt hướng về phía Đông hoặc Đông Nam. Đốt hương vái trời, ngậm một ngụm nước sạch, sau đó theo tuần tự dưới đây để tiến hành.
- Niệm thỉnh thần chú (giải tai ách, niệm Quán Âm, niệm Phật Tổ).
Chú ngữ: “Kính cẩn thỉnh cầu Quán Âm đại từ bi, Thiện Tài Đồng Tử đến hai bên, tay trái nâng nước cam lộ, tay phải nâng cành dương liễu, đầu đội mũ Vương Phật Di Đà, miệng niệm A Di Đà, chân đặt trên tòa sen ngàn vạn cánh, thân tọa đài sen đoàn viên, thân mặc áo lá trúc vạn cành.
Xung quanh là hóa thân Phật nghìn mắt nghìn tay, 18 tôn giả chầu xung quanh,
Có người niệm xuất Quán Ân chú, hố lửa hóa thành hồ sen trắng.
Sáng niệm Quán Thế Âm, chiều niệm Quán Thế Am, niệm niệm từ tâm khởi, niệm Phật không rời thân.
Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm, Thiên sơn hội thượng Quán Thế Âm, Thiên Trúc linh sơn Quán Thế Âm.
Phật Đà sơn thượng Quán Thế Âm, Triều Vân động lý Quán Thế Âm, Nam Hải ngạn thượng Quán Thế Âm.
Bắc Hải hà đầu Quán Thế Âm, Tòa liên tống tử Quán Thế Âm, Phong ba lương thượng Quán Thế Âm.
Bản Thảo linh sơn Quán Thế Âm, Hóa hóa ngư lãm Quán Thế Âm, Bạch y tố đầu Quán Thế Âm.
Tử Trúc lâm chung Quán Thế Âm, Tăng phúc minh vương Quán Thế Âm, Tam thập lục nguyên Quán Thế Âm.
Tằng tằng diêm diệm Quán Thế Âm, hoặc tại hư không thấy trong mây, hoặc tại hạ giới cứu lương dân.
Hoặc ở trong phòng cứu sinh, hoặc ở trong tù cứu tội nhân, hoặc ở sông hồ cứu tai nạn.
Hoặc ở âm ty độ quỷ hồn, ba tai tám nạn cùng ly khổ, bốn đường lục súc hết khỏi sinh.
Thần Thiên la, thần Địa võng, người ly nạn, báo ly thân, tất cả tai ương đều hóa giải. Lửa đến thân, lửa không thiêu, nước đến thân nước không cuốn. Có người niệm được chú Quán Âm, ba tai tám nạn đểu tiêu trừ. Nguyện lấy công đức này, ban cho ta và tất cả chúng sinh đều cùng thành Phật đạo. Đệ tử một lòng thỉnh bái Phật Quán Âm giáng lâm, mau mau như luật lệnh”.
Ngoài ra còn có thể thỉnh cầu Đế quân ba kỳ, Bắc đế, Vương đế, năm Lôi thần tướng (năm thần sét) cùng giáng lâm, phụ trách nước, mực, giấy, bút như luật lệnh.
- Thần chú nước (Hiện nay ít dùng nước để mài mực nên không nhiều người dùng thần chú này): “Nước này không phải là nước bình thường mà là nước Nhâm nỗ ở phương Bắc, điểm một giọt trong nghiên, mây mưa cùng đến, người bệnh nuốt lấy, bệnh tật dược tiêu trừ; tà quỷ nuốt lấy lập tức bị trừ khử, Đế quân ba kỳ mau mau như luật lệnh.
- Thần chú giấy: “Vẽ bùa giấy Bắc quân, đánh tà quỷ có kẻ không phục, đô thành áp triệu phong, mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú nghiên: “ngọc đế có lệnh, thần nghiên bốn phương, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, thần nguyên Lôi phong Lôi điện, mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú bút: “Năm Lôi thần tướng, chớp điện sáng chói, nhập thành một thân, có sức mạnh hàng quỷ phục tà, bảo vệ sinh mệnh, mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú mực: “Ngọc đế có lệnh, thần mực linh thiêng, hình thư mây ráng, bày trên 9 sao, thần mực giáng lâm, sấm sét tập hợp, mau mau như luật lệnh”.
- Chú hạ bút: “Trời tròn đất vuông, luật lệnh 9 chương, nay ta hạ bút, vạn quỷ phục tàng, mau mau như luật lệnh”.
Những chú ý khi vẽ bùa
- Trước khi vẽ bùa, dâng ba nén hương, thỉnh cầu Quán Âm nương nương (hóa tai trừ bệnh), Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương (phục quỷ hàng ma), Thái Thượng Lão Quân, Bắc Đẩu Tinh Quân nhập đàn (có thể theo yêucầu để thỉnh thần) biểu thị rõ ý muốn vẽ bùa.
- Nếu trong nhà có phụ nữ đến tháng hành kinh thì phải thêm một chiếc lá bưởi (hoặc nhành cây trinh nữ), để tránh phép thuật mất linh.
- Khi vẽ bùa phải làm sạch môi trường xung quanh, kỵ tinh thần phân tán, ảnh hưởng đến sự phát huy công lực. Tốt nhất là nên vẽ bùa vào ban đêm, vì ban đêm là thời gian âm dương giao hòa, vạn vật cảm ứng linh nghiệm nhất.
- Vừa vẽ bùa vừa niệm chú, như: “Hách hách âm dương, mặt trời xuất hiện tại phương Đông, quét sạch hết những thứ không tốt lành”, tốt nhất là nên nín thở để viết.
- Vẽ bùa xong thì hóa tiền vàng, tay cầm bùa đưa lên mặt ba lần, niệm chú ngữ, lại châm ba nén hương vái lạy ba lần.
- Kết thúc bước vẽ bùa, phải tạ thần, thường dùng ba cốc rượu hoặc trà, đốt tiền vàng để tiễn thần.
Các thần chú khác
- Thần chú thỉnh cửu Thiên Huyền Nữ:
“Kính cẩn thỉnh Cửu Thiên Huyền Nữ cưỡimây đạp gió du chơi trên không, nước thánh cứu người ánh sáng rực rỡ.
Cành đào đánh quỷ phép thuật vô biên, trên không mênh mông nương nương hành khứ, dưới đất rộng lớn nương nương du hành...
Đệ tử một lòng chuyên bái thỉnh Cửu Thiên Huyền Nữ giáng lâm. Thần binh mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú thỉnh Thiên binh Thiên tướng:
“Thiên lôi tôn quý, long hổ giao binh, nhật nguyệt cùng chiếu, chiếu ánh phân minh, ra đi gần đến, tiếp nhận hiệu lệnh của ta, điều đếnThiên binh Thiên tướng, Địa binh Địa tướng, Thần binh Thần tướng, Quan binh Tỉnh tướng, năm Lôi thần tướng, cùng đến phụng hành, mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú thỉnh giáo chủ Trương Thiên Sư:
“Trời xanh xanh, đất linh linh, đốt hương bái thỉnh Trương Thiên Sư, thần tướng triệu hai nguyên sư, cai quản trăm vạn đại binh tướng. Vạn sao hào quang vạn sao sáng, tay giữ bảo kiếm trừ yêu ma. Nếu có hung thần không quy phục, chân đạp ác quỷ quỷ tiêu vong. Ngàn sao phát ra ánh hào quang, vạn sao chế phép quỷ thần kinh, người phụng lệnh Ngọc Hoàng giáng xuống nhân gian cứu vạn dân, đệ tử một lòng chuyên bái thỉnh, đại sư giáo chủ giáng lâm. Thần binh mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú thỉnh Lã Tổ:
“Chí tâm quy Lã Tổ, cứu độ khổ nhân gian, bệnh tật hết triền miên, thập can thập nhị chi, nhị thập bát tú chủ. Thiên thần Ngọc An nghe, tận lực giáng cát tường, bảo kiếm phát ánh sáng, hàng quỷ phục tà ma. Hồ lô chứa linh đan, độ hết khổ phàm trần. Mở gông nơi lao ngục, giải trừ nạn thủy hỏa, bộ binh mau giáng lâm, cứu nguy hiểm trên đường, tất cả đều hoàn cát, theo niệm theo thời đến, giáng xuống cát tinh giúp. Quá khứ công đức dày, hiện tại là ân chủ. Mỗi một tiếng cất lên, toàn gia được an bình, có thần chủ linh thiêng này, yêu ma đều hàng phục. Thái Thượng Lã Đế quân, mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú thỉnh Táo quân:
“Bái thỉnh Cửu Thiên, Tư lệnh Táo quân, chủ một nhà, thần của năm. Trong bếp Đông ban phúc xá tội, dời hung hóa cát, an trấn âm dương, bảo hộ gia đình. Vận hạn tất diệt, phúc đức tất tăng, có cầu tất ứng, vô cảm không thông, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ. Cửu Thiên Đông trù, Tư lệnh Táo quân, Nguyên Hoàng định quốc, Hộ trạch Thiên tôn, mau mau như luật lệnh”.
