-
Lộ trình xe buýt TP.HCM mới nhất, chi tiết nhất năm 2017
Giao Thông 03/03/17 08:44 GMT+7Gốc
Cập nhật danh sách, lộ trình các tuyến xe buýt mới nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh chi tiết nhất.
Cập nhật danh sách, lộ trình các tuyến xe buýt mới nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh: Tuyến xe buýt số 01 Bến Thành – Bến xe Chợ Lớn.
Lộ trình các tuyến xe buýt mới nhất tại TP.HCM:
Tuyến 01: Bến Thành – Bến xe Chợ Lớn
- Lượt đi: Công Trường Mê Linh - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - Phạm Ngũ Lão - Trần Hưng Đạo - Trần Phú - Trần Hưng Đạo - Châu Văn Liêm - Hải Thượng Lãn Ông - Trang Tử - Bến xe Chợ Lớn.
- Lượt về: Bến xe Chợ Lớn - Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông - Châu Văn Liêm - Nguyễn Trãi - Nguyễn Tri Phương - Trần Phú - Trần Hưng Đạo - Phạm Ngũ Lão - Hàm Nghi - Tôn Đức Thắng - Hai Bà Trưng - Công Trường Mê Linh.
Tuyến 02: Bến Thành – Bến xe Miền Tây
- Lượt đi: Chỗ đậu xe buýt trên đường Thi Sách - Thi Sách - Công trường Mê Linh - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo - Nguyễn Thái Học - Nguyễn Thị Nghĩa - Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Nguyễn Thiện Thuật - Điện Biên Phủ - Cao Thắng - 3/2 - Minh Phụng - Hậu Giang - Kinh Dương Vương - Bến xe Miền Tây (trả khách) - Kinh Dương Vương - bãi đỗ xe buýt tại Bến xe Miền Tây.
- Lượt về: Bãi đỗ xe buýt tại Bến xe Miền Tây - Kinh Dương Vương - Hậu Giang - Minh Phụng - 3/2 - Cao Thắng - Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi - Lê Lai – Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành - Hàm Nghi - Hồ Tùng Mậu - đường nhánh S2 - Tôn Đức Thắng - Hai Bà Trưng - Đông Du - Thi Sách - Chỗ đậu xe buýt trên đường Thi Sách.
Tuyến 03: Bến Thành – Thạnh Lộc
- Lượt đi: Bến Công viên 23/9 – Lê Lai – vong xoay Bến Thành – Phó Đức Chính – Lê Thị Hồng Gấm – Calmette – Trạm Bến Thành -Lê Lợi-Hai Bà Trưng-Phan Đình Phùng-Nguyễn Kiệm-Nguyễn Thái Sơn-Phạm Ngũ Lão-Nguyễn Oanh-Hà Huy Giáp-Thạnh Lộc 30- Bến Thạnh Lộc 29.
- Lượt về: Bến Thạnh Lộc 29 - Thạnh Lộc 30 - Hà Huy Giáp - Nguyễn Oanh - Nguyễn Kiệm - Hoàng Minh Giám - Đào Duy Anh - Hồ Văn Huê - Hoàng Văn Thụ - Phan Đình Phùng - Hai Bà Trưng – Tôn Đức Thắng – Hàm Nghi - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Bãi xe buýt công viên 23/9.
Tuyến 04: Bến Thành – Cộng Hòa – Bến xe An Sương
- Lượt đi: Bến Công viên 23/9 – Lê Lai – Vòng xoay Bến Thành – Phó Đức Chính – Lê Thị Hồng Gấm – Calmette – Trạm Bến Thành – Hàm Nghi – Pasteur – Võ Thị Sáu – Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Nguyễn Văn Trỗi – Phan Đình Giót – Phan Thúc Duyện – Trần Quốc Hoàn – Cộng Hòa – Trường Chinh – ngã 4 An Sương – Quốc Lộ 22 – Quay đầu tại ngã 3 Công ty Việt Hưng – Quốc lộ 22 – BX An Sương
- Lượt về: Bến xe An Sương - Quốc lộ 22 - Ngã 4 An Sương - Trường Chinh - Cộng Hòa - Hoàng Văn Thụ - Nguyễn Văn Trỗi - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Hàm Nghi - Trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ lão - Bến Công viên 23/9.
Tuyến 05: Bến xe Chợ Lớn – Biên Hòa
- Lượt đi: Ga Chợ Lớn B - Lê Quang Sung - Phạm Đình Hổ - Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông - Châu Văn Liêm - Thuận Kiều - Nguyễn Chí Thanh - Ngô Gia Tự - Vĩnh Viễn - Lê Hồng Phong - Trần Phú – Nguyễn Thị Minh Khai – Xô Viết Nghệ Tĩnh – Quốc lộ 13 – Quốc lộ 1A – Quốc lộ 1K - Bến xe Biên Hòa.
- Lượt về: Bến xe Biên Hòa - Quốc lộ 1K - Quốc lộ 1A - Quốc lộ 13 - Đinh Bộ Lĩnh - Bạch Đằng - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Phùng Khắc Khoan - Trần Cao Vân - Võ - Văn Tần - Bà Huyện Thanh Quan - Nguyễn Thị Minh Khai - Hùng Vương - Lê Hồng Phong - Vĩnh Viễn - Ngô Gia Tự - Nguyễn Chí Thanh - Thuận Kiều - Châu Văn Liêm - Hải Thượng Lãn Ông - Trang Tử - Ga Chợ Lớn B.
Tuyến 06: Bến xe Chợ Lớn – Đại học Nông Lâm
- Lượt đi: Ga Chợ Lớn A - Lê Quang Sung - Nguyễn Thị Nhỏ - Hồng Bàng - An Dương Vương - Nguyễn Văn Cừ - Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Điện Biên Phủ - Xa lộ Hà Nội - võ văn ngân - thống nhất - Đặng Văn Bi - Võ Văn Ngân - Xa lộ Hà Nội - Quốc lộ 1A - Bến Trường Đại học Nông Lâm.
- Lượt về: Bến Trường Đại học Nông Lâm - Quốc lộ 1A - Xa lộ Hà Nội - Võ Văn Ngân - Đặng Văn Bi - thống nhất- võ văn ngân- Xa lộ Hà Nội - Điện Biên Phủ - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Phùng Khắc Khoan - Trần Cao Vân - Võ Văn Tần - Bà Huyện Thanh Quan - Nguyễn Thị Minh Khai - Nguyễn Văn Cừ - An Dương Vương - Nguyễn Tri Phương - Hùng Vương - Hồng Bàng - Phú Hữu - Ga Chợ Lớn A.
Tuyến 07: Bến xe Chợ Lớn – Gò Vấp
- Lượt đi: Ga Chợ Lớn A - Lê Quang Sung - Phạm Đình Hổ - Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông - Châu Văn Liêm - Hồng Bàng - An Dương Vương - Nguyễn Tri Phương - 3 Tháng 2 - Lý Chính Thắng - Nguyễn Thông - Ga Sài Gòn - Nguyễn Thông - Kỳ Đồng - Trần Quốc Thảo - Lê Văn Sỹ - Trần Quang Diệu - Nguyễn Văn Trỗi - Phan Đình Giót - Phổ Quang - Hoàng Minh Giám - Nguyễn Thái Sơn - Phan Văn Trị - Bãi hậu cần số 1.
- Lượt về: Bãi hậu cần số 1 - Phan Văn Trị - Nguyễn Thái Sơn – Phạm Ngũ Lão – Nguyễn Kiệm - Hoàng Minh Giám - Đào Duy Anh - Hồ Văn Huê - Hoàng Văn Thụ - Trần Huy Liệu - Trần Quang Diệu - Lê Văn Sỹ - Trần Quốc Thảo - Kỳ Đồng - Nguyễn Thông - Ga Sài Gòn - Nguyễn Phúc Nguyên -3 Tháng 2- Nguyễn Tri Phương - Ngô Gia Tự - Hồng Bàng - Châu Văn Liêm - Hải Thượng Lãn Ông - Trang Tử - Ga Chợ Lớn A.
Tuyến 08: Bến xe Quận 8 – Đại học Quốc gia
- Lượt đi: Bến xe Quận 8 - Quốc lộ 50 - Tùng Thiện Vương - Châu Văn Liêm - Hồng Bàng - Lý Thường Kiệt - Hoàng Văn Thụ - Phan Đăng Lưu - Bạch Đằng - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Quốc lộ 13 - Kha Vạn Cân - Võ Văn Ngân - Xa Lộ Hà Nội - Quốc lộ 1 - Đại học Quốc gia.
- Lượt về: Đại học Quốc gia - Quốc lộ 1 - Xa Lộ Hà Nội - Võ Văn Ngân - Lê Văn Ninh - Kha Vạn Cân - Đinh Bộ Lĩnh - Bạch Đằng - Phan Đăng Lưu - Hoàng Văn Thụ - Phan Đình Giót - Phan Thúc Duyện - Trần Quốc Hoàn - Hoàng Văn Thụ - Xuân Diệu - Xuân Hồng - Lý Thường Kiệt - Hồng Bàng - Châu Văn Liêm - Tùng Thiện Vương - Quốc lộ 50 - Bến xe Quận 8
Tuyến 09: Chợ Lớn - Bình Chánh - Hưng Long
- Lượt đi: Bến xe Chợ Lớn - Phạm Đình Hổ - Hồng Bàng - Kinh Dương Vương - Quốc lộ 1A - Đinh Đức Thiện - Hương Lộ 11 - Hưng Long.
- Lượt về: Hưng Long - Hương Lộ 11 - Hương lộ 11 - Đinh Đức Thiện - Quốc lộ 1A - Kinh Dương Vương - Hồng Bàng - Bến xe Chợ Lớn.
Tuyến 10: Đại học Quốc gia – Bến xe Miền Tây
- Lượt đi: Bến xe buýt A Khu đô thị ĐH Quốc Gia TP.HCM - Đường 621 - Quốc lộ 1A - Xa lộ Hà Nội - Điện Biên Phủ - Đinh Tiên Hoàng - Võ Thị Sáu - Đường 3/2 - Nguyễn Tri Phương - Ngô Gia Tự - Hồng Bàng - Châu Văn Liêm - Hải Thương Lãn Ông - Lê Quang Sung - Phạm Đình Hổ - Hậu Giang - Kinh Dương Vương - Bến xe Miền Tây (trả khách) - Kinh Dương Vương - Chỗ đậu xe buýt tại Bến xe Miền Tây.
- Lượt về: Chỗ đậu xe buýt tại Bến xe Miền Tây - Kinh Dương Vương -Hậu Giang -Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông -Châu Văn Liêm - Hồng Bàng - An Dương Vương - Nguyễn Tri Phương - Đường 3/2 - Lý Thái Tổ - Điện Biên Phủ - Xa lộ Hà Nội - Quốc lộ 1A - Đường 621- Bến xe buýt A Khu đô thị ĐH Quốc Gia TP.HCM.
Tuyến xe buýt số 11: Bến Thành – Đầm Sen
Tuyến 11: Bến Thành – Đầm Sen
- Lượt đi: Hàm Nghi (Đậu xe trên đường Hàm Nghi) – Trần Hưng Đạo – Nguyễn Thái Học - Nguyễn Thị Nghĩa - Nguyễn Trãi - Nguyễn Văn Cừ - An Dương Vương - Nguyễn Tri Phương - Hồng Bàng - Lý Thường Kiệt - Nguyễn Chí Thanh - Thuận Kiều - Lê Đại Hành - Lãnh Binh Thăng - Ông Ích Khiêm - Hòa Bình - Bãi xe buýt Đầm Sen.
- Lượt về: Bãi xe buýt Đầm Sen - Hòa Bình - Ông Ích Khiêm - Lãnh Binh Thăng - Tôn Thất Hiệp - Đường 3/2 - Phó Cơ Điều - Trần Quý - Thuận Kiều - Nguyễn Chí Thanh - Lý Thường Kiệt - Hồng Bàng - An Dương Vương - Nguyễn Văn Cừ - Nguyễn Trãi - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành – Hàm Nghi (Đậu xe trên đường Hàm Nghi).
Tuyến 12: Bến Thành – Thác Giang Điền
- Lượt đi: Công viên 23/9 - Lê Lai – Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành - Hàm Nghi - Tôn Đức Thắng - Đinh Tiên Hoàng - Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Điện Biên Phủ - Xa lộ Hà Nội - Quốc lộ 52 - Quốc lộ 1 - Thác Giang Điền.
- Lượt về: Thác Giang Điền - Quốc lộ 1 - Quốc lộ 52 - Xa lộ Hà Nội - Điện Biên Phủ - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Đinh Tiên Hoàng - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Công viên 23/9.
Tuyến 13: Bến Thành - Bến xe Củ Chi
- Lượt đi: TĐH xe buýt Sài Gòn - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa - Cách Mạng Tháng Tám - Xuân Diệu - Trường Chinh - Quốc lộ 22 - Bến xe Củ Chi.
- Lượt về: Bến xe Củ Chi - Quốc lộ 22 - Trường Chinh - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Thị Nghĩa - Phạm Ngũ Lão - TĐH xe buýt Sài Gòn.
Tuyến 14: Miền Đông- 3 tháng 2- Miền Tây
- Lượt đi: Bến xe Miền Đông - Đinh Bộ Lĩnh - Nguyễn Xí - Ung Văn Khiêm - Đường D2 - Điện Biên Phủ - Vòng xoay Hàng Xanh – Xô Viết Nghệ Tĩnh – Nguyễn Thị Minh Khai - Phùng Khắc Khoan - Trần Cao Vân - Võ Văn Tần - Bà Huyện Thanh Quan - Nguyễn Thị Minh Khai - Lý Thái Tổ - 3 Tháng 2 - Hồng Bàng - Kinh Dương Vương – Bến xe Miền Tây (trả khách) – Kinh Dương Vương – Bến xe Miền Tây.
- Lượt về: Bến xe Miền Tây - Kinh Dương Vương - Hồng Bàng - 3 Tháng 2 - Lý Thái Tổ - Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Quốc lộ 13 - Đinh Bộ Lĩnh - Bến xe Miền Đông.
Tuyến 15: Bến Phú Định – Đầm Sen
- Lượt đi: Đường 44 - Đường 44 Trương Đình Hội - Bến Phú Định - Hồ Học Lãm - Quốc lộ 1A - Hương lộ 2 - Hòa Bình - Bãi xe buýt Đầm Sen.
- Lượt về: Bãi xe buýt Đầm Sen - Hòa Bình - Hương lộ 2 - Quốc lộ 1A - Hồ Học Lãm - Bến Phú Định - Đường 44 Trương Đình Hội - Đường 44.
Tuyến 16: Bến xe Chợ Lớn - Bến xe Tân Phú
- Lượt đi: Bến xe Chợ Lớn - Hồng Bàng - Tân Hòa Đông - Trương Phước Phan - Đất Mới - Hương lộ 2 - Mã Lò - Tân Kỳ Tân Quý - Bờ Bao tân Thắng - Lê Trọng Tấn - Dương Đức Hiền - Trạm Điều hành Tân Phú.
- Lượt về: Trạm Điều hành Tân Phú - Trường Chinh - Dương Đức Hiền - Lê Trọng Tấn - Bờ Bao tân Thắng - Tân Kỳ Tân Quý - Mã Lò - Hương lộ 2 - Đất Mới - Trương Phước Phan - Tân Hòa Đông - Hồng Bàng - Bến xe Chợ Lớn.
Tuyến 17: Bến Xe Chợ Lớn - ĐH Sài Gòn - KCX Tân Thuận
- Lượt đi: Ga Chợ Lớn (Bến A) - Lê Quang Sung - Nguyễn Thị Nhỏ - Hồng Bàng - An Dương Vương - Nguyễn Tri Phương - Trần Phú - Trần Hưng Đạo - Nguyễn Tri Phương - cầu Nguyễn Tri Phương - cầu Chánh Hưng - Phạm Hùng - Đường số 5 - Đường 204 Cao Lỗ - Cao Lỗ - Tạ Quang Bửu - Âu Dương Lân - Phạm Thế Hiển - Trần Xuân Soạn - Lâm Văn Bền - Nguyễn Thị Thập - Nguyễn Văn Linh (quay đầu Huỳnh Tấn Phát) - Bến xe buýt Khu chế xuất Tân Thuận.
- Lượt về: Bến xe buýt Khu chế xuất Tân Thuận - Nguyễn Văn Linh - Nguyễn Thị Thập - Lâm Văn Bền - Trần Xuân Soạn - Phạm Thế Hiển - Âu Dương Lân - Tạ Quang Bửu - Cao Lỗ - Đường số 204 Cao Lỗ - Đường số 5 - Phạm Hùng - Nguyễn Tri Phương - Hùng Vương - Hồng Bàng - Phú Hữu - Ga Chợ Lớn (Bến A).
Tuyến 18: Bến Thành – Chợ Hiệp Thành
- Lượt đi: Bến CV 23/9 - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành - Hàm Nghi - Pasteur - Lê Duẩn - Đinh Tiên Hoàng – Phan Đăng Lưu - Nơ Trang Long - Lê Quang Định - Nguyễn Văn Nghi - Nguyễn Thái Sơn - Phan Văn Trị - Nguyễn Oanh - Quang Trung - Tô Ký – Nguyễn Ảnh Thủ - HT13 - Chợ Hiệp Thành.
- Lượt về: Chợ Hiệp Thành - HT13 - Nguyễn Ảnh Thủ - Tô Ký - Quang Trung - Nguyễn Văn Nghi -Nguyễn Thái Sơn - Phan Văn Trị - Phạm Văn Đồng - Lê Quang Định - Nơ Trang Long - Phan Đăng Lưu – Đinh Tiên Hoàng - Võ Thị Sáu - Hai Bà Trưng - Lê Duẩn - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Hàm Nghi - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Bến CV 23/9.
Tuyến 19: Bến Thành – KCX Linh Trung – Đại học Quốc gia
- Lượt đi: Bến CV 23/9 - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành - Hàm Nghi - Hồ Tùng Mậu – đường nhánh S2 - Tôn Đức Thắng - Hai Bà Trưng - Lê Duẩn - Đinh Tiên Hoàng-Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Quốc lộ 13 - Quốc lộ 1 - (Trạm 2) – quay đầu tại nút mở giao thông trên đường Quốc lộ 1 qua đoạn đường 13 - Quốc lộ 1 - Đường 621 - (ngã ba đường vào khu ký túc xá) - (ngã ba đường vào Trường ĐH Quốc Tế) - (ngã ba đường vào Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên) - Bến xe buýt A Khu đô thị ĐH Quốc Gia TP.HCM.
- Lượt về: Bến xe buýt A Khu đô thị ĐH Quốc Gia TP.HCM (rẽ phải) - (Ngã ba đường vào Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên) - (Ngã ba đường vào Trường ĐH Quốc Tế) - (Ngã ba đường vào khu ký túc xá) - Đường 621 – Song hành bờ Nam Quốc lộ 1 - Quốc lộ 1 - (Trạm 2) - nhánh hoa thị rẽ phải lên cầu vượt nút giao thông Thủ Đức – cầu vượt nút giao thông Thủ Đức – quay đầu tại vị trí cuối đường dẫn cầu vượt nút giao thông Thủ Đức - Cầu vượt nút giao thông Thủ Đức - Quốc lộ 1A-Quốc lộ 13-Đinh Bộ Lĩnh - Nguyễn Xí - Ung Văn Khiêm - D2 - Điện Biên Phủ - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Đinh Tiên Hoàng - Lê Duẩn - Hai Bà Trưng - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão – Bến CV 23/9.
Tuyến 20: Bến Thành – Nhà Bè
- Lượt đi: Bãi xe buýt công viên 23/9 - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành - Hàm Nghi - Tôn Đức Thắng - cầu Khánh Hội - Nguyễn Tất Thành - cầu Tân Thuận 2 - Nguyễn Văn Linh - Huỳnh Tấn Phát - Bến Mũi Nhà Bè.
- Lượt về: Bến Mũi Nhà Bè - Huỳnh Tấn Phát - cầu Tân Thuận 1 - Nguyễn Tất Thành -Hoàng Diệu - Cầu Calmete - Trạm Bến Thành - Vòng xoay Quách Thị Trang - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Bãi xe buýt công viên 23/9.
Tuyến 22: Bến xe Quận 8 – KCN Lê Minh Xuân
- Lượt đi: Bến xe Quận 8 - Quốc lộ 50 - Nguyễn Văn Linh - Đường vào chợ đầu mối Bình Điền - Chợ đầu mối Bình Điền - quay đầu - Nguyễn Văn Linh - Quốc lộ 1A - Nguyễn Hữu Trí - Cầu Chợ Đệm – rẽ phải vào đường nội bộ dưới Cầu Chợ Đệm - Thế Lữ - Khu di tích Láng Le Bàu Cò - Láng Le Bàu Cò - Khu Công nghiệp Lê Minh Xuân.
- Lượt về: Lượt về: Khu Công nghiệp Lê minh Xuân - Láng Le Bàu Cò - Khu di tích Láng Le Bàu Cò - Thế Lữ - Cầu Chợ Đệm - Nguyễn Hữu Trí - Quốc lộ 1A - Nguyễn Văn Linh - Đường vào Chợ đầu mối Bình Điền - Chợ đầu mối Bình Điền - quay đầu - Nguyễn Văn Linh - Quốc lộ 50 - Bến xe Quận 8
Tuyến 23: Bến xe Chợ Lớn – Ngã 3 Giồng – Cầu Lớn
- Lượt đi: Bến xe Chợ Lớn - Hồng Bàng - Tạ Uyên - Lãnh Binh Thăng - Ông Ích Khiêm - Hòa Bình - Khuông Việt - Âu Cơ - Nguyễn Hồng Đào - Trường Chinh - Phan Văn Hớn - Nguyễn Văn Bứa - Cầu Lớn.
- Lượt về: Cầu Lớn - Nguyễn Văn Bứa - Phan Văn Hớn - Trường Chinh - Nguyễn Hồng Đào - Âu Cơ - Khuông Việt - Hòa Bình - Ông Ích Khiêm - Lãnh Binh Thăng - Tôn Thất Hiệp - Tạ Uyên - Hồng Bàng - Bến xe Chợ Lớn.
Tuyến 24: Bến xe Miền Đông – Hóc Môn
- Lượt đi: Bến xe miền Đông - Đinh Bộ Lĩnh - Bạch Đằng - Lê Quang Định - Nguyễn Văn Nghi - Nguyễn Thái Sơn - Phạm Ngũ Lão - Quang Trung - cầu vượt Quang Trung - Tô Ký - quay đầu (đường TCH 33) - Tô Lý - quốc lộ 22 - Nguyễn Ảnh Thủ - Tô Ký - Quang Trung - Lý Thường Kiệt - quốc lộ 22 - hương lộ 60B - bến 19/5.
- Lượt về: Bến 19/5 - hương lộ 60B - quốc lộ 22 - Lý Thường Kiệt - Quang Trung - Tô Ký - Nguyễn Ảnh Thủ - quốc lộ 22 - quốc lộ 1A - Quang Trung - Nguyễn Văn Nghi - Lê Quang Định - Bạch Đằng - Xô Viết Nghệ Tĩnh - quốc lộ 13 - Đinh Bộ Lĩnh - bến xe miền Đông.
Tuyến 25: Bến xe Quận 8 – KDC Vĩnh Lộc A
- Lượt đi: Bến xe Quận 8 - Quốc lộ 50 - (cầu Nhị Thiên Đường) - Tùng Thiện Vương - (cầu Chà Và) - Hải Thượng Lãn Ông - (quay đầu) - Hải Thượng Lãn Ông - Lê Quang Sung - Phạm Đình Hổ - Hậu Giang - Kinh Dương Vương - Tên Lửa - Đường số 1 - Đường số 22 - Đường số 19 - Tên Lửa - Trần Văn Giàu (Đường số 7 cũ) - Đường số 40 - Tỉnh lộ 10 - Quốc lộ 1A - Tây Lân - Bến Lội - Liên Ấp 123 - Võ Văn Vân - Hương lộ 80 - Đường vào Khu dân cư Vĩnh Lộc A - Khu dân cư Vĩnh Lộc A.
- Lượt về: Khu dân cư Vĩnh Lộc A - Đường vào khu dân cư Vĩnh Lộc A - Hương Lộ 80 - Võ Văn Vân - Liên ấp 123 - Bến Lội - Tây Lân - Quốc lộ 1A - Tỉnh lộ 10 - Đường số 40 - Đường số 49 - Đường số 42 - (rẽ phải) - Trần Văn Giàu (Đường số 7 cũ)- (quay đầu tại vị trí quay đầu xe đối diện đường số 48) - Tên Lửa - Đường số 19 - Đường số 22 - Đường số 1 - Tên Lửa - Kinh Dương Vương - Hậu Giang -Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông - (cầu Chà Và) - Cao Xuân Dục - Tùng Thiện Vương - (cầu Nhị Thiên Đường) - Quốc lộ 50 - Bến xe Quận 8.
Tuyến 27: Công viên 23/9 – Âu Cơ – Bến xe An Sương
- Lượt đi: TĐH xe buýt Sài Gòn - Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Lý Thái Tổ - Đường 3/2 - Lê Đại Hành - Âu Cơ - Trường Chinh - Quốc lộ 22 - Bến xe An Sương.
- Lượt về: Bến xe An Sương - Trường Chinh - Âu Cơ - Lê Đại Hành - Đường 3/2 - Lý Thái Tổ - Phạm Viết Chánh - Cống Quỳnh - TĐH xe buýt Sài Gòn.
Tuyến 28: Bến Thành – Chợ Xuân Thới Thượng
- Lượt đi: TĐH xe buýt Sài Gòn - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Thị Minh Khai - Lê Quý Đôn - Võ Thị Sáu - Trần Quốc Thảo - Lê Văn Sỹ - Cộng Hòa - Trường Chinh - Tây Thạnh - Đường CN1 - Lê Trọng Tấn - Nguyễn Thị Tú - Quách Điêu - Dương Công Khi - Phan Văn Hớn - Xuân Thới Thượng.
- Lượt về: Xuân Thới Thượng - Phan Văn Hớn - Dương Công Khi - Quách Điêu - Nguyễn Thị Tú - Lê Trọng Tấn - Đường CN1 - Tây Thạnh - Trường Chinh - Cộng Hòa - Lê Văn Sỹ - Trần Quốc Thảo - Nguyễn Đình Chiểu - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Thị Nghĩa - Phạm Ngũ Lão - TĐH xe buýt Sài Gòn.
Tuyến 29: Phà Cát Lái – Chợ nông sản Thủ Đức
- Lượt đi: Bãi đậu xe trên đường A - (rẽ trái) - Nguyễn Thị Định - (cầu Mỹ Thủy 1) -Nguyễn Thị Định - Lê Văn Thịnh - Nguyễn Duy Trinh – Đỗ Xuân Hợp – (ngã 4 Bình Thái) – Xa lộ Hà Nội – Võ Văn Ngân - Thống Nhất - Đặng Văn Bi - Võ Văn Ngân - Tô Ngọc Vân - Tam Hà - Phú Châu - Tô Ngọc Vân - Gò Dưa - (cầu vượt Gò Dưa) - Tỉnh lộ 43 - Quốc lộ 1A - Chợ nông sản Thủ Đức.
- Lượt về: Chợ nông sản Thủ Đức - Quốc lộ 1A - (quay đầu ngã tư Bình Phước) - Quốc lộ 1A - đường vòng chân cầu vượt Gò Dưa - Gò Dưa - Tô Ngọc Vân - Phú Châu - Tam Hà - Tô Ngọc Vân - Võ Văn Ngân - Đặng Văn Bi – Thống Nhất – Võ Văn Ngân - Xa lộ Hà Nội – Đỗ Xuân Hợp - Nguyễn Duy Trinh - Lê Văn Thịnh - Nguyễn Thị Định - (cầu Mỹ Thủy 2) - Nguyễn Thị Định - Bến phà Cát Lái - (quay đầu) - Nguyễn Thị Định - Bãi đậu xe trên đường A.
Tuyến 30: Chợ Tân Hương – Đại học Quốc tế
- Lượt đi: Bến xe buýt Cư xá Nhiêu Lộc - Lê Thúc Hoạch – Đàm Thận Huy - Tân Hương - Độc Lập - Lũy Bán Bích – Âu Cơ - Trương Công Định - Trường Chinh - (Ngã tư Bảy Hiền) - Cách Mạng Tháng 8 - Điện Biên Phủ - Phạm Ngọc Thạch -Đồng Khởi - Lý Tự Trọng - Tôn Đức Thắng - Nguyễn Hữu Cảnh - (Cầu Sài gòn) - Xa lộ Hà Nội - (Trạm 2) - Quốc lộ 1 - quay đầu tại nút mở giao thông trên đường Quốc lộ 1 qua đoạn đường 13 - Đường 621 - Trường ĐH Quốc tế.
- Lượt về: Trường ĐH Quốc tế - Đường 621 - Song hành bờ Nam Quốc lộ 1 -Quốc lộ 1 - (Trạm 2) - Xa lộ Hà Nội - Cầu Sài Gòn - (đường vòng dưới chân cầu Sài Gòn) - Nguyễn Hữu Cảnh - Tôn Đức Thắng - Nguyễn Du - Phạm Ngọc Thạch - Võ Thị Sáu - Cách Mạng Tháng Tám - (Ngã tư Bảy Hiền) - Hoàng Văn Thụ - Xuân Diệu - Xuân Hồng -Trường Chinh - Trương Công Định – Âu Cơ - Lũy Bán Bích - Độc Lập - Tân Hương – Đàm Thận Huy - Lê Thúc Hoạch - Bến xe buýt Cư xá Nhiêu Lộc.
Tuyến 31: Khu dân cư Tân Quy - Bến Thành – Khu dân cư Bình Lợi
- Lượt đi: Khu dân cư Tân Quy – đường số 65 – Nguyễn Thị Thập – Nguyễn Văn Linh – Huỳnh Tấn Phát – (cầu Tân Thuận 1) – Nguyễn Tất Thành – Hoàng Diệu – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – trạm Bến Thành – Lê Lợi – Pasteur – Nguyễn Thị Minh Khai – Hai Bà Trưng – Trần Quang Khải – Đinh Tiên Hoàng – Phan Đăng Lưu – Nơ Trang Long – Khu dân cư Bình Lợi.
- Lượt về: Khu dân cư Bình Lợi - Nơ Trang Long - Phan Đăng Lưu - Đinh Tiên Hoàng - Trần Quang Khải - Nguyễn Hữu Cầu - Hai Bà Trưng - Nguyễn Đình Chiểu - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Hàm Nghi - Trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin – Phạm Ngũ Lão - Nguyễn Thái Học - Hoàng Diệu - Nguyễn Tất Thành - (cầu Tân Thuận 2) - Nguyễn Văn Linh - NguyễnThị Thập - đường số 65 - Khu dân cư Tân Quy.