- Thần chú trị bệnh
“Một tiếng truyền đi hướng không trung, tà ma ngoại đạo khắp bốn phương, không kỵ thiên đình địa phủ, không kỵ Phật pháp vốn không đạo, hàng phục được hết thảy yêu ma. Tay chấp pháp miệng cầu nguyện, trên dưới đạo thanh tịnh, Tây phương có Phật đạo Lưu ly. Trên thiên đình, dưới hạ giới đều có hoa sen nở. Thỉnh cầu cho thân ta được tiêu trừ hết thảy tai ương, thỉnh cầu Phổ Yên Bồ Tát giáng lâm, khởi ly thiên sát, khởi ly địa sát, khởi ly niên sát, khởi ly nguyệt sát, khỏi ly nhật sát, khởi ky thời sát, khởi ly ngũ phương hung thần ác sát. Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ thần sát, âm hình quỷ quái mau mau tẩu tán. Ta phụng Thái Thượng Lão Quân lệnh thần binh mau mau như luật lệnh, mau mau như luật lệnh”.
Giới thiệu về linh bùa
- Bùa chú đeo bên mình trị bệnh
Phàm là người có bệnh, bất luận là nặng hay nhẹ đểu có thể mang bùa này theo bên mình, để bảo hộ bình an.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú cầu gia đình hưng thịnh:
Gia đình hòa hợp, vạn sự hưng thịnh, vẽ bùa này vào tờ giấy vàng, đặt trong góc nhà có thể khiến gia đình hòa thuận viên mãn. Nhưng chú ý phải làm bí mật, nếu để người khác nhìn thấy sẽ mất linh nghiệm.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú bảo hộ thân thể
Niệm chú vẽ bùa này. Mang theo bên mình, có thể hộ thân bình an, không có điều gì cấm kỵ.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú hóa giải tất cả tai sát
Bùa này có thể mang theo bên mình hoặc trấn ở nơi hung sát, có thể khiến cho mọi tai sát được hóa giải.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú đề phòng chuyện phát sinh đột ngột Dùng áo trắng hoặc giấy trắng vẽ bùa này, đeo theo bên mình có thể phòng được những chuyện xấu phát sinh bất ngờ.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú thế thân Phàm những người nhiều tai nạn hoặc tuế vận có đại nạn Thái tuế, có thể dùng bùa này để chế sát.
Khi vẽ bùa thì thỉnh niệm chú thế thân: “Thế thân, thay thân, dùng giấy trắng làm mặt, giấy ngũ sắc làm thân, chưa khai quang thì vẫn là giấy, khai quang rồi thì biến thành thần thông. Khi đã khai quang thì tai trái nghe âm thanh dưới âm phủ, tai phải nghe âm thanh trên dương gian. Bạn và một người tên này, họ này, sinh ra cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm. Tay trái của bạn đề tiền tài, tay phải của bạn đề tai ương, tai ương do người tên này, họ này gánh lấy, thần binh hỏa cấp như luật lệnh”.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú hộ thân
Mang bùa này bên mình có thể giúp cho chủ nhân được bình an phú quý. Khi vẽ bùa này, hình Thái cực trên bùa có thể vẽ màu sắc Ngũ hành Hỷ dụng thần của mệnh cục bản thân. Ngoài ra, dùng vải làm nền bùa, màu sắc của vải phải là màu sắc Ngũ hành Hỷ dụng thần của mệnh cục bản thân.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Linh bùa giải trẻ nhỏ khóc dạ để Nếu trong nhà có trẻ nhỏ thường xuyên khóc dạ đề (khóc đêm) thì có thể dùng bùa này, một cái dán trong phòng, một cái đem đốt thì có thể hóa giải. Dân gian còn có một phương pháp khác: Dùng một tờ giấy đỏ viết câu: “Thiên hoàng hoàng, địa hoàng hoàng, nhà tôi có một con nhỏ khóc đêm, tiên sinh qua đường đề một câu, cho con tôi có thể ngủ đến sáng” rồi đem bùa dán ở ngã ba đường.
- Bùa chú trị bệnh tương tư
Phàm những ngườimắc bệnh tương tư, người xưa thường đốt bùa này hòa trong nước uống vào thì bệnh sẽ khỏi (cũng có thể đeo theo bên mình hoặc đặt trên đầu giường).
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa trị bệnh nâng cao sức khỏe Bùa này là tổng bùa kim đan của Tây Vương Kim mẫu, có bệnh trị bệnh, không có bệnh thì có thể tăng cường sức khỏe.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú chữa bệnh tinh thần
Người mắc bệnh tinh thần rất dễ gây thương tổn cho người khác, phải kiên trì chữa trị. Người xưa thường dùng bùa này hóa thành tro, hòa nước uống, có thể khiến cho người đó được an ổn bình thường (cũng có thể đeo bên mình hoặc đặt trên đầu giường).
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú Ngũ quỷ
Phàm năm có Ngũ quỷ nhập mệnh, có chuyện không may đột ngột ập đến, dùng bùa này và tiền vàng hóa hỏa, có thể chế được Ngũ quỷ, giải trừ được vận hạn bất ngờ.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú Thái âm
Nếu vào năm phạm sao Thái âm, làm việc có sự phân tranh, nam mắc vào tình sắc mà hao tài, có thể phòng bằng cách vào đêm ngày 26 mỗi tháng, hướng về phía Tây gọi Thái Âm tinh quân, đốt tiền vàng và bùa này có thể bảo hộ được bình an.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú Tang môn.
Nếu mệnh phạm sao Tang môn, chủ có tang, tổn tài, phát sinh nhiều chuyện không hay thì không nên thăm người bệnh; dự đám tang có thể miễn trừ được vận hạn, phải chế hung sát tinh để giữ được bình an.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú Thái dương
Nếu mệnh gặp sao Thái dương, chủ hư hao không tụ tài, không quản chuyện người khác thì có thể tránh được phá tài. Để đề phòng gia đình có biến cố, không tổn hại đến người khác, vào ngày 27 mỗi tháng, hướng về phía Đông cầu Thái Dương tinh quân, đốt bùa này cùng tiền vàng có thể giữ được bình an.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú Tử phủ
Nếu niên mệnh sao Tử phủ, chủ tranh đấu, bệnh tật, kiện tụng, phá tài. Vào năm này không nên đi thăm người bệnh, nên chế hóa hung tinh để giữ bình an. Dùng bùa này đốt cùng tiền vàng có thể hóa giải được vận hạn.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Hùn Tuế phá
Nếu niên mệnh phạm sao Tuế phá, chủ gặp chuyện phiền phức. Gặp chuyện nên nhẫn nhịn, an phận giữ mình, nên bày lễ cúng thần, có thể hóa giải được phiền phức, dùng bùa này hóa hỏa vào tết Đoan ngọ (5/5) có thể giữ được bình an cho cả gia đình.
- Bùa chú Thiên cẩu
Sao Thiên cẩu nhập cung, có vận hạn thương tổn, trước tết Trung nguyên (15/7) dùng bùa này để chế hóa hung tinh Thiên cẩu có thể hóa giải vận hạn.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Hùn trấn cha con bất hòa Trong một nhà, nếu cha con bất hòa sẽ dẫn đến những mâu thuẫn, gây sự chia rẽ trong gia đình, có thể đeo bùa này bên mình để hóa giải.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú lợi kinh doanh
Trong kinh doanh, nếu làm ăn không phát đạt, có thể đặt trong nhà hoặc cửa hàng loại bùa này, có thể giúp cho làm ăn hưng thịnh, tài lực thân dồi dào.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú trấn phạm ông cô (khắc bố chồng)
Nếu mệnh nữ phạm phải hung tinh này, chủ con dâu bất hòa với bố chồng, gia đình không yên ổn, có thể dùng bùa này chế hóa sẽ được đại cát.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa chú trấn thị phi xâm hại:
Có những người rất dễ phạm phải họa kiện tụng thị phi, hoặc mồm miệng phát ra những lời lẽ hồ đồ, có thể dùng bùa này đeo theo bên mình sẽ được đại cát.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa giải Mai nhi sát
Mệnh phạm phải Mai nhi sát, tức mệnh nữ sinh vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu vào giờ Sửu là Mai nhi sát, sinh vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì giờ Mão là Mai nhi sát, sinh vào các năm Dần, Thân, Tỵ, Ngọ thì giờ Thân là Mai nhi sát, tuy có con cũng khó bảo toàn, nếu còn cũng rất khó nuôi, dùng bùa này đeo theo bên mình có thể hóa giải được. Ngoài ra còn phải dùng các phương pháp khác để giải.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa giải nhiều tai ách
Nam nữ mệnh phạm nhiều ách sát, cũng gọi là hung niên của nạm, nữ. Nếu phạm phải, thì dù lá ngọc cành vàng cũng khó tránh khỏi kiếp quả phụ, hoặc tương khắc, dùng bùa này dán trong màn có thể hóa giải.