Tuyến 32: Bến xe Miền Tây – Bến xe Ngã Tư Ga
- Lượt đi: Bến xe Miền Tây - Kinh Dương Vương – Đặng Nguyên Cẩn –Tân Hóa – Lũy Bán Bích – Hòa Bình – Tô Hiệu - Nguyễn Lý - Lê Khôi - Nguyễn Sơn - Văn Cao - Tân Hương – Độc Lập – Tân Sơn Nhì – Nguyễn Cửu Đàm – Nguyễn Quý Anh - Tân Kỳ Tân Quý - Lê Trọng Tấn - Dương Đức Hiền - Chế Lan Viên - Đường D9 - Tây Thạnh - Trường Chinh - Phan Huy Ích - Phạm Văn Chiêu - Thống Nhất - Lê Đức Thọ - Nguyễn Oanh - Hà Huy Giáp - Cầu vượt Ngã 4 Ga - Đường vòng chân cầu vượt - Quốc lộ 1A - Bến xe Ngã 4 Ga.
- Lượt về: Bến xe Ngã 4 Ga - Quốc lộ 1A - quay đầu - Quốc lộ 1A - Đường nội bộ KDC Nam Long - Hà Huy Giáp - Nguyễn Oanh - Lê Đức Thọ - Thống Nhất - Phạm văn Chiêu - Phan Huy Ích - Trường Chinh - Tây Thạnh - Đường D9 - Chế Lan Viên - Dương Đức Hiền - Lê Trọng Tấn - Tân Kỳ Tân Quý - Nguyễn Quý Anh – Nguyễn Cửu Đàm – Tân Sơn Nhì – Độc Lập - Tân Hương - Văn Cao - Nguyễn Sơn - Lê Khôi - Nguyễn Lý - Tô Hiệu – Hòa Bình – Lũy Bán Bích – Tân Hóa – Kinh Dương Vương - Bến xe Miền Tây (trả khách) - Kinh Dương Vương - Bến xe Miền Tây.
Tuyến 33: Bến xe An Sương – Suối Tiên – Đại học Quốc gia
- Lượt đi: Bến xe An Sương - Quốc lộ 1A - Quốc lộ 1 - Bến Xe Buýt ĐH Quốc Gia.
- Lượt về: Bến Xe Buýt ĐH Quốc Gia - Quốc lộ 1 - Quốc lộ 1A - Bến xe An Sương
Tuyến 34: Bến Thành – Đại học Công nghệ Sài Gòn
- Lượt đi: Bến CV 23/9 - Lê Lai – Nguyễn Thị Nghĩa-Nguyễn Thái Học – cầu Ông Lãnh – Hoàng Diệu – Nguyễn Tất Thành - cầu Tân Thuận 2 - Đường vòng chân cầu - Trần Xuân Soạn - Lê Văn Lương - Đường Số 15 - Đường số 10 - Đường số 17 - Mai Văn Vĩnh - Nguyễn Thị Thập - Tân Mỹ-Nguyễn Lương Bằng - Nguyễn Văn Linh - Phạm Hùng - Đường Số 5 - đường 204 Cao Lỗ - Trường đại học Công nghệ Sài Gòn (Công viên Đồng Diều)
- Lượt về: Trường đại học Công nghệ Sài Gòn (Công viên Đồng Diều) - đường 204 Cao Lỗ - đường số 5 - Phạm Hùng - Nguyễn Văn Linh - Nguyễn Lương Bằng - Tân Mỹ - Nguyễn Thị Thập - Mai Văn Vĩnh - Đường số 17 - Đường số 10 - Đường số 15 - Lê Văn Lương - Trần Xuân Soạn - đường vòng chân cầu Tân Thuận 2- Nguyễn Văn Linh - Huỳnh Tấn Phát - cầu Tân Thuận 1- Nguyễn Tất Thành - Hoàng Diệu - (cầu Calmette) - Calmette - Phạm Ngũ Lão – trạm Bến Thành – vòng xoay Bến thành – Trần Hưng Đạo – Đề Thám - Phạm Ngũ Lão – Bến CV 23/9.
Tuyến 35: Tuyến xe buýt Quận 1 - Quận 2
- Lượt đi: Công viên 23/9 - Lê Lai - Tôn Thất Tùng - Bùi Thị Xuân - Cống Quỳnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Nguyễn Văn Cừ - Trần Hưng Đạo - trạm Bến Thành - Huỳnh Thúc Kháng - Nguyễn Huệ - (quay đầu) - Nguyễn Huệ - Mạc Thị Bưởi - Hai Bà Trưng - Lê Duẩn - Đinh Tiên Hoàng - Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Điện Biên Phủ - cầu Sài Gòn - cầu Đen - Trần Não - Quốc Hương - Xuân Thủy - Quốc Hương - Lê Văn Miến - Thảo Điền - đầu bến đường Nguyễn Văn Hưởng (vị trí đối diện hẻm 76).
- Lượt về: Đầu bến đường Nguyễn Văn Hưởng (vị trí đối diện hẻm 76) - Thảo Điền - Lê Văn Miến - Quốc Hương - Xuân Thủy - Quốc Hương - cầu Sài Gòn - Điện Biên Phủ - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Đinh Tiên Hoàng - Lê Duẩn - công xã Paris - Đồng Khởi - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo - Nguyễn Văn Cừ - Phạm Viết Chánh - Cống Quỳnh - Bùi Thị Xuân - Tôn Thất Tùng - Phạm Ngũ Lão - công viên 23/9.
Tuyến 36: Bến Thành – Thới An
- Lượt đi: Bãi xe buýt Công viên 23/9 – Lê Lai – Trần Hưng Đạo – Phạm Ngũ Lão – Yersin – Trần Hưng Đạo – trạm Bến Thành (cây xăng) – Lê Lợi – Pasteur – Lê Duẩn – Phạm Ngọc Thạch – Điện Biên Phủ – Hai Bà Trưng – Trần Quang Khải – Đinh Tiên Hoàng – Phan Đăng Lưu – Nơ Trang Long – Phan Văn Trị – Thống Nhất – Phạm Văn Chiêu – Lê Đức Thọ – Lê Văn Khương – Bến Thới An.
- Lượt về: Bến Thới An - Lê Văn Khương - Lê Đức Thọ - Phạm Văn Chiêu - Thống Nhất - Phan Văn Trị - Nơ Trang Long - Phan Đăng Lưu - Đinh Tiên Hoàng - Trần Quang Khải - Nguyễn Hữu Cầu - Hai Bà Trưng - Võ Thị Sáu - Phạm Ngọc Thạch - Nguyễn Du - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Lê Lợi - vòng xoay Quách Thị Trang - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Bến Công viên 23/9.
Tuyến 37: Cảng Quận 4 – Nhơn Đức
- Lượt đi: Cảng Quận 4 – Tôn Thất Thuyết – cầu Tân Thuận 2 – Nguyễn Văn Linh - Huỳnh Tấn Phát - Trần Xuân Soạn - Lê Văn Lương – Nguyễn Hữu Thọ - Đường nội bộ (cận chung cư Hoàng Anh Gia Lai 3) – Lê Văn Lương - cầu Long Kiển (01 tấn) – Lê Văn Lương - Bến xã Nhơn Đức (đối diện trường tiểu học Lê Văn Lương, Hẻm số 7).
- Lượt về: Bến xã Nhơn Đức (đối diện trường tiểu học Lê Văn Lương, Hẻm số 7) – Lê Văn Lương – cầu Long Kiển (01 tấn) - Lê Văn Lương – đường nội bộ (cận chung cư Hoàng Anh Gia Lai 3) – Nguyễn Hữu Thọ - Lê Văn Lương - Trần Xuân Soạn – đường vòng chân cầu– Nguyễn Văn Linh - Huỳnh Tấn Phát – cầu Tân Thuận 1 – đường vòng chân cầu Tân Thuận 1 – Tôn Thất Thuyết - Bến Cảng Quận 4.
Tuyến xe buýt số 38: KDC Tân Quy - Bến Thành - Đầm Sen
Tuyến 38: KDC Tân Quy - Bến Thành - Đầm Sen
- Lượt đi: Khu dân cư Tân Quy (Q.7) - Nguyễn Thị Thập - Lê Văn Lương - Đường số 15 - Nguyễn Hữu Thọ - cầu Kênh Tẻ - Khánh Hội - Hoàng Diệu - cầu Calmette – Calmette – Phạm Ngũ Lão – trạm Bến Thành – vòng xoay Bến Thành – Lê Lai – Phạm Hồng Thái - Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Thị Minh Khai - Nguyễn Văn Cừ - An Dương Vương - Sư Vạn Hạnh - Tô Hiến Thành - Lữ Gia - Nguyễn Thị Nhỏ - Âu Cơ - Lạc Long Quân - Hòa Bình - Bến Đầm Sen.
- Lượt về: Bến Đầm Sen - Hòa Bình - Lạc Long Quân - Âu Cơ - Nguyễn Thị Nhỏ - Lữ Gia - Tô Hiến Thành - Thành Thái - đường 3/2 - Lý Thái Tổ - Sư Vạn Hạnh - An Dương Vương - Nguyễn Văn Cừ - Nguyễn Thị Minh Khai - Cách Mạng Tháng Tám - Phạm Hồng Thái – Lê Lai – vòng xoay Bến Thành – trạm Bến Thành – Trần Hưng Đạo – Yersin – Nguyễn Thái Bình – Calmette – cầu Calmette - Hoàng Diệu - Khánh Hội- cầu Kênh Tẻ - Nguyễn Hữu Thọ - Đường số 15 - Lê Văn Lương - Nguyễn Thị Thập - Khu dân cư Tân Quy (Quận 7).
Tuyến 39: Bến Thành – Võ Văn Kiệt – Bến xe Miền Tây
- Lượt đi: Công viên 23/9 - Lê Lai – vòng xoay Quách Thị Trang - trạm Bến Thành (mặt sau) - Trần Hưng Đạo – Yersin – Lê Thị Hồng Gấm - Ký Con - Võ Văn Kiệt - Hồ Học Lãm - Kinh Dương Vương - Bến xe Miền Tây (trả khách) - Kinh Dương Vương - chỗ đậu xe buýt Bến xe Miền Tây.
- Lượt về: Bến xe Miền Tây - Kinh Dương Vương - Hồ Học Lãm - Võ Văn Kiệt - Ký Con - Trần Hưng Đạo – trạm Bến Thành (57 Phạm Ngũ Lão) – vòng xoay Quách Thị Trang – Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Công viên 23/9.
Tuyến 40: Bến xe Miền Đông – Bến xe Ngã tư Ga
Bến xe Miền Đông – Đinh Bộ Lĩnh – Nguyễn Xí – Nơ Trang Long – Phan Văn Trị – Nguyễn Huy Điển – Lê Đức Thọ – Nguyễn Oanh – Hà Huy Giáp – Cầu vượt Ngã 4 Ga – Đường vòng cầu vượt Ngã 4 Ga – Quốc lộ 1A – Bến xe Ngã 4 Ga
Tuyến 41: Bến xe Miền Tây – Ngã tư Bốn Xã – Bến xe An Sương
- Lượt đi: Bến xe Miền Tây - Kinh Dương Vương - Tên Lửa - Tỉnh lộ 10 - Mã Lò - Lê Văn Quới - (ngã 4 Bốn xã) - Bình Long - Văn Cao - Tân Hương - Độc Lập - Tân Sơn Nhì – Nguyễn Cửu Đàm – Nguyễn Quý Anh - Tân Kỳ Tân Quý - Lê Trọng Tấn - Tây Thạnh - Trường Chinh - Quốc lộ 22 (quay đầu tại Công ty Việt Hưng) - Bến xe An Sương;
- Lượt về: Bến xe An Sương - Quốc lộ 22 - Trường Chinh - Tây Thạnh - Lê Trọng Tấn - Tân Kỳ Tân Quý – Nguyễn Quý Anh – Nguyễn Cửu Đàm - Tân Sơn Nhì - Độc Lập - Tân Hương - Văn Cao - Bình Long - (ngã 4 Bốn xã) - Lê Văn Quới - Mã Lò - Tỉnh lộ 10 - Tên Lửa - Kinh Dương Vương - (quay đầu) - Kinh Dương Vương - Bến xe Miền Tây.
Tuyến 42: Chợ Cầu Muối - Chợ nông sản Thủ Đức
Bãi đậu xe buýt Công viên 23/9-Lê Lai-Nguyễn Thái Học-Võ Văn Kiệt (quay đầu)-Nguyễn Thái Học (Chợ Cầu Muối)-Trần Hưng Đạo-Trạm Bến Thành(57 Phạm Ngũ Lão)-Lê Lợi-Pasteur-Lê Duẩn-Đinh Tiên Hoàng-Nguyễn Thị Minh Khai-Xô Viết Nghệ Tĩnh-Quốc lộ 13-Ngã 4 Bình Phước-Quốc lộ 1A-Gò Dưa-Tỉnh lộ 43-Ngã 4 Gò Dưa-Quốc lộ 1A-Chợ nông sản Thủ Đức
Tuyến 43: Bến xe Miền Đông – Phà Cát Lái
- Lượt đi: Bến xe Miền Đông - Đinh Bộ Lĩnh - Bạch Đằng - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Điện Biên Phủ - cầu Sài Gòn - Xa Lộ Hà Nội - Trần Não - Lương Định Của - (nút giao An Phú) - Nguyễn Thị Định - (cầu Mỹ Thủy 2) - Nguyễn Thị Định - Bến phà Cát Lái - (quay đầu) - Nguyễn Thị Định - Bãi đậu xe trên đường A1.
- Lượt về: Bãi đậu xe trên đường A1 - (rẽ trái) - Nguyễn Thị Định - (cầu Mỹ Thủy 1) - Nguyễn Thị Định - Đường dẫn lên đường cao tốc - Quay đầu tại nhánh X2 - Đường dẫn lên đường cao tốc - (nút giao An Phú) - Lương Định Của - Trần Não - Đường vòng chân cầu Sài Gòn - (Cầu Sài Gòn) - Điện Biên Phủ - (Ngã tư Hàng Xanh) - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Quốc Lộ 13 - Đường vòng chân cầu Bình Triệu - Đinh Bộ Lĩnh - Bến xe Miền Đông.
Tuyến 44: Cảng Quận 4 – Bình Quới
- Lượt đi: Cảng Quận 4 – Tôn Thất Thuyết – Tôn Đản – Vĩnh Hội – Tân Vĩnh – Hoàng Diệu – Đoàn Văn Bơ – cầu Calmette – Calmette – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành (57 Phạm Ngũ Lão) – (vòng xoay) – Lê Lai – Trương Định – Lý Tự Trọng – Tôn Đức Thắng – Nguyễn Hữu Cảnh – Ngô Tất Tố – Nguyễn Văn Lạc – Xô Viết Nghệ Tĩnh – Bình Quới – Bến đò Bình Quới
- Lượt về: Bến đò Bình Quới - Bình Quới - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Ung Văn Khiêm - D1 - Điện Biện Phủ - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Văn Lạc - Ngô Tất Tố - Nguyễn Hữu Cảnh - Lê Thánh Tôn - Lê Anh Xuân - Lê Lai - (vòng xoay) - Trạm Bến Thành (mặt sau) - Trần Hưng Đạo - Yersin - Lê Thị Hồng Gấm - Calmette - cầu Calmette - Đoàn Văn Bơ - Hoàng Diệu - Nguyễn Hữu Hào - Đường số 41 - Tân Vĩnh – Vĩnh Hội - Tôn Đản - Tôn Thất Thuyết - Cảng Quận 4.
Tuyến xe buýt số 45: Bến xe Quận 8 – Bến Thành – Bến xe Miền Đông
Tuyến 45: Bến xe Quận 8 – Bến Thành – Bến xe Miền Đông
Bến xe Quận 8 – Quốc lộ 50 – (cầu Nhị Thiên Đường) – Tùng Thiện Vương – Xóm Củi – (cầu Chà Và) – Vạn Kiếp – Hải Thượng Lãn Ông – (Quay đầu tại giao lộ Triệu Quang Phục) – Hải Thượng Lãn Ông – Châu Văn Liêm – Thuận Kiều – Nguyễn Chí Thanh – Sư Vạn Hạnh – An Dương Vương – Nguyễn Văn Cừ – Nguyễn Trãi – Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành – (Cây xăng) Lê Lợi – Hai Bà Trưng – Nguyễn Thị Minh Khai – Nguyễn Bỉnh Khiêm – Điện Biên Phủ – Xô Viết Nghệ Tĩnh – Đinh Bộ Lĩnh – Bến xe Miền Đông
Tuyến 46: Cảng quận 4 - Bến Thành – Bến Mễ Cốc
- Lượt đi: Bến xe Cảng Quận 4 (dưới chân cầu Kênh Tẻ) - Tôn Thất Thuyết -Nguyễn Khoái - Bến Vân Đồn - Khánh Hội - Hoàng Diệu - cầu Ông Lãnh - Nguyễn Thái Học - Lê Thị Hồng Gấm – Ký Con – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Nguyễn Thị Nghĩa - vòng xoay Phù Đổng - Nguyễn Trãi - Nguyễn Biểu - cầu Chữ Y - Hưng Phú - Xóm Củi - Đường vòng Chân cầu Chà Và - Đình Hòa - Cao Xuân Dục - Tùng Thiện Vương-Tuy Lý Vương - Nguyễn Chế Nghĩa - Bến Bình Đông - Bến Mễ Cốc - cầu số 3 - Mễ Cốc - (quay đầu tại chân cầu số 3) - đường vòng chân cầu số 3 - Lưu Hữu Phước -Chợ Rạch Cát.
- Lượt về: Chợ Rạch Cát - Lưu Hữu Phước-Đường vòng chân cầu số 3 - Mễ Cốc- (quay đầu tại chân cầu số 3) - cầu số 3 - Bến Mễ Cốc - Bến Bình Đông - Nguyễn Chế Nghĩa - Tuy Lý Vương - Tùng Thiện Vương-Xóm Củi - Hưng Phú - cầu Chữ Y - Dạ Nam - Phạm Thế Hiển - Dạ Nam - cầu Chữ Y - Nguyễn Biểu - Nguyễn Trãi - Lê Lai – vòng xoay Quách Thị Trang - Trần Hưng Đạo – Yersin – Phạm Ngũ Lão - Nguyễn Thái Học - cầu Ông Lãnh - Khánh Hội - Bến Vân Đồn - Nguyễn Khoái-Tôn Thất Thuyết - Bến Cảng Quận 4 (dưới chân cầu Kênh Tẻ).
Tuyến 47: Bến xe Chợ Lớn – Quốc lộ 50 – Hưng Long
- Lượt đi: Bến xe Chợ Lớn A - Lê Quang Sung - Phạm Đình Hổ - Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông - Cầu Chà Và - Cao Xuân Dục - Tùng Thiện Vương - Quốc lộ 50 - Hương lộ 11 - Bến Hưng Long.
- Lượt về: Bến Hưng Long - Hương lộ 11 - Quốc Lộ 50 - Tùng Thiện Vương - Cầu Chà Và - Hải Thượng Lãng Ông - Quay đầu - Hải Thượng Lãng Ông - Lê Quang Sung - Trang Tử - Ga Chợ Lớn A.
Tuyến 48: Siêu thị CMC – Công viên phần mềm Quang Trung
Siêu thị CMC (Tân Bình) – Lý Thường Kiệt – Hoàng Văn Thụ – Xuân Diệu – Xuân Hồng – Trường Chinh – Hồ Đắc Di – Lê Trọng Tấn – CN1 – Đường số 18 – Đường số 7 – Đường số 4 – Đường số 5 – Đường số 2A – Đường số 1 – Vĩnh Lộc – Phan Văn Đối – Phan Văn Hớn – Nguyễn Ảnh Thủ – Tô Ký – Quang Trung – quay đầu (chân cầu vượt Quang Trung) – Quang Trung – Tô Ký – Công viên phần mềm Quang Trung
Tuyến 49: Sân bay Tân Sơn Nhất - Quận 1
Sân bay Tân Sơn Nhất (Ga Quốc tế) - Sân bay Tân Sơn Nhất (Ga Quốc nội) - Trường Sơn - Trần Quốc Hoàn - Hoàng Văn Thụ - Nguyễn Văn Trỗi - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Lê Duẩn - Công xã Paris - Đồng Khởi - Đông Du - Hai Bà Trưng - Công trường Mê Linh - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - Bến Thành – Trần Hưng Đạo – Yersin - Phạm Ngũ Lão - Nguyễn Trãi - Lê Lai - Nguyễn Thị Nghĩa - Cách Mạng Tháng Tám - Điện Biên Phủ - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Văn Trỗi - Phan Đình Giót - Trường Sơn - Sân bay Tân Sơn Nhất (Ga Quốc tế).
Tuyến 51: Bến xe Miền Đông – Bình Hưng Hòa
- Lượt đi: Bến xe Miền Đông - Đinh Bộ Lĩnh - Bạch Đằng - Phan Đăng Lưu - Hoàng Văn Thụ - Phan Đình Giót – Phan Thúc Duyện - Trần Quốc Hoàn - Hoàng Văn Thụ - Xuân Diệu - Xuân Hồng - Trường Chinh – Trương Công Định – Ba Vân – Lũy Bán Bích – Trương Vĩnh Ký – Gò Dầu – Tân Sơn Nhì – Nguyễn Cửu Đàm – Nguyễn Quý Anh - Tân Kỳ Tân Quý - Mã Lò - Bình Hưng Hòa (điểm cuối tuyến tại 482 Mã Lò).
- Lượt về: Bình Hưng Hòa (điểm cuối tuyến tại 482 Mã Lò) - Mã Lò - Tân Kỳ Tân Quý – Nguyễn Quý Anh – Nguyễn Cửu Đàm – Tân Sơn Nhì - Gò Dầu – Trương Vĩnh Ký – Lũy Bán Bích – Ba Vân – Trương Công Định - Trường Chinh - Hoàng Văn Thụ - Phan Đăng Lưu - Bạch Đằng - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Quốc lộ 13 – Đinh Bộ Lĩnh - Bến xe Miền Đông.
Tuyến 52: Bến Thành – Đại học Quốc tế
- Lượt đi: Bến CV 23/9 - Lê Lai – Nguyễn Thị Nghĩa – Nguyễn Thái Học – Trần Hưng Đạo – Trạm Bến Thành - Lê Lợi-Pasteur-Lê Duẩn-Phạm Ngọc Thạch-(Hồ Con Rùa)-Phạm Ngọc Thạch-Nguyễn Thị Minh Khai-Xô Viết Nghệ Tĩnh-Điện Biên Phủ-Xa lộ Hà Nội-(Cầu vượt Trạm 2)-Quốc lộ 1A-Đường vào trường ĐH Thể duc thể thao-(rẽ trái)-(Ngã ba đường vào trường ĐH Khoa học Tự Nhiên-Trường ĐH Quốc tế.
- Lượt về: Trường ĐH Quốc tế-(ngã ba đường vào Trường ĐH Khoa học Tự nhiên)-(rẽ trái)-ngã ba đường vào trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn-Đường vào trường ĐH Thể dục Thể thao-Quốc lộ 1A-(quay đầu)-Quốc lộ 1A-Xa lộ Hà Nội-Điện Biên Phủ-Xô Viết Nghệ Tĩnh-Nguyễn Thị Minh Khai-Phùng Khắc Khoan - Trần Cao Vân-(Hồ Con Rùa)-Phạm Ngọc Thạch-Lê Duẩn-Nam Kỳ Khởi Nghĩa-Lê Lợi-vòng xoay Quách Thị Trang - trạm Bến Thành - Trần Hưng Đạo - Yersin - Phạm Ngũ Lão - Bến CV 23/9.
Tuyến xe buýt số 53: Lê Hồng Phong – Đại học Quốc gia
Tuyến 53: Lê Hồng Phong – Đại học Quốc gia
- Lượt đi: Bến Lê Hồng Phong - Trần Phú - Phạm Viết Chánh - Cống Quỳnh -Phạm Ngũ Lão - Nguyễn Cư Trinh - Trần Hưng Đạo - Hàm Nghi - Hồ Tùng Mậu – đường nhánh S2 - Tôn Đức Thắng - Nguyễn Hữu Cảnh - Xa lộ Hà Nội – ngã tư Bình Thái – Xa lộ Hà Nội – ngã 4 Thủ Đức – Võ Văn Ngân - Lê Văn Chí - Hoàng Diệu 2 - Kha Vạn Cân - Quốc lộ 1A - (Trạm 2) - Quốc lộ 1A - Đường 621 – (rẽ trái) - Bến xe buýt A (khu đô thị ĐH Quốc Gia TP.HCM) – (ngã ba đường vào Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên) - (ngã ba đường vào Trường ĐH Quốc Tế) - Đường trục chính số 1- số 5 - số7 - Ký túc xá B (Đại học Quốc Gia).
- Lượt về: Ký túc xá B (Đại học Quốc Gia) - Đường trục chính số 7 - số 5 - số 1 - (rẽ phải) - (ngã 3 đường vào Đại học Quốc tế) - (ngã 3 đường vào trường Đại học Khoa học Tự nhiên) – (bến xe buýt A Đại học Quốc gia) - Đường 621 - Quốc lộ 1A (Trạm 2) - Quốc lộ 1A - Kha Vạn Cân - Hoàng Diệu 2 – Lê Văn Chí – Võ Văn Ngân – ngã 4 Thủ Đức – Xa lộ Hà Nội - ngã 4 Bình Thái - Xa lộ Hà Nội - Nguyễn Hữu Cảnh - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - Trần Hưng Đạo - Nguyễn Thái Học - Phạm Ngũ Lão - Cống Quỳnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Hùng Vương - Lê Hồng Phong - Bến Lê Hồng Phong.
Tuyến 54: Bến xe Miền Đông – Bến xe Chợ Lớn
- Lượt đi: Bến xe Miền Đông - Đinh Bộ Lĩnh - Bạch Đằng - Lê Quang Định - Nguyễn Huy Lượng - Nơ Trang Long - Phan Đăng Lưu - Đinh Tiên Hoàng - Võ Thị Sáu - Đường 3/2 - Lê Hồng Phong - Hùng Vương - Hồng Bàng - Phú Hữu - Ga Chợ Lớn A.
- Lượt về: Ga Chợ Lớn A - Lê Quang Sung - Phạm Đình Hổ - Tháp Mười - Phú Hữu - Nguyễn Trãi - Trần Phú - Lê Hồng Phong - Điện Biên Phủ - Đinh Tiên Hoàng - Phan Đăng Lưu - Nơ Trang Long - Nguyễn Huy Lượng - Lê Quang Định - Bạch Đằng - Xô Viết Nghệ Tĩnh - Quốc lộ 13 - Đinh Bộ Lĩnh - Bến xe Miền Đông.
Tuyến 55: Công viên phần mềm Quang Trung – Khu Công nghệ cao (Q9)
- Lượt đi: Công viên Phần mềm Quang Trung - Tô Ký - quay đầu ngã ba Tân Chánh Hiệp 21 và Tô Ký - Quang Trung - Nguyễn Kiệm - Hoàng Minh Giám-Đào Duy Anh - Hồ Văn Huê - Hoàng Văn Thụ - Phan Đăng Lưu - Bạch Đằng-Xô Viết Nghệ Tĩnh-Điện Biên Phủ-Xa lộ Hà Nội-Quốc lộ 52-Lê Văn Việt - Khu Công nghệ cao (Q.9).
- Lượt về: Khu Công nghệ cao (Q.9) - Lê Văn Việt - Quốc lộ 52 - Xa lộ Hà Nội-Điện Biên Phủ-Xô Viết Nghệ Tĩnh - Bạch Đằng - Phan Đăng Lưu - Nguyễn Kiệm - Nguyễn Thái Sơn - Phạm Ngũ Lão - Quang Trung - Tô Ký – CVPM Quang Trung.
Tuyến 56: Bến xe Chợ Lớn – Đại học Giao thông Vận tải
- Lượt đi: Ga Chợ Lớn A - Lê Quang Sung - Nguyễn Hữu Thận - Tháp Mười - Hải Thượng Lãn Ông - Châu Văn Liêm - Hồng Bàng - An Dương Vương - Nguyễn Văn Cừ - Nguyễn Trãi - Nguyễn Cư Trinh - Trần Hưng Đạo - Phạm Ngũ Lão - trạm Sài Gòn - Hàm Nghi - Hồ Tùng Mậu – đường nhánh S2 - Tôn Đức Thắng - Nguyễn Hữu Cảnh - cầu Sài Gòn - Xa lộ Hà Nội - võ văn ngân - thống nhất - Đặng Văn Bi - Võ Văn Ngân - Lê Văn Việt - Trường Đại học Giao thông vận tải (Quận 9) - Ký túc xá Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật.
- Lượt về: Ký túc xá Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật - Trường Đại học Giao thông vận tải (Quận 9) - Lê Văn Việt – ngã tư Thủ Đức – võ văn ngân - đặng văn bi - thống nhất - võ văn ngân - Xa lộ Hà Nội – ngã tư Bình Thái - Xa lộ Hà Nội - cầu Sài Gòn - Cầu vượt Nguyễn Hữu Cảnh - Tôn Đức Thắng - Hàm Nghi - Trạm Sài Gòn - Phạm Ngũ Lão - Trần Hưng Đạo - Nguyễn Cư Trinh - Nguyễn Trãi - Nguyễn Văn Cừ - An Dương Vương - Nguyễn Tri Phương - Hùng Vương - Hồng Bàng - Châu Văn Liêm - Hải Thượng Lãn Ông - Lê Quang Sung - Ga Chợ Lớn A.
Tuyến 57: Chợ Phước Bình – Trường THPT Hiệp Bình
- Lượt đi: Bến chợ Phước Bình (Trường trung cấp nghề TP.HCM cơ sở III) - Đại lộ 3 - Đường số 20 - Đường số 9 - Đường số 6D - Đường số 18B - Đường số 8 - Đỗ Xuân Hợp - Dương Đình Hội - Đình Phong Phú - Lê Văn Việt - Võ Văn Ngân - Kha Vạn Cân - Hiệp Bình - Trường THPT Hiệp Bình.
- Lượt về: Trường THPT Hiệp Bình - Hiệp Bình - Phạm Văn Đồng - Kha Vạn Cân - Võ Văn Ngân - Lê Văn Việt - Đình Phong Phú - Dương Đình Hội - Đỗ Xuân Hợp - Đường số 8 - Đường số 18B - Đường số 6D - Đường số 9 - Đường số 20 - Đại lộ 3 - Bến chợ Phước Bình (Trường trung cấp nghề TP.HCM cơ sở III).
Tuyến 58: Bến xe Ngã 4 Ga – Bình Mỹ
- Lượt đi: Bến xe ngã 4 ga - quốc lộ 1 - đường nội bộ KDC Nam Long - Hà Huy Giáp - Bùi Công Trùng - Đặng Thúc Vịnh - Hà Duy Phiên - tỉnh lộ 8 - đường vào cổng A khu công nghiệp Đông Nam - KCN Đông Nam.
- Lượt về: KCN Đông Nam - đường vào cổng A KCN Đông Nam - tỉnh lộ 8 - Hà Duy Phiên - Bùi Công Trừng - Đặng Thúc Vịnh - Hà Huy Giáp - quốc lộ 1 - bến xe ngã 4 ga.
Tuyến 59: Bến xe Quận 8 – Bến xe Ngã 4 Ga
- Lượt đi: Bến xe Quận 8 - Quốc lộ 50 - Phạm Thế Hiển - Đường số 1011 - Tạ Quang Bửu - Phạm Hùng - cầu Chánh Hưng - cầu Nguyễn Tri Phương - Nguyễn Tri Phương - Thành Thái - Tô Hiến Thành - Lý Thường Kiệt - Hoàng Văn Thụ - Phổ Quang - Hoàng Minh Giám - Nguyễn Thái Sơn - Phạm Ngũ Lão - Nguyễn Oanh - Hà Huy Giáp - cầu vượt ngã tư Ga - Đường vòng cầu vượt - Quốc lộ 1A - Bến xe Ngã tư Ga.
- Lượt về: Bến xe Ngã tư Ga - Quốc lộ 1A - quay đầu - Quốc lộ 1A - Đường nội bộ khu dân cư Nam Long - Hà Huy Giáp - Nguyễn Oanh - Nguyễn Kiệm - Hoàng Minh Giám - Phổ Quang - Phan Đình Giót - Trần Quốc Hoàn - Hoàng Văn Thụ - Xuân Diệu - Xuân Hồng - Trường Chinh - Lý Thường Kiệt - Tô Hiến Thành - Nguyễn Tri Phương – Trần Phú – Trần Hưng Đạo - cầu Nguyễn Tri Phương - cầu Chánh Hưng - Phạm Hùng - Tạ Quang Bửu - Đường số 1011 - Phạm Thế Hiển - Quốc lộ 50 - Bến xe Quận 8.
Tuyến 60: Bến xe An Sương – KCN Lê Minh Xuân
- Lượt đi: Bến xe An Sương - Quốc lộ 22 - Quốc lộ 1A - ngã tư Vĩnh Lộc - Nguyễn Thị Tú - Vĩnh Lộc - Võ Văn Vân - Tỉnh lộ 10 - Láng Le Bàu Cò - Khu Công Nghiệp Lê Minh Xuân.
- Lượt về: Khu Công Nghiệp Lê Minh Xuân - Láng Le Bàu Cò - Tỉnh Lộ 10 - Võ Văn Vân - Vĩnh Lộc - Nguyễn Thị Tú - ngã tư Vĩnh Lộc - Quốc lộ 1A - Quốc Lộ 22 - quay đầu tại ngã 3 Công ty Việt Hưng - Quốc lộ 22 - Bến xe An Sương.
Tuyến 60-1: BX Miền Tây – BX Biên Hòa
- Lượt đi: Bến Xe Miền Tây - Kinh Dương Vương - Quốc Lộ 1A - Đường Vào Siêu Thị Big C An Lạc - Siêu Thị Big C An Lạc - Đường Ra Siêu Thị
https://baomoi.com/lo-trinh-xe-buyt-...c/21673140.epi
-
-
-
-
-
6 bí mật của Tây Du Ký ít người hiểu thấu: Tôn Ngộ Không rốt cuộc là ai?
08:00, 02/02/2018 Bản In Cỡ Chữ + Cỡ Chữ -
Lượt Chia Sẻ
Tôn Ngộ Không là một nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết trường thiên Tây Du Ký, một trong tứ đại danh tác cổ điển của Trung Hoa. Có người nói Tây Du Ký là tiểu thuyết thần thoại, tiểu thuyết thần ma. Kỳ thực, đó là mượn câu chuyện thỉnh kinh để nói về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn, đắc Đạo.
1. Tôn Ngộ Không và tâm viên
Tôn Ngộ Không là ai? Trong sách nhiều lần nhắc đến Tôn Ngộ Không là “tâm viên” (lòng vượn). Trong hồi thứ 7, “Đại Thánh trốn khỏi lò Bát Quái, dưới Ngũ Hành Sơn định tâm viên” có một bài tụng rằng: “Khỉ đây đạo thể hợp tâm người, tuy khỉ nhưng lòng nghĩ đến nơi”.
Hồi thứ 58, trong một tình tiết liên quan đến Mỹ Hầu vương thật giả, Như Lai nói hai con khỉ này là “hai lòng”. Hai vị Hầu vương cùng nhau lên trời xuống đất, cuối cùng đánh đến trước tòa Bảo Tọa của Như Lai Phật Tổ. Như Lai lúc ấy đang giảng Pháp, trông thấy hai vị Hầu vương, bèn tức thời rời khỏi bảo tọa, nói với mọi người rằng: “Các ngươi đều là một lòng cả, hãy xem hai lòng kia đang ganh đua tranh đấu với nhau mà đến này”. Tiêu đề trong hồi này cũng đã chỉ rõ: “Hai tâm làm loạn càn khôn rộng, một thể khó tu thành tịch diệt”.
Một người nếu ôm giữ quá nhiều nhân tâm, nhưng bản thân chỉ có một thân thể thì tu như thế nào đây? Đương nhiên Càn Khôn đều sẽ bị xáo trộn cả.
Trong phần kể về việc Ngộ Không chế thuốc trị bệnh cho quốc vương nước Chu Tử, có tiêu đề là “Hành Giả nửa đêm điều thuốc tễ; quân vương trên tiệc kể yêu ma”.
Vậy thì, Ngộ Không là lòng vượn của ai đây? Thật ra, Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã – năm vị này hợp lại chính là một người. Trong hồi thứ 32, trong sách nói họ là “một lòng đồng thể, cùng đến Tây phương”.
Nói như vậy, có thể rất nhiều người cảm thấy khó lý giải: Tâm của Đường Tăng sao lại biến thành một sinh mệnh khác được? Thật ra, giới tu luyện xưa nay luôn giảng rằng bên trong thân thể có rất nhiều các chủng các loại sinh mệnh khác nhau, giống như trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói: “Ba hồn bảy vía đều là bạn”; trong Đạo gia cũng có câu rằng thân người tự có “ba thây ma”.
Thật ra, Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã – năm vị này hợp lại chính là một người. (Ảnh: Youtube)
2. Ngũ vị nhất thể
Trong sách, tác giả gọi Đường Tăng là bản tính, thiền tính, cũng là chủ nhân của cái thân thể này, vậy nên ông là thai phàm mắt thịt. Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm của Đường Tăng. Bạch Long Mã là ý chí, cũng chính là “ý mã” được viết trong sách.
Mộc Mẫu là chỉ Bát Giới, Mộc trong ngũ hành. Kim Công vẫn là chỉ Ngộ Không, đối ứng giữa Mẫu (cái) và Công (đực) cũng chính là âm và dương. Bởi vì Hỏa có thể khắc Kim, gọi là “Kim chi công”, vậy nên Kim Công cũng chỉ Hỏa. Bởi vì Thủy có thể sinh Mộc, vậy nên Mộc Mẫu cũng bao gồm Thủy trong đó. Từ trên thuộc tính của âm dương mà nói, Mộc và Thủy cùng thuộc âm, Kim và Hỏa lại đều cùng thuộc về dương.
Âm dương giao hòa, đều cần Thổ tương trợ, Thổ tức là chỉ Sa hòa thượng, lại được gọi là Hoàng Bà. Toàn bộ tác phẩm Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới tranh tranh đấu đấu, đố kỵ với nhau, không ngừng xích mích mâu thuẫn, đó chính là quá trình âm dương xung khắc trong tu luyện, trong khi Sa hòa thượng đóng vai trò là người hòa giải. Mãi cho đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến hài hòa nhất trí với nhau.
Trong sách nhiều lần ám thị năm thầy trò là sinh mệnh trong cùng một thân thể. Đến cuối cùng, khi “Năm thánh thành Phật” có một bài thơ nói càng rõ ràng hơn, bốn câu mở đầu trong đó là:
“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành luận sắc không về tịch,
Trăm quái hư danh chẳng luận bàn”.
“Một thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa bốn tướng” là thuật ngữ trong giới tu luyện. Đạo gia xem thận, tim, gan, phổi lần lượt đại biểu cho Huyền Vũ, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ; trong ngũ hành lại ứng với Thủy, Hỏa, Mộc, Kim. Tương sinh trong ngũ hành, Mộc có thể sinh Hỏa, Kim có thể sinh Thủy. Trong Tính Mệnh Khuê Chỉ giảng, Long – Mộc sinh Hỏa, cùng thuộc về tim; Hổ – Kim sinh Thủy, cùng thuộc về thân.
Bốn thầy trò, mỗi người chính là một phần của một thân thể hợp nhất, chỉ có đồng lòng tu tâm hướng Phật mới đắc được chân kinh. (Ảnh: Youtube)
Tâm không động thì nguyên khí ngưng tụ, thân không động thì nguyên tinh tụ hội. Tinh khí ngưng tụ, tức là chỉ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hòa quyện vào trong Thổ. “Tứ tượng hòa hợp” tức chỉ điều này. Trong hồi 1 của Tây Du Ký có câu thơ rằng:
“Ba dương hòa, nở muôn loài
Đá tiên chứa đựng đất trời tinh hoa
Hầu tinh từ trứng hóa ra
Họ tên đổi khác thật là khéo thay
Trong tàng ẩn tướng có hay?
Vẻ ngoài cũng chẳng thua ai hình hài
Nhân gian kiếp kiếp trò đời
Xưng vua, xưng chúa một thời dọc ngang”.
Từ đây mà nói, trong tâm mỗi chúng ta đều có sẵn một Mỹ Hầu vương, chỉ là nó “Khi thiện thành Phật, thành tiên; Khi ác lông thú với sừng mọc ngay”, cũng là xem mỗi người làm sao điều khiển nó mà thôi.
3. Con đường lấy kinh chính là quá trình tu tâm
Tu thành chính quả, kỳ thật cũng là một quá trình tu tâm. Ngô Thừa Ân ngay trong hồi mục đầu tiên đã trực tiếp chỉ rõ quan điểm này: “Gốc thiêng ấp ủ nguồn rộng chảy; Tâm tính tu trì Đạo lớn sinh”. Phật gia có một cách nói, gọi là “Phật tại tâm trung”, “tâm tức là Phật”. Không phải nói là trong tâm có ông Phật nào cả, mà là nói cần phải hướng nội mà tu, nhắm thẳng vào cái tâm của bản thân mình mà tu, vậy mới có thể tu luyện thành Phật được.
Dù cho Mỹ Hầu vương đã trải qua bao nhiêu quá trình, kinh qua bao nhiêu năm tháng, cuối cùng chính là vì để ngộ ra được chân Pháp chân Đạo trong tâm của mình.
Tôn Ngộ Không bản tính ngang tàng, tựa như trông mỗi con người chúng ta đều có một tính khí tương tự. (Ảnh: Youtube)
4. Chân Pháp chân Đạo ngay ở trong tâm
Khi vân du tầm sư học Đạo, Ngộ Không tìm được Bồ Đề Tổ Sư ở đâu đây? Trong sách viết là ở núi Phương Thốn, Linh Đài, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Câu này nói đến là chữ “tâm” (心), người thời xưa thường nói “tâm” thành “Linh đài”, còn điều mà “phương thốn” chỉ đến cũng là cái tâm của người ta. “Tà nguyệt tam tinh động” thì càng rõ ràng hơn, “tam tinh” (ba ngôi sao) chính là ba dấu chấm của chữ “tâm”, còn “tà nguyệt” (vầng trăng khuyết) chính là một nét bút bên dưới. Mỹ Hầu vương trải qua biết bao muôn vàn khó khăn gian khổ, cuối cùng đã tìm được Chân Pháp chỉ đạo tu luyện chính là ở ngay trong tâm.
Cũng giống như việc tụng kinh, niệm Phật mà Bồ Đề Tổ Sư nói, chẳng qua chỉ là “trồng cột trong vách”, còn như tham thiền, đả tọa thì như “hòn đất trong lò”. Không có tu trì tâm tính một cách thiết thực vững chắc ngay trong cuộc sống hiện thực này, thì mọi việc thành ra đều uổng công cả.
Tôn Ngộ Không theo Bồ Đề Tổ Sư tu Đạo hơn 20 năm, tu thành Thái Ất tản Tiên. Đây cũng là chỉ người vừa mới bước vào cánh cửa tu luyện, rất nhiều các thứ thần thông thuật loại đều đã xuất lai. Nhưng còn về vấn đề tâm tính và ma luyện vượt quan, phía trước Ngộ Không vẫn còn là cả một chặng đường dài.
Nếu Tôn Ngộ Không chính là tâm, có một câu nói gọi là “lòng vượn khó trói buộc”. Tâm của con người ta hệt như núi sông đảo lộn, tạp niệm trong tâm cùng phát một lúc, nghĩ ngợi đủ thứ. Những lúc không có bản sự thì không có gì để nói, còn một khi đã có bản sự rồi, hãy xem y lên trời xuống đất, được ban danh hiệu “Tề Thiên Đại Thánh” vẫn còn chưa thỏa lòng. Cuối cùng đại náo thiên cung, bị Phật Tổ Như Lai hàng phục, đè dưới núi Ngũ Hành 500 năm.
Cũng may sau khi trải qua 500 năm ấy, cuối cùng Ngộ Không cũng giật mình tỉnh ngộ. Ngộ Không nói với Quan Âm Bồ Tát đến khuyến hóa rằng: “Tôi đã biết lỗi rồi, cúi xin Đấng Đại Từ Bi chỉ cho một con đường, từ nay tình nguyện tu hành”. Từ đó Ngộ Không đi theo Đường Tăng thỉnh kinh, tu tâm phóng hạ chấp trước, vượt qua trùng trùng ma nạn, cuối cùng từ một yêu tiên đã chứng đắc được quả vị Phật Đà.
Tôi đã biết lỗi rồi, cúi xin Đấng Đại Từ Bi chỉ cho một con đường, từ nay tình nguyện tu hành. (Ảnh: Youtue)
5. Định trụ lòng vượn, trừ bỏ mọi can nhiễu bên ngoài
Trong hồi thứ 14, “Lòng vượn quy chính, sáu giặc mất tăm”, thầy trò trên đường gặp phải sáu tên giặc, tên gọi là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) – đây chính là lục căn. Ngộ Không đánh chết chúng, lại bị Đường Tăng trách mắng, Ngộ Không không thể chịu được liền bỏ đi. Sau đó, Bồ Tát đã ban cho Tam Tạng một chiếc vòng kim cô, và một bài Khẩn Cô Nhi Chú, cũng gọi là “Định Tâm Chân Ngôn”, từ đó mới quản được “lòng vượn” này.
Là một con người, chúng ta thông qua thân thể và cảm quan để nhận biết thế giới. Nhưng cùng lúc cảm nhận cũng mang đến sự quấy nhiễu đối với cái tâm, từ đó sản sinh ra thất tình lục dục. Ngộ Không đã thấy được điểm này, bèn ra sức đánh chết chúng, nào biết chăng làm như vậy chỉ có thể trị được cái vỏ bề ngoài chứ không thể giải quyết tận gốc được. Suy cho cùng, đây vẫn là hướng ngoại mà cầu, bởi vậy Đường Tăng không chút cảm kích nào.
Nếu muốn trừ bỏ can nhiễu, vẫn cần phải đặt công phu vào cái tâm. Biện pháp thật sự chính là “định tâm”, bởi vậy Bồ Tát đã truyền thụ “Định Tâm Chân Ngôn” cho Đường Tăng, cũng chính là muốn tu bỏ cái tâm đó. Một khi cái tâm được quy chính rồi, can nhiễu bên ngoài tự nhiên cũng sẽ không khởi tác dụng nữa.
Từ đó sẽ làm được mắt nhìn thấy mà không vui, tai nghe thấy mà không giận, mũi ngửi thấy mà không yêu thích, lưỡi nếm mà không nghĩ tưởng, ý thấy mà không mong cầu, tấm thân cũng không cần phải lo nghĩ. Làm một người tu luyện, điều cần làm trước tiên chính là quản tốt cái tâm của mình. Sau khi cái tâm định trụ lại rồi, lòng vượn sẽ thời thời khắc khắc nhắc nhở Đường Tăng thân phàm mắt thịt phải làm chủ chính mình.
Ví như trong hồi thứ 43, Đường Tăng bởi nghe thấy tiếng nước réo ầm ầm, sợ hãi giật mình kinh sợ, Ngộ Không nói với Đường Tăng: “Chúng ta là những người xuất gia, mắt không nhìn sắc, tai không nghe thanh, mũi không ngửi hương, lưỡi không nếm vị, thân không biết nóng lạnh, ý không còn vọng tưởng. Như vậy mới gọi là từ bỏ sáu giặc. Giờ đây sư phụ đi cầu kinh mà cứ nơm nớp trong lòng sợ yêu quái, không chịu xả thân, lưỡi muốn ăn bữa chay, mũi ngửi mùi thơm ngọt, tai ưa nghe âm thanh, mắt ngắm nhìn sự vật, sáu giặc ầm ầm kéo đến, thì làm sao mà sang phương Tây lễ Phật được?”.
Lúc cảm nhận sự đời cũng mang đến sự quấy nhiễu đối với cái tâm, từ đó sản sinh ra thất tình lục dục. (Ảnh: Youtube)
6. Thu phục ý mã, dứt bỏ cái tâm cuồng vọng
Có câu nói “tâm viên ý mã” (lòng vượn ý ngựa), sau khi lòng vượn quy chính rồi, thì ý ngựa nhất định phải thu hồi dây cương, trong phần thu phục Bạch Long Mã cũng có câu “ý mã thắng cương”. Nhưng thu phục ý mã lại khá tốn công phu, nguyên nhân vì sao? Chỉ là bởi sự kiêu căng ngạo mạn thái quá của Tôn Ngộ Không!
Ngộ Không bản tính là cao ngạo, quả đúng là người đến từ Ngạo Lai quốc. Thiên đình phong cho chức quan “Bật mã ôn” còn chê nhỏ, muốn làm Tề Thiên Đại Thánh; làm được Tề Thiên Đại Thánh rồi, lại cuồng vọng muốn đuổi Ngọc Hoàng đi. Ngộ Không ở trong lòng bàn tay của Phật Tổ nhảy cân đẩu vân, tưởng rằng đã đến được nơi tận cùng của trời đất, đã viết trên đó rằng “Tề Thiên Đại Thánh đã đến đây vui chơi” – cái tâm ngạo mạn có thể thấy được trong những lời này.
Loại ngạo mạn này trên thực chất chính là bởi trong tâm có sự bất kính đối với Thần Phật. Bất cứ pháp môn tu luyện Chính Pháp nào đều giảng như vậy, con người ở thế gian đều không tách khỏi sự bảo hộ trông nom của Thần Phật. Nhưng con người ở trong mê, không biết hết thảy những gì bản thân có được đều là đến từ sự bảo hộ của Thần Phật, trái lại lại cảm thấy bản thân mình rất có bản sự. Con người ta một khi đã có cái tâm ngạo mạn rồi, vốn không chỉ là sự cao ngạo với người nào hay sự tình nào đó thôi đâu, mà là trong mọi ngôn hành đều sẽ thể hiện ra cái tâm ngạo mạn đó.
Trong Tây Du Ký giảng, Đường Tăng nguyên vốn là Kim Thiền Tử, đệ tử thứ hai của Như Lai Phật Tổ, bởi vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đày xuống hạ giới. Kim Thiền Tử vì sao lại khinh mạn Phật Pháp, đó không phải bởi ông có tâm ngạo mạn rồi mới dẫn đến sự khinh mạn ấy hay sao? Kết quả cuối cùng là bị đày xuống hạ giới, tu hành lại từ đầu. Còn sự cuồng vọng ngang ngược của Tôn Ngộ Không, kết quả cuối cùng là bị đày dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm.
Trong quá trình thu phục ý mã, những trắc trở và khó khăn gặp phải cũng chính là để trừ đi cái tâm tự đại và ngạo mạn của Đường Tăng và Ngộ Không. Nếu không có cái tâm tự đại, vậy thì chính như Quan Âm Bồ Tát đã nói: “Con khỉ kia chỉ chuyên cậy sức khỏe, có chịu khen ai bao giờ đâu. Lần này đi trước còn có người quy thuận nữa đấy. Nếu có ai hỏi, thì phải nhớ trả lời ngay là đi ‘lấy kinh’. Như vậy người ta quy phục liền, có đỡ nhọc sức không?”. Ngộ Không vui vẻ nhận lời, cũng là bởi tự thân đã biết mình sai.
Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
Vũ Dương biên dịch
https://mb.dkn.tv/van-hoa/6-bi-mat-c...uoc-la-ai.html
-
Tản mạn về lá cờ
10
TH9
ĐỨC CHÍNH
Cờ là một biểu hiệu cho một thực thể hay một sắc lệnh, trong khi phướn mang ý nghĩa tâm linh nhằm triệu thỉnh và tiếp dẫn theo ý nghĩa hàng chữ ghi trên nó. Cờ thường gắn dọc một phần cán, còn phướn chỉ treo ở đầu cán. Cũng có trường hợp gọi là “kỳ” nhưng có cán phụ đính lá cờ và treo trên đầu cán chính nên trông như phướn: ví dụ Long Tinh kỳ, cờ ngũ sắc. Cũng lưu ý Long tinh kỳ thay đổi hình dáng nhiều lần. Vì thế sự phân biệt giữa cờ và phướn nên dựa vào phần đuôi: cờ không có đuôi (trường hợp cờ tinh có rìa viền quanh toàn bộ lá cờ), phướn có các dải đuôi dài, có khi là đuôi nhọn hay xẻ đuôi cá.
Tiếng Việt gọi gộp chung là cờ, thực ra có nhiều loại cờ và mỗi loại có tên tiếng Hán riêng.
– Cờ gọi là “kỳ” (旗): là loại cờ thông thường. Cụ Thiều Chửu định nghĩa: Cờ, dùng vải hay lụa buộc lên cái cán để làm dấu hiệu gọi là kỳ. Cờ kỳ là biểu trưng cho một thực thể, ví dụ quân Thanh có 8 bộ tộc hợp lại, mỗi bộ tộc có một cờ riêng nên gọi là bát kỳ. Quốc kỳ, đạo kỳ, … cũng theo nghĩa này.
– Cờ gọi là “đạo” (纛): là cờ lệnh vua ban. Cụ Thiều Chửu định nghĩa: Cờ tiết mao, Vua đi cắm một cái cờ ở bên tả xe gọi là tả đạo 左纛; Cái cờ cái, kéo ở trung quân cũng gọi là đạo, cũng đọc là độc. Khi ra quân vua ban cho lá cờ để xuất quân gọi là “đạo’ và trước khi đi làm lễ Tế kỳ đạo. Loại cờ này bao gồm 2 loại: cờ mao và cờ tiết, cờ mao bên trái và cờ tiết bên phải. Các quan khâm sai đời xưa được ban cho cờ mao và cờ tiết làm hiệu lệnh của vua đi thi hành công việc, nên đều thêu tên và chức vị rõ ràng. Cờ gọi là “mao” (旄): cờ ngọn lông. Cụ Thiều Chửu định nghĩa: Cờ mao, cờ có cắm lông đuôi con bò tót vào cán gọi là cờ mao. Nay thường dùng tao sợi để gắn vào. Cờ gọi là cờ “tiết” (薛): cũng tương tự như cờ mao, có tua ở đầu. Về hai cây cờ này Nguyễn Nhược Pháp có hai câu: “Hiu hắt cờ bay, tua phơ phất, Binh lính hò reo gầm bốn phương”.
– Cờ gọi là “xí” (幟): tức cờ hiệu. Từ này đồng nghĩa với chữ “phiên” (翻) hay dùng trong chữ kép “phiên hiệu”. Mỗi đạo quân, cơ quan có cờ hiệu riêng gọi là xí, ngày xưa khi thượng cờ xí phải thượng cờ đạo. Do vậy người Việt có từ “cờ xí” chỉ tất cả các lá cờ. Còn khi đi sứ thì cờ hiệu là cờ tinh. Cờ gọi là “tinh” (旌): cờ đầu cán có gù, quanh cờ có rìa viền trang trí (như hình Long Tinh kỳ). Ðời xưa ai đi sứ cũng cầm một cái cờ tinh đi, nên gọi kẻ đi sứ văn tinh 文旌 hay hành tinh 行旌. Người có đức hạnh gì đáng khen vua cho dựng nhà treo biển để tiêu biểu gọi là tinh. Từ “tinh kỳ” vì thế mà có. Thường cờ gọi là xí thêu phiên hiệu quân như “Trung quân”, “tả quân”, … còn cờ tinh thêu chữ “sứ”.
Nghi thức Lỗ bộ phải có 5 thứ cờ phướn: trang, phan , tinh, kỳ, mao, tiết. Đi đầu bên tả là cờ mao và bên hữu là cờ tiết để nghi vệ cho lệnh của Thần. Kế đến là cờ tinh (trong lễ hội là cờ thần) và cờ kỳ (ở Việt Nam là cờ ngũ sắc) để hiệu triệu quỷ thần dọc đường biết là đấng nào đi qua, tràng phan ghi những sắc phong hay câu kinh để nói oai linh của chư thần. Thời xưa Trung Hoa và Việt Nam có nhiều loại cờ nhưng không có cờ chung cho cả nước, chẳng có tư liệu nào nói điều này kể cả nhà bác học có nhận xét tinh tế như Lê Quý Đôn. Có thể thấy điều này qua nghi trượng của mấy vua triều Nguyễn đầu tiên. Khi vua và hoàng tộc du hành rất nhiều loại cờ dùng làm lỗ bộ nhưng Hội Điển Sự Lệ không hề nói đến cờ nước Việt Nam: Long kỳ (cờ thêu rồng), Phụng kỳ (cờ thêu phượng), cờ Cảnh Tất, cờ Tả đạo, cờ Nhị thập bát tú, cờ Ngũ sắc, cờ Huy hoàng, cờ Nhật nguyệt hợp tinh, cờ Minh phượng, cờ Hòa loan, cờ Ngự thủy, cờ Phong vân, cờ Quế tử lan tôn, cờ Phúc như đông hải, … (Hội điển Sự Lệ, quyển 79 – Nghi vệ)
Trong Phật giáo Bắc truyền có loại cờ gọi là “tràng” tức loại cờ dài; “tràng, phan, bảo cái” (cờ, phướn, lọng) là những thứ không thể thiếu trong một nghi lễ lớn. Nhìn chung trong tín ngưỡng có mấy loại cờ sau:
1.- Đạo kỳ (cờ đạo, nếu có): là cờ biểu trưng riêng cho một tôn giáo hay giáo phái.
1.1.- Phật giáo có lá cờ riêng, gọi là cờ ngũ sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng và cam). Năm màu này tượng trưng cho năm sức mạnh gọi là ngũ lực: màu xanh tượng trưng cho Tín (lòng tin), màu vàng tượng trưng cho Tấn (sự cần mẫn), màu đỏ tượng trưng cho Niệm (phép quán niệm), màu trắng tượng trưng cho Định (sự tập trung tâm ý) và màu cam tượng trưng cho Tuệ (ánh sáng giác ngộ). Điều lý thú lá cờ này do một cư sĩ đại tá quân đội Mỹ Henry Steel Olcott đề nghị tại Tích Lan vào cuối thế kỷ thứ mười chín và được các nước Phật giáo chấp nhận. Ông này trước đây lại trong Hội Truyền giáo của Cơ Đốc giáo và là người sáng lập Hội Thông Thiên Học.
Cờ Vatican
Cờ Vatican
1.2.- Cờ Công giáo, tức Cờ Tòa Thánh hay cờ Vatican có hai phần: vàng và trắng. Màu vàng và trắng khi được dùng trong bảng huy hiệu thường tượng trưng cho hai kim loại quí từ thời rất xa xưa đó là vàng và bạc. Ở giữa phần trắng có huy hiệu của Đức Giáo Hoàng gồm có mũ Giáo Hoàng và hai chìa khóa thánh Phêrô.
Cờ Đạo Cao Đài
Cờ Đạo Cao Đài
1.3.- Cờ đạo của Cao Đài có ba màu vàng xanh đỏ (nên còn gọi là cờ tam thanh): phần trên hết là màu vàng, phần giữa màu xanh và phần dưới màu đỏ. Trên phần màu vàng có thêu 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ bằng chữ Hán màu đen, trên phần màu xanh có thêu Thiên Nhãn và Cổ pháp Tam Giáo (Xuân Thu, Phất chủ, Bát vu). Ý nghĩa tam thanh như sau: Thái Thanh, sắc vàng phái Phật, Cổ pháp Bình Bát Vu; Thượng Thanh, sắc xanh phái Tiên, Cổ pháp Phất chủ; và Ngọc Thanh, sắc đỏ phái Thánh, Cổ pháp Bộ Xuân Thu.
1.4.- Cờ đạo của Hòa Hảo rất đơn giản, chỉ là tấm vải màu dà. Màu dà tượng trưng cho Phật giáo, còn không có hình chữ nói lên ý nghĩa lời dạy sống đơn giản không phô diễn nghi thức của Đức Thầy.
1.5.- Đạo giáo do nguồn gốc tự phát từ dân gian nên có nhiều phái độc lập nhau, hình như không có lá cờ biểu tượng chung. Tùy mỗi phái có thể tự chọn một lá cờ riêng, thường là hình thái-cực âm dương hay bát quái. Khổng giáo chẳng có cờ riêng.