Bua giai, giai bua ngai, bua hoa giai, hoa giai, hoa giai phong thuy, hoa giai la gi
- Bùa giữ cho ái tình nồng đượm
Sau khi kết hôn dùng bùa này bí mật giấu trong người thì cơ duyên sẽ thêm nồng thắm. Nam đeo bùa thân thể phải sạch sẽ, nữ khi có kinh nguyệt không được đeo bùa, trong ngày rằm không được sát sinh, dùng bùa này không được có tà niệm, nếu không sẽ mất linh.
- Bùa giải nam nữ không quan tâm đến gia đình
Có một số người thích giao du với bên ngoàikhông quan tâm đến gia đình, có tiền trong tay là tìm nơi vui chơi, dùng 7 cành đào, đốt lên hòa vào nước tắm có thể hóa giải.
- Bùa chú phượng hoàng
Linh bùa nay có thể giữ được bình an cho hôn nhau, nữ đeo theo bên mình, không có điều gì cấm kỵ.
- Bùa chú giúp vợ chồng hòa hợp (1)
Nếu giữa vợ chồng phát sinh tranh cãi, bất hòa hoặc có nguy cơ ly hôn, có thể dùng bùa này dán lên giường (hoặc mang theo bên mình) khi vẽ bùa phải niệm mật chú.
- Bùa chú giúp vợ chồng hòa hợp (2)
Đem bùa này bímật đạt lên giường ngủ của nam nữ. Khi ve bùa và hóa bùa, phải ám niệm mật chú mới linh nghiệm.
- Bùa chú giúp vợ chồng hòa hợp (3)
Người xưa dùng bùa này đốt, lấy tro pha vào trà cho đốiphương uống, hoặc đặt lên giường ngủ của nam nữ (cũng có thể dùng làm bùa hộ mệnh để đối phương đeo theo bên mình).
- Bùa chú giúp vợ chồng hòa hợp (4)
Người xua dùng bùa này đốt, lấy tro pha vào trà cho đối phương uống, hoặc đặt lên giường ngủ của vợ chồng, cũng có thể bí mật đặt trong xe của đối phương.
http://choiphongthuy.com/phuong-phap...an-9-2088.html
-
Tour Phú Quốc
binhbanhatrang.com/tour-phu-quoc.html
Translate this page
14h00: Quý khách tắm Tiếp tục hành trình quý khách tham quan Dinh Cậu - Một địa danh nổi tiếng của vùng Đảo Ngọc - Nơi thờ Cậu Tài, Cậu Quý – Một tục lệ khá nổi tiếng của người dân Phú Quốc - Đặc biệt là với những người dân mỗi lần ra biển. 15h00: Tiếp tục hành trình đoàn tham quan Nhà Thùng nơi sản xuất ...
=
PHÚ QUỐC - HOANG SƠ BIỂN ĐẢO 4 ngày 3 đêm
thuexeotophuquoc.vn › TOUR DU LỊCH PHÚ QUỐC
Translate this page
Sep 10, 2017 - 10h40: Xe và hướng dẫn đón khách tại Cảng, khởi hành đi tham quan: Dinh Cậu – Một địa danh nổi tiếng của vùng Đảo Ngọc – Nơi thờ Cậu Tài, Cậu Quý – Một tục lệ khá nổi tiếng của người dân Phú Quốc – Đặc biệt là với những người dân mỗi lần ra biển. Chợ Dương Đông tham quan, mua sắm.
-
THỜI MẠT PHÁP, SINH RA" MẬP PHÁT".
TRƯƠNG MINH HÒA ( tinparis.net)-
" Phật pháp ngày nay đã mạt rồi.
Trà trộn cửa chùa, Việt Cộng nhoi.
Sư- ni thứ thiệt, thân trù dập.
Sư giả, ni gian, đạo tạo đời.
Đồn công an phủ bằng tượng Phật.
Cơ sở cà sa, tu sĩ tồi.
Mạt pháp thời nay, sư mập phát.
Đa phần tu giả, cảnh giác thôi.".
Thích Thông Lai
Theo nguồn tin từ Hoa Kỳ cho biết là vào ngày 6 tháng 5 năm 2012, tại thủ đô người Việt tỵ nạn cộng sản là Little Saigon, huề thượng tọa " không người lái và tự biên tự diễn THÍCH THÔNG LAI, được gọi hổn hanh là THÍCH THAY LÔNG, là thủ trưởng, kiêm chánh ủy" đạo phật ngày nay" là phật giáo dị dạng, dị hình, sẽ " chủ trì và chủ đạo" khoản 400 người, đi" diễu hành" bằng đồng phục cà sa với danh nghĩa" hành đạo ăn mày", lịch trình" cái bang hành đạo" được ấn định trên đại lộ Bolsa, từ Magolia đến Bushard, dưới danh nghĩa rất là đạo pháp:" Kính Mừng Phật Đản".
Theo phét biểu theo kiểu lếu láo của thượng tọa" chánh ủy" đoàn khất thực cho biết rằng:" Lý do chúng tôi khất thực là muốn làm sống lại tinh thần đức Phật. Ngày xưa đức Phật không ở trong chùa, mà đi khất thực sống qua ngày. Chúng tôi tổ chức khất thực bao gồm người tu hành và trí thức. Trong ngày đó, , họ lột quần áo đời thường, mặc vào chiếc áo cà sa. Họ bình đẳng với tất cả mọi người, giống như đi chung với hành khất, để thương họ nhiều hơn, theo lời đức Phật".
Thượng tọa" không người lái và tự biên tự diễn" Thích Thay Lông, là em của ni sư Như Thủy, ni nầy có nhiều băng giảng biến tướng chánh pháp đạo pháp. Sư Thích Thay Lông là tổng khậu tiệm nhang Franchise Tầm Nguyên, bao gồm Tầm Nguyên 1, 2 và 3 ở vùng Seatle ( tiểu bang Washington), Conroe ( Texas) và Indio ( Cali)....như vậy, sơ khởi cho biết thì thượng tọa Thích Thay Lông thuộc hàng" tư bản Phật giáo" với cơ sở kinh thương, chứ không phải là dân tu hành thứ thiệt, nên không dứt khoát bỏ tiệt những thứ thuộc về" sắc sắc, không không" như những người tu hành chân chính, theo gương của đức Phật. Tức là thượng tọa Thích Thay Lông đang biến dạng:" kỳ nhông đổi màu", lợi dụng danh nghĩa là làm sống lại tinh thần đức Phật, nhưng thật ra chỉ là màng" trình diễn thời trang phật giáo" trong cái láo là" khất thực", nên phát động khất thực rần rộ, có tổ chức và báo đăng, chỉ là màng bịp khất thực:" núp bóng từ bi, để đi làm thương mại" chứ có phải là khất thực đâu.
Ngày xưa, trước Tây Lịch hơn 500 năm, Đức Thích Ca Mâu Ni đã từ bỏ cung son điện ngọc, vợ đẹp con ngoan và ngôi vị thái tử để dấn thân vào con đường hành đạo, tìm đường giải thoát khỏi kiếp trần luân và ngài đã đắc quả sau khi tịch diệt. Nhưng ngày nay bọn gia ni, giả sư, làm trái lại, chúng là thứ làm tổn hại đến uy danh đức Phật và đạo pháp, bị người đời chê bai qua hai câu ca dao:
" Ngoài miệng thì niệm Nam Mô.
Trong lòng lại chứa một bồ gươm dao".
Đừng nghe những gì thầy chùa dỏm thuyết phét, mà hãy nhìn kỷ những gì thầy chùa làm, để không bị lầm lẫn, trao lòng tin, sự tôn kính oan uổng vào bọn" mượn đạo tạo đời, mượn đạo tạo danh và mượn đạo tạo đảng"...nhan nhản trong các tự viện, đạo tràng, từ trong nước đến hải ngoại.
Chùa Phật trong cái" phật giáo ngày nay" mang nhiều tiếng tai, có ba loại, chứ không phải chùa nào cũng là chánh đạo cả, nên cần phải biết có những ngôi chùa, do thành phần trụ trì, biến thành" chủ trì" theo dạng" tốt mã rả đám" đang có mặt tại khắp các tự viện, gây ra nhiều chuyện trong TỨ DIỆU XÚ:" tham-gian-dâm-ác", nhất là chùa nào lấy tà kinh Các-Mác để khoát lát thuyết phét, lợi dụng " luật luân hồi, nhân quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
1-Chùa Phật chân chính, do những vị sư đao hạnh, lòng giác ngộ thực sự, chứ không phải là thứ:" bần tăng đi tu, cạo đầu vì đầu bần tăng có ghẻ, có người còn phao tin thầy tu chứa đĩ trong chùa.." hay là thành phần trốn quân dịch trường kỳ ngày xưa ở miền nam, dù là mặc ác cà sa nhưng vẫn" la cà" với vợ nhà, rất thích đàn bà...nên sau thời gian" gởi thân tạm thời nơi cửa Phật, nhiều sư đã đắc quả" đạo ù ù" qua quá trình" biến chúng SANH thành chúng ĐẺ" nên sư có con và những" người vợ không bao giờ cưới" vẫn cùng sư" thanh tâm trường TU ĐẠO" một cách âm thầm, từ nhân biến thành quả là con, đoạn được nuôi dưỡng bằng tiền cúng dường của bá tánh, quả là:" tu nhất kiếp, sướng nhất thời".
Ngày nay, bọn sư gốc trốn lính vẫn bám trụ chùa để" không lao động mà lại vinh quang, ngồi không ăn bám" mà còn biến hai chữ" cung-dưỡng" thành" CÚNG DƯỜNG" cho có vẻ linh thiêng, tôn kính, chứ cung cấp và nuôi dưỡng nghe qua có vẻ quá xệ. Sư trốn lính là tàn dư của những" chàng trai thời LẶN", nay vẫn bám trụ chùa, lên chức cao và" thanh tâm trường hốt bạc" từ những Phật tử Tam Tạng thời đại, chuyên lạy Phật, không nhìn ra ma quái, nhiều sư đã công thành công đức:" tu nhất kiếp, giàu nhất thời".
Một số sư gốc trốn lính đã trở thành" giác ngộ bác đảng" để phục vụ đảng sau năm 1975, hầu tiếp tục làm thầy" không người lái", nên chùa tại Việt Nam tràn ngập loại sư gian, gốc đảng hay trốn lính....do đó, chùa ngày nay đa phần là thứ" mượn áo cà sa, thờ ma cộng sản" hay" giả dạng con Phật, mà đích thật quỷ ma, lấy tiền bá tánh đi chơi đĩ", còn được xuất ngoại qua Âu-Mỹ để tiếp tục làm hại ông Bụt. Hầu hết sư chân chính thường bị" phục viên" hay bị" biên chế" sang các ngôi chùa hẻo lánh để nhường chùa lớn, đông khách cho gian sư" tha hồ hành đạo, nói xạo thu tiền, chứ nào phải là người hiền".
2-Tiệm Phật: cũng là nơi" trụ trì" của những ma tăng, quỷ ni, mượn cửa từ bi để" thi công hốt bạc" làm lạc cả đạo mầu, nên cái gọi là CÔNG ĐỨC của đám tu gian nầy lếu láo, chẳng khác nào là CỨT-ĐÔNG. Nguồn gốc các chủ tiệm Phật, được gọi là huề thượng, thượng tọa, đại đức, sư bà, ni sư, ni cô....rất là phức tạp, là" diễn biến gian manh của những kẻ mượn áo cà sa để hốt đô la" chốn" ta ba thế giới" hầu tiến nhanh, tiến mạnh, tiền vững chắc thành" triệu phú Phật giáo".
3-Đồn công an trá hình: Ngày xưa ở miền nam trước 1975, lợi dụng sinh hoạt dân chủ, trong đó có tự do tôn giáo, những quỷ đỏ vô thần, mặc ác cà sa, thành lập" mật khu Việt Cộng công khai" ngay tại thủ đô Saigòn, đó là động quỷ Ấn Quang ( nói theo từ Tây Du Ký) nay là" mật khu Việt Cộng núp dưới cửa chùa" ( nói theo từ quân sự). Mật khu nầy do thượng tọa Thích Trí Quang là" chánh ủy" với ban thường vụ như huề thượng Thích Thiện Minh, Thích Minh Châu....hang quỷ vương Ấn Quang có cả người ở ngoài, là đại đức Thích Nhất Hạnh, Cu sĩ Võ Văn Ái, đánh phá thể chế chính trị tự do miền nam từ trong ra ngoài.
Nổi bật" đoàn quân giặc thầy chùa" là chiến dịch" tổng công kích năm 1966", trước tổng công kích tết Mậu Thân 2 năm. Trong chiến dịch tổng công kích 1966, chiến thuật" mang bàn thờ phật xuống đường" và tượng Phật không kỵ, nhiều nơi được" an vị trên đống rác", phía sau là giặc cộng, nã súng bắn vào lính quốc gia đến để vãng hồi an ninh, nên có câu:" núp bóng từ bi, đâm sau lưng chiến sĩ.
Ngoài ra còn có huề thượng Thích Quảng Đức, người đem nhục thể để" cúng dường đảng, bác" làm cho phật tử tam tạng nổi cơn" tam bành lục tặc" hùa theo giặc, tạo thế mạnh cho hang quỷ Ấn Quang và 5 tháng sau khi" tự thiêu", tên Việt Cộng nằm vùng, gốc hang quỷ Ấn Quang là trung tướng Dương Văn Minh, móc nối với cục tình báo T-4 từ năm 1960, do em hắn là đại tá tình báo Dương Văn Nhựt, đã" triền khai" tình hình, móc nối với các phản tướng, phản tá, đảo chánh, giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, đưa dần miền nam và trình trạng suy yếu và cũng là một trong các nguyên nhân đưa đến thảm cảnh 30 tháng 4 năm 1975. Do đó, thời gian khá dài, huề thượng Thích Quảng Đức đã được đám Ấn Quang" quá độ" nâng cấp cho đắc quả" tự biên tự diễn và không người lái" thành bồ tát. Nhưng thời gian gần đây, Việt Cộng xây tượng Thích Quảng Đức rất" hoành tránh" để" xiểng dương công lao" đóng góp cho" cách mạng thành công, biến cửa chùa thành đồn công an và tiệm phật".
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả miền nam đau buồn, thì hang quỷ Ấn Quang huy động hàng ngàn tăng gian, ni dỏm ra đón đoàn quân ăn cướp, ngày 19 tháng 5 năm 1975, chúng hồ hởi phấn khởi tổ chức ngày" vía quỷ vương Hồ Chí Minh" tại các chùa, tự viện theo tiêu chuẩn:" chùa do phật tử đóng góp, sư gian quản lý và đảng lãnh đạo". Nhân dịp ấy, có thượng tọa Thích Mẫn Giác (đã viên tịch ở Mỹ và được Kiều Mỹ Duyên ở Mỹ tán dương công đức trên đài phét thanh SBS ở Úc Châu bằng phỏng vấn điện thoại viễn liên) đứng lên đọc bài" tham luận" kể lễ công đức của đồng bọn gian sư, đóng góp cho cách mạng thành công.
Trà trộn theo dòng người tỵ nạn, bọn gian sư: gốc trốn lính, hay công an....giả dạng, chúng nói láo là bị đàn áp tôn giáo, tới các trại tỵ nạn và cũng được một số phật tử tam tạng thời đạo" trọng phật kính tăng" dù tăng là người lăng nhăng tình ái, nhiều vị với hòn" Dzái" lăng tăng khi nhìn thấy gái đẹp. Nhờ phật tử tam tạng, nên bọn sư gian, ni dỏm...thu tiền cúng dường từ mồ hôi, để có nhiều ngôi chùa" hoành tráng" đáng giá bạc triệu Đô La, là cơ ngơi của lũ quỷ ma, mặc áo cà sa, ra vào hốt bạc ở nước ngoài, chứ bọn gian sư, dỏm ni nầy đâu có tài cán gì, nhiều tên dốt, trình độ văn hóa rất là" khiêm tốn", nhưng nhờ" sống lâu lên lão làng, tu lâu lên huề thượng" mà lếu láo thuyết phét một cách" thanh tâm thường nói dỡ nói dai" nhưng lại được phật tử thuộc mọi thành phần, kẻ cả khoa bảng, cúi đầu, lắng nghe một cách rất" tâm phục, khẩu phục", thế mới nhục không?.
" Cà sa, chức sắc cao dầy.
Thuyết phét quá dỡ, thế nầy mà khen".
Sau thời gian kinh doanh bằng tượng phật, nhiều chùa Phật đã và đang tiến hành công tác" tôn giáo vận" bằng cách bảo lãnh công an, gián điệp, đó là bọn:
" Cỡi áo bò vàng mặc áo nâu.
Công an, gián điệp, nằm vùng sâu.