2.- Cờ ngũ sắc hay cờ lễ hội: hình vuông hay hình tam giác, có 5 màu lồng vào nhau: trong cùng màu vàng, đến màu đỏ, màu xanh lá, màu trắng và màu xanh lam; viền ngoài là tua rìa màu đỏ. Hiện nay có nhiều lá cờ ngũ sắc tháp màu sai, màu lá cờ có nền vàng ở giữa như hình trên là màu chính thống cho cờ lễ, đó là màu đại diện cho Việt Nam. Các màu sắc này không tuân theo ngũ hành mà có nguồn gốc xa xưa từ Mật tông Tây Tạng truyền thừa vào nước ta[1]. Năm hình vuông đó chính là kim cang giới mạn-đà-la Ngũ trí Phật, mỗi màu tượng trưng cho một vị phật: Trung ương là Đại Nhật Phật màu trắng, phía Đông A Súc Bệ Phật (còn gọi là Bất Động Phật) màu xanh lam, phía Nam là Bảo Sanh Phật màu vàng[2], phía Tây là A-di-đà Phật màu đỏ, và phía Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật màu xanh lục. Nguyên lai Mạn-đà-la của Bà-la-môn giáo hình tròn, sang Phật giáo biến cách có khi tròn có khi vuông hay tam giác, nên lá cờ ngũ sắc thường là vuông và có khi tam giác. Thứ đến, do vị trí Việt Nam ở hướng nam Tây Tạng nên lấy màu vàng làm chủ đạo và đồng thời lý giải vì sao có đến hai màu xanh. Trong tiềm thức, các phật tử vẫn cứ dùng lá cờ ngũ sắc trong các buổi lễ Phật giáo dù không giải thích được do lãng quên. Vấn đề này không phải chỉ là ước đoán, trong Hội Điển Sự Lệ[3] ghi năm Minh Mạng thứ 7 có quy định: “chuẩn lời tâu về cờ đài kinh thành, chế dùng cờ to trừu[4] lông vàng tươi, rộng 10 thước dài 11 thước 5 tấc” [Cuốn 13, trang 481], và cũng trong năm này mô tả cụ thể hơn: “Cho cờ trụ lớn kỳ đài trong lòng bằng 5 khổ trừu lông màu hạnh hoàng để đo đều dài 7 thước 5 tấc 5 phân, nối trừu lông các màu lam. lục, trắng đều rộng 3 tấc 5 phân, viền trừu lông đỏ có hoa rộng 8 tấc, tính ra dài suốt 9 thước 5 tấc rộng 9 thước 1 tấc” [trang 485]. Đó chính là màu lá cờ vuông ngũ sắc truyền thống chí ít trên 100 năm trước đây nền giữa lá cờ là màu vàng và không có ngôi sao nào cả.
Thêm nữa, điều này kiến giải vì sao tâm thức Việt hay lấy màu vàng làm nền mà ít ai quan tâm nguyên do; ví dụ khi nói đến Bà Triệu là “Đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Văn học không thiếu màu cờ này, Nguyễn Nhược Pháp mô tả cảnh Nguyễn Biểu từ giả vua Trùng Quang đi sứ, có câu:
Sứ bỗng nhìn quanh buồn ủ rũ,
Xa xa ngọn cờ vàng phất phơ.
Cho nên cờ đời Nguyễn, với tầng lớp quan lại Nho học cao thâm lựa chọn, luôn lấy màu vàng làm nền. Lẽ đương nhiên một người học rộng hiểu sâu như Trần Trọng Kim không phải không suy nghĩ khi lên làm thủ tướng đã chọn nền màu vàng cho lá quốc kỳ có quẻ ly màu đỏ.
Thế nhưng, trên Wikipedia có người viết không chuẩn xác về lá cờ này, nội dung như sau: “Thời Hùng Vương, nước Văn Lang là một quốc gia theo mô hình sơ khai liên bang, tức là liên minh giữa các bộ lạc. Các bộ lạc có sự ràng buộc lỏng lẻo, mỗi “bang” (bộ lạc) có nền kinh tế và quân sự gần như độc lập do điều kiện địa lý và phương tiện vận chuyển thời bấy giờ còn thô sơ. Những lá cờ của các bang, còn gọi là cờ Ngũ sắc, cờ lễ hội, cờ truyền thống…, tùy theo phương vị mà chọn màu ở trung tâm và sao xác định phương vị của bang đó]. Thí dụ: Bang phương Bắc có sao Huyền Vũ ở trung tâm lá cờ có sắc màu xanh dương. Bởi vậy, cờ truyền thống cách đây 100 năm còn vẽ, hoặc thêu các chòm sao trên đó” (2012).
Bài này có mấy điểm đáng ngờ: a) Chưa có sử liệu chính thống và di chỉ khảo cổ nào nói đến lá cờ Văn Lang[5], b) Thuở Hùng Vương nước chia làm 15 bộ[6], nếu mỗi “bang” có 1 lá cờ thì phải có 15 cờ và như vậy an theo phương theo bài viết có nhiều bất ổn. Và các di chỉ khảo cổ cho thấy ngoài Mặt trời trên trống đồng thời Hùng Vương không có tục thờ sao nên không thể có hình các sao ở giữa và như dẫn chứng ở trên chắc chắn thời Nguyễn cờ Ngũ sắc không có nền đỏ ở giữa với hình ngôi sao; và c) Khái niệm Huyền Vũ màu xanh lam hoàn toàn sai vì tượng Huyền Vũ là rùa rắn có màu đen. Hơn nữa thời Hùng Vương chưa có mối giao lưu đến mức chịu ảnh hưởng “Huyền Vũ Trung Hoa” như gán ghép.
3.- Cờ lệnh: các đạo sĩ dùng lá cờ này để điều động binh tướng (âm binh) thi hành lệnh ban ra. Hình thái này nhái theo cờ lệnh của triều đình giao cho sứ giả đi thi hành công việc. Cờ lệnh Đạo giáo thường hình tam giác, luôn có thêu hình chữ bùa để làm hiệu lệnh sai khiến thế lực siêu hình hành động. Trong các buổi lên đồngthỉnh thoảng thấy thanh đồng đeo sau lưng các lá cờ, đó là “cờ lệnh” của vị thánh giáng đồng. Cờ ngũ phương (ngũ phương kỳ): là 5 lá cờ có màu theo Ngũ hành dùng để trấn năm góc đàn tràng khi bài bố đàn tràng theo ngũ hành, có thêu chữ bùa, cũng là loại cờ lệnh.
Còn cờ lệnh của Phật giáo gọi là “tràng” (幢), nghĩa là lá cờ dài. Theo cụ Thiều Chửu nói: Cái tràng, một thứ cờ dùng làm nghi vệ. Nhà Phật viết kinh vào cờ ấy gọi là kinh tràng 經幢, khắc vào cột đá gọi là thạch tràng 石幢. Ở Phật giáo các lá tràng đều ghi một câu kinh như là hiệu lệnh của Phật pháp cho chúng sinh, quỷ thần phải tuân phục. Khảo cổ cho thấy đời nhà Đinh có một thạch tràng khắc dòng chữ “Phật Ðính Tối Thắng Già Cú Linh Nghiệm Ðà La Ni”, còn chùa Nhất Trụ vẫn lưu lại Thạch Tràng đời Lê Đại Hành như hình trên.
Tháng 8 năm 2012
[1] Mật tông truyền vào Việt Nam trễ lắm vào thời nhà Đinh[1] và sau đó nổi tiếng có những thiền sư Đạo Hạnh, Minh Không, … Nói trễ nhất vào đời nhà Đinh vì mốc này dựa vào chứng cứ khảo cổ cột khắc chân ngôn Đà-la-ni của Đinh Liễn. Điều này cho thấy Mật tông có mặt trước Đinh Liễn rất lâu mới có tác động lớn đến vua chúa như vậy.
[2] Lấy nền là màu đỏ là do “ảnh hưởng” Ngũ hành của Trung Hoa, điều này làm lá cờ trở nên mâu thuẩn vì Việt Nam không ở phương tây của Tây Tạng (mạn-đà-la Phật giáo không có ở Ấn Độ). Có lẽ đây là “sáng chế” của những nhà nghiên cứu bị nhiễm văn hóa Trung Hoa và cũng có thể mang tính tuyên truyền của nhà nước XHCN vì chỉ mới thấy màu này xuất hiện từ năm 2000. Chúng ta nên lưu ý từ khi giành độc lập, nhà Đinh, Lý và Trần luôn cố hạn chế ảnh hưởng Trung Hoa, kể cả bằng việc du nhập văn hóa Chiêm Thành để cân bằng. Các tài liệu cho của các nhà nghiên cứu người Pháp đều ghi lá cờ ngũ sắc lấy màu vàng làm nền ở giữa.
[3] Nguyên chữ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, do Nội Các Triều Nguyễn biên soạn, Cao Huy du Dịch, nhà xuất bản Thuận Hóa phát hành năm 1993.
[4] Trừu: một thứ lụa.
[5] Thuở xưa khi đi sứ thường cầm theo cờ tinh, đó không là quốc kỳ mà là cờ hiệu phái đoàn do vua ban. Đến đầu triều Nguyễn cũng chưa có quốc kỳ nên khi phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp lúng túng về chuyện này. Mau trí đoàn sứ thần lấy vải bọc tay nải màu vàng đền ba chữ “Đại Nam Quốc” làm cờ để cho đúng nghi lễ. Chẳng hiểu sao sứ đoàn không mang theo tinh kỳ, lấy tinh kỳ thay vẫn hay hơn. Sau đó nhà Nguyễn mới làm cờ nước; tương tự Trung Hoa đến đời Thanh mới có quốc kỳ.
[6] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói Văn Lang chia làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức.
*MỤC LỤC – NHỮNG BÀI VIẾT CỦA ĐỨC CHÍNH
https://nguyenducchinh.wordpress.com...-man-ve-la-co/
-
XIN TRỪ GIÚP VONG QUỶ MỊ
Chưa xemBởi needinghelp - Thứ 2 Tháng 8 29, 2011 12:24 pm
Vì em là thành viên mới của diễn đàn này nên mạo muội đăng topic khi chưa biết phải đăng chỗ nào, xin các Mod hãy từ bi hãy khoan đừng xoá bài của em, vì đây là một lời kêu cứu rất mực tha thiết em xin kính gửi đến các vị, xin hãy cứu giúp em, em đang trong tình trạng rất hoảng loạn.
Hiện tại trong người em đang tồn tại một vong quỷ mị đang cố cướp xác em hay là cố dùng ma lực để điều khiển em, em cũng ko rõ, tất cả đều chỉ là giả thuyết.
Vào tháng 3 Âm Lịch năm nay, em gặp một nạn duyên, quen biết được một ông thầy tu bên phái Mật Tông (nói là thầy chứ thật ra chỉ mới 22 tuổi) gặp em ở quán cafe và bảo rằng em đang bị 1 cái vong theo em đã 3 kiếp rồi, nếu em ko trục ra thì sẽ rất nguy hiểm cho em sau này, lúc đó tâm trạng em rất hoảng loạn và suy luận một cách thiển cận "uhm, chắc có lẽ chuyện tình duyên mình trục trặc là do điều đó" mặc dù từ trước tới giờ, em chưa một lần nằm mộng thấy ma, quỷ hay bị bóng đè, em hoảng loạn và đồng ý để ông thầy đó trục vong, và ông ta bảo là :
- "Bây giờ em muốn trục vong phải để anh áp vong vào người để hỏi cớ sự, hỏi ý vong thích đi đâu, theo đâu, còn nếu trục đại ra tội lắm, phải cho áp vong vào người anh mới làm"
Em đồng ý và ông ta hẹn tiến hành lễ trục vong tại nhà (phòng riêng) của ông ta. Ngày hôm sau giấc trưa em qua nhà ông ta, ông ta mặc y phục áo choàng nâu đỏ dài xuống chân mà theo ông ta bảo đó là y phục của người tu Mật Tông, ông dán nhiều lá bùa trên tường, và trên cánh tay trái có xâm chữ Om mani padme hum bằng tiếng Tây Tạng, ông ta dùng 3 cây nhang, đọc thần chú gì đó mà em nghĩ là bằng tiếng Tây Tạng, kêu em nhắm mắt lại, bỏ hết những vật dụng manh tính chất phật giáo hết ở trên người ra, nhắm mắt lại tập trung nghĩ đến vong đó và quán tưởng những hình tam giác đang hiện ra trước mặt. Sau đó em thấy cả người lạnh, run lên, và có những chuyển động rất nhẹ nhàng, bất thường, (mà ông ta bảo là vong vào em từ đường hông) lúc đó em sợ lắm và khóc, thỉnh cầu vong nếu đã theo em 3 kiếp vì tình yêu thương thì đừng làm em sợ, vong gật đầu nhẹ nhàng (cùng lúc đó đầu em cũng gật theo), lạ là vong này ko thể mở miệng nói chuyện được khi trong người em, chỉ có thể gật gật lắc lắc biểu hiện cho sự đồng ý và ko đồng ý, cũng có nói được lơ lớ bằng tiếng Việt có một chút tiếng Hoa nhưng rất ít, thường là nói ra theo suy nghĩ của em khởi lên, tay chân có cử động được nhưng rất yếu (mà đến giờ em ngộ ra là có lẽ đạo pháp của ông thầy đó ko đủ để áp vong hẳn vào người em, nếu không thì em đã ko làm chủ được bản thân mình và ý thức mọi thứ rõ ràng đến thế), lúc đó vong chỉ chi phối em khoảng 40%, còn lại em làm gì cũng tuỳ thích, dù là vong đang trong người em, ví dụ như em có thể bắt máy điện thoại khi mẹ gọi, hay dùng tay vén tóc em lên.
Sau đó em xin được nói chuyện với vong và hỏi vong một vài chuyện, cuộc nói chuyện nó diễn ra khá lâu, vì em thấy rất lạ lùng, và ko cảm thấy hoảng sợ như ban đầu nên em có thể mạnh dạn trò chuyện và hỏi vong, thì sau những câu hỏi là cái gật và lắc đầu. Khi tàn, ông thầy đó làm một cái lễ để thu nhận vong linh đó đi theo ông ta tu học (mà theo ông ta nói là vong linh này ko muốn vào chùa, chỉ muốn theo ông ta tu học), ông ta ngồi đấu mặt lại với em, kêu vong chắp tay lại và hỏi vong có chịu theo ông ta làm đệ tử hay không, vong gật đầu rồi ông ta quàng cái khăn trắng lên cổ em (mà theo ông ta bảo, khi vong xuất ra thì cái khăn này vẫn còn trên cổ vong) rồi đưa em cái khăn đó về cất.
Mọi việc sau đó cũng bình thường ko có gì, đùng khoảng 2 tháng sau, ông ta bảo đã gửi vong lên núi cho một Đạo Sĩ rồi, thì em luôn có linh tính bất an là vong đó sẽ kiếm em, thì y như rằng một tối hôm em chợt có những khởi niệm về vong ấy thì bị nhập vào, kể từ đó ko ra khỏi người em nữa, ở lì trong người em, dù ko điều khiển và chi phối được em bao nhiêu (nhưng em ko chắc có phải là nhập hay tá nhập, hay dùng ma pháp điều khiển em?) vong dùng tình cảm để đánh lừa em, làm em tưởng rằng vong rất tốt, vong biết tu tập, và em hứa sẽ giúp vong mọi thứ, sẽ cho vong ăn uống rồi gửi vong lên chùa, nhưng đáp lại chỉ là sự dối trá, khi không còn dụ em được bằng tình cảm thì dùng ma pháp để điều khiển hay chiếm hết cả thân xác em, trong thời gian đầu tháng 6 ÂM LỊCH em cứ ngỡ mình sẽ phát khùng, vong làm giọng nói em thay đổi, làm mặt mày em thay đổi (như 1 ng đàn ông) và chỉ cần em bị ai la một chút thì em lại rất dể nổi giận, gào thét, khóc lóc và mất bình tĩnh hoàn toàn, người em rất nặng nề và đau đớn.
Nhưng hên rằng em còn biết tìm đến Phật Pháp, em cố gắng trì kinh, ăn chay và lên chùa Linh Quang Q.4 để đi kinh hành, lạy phật và nghe thuyết pháp, uống nước do các sư chú nguyện, đeo vòng trì chú để bảo vệ, lâu sau chỉ bớt mà không hết, tức là bình thường em ko nghĩ đến vong thì ko sao, mà nghĩ đến thì nó lại điều khiển, khiến tay chân, đầu cổ, miệng mắt em nhúc nhích kì quặc. Thì một thời gian lâu sau nữa em cố gắng trì kinh nữa, thì hiện giờ nó chỉ có thể điều khiển vài bộ phận trên cơ thể em, như 2 tay, và cổ. Em cứ ngỡ là mọi thứ sẽ chóng hết.
Ai dè thời gian gần đây, em bị nặng đầu, người lúc nào cũng có cảm giác say rượu rất đau đớn, nhức đầu, mệt mỏi, em cầu cứu hết người này đến người khác cũng 6,7 người, ko ai giúp đc gì em cả mà lại còn làm em đau đớn nhiều hơn, mệt mỏi nhiều hơn, tiền mất tật mang, và cứ hi vọng này le lói thì lại chợp tắt, sau đây là những cách em đã thử :
- Đi chùa Linh Quang, quy y, pháp danh Diệu Bảo và được hoà thương Thích Từ Giang chấm 4 chấm lên đầu và bảo về nhà hãy chăm chì trú Đại Bi.
- Đi chùa Giác Vương ở Q.12 được hoà thượng làm phép cho uống 7 lá bùa và 1 dây đeo cổ (mà theo em biết đó là chỉ ngũ sắc)
- Được một thiện tri thức khuyên trì kinh nào trì kinh nào, ví dụ như Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, kinh Kim Cang, chú Đại Bi, chú Chuẩn Đề...v...v...
- Đi một thầy bà, bị cạo gió, rạch da thịt bằng sứ nặn máu ra, mà theo thầy bà đó là em bị bùa ngải, bệnh ko bớt mà tay chân em đau đớn vô cùng, vì nhỏ đến giờ em có cạo gió đâu. Sau em mới ngộ ra đó là hoàn toàn mê tính và tự chuốc hoạ vào thân, nhưng làm sao đây, khi trong ranh giới nay sống mai chết mà em ko thử, dù khi đến em đã biết là họ ko phải là người có thể giúp đỡ mình.
- Đi Quan Âm Tu Viện làm lễ quy y cho vong nam này, vong này được đặt pháp danh là Minh Ngộ, sư cô Huệ Đức đã hết lòng khuyên răn, nhưng kết cục nó vẫn theo em.
- Cúng bái, làm hình nhân thế mạng.
- Gặp được một người bạn tu Mật Tông và khuyên em hãy điểm đạo, nhưng em ko dám điểm đạo vì kiến thức còn rất nông cạn, em sợ lại mắc sai lầm vì cái tội non nớt của mình.
Mọi thứ trên kia chỉ có thể kiềm hãm, ngăn lại, mà ko thể giúp vong rời khỏi xác em một cách hoàn toàn. Giờ khi em đang đánh hết bài này, em rất mệt mỏi, mờ mắt, nhưng em cố gắng tiếp tục cầu cứu, có rất nhiều giả thuyết :
1. Ông thầy đó rắp tâm hại em, sai âm binh chiếm xác em đi đến nhà ông ta để luyện Thiên Linh Cái, em nghĩ là không, vì em biết và mọi người biết trình độ của ông ta rất non kém, và có thể em bị vậy là do ông ta ko hề biết vậy, ko hề muốn vậy.
2. Vong này ko thể nhập vào em, chỉ đứng bên ngoài dùng ma lực để sai khiển, chọc phá, quậy phá em, vì khi vong nhập, em điều khiển và chi phối đc vong, ko phải vong chi phối đc em, vì theo em biết, khi người ta bị nhập hoàn toàn, người ta ko nhớ gì cả và ko ý thức đc hành động của mình.
3. Vong này đang bị vướng vào người em, ko thể ra được, chứ ko có ý làm hại em. Theo như em đc biết thì vong nhập từ đường hông trái của em.
Hiện giờ em rất mệt mỏi, em còn phải có cuộc sống, việc học, mà em luôn phải mệt mỏi, đau đầu, nóng sốt và lờ đờ, mơ màng, dương khí suy yếu em sợ 1 ngày em sẽ chết vì kiệt sức.
Em thành khẩn và tha thiết xin các vị hãy cứu giúp em, vì em ko biết điều em đang gặp phải là gì, vì trong thời gian vong theo em, trong người em, em cũng ko mơ thấy ma quỷ hay bị bóng đè gì cả, chỉ thấy lòng bàn tay chân lạnh, nặng vai và đầu, mắt mất thần, lờ đờ (mà theo một người bạn nói trường hợp của em tuy hy hữu nhưng ko nặng, vì ấn đường còn sáng, chỉ có sơn căn là u ám, và đôi mắt mất thần), bố mẹ cho rằng em bị thần kinh và ko quan tâm đến lời em nói, dù trước kia đã từng tin em và chứng kiến những hành động kì quặc, nhưng có lẽ giờ đây bố mẹ cũng đã mệt mỏi, đau đớn, khóc lóc nhiều lắm rồi và ko biết phải làm sao nữa, chỉ biết nấu trà tim sen giúp em ngày ngày ổn định tinh thần
Em biết không phải ai cũng giúp được em, nhưng ngày nào em còn sống, em sẽ ko từ bỏ hi vọng, dù cho chuyện em đang gặp to lớn thế nào, dù bế tắc thế nào.
Nay em lên diễn đàn này viết bài với 1 lời khẩn cầu chân thành:
XIN HÃY CỨU EM.
Hiện giờ em rất khó khăn khi ngồi máy vì em rất mệt tinh thần, em chỉ có thể nằm và chat bằng điện thoại, đợi một cái ID mới xuất hiện và bảo rằng có thể giúp em, đợi chờ một hi vọng mới.
Em biết vậy là vô phép, vì ai không lại đi tìm mình để giúp mình, nhưng thật sự, em rất và rất mệt mỏi, đau đớn, xin hãy giúp em...
Read more: Xin trừ giúp vong quỷ mị http://vutruhuyenbi.com/forum/viewto...#ixzz5Bx8AveLr
http://vutruhuyenbi.com/forum/viewtopic.php?f=65&t=4565
-
TẬP TỤC THỜ CHA - MẸ ĐỘ MẠNG
Phương pháp xét theo Thiên Can:
1. Giáp - Ất :
Nam : Quan Thánh Đế Quân
Nữ : Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương
2. Bính - Đinh :
Nam : Cậu Tài - Cậu Quý
Nữ : Chúa Ngọc Nương Nương
3. Mậu - Kỷ :
Nam : Ngũ Công Vương Phật
Nữ : Phật Bà Quan Âm (còn một trường phái khác là Thánh Anh La Sát)
4. Canh - Tân :
Nam : Quan Bình Thái Tử
Nữ: Chúa Tiên Nương Nương
5. Nhâm - Quý :
Nam : Tử Vi Đại Đế
Nữ : Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương (lập lại lần nữa)
http://tamlinhhuyenbi.net/threads/t%...1%BA%A1ng.468/
==============
Quan Bình Thái Tử
(關平太子): nhân vật trung hiếu vẹn toàn, còn gọi là Linh Hầu Thái Tử (靈候太子), sanh ngày 13 tháng 5 thuộc năm đầu (178) đời vua Linh Đế nhà Hán, là con nuôi của Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa (三國演義), có kể chuyện khi Quan Công muốn đến tại Ngọa Ngưu Sơn (臥牛山) để chiêu binh mãi mã, giữa đường gặp một trang viện; vị trang chủ Quan Định (關定) có hai con trai, người con đầu tên là Quan Ninh (關定), chuyên học về văn; người con kế tên là Quan Bình (關平), chuyên học về võ. Người này vâng lời cha theo hầu Tướng Quân Quan Vũ (關羽) và tôn thờ vị này làm cha nuôi. Tánh tình ông khiêm hậu, ôn hòa, được chúng bộ hạ thương kính; hơn nữa võ nghệ của ông lại siêu phàm. Vào năm thứ 19 (214) niên hiệu Kiến An (建安), Quan Công trấn thủ Kinh Châu (荆州), phía Bắc thì đối cự với Tào Tháo (曹操), phía Đông thì hòa hoãn với Tôn Quyền (孫權). Đến năm thứ 24 (219) cùng niên hiệu trên, cha ông bị trúng kế của Lữ Mông (呂蒙), bị quân Đông Ngô bắt giam; Quan Bình thân chinh đến cứu, bị quân địch bao vây và đến tháng 12 cùng năm này, cả hai cha con đều bị hại. Mọi người cảm phục sự trung hiếu vô song của ông, tôn thờ ông cùng với Châu Thương Tướng Quân (周倉將軍) trong Miếu Quan Thánh như là vị thần hai bên tả hữu của Quan Thánh Đế Quân. Thông thường Quan Bình Thái Tử đứng hầu sau Quan Thánh Đế Quân, tay bắt Hán Thọ Đình Hầu Ấn (漢壽亭候印); Châu Thương Tướng Quân đứng bên phải Đế Quân, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao (青龍偃月刀). Như trong Đào Viên Minh Thánh Kinh (桃園明聖經) của Đạo Giáo có xưng tán rằng: “Chí tâm quy mạng lễ: Linh Hầu Thái Tử, văn kinh võ vĩ, khuôn vương hộ quốc, đức nghĩa nguy nguy, trung hiếu tiết nghĩa, toàn thọ toàn quy, kỳ huân tảo kiến ư Tây Thục, dị lược tố trứ ư Bắc Ngụy, đại trung đại hiếu, chí nhân chí dũng, bổ tạo hóa chi bất túc, tá Thánh Đế dĩ lập công, hộ triều hộ quốc, tận hiếu tận trung, Cửu Thiên Uy Linh Hiển Hóa Đại Thiên Tôn (志心皈命禮、靈侯太子、文經武緯、 王護國、德義巍巍、忠孝節義、全受 全歸、奇勳早建於西蜀、異略素著於 魏、大忠大孝、至仁至勇、補造化之 足、佐聖帝以立功、護朝護國、盡孝 盡忠、九天威靈顯化大天尊, Một lòng quy mạng lễ: Linh Hầu Thái Tử, văn võ song toàn, phò vua giúp nước, đức nghĩa vời vợi, trung hiếu tiết nghĩa, thảy đều vẹn toàn, mới lập kỳ tích nơi Tây Thục, kinh lược lừng lẫy chốn Bắc Ngụy, đại trung đại hiếu, trọn nhân trọn dũng, thêm tạo hóa còn chưa đủ, phò Thánh Đế để lập công, giúp vua giúp nước, tận hiếu tận trung, Cửu Thiên Uy Linh Hiển Hóa Đại Thiên Tôn).”
http://phatam.org/dictionary/detail/...binh-thai-tu/2
-
http://thegioivohinh.com/diendan/sho...BA%BF-n%C3%A0o
http://www.nhomai.vn/forum/showthread.php?t=12446
===========
Tục thờ thần bản mệnh
15/02/2011
Thần bản mệnh là thần phù hộ từng cá nhân. Bên cạnh tục thờ thần bản gia, tục thờ thần bản mệnh cũng khá phổ biến tại Vĩnh Long.
a/ Theo dân gian, một đứa trẻ khi được tượng hình do tinh huyết của cha mẹ rồi lọt lòng và phát triển thành một nhi đồng 12 tuổi… đều có những vị nữ thần phù hộ, gọi là thần độ sinh hay nôm na là “mẹ sanh”.
Hệ thống thần độ sinh đại khái có các vị thần coi việc sản dục như Kim Hoa Thánh mẫu (người Minh Hương gọi là Chú sanh Nương nương, người Việt gọi là Bà chúa Thai sanh, người Hoa quê ở Quảng Đông gọi là Huệ Phước phu nhân), coi việc thai sản và phù hộ trẻ sơ sinh. Dưới quyền Kim Hoa Thánh mẫu có 3 Đức thầy, tức ba vị Tổ sư ngành hộ sản : Tiên sư, Tổ sư, Chánh sư và thập nhị Huệ bà, tức 12 bà mụ, coi việc sinh đẻ trong từng con giáp. Khi trẻ lọt lòng có thập nhị Huệ bà, Lục cung Thánh mẫu và Thủy triều Long cung phù hộ, không phân biệt nam – nữ.
Chúng ta biết, trong các vị thần kể trên có Kim Hoa Thánh mẫu, 3 Đức thầy và thập nhị Huệ bà thuộc tín ngưỡng Hoa – Việt. Riêng Lục cung Thánh mẫu (nữ thần cai quản rừng xanh) và Thủy triều Long cung (nữ thần cai quản sông biển) vừa mang tính thiện vừa mang tính ác. Có lẽ đây là một dạng của nữ thần Thiên Y A Na đã bị Việt hóa thành thần bản địa.
b/ Cũng theo dân gian, một người trưởng thành từ 12 tuổi đến 60 tuổi đều có một vị thần hộ mạng, tục gọi “ông độ”, “mẹ độ”.
Ở Vĩnh Long có nhiều quan niệm, cách tính phức tạp. Quan niệm thứ nhất cho rằng Quan Công, Quan Bình Thái tử (con nuôi Quan Công), Ngũ công nương Phật (Quan Công, Quan Bình, Châu Xương, Vương Linh Quan, tức thần Thiên Lôi và Văn Xương Đế quân tức thần Văn học), Tử Vi Đại đế (vị Tinh Quân ở Bắc cực chuyên trị tà ma), cậu Trày, cậu Quý (hai con của nữ thần Thiên Y A Na) độ mạng phái nam. Còn thần độ mạng phái nữ là Cửu thiên Huyền nữ (nữ thần cai quản 9 tầng trời), Bồ Tát Quan âm, Chúa Tiên nương nương và Chúa Ngọc nương nương (hai dạng hóa thân của nữ thần Thiên Y A Na).
Đặc biệt ở Vĩnh Long còn có quan niệm Phật Tổ, Tử Vi Đại đế và Táo quân độ mạng phái nam. Cũng có quan niệm vị thần độ mạng phái nam là Ngũ đế (tức Thanh, Bạch, Hoàng, Xích và Hắc đế tượng trưng Ngũ hành). Hoặc cũng có vị thần độ mạng phái nữ là Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Thánh Anh La sát.
Riêng người Hoa ở Vĩnh Long cũng có quan niệm thần độ mạng nhưng rất đơn giản. Họ cho Tây Vương mẫu (vị nữ thần ở Điêu Từ cung, cai quản tất cả các vị thần tiên) độ mạng phái nữ, còn Quan Công độ mạng phái nam.
Qua hệ thống thần linh vừa kể, có rất nhiều vị thần xuất phát từ Nho giáo hoặc Đạo giáo. Nhưng bên cạnh cũng có nhiều vị thần xuất phát từ văn hóa Chăm. Xa hơn nữa còn có một số yếu tố văn hóa Bà-la-môn được tổ tiên chúng ta tiếp nhận qua người Chăm hay qua Phật giáo, như chằn Rashasa. Cuối cùng, do ảnh hưởng nhân vật Thiết Phiến công chúa (tức mẹ Thánh Anh Đại vương Hồng Hài Nhi) trong truyện Tây Du, chằn Rashasa trở thành nữ thần Thánh Anh La sát, mang tính ác nhiều hơn tính thiện. Tương tự, đối với dân gian, các vị Phật và Bồ tát đều trở thành độ mạng. Nhưng đây là các vị “thiên thần”, chỉ thường mà không “phạt”.