Mượn cửa từ bi, tôn giáo vận.
Lấy đạo Thích Ca, bắt nhịp cầu.
Phật tử thuần thành, công an xá.
Sư vẹm thanh tâm, công tác lâu.
Xuất ngoại, du tu, lòn xâm nhập.
Việt Cộng lan tràn, ai biết đâu?".
Phật tử thuần thành đã bỏ nước ra đi vì đại họa cộng sản vô thần, nay ở xứ tự do, tưởng là thoát nạn, nào ngờ chúng phái công an, gián điệp, cạo đầu, mặc ác cà sa, xâm nhập từ các cửa chùa, do đồng bọn bảo lãnh, vì sư nào ra đi dễ dàng, nhất là ni sư trẻ măng, thường tốt nghiệp đại học công an, hay là gốc đảng, cứ thấy sư ni là chấp tay xá dài, là trúng vào quỷ kế. Chẳng lẽ Việt Cộng, hay những tên cán bộ vô thần như Nguyễn Tấn Dũng, Đổ Mười, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng...hay bất cứ tên ác ôn nào, mặc áo cà sa, cạo đầu, khi nhìn thấy áo vàng và tượng phật, đều vái bái rất tôn kính và coi là con phật hay sao?. Đây là một tập quán rất nguy hiểm của thành phần phật tử" tam tạng thời đại", đóng góp công làm hại đạo pháp, chứ nào phải" trọng phật, kính tăng".
" Những đoàn quân đầu không có tóc.
Bao phen lầm tưởng kẻ tu hành.
Khắp nơi nơi, toàn là Việt Cộng".
Đoàn " Xin ăn / khất thực" tại Bolsa
Thượng tọa" tự biên tự diễn và không người lái" Thích Thay Lông rất là tự cao, cho là:" chúng tôi tổ chức khất thực bao gồm người tu hành và TRÍ THỨC"....như vậy trong đoàn quân hùng hậu 400 người, phải tương đương với" tiểu đoàn" khất thực, nếu không tu hành cũng trí thức, chứ người bình dân, ít học, không có bằng cấp, không đủ tiêu chuẩn để" làm khất thực" hay sao?. Sắp tới đây, người Việt ở Nam Cali sẽ chứng kiến" tiểu đoàn khất thực" xuất quân, nếu không tu hành cũng là thành phần dân " xịn" chứ" người phàm" không đủ tiêu chuẩn, điều kiện để ăn mày, đây là thành phần " ăn mày cao cấp", như thời miền nam trước năm 1975, có phong trào:" ký giả ăn mày", nhưng sau 30 tháng 4 năm 1975, ký giả gốc nằm vùng thì được" vẻ vang dân Vẹm", còn ký giả hùa, bị trù dập, tù đày... đánh cái tội a dua.
Thượng tọa" không người lái và tự biên tự diễn" Thích Thay Lông nói vậy mà không phải vậy, sư cho là:" Phật không ở trong chùa", nhưng nhìn lại, Thích Thay Lông và đồng bọn có người nào" lấy gốc cây phong, cây thông, cây xương rồng, cây cột đèn.." để làm nơi tu học như đức Phật mượn gốc Bồ Đề làm nơi tạm trú để tu giải thoát, không có ai thuộc thành phần Homeless, nhưng trái lại sư nào cũng có" cơ ngơi" là những ngôi chùa" tráng lệ" chẳng khác nào cung điện vua, cái mà đức Phật dứt khoát bỏ hết, nhất là thủ trưởng đoàn khất thực là thượng tọa Thích Thay Lông có cơ sở kinh doanh, không ai biết vị" doanh gia phật giáo" nầy có bao nhiêu tiền trong trương mục?. Nhưng chắc chắc là sư phải:" dấu kín, dấu kín, đại dấu kín", nên tiền trong trương mục hay những" bí mật đời sống riêng tư của sư" được tu tập và bao che theo tinh thần" mật tông".
Việc tiểu đoàn khất thực ra quân" tiến vào Bolsa, trận cuối là trận nầy" trong cái gọi là:" làm sống lại tinh thần đức Phật", được chuẩn bị và" điều nghiên" rất kỷ tại nước Mỹ, nên trước khi ra quân, những" khất thực viên" được cạo đầu, gọi là" phủi tóc", làm nháp trước khi ra quân, giống như trong trận chiến đánh phá miền nam, mỗi khi Việt Cộng đánh đồn, chúng chuẩn bị: vẽ sa bàn, tập dượt trước khi tấn công.
Người" thầy khất thực vĩ đại" là huề thượng Thích Giác Nhiên, cũng từng cùng với tín nữ cùng nhau" khất thực" trong tịnh thất, trên giường, nhưng tình cờ sư đệ là Thích Giác Ngỡi phát giác trong lần thăm viếng không báo trước, nên đạo lão hề thượng, chủ tịch phái khất thực thế giái tà bà nầy đành phải" di tản chiến thuật" sang nơi khác để" tái phối trí tu hành" bằng ngôi chùa khác. Sau nầy, huề thượng Thích Giác Nhiên cũng đã " về nguồn khất thực" với đảng và bác tại Việt Nam. Không biết trong đoàn quân, tiểu đoàn khất thực, dưới sự lãnh đạo của thủ trưởng Thích Thay Lông, có sự cố vấn, đồng tình, hay chỉ đạo chiến lược của đạo lẽo hề thượng, chủ tịch Thích Giác Nhiên, xếp sòng cái bang từ ngoài và trong nước.
" Thay Lông, thượng tọa Thích Thông Lai.
Tổng khậu tiệm nhang, rõ biệt tài.
Không người lái chức, làm sư lớn.
Tự biên tự diễn, thượng tọa, thầy.
Hành khất thời trang, nào theo Phật.
Cơ ngơ tráng lệ, cửa chùa nay.
Sư nói và làm, đều khác biệt.
Tiệm phật, công ai, ai có hay?".
Ngay xưa đức Phật hành đạo rất đơn giản, ngài chỉ đi hành khất để sống qua ngày, hầu trút hết cái tâm vào việc giải thoát, nên ngài không màng thế sự. Tuy nhiên, ngày nay, thượng tọa" tự biên tự diễn và không người lái" Thích Thay Lông, trước khi thực hành màng" trình diễn thời trang khất thực" đã chuẩn bị trước, có báo đăng và được phổ biến khá rộng trên thế giới ảo, là thế giới ta bà internet, khất thực kiểu nầy là khất thực sang, chứ nào phải là:" muốn làm sống lại tinh thần Đức Phật"...
" Lần nầy khất thực, khác ngày xưa.
Rần rộ ra quân, giống chuyện đùa.
Tu sĩ, trí thức, cùng cạo trọc.
Tiến lên tiền của, chắc về ta"../.
Trương Minh Hòa
23.04.2012
https://www.tinparis.net/thoisu12/20...Lai_TMhoa.html
https://www.tinparis.net/thoisu12/ThongLai_matang.jpg
https://www.tinparis.net/thoisu12/Th...tthuvBolsa.jpg
-
SM VIDEO
Published on Dec 15, 2017
SUBSCRIBE 3.6K
Thanh Hải Vô Thượng Sư Tụng Kinh Phổ Môn tại Honolulu , Hawaii, Hoa Kỳ.
Ngày 28 tháng 03, năm 1991
Thanh Hải Vô Thượng Sư Tụng Kinh Phố Môn tại chùa Chân Không, Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ.
-
https://www.youtube.com/watch?v=GkV5WOvD2QY
Trấn Thành đứng bật dậy vì giọng hát thầy giáo thể dục | HTV HÁT MÃI ƯỚC MƠ | MÙA 2 | HMUM #5
-
28/09/2013 by TUONGTRI
Chuyện Cậu nhập xác phàm
Phạm Nga
Pho-An-My
Buổi chiều, chương trình xổ số trên ra-dô đã xong xuôi, thì đúng theo cái lệ bất di bất dịch của xóm làng, các chị phụ nữ rỗi việc hay bỏ ngang việc nhà lại đi thư giãn theo kiểu riêng của các chị, tức đến tụ tập tại chỗ hẹn quen thuộc là nhà bà Tư làm nghề cạo gió. Người trước người sau, họ mon men đến ngồi vào chiếc chiếu rách trải sẵn trong sân nhà bà Tư.
Đang ngồi xếp bằng, im lặng như đang suy nghĩ việc riêng mà không tham gia vào đề tài bàn số đề của mọi người, cô gái bỗng ngã lăn ra, nằm ngữa trên chiếc chiếu . Hai chân co lên thân mình, cô dễ dàng kéo một bàn chân lên miệng rồi hồn nhiên mút ngón chân cái chùn chụt. Mấy người đàn bà nãy giờ ngồi xung quanh cô gái, kể cả mấy con mụ nổi tiếng hung dữ, nanh nọc cũng đều đồng loạt thì thào “Cậu về! Cậu hiển linh đó!“. Như hoàn toàn khiếp phục trước một sức mạnh vô hình, đến nỗi cứ như cố tìm cách tự thu nhỏ thân mình lại, họ khom người, chấp tay, cúi đầu, lầm bầm khấn vái. Có người khóc lóc, sụp lạy liên tục. Cô gái không còn là chính mình nữa mà đã biến thành xác.
Theo bà con ở đây, người mà họ đang cung kính gọi là Cậu vốn là hồn rất thiêng của một bé trai tên Yến, chết vào thời nào không rõ. Rồi cũng không rõ do nguyên nhân, thúc đẩy nào, Cậu hiển linh tại xóm làng này, chọn cô gái làm xác để nhập vào mà cứu-nhân-độ-thế. Được một thời gian thì lại có thêm thông tin – không ai có thể kiểm chứng – rằng Cậu Yến đúng ra là một tiểu hoàng tử chứ không phải con nhà dân dã. Bà con, chúng đệ tử càng thêm thần phục: Cậu Yến thăng lên Cậu hoàng Yến.
Cậu, vẫn nằm ngữa, bắt đầu đớt đát nói tiếng trẻ thơ, nghe khi được khi không. Lập tức bà Tư chủ nhà, người bỏ ra chiếc chiếu rách làm giảng đàn cho Cậu nhập xác, đóng vai một ‘thông dịch viên’ hạng tồi. Giọng ồ ề như bị ung thư thanh quản của bà nghe rất mệt lỗ nhĩ nhưng không có cách nào khác, mọi người vẫn phải chú ý lắng nghe. Cậu nói – Cậu nói chớ hổng phải tui nói đâu nhe – là Cậu chỉ có một cái tâm cứu nhân độ thế, giúp chúng phàm mà không cầu lợi lộc, nên mấy ông cốc bà cốc không nên phát tâm cúng lễ vật, tiền bạc làm gì. Còn con nữ áo cụt lỡ xanh kia, bây nghe không hả, đừng buồn chuyện thằng chồng bây đi lấy bậy nữa. Cứ lo tu nhân tích đức đi, từ từ Cậu sẽ dạy cho thằng nam nó tỉnh ngộ mà quay về với vợ con thơi mà! Rằng bá gia cứ tiếp tục tu trì, làm việc thiện và nhớ… Bây phải nhớ gì, Cậu đã dạy rồi? Phải nhớ là đừng nghe lời ai hết! Nghe chưa hử!?
Mọi người, ai tên gì, tuổi gì cũng cứ bị Cậu gộp chung thành bá gia, cứ việc cúi đầu dà dà, dạ dạ liên tục. Còn cô gái, con nữ – nhân vật chính, làm nên cớ sự cho màn Cậu nhập xác – có tên là Muội, Muối hay bất cứ tên gì khác cũng không đáng quan tâm vì đã nói, một khi được Cậu chọn làm xác để nhập vào thì cô ta không còn là cô ta nữa. Cô gái hiện đang không còn bản ngã, nhân cách, tên tuổi riêng gì nữa. Nói nào ngay, vào lúc bình thường, tức không vào lúc Cậu nhập, thì mọi người cũng đã thay đổi cái nhìn về cô, trân trọng gọi “cô, thưa cô…” chứ đâu còn dám gọi trỏng trơ cái tên Muội.
Tuy nhiên, khó sống một nỗi là khi cô xác đang nằm ngữa ra đó, dù ở phần trên là kiểu trẻ thơ hồn nhiên mút tay, nhưng ở phần dưới vẫn cứ là kiểu đàn bà nằm dạng háng, trâng tráo gợi dục. Đang có vài người đàn ông có mặt ở xung quanh manh chiếu thiêng liêng này. Dù cho mấy gã này cũng có thể ít nhiều tin tưởng Cậu linh hiển, nhưng lòng kính tín đáng khen ngợi ấy không thể nào ngăn được mấy gã lén nhìn chăm bẫm vào những nếp quần lót lồ lộ, và sau đó là những tưởng tưởng dâm dục – vốn quá là bình thường, tự nhiên khi con mắt đàn ông nhìn thấy những phần gợi dục trên thân thể đàn bà. Không ai hoặc thế lực nào có thể cấm cản được chuyện này. Thần linh cỡ nào thì cũng vô hình, xa xôi, không sờ mó được, chứ thân thể đàn bà thì hữu hình sẵn đó, vô cùng gần gũi.
Qua xác và bà chủ nhà phối hợp, Cậugiảng dạy trộn lộn các chuyện đạo, chuyện đời, con đường tu nhân tích đức, bổn phận sống thanh đạm, bớt ham muốn và tốt hơn hết là diệt dục… Đặc biệt về những lời Cậu dạy về là về ý nghĩa của cái chết thì sâu sắc nhất là ở cái câu Cậu nhấn mạnh. Dù giàu nghèo, sang hèn gì, bất ai sống ở đời cũng phải chuẩn bị cho cái chết của mình khi còn sống còn thở, mới kịp. Mới kịp! Bá gia nghe chưa hử? Thật tiếc là – không có ai dám hỏi, dù trước bức thông điệp rờn rợn này, chắc chắn có người thắc mắc, muốn hỏi – Cậu không thuyết minh thêm là người đang sống phải sửa soạn, dọn mình cho cái chết thì mới kịp với chuyện gì, được điều gì hay ho, hay là kịp với ai, đấng linh thiêng nào, trong cõi này hay cõi nào khác…
Cậu cũng nhận lời chữa bệnh cho bá gia, nhưng không hề có thảo dược hay tàn nhang, nước thải bài bản theo kiểu thầy bùa, thầy pháp. Cậu chỉ dạy rằng con bệnh cứ uống thuốc Tây, thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc viên, thuốc nước, thuốc tự hái lượm trong vườn, thuốc bán ngoài tiệm, ngoải chợ … gì cũng được, thuốc bác sĩ kê toa hay thuốc thầy lang hốt sắc gì cũng xong, nhưng cần phải làm việc thiện và cần nhất, phải thường xuyên cầu Cậu độ trì. Nếu là số mạng, tức tới số phải bệnh tật này nọ thì Cậusẽ xin với Trên cho từ từ mà giải mạng, hết bệnh. Cậu lại không nói rõ Trên là đấng nào, nên con người cứ ngầm hiểu là ở bất cứ ở đâu, cõi nào, luôn luôn có cấp trên, ai – kể cả Cậu – cũng có cấp trên chỉ huy, ra lịnh cho mình, là được rồi.
Thỉnh thoảng vì bá gia nài xin quá thể, Cậucũng cho số để bá gia đi đánh đề. Cách cho số của Cậu thì rất cao siêu, nghĩa là mơ hồ, hoàn toàn không xác quyết. Qua lời diễn dịch của bà Tư cạo gió về một lô hình ảnh, bóng dáng của những con vật, đồ vật nào đó, ai hiểu ra con gì thì cứ tự kiếm tiền đánh vào số con đó.
Mặt khác, ngoài những phiên Cậu nhập xác, dù Cậu không hề ngỏ lời, công khai chỉ dạy, nhưng bà con vẫn lén Cậu đem phẩm vật đến tặng cho cô Muội, sau khi tìm hiểu, dò hỏi về ý thích của cô. Cô thường ăn chay, vậy là là vô số tương chao và trái cây được bà con đem tới. Cô Muội thường im lặng, ngó lơ khi mụ chủ nhà thay mặt cô đưa tay ra nhận quà.
Có một chuyện rất tế nhị, cũng về phẩm vật. Qua lời tiết lộ rất hạn chế người nghe từ bà Tư cạo gió, cô thích quần áo, đồ bộ hàng mút-xơ-lin và phải là các màu tối, tránh các màu sáng.
Phải kể thêm một thông tin rất quí giá về sở thích kín đáo của xác Cậu, rất đáng tin cậy vì do chính chồng cô Muội cung cấp. Làm nghề đạp xe ba bánh kiếm sống, anh chồng thường qua nhậu nhẹt, say xỉn bên hàng xóm khít vách là một gã đồng nghiệp. Trong một cơn cao hứng, thiếu kềm chế, chồng của xác Cậu đã tiết lộ với chiến hữu rằng cô Muội rất thích quần lót hàng va-li-ze có thêu, ren chút đỉnh, mặc dù trong bóng tối thì không ai thấy được ren, thêu gì. Anh ta dặn bạn nhậu đừng nói với ai nên gã này chỉ nói với vợ mình. Kết quả là vợ gã phu xe mở đầu kiểu tặng loại phẩm vật cực kỳ riêng tư của đàn bà này. Sau đó, dĩ nhiên là các phụ nữ khác bắt chước ngay, cho xác của Cậu thêm vui lòng.