Riêng đối với người Hoa ở Vĩnh Long, do kết quả giao lưu văn hóa nên họ sẵn sàng chấp nhận những vị thần bản địa. Nhiều nhà cũng thờ cậu Trày – cậu Quý (hai người con của nữ thần Po Nagar) nhưng họ quan niệm thờ cho “vui cửa vui nhà” chớ không có sự suy nghĩ như người Việt. Ngoài ra còn có một số phụ nữ Hoa cũng thờ “Cửu thiên Huyền nữ, Thánh A La sát, chúa Tiên, chúa Ngọc” làm thận độ mạng. Trong tập tục tín ngưỡng của người Hoa cũng thấy vào hình bóng của các vị thần này nhưng thờ làm thần độ mạng là tục lệ của người địa phương.
Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường – Sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long
http://m.thvl.vn/?p=66902&wpmp_switcher=mobile
============
Vì sao chúng ta thờ Ông ?
QUAN CÔNG tên thật là QUAN VŨ tự là TRƯƠNG SINH sau đổi thành VÂN TRƯỜNG người làng GIẢI LƯƠNG tỉnh HÀ ĐÔNG từ thủa nhỏ nghĩa khí của QUAN CÔNG đã bộc lộ nhân thấy có kẻ cừơng hào hiếp đáp người yếu QUAN CÔNG liền giết đi rồi sống cuộc sống giang hồ phiêu bạt .Rồi QUAN CÔNG gặp LƯU BỊ và TRƯƠNG PHI 3 người kết nghĩa vườn đào thề cùng sống chết đem lại giang sơn cho nhà HÁN . Đi theo phò tá LƯU BỊ QUAN CÔNG luôn một lòng vì chủ không quản ngại vào nơi nước sôi lửa bỏng .Luôn giữ một tấm lòng son sắt sáng ngời .
Khi bất đắc dĩ phải hàng TÀO THÁO để giữ mạng sống cho CAM ,MI phu nhân ( vợ LƯU BỊ ) QUAN CÔNG luôn giữ được nghĩa khí của mình luôn biết giữ đúng phép tắc kính trên nhường dưới.Có một lần để TÀO THÁO đã bố trí cho QUAN CÔNG và 2 vị CAM ,MY phu nhân o cùng một phòng QUAN CÔNG đã cầm nến đứng hầu ở ngoài cả đem không biết mệt mỏi THÁO được tin đó không khỏi khâm phuc cái nghĩa khí đó của QUAN CÔNG. Dù TÀO THÁO có dùng của cải ,gái đẹp ,và đỗi đãi với QUAN CONG rất hậu(hơn LƯU BỊ rất nhiều): 3 ngày một tiệc nhỏ ,5 ngày một tiệc lớn ,lên ngựa thưởng một nén vàng ,xuống ngựa thưởng một nén bạc ....nhưng tất cả những thứ đó không thể nào làm thay đổi được tấm lòng son sắt của QUAN CÔNG .Khi biết được tin anh minhởchỗVIÊNTHIỆU QUAN CÔNG đã kô ngại gian lao vất vả "qua 5 quan chém 6 tướng để về với LƯU BỊ:
Treo ấn phong vàng giã tướng TÀO
Tìm anh dấn bước dạ xôn xao
Xông pha nghìn dặm bon chân ngựa
Xung đột năm quan múa lưỡi đao
Trời đất chứa chan lòng tiết nghĩa
Núi non lừng lẫy tiếng anh hào
Một mình chém tương ai đuơng nổi
Đề vịnh xưa nay kể xiết bao
Trước khi từ giã TÀO THÁO để về với chủ cũ QUAN CÔNG đã không quên trả ơn cho THÁO (chém 2 tướng giỏi của VIÊN THIỆU là NHAN LƯƠNG vÀ VĂN SÚ,giải vây thành BẠCH MÃ giúp TÀO THÁO ) .Khi TÀO THÁO gặp nạn ở HOA DUNG .QUAN CÔNG đã nghĩ đến tình nghĩa trước đây của THÁO mà tha chết cho y .Cái nghĩa khí ấy của QUAN CÔNG khiến cho người ta vô cùng bội phục.Ngay cả TÀO THÁO cũng phải kính trọng nói với các tướng của mình rằng:"tước lọc và tiền bạc không đổi chí lúc đến lúc đi đều phân minh những người như vậy ta vô cùng kính trọng_các ngươi nên học theo".
Về sau QUAN CÔNG đã bị LỤC TỐN dùng quỷ kế .ĐÃ bẮt đước QUAN CÔNG dâng cho TÔN QUYỀN và bị xử tử vào năm KIẾN AN thứ 24(219).thọ 58 tuổi thiên hạ mất đi một vi anh hùng cái chết của ông là do tính kiêu ngạo mang lại ông đã coi thường LỤC TỐN một kẻ không có danh tiếng nhưng mưu mô sâu sắc và chính kẻ không có danh tiếng đó đã đánh cho ông thể thảm và ông đã phải trả cái giá quá đắt cho tính kiêu ngạo của mình _bằng chính tính mạng mình .Nhưng cái tính kiêu ngạo của ông hầu như bị lu mờ bởi phẩm chất trung nghĩa của ông .
Anh hùng còn nhớ GIẢI LƯƠNG xưa
Lãm liệt QUAN CÔNG tiếng đến giờ
Huynh đệ một ngày tình nghĩa nặng
Đế vương muôn kiếp khói huơng thờ
Gương trung vằng vặc soi trời bể
Nghĩa khí ầm ầm nổi gió mưa
Đình miếu đến nay đâu chẳng có
Trải qua ngày tháng vẫn trơ trơ!
QUAN CÔNG mất đi nhưng tiếng tăm còn để lại đến muôn đời .Một vị anh hùng không hề biết khiếp sợ trước cường quyền luôn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng .
Ngôi mộ Quan Công nằm ở thị trấn Quan Lâm, thuộc vùng ngoại ô phía Nam thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Đối với người dân Trung Quốc, đây là một thánh địa hết sức thiêng liêng. Hàng năm, vào mùa thu, người Hoa trong nước và Hoa kiều hải ngoại tụ tập về đây rất đông để dự một lễ hội nhiều ngày có tên là Quan Lâm quốc tế triều thánh đại điển.
Một trong bảy cố đô củaTrung Quốc
Trung Quốc có rất nhiều thành phố vốn là kinh đô cổ xưa, nhưng nay người ta phân loại và xếp hạng có bảy kinh đô lớn, gọi là thất đại cổ đô (Trung Quốc dùng từ cổ đô chứ không gọi là cố đô như ở Việt Nam). Đó là Bắc Kinh, Nam Kinh, Tây An, Hàng Châu, Lạc Dương, An Dương, Khai Phong. Riêng trong tỉnh Hà Nam, đã có 3 cổ đô là Lạc Dương, An Dương, Khai Phong.
Thành phố Lạc Dương (nơi có ngôi mộ Quan Công) ra đời cách đây hơn 3.000 năm (11 thế kỷ trước Công nguyên). Trước sau, có tất cả chín triều đại đã kiến đô tại đây: Đông Chu, Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Đường, Hậu Lương, Hậu Đường… Vì thế, Lạc Dương còn được gọi là Cửu triều cổ đô.
Lạc Dương hiện nay là một thành phố cỡ trung bình, dân số khoảng 1 triệu người, nằm ở tả ngạn con sông Lạc Hà, đổ ra con sông lớn Hoàng Hà nằm ở phía Bắc thành phố. Lạc Dương thu hút du khách vì có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, như hang đá Long Môn (Long Môn Thạch Oa) với 100.000 pho tượng Phật khắc vào vách đá, được UNESCO xếp vào di sản văn hóa thế giới vào năm 2000, chùa Bạch Mã, ngôi chùa Phật xưa nhất của Trung Quốc, mộ Quan Công và thành cổ thời Hán và Ngụy. Ngoài ra, Lạc Dương còn nổi tiếng là xứ sở của hoa mẫu đơn, được chọn là “quốc hoa của Trung Quốc”.
Lăng mộ của “thánh nhân”
Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, nơi an táng các bậc đế vương được gọi là lăng, còn nơi an táng của tất cả các người khác, từ quan đại thần cho đến dân thường, đều gọi là mộ. Thế nhưng, trong lịch sử Trung Quốc, có hai nhân vật không phải là vua hay hoàng đế nhưng nơi an táng lại được gọi là lăng mộ hay lăng tẩm: đó là Khổng Tử và Quan Công, cả hai đều được tôn xưng là “thánh nhân”, một người là “văn thánh”, một người là “võ thánh”.
Khổng Tử người nước Lỗ thời Xuân Thu là nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc cổ đại, học thuyết Nho gia của ông là cơ sở văn hóa của xã hội Trung Quốc trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Nhân dân Trung Quốc tôn vinh ông là “thánh sư”, là bậc “chí thánh”.
Quan Công, tên là Quan Vũ, tự là Vân Trường, là một viên tướng thời Tam Quốc. Ông không phải là nhà quân sự lỗi lạc, ông là một viên tướng giỏi đánh trận như rất nhiều viên tướng khác trong ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nhưng qua sự miêu tả của La Quán Trung trong bộ tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa, Quan Công nổi bật như một điển hình về khí tiết của người quân tử với những đức tính nhân, nghĩa, tín, dũng (còn về trí thì còn thua kém nhiều người).
Sau khi chết, Quan Công còn hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền và nói chuyện với nhà sư Phổ Tĩnh. Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, Quan Công là nhân vật được hư cấu nhiều nhất và đã trở thành “thánh nhân”, thậm chí những gì có liên quan đến Quan Công, như thanh long đao, ngựa Xích Thố đều trở thành những nhân vật linh thiêng.
Những câu hỏi xung quanh việc thờ tượng Quan công
Xin cho hỏi vì sao thờ Ông ?
-Trả lời : người Hoa tin rằng khi thờ Quan công sẽ mang lại vận khí cho gia chủ , tránh tà ma và những điều không mai mắn .Quan diểm người Việt theo Phật giáo thờ Quan Công nhằm tôn trọng đức tính trung hiền của ông , là tấm gương con cháu noi theo .
Tuổi nào nên thờ thân nam hay nữ ?
-Lứa tuổi thờ Quan Công có thể sớm nhất từ năm 25-45 tuổi , chỉ có thân nam được thờ phượng và cúng bái .
Cách thức thờ và an vị Ông ?
Về việc tượng Quan Công thì người ta thờ ông ta vì kính trọng sự trung nghĩa của ông ấy. Vì vậy mới tôn là ...Trung Nghĩa Thiên Thu Đế Quân.
Và vì vậy, nên nếu bạn thành kính mà thờ thì trong nhà cũng tăng thêm chánh khí, khiến cho tà ma, ngoại đạo cũng phải kiêng dè một chút! Linh bao nhiêu là tùy vào tâm thành và sự tôn kính của ta.
Quan Vũ là người luôn tôn trọng tư cách của một người quân tử theo truyền thống nho giáo, vì vậy, nếu thờ ông ta thì phải chọn nơi thanh tịnh, sạch sẽ, trang nghiêm. Mua một cái trang thờ, để tượng ông ta đứng bên trong, rồi thường xuyên đốt nhang là đủ. Nhưng khi thiết lập trang thờ và những lúc đốt nhang, phải mặc áo quần dài đàng hoàng, và nhất là thân thể phải sạch sẽ.
Khi trang bị mọi thứ đâu đó sẵn sàng thì chọn ngày tốt mà thiết lập bàn thờ. Khi đặt tượng, hoa, quả, hương án xong, chỉ cần thành tâm chấp tay khấn như vầy.
"...Con tên ..., 25 tuổi, vì ngưỡng mộ sự trung nghĩa và đức độ của Ngài mà nay đã thiết lập bàn thờ Ngài tại tư gia/cơ quan như vầy. Kính mong triệu thỉnh Ngài Quan Thánh Đế Quân nhập tượng, trấn trạch, duy trì chánh khí trong nhà. Và xin nguyện sẽ cố gắng noi theo sự dạy bảo của Ngài. Đệ tử thành tâm phụng thỉnh! (3 lần, mỗi lần lạy 1 lạy)."
Khi đã thờ thì không gọi bất cứ tên nào của ông ta cả mà chỉ gọi là Ông. Bàn thờ phải có 1 bóng đèn đỏ. Không được để đèn sáng quá. Tốt nhất là để bàn thờ nơi mình làm việc. Bàn thờ phải để cao hơn đầu người. Có rèm che thì càng tốt. Vì nơi thờ thần linh thì không nên để người ta nhìn thấy thẳng mặt vị thần được thờ. Và chỗ thờ Ngài không được làm những chuyện ô uế, gian trá, ..v...v...
Không ăn thịt trâu, chó, chuột và gà trống. Nghĩa là không cố tình, hoặc biết thì không được ăn. Còn vô tình ăn phải thì cũng không sao.
Nếu bạn trưng như một cái tượng thì nó sẽ là 1 cái tượng. Nhưng nếu bạn thờ như một vị thần thì Ông sẽ là một vị thần, giúp cho gia đình bình an, mọi người sáng dạ, làm ăn ngay thẳng mà vẫn phát triển thịnh vượng.
Thông thường người ta làm tượng Ngài 1 tay cầm thanh long đao, 1 tay vuốt râu (nếu đứng). Và 1 tay cầm sách, 1 tay vuốt râu (nếu ngồi). Do vậy, không liên quan gì đến ấn thủ cả. Có thể người ta làm theo lối vuốt râu rồi bị biến dạng mà thôi !
Nhớ ngày thường thì đốt nhang thôi cũng được. Nhưng khi cúng trang trọng thì phải ...có rượu (3 chung) và thịt cho Ông. Thịt thì mua loại làm sẵn chứ không nên mua về làm để tránh sát sanh nhé !
Mỗi khi cúng thì đọc như vầy...Hôm nay nhân ngày ....gì đó, để tưởng nhớ tới công ơn trì gia, trấn trạch, của Ngài, đệ tử có bày chút ít hoa, quả, rượu, thịt ...thành tâm xin phụng thỉnh Ngài về hưởng dụng chứng giám.
Mỗi năm thì dùng hoa cúc nhúng nước mà ...tẩy trần (rửa bụi)...cho Ngài 1 lần vào trước giờ Giao Thừa nhé !
https://www.webtretho.com/forum/f319...tho-ong-96261/
=========
TRANG CHỦ VẠN PHÁP THẦN THÔNG > VẠN PHÁP THẦN THÔNG > Bùa chú vạn bang > Tổ nghề
PDA
View Full Version : Tổ nghề
ngocdien
28-06-2014, 12:47 PM
Xin thầy cho em hỏi tổ nghề ngảnh cờ bạc là ai và cách thờ cúng như thế nào ạh?
Xin cám ơn thầy nhiều...
Pháp sư Huyền Trí
10-07-2014, 11:49 PM
Nếu mà nói tổ nghành cờ bạc mà thông dụng nhất trong dân gian chính là thờ cậu tài cậu quý. Phép thờ này cũng khá đơn giản, nhưng không ai nói cho ai biết. Sau khi có cái hình cậu tài cậu quý. Một cậu ôm cái tráp, một cậu ôm con gà trồng, một cậu cầm cái đĩnh vàng (hoặc cái tráp). Kaka còn điều này mới quan trọng nè: Phải xin được cái nón rách cùa bà ăn mày, càng cũ càng tốt, sau khi khai quang thì dựng hình thờ vào trong nón rách, các đồ cúng hàng ngày vào khoảng 12 g trưa và 12h đêm, để hết vào cái nón đó, nếu đi đánh bạc thì xin keo cậu độ mạng cho, rồi dùng bùa có kèm theo mảnh xác rắn cài vào ve áo (còn gọi là phép long y)nhờ là 1 lần keo không dc thì ở nhà, đi là bể kèo ngay. còn nếu xin số đề thì dùng 3 viên xí ngầu, sau ba lần lắc cộng hết nút đỏ vào được bao nhiêu nút thì là hàng chục, bao nhiêu nút đen cộng lại thì là hàng đơn vị, lắc vào 12h đêm, vào đêm của ngày âm (tức là giờ tý cùa ngày dương). Nghĩa là giờ tí của các ngày Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Chiều cậu cũng khó lắm, cậu mà chấp lệch thì che mắt không cho biết nữa.
Pháp sư Huyền Trí
10-07-2014, 11:52 PM
Còn Phép thông dụng thứ 2 là cúng cô hồn cầu cơ, một là sau khi cúng đổ rượu lên tờ giấy trắng, hơ hơ lên ngọn lửa sẽ ra số, hai là cho người nhẹ vía nhập quỷ vào rồi cho cắn bút viết số, ba là cho trái trứng nó lăn đến các số. Cái này hay mà có cái dở, ma nó nhập vào rồi tham ăn nó không kịp thoát ra thì gay go to à nha.
Pháp sư Huyền Trí
10-07-2014, 11:55 PM
Phép nữa là có vị thờ ông Nhị lang thần, tức ông Huê Quang, sau khi ngồi thiền, nhìn chăm chú vào nén nhang sẽ có số trên khói nhang. Phép này dễ mà khó, người phải có sức khoẻ, phải thành tâm, và phải kiên trì
Pháp sư Huyền Trí
10-07-2014, 11:58 PM
Phép nữa thì thờ ông Địa, cúng chuối sứ, chè ngọt, bông thơm, thuốc lá, cà phê. Kiếm 1 đứa con gái còn nguyên, hàng ngày khi nó đi tắm thì bồng ông tượng đi tắm cùng, đêm ngủ ông báo số cho, nếu cho sai thì hôm sau không cúng cho nữa, lấy đũa vụt đít cho ba cái. Ai hữu duyên thì được à, cai nầy không chắc đâu.
ngocdien
11-07-2014, 01:26 PM
CÁM ƠN THẦY NHIỀU LẮM . . .:SugarwareZ-003:
Pháp sư Huyền Trí
11-07-2014, 11:10 PM
Cũng còn những chuyện lu xu bu quanh chuyện tổ đề nữa. Ấy là phép cho 1 đứa trẻ con bị chết, khi chôn thì cho nó ngậm 1 cục chu sa, sau này lấy ra (ít nhất là sau 100 ngày). Cái này mới nghe thôi chưa thấy à nha.
tìm 1 ông tà mun, tức là 1 cục đá đen trồi lên trên đất, mang về ma 1 cái thạp, lấy nắp thạp để ngửa và để ông tà mun vào, cái thạp thì hứng nước mái gianh, mỗi ngày lấy cái gáo dừa nhỏ tưới cho ông tà 1 gáo nước, đọc chú và cúng bái, sau 49 ngày thì lấy cục chu sa kia vẽ mặt mũi cho ông ta rồi lập am thờ. Hàng ngày có thể ra xin số. Dưới miền tây thì ông tà thì có, nhưng phép này hết có rồi.
Pháp sư Huyền Trí
11-07-2014, 11:14 PM
mấy người sùng bái thầy Đài Loan thì thờ ông Hàn Tín. Dị đoan lắm, ông này lúc còn sống thì giỏi, sáng tác ra môn cờ bạc cho binh sĩ vui vẻ quân đi nỗi khổ nhọc, tượng thờ ông ấy, hình tước quân trẻ, mặc giáp bào, 1 tay cầm cái lệnh, 1 tay cầm 4 viên xí ngầu, Muốn linh thì phải luyện binh rất là phức tạp, hơn nữa phải học thêm thuật kỳ môn mới có số à nha, khi cúng không được gõ chuông, nếu ông ấy không cho số thì mợi gõ chuông... tương truyền ông này bị treo cổ trong cái chuông khi chết.
Pháp sư Huyền Trí
11-07-2014, 11:22 PM
Còn thuật nữa là dùng phép ngũ quỷ vận tài, Người ta đồn là lấy 5 cái đầu lâu người nhưng kỳ thực không phải, chỉ lấy 1 chút tro cốt vương vãi dư bên lò thiêu, về nặn thành 5 cái đầu quỷ bằng sáp hay bằng thạch cao, đặt 5 cái hộp chưa tro cốt kia vào trong 5 cái đầu quỷ, Cái đầu quỷ nam thì xấu lắm, còn cái đầu quỷ nữ thì rất là đẹp. có 5 màu tượng trưng cho 5 kiểu quỷ (kim mộc thuỷ hoả thổ)làm 1 cái thất kín đáo, kiếm 1 thằng trẻ con cho nó bốc đậu. được bao nhiêu hạt thì lấy số đó. Mấy người đã trai gái ma2 cái huyệt Minh dương nó hỏng rồi là hổng có được.
http://buangai.vn/vanphapthanthong/a...hp/t-2179.html
-
Tín nghưỡng thờ thần nữ ở Bà Rịa - Vũng Tàu
Tập tục thờ cúng nữ thần ở Nam bộ được đề cập sớm nhất là trong sách Gia Định thành thông chí (1820): “Nhiều người trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế, có nhiều giai nhân mỹ nữ, mà trong hạng người giàu sang, trường thọ khôn khéo cũng có xuất hiện tên tuổi của giới phụ nữ.
Họ hay chuộng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần, như: bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (quen gọi người phụ nhân tôn quý bằng Bà), bà Hỏa Tinh, bà Thủy Long, và cô Hồng, cô Hạnh”(1).
Trong các đình, chùa, miếu, lăng, tục thờ nữ thần được thờ phối tự hoặc có miễu (miếu) thờ riêng, thường gọi là miễu Bà. Bà Ngũ Hành được thờ phổ biến nhất. Đó là năm vị nữ thần ứng với: Thổ Đức thánh phi, Hỏa Đức thánh phi, Kim Đức thánh phi, Thủy Đức thánh phi và Mộc Đức thánh phi, biểu trưng cho 5 yếu tố vật chất cấu thành nên vũ trụ.
Đình Phước Lễ (thị xã Bà Rịa) có miếu thờ Thủy Long thần nữ, Thủy Long thần nữ hay thường gọi là bà Thủy, bao hàm cả chức phận của Hà Bá và cũng có thể là Thủy Đức thánh phi có mặt trong Ngũ Hành.
Miễu Bà trong khuôn viên đình Thắng Tam (Vũng Tàu) ngoài bà Ngũ Hành còn thờ Thiên Y Ana và Thủy Long thần nữ, 5 cô, 5 cậu, Quan Công, Quan Bình, Châu Xương, Ông Địa, Thổ Công, Tiền Hiền. Trên chánh điện có cốt tượng 5 bà. Lễ hội miếu Bà từ 16 đến 18 tháng 10 âm lịch. Thủy Long thần nữ ở miếu này được triều Nguyễn cấp 3 đạo sắc với mỹ tự là Diệu Linh Quảng Tế Chiêu Ứng Thủy Long thần nữ.
Hòn Bà nằm cạnh chân núi Nhỏ, có ngôi miếu lớn thờ bà Ngũ Hành. Cạnh đó có ngôi miếu thờ Thủy Long thần nữ. Miễu Bà Long Hải (Long Điền) bên cạnh bàn thờ Ngũ Hành còn có cốt Bà Lớn (rùa da) ở chánh điện cùng với mộ táng ở phía trước. Bà Thủy Long, Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Quan Âm, Quan Công, Thổ Thần được phối tự chung trong miễu. Trong Lăng ông Thắng Tam cũng có ban thờ Bà.
Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương là biến thiên của Thiên Y Ana Diễn Ngọc Phi, Bà Mẹ Xứ Sở Pô Nưgar của người Chăm là thần độ mạng cho phụ nữ tại gia và phù trợ cho cộng đồng, lệ cúng vào ngày 3 tháng 3 âm lịch và các ngày rằm. Bà chúa Tiên (chúa Ngọc) còn có hai người con là cậu Tài và cậu Quý, là những vị thần đặc biệt “bảo hộ” cho vùng sông nước. Dân sống bằng nghề hạ bạc và dân thương hồ đã đồng hóa Pô Nưgar với Thủy Long thánh phi, kèm theo hai người con của Bà là Cậu và Bà Cậu - những vị thần cai quản các hải đảo hoặc cù lao ven sông, biển. Pô Nưgar đã dần trở thành bà Chúa Xứ, một nữ thần phổ biến và đặc trưng nhất cho tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt ở Nam Bộ chịu ảnh hưởng từ văn hóa Chăm. Miếu Bà Thắng Tam (Vũng Tàu) thờ Thiên Y Ana và Thủy Long thần nữ. Thiên Y Ana được phong 3 đạo sắc vào các ngày 27/11/1845, 26/12/1845, 8/11/1850 với mỹ tự Hồng Nhuệ Phổ Tế Linh Cảm Thiên Y Ana Diễn ngọc Phi. Đình Thắng Nhì, Thắng Nhất cũng thờ Thiên Y Ana nhưng không có sắc phong riêng.
Sách Đại Nam nhất thống chí chép: đàn Kỳ Phong ở xã Phước Tỉnh dựng từ đời Gia Long, thờ các vị thần, trong đó có Điện Mẫu, Long Nữ, Diễn Bà, hàng năm tế vào đầu mùa xuân và mùa thu[i]. Ngôi miếu này được xây dựng trên gò cát cao thuộc ấp Phước Hưng, quay mặt ra sông Cửa Lấp. Miếu được xây dựng vào năm 1804, trùng tu năm 1994, chính điện có tượng và bàn thờ bà Chúa Xứ, lệ cúng vào ngày 16/3 âm lịch.
Lăng ông Phước Hải thờ Ngung Man Nương, vị thần mà người Việt xem như là “tiền chủ” những mảnh đất mới khi họ đặt chân đến khai hoang. Đây vốn là nữ thần Uma, là hình ảnh của Bà Mẹ Xứ Sở của người Chăm từng bước “phân thân” thành nhiều Mẫu và con của Mẫu, được tiếp nhận trong tín ngưỡng của người Việt.
Chúa Xứ Nương Nương cũng cùng một nguồn gốc với chúa Ngọc, chúa Tiên nhưng có trú sở, lai lịch và thần tích riêng. Bà Chúa Xứ trên đất Nam Bộ hiện diện ở rất nhiều nơi, có thể được phối tự bên cạnh Thành Hoàng trong các ngôi đình, miễu thờ các nhân vật lịch sử, các ngôi đền hoặc lăng Ông; hoặc các miếu riêng. Các đình Thắng Nhất, Thắng Nhì cũng đều thờ Bà Chúa Xứ. Thôn Long Nguyên, thị trấn Long Điền có miếu Bà Chúa Xứ riêng.
Chúa Động Nương Nương (Bô Bô đại vương), một nữ thần Chăm, gốc miền Trung, bảo hộ cho nghề làm rừng, đựợc thờ tại nhiều ngôi miếu ở Long Điền, Đất Đỏ, Bà Rịa, Cần Giờ…, ngày vía là 15/3 âm lịch. Chúa Động Nương Nương được thỉnh nhắc trong văn tế ở Dinh Cô, thực chất cũng là “hoá thân” của Thiên Y Ana.
Thiên Hậu Thánh Mẫu (960-987) là nữ thần họ Lâm này là cô gái út trong một gia đình 6 anh em, người cha là thương nhân ở huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Bà từng cứu sống cha trong một vụ đắm thuyền trên biển bằng những lời cầu nguyện. Bà mất lúc còn trinh nữ (năm 987). Thiên Hậu Thánh Mẫu thường hiển linh cứu người bị nạn trên biển. Bà Thiên Hậu được người Hoa đưa vào Nam Bộ ngay từ thế kỷ XVI, XVII, hòa nhập vào hệ thống thần linh địa phương.
Trước đây, tại Chợ Bến - Long Thạnh (Long Điền), Phước Lễ (Bà Rịa) và một số nơi khác đều có thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu với tên gọi là chùa Bà, về sau bị phá hoại trong chiến tranh. Miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu trên núi Dinh Cố do một thương nhân người Hoa xây cất để tri ân vị thần nữ đã giúp mình sống sót sau một cơn bão, hiện vẫn còn được thờ phụng. Một ngôi miếu thờ Bà Thiên Hậu cũng do người Hoa góp tiền xây dựng tại xã Long Hương (Bà Rịa) về sau được phối tự thêm bà Ngũ Hành. Làng Lưới Rê xưa của xã Phước Hải (Đất Đỏ) có ngôi đền thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu do thương nhân Hoa kiều lập vào năm 1930. Thiên Hậu Thánh Mẫu được thờ ở chánh điện, phối tự còn có hai bà hầu của Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Bà Ngũ Hành, Phật Bà Quan Âm. Dân địa phương gọi là thờ 10 ban(2).
Miếu Bà Ngũ Bang (Vũng Tàu) do cộng đồng người Hoa sinh sống góp tiền xây dựng vào năm 1968. Ngoài tượng Bà Thiên Hậu, miếu còn thờ một số vị thần như Thần Tài, Kim Hoa, Long Mẫu, Quan Thánh, Quan Âm, Lưu Trọng Bình, Văn Xương Đế, Huỳnh Đại Tiên, Hoa Đà…Điều này cho thấy sự hỗn dung trong hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của Nho, Phật, Lão và các hình thức tôn giáo nguyên thủy, vốn có sẵn từ cộng đồng người Hoa lục địa, được những di dân người Hoa mang sang đây gần như nguyên vẹn. Đền thờ Hùng Vương (Vũng Tàu) vốn được xây dựng từ ngôi miếu cổ thờ Bà Thiên Hậu của người Hoa.
Cửu Thiên Huyền Nữ là nữ thần cai quản 9 cõi trời : Quân Thiên, Thượng Thiên, Biến Thiên, Huyền Thiên, U Thiên, Hiệu Thiên, Chu Thiên, Viêm Thiên và Dương Thiên. Tòng tự có Tả ban, Hữu ban, Kim Đồng, Ngọc Nữ. Bà là tổ các nghề thủ công, nghề mộc, dệt vải, may vá, ca múa, diễn hát… Cửu Thiên Huyền Nữ cũng là thần phù hộ xóm ấp, độ mạng nữ giới, chuyên trị tà ma quỉ mị, thường được thờ tại tư gia, đền, miễu… và được mời thỉnh về dự lễ xây chầu đại bội trong dịp cúng kỳ yên. Quyền năng của Cửu Thiên Huyền Nữ sánh ngang với trời đất, nên theo quy định của nhà Nguyễn, những nơi thờ bà được cấp sắc chỉ.
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ (Vũng Tàu) được xây dựng với quy mô nhỏ, kiến trúc đơn giản, gồm tòa đại bái, cung đệ nhất, cung đệ nhị và cung đệ tam. Cách bài trí các ban thờ khá tự do. Cung đệ tam (hậu cung) thờ tượng Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Phật Bà Quan Âm, Tam tòa Thánh Mẫu (mẫu Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Thủy Phủ), cô Nhất, cô Chín (thủ đền) và cậu Đệ nhất. Cung đệ nhị đặt ban thờ Quốc tổ Hùng Vương. Cung đệ nhất thờ Đức vua cha Bát Hải cùng 5 vị quan và 4 người con trai. Ngoài ra còn thờ Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo. Đặc biệt, tại cung đệ nhất có một kiến trúc đặc trưng của đền thờ mẫu là khu hòn non bộ giả sơn, miêu tả động chúa với hình ảnh 12 cô sơn trang trên ngàn dưới thoải. Hàng năm, đền Cửu Thiên Huyền Nữ có 4 ngày lễ hội: 6-2 (âm lịch) tế lễ Hai Bà Trưng, 10-3 tế lễ Quốc tổ Hùng Vương, 23-3 và 9-9 tế lễ Mẫu. Nghi lễ thờ cúng đức Thánh Mẫu tại đền Cửu Thiên Huyền Nữ mang tính chất chung của nghi lễ hầu bóng, tôn nhang, trình đồng của đền phủ miền Bắc. Đây là tục thờ Mẫu, bắt nguồn từ sinh hoạt tín ngưỡng dân gian Bắc Bộ, sau mới phát triển vào Nam Bộ. Đáng chú ý là tín ngưỡng “thờ Mẹ” thường tôn thờ một hệ thống nhân thần và nhiên thần mà thần tích luôn có khuynh hướng trần gian hóa, xoay quanh Liễu Hạnh công chúa hoặc Tứ vị Thánh Mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Địa Tiên Thánh Mẫu, Mẫu Thoải), Ngũ vị Vương Quan, Tứ vị Chầu Bà, Mười ông Hoàng, Mười hai Cô, Mười hai Cậu, Ngũ Hổ (cọp), Ông Lốt (rắn)(3). Cửu Thiên Huyền Nữ còn được tòng tự tại Dinh Cô (Long Hải) với Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Quan Thế Âm Bồ Tát, Hỏa Tinh Thánh Nương, Quan Thánh Đế Quân.
Điện Bà núi Chân Tiên (huyện Long Điền) cũng thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, có cốt tượng Bà, Phật Bà Quan Âm, bên cạnh là miếu thờ Thần Hổ và ban thờ Bác Hồ. Nơi đây tương truyền còn dấu chân in trên vách đá. Sách Đại Nam nhất thống chí chép:”Núi Tiên Cước ở cách huyện Phước An 6 dặm về phía đông nam, đá đội nổi đất lên, đầu núi có một vết chân người thành ngấn trên đá, tương truyền đấy là dấu vết của tiên, người ta phết màu son, nay vẫn còn"(4) . Điện Bà núi Chân Tiên nằm ở vị trí cách miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu không xa. Điều này càng làm rõ thêm tính hỗn dung trong tập tục thờ nữ thần ở vùng đất này.
Ở Bà Rịa-Vũng Tàu cũng như ở Nam Bộ, Quan Âm được xem có họ hàng với các nữ thần, cùng chức năng cứu khổ, cứu nạn, nhất là cứu nạn trên biển. Cho nên Quan Âm không chỉ được thờ ở chùa mà còn gắn với các miễu, nhiều khi cũng được cúng đồ mặn như các nữ thần khác hoặc phối tự ở các miếu lẻ. Quan Âm được thờ ở đình Phước Hoà (huyện Tân Thành), điện Bà, miếu Bà, miếu Bà Ngũ Bang (Vũng Tàu), Dinh Cô, miếu Bà Long Hải (huyện Long Điền)…
Quan Âm Bồ Tát hay Quán Thế Âm vừa là Phật Bà vừa là thần nữ, đặc biệt bảo trợ phụ nữ và ban con cầu tự, tuy dạng nam thần vẫn còn bên cạnh Adiđà trong các chùa. Trên đường xuống phía Nam, Quan Âm trở thành Quan Âm Nam Hải, Quan Âm của người bình dân. Ngoài hình dạng ôm Hồng Hài Nhi còn được tạc dưới dạng mang bình Tịnh thủy nhúng cành dương cứu nạn, hai bên có Thiện Tài đồng tử và Long Nữ đứng đầu. Cùng với sự phát triển thương mại bằng đường biển, vị thế các nữ thần biển ngày càng được nâng cao(5).
Lăng ông Thắng Tam (Vũng Tàu) vẫn còn lưu giữ bức tranh mô tả Phật Quan Âm tuần du đại hải, ban phép thâu đường để cá Ông cứu người bị nạn trên biển. Trong Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa, Lê Quang Nghiêm có thuật lại : “Ngư dân ven bờ biển Bình Thuận lại có 12 câu nguyện gọi là Thập nhị đại nguyên. Tương truyền là của đức Quan Thế Âm truyền lại cho họ để cầu lên kêu cứu với Nam Hải đại vương trước mọi tai nạn”(6). Điều này thể hiện ảnh hưởng của Phật giáo trong tín ngưỡng dân gian thông qua tục thờ nữ thần.
Không chỉ dung nạp các vị thần có nguồn gốc nhập cư, cư dân việt ở địa phương cũng lưu giữ trong niềm tin của mình những nữ thần bản địa tuy không giàu thần tích nhưng gắn bó mật thiết với mảnh đất sinh tụ. Thị Vãi là một nữ thần giàu lòng nhân ái, thủy chung, được người địa phương yêu mến lập miếu thờ. Tên tuổi của bà gắn liền với núi sông. Sách xưa chép: “Núi nữ Tăng (tục danh núi Bà Vãi), ở về huyện Long Thành. Trước có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, kén chọn lỗi thời, sau khi cha mẹ chết, mới lấy chồng, không bao lâu người chồng ấy chết, thề quyết không đi bước nữa, khổ vì bọn thế hào cứ sai người đến mối lái quấy nhiễu, bèn trốn đời cắt tóc đi tu dựng am ở đỉnh núi, tự làm sư thầy, tôi tớ thì làm đồ đệ, tụng niệm tu trì, bèn nên chính quả, người ta nhân đó mà gọi tên núi”(7).
Bà Trao (không rõ họ và quê quán) tương truyền là một nhân vật nữ, đã đến Núi Nứa (đảo Long Sơn, Vũng Tàu) khai hoang lập nghiệp vào khoảng giữa thế kỷ XIX và lâp ra ấp Bà Trao(8). Để tưởng nhớ công lao của bà, người dân ở đây đã lập miếu thờ, xem bà như vị tiền hiền khai khẩn vùng đất này. Đỉnh núi cao nhất đảo Long Sơn (183m) cũng được đặt tên là đỉnh Bà Trao.
Về truyền thuyết bà Phi Yến ở Côn Đảo, lâu nay các tài liệu đều cho rằng do Bà can ngăn Nguyễn Ánh cầu viện nước ngoài nên bị bỏ rơi lại đảo cùng với hoàng tử Cải (hoàng tử Hội An), về sau cả hai đều chết và hiển linh. Hiện bà Phi Yến và hoàng tử Cải được thờ tại miếu An Hải (An Sơn tự). Ngày giỗ của Bà là 18-10 âm lịch. Cách thờ phượng giống như dạng tín ngưỡng thờ Thiên Y Ana vốn rất phổ biến trong các cộng đồng cư dân hải đảo và ven biển, thông qua dạng thức thờ Bà và Cậu.
Dinh Cô (huyện Long Điền) thờ cô Lê Thị Hồng Thủy, theo cha từ Phan Rang vào Gia Định buôn bán. Khi thuyền đi ngang vùng biển này thì gặp bão, cô bị rớt xuống biển và xác trôi dạt vào vũng Mù U. Bia mộ được lập năm Bính Dần (1866). Sách Đại nam nhất thông chí viết về núi Thùy Vân: “Ngoài đỉnh có ngọn Thần Nữ phong, tục gọi là mỏm Dinh Cô có gò đá đụn cát. Xưa có người con gái 17, 18 gặp nạn gió táp vào chết dạt ở đấy. Thổ nhân đem chôn và đêm sau người ta mộng thấy nữ nhân ấy từ đó bay đến giúp đỡ cho mọi người. Người ta cho là thần nên lập đền thờ nơi núi, nay vẫn còn"(9). Lễ hội ở Dinh Cô được gọi là lễ Nghinh Cô, ngày giỗ Cô với mỹ hiệu “dân phong” là Long Hải Thần Nữ Bảo An Chính Trực Nương Nương.
Dinh Cô Long Hải đã trở thành một cơ sở tín ngưỡng có uy linh bao trùm và lễ hội này thu hút đông đảo người địa phương và tứ xứ đến dự. Nói cách khác, nhân vật được thờ tự có số phận bi đát như là một ảnh chiếu của chính bản thân mỗi thành viên của cộng đồng ngư dân trước sức mạnh của biển cả (10).
Bên cạnh Bà Cô còn có cả một hệ thống thần linh được đưa vào thờ tự như: Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu hay Nhị vị công tử (Cậu Tài và Cậu Quý, con của Bà Chúa Ngọc), Ngũ Hành Nương Nương, đặt biệt có cả Tứ pháp nương nương (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) Ông Địa và Thần Tài… Hương án các miếu nhỏ xung quanh thờ: Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Quan Thế Âm Bồ Tát, Hỏa Tinh Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân… Có thể thấy ở đây nhiều dòng văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc khác nhau của Việt (Bắc, Trung, Nam); Hoa, Chăm; Phật, Nho, Lão… mà trên hết là sự liên kết bởi tín ngưỡng thờ các “Mẹ” tiêu biểu cho các “Mẫu nhiên thần” ở cả nước xoay quanh trung tâm một “Mẫu nhân thần” địa phương là Bà Cô.
Lễ hội Nghinh Cô diễn ra vào ba ngày 10,11 và 12-2 âm lịch, đây là lễ hội lớn nhất ở vùng biển phía Nam nước ta, thực chất là lễ hội cầu ngư của cộng đồng cư dân chuyên nghề sông biển. Trong bài văn tế bằng chữ Hán ghi: "…Xuân thiên kỳ ngư chi lệ-Tịch hiến hoa nhất diên" (Theo lệ cầu ngư mùa xuân- Mở một cuộc lễ dâng hoa). Các thần linh được mời về để dâng hoa ngoài Cô còn có: Chúa Động Nương Nương, Long Cung Thủy Mẫu Nương Nương, Ngũ Hành Nương Nương, Cô Hồng, Cô Các, Cậu Tài, Cậu Quý. Lễ hội Nghinh Cô có các nghi thức rước Thủy thần và nghinh ông Nam Hải (cá voi) từ lăng ông, rước Bà Sáu - Bà Lớn (rùa biển) từ miễu Bà và nghi lễ là một diễn xướng tổng hợp gọi là hát bóng rỗi với các nghi thức khai tràng dâng liễn, bá trạo nghinh 5 bà, múa dâng bông, múa dâng mâm, chặp địa nàng… và hát bá trạo.
Do đặc điểm địa lý có một bờ biển dài, Bà Rịa-Vũng Tàu đã tiếp nhận trong tín ngưỡng dân gian một tập hợp những thần nữ liên quan đến sông nước với sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa ba tộc người Việt-Hoa-Chăm trong tập tục thờ nữ thần trên địa bàn thông qua hệ thống thần điện, nghi lễ thờ cúng, trong đó tín ngưỡng Việt giữ vai trò chủ đạo, kế đến là tín ngưỡng Hoa và một phần tín ngưỡng người Chăm, có sự hòa trộn, đan xen rõ rệt giữa các yếu tố của tôn giáo (Nho, Phật, Lão) với tín ngưỡng dân gian trong tập tục thờ nữ thần ở vùng đất này biểu hiện qua việc phối tự, nghi lễ.
Ths. Nguyễn Thanh Lợi
(Trường Cao đẳng Mẫu giáo TW3)
1. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, tập hạ, Nguyễn tạo dịch, Nha văn hoá Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xb, Sài Gòn, 1972, tr.4.
2. Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị, tập 1, Rey Curiol & C 1e, Saigon, 1895, tr.19.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 5, Phạm Trọng Điềm dịch, nxb Thuận Hóa, 1992, tr.75.
4. Tsai Maw Kuey, Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1968, tr.175-178.
5. Huỳnh Quốc Thắng, Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ (khía cạnh giao tiếp văn hoá tộc người), Viện Văn hoá-Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tr.143-144.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn, sđd, tr.48.
7. Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt, Văn nghệ xb, California, tr.195-197.
8. Lê Quang Nghiêm, Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa, Sài Gòn, 1970, tr.26.
9. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Đỗ Mộng Khương dịch, nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.22.
10. Làng Núi Nứa, tổng An Phú Hạ, huyện Phước An, tỉnh Biên Hòa.
http://www.baotangbrvt.org.vn/index....n=print&id=272
-
Văn hoá – Du lịch
Du lịch
Văn hóa dân tộc
Sắc màu Tây Nguyên
Kỳ bí núi Cậu
Cập nhật lúc 15:45, Chủ Nhật, 07/05/2017 (GMT+7)
Mùa hè, đến Tịnh Biên (tỉnh An Giang) leo núi Cậu khám phá những điều kỳ bí, nghe những câu chuyện huyền thoại hấp dẫn từ thuở xa xưa khi vùng đất này vẫn còn hoang dã…
Núi Cậu là một ngọn núi nhỏ, cao khoảng 250 m, nằm phía sau Thiền viện Đông Lai thuộc xã An Phú, huyện Tịnh Biên (tỉnh An Giang), cạnh Quốc lộ 91 đường lên biên giới Việt Nam - Campuchia.
Chúng tôi bắt đầu hành trình lên núi Cậu vào buổi sáng, khi mặt trời lên nganh đọt dừa. Con đường mòn dẫn lên núi Cậu hoang vắng. Đầu mùa mưa, rừng cây lác đác xanh thắm trở lại sau một mùa khô khắc nghiệt, cỏ cây cằn cỗi, xác xơ. Quanh co chừng 20 phút chúng tôi đến sân Tiên.
Sân Tiên là một sân đá tương đối bằng phẳng, rộng non 0,2 ha. Giữa sân Tiên có một thạch bàn để bát nhang, trước thạch bàn có một lư đỉnh to thiếp vàng đặt ở hướng mặt trời lặn. Bên trái, trước thạch bàn, có bàn chân tiên khổng lồ (chân phải), to gấp 10 lần chân người bình thường vẫn còn in rõ nét trên nền đá. Chung quanh sân Tiên còn có 11 cái giếng nhỏ gọi là giếng Tiên. Phía sau, bên phải thạch bàn là một ngôi miếu nhỏ thờ “Cậu Tài, Cậu Quý” và các vị sơn thần, thổ địa, tiên cô, thần tài, thần Hổ; kề gần đấy có am thờ Mười Cô; cận lối mòn lên đỉnh có miếu thờ Thần Y. Theo người dân địa phương, đây là các linh thần cư trú, ngự trị ở núi Cậu rất linh thiêng.
Sân Tiên trên núi Cậu.
Sân Tiên trên núi Cậu.
Đến sân Tiên, du khách có dịp nghe kể sự tích về “Cậu Tài, Cậu Quý”, hai “chàng tiên” hào hoa, phong nhã thường trốn xuống trần gian chơi. Một ngày Ngọc Hoàng biết chuyện, nổi giận quở trách sơn thần, thổ địa ở núi Cậu bao che không báo cáo “hành vi của hai cậu” lên trên. Ngọc Hoàng cấm cậu Tài, cậu Quý, sơn thần, thổ Địa và mười cô tiên… không được đi ra khỏi phạm vi núi Cậu...
Tiếp tục hành trình, chúng tôi leo lên chót vót đỉnh, nơi có miếu thờ Bà Chúa Sơn Lâm. Đoạn đường khá hiểm trở với dốc cao, quanh co khúc khuỷu. “Miếu Bà” nhỏ, gọn, trang nghiêm luôn có nhang khói của khách thập phương cúng viếng. Đứng trên đỉnh non ngàn, ta có thể thấy bao quát vùng đất biên giới Tịnh Biên có con kênh Vĩnh Tế như dải lụa trắng lượn lờ giữa những cánh đồng xanh mướt, bao la… Theo truyền thuyết, Bà Chúa Sơn Lâm chính là Mẫu Thượng Ngàn hay Bà Chúa Thượng Ngàn có xuất xứ ở miền Bắc Việt Nam. Bà chính là La Bình quận chúa, con gái của Sơn Tinh và công chúa Mỵ Nương. Bà Chúa Sơn Lâm được nhiều nơi tôn thờ, coi là người cai quản núi non, đại ngàn, rừng rú. Những người đi rừng và bá tánh muốn được bình yên, vô sự, tai qua nạn khỏi thường cầu xin sự che chở, phù hộ của Bà.
Dưới chân núi Cậu còn có ngôi chùa được người dân gọi bằng cái tên rất kỳ lạ: “Chùa Bánh Xèo”. Chùa Bánh Xèo là tên gọi dân gian của Đông Lai Thiền Viện hay chùa Phật Nằm, ngôi chùa do Hòa thượng Thích Thiện Chí trụ trì chấp pháp. Hiện Chùa Bánh Xèo nằm trong danh mục điểm tham quan của nhiều công ty du lịch lữ hành.
Chùa Bánh Xèo đang được trùng tu với quy mô hoành tráng. Bên phải mặt tiền chánh điện là tượng Phật Bà Quan Âm với cụm núi Ngũ Hành, bố cục giản dị nhưng trang nghiêm; chính điện rộng thoáng, ở giữa và hai bên có hình tượng chư Phật và các vị Bồ Tát…
Chùa Đông Lai sở dĩ được gọi là “Chùa Bánh Xèo” bởi lâu nay chùa thường đãi bánh xèo miễn phí cho khách thập phương viếng chùa, những dịp như ngày rằm, lễ lớn, chùa phải chiên đến hàng nghìn chiếc bánh xèo, gói 700-900 đòn bánh tét đãi khách. Vào nhà bếp của chùa, du khách sẽ chứng kiến giàn chảo đổ bánh xèo “khủng” với 40 bếp thủ công. Lực lượng phục vụ đổ bánh xèo đều là những phật tử ở địa phương và các nơi tự động đến làm công quả. Sau khi ăn bánh xèo, khách thăm chùa còn được phục vụ cà phê đá miễn phí!
Leo núi Cậu nghe kể chuyện “tiên”, ngắm cảnh núi non hùng vĩ; xuống núi vào chùa lễ Phật, lại được thưởng thức bánh xèo thơm phức. Núi Cậu kỳ bí có chùa Bánh Xèo mến khách luôn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách…
Đặng Hoàng Thám
http://baodaklak.vn/channel/9803/201...i-cau-5532352/
-
Biên Hòa dấu yêu đã thêm 42 ảnh mới.
19 Tháng 2 2016 ·
Thất phủ cổ miếu, tên gốc là Quan Đế miếu, tạo dựng vào năm 1684 dưới thời quản lý của đức ông Trần Thượng Xuyên, là cơ sở văn xã đầu tiên của cộng đồng người Hoa ở nam bộ.
Quan Vũ (關羽, 162? - 220), cũng được gọi là Quan Công (關公), tự là Vân Trường (雲長), Trường Sinh (長生) là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán theo cách nói của tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu. Ông là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi.
Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v... với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy (581-618). Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân (khoảng 49 kg ngày nay). Dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành
Thời trẻ, Quan Vũ làm nghề bán đậu phụ ( đậu hủ) . Tuy nhà nghèo, ông cũng được theo học cả văn lẫn võ. Ông là người vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu…
(httpsa//httpa//vi.wikipedia.org/wiki/QuanbV%C5%A9aaahttpsa//vi.wikipedia.org/wiki/QuanbV%C5%A9:::vi.wikipedia.org/wiki/QuanbV%C5%A9:::https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan_V%C5%A9)
Thất Phủ cổ miếu, chính điện thờ Quan Công, tượng tạc bằng gỗ mít nài vào năm 1817, tượng cao hơn 1m, nét mặt nghiêm nghị, mặt màu đồng đỏ, dưới cằm có năm chòm râu đen dài đến ngực nhìn rất oai nghiêm. Quan Công mặt bộ triều phục màu xanh sẫm, áo choàng xanh sậm thêu kim tuyến, đính hạt kim sa choàng bên ngoài. Tượng Ngài tọa trên ngai gỗ, đặt trên bệ thờ, trong hương án bằng đá xanh Bửu Long. Bề mặt trang trí bao lam bằng gỗ chạm lộng đề tài “ Rồng chầu mặt trời”, “ Bát Tiên”, “ Tùng Trúc”, “ Hoa Điểu”, dây hoa lá…sơn son thếp vàng. Phía dưới có hai con lân bằng gỗ đứng chầu. Trước bàn thờ chính là bàn thờ bằng đá chạm nổi “ Long phúng thủy” làm năm Quang Tự Giáp Ngọ 1894. Trước khám thờ Quan Công, đối diện nhau là hai hương án bằng gỗ chạm trổ công phu sơn son thếp vàng thờ Quan Bình Thái Tử ( là dưỡng tử, bị địch giết cùng lúc với cha) và Châu Xương tướng quân là tùy tướng dũng mãnh của Quan Công, tử tiết khi hay tin ông bị kẻ thù sát hại. Tượng Quang Bình và Châu Xương làm bằng gỗ, tư thế trang nghiêm. Quang Bình trong tư thế hai tay chắp trước bụng, còn Châu Xương mặt đen, râu ria, tay phải cầm Thanh Long Đao- Vũ khí lừng danh của Quan Thánh…
Hàng năm tại đây tổ chức các lễ chính:
- Vía tử vào ngày Quan Đế hiển thánh 13 tháng giêng.
- Vía Quan Đế thánh đản (ngày sinh) 24 tháng 6.
- Vía Quan Bình Thái Tử tháng đản 13 tháng 5.
- Vía Châu Xương Tướng quân thánh đản 30 tháng 10.
( theo tư liệu của Thất phủ cổ miếu Biên Hòa)
https://www.facebook.com/23242022356...75020705975240
-
CÁCH THỜ QUAN CÔNG
Người Hoa tin rằng khi thờ Quan công sẽ mang lại vận khí cho gia chủ , tránh tà ma và những điều không may mắn .Quan điểm người Việt theo Phật giáo thờ Quan Công nhằm tôn trọng đức tính trung hiền của ông , là tấm gương con cháu noi theo .
Lứa tuổi thờ Quan Công có thể sớm nhất từ năm 25-45 tuổi , chỉ có thân nam được thờ phượng và cúng bái .
Cách thức thờ và an vị Ông ?
Về việc tượng Quan Công thì người ta thờ ông ta vì kính trọng sự trung nghĩa của ông ấy. Vì vậy mới tôn là ...Trung Nghĩa Thiên Thu Đế Quân. Vì vậy, nếu bạn thành kính mà thờ thì trong nhà cũng tăng thêm chánh khí, khiến cho tà ma, ngoại đạo cũng phải kiêng dè một chút! Linh bao nhiêu là tùy vào tâm thành và sự tôn kính của ta.
Quan Vũ là người luôn tôn trọng tư cách của một người quân tử theo truyền thống nho giáo, vì vậy, nếu thờ ông ta thì phải chọn nơi thanh tịnh, sạch sẽ, trang nghiêm. Mua một cái trang thờ, để tượng ông ta đứng bên trong, rồi thường xuyên đốt nhang là đủ. Nhưng khi thiết lập trang thờ và những lúc đốt nhang, phải mặc áo quần dài đàng hoàng, và nhất là thân thể phải sạch sẽ.
Khi trang bị mọi thứ đâu đó sẵn sàng thì chọn ngày tốt mà thiết lập bàn thờ. Khi đặt tượng, hoa, quả, hương án xong, chỉ cần thành tâm chấp tay khấn như vầy.
"...Con tên ..., 25 tuổi, vì ngưỡng mộ sự trung nghĩa và đức độ của Ngài mà nay đã thiết lập bàn thờ Ngài tại tư gia/cơ quan như vầy. Kính mong triệu thỉnh Ngài Quan Thánh Đế Quân nhập tượng, trấn trạch, duy trì chánh khí trong nhà. Và xin nguyện sẽ cố gắng noi theo sự dạy bảo của Ngài. Đệ tử thành tâm phụng thỉnh! (3 lần, mỗi lần lạy 1 lạy)."
Khi đã thờ thì không gọi bất cứ tên nào của ông ta cả mà chỉ gọi là Ông. Bàn thờ phải có 1 bóng đèn đỏ. Không được để đèn sáng quá. Tốt nhất là để bàn thờ nơi mình làm việc. Bàn thờ phải để cao hơn đầu người. Có rèm che thì càng tốt. Vì nơi thờ thần linh thì không nên để người ta nhìn thấy thẳng mặt vị thần được thờ. Và chỗ thờ Ngài không được làm những chuyện ô uế, gian trá, ..v...v...
Thờ Ông thì không được ăn thịt Trâu không thì bị Ông nhập vào hành. Ông hành xong người đó bịnh gần hai tháng mới hết. Cũng không ăn thịt chó, chuột và gà trống. Nghĩa là không cố tình, hoặc biết thì không được ăn. Còn vô tình ăn phải thì cũng không sao.
Nếu bạn trưng như một cái tượng thì nó sẽ là 1 cái tượng. Nhưng nếu bạn thờ như một vị thần thì Ông sẽ là một vị thần, giúp cho gia đình bình an, mọi người sáng dạ, làm ăn ngay thẳng mà vẫn phát triển thịnh vượng.
Thông thường người ta làm tượng Ngài 1 tay cầm thanh long đao, 1 tay vuốt râu (nếu đứng). Và 1 tay cầm sách, 1 tay vuốt râu (nếu ngồi). Do vậy, không liên quan gì đến ấn thủ cả. Có thể người ta làm theo lối vuốt râu rồi bị biến dạng mà thôi !
Nhớ ngày thường thì đốt nhang thôi cũng được. Nhưng khi cúng trang trọng thì phải ...có rượu (3 chung) và thịt cho Ông. Thịt thì mua loại làm sẵn chứ không nên mua về làm để tránh sát sanh nhé. Có thể cúng mặn hoặc cúng chay cho ông kỵ cúng gà vì gà là ân nhơn của ông.
Các ngày cúng 13/1 (quy y tam bảo), 13/5 (cúng sanh), 13/6 (cúng tử) và có người cúng 15/7 cúng chay 16/7 cúng mặn.
Mỗi khi cúng thì đọc như vầy...Hôm nay nhân ngày ....gì đó, để tưởng nhớ tới công ơn trì gia, trấn trạch, của Ngài, đệ tử có bày chút ít hoa, quả, rượu, thịt ...thành tâm xin phụng thỉnh Ngài về hưởng dụng chứng giám.
Mỗi năm thì dùng hoa cúc nhúng nước mà ...tẩy trần (rửa bụi)...cho Ngài 1 lần vào trước giờ Giao Thừa nhé !
Thờ Quan Công (Quan Đế) có hai kiểu thông dụng.
1. Tượng ba Ông: Quan Công ngồi giữa, tay vuốt râu (đôi khi vẽ tay kia cầm kinh Xuân thu). Sau lưng là Quan Bình giữ ấn (trái), Châu Thương cầm đao Thanh Long (phải).
Châu Thương (cũng gọi Châu Xương, Châu đại tướng quân). Theo TQC (tr. 459, 460, 568), Quan Công đưa hai chị dâu (vợ Lưu Bị) tìm Lưu. Gần tới núi Ngọa Ngưu thì gặp tướng cướp Châu Thương, mặt đen, râu xồm, cao lớn, hình dung dữ tợn. Châu bỏ lâu la đi theo Quan. Nghe tin Quan Công và Quan Bình bị Tôn Quyền chém, Châu đâm cổ tự vẫn. Châu được tôn thờ là Cương trực Trung dũng Đại thiên tôn. Kinh MT tả: Phù thiên dũng tướng. Sát địa mãnh thần. Thiết tu ngân xỉ. Hắc diện châu thần. (Tướng khỏe phụ giúp trời. Thần khỏe trông coi đất. Râu sắt răng bạc. Mặt đen môi đỏ.)
Quan Bình. Theo TQC (tr. 446-468), sau khi gặp Châu, Quan Công tiếp tục tìm Lưu Bị và Trương Phi. Đến Hà Bắc, gặp ông lão Quan Định có con thứ là Quan Bình biết võ, 18 tuổi, bèn xin Bình làm con nuôi. Kinh MT và các chùa thờ Quan Đế tôn Bình là Quan thái tử, tôn xưng là Cửu thiên Uy linh Hiển hóa Đại thiên tôn.
2. Tượng năm Ông (ngũ công): Giống tượng ba Ông, nhưng vẽ thêm Trương Tiên cầm cung đứng sau Quan Bình; và Vương Thiên Quân cầm giản đứng sau Châu Thương.
Vương Thiên quân là Thiên Lôi (Lôi Công, Linh Quan, Thái ất Lôi thinh Ứng hóa Thiên tôn). Kinh MT tả: Kim tinh châu phát. Hiệu tam ngũ hỏa xa Lôi Công. Phụng chủy ngân nha. Thống bách vạn tỳ hưu thần tướng. Phi đằng vân vụ, hiệu lịnh lôi đình. Giáng vũ khai tình, khu tà trị bịnh. (Mắt vàng tóc đỏ. Hiệu là Lôi Công coi ba mươi lăm xe lửa. Miệng nhọn như mỏ chim phượng, răng bạc. Chỉ huy một trăm vạn thần tướng dũng mãnh. Lướt mây cưỡi mù, lịnh ban sấm sét. Tuôn mưa làm nắng, đuổi tà trị bịnh.)
Trương Tiên là Linh ứng Trương tôn Đại đế Thất khúc Dục thánh Thiên tôn. Theo kinh MT, Trương phù trợ sản phụ, trẻ sơ sinh, v.v... Vũ khí là đạn vàng và cung trúc (kim đạn, trúc cung) nhưng có khi tranh thờ dân gian vẽ cầm cung và một mũi tên.
Phía trên tượng năm ông thường viết bốn chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật”, tương truyền xuất hiện ở Trung Quốc từ đời Thanh, Càn Long thứ 46 (1781).
NAM MÔ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
https://www.facebook.com/caivanphong...177574986514:0
-
VĂN HÓANÓNG MỚI
Độc đáo ngôi chùa thờ hàng trăm tượng Phật, Tiên, Thánh ở miền Tây
Pháp Luật VN 18/03/18 11:00 GMT+71 liên quanGốc
Tọa lạc trên quốc lộ 1A (thuộc ấp Xẻo Vong C, xã Hiệp Lợi, thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang), Già Lam Cổ tự ấn tượng bởi kiến trúc đậm chất Ấn Độ cùng hàng trăm pho tượng Phật, Tiên, Thánh được chạm khắc tinh xảo, công phu tạo nên không gian thanh tịnh, trang nghiêm của ngôi cổ tự.