Riêng có một tâm sự thầm kín của chồng cô Muối mà gã phu xe nghe được, nhưng vì lòng thương bạn bè đàn ông với nhau, gã này còn dấu vợ mình. Quá đả bởi sự hào phóng kêu liền thêm mấy xị nữa của gã phu xe đồng nghiệp, anh chồng nói nhỏ là từ ngày được Cậunhập, hễ lên giường – dù là ban đêm hay ban ngày – cô Muội chỉ nằm xuôi xị, không còn tỏ vẻ có cảm giác, có hưởng ứng, dù cho có được kích thích hết cỡ. Riết rồi chồng cô đành ngủ chay. Cũng vẫn xác thịt ngồn ngồn, nóng ấm đó nhưng nay lại là xác của Cậurồi, thiêng liêng biết mấy? Không rõ anh chồng thanh tịnh bất đắc dĩ kia đã tâm sự bằng giọng rất tự hào, hãnh diện về vợ mình, hay ngược lại, đầy phiền muộn, uẩn ức…
Ngày tháng trôi qua, nếu không tính tới cái giọng thông dịch, diễn giải ồn ào, lằn nhằn của mụ chủ nhà thì quan hệ trao đổi giữa đôi bên là xác của Cậu – hay chính Cậu – với bá gia cứ diễn ra thật kín kẽ, đầm thắm. Đầm thắm đến mức không ai nói gì về kết quả của những việc Cậu cứu nhân độ thế.
Trước hết về chuyện Cậu ra lời dạy bá gia về nhà tự chữa bệnh, thì không nghe ai cho biết bệnh của mình hay của người trong gia đình mình, có lành hẳn hay ít ra là thuyên giảm hay không. Cũng có người không nhịn nổi, dám than thở với Cậu rằng bệnh của y vẫn còn kéo dài. Lập tức Cậu giải thích rằng chỉ do y làm việc phúc đức chưa đủ và đồng thời chưa đủ tâm tin tưởng, khấn cầu Cậu ngày ngày. Tốt hơn hết là không nên khai bệnh hoài với Cậu, nhất là trường hợp con nít bệnh này bệnh nọ. Cậu đã nhiều lầnchắc lưỡi, miễn cưỡng tiết lộ thiên cơ, rằng Cõi trên đang có đợt tuyển người từ cõi trần lên hầu hạ chư thần, nhứt là các hài nhi trai, gái. Cho nên nếu trong nhà có đứa nhỏ cứ èo uột, khó nuôi, thì không phải là chuyện cha mẹ, ông bà nó phải lo lắng, buồn khổ gì, vì biết đâu phước phần sẽ cho nó rời khỏi thế gian mà về với thần linh?
Còn về chuyện Cậu cho số đề, lâu lâu cũng nghe có người trúng đề. Dĩ nhiên ai có trúng đề rồi mới báo tin tài lộc của mình cho người khác biết, chứ chán vạn thiên hạ chỉ thường là im lặng khi thua đề đều đều hằng ngày. Thí dụ như trong ngày hôm đó, bàn tay Cậu vẽ mơ hồ trong không khí, rồi mụ chủ nhà giải thích đó là Cậu cho con bướm, tức ứng với một loạt ba con số là 19, 59 và 99. Tiếc là, do chính miệng mình giải minh ra ba con số nhưng không hiểu sao, bà Tư chủ nhà lại không đi đánh mấy con số này nên mất dịp phát tài nhờ trúng đề. Vào cái ngày linh thiêng ấy, một mụ đàn bà khác, mê đề mạt hạng, đã nghe lời Cậu, gom góp rất bộn tiền, đánh ‘bao lô’ và cùng lúc đánh cả chục con số – trong đó có ba con 19, 59 và 99 – thì trúng được con 99. Rất tiếc là bà ta chẳng thu hoạch được bao nhiêu, do tiền xác đã bị chia nhỏ.
Kết quả xổ số ra rồi, ai cũng giành bàn đề thật rôm rả, rằng chắc chắn là mụ đàn bà nhiệt tình chơi đề này đã phát tài hơn nhiều nếu đã toàn tâm, toàn ý tin tưởng vào Cậu mà dồn hết tiền xác đánh vào cả ba số “con bướm”.
Vài gia đình xào xáo, cắn đắng nhau đã được Cậu khuyên giải nên đã hòa thuận trở lại, nghĩa là không cần phải nhờ đến người lớn tuổi hay chính quyền sở tại phân xử nữa.
Xưa nay, ở thời thế nào cũng vậy, đối với đám dân nghèo, dốt nát, ít học, những nỗi cùng khổ, tuyệt vọng trước cuộc sống dễ khiến người ta tìm tới những chỗ dựa tinh thần ít kén chọn, để may ra kiếm được những niềm an ủi ít tốn kém cho tâm linh và cảm xúc của mình.
Như trước khi có chuyện xác Cậu, ở xóm làng này đã có chuyện ly kỳ về đứa con gái nhỏ của vợ chồng gã đồng nghiệp của chồng cô Muội. Tự nhiên hay bị thức giấc giữa đêm, con nhỏ mới sáu tuổi nên không thể kể lại rõ ràng nó đã thấy gì trong khi ngủ đến nỗi phải choàng thức và khóc lóc, rên rĩ. Vậy là mấy bà hàng xóm giành quyền giải nghĩa với cô vợ rằng cháu nó đã bị người-khuất-mày-khuất-mặt tìm đến hù dọa, phá phách.
Quan sát, theo dõi sinh hoạt ban ngày của con mình, đồng thời tìm hiểu kỹ càng về sức khỏe của nó, gã phu xe không tìm ra được nguyên nhân ác mộng. Cô vợ thì cứ thúc gịuc chồng về việc cúng kiếng, cầu thầy. Rốt cuộc, gã nổi điên.
Một tối, gã phu xe nhậu rất khuya với một thằng bạn khố rách cũng cùng nghề ở miếng thềm trước nhà. Quá chán ông bạn cứ lờ đờ con mắt mà lãi nhãi kể khổ về con gái mình, gã kia lén bỏ về hồi nào không hay. Còn lại một mình, gã phu xe say ngất, nằm dài ra đất. Bóng tối phủ đầy vì cây đèn hột vịt đã cạn dầu mà cô vợ đang giận ghét quá đỗi cái anh chồng vô tích sự nên chẳng thèm ra dọn dẹp, bỏ mặc cho gã làm mồi cho đàn muỗi đói.
Gã phu xe bắt đầu chữi. Một hành vi mà từ trước tới giờ hàng xóm rất ít khi thấy nơi gã. Nguyên là một thầy giáo hiền lành, chơn chất, từ khi không còn được làm nghề dạy học nữa mà phải chuyển qua nghề đạp xe ba bánh để kiếm sống – hay tạm gọi là tồn tại – thì tránh không khỏi chuyện ít nhiều gã có nhiễm từ môi trường chợ búa vài thói quen trái bản chất nhà giáo, như chữi thề và nát rượu.