Già Lam Cổ tự với khuôn viên rộng lớn, không gian yên tĩnh, trang nghiêm và thanh tịnh
Chùa thờ Quan Thánh Đế Quân theo kiến trúc Ấn Độ
Già Lam Cổ tự hình thành từ năm 1940 do Hòa thượng Thích Huệ Đức cùng bà con, phật tử cúng dường xây dựng. Qua quá trình gần 80 năm hình thành, hoằng hóa, khuếch trương giáo lý nhà Phật đến nay chùa có diện tích 2.376 m2 và có đến 148 pho tượng. Vì các pho tượng đa phần do phật tử xây dựng cúng dường nên theo thời gian, số lượng tượng lại nhiều hơn.
Khuôn viên chùa có rất nhiều tượng Phật lớn nhỏ mang nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo, trong đó phải kể đến tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn dài 14m, tượng Phật Quan Âm cao 12m, Vườn Lâm Tì Ni, ngựa Xích Thố, 25 đỉnh hương và nhiều bảo tháp khác. Mỗi bức tượng đều gắn với một câu chuyện liên quan tới nhà Phật, mang ý nghĩ triết lý sâu sắc.
Chùa theo trường phái Phật giáo Bắc Tông, ảnh hưởng từ Trung Quốc. Sở dĩ chùa có tên là Già Lam vì chùa thờ Già Lam Bồ Tát, một vị Bồ Tát có nguồn gốc từ Trung Quốc. Gọi với danh xưng Già Lam Bồ Tát có vẻ xa lạ đối với người dân nhưng thực sự đó chính là Quan Thánh Đế Quân rất gần gũi trong văn hóa dân gian và được thờ cúng ở nhiều đình, miếu tại các địa phương.
Quan Thánh Đế Quân hay còn gọi là Quan Vũ, Quan Công hay Quan Vân Trường là một vị tướng thời Tam. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán (Trung Quốc). Quan Công đi sâu vào tâm thức người dân là hình tượng dũng mãnh, râu dài, mặt đỏ tay cầm Thanh Long Đao và cưỡi ngựa Xích Thố. Là một vị tướng tài “quá ngũ quan trảm lục tướng”.
Theo tương truyền, Quan Công từng hiển thánh tại núi Ngọc Tuyền và quy y nhà Phật nên được phong Hộ Pháp, bảo vệ nơi chùa chiền hay còn gọi là Già Lam Thánh chúng Bồ Tát. Điều độc đáo được mọi người quan tâm là một ngôi chùa Bắc Tông, ảnh hưởng rất nhiều từ Trung Quốc nhưng lại mang đậm kiến trúc Ấn Độ.
Thông thường các ngôi miếu thờ Quan Đế thường theo lối kiến trúc của người Hoa với tổng thể hình chữ Khẩu hay chữ Quốc, các dãy nhà khép kín vuông góc hay thường mang đậm nét phong cách Triều Châu với lối thiết kế lấy màu đỏ làm chủ đạo. Tuy nhiên, Già Lam Cổ Tự hoàn toàn khác, kiến trúc đưc thiết kế theo kiểu Ấn Độ độc đáo, giống với lối kiến trúc của của Tây An Cổ Tự Châu Đốc – An Giang. Đó là thiết kế tháp chính điện có nóc tròn hình “củ hành”, giống những đền chùa ở Ấn Độ, đỉnh tháp được trang trí rất cầu kì, đặc biệt các hoa văn, họa tiết vô cùng sặc sỡ, tinh xảo. Hai bên tháp chính là hai ngọn tháp có phần dưới vuông giống như kiến trúc chùa tháp người Việt.
Khuôn viên chùa có nhiều pho tượng độc đáo, mang giá trị nghệ thuật
Hàng trăm tượng đều do phật tử cúng dường
Cách thức thờ cúng phật Già Lam tại chùa so với nhiều đình, miếu thờ Quan Thánh Đế Quân cũng không khác nhiều. Trong chánh điện của chùa thờ 3 pho tượng Quan Công, Quan Bình và Châu Thương rất lớn. Quan Công ngồi giữa, tay vuốt râu, bên trái là Quan Bình giữ ấn, bên phải Châu Thương cầm đao Thanh Long. 3 pho tượng ngự uy nghi trên bục thờ.
Theo Tam Quốc Chí, Châu Thương, còn gọi là Châu Xương vốn là một tướng cướp nhưng sau đó “cải tà quy chánh” bị Quan Công thuần phục và phò dưới trướng. Hình tượng của ông là một người mặt đen, râu xồm, cao lớn, hình dung dữ tợn. Khi nghe tin, Quan Công và Quan Bình bị Tôn Quyền chém chết, ông đã đâm cổ tự tử. Mọi người cảm phục và tôn thờ ông bởi đức cương trực và trung dũng. Còn Quan Bình là con nuôi của Quan Công. Tại các chùa chiền, đình miếu thờ tôn ông là Quan Thái Tử.
Theo Hòa thượng Thích Huệ Sanh - Trụ trì Già Lam Cổ tự, chùa có tượng Phật Già Lam lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và có rất nhiều sự linh ứng xung quanh ngôi tượng đó. Nói về việc di dời pho tượng về chùa, Hòa thượng Thích Huệ Sanh chia sẻ: “Mấy chục người đàn ông lực lưỡng cũng không thể nào nâng nổi pho tượng, mãi cho đến khi Hòa thượng Thích Huệ Đức (trụ trì đầu tiên của chùa) khấn vái rằng nếu nâng được tượng lên sẽ chặt ngón tay của mình để báo đáp thì ngay lập tức pho tượng được nâng lên dễ dàng”. Mọi chuyện đã ổn định đâu vào đấy, hòa thượng thực hiện lời hứa thì Quan Thái Tử Quan Bình hiển linh nói: “Thân thể là của mẹ cha cho, không được quyền làm tổn hại. Cứ để ta thế”. Đúng như lời nói, Quan Thái Tử đã thực hiện lời hứa. Khi tỉnh dậy Hòa thượng Huệ Đức thấy tượng Quan Thái Tử bị đứt ngang. Vết tích này đến nay vẫn còn. Ngoài ra, còn có rất nhiều chuyện linh ứng khác”.
Một điều đặc biệt nữa, tạo nên sự khác biệt đối với nhiều ngôi chùa ở khu vực ĐBSCL là ngoài việc thờ Phật như Phật Thích Ca, Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Di Lặc,... thì chùa còn thờ chư vị thuộc hàng Tiên, Thánh như Tứ đại Thiên Vương, Tam Hoàng Ngũ Đế, Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ, Bát tiên, Bà Chúa Xứ...
Được biết, chùa có nhiều sự linh ứng, màu nhiệm nên có nhiều phật tử tìm đến cúng bái, cầu mong sức khỏe, bình an và mọi điều thuận lời. Có lẽ cũng nhờ sự màu nhiệm này mà dù trải qua hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc nhưng vẫn hiên ngang và trầm mặc không bị bất kỳ sự tổn hại nào: “Chiến tranh dữ dội nhưng khi đi qua ngôi chùa này chúng không dám bắn tiếng súng nào” - Hòa thượng Thích Huệ Sanh kể.
Pho tượng Phật Già Lam lớn nhất ĐBSCL
Nhắc đến Quan Công là phải kể đến ngựa Xích Thố. Tại chùa có ngôi tượng Xích Thố vô cùng độc lạ. Tượng có chiều cao hơn 3m, dài khoảng 2m, toàn thân có màu hồng sẫm, đứng trong tư thế hiên ngang, hùng mãnh, sẵn sàng chiến đấu. Đôi mắt trong, có hồn, thể hiện được phần thế uy nghi của mình. Người đúc nên pho tượng ngựa này là một nghệ nhân ở Sóc Trăng tên Ba Đém, ông được mời về để làm con ngựa với giá 1 triệu đồng (tương đương với 50 lượng vàng lúc bấy giờ).
Tương truyền trong quá trình chế tác ra pho tượng, ông không cho phép ai đến gần trừ một người thợ phụ, ông đúc liên tục và hoàn thành chỉ trong vòng 1 tháng. Tượng ngựa được làm bằng chất liệu xi măng, trộn trực tiếp với màu chứ không phải sơn phết như bình thường. Đặc biệt là ông đã làm đầy đủ lục phủ ngũ tạng như gan, tim, phổi,... bằng xi măng rồi bỏ vào trong bụng ngựa trước khi đắp tượng lại. Đến nay vẫn chưa tìm ra lời giải đáp cho mục đích này. Tuy nhiên, dù chưa một lần tu sửa nhưng tượng ngựa vẫn còn mới như lúc ban đầu, sừng sững đứng hiên ngang cùng trời đất.
Sau khi Hòa thượng Thích Huệ Đức viên tịch, Hòa thượng Thích Huệ Sanh tiếp quản ngôi chùa và là vị sư duy nhất trong ngôi chùa này. Ông cũng là người tự tay sơn phết, tu bổ các công trình, tượng Phật, chăm nom và đứng ra tổ chức cúng viếng vào các ngày lễ lớn.
Không gian yên tĩnh, thoáng mát trong khuôn viên chùa là địa điểm lý tưởng để khách tham quan cũng như các phật tử đến cúng bái và yên tĩnh tâm hồn. Được biết, trong thời gian tới, ngôi chùa sẽ xây dựng thêm tượng Tế Công do phật tử đến cúng dường.
Đình Thương - Huỳnh Như
https://baomoi.com/doc-dao-ngoi-chua...c/25302622.epi
-
Cập nhật ngày: 15:00, 04/08/2017
Văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa
(CMO) Với người Hoa, bản sắc tâm linh luôn là điểm tựa tinh thần trong lao động, sản xuất, xây dựng và phát triển cộng đồng. Vì vậy, nơi nào có đông người Hoa định cư thì nơi đó có chùa, miếu thờ Phật, Tổ sư, các vị thánh, thần… theo phong tục tín ngưỡng tam giáo đồng nguyên.
http://baocamau.com.vn/uploads/image...0van%20hoa.JPG
Ban trị sự chùa Quan Đế dâng hương trước chánh điện thờ Quan Đế Thánh Quân.
Người Hoa Cà Mau, ngoài việc thường xuyên bái Phật (Giác Thiền Tự), tôn sùng Thiên Hậu Thánh Mẫu (chùa Bà), Tiên Tôn Tổ Sư (Chùa Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm)… thì Quan Đế Thánh Quân là một trong những vị thánh rất được tôn kính bởi những chuẩn mực đạo đức: nhân, lễ, nghĩa, dũng, trí, tín. Vì vậy, không giới hạn đức tin hiển thánh tại chùa Quan Đế mà hầu hết các chùa, miếu khác đều có thờ Quan Đế Thánh Quân với nhiều tên gọi khác nhau, như: Hộ Pháp Già Lam, Cái Thiên Cổ Phật, Tường Hán Thiên Thần… phổ biến nhất gọi là Quan Công.
Trung can Quan Vũ
Quân Công họ Quan tên Vũ tự là Vân Trường người nước Thục Hán thời đại Tam quốc. Ông sinh vào ngày 24/6, năm Diên Hi thứ ba đời Đông Hán, tại thôn Hạ Phùng, huyện Giải Lương, tỉnh Hà Đông (Trung Quốc). Tuy gia cảnh khó khăn (bán đậu phụ), nhưng ông cũng được học hành đàng hoàng (cả văn lẫn võ).
Là người nghĩa hiệp, không chịu nổi sự đàn áp, bóc lột của tên diêm quan (quan lại quản lý muối ở địa phương), nên Quan Công đã “thay trời hành đạo”. Vậy là Quan Công phải rời bỏ quê hương, tìm đến vùng Châu Trác của Hà Bắc khi mới 19 tuổi. Tại Châu Trác, ông quen biết với Trương Phi, Lưu Bị và ba người đã kết nghĩa anh em tại Đào Viên. Trải qua nhiều cuộc Nam chinh Bắc chiến, Quan Công đã có công rất lớn giúp Lưu Bị thành lập nhà Thục và ông là đại tướng đứng đầu trong ngũ hổ tướng, gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.
Hiển thánh Đế quân
Theo các vị cao niên trong cộng đồng người Hoa Cà Mau, ngoài sự trung can của Quan Công thì sử sách còn ghi lại rằng, Quan Công bị tướng Ngô tên là Lữ Mông sát hại tại Phàn Thành, sau đó con trai ông là Quan Bình và thuộc hạ Châu Xương cũng tử trận. Hồn phách của ba người đã bay về núi Ngọc Tuyền (Đương Dương, Kinh Châu) và được Phổ Tỉnh Pháp Sư điểm ngộ, chân linh Quan Công trụ lại ở núi Ngọc Tuyền và thường xuyên phù hộ dân chúng, nên được cư dân trong vùng lập miếu thờ phượng.
Quan Công không chỉ được Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo xưng tôn thần mà qua nhiều đời vua của Trung Quốc cũng lần lượt gia phong chức tước cho ông. Đầu tiên là “Tráng Mậu Hầu” (Hán Hậu Chủ năm 260) cho đến đời nhà Thanh (năm Càn Long thứ 53) đã gia phong cho ông chức “Trung Thần Vũ Linh Hựu Quan Thánh Đại Đế”…
Ông Tăng Hồng Vận, Trưởng Ban quản trị chùa Quan Đế, cho biết: "Xưa nay, bậc anh hùng sau chết được hiển thánh và được sùng bái như Quan Công không nhiều lắm. Và tín ngưỡng sự oai nghiêm của ông thời phò trợ Lưu Bị phân tranh lập quốc, cũng như sự phù hộ giúp đời khi ông hiển thánh đã trở thành phong tục của người Hoa. Vì vậy, năm 1974, chùa Quan Đế (toạ lạc trên đường Hoàng Diệu, Phường 2, TP Cà Mau) đã được xây dựng gắn với hoạt động của Hội quán Ngũ Nghĩa Đường. Ngoài việc thờ tự Quan Đế Thánh Quân, Quan Bình Thiên Tuế, Châu Xương Công, nơi đây còn thờ Na Tra Thái Tử, Phước Đức Chánh Thần…
Hằng năm, vào ngày 24/6 âm lịch, chùa tổ chức lễ vía Quan Công. Buổi lễ chính thức được bắt đầu vào lúc 9 giờ, một hồi trống dài vang lên, Ban trị sự chùa cùng đại diện các Ban, Hội người Hoa trang phục chỉnh tề, quỳ trước chánh điện, các lễ vật lần lượt được các vị này dâng lên với sự tôn kính. Sau khi đã dâng hết lễ vật, đại diện Ban quản trị (thường là vị cao niên) sẽ đọc văn tế (được viết bằng tiếng Hoa) tán dương công đức của Quan Công cũng như các vị thần được thờ tự tại chùa… Qua đó, cầu các vị thánh thần độ trì cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an. Kết thúc lễ vía, mọi người quây quần dùng bữa cơm thân mật, thăm hỏi sức khoẻ, trao đổi chuyện làm ăn, bàn luận thế sự…
“Tổ chức lễ vía Quan Đế Thánh Quân là thể hiện lòng tôn kính của hậu nhân đối với bậc Thánh nhân. Đồng thời, duy trì phong tục tín ngưỡng và giáo dục con cháu về văn hoá truyền thống của dân tộc”, ông Vận cho hay.
Lễ vía Quan Thánh Đế Quân, vía Thiên Hậu Thánh Mẫu, vía Thiên Tôn Tổ Sư là 3 trong những lễ hội mang đậm chất văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa tại Cà Mau./.
Mỹ Pha
http://baocamau.com.vn/van-hoa-xa-ho...hoa-47278.html
-
Nét đẹp chùa Ông, Vĩnh Long
(PGVN)
Anh Lê Thanh, người dân đoàn chúng tôi tham quan Vĩnh Long giải thích “…Đến Vĩnh Long, nhiều du khách rất thích đến chùa “Ông” bởi nơi đây có lối kiến trúc nghệ thuật đẹp, độc đáo, lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm, cổ xưa…”.
Anh Thanh kể, người dân địa phương nơi đây quen gọi là chùa “Ông” chớ thật ra tên gọi đúng phải là Thất Phủ Miếu bởi đang có 7 phủ của người hoa đang hiện diện tại đây gồm: Ninh Ba, Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) của các tỉnh Trực Lệ, Phước Kiến và Quảng Đông.
Theo Đại Nam nhất thống chí, do địa hình thuận lợi đường thủy lẫn đường bộ nên xưa kia việc mua bán tại đây rất nhộn nhịp và sầm uất nên người Hoa chọn để xây dựng Thất Phủ Miếu (chùa Ông hiện nay) làm nơi giao tiếp đồng hương.
Đến thời Pháp thuộc, số người Hoa đến Vĩnh Long làm ăn ngày một đông, những người Quảng Đông, Triều Châu tách ra lập bang hội riêng nên những người Phúc Kiến còn lại vào năm 1872 đã tái thiết miếu Thất Phủ cũ lấy tên mới là “Vĩnh An cung” để làm Hội quán của bang mình.
Như vậy chùa Ông hiện nay tọa lạc tại phường 5, TP Vĩnh Long chỉ thuộc bang của người dân Phúc Kiến. Đây là công trình kiến trúc của nhóm thợ tài hoa gồm mười người từ Phúc Kiến sang thi công từ năm 1892 đến 1909, đứng đầu là công trình sư Hà Tạo.
Miếu Thất Phủ làm theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Phía sau là chính điện, phía trước là tiền đường, hai bên là Đông Sương và Tây Sương. Diện tích xây dựng khoảng 800 mét vuông, xung quanh được bao kín bởi những vách gạch kiên cố. Tuy các khu vực chính nằm xa nhau nhưng có thể thông hành qua lại nhờ các nhà nối, gọi là “hà cầu” là những cây cầu bắc qua ao sen.
Mái Thất Phủ miếu lợp ngói âm dương, được phong tô kỹ lưỡng. Chân mái ngói được viền một loại ngói đặc biệt có tráng men màu xanh. Miếu Thất Phủ xây dựng theo kiểu cung đình, có năm cửa cái. Hai ô cửa tượng trưng mặt trời, mặt trăng; trong miếu có nhiều hình ảnh cố sử. Tất cả các bộ phận trong chịu lực trong ngôi miếu như: vì, xuyên, trính, các con kê hoặc con đội đều chạm hình voi, sư, lân, chậu hoa, chùm trái… Các bộ phận này chạm trổ tinh vi, vừa mang tính hiện thực, vừa cách điệu, lại được sơn ngũ sắc hoặc thiếp vàng...
Trong miếu có ba bàn thờ chính, bàn thờ giữa là khánh thờ Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình Thái Tử, Châu Xương Tướng quân. Khánh thờ bên tả thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Khánh thờ bên hữu thờ Phước Đức Chánh Thần. Trong vách không có tượng ngựa xích thố và Mã đầu Tướng quân của Quan Công. Ngoài ra còn có bàn thờ Phật Quan Âm, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Di Lặc, Hộ pháp Long Thần… nhưng mang tính chất tín ngưỡng dân gian. Các tượng thờ kể trên đa số bằng gỗ, có một số bằng đồng, gốm sứ.
Đáng chú ý là trong các hiện vật còn lưu giữ có một bức hoành khắc bốn chữ “Quan Thánh Phu Tử” được đem đi triển lãm ở hội chợ các nước thuộc địa tại Marseille (Pháp) năm 1922 đạt được Huy chương đồng.
Hàng năm, tại miếu Thất Phủ có các ngày vía như ngày vía bà, vía Phước Đức Chánh Thần, tam Nguyên, Tứ Quý; đặc biệt nhất là ngày vía Ông (13 tháng Giêng và 13 tháng 5), ngày Tất niên (15 tháng 12), có hàng ngàn người đến chiêm bái, chẳng những đã thu hút bà con người Hoa, mà còn người dân tộc Kinh, Khơ me đến cúng bái.
Thất Phủ miếu được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia ngày 25/01/1994.
Trần Trấn Giang
http://phatgiao.org.vn//Images/Conte...pchuaong02.jpg
http://phatgiao.org.vn//Images/Conte...pchuaong01.jpg
http://m.phatgiao.org.vn/chua-viet/2...nh-Long-22197/
-
Tượng pháp ở hậu đường
Thứ Bảy, 07/02/2015, 01:08
Hậu đường là dãy nhà phía sau so với Chính điện; sách Phật Lục và Chùa Trấn Quốc cảnh đẹp Hồ Tây lại đồng nhất là Tổ đường như một quy phạm chung là không phù hợp. Cụ thể như chùa Mía, nhà thờ Tổ khác và Hậu đường khác. Gọi Hậu đường là theo phương vị và không gian của chùa để so với Tiền đường, Chính điện, ý là chỉ cái nhà ở phía sau, còn bài trí thờ tự lại tùy thuộc vào không gian của mỗi ngôi chùa vậy. Hậu đường được bài trí và thờ tự như sau: 2 vị Nam Tào – Bắc Đẩu, Quan Âm Chuẩn Đề, ban thờ Mẫu, ban Quan Công, động Nam Hải, động Tây vực.
a) Tượng Nam Tào- Bắc Đẩu.
Nam Tào – Bắc Đẩu là hai vị trông coi sổ sách cho Ngọc Hoàng. Nam Tào quản sổ sinh còn Bắc Đẩu coi sổ tử. Vốn dĩ, hai vị này là tín ngưỡng thờ của Đạo giáo, nhưng khi ảnh hưởng của văn hóa tín ngưỡng dân gian đã trở thành hệ thống thờ tự hợp nhất của chùa Việt. Xưa nay ở Trung Quốc và Việt Nam, Đạo giáo khá phổ biến và có thời gian quan niệm Tam giáo đồng nguyên. Dù ở Việt Nam hiện nay Đạo giáo chỉ còn là phế quán, nhưng tín ngưỡng thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào – Bắc Đẩu vẫn còn thịnh hành, nhất là trong khoa nghi cầu an, cầu siêu ở các nơi. Chùa Mía có hai ban thờ Nam Tào – Bắc Đẩu ở Chính điện và Hậu đường, có thể thấy đây thực sự là việc đưa rước tượng từ chùa khác chuyển về.
b) Quan Âm Chuẩn Đề.
Tượng Quan Âm ở giữa, hai vị thị giả hai bên, được tạc ngồi trên đài sen; kích thước và tượng pháp, diện tướng giống nhau; vị bên trái ngài hai tay cầm nâng tịnh bình và vị bên phải 2 tay cầm quyển kinh. Quan Âm Chuẩn đề còn gọi là Tôn đề. Chuẩn đề có nghĩa là Thanh tịnh. Ngài còn được gọi là Thiên nhân Thượng phu Quan âm, có thể giáo hóa cho chúng sinh. Thiền tông rất tôn sùng Quan âm Chuẩn đề và coi Ngài là một vị tôn giả của Quan Âm bộ. Phái Đông Mật của Nhật Bản coi Chuẩn đề là một trong sáu vị Quan âm và xếp ngài vào Liên hoa bộ. Chỉ có phái Thai Mật dựa vào sách Thất câu chi Phật mẫu Chuẩn đề kinh là xếp ngài vào hàng Phật mẫu và coi đức Chuẩn đề là một vị tôn giả của Phật bộ. Thông thường, hình tướng của ngài có 3 mắt, 18 tay.
c) Ban thờ Quan Công.
Ban thờ Quan Công hay còn gọi là ban Quan thánh đế quân, Quan Vũ. Quan Công ngồi trên ngai ở giữa, đội mũ và mặc quan phục, hai tay đặt lên đầu gối. Hai bên là tượng Quan Bình thái tử đứng giữ ấn bên tay phải; Châu Thương tướng quân (còn gọi là Châu Xương, Châu đại tướng quân) tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao đứng bên tay trái, mặt đen, râu ngắn, mắt tròn sáng, thân mang áo giáp, khuôn mặt thể hiện thần sắc uy lẫm. Về hành trạng của Tam thánh và sự hình thành tín ngưỡng thờ tự, được ghi chép rằng:
- Quan Vũ (關 羽).
Quan Vũ tự là Trường Sinh, Vân Trường, thường gọi Quan Công, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán (25-220) và thời Tam Quốc (220-280) ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán (221-261), với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị, rất liêm chính, cương trực, sau bị Tôn Quyền nhà Ngô bày mưu hãm hại. Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh.. với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy (581- 618). Ông được sùng kính như vị anh hùng của quốc dân, được xem như bậc thánh cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt hoặc cưỡi ngựa xích thố. Trong khi dân gian tôn sùng xem ông như một biểu tượng của tính anh dũng hào hiệp và lòng trung nghĩa. Ông còn được gọi là Cái Thiên Cổ Phật (蓋 天 古 佛 ), Hiệp Thiên Đại Đế (協 天 大 帝), Phục Ma Đại Đế (伏 魔 大 帝)…, dưới thời nhà Tống, vua Huy Tông (徽 宗) phong ông lên ba cấp từ Trung Huệ Công (忠 惠 公 ), Sùng Ninh Chân Quân (崇 寧 真 君) cho đến Chiêu Liệt Võ An Vương (昭 烈 武 安 王). Vua Văn Tông (文 宗) nhà Nguyên lại phong là Hiển Linh Nghĩa Dũng Võ An Anh Tế Vương (顯 靈 義 勇 武安 英 濟 王). Vua Thần Tông nhà Minh phong cho ông tước hiệu Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Trấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎮天尊關聖帝君 ). Đến thời nhà Thanh vua Đức Tông (德宗) phong cho ông tước hiệu dài nhất Trung Nghĩa Thần Võ Linh Hựu Nhân Dũng Hiển Uy Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Tán Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇顯威護國保民精誠 靖翊讚宣德關聖大帝 ). Ở Trung Quốc, tín ngưỡng về Quan Thánh rất phổ biến kể từ thời nhà Đường, nhưng đến thời nhà Thanh thì ông được sùng kính như vị thần hộ vệ cho hoàng tộc. Vì thế, trong thời đoạn này bất cứ nơi đâu cũng xuất hiện miếu Quan Đế (關帝廟). Ngoài ra, ông còn được xem như là thần Tài. Đặc biệt, trong Phật Giáo ông được tôn kính như vị đại hộ pháp. Trong thư tịch của Thiền Tông như Phật Tổ thống kỉ (佛 祖 統 紀), có đề cập đến câu chuyện sau khi ông bị chém đầu chết thì biến thành con quỷ không đầu, hồn phách thường lảng vảng trong rừng trải qua đến ba bốn trăm năm. Cuối cùng con quỷ không đầu ấy gặp Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397) – người sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, được đại sư dùng Phật pháp làm cho siêu độ thoát khỏi thân quỷ, sau đó có chính tín vào Phật pháp, Quan Công phát nguyện lớn đời đời kiếp kiếp sẽ hộ trì Phật pháp, hàng phục yêu ma, bảo hộ Già lam thánh chúng. Cho nên, ông trở thành vị Bồ tát chốn già lam, được liệt vào hàng ngũ là thần hộ pháp hiệu là Ngọc Tuyền sơn chủ. Thiết nghĩ, theo thuyết này thì việc bài trí tượng pháp và tôn thờ Quan Công ở chùa cũng không có gì là sai trái.
– Quan Bình (關 平).
Quan Bình là nhân vật trung hiếu vẹn toàn, còn gọi là Linh Hầu Thái Tử (靈候太子) là vị tướng của Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung chép thì Quan Bình là con nuôi Quan Vũ, sinh vào khoảng năm 182. Ông là người Hà Bắc, thân phụ của ông là Quan Định, một người dân thường. Năm 200, Quan Vũ sau khi qua 5 ải, chém 6 tướng đến Hà Bắc tìm Lưu Bị thì ghé qua nhà Quan Định. Quan Định bèn xin Quan Vũ nhận Quan Bình theo. Quan Vũ chưa có con nên nhận Quan Bình làm con nuôi. Khi đó, Quan Bình mới 18 tuổi. Tính ông khiêm hậu ôn hòa, hơn nữa võ nghệ của ông lại siêu phàm, được chúng bộ hạ thương kính. Năm 211, Lưu Bị nhận lời Lưu Chương vào Tây Xuyên để giúp Lưu Chương chống lại Trương Lỗ. Lưu Bị đem 5 vạn quân và 1 số tướng vào Tây Xuyên trong đó có Quan Bình. Tuy nhiên sau đó Lưu Bị và Lưu Chương có mâu thuẫn nên xảy ra chiến tranh giữa 2 người. Năm 213, Bàng Thống là quân sư của Lưu Bị bị tướng Thục là Trương Nhiệm bắn chết, Lưu Bị phải bảo Quan Bình đem thư cầu cứu về Kinh Châu giao cho Khổng Minh. Khổng Minh nhận được thư, bèn dẫn Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên, giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ và Quan Bình. Đến năm 219 niên hiệu Kiến An (建 安), cha ông bị trúng kế của Lã Mông (呂蒙), bị quân Đông Ngô bắt giam, Quan Bình thân chinh đến cứu, bị quân địch bao vây sau đó cả hai cha con đều bị hại. Mọi người cảm phục sự trung hiếu vô song của ông, tôn thờ ông cùng với Châu Thương tướng quân (周 倉將軍) trong miếu Quan Thánh như vị thần hai bên tả hữu của Quan Thánh Đế Quân, tay bắt ấn Hán Thọ Đình Hầu (漢 壽 亭 候 印); cùng Châu Thương tướng quân đứng bên phải tay cầm Thanh Long Yển nguyệt đao (青 龍 偃 月 刀)
– Châu Thương Tướng Quân (周倉將軍).
Là vị phó tướng của Quan Thánh Đế Quân, theo truyền thuyết ông là người Bình Lục, nhà Đông Hán. Tam Quốc Chí truyện chép rằng, lúc Quan Công đưa hai bà chị dâu đi tìm Lưu Bị. Gần tới núi Ngọa Ngưu thì gặp tướng cướp Châu Thương, mặt đen, râu xồm, cao lớn, hình dung dữ tợn. Vì kính phục Quan Công nên Châu bỏ lâu la đi theo Quan Công. Nghe tin Quan Công và Quan Bình bị Tôn Quyền chém, Châu đâm cổ tự vẫn. Ông được tôn thờ là Cương trực Trung dũng Đại thiên tôn. Tôn hiệu là Phù thiên dũng tướng, Sát địa mãnh thần, Thiết tu ngân xỉ, Hắc diện Châu thần và được phối thờ trong miếu Quan Thánh cùng với Quan Bình thái tử.
d) Ban thờ Mẫu.