Đ. mẹ, vậy là có thằng nào, con nào đó khuất mày khuất mặt tới phá con tao? Một đứa hay mấy đứa? Hay toàn thể tụi bây? Đâu cần đông đủ, long trọng dzữ dzậy? Con tao chỉ là một đứa nít thôi mà? Không đứa nào trả lời à? Tốt! Dù sao cũng cho tao được phép kính cẩn nghiêng mình gởi lời…Đ. mẹ tới toàn thể quí vị. Nghe rõ chớ hả? Để tao nghỉ chút xíu, mệt quá…, tiếp đây. Phải, tao lập lại là con tao chỉ là một đứa nít sáu tuổi, yếu ớt, ốm nhách và nó chỉ là con của một thằng cũng ốm nhách, nghèo mạt là tao đây. Bây là những đấng khuất mày khuất măt? Có chức danh nào khác nữa không? Hả? Gì? Người cõi Trên? Người cõi Âm? Trân trọng kính chào nhưng bây đúng ra chỉ là lũ chó cắn áo rách. Chớ còn gì nữa? Người cõi trên bề trên gì đó thì phải lo phù hộ, độ trì cho đám dân đen dưới trần gian này sống đỡ đỡ một chút chớ! Đằng này tụi bây lại… Tụi bây có lao động không hả, có đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm cơm không hả? Hay rảnh quá rổi chỉ biết đi ăn hiếp con nít, vinh quang quá hả? Cha con tao có chọc ghẹo gì bây đâu? Thôi, tao mệt quá, tao lạy xin tụi bây đừng tới phá con tao nữa, để cho nó được ngủ yên mai dậy còn đi học. Còn nếu không thì…tụi bây có ngon thì tới phá tao đi. Phải, quên con tao đi rồi tới chơi với tao, tao thế mạng con tao, được chưa? Tao đây nè, có ngon thì tới đây. Tao hả? Hồi xưa tao là ai là gì bây khỏi cần biết, nay đổi đời rồi thì tao đếch là gì cả, chỉ là một thằng khố rách áo ôm, nhà cửa sự nghiệp không có. Nhưng được cái tao là thằng lương thiện, nghèo thì nghèo chớ tao chưa hề chơi xấu hay lừa đảo ai. Tụi bây có biết ông Khổng tử bên Tàu không, ổng nói “Đức trọng quĩ thần kinh”, nghĩa là khi con người có đức độ thì quĩ thần phải kinh sợ mình”. Là người lương thiện thì tao đếch sợ bây! …Thôi, tao mệt quá, lời cuối tao nói cho tụi bây biết, một là bây cứ ngồi yên trên bàn thờ để người ta thắp nhang, cha con tao và bây không ai chọc ai, còn nếu không thì hai là bây có ngon cứ tới chơi tao. Hay là ngay giờ đi, thằng nào con nào ngon thì hiển linh hiện ra đi, tao đây nè. Tao thách đó! Sao, không dám hả? Dzậy mà kêu là người cõi trên. Đ. mẹ toàn thể tụi bây…
Trong lúc lải nhải, chữi bới mà không rõ đúng ra mình đang chữi ai, đối tượng nào cho chính xác, hình như tới phần giới thiệu sơ nét diện mạo và hoàn cảnh cùng mạt của cha con mình thì gã đã khóc. Khi gào lên lời đề xướng với ai đó chuyện “thế mạng” cho con gái mình, gã tự biết đó hoàn toàn không phải là một chọn lựa đạo đức, hy sinh cao cả gì ráo! Chẳng qua là do bị dồn nén lâu ngày về cảm nhận bế tắc trước cuộc sống, có chết bây giờ cũng chỉ là chấm dứt cái sống mòn mỏi của một con người không có một triền vọng sáng sủa nào về tương lai. Còn về đứa con gái nhỏ của hắn, dù sao mơ hồ nó cũng có tương lai – một kiểu tương lai nào đó…
Thế là, ngay vào ngày hôm sau và liên tiếp các ngày sau nữa, các buổi họp phụ nữ trên chiếc chiếu rách mỗi buổi chiều đã có thêm một đề tài thú vị – chuyện cái gã đàn ông nghèo kiết xác, cô thân cô thế, không có chút thế lực nào chống lưng mà dám chữi bới, thách đố cả thần linh.
Nghe nói, sau trận say tơi tả rồi cả gan tuyên chiến với toàn thể cõi người khuất mày khuất mặt, gã phu xe vốn gốc nhà giáo càng cô đơn, cô độc hơn khi mọi người, kể cả vợ gã, đều tránh mặt gã. Cứ như những con người tốt – theo nghĩa biết kính tín quĩ thần – thì phải kiêng cữ, không nên đến gần kẻ xấu – theo nghĩa dám báng bổ thần linh.
Vậy mà, cứ như quan hệ nhân quả, một chuyện lạ, không biết hung cát thế nào, đã bất ngờ xảy ra mà không hề có điềm báo trước với bất cứ ai trong xóm làng. Đó là biến cố tự nhiên mà có cặp vợ chồng trẻ, lạ mặt, không rõ từ xứ sở nào mà đến xóm làng đìu hiu này, lại còn xin ở trọ ngay bên cạnh nhà cái gã báng bổ thần linh kia. Và hơn hết, cô vợ – nghe nói có thời làm làm cô giáo hay thợ may gì đó – chính là xác Cậu sau này…
Nhìn chung, đối với cái xóm làng tối tăm, khuất lánh này, chuyện xác Cậu, cô Muội đến với đám người nghèo khổ và vô vọng kia là hẳn là chuyện cũng không đến nỗi tồi. Xác nguyên là cô giáo thợ may mơ hồ gì đó, kể cả cái gã phu xe thầy giáo bất đắc chí kia, cũng chỉ là loại người lạc loài, trôi dạt trong bởi thời thế như nhau mà thôi.
PHẠM NGA
*Trích truyện kỳ ảo NGƯỜI THẾ HỒN CHO THẦN LINH@Phạm Nga – Việt Văn Mới xuất bản 2013 (Ebook).
Advertisements
https://tuongtri.com/2013/09/28/chuy...nhap-xac-pham/
-
Nét đẹp của miếu Thành Hoàng ở Phú Quốc
Share
Danh mục: Điểm du lịch Phú Quốc
Mũi Dinh Cậu được xem là miếu Thành Hoàng ở Phú Quốc, nơi không chỉ mang vẻ đẹp kỳ thú được thiên nhiên ban tặng mà còn mang ý nghĩa văn hóa, đặc trưng của người dân trên đảo
mieu-thanh-hoang-dinh-cau
Miếu Thành Hoàng Dinh Cậu công trình giản dị đầy bí ẩn
Mũi Dinh Cậu Phú Quốc là miếu Thành Hoàng nằm trên ghềnh đá ở cửa sông Dương Đông, nằm cách trung tâm thị trấn đảo Phú Quốc vài trăm mét và đây là một công trình giản dị nhưng có kiến trúc độc đáo, có sức lôi cuốn du khách tham quan một cách lạ kỳ.
Du khách khi qua 29 bậc thềm đá sẽ đến với Dinh Cậu nhỏ bé trước biển mênh mông, và đến đây du khách sẽ cảm thấy bồi hồi trước vẻ đẹp hùng vĩ, bình yên và khoáng đạt của thiên nhiên nơi đây, bên cạnh đó là nét mộc mạc, chân thành của con người nơi biển với tình cảm trữ tình, mến khách như biển cả.
Sân của khu Dinh Cậu Phú Quốc có diện tích nhỏ, được tráng bằng xi măng và đặt bàn thờ Ông Thiên tạo nên không gian luôn ấm cúng bởi làn khói hương nghi ngút được người dân khắp bốn phương thắp hương. Hành lang của Dinh Cậu có các cột đúc xi măng được đắp những câu liễn đối bằng chữ Hán. Tường dinh cũng được xây bằng xi măng, phía trên nóc mái được gắn “lưỡi long tranh châu” bằng sứ, làm cho dinh mang nét cổ kính và đẹp hơn trước biển trời thiên nhiên kỳ vỹ. Đi vào khu bên trong Dinh là chính điện đặt khánh thờ các thần nhân bảo vệ ngư dân như Chúa Ngọc nương nương, cậu Tài, cậu Quý.
Miếu Thành Hoàng Dinh Cậu là điểm du lịch linh thiêng và ý nghĩa
Mũi Dinh Cậu là điểm du lịch Phú Quốc rất linh thiêng và gắn liền với nét van hóa dân tộc của người dân địa phương trên đảo, đây là nơi thờ thờ Bà Cậu, tức tục thờ Bà Thủy và Cậu Tai, với mong muốn cầu giúp cho tàu bè thoát khỏi mọi cơn sóng to, gió lớn, cầu mong mọi sự an lành, và thành quả cho những chuyến đi biển.
Dinh Cậu là khu miếu Thành Hoàng nổi tiếng Phú Quốc là nơi chứng kiến và gửi gắm những mong ước cầu monng của những người ngư dân trước khi ra biển lớn và là nơi để người ta tỏ lòng biết ơn. Tất cả là một nét bình dị rất chân thành của người dân địa phương đảo Phú Quốc thể hiện nơi đây như là một thói quen bình dị hàng ngày trong nét văn hóa đời sống của người dân.
dinh-cau-phu-quoc
Nếu có chuyến du lịch Phú Quốc tới, và khi đến với miếu Thành Hoàng- Dinh Cậu này du khách sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây, đồng thời hiểu hơn về ý nghĩa của điểm du lịch nổi tiếng Phú Quốc này.
http://phuquoc.hanotours.com/net-dep...ang-o-phu-quoc
http://phuquoc.hanotours.com/sites/d...-dinh-cau3.jpg
http://phuquoc.hanotours.com/sites/d...s/dinh-cau.jpg
-
Long Hải - đất và người - Thời báo Kinh tế Sài gòn
http://www.thesaigontimes.vn/101808/...-va-nguoi.html
Translate this page
Sep 5, 2013 - Các áng khác thờ Diêu Trì Phật mẫu, Chúa Cậu (nhị vị công tử, là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành nương nương, Tứ Pháp nương nương, Ông Địa và Thần Tài. Ngoài ra, ngư dân còn lập thêm các bàn thờ khác, để thờ cúng: Cửu Thiên huyền nữ, Chúa Ngọc nương nương, Chư vị, Bà Mẹ sanh, Hỏa tinh ...