Ơ bên tả cuối tòa Hậu đường là khám thờ ban Mẫu, trên khám có ghi chúa Liễu Hạnh, nhưng trong khám là tượng 3 vị, ngồi giữa mặc áo đỏ, vị bên trái áo trắng còn vị bên phải màu xanh tượng trưng cho thiên phủ, thủy phủ và nhạc phủ (Sơn trang, Thượng ngàn). Đây là ban thờ Mẫu thứ hai của chùa Mía, đây cũng là sự trùng lặp trong nhiều bộ tượng ở chùa. Ở Hậu đường còn có những động thờ, chúng tôi sẽ dành riêng thành mục động thờ chùa Mía, xin được trình bày sau.
http://www.chuamia.vn/Tin-tuc/tuong-...ap-o-hau-duong
-
CHỦ TRƯƠNG THỜ THẦN ĐẤT VIỆT VÀ BÀI TRỪ MÊ TÍN CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO
20 Tháng Hai 20179:45 CH(Xem: 2009)
nguyen trung truc
bài của Huỳnh Hoài
“Tử vì nước còn ghi linh miếu,
Thác vì đời thanh sử danh bia.”
(Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ)
Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) là một trong vài tôn giáo nội sinh tại Việt Nam, nên tư tưởng cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Việt Nam trước đó, xa và khá rõ nét là về tinh thần nhập thế của Phật giáo Lý Trần; gần thì chịu ảnh hưởng tư tưởng của hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương (BSKH). Người sáng lập là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) đã khéo kết hợp những tinh hoa của Phật giáo dân tộc để xây dựng nên hệ thống tư tưởng PGHH phù hợp với thời đại và cho dễ thích nghi với trình độ văn hóa của quảng đại quần chúng, đặc biệt đối với đồng bào ở miền Tây Nam Bộ mà đa số là thành phần nông dân ít học trong thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, đặc điểm phương thức truyền dạy giáo lý của Đức Huỳnh có phần khác với các vị tổ đi trước trong hệ phái BSKH, cụ thể: không truyền dạy phép thuật mà đi sâu vào phổ thông giáo lý Phật đà. Trong vòng gần 8 năm giáo hóa, người sáng lập PGHH đã thu nhận được hơn 1 triệu tín đồ. Ai có để tâm tìm hiểu về PGHH, đều công nhận ông đã đặc biệt thành công trong việc loại bỏ thói mê tín dị đoan, dưới các hình thức phổ biến trong dân, như đồng cốt, bói toán, tục đốt giấy vàng mã…. Một điều quan trọng khác mà cho đến nay vẫn ít được người ta nhắc đến, đó là sự thành công của vị Giáo chủ trong việc tôn thờ hình tượng Nguyễn Trung Trực (gốc Việt) để thay cho hình tượng Quan Thánh Đế Quân (gốc Tàu) trong tâm thức người Việt. Song song theo đó là chủ trương loại bỏ hoàn toàn các vị gia thần mà bao đời dân Việt tin theo, vốn chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc: ông Táo, ông Địa, bà Cố Hỷ, ông Độ Mạng …
***
Như chúng ta đều biết, Nguyễn Trung Trực là một vị anh hùng dân tộc đã hi sinh anh dũng cho nghĩa cả cứu nước, cứu dân. Tên thật là Nguyễn Văn Lịch, thường gọi Chơn, sinh năm 1837 (Đinh Dậu), người làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An), mấy đời sinh sống bằng nghề chài lưới. Ông Nguyễn hi sinh ngày 27 tháng 10 năm 1868 (12.9 Mậu Thìn (*)) tại Rạch Giá.
Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Ứng theo lời kêu gọi của các vua cuối triều Nguyễn, ông đã chiêu mộ quân lính tham gia gìn giữ Đại đồn Chí Hòa, dưới quyền của Trương Công Định. Nhờ lập được nhiều chiến công khắp chiến trường Gia Định, Biên Hòa, … nên được triều đình nhà Nguyễn phong chức Quản cơ, Lãnh binh, rồi Hà Tiên thành Thủ úy. Ông Nguyễn kéo quân về Hòn Chông lập căn cứ quyết chống Pháp đến cùng, cho đến lúc rơi vào tay giặc và phải thọ hình ngày 27.10.1868 tại chợ Rạch Giá, lúc mới 31 tuổi. Nguyễn Trung Trực đã để lại một câu nói bất hủ: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Dai Than Nguyen Trung Truc
Ảnh Đại Thần Nguyễn Trung Trực
Để tỏ lòng tôn kính, dân chúng gọi Nguyễn Trung Trực là “Ông Nguyễn” và đã lập đền thờ cúng ông khắp nhiều nơi ở Tây Nam Bộ: Long An, An Giang, Rạch Giá, Phú Quốc, … nhang khói không ngừng. Ngay cả thời Pháp thuộc việc thờ cúng này đã có. Hằng năm, trong lễ kỷ niệm ngày Ông Nguyễn hi sinh, tại Rạch Giá luôn có rất đông quần chúng tự động về tham dự, là một trong những lễ hội lớn nhất miền Nam ngày nay.
Danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đương thời bấy giờ có điếu Ông Nguyễn một bài thơ, trong có hai câu rất xuất sắc, để nhắc đến hai chiến công vẻ vang của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực:
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
(Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần)
Sau khi ông qua đời, triều đình nhà Nguyễn đã phong thần cho Nguyễn Trung Trực là Thượng Đẳng Linh Thần.
***
Để làm sáng tỏ sự thay thế hình tượng Quan Thánh Đế Quân bằng hình tượng anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trong PGHH, thiết nghĩ, cũng nên tìm hiểu sơ qua sự tín ngưỡng Quan Thánh Đế Quân của người Việt.
Đại khái, Việt Nam do ảnh hưởng văn hóa Tàu, nên dân gian từ xưa và khắp nơi đã có tục thờ Quan Thánh Đế Quân, quen gọi Quan Công, tức một danh tướng Trung Quốc tên thật Quan Vũ (160-219), tự Vân Trường: “Ở nội thành Hà Nội có ít nhất 4 làng từng lập Quan Công làm Thành Hoàng. Quan Công còn là một trong nhưng người được thờ chính ở đền Ngọc Sơn ngay trung tâm Hà Nội với tên Quan Thánh Đế Quân.” ([1]) Ngoài những nơi thờ riêng Quan Thánh Đế Quân gọi là chùa Ông, hay thờ tại tư gia làm thần hộ mệnh cho nam giới, Quan Thánh Đế Quân cũng còn được thờ kèm thêm trong nhiều chùa Phật. Theo nhận xét của nhà văn Sơn Nam liên quan tín ngưỡng của người dân đồng bằng sông Cửu Long:“Quan Vân Trường (Quan Công) hiện thân của “trung cang nghĩa khí”, “trung nghĩa thiên thu” đã ăn sâu vào tâm lý mọi người, (…) Trong hội kín, tinh thần của Quan Công là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá cách đối xử giữa các anh em kết nghĩa. Từ trước nhiều gia đình đã thờ Quan Công, nhưng giai đoạn này [Pháp thuộc], Quan Công được nhắc nhở nhiều hơn, trang thờ đặt trên cao, uy nghiêm, huyền bí hơn bàn thờ tổ tiên và thờ Phật. Trong chùa Phật, Quan công là ông Già lam, sắc mặt bớt đỏ, râu cắt ngắn (...); khách thập phương có thể vào chùa, xin xăm với ông Già lam này. Nhiều đình, chùa, miễu ở Sài Gòn, Chợ Lớn và rải rác chợ quận, chợ làng, khi xem lại thì lúc ban đầu nhằm thờ Quan Công, về sau thêm chi tiết, không ai thắc mắc cho lắm.”([2]) Trong đạo Cao Đài, “Đức Quan đế thánh quân là Tam-Trấn Oai Nghiêm”([3]) được thờ vào ngôi thờ Tam giáo và Ngũ chi. Đối với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Quan Đế Thánh Quân cũng được thờ hết mực kính trọng, “Giữa nhà có bàn nhị đẳng (mặt bàn có hai từng). Trên hết thờ Quan Thánh Đế Quân, từng kế thờ Hội Đồng Thượng Phật. Dưới chót có một bàn kinh (rời) ngoài lư hương ra, hai bên có chuông mõ, chính giữa một bộ kinh cúng dường 13 quyển.”([4])
Trong dân gian, nhiều thầy pháp lên đồng ngày xưa cũng hay tự xưng mình là xác của Quan Thánh Đế Quân.
Trái lại, ở PGHH, hình tượng của Quan Thánh Đế Quân rất mờ nhạt, nên trong Sấm giảng thi văn của Đức Huỳnh Giáo chủ, Quan Thánh Đế Quân chỉ đôi khi được dùng như điển tích văn học, nhằm nêu lên khí tiết trung nghĩa mà thôi. Đại khái như:
“…Quan Công Hầu gìn chặt nghĩa ân,
Vượt năm ải về thăm huynh trưởng.
Kẻ nghĩa khí thiên kim vạn lượng,
Lũ nịnh thần sách sử nào khen.”([5])
Bởi Quan Thánh Đế Quân xét trên phương diện con người cho dù là bậc nghĩa khí đáng tôn thờ, mà tín đồ PGHH cũng kính trọng, nhưng trước sau vẫn là nhân vật xa lạ đâu đâu tận bên Tàu, không đủ tiêu chuẩn “anh hùng của đất nước”; đối với dân Việt, nước Việt càng không có công trạng gì cả. Đây có lẽ là một trong những lý do chính yếu giải thích tại sao ở những cơ sở thờ tự của PGHH, cũng như tại tư gia tín đồ PGHH đều không thờ vị thần tiêu biểu cho đức trung liệt này. Trong trường hợp người tín đồ mới quy y theo PGHH, nếu trước đó đã có thờ Quan Thánh Đế Quân làm thần hộ mạng, hay thờ các gia thần khác, thì người có uy tín trong đạo sẽ đảm trách phần giải thích với gia chủ, tháo gỡ các trang thờ này rồi thượng ba ngôi thờ cúng (sẽ nói sau) theo tôn chỉ của PGHH.
***
Tượng Đại Than Nguyen Trung Truc
Ông Nguyễn Trung Trực và Đức Cố Quản Trần Văn Thành (thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương, tiền thân của PGHH) có mối quan hệ thâm tình. Theo lời kể của ông Cả Mười (con ông Lâm Quang Ky) gánh họ Lâm ở làng Mỹ Hội Đông, Chợ Mới, Long Xuyên, thì Ông Nguyễn có lúc tá túc tại nhà họ. Ông Nguyễn có ngồi thuyền lên cù lao nhỏ Bình Thạnh Đông thăm Cố Quản Trần Văn Thành. Khi hay tin ông Nguyễn bị Pháp hành hình ở Rạch Giá, Đức Cố Quản đang dấy binh chống Pháp tại Bảy Thưa, Châu Đốc "Cố bùi ngùi vô hạn. Cố truyền cho binh sĩ phải lặng lẽ ba ngày để tưởng niệm vị anh hùng vừa quá cố, lại sai người làm riêng một linh vị, khắc tên họ cụ Nguyễn, để lên thờ trên án tướng sĩ trận vong mà Cố đã cho đặt ra ở một bên quân doanh." ([6])
Trong Thi văn của Đức Huỳnh cũng có bài thơ khoán thủ nói về ông Nguyễn Trung Trực, xin trích dưới đây:
“ THƯỢNG thẩm Đạo mầu nẻo cao sâu,
ĐẲNG đẳng hãy làm chớ để lâu.
ĐẠI pháp vô-vi là chơn-lý,
THẦN làm trọn vẹn khỏi lo âu.
***
Huỳnh long tự thế gần sanh-chúng,
Bổn tánh Hòa thôn Hảo dĩ đầu.
....” ([7])
Tín chúng PGHH cảm nhận: Có tinh thần, khí tiết Ông Nguyễn “hiện diện” rõ trong đức Giáo chủ của mình.
Triều đình phong thần cho Nguyễn Trung Trực là Thượng Đẳng Linh Thần. Trong PGHH, theo lời kể của ông Huỳnh Hữu Phỉ, Đức Thầy chỉ dạy ông Phỉ “còn thiên đình thì phong cho Ngài làm Quan Thượng đẳng đại thần”([8]) và “Những trường hợp nguy nan hay hoạn nạn nên niệm danh hiệu của Ngài thì chắc chắn được Ngài bảo hộ.” ([9]) Toàn thể tín đồ PGHH luôn tin tưởng thời nầy là thời của quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực, nên khi gặp khó khăn luôn cầu xin sự gia hộ của Ngài.
Dượng Út tôi cũng là một tín đồ PGHH thuần thành, người mà tôi gần gũi nhất bên họ ngoại, nên biết rõ dượng rất tin tưởng vào Ông Nguyễn, gặp chuyện gì khó khăn, dượng Út tôi cũng cầu xin sự gia hộ của Ông Nguyễn. Sau nầy, em trai họ tôi, con của dượng, là một cầu thủ khá nổi tiếng, trước khi vào mỗi trận đá cũng cầu xin Ông Nguyễn gia hộ cho trận đấu tốt đẹp, như lời dượng dặn. Tôi còn nhớ lời dượng giải thích, cho Ông Nguyễn là người có đầy đủ khí tiết nhân nghĩa trung hiếu, là người có ơn với đất nước, Ông Nguyễn sẽ gia hộ cho người có lời xin chánh đáng.
Ngoài việc treo hình tưởng nhớ Ông Nguyễn tại tư gia, trong hai thời cúng lạy sáng, chiều của người tín đồ PGHH hằng ngày, đều có đọc bài Quy y trước ngôi Tam bảo, nhắc đến Ông Nguyễn với danh xưng “Quan Thượng Đẳng Đại Thần”, nội dung như sau: “Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (tam niệm). Nam Mô Thập Phương Phật. Nam Mô Thập Phương Pháp. Nam Mô Thập Phương Tăng. Nam Mô Phật Tổ, Phật Thầy, Quan Thượng Đẳng Đại thần, chư quan cựu thần, chư vị sơn thần, chư vị Năm Non Bảy Núi, cảm ứng chứng minh, nay con nguyện cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, quy y theo mấy Ngài, tu hiền theo Phật Đạo.” ([10])
Vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ trước, sau khi trùng tu xong ngôi chùa Tây An Cổ Tự tại Long Kiến, Chợ Mới thì tín đồ PGHH cũng xây ngôi đình thần thờ Nguyễn Trung Trực tại đây, và họ đã tổ chức phái đoàn đi rước sắc thần Ông Nguyễn ở Rạch Giá về thờ.
Hằng năm, đến ngày kỷ niệm Ông Nguyễn hi sinh vì nước, ban trị sự các cấp trong PGHH đều tổ chức lễ để tưởng nhớ. Ngoài việc tổ chức tại địa phương nơi các đình có thờ Nguyễn Trung Trực, tín đồ PGHH còn nườm nượp tề tựu về Rạch Giá để tham dự ngày kỷ niệm này, chiếm đến khoảng 80% lượng khách hành hương tham dự lễ hội. Họ đi từng đoàn, mang theo gạo, tương, bầu, bí, rau … nông sản do họ sản xuất để tổ chức các trại cơm, trại võng, trại nước … hoàn toàn miễn phí, cung cấp cho khách đi lễ hội.
Còn việc tín ngưỡng dân gian ở miền Tây Nam Bộ ngày xưa, các địa phương thường xây miễu thờ bà Cố Hỷ, năm Ông, Hà Bá, Ông Tà… Tư gia thì thờ cúng Thần Tài, Ông Địa, Ông Táo, và vị thần độ mạng Quan Thánh Đế Quân, Cậu Tài Cậu Quý, Ngũ Công Vương Phật, Quan Bình Thái Tử, Tử Vi Đại Đế, Cửu Thiên Huyền Nữ Nương Nương, Chúa Ngọc Nương Nương, Phật Bà Quan Âm, Chúa Tiên Nương Nương… Khi ốm đau thì tìm đến thầy pháp, bà đồng để cúng kiếng, mà ít khi đi tìm thầy thuốc. Ai có đọc qua tác phẩm Đồng quê của nhà văn Phi Vân sẽ thấy được tệ nạn mê tín của người mình ở thế kỷ trước. Rồi nạn cúng sao giải hạn, hằng tháng phải vào chùa, hay đến những nơi đồng cốt, hoặc ở nhà tự cúng sao giải hạn nếu gặp hạn La Hầu, Kế Đô…..
Do thấy được tính nguy hại của các loại tệ đoan nêu trên, nên Đức huỳnh Giáo chủ rất quan tâm đến việc bài trừ mê tín:
“…Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
…
Đấng Thần Minh công bình trực dạ,
Đâu ăn lo đổi họa làm may.”([11])
Và trong “Tôn chỉ hành đạo”, ông còn ân cần nêu rõ hơn: “Điều thứ năm: Ta chẳng nên ăn thịt trâu, chó, bò và không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiếng mà làm hết bịnh là Tà Thần; nếu ta cúng kiếng mãi thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.”([12])
Nhờ thấm nhuần lời dạy của Đức Huỳnh Giáo chủ, tập quán mê tín đã được dẹp bỏ trong vùng có đông tín đồ PGHH, do đó các gia thần theo chân Tàu vào đất Việt cũng không còn được thờ cúng tại các tư gia. Trái lại, nghe theo lời vị Giáo chủ, họ tin vào luật nhân quả của nhà Phật, theo nghĩa ốm đau cũng có nhân duyên của nó, và họ xoay ra chỉ cầu xin sự gia hộ của Ông Nguyễn, của Trời, của Phật…, của những đấng họ thờ cúng hằng ngày để mong cho gặp được thuốc hay. Đồng thời, họ còn tổ chức các nhà thuốc nam miễn phí, giúp chữa trị cho mọi đồng bào nghèo (không phân biệt tôn giáo), gọi là “làm phước”.
Trong chiều hướng chủ trương thờ anh hùng dân tộc và bài trừ mê tín dị đoan như trên, tư gia của người tín đồ PGHH chỉ đơn giản gồm có 3 ngôi thờ cúng: Bàn thờ Ông Bà, Bàn thờ Phật (Tam bảo) và Bàn Thông Thiên. Trên phương diện hình thức thờ phượng, Đức Huỳnh Giáo chủ đã từng dạy rất rõ, và đây cũng có thể coi là một trong những điểm đặc sắc nổi bật nhất của tôn giáo địa phương này:
“…Nhưng riêng về cư sĩ ở nhà không nên tạo thêm nữa; nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào nháng bề ngoài. …. Lại nữa, từ trước đến giờ các sư dùng màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình, và màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá nhân. Vì vậy, chúng ta dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật…. Về cách cúng Phật, chỉ nên cúng nước lạnh, bông hoa và nhang thôi. Nước lạnh tiêu biểu cho sự trong sạch, bông hoa tiêu biểu cho sự tinh khiết, còn nhang, dùng đặng bán mùi uế trược. Ngoài ra, chẳng nên cúng một món gì khác cả. Bàn thờ ông bà cúng món chi cũng đặng…. Ngoài sự thờ Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những vị anh hùng của đất nước, không nên thờ vị tà thần nào khác mà mình không rõ căn tích.”([13])
Cho ta thấy, cốt lõi trong sự thờ phượng của PGHH chủ yếu là lòng thành tín chân thật chứ không hình thức rườm rà bề ngoài, để quay về chánh đạo vô vi của nhà Phật.
“Phật chẳng qua dụng chữ tín thành,
Chớ nào dụng Hương, Đăng, Trà, Quả.”([14])
Ở miền Tây ngày nay, có 2 lễ hội dân gian quy tụ rất đông người tham dự, đó lễ giỗ Ông Nguyễn (Trung Trực) ở Rạch Giá và lễ kỳ yên của bà Chúa Xứ núi Sam. Chúng ta thấy rõ, khách đến Rạch Giá từ các nơi xa xôi để dự lễ Ông Nguyễn chiếm tới 80% là tín đồ PGHH. Trong khi lễ bà Chúa Xứ diễn ra ngay trong tỉnh nhà quê hương của Đức Huỳnh Giáo chủ (Hòa Hảo, An Giang) thì tín đồ PGHH lại đi dự không tới 1%, có lẽ vì họ không biết rõ căn tích bà Chúa Xứ và bà Chúa Xứ cũng không phải anh hùng dân tộc?
Không riêng lễ giỗ Nguyễn Trung Trực, mà trong lễ giỗ các vị anh hùng dân tộc khác, đa số tín đồ PGHH cũng tham dự, dù ở xa xôi, như có thể kể: lễ giỗ Quản Cơ Trần Văn Thành (Láng Linh); lễ giỗ Thiên hộ Võ Duy Dương (ĐồngTháp Mười). Trong những dịp nầy, tín đồ PGHH chiếm đến trên dưới 90% lượng người tham dự. Họ vừa lễ bái, vừa tổ chức trại cơm, trại nước, trại võng, … phục vụ miễn phí cho người đi dự lễ hội.
Đến đây chúng ta có thể kết luận: Đức Huỳnh Giáo chủ đã thành công trong việc thay hình tượng Quan Thánh Đế Quân và các gia thần độ mạng trong lòng người Việt miền Tây bằng hình tượng anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, và đã giúp giảm thiểu ở mức đáng kể tập quán thờ cúng các vị thần ngoại lai không công trạng gì với lịch sử đất Việt. Huỳnh Giáo chủ khẳng định: "Chỉ thờ lạy Đức Phật, tổ-tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh-hùng cứu-quốc..." ([15]) .
Một cách khách quan, cho dù đứng trên quan điểm của người theo tôn giáo nào cũng vậy, chúng ta ngày nay cũng phải thừa nhận tính thích nghi dân tộc của PGHH thể hiện rõ nét qua cách thức thờ phượng đơn giản mà thực tế, lấy sự thành tín “học Phật tu nhân” làm cốt, nhờ đó loại trừ được những hình tướng phức tạp thường rất dễ bị lạm dụng. Ông đã lấy tinh hoa của dân tộc để xây dựng nên một nền tôn giáo mới có tính dân tộc phù hợp với tâm tính, trình độ văn hóa của dân Việt miền Nam, góp phần phát triển theo hướng tốt cho nếp sống văn hóa đạo đức chung của cả dân tộc Việt.
8.2016
* Căn cứ quyển 200 năm Dương lịch và Âm lịch đối chiểu của Nguyễn Như Lân, tra ngày hi sinh 27.10.1868 dương lịch ra âm lịch là nhằm ngày 12 tháng 9 năm Mậu Thìn. Nhưng, lễ giỗ hằng năm của Nguyễn Trung Trực ở đình Rạch Giá lại tổ chức từ ngày 27 đến 29 tháng 8 âm lịch?
[1] Quan Thánh đế quân là ai?, http://asakicorp.com/bachviet18/
[2] Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa và văn minh Miệt Vườn, NXB Trẻ, 2015, tr.89-90
[3] Trương Văn Tràng, Giáo lý Đại Đạo Tam kỳ Phổ Độ, 1970, tr.34
[4] Hà Tân Dân, Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, 1971, tr. 24-25
[5] Sấm giảng thi văn, ấn bản năm 1965, tr. 293
[6] Đức Cố Quản hay là cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, sđd., tr. 72
[7] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 279
[8] Vương Kim, Tu hiền, NXB Long Hoa, 1972, tr. 49
[9] Vương Kim, sđd., tr. 50
[10] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 174-175
[11] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 133
[12] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 178
[13] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 165-166
[14] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 100
[15] Sấm giảng thi văn, sđd., tr. 166
TrướcSau
In Trang
Gửi ý kiến của bạn
https://tuoitrephatgiaohoahao.com/a8...t-giao-hoa-hao
-
Dinh Cậu
nhanghihaihien.mov.mn/bvct/s/5/dinh-cau.html
Translate this page
Từ bãi biển, du khách leo lên 30 bậc đá là đến “ Thạch Sơn Điện”. Bên trong đền có tượng thờ Nhị đầu Vương Thái Tử (Cậu Tài – áo đỏ, Cậu Quý- áo xanh) và bài vị cung thỉnh Chủ Ngọc Nương Nương bằng chữ Hán. Hai bên là bài vị thờ Tả ban & Hữu ban liệt vị. Cậu Tài và Cậu Quý, vị thần có uy quyền trị vì sông nước ...
========
DINH CÔ - Báo Bà Rịa Vũng Tàu
http://www.baobariavungtau.com.vn/du...h.../index.htm - Translate this page
May 4, 2004 - Phía sau cạnh bàn thờ Bà Cô là bàn thờ Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu (Nhị vị Công tử, tức là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), Ông Địa, Thần Tài. Ngoài chính điện, ngư dân còn lập bàn thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa ...
=======
Dinh Cậu - Amega Travel
amega-travel.com/dinh-cau-diem-den.htm
Translate this page
Nov 27, 2017 - Trong chính điện có khánh thờ Chúa ngọc nương nương và tượng hai cậu (thờ cậu Tài cậu Quý) là những thần nhân bảo vệ ngư dân vùng biển đảo. Lễ hội Dinh Cậu Phú Quốc Hàng năm, người dân Phú Quốc lấy ngày 15, 16 tháng 10 âm lịch làm lễ cúng dinh, thu hút đông khách đến dự. Vào ngày này ...
===
Dinh Cậu trên đảo Phú Quốc - Báo Du lịch
baodulich.net.vn/Dinh-Cau-tren-dao-Phu-Quoc-0703-8075.html?...
Translate this page
Apr 27, 2016 - Dinh Cậu là nơi phối thờ bà Thiên Y A Na Chúa Ngọc Nương Nương (Thủy Long Thánh Mẫu) và hai Cậu con của bà là Cậu Tài – Cậu Quý. Đây được xem là lực lượng siêu nhiên hiển linh có thể giúp đỡ, phù hộ hay trừng phạt con người.Dinh Cậu vì thế được xem là chốn linh thiêng. Dinh Cậu cũng là nơi ..
=======
Tục thờ Thuỷ Long thần nữ ở Cà Mau - Báo Cà Mau
baocamau.com.vn/.../tuc-tho-thuy-long-than-nu-o-ca-mau-37989.h...
Translate this page
Oct 2, 2015 - ... Cậu Tài (Trài) và Cậu Quý, cũng là 2 vị phúc thần bảo hộ cho vùng sông nước, từ đây dân gian đã hình thành tín ngưỡng “thờ Bà Cậu” (Bà là bà Thuỷ Long, Cậu là Cậu Tài, Cậu Quý) phổ biến ở cư dân miền biển, cư dân làm nghề thương hồ, hạ bạc (gọi chung là dân Bà Cậu). Bà Thuỷ Long và Cậu Tài, ...
==========
Dinh Cậu và biển Dinh Cậu | An Vietnam
https://anvietnam.net/2013/01/19/din...bien-dinh-cau/
Translate this page
Jan 19, 2013 - Có người cho rằng gọi Dinh Cậu vì là nơi thờ Cậu Tài và Cậu Quý, là hai vị thần sông cai quản sông ngòi trong thị trấn. Cũng có giả thuyết cho rằng trước kia vùng này có một vị quan tốt, giúp ích cho dân nên sau khi quan qua đời được dân lập miếu thờ, gọi là Dinh Cậu (Dinh thự của Cậu). Cũng có tài ...
====
Dinh Cậu | Gotadi.com
https://cms.gotadi.com/diem-den/Viet...en.../Dinh-Cau - Translate this page
Mặt chính điện của Dinh nhìn ra biển, trên mái gắn lưỡng long tranh châu bằng sứ, bên trong thờ Chúa ngọc nương nương và hai Cậu (cậu Tài và cậu Quý), những thần nhân bảo vệ ngư dân biển đảo. Nhìn cách thờ cúng này, có thể thấy ảnh hưởng của đạo thờ Mẫu trong tín ngưỡng của người dân đảo Phú Quốc.
Dinh Cậu là nơi tâm linh của người dân Phú Quốc, xuất phát từ tục thờ ...
https://ar.pinterest.com/pin/410109109787583164/ - Translate this page
Dinh Cậu là nơi tâm linh của người dân Phú Quốc, xuất phát từ tục thờ cậu Tài, cậu Quý của người miền Trung di cư mang vào đảo này. Ngoài ra, dinh cũng có thờ cá Voi. Tương truyền, có thờ một vị ấu chúa... Phía cồn cát đối diện dinh là xóm cồn của nh http://phongthuyvadoisong.com/ ...
Câu chuyện bà Phi Yến ở Côn Đảo - Viện nghiên cứu Văn hóa
vncvanhoa.vass.gov.vn/noidung/.../Lists/.../View_Detail.aspx?...16
Translate this page
Mar 10, 2016 - Miếu Cậu (Hà Dương thủy phủ thần miếu) do Tri phủ Hồ Trọng Đính lập năm 1857 tại xã Hòa Khánh (huyện Cái Bè, Tiền Giang), quê nội của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, do những cư dân có gốc từ Quảng Ngãi mang vào. Miếu thờ bà Thủy Long và cậu Tài, cậu Quý, ngày vía 23/2 trùng với ngày vía Thiên ...
Tên gọi của những nơi thờ tự theo tín ngưỡng dân gian. | PN-Hiệp
https://ngochieppham.blogspot.com/.....hung-noi-tho-t...
Translate this page
Mar 29, 2014 - Dinh (Hán-Nôm 營 ): có lẽ từ dinh để chỉ môt nơi thờ phượng theo tín ngưỡng dân gian phổ biến ở phía Nam hơn các nơi khác, như dinh Thày Thím ở La Gi - Bình Thuận, dinh Cô ở Long Hải - Bà Rịa Vũng Tàu, dinh Cậu ở Phú Quốc thờ Cậu Tài, Cậu Quý, Chúa Ngọc Nương Nương (Thiên Y A NA).
=
Lễ hội Dinh Cậu - Dự án GIZ Kiên Giang -
kiengiangbiospherereserve.com.vn/resources/index.php?field/206
Translate this page
Khởi đầu của Lễ hội Dinh Cậu chính là lễ tế Long Vương Nam Hải, một dạng thức của lễ Cầu Ngư. Hiện nay lễ tế chính là thần Nhị Đầu Vương thái tử đại tướng quân (tức là Cậu Tài - Cậu Quý) và nữ thần Thiên Ya Na. Thời điểm diễn ra lễ hội tàu thuyền tập trung trước cửa sông Dương Đông, các chủ tàu, ngư phủ, người ...
=
Tìm hiểu về tục thờ “Bà, Cậu” ở Nam Bộ | baotintuc.vn
https://baotintuc.vn › Dân tộc - Miền núi
Translate this page
Aug 20, 2016 - Còn “Cậu” ở đây là nói về hai người con của bà tên Tài và Quý, những người luôn ở bên bà để cứu nạn những người không may gặp nạn trên sông, biển. Có ý kiến cho rằng: Bà, Cậu được thờ trên tàu, ghe của những người làm nghề liên quan đến sông nước là đức Phật Bồ Tát, vì đây là vị thần linh gần ...
-
https://moovitapp.com/index/vi/ph%C6...e_8941405-2880
Làm sao để đến Chùa Quan Âm ở Thành phố Hồ Chí Minh bằng Xe ...