-
大藏经中鬼子母使役药叉女真言宝智 兄翻译的版本。
诃利帝母役使夜叉女真言
om harite maha yaksani hara hara sarva bhaya sarva yaksani pura visani svaha
嗡 哈哩嘚 玛哈 呀格叉尼 哈拉 哈拉 萨尔瓦 巴呀 萨尔瓦 呀格叉尼 布拉 维沙尼 斯哇哈
鬼子母菩萨说供奉她的法像,以种种 饮食水果之类,要保持法坛的清洁, 供养的时候先为她供养诸佛菩萨,然 后每天持诵她的心咒一万遍,不论你 求任何事都绝对会获得机遇成就。
http://www.shengmiao.cn/bbs/forum.ph...ead&tid=361586
-
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký - Quyển Hạ
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT: ĐỊA THẦN HỘ PHÁP
地神護法品第十一
Nhĩ thời, Kiên Lao địa thần bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, ngã
tùng tích lai, chiêm thị đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, giai thị
đại bất khả tư nghị thần thông trí huệ, quảng độ chúng sanh.
爾時。堅牢地神白佛言。世尊。我從 來。瞻視頂禮
無量菩薩摩訶薩。皆是大不可思議神 智慧。廣度眾生。
(Lúc đó Kiên Lao địa thần bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch Ðức
Thế Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng Bồ
Tát Ma Ha Tát, đều là những bậc đại thần thông trí huệ bất khả tư nghị,
quảng độ chúng sanh.)
Kiên Lao địa thần là địa thần ở cõi Diêm Phù Đề, người thế gian
chúng ta thường gọi địa thần là Thổ Địa Công, sơn thần cũng thuộc loại
địa thần này. Thổ Địa là tên gọi của địa thần, khu vực cai quản rất nhỏ,
cỡ một làng, một trấn. Kiên Lao địa thần là Tổng địa thần, cai quản cả
Diêm Phù Đề, dùng cách nói hiện nay của chúng ta thì đó là cai quản địa
cầu. Địa rất cứng rắn, cho nên xưng Ngài là Kiên Lao địa thần. Chú
thích trong cuốn chú giải rất tường tận, trong kinh A Hàm đức Phật nói
với tỳ-kheo, có Tứ đại thiên thần; thứ nhất là Địa thần, thứ nhì là Thủy
thần, thứ ba là Phong thần, thứ tư là Hỏa thần. Địa, thủy, phong, hỏa
(đất, nước, gió, lửa) là tứ đại. Địa thần cũng tham dự pháp hội này, sau
khi nghe đức Phật giảng kinh thuyết pháp, Ngài đứng ra thỉnh pháp,
trước tiên nói về kinh lịch của Ngài lúc trước. Ngài nói “Con từ trước
tới nay”, đó là những việc Ngài đã thấy từ trước tới nay. “Chiêm thị,
đảnh lễ vô lượng vô số Bồ Tát, Ma Ha Tát”, chúng ta xem từ câu trên
biết thời gian tu hành của vị địa thần này rất lâu dài. Từ chỗ này chúng ta
hiểu được Kiên Lao địa thần cũng là Pháp Thân đại sĩ thị hiện, trong
những đời quá khứ Ngài đã gặp vô lượng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Ngài đã
từng bố thí, cúng dường, thân cận số Bồ Tát, Ma Ha Tát như vậy. Ma Ha
Tát là Địa Thượng Bồ Tát, Bồ Tát là địa vị Tam Hiền, Ngài cũng đã
từng gặp, bố thí cúng dường vô lượng vô số Tam Hiền thập thánh Bồ
Tát. “Đều là những vị có thần thông trí huệ chẳng thể nghĩ bàn, rộng độ
chúng sanh”, đây là những vị Ngài từng gặp. Xin xem tiếp:
Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, ư chư Bồ Tát thệ nguyện thâm
trọng. Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát ư Diêm Phù Đề hữu đại nhân
duyên.
是地藏菩薩摩訶薩。於諸菩薩誓願深 。世尊。是地
藏菩薩於閻浮提有大因緣。
(Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây so với chư Bồ Tát, thì thệ
nguyện thâm trọng. Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Ðịa Tạng đây có đại
nhân duyên với cõi Diêm Phù Ðề.)
Đây là lời của Kiên Lao địa thần nói, đây là người Ngài đã gặp.
So với những Bồ Tát khác, Địa Tạng Bồ Tát càng đáng cho địa thần kính
phục, tại sao vậy? Lời thệ nguyện của Ngài sâu nặng, sau đó Ngài có nói
rõ. [Địa Tạng Bồ Tát] “có đại nhân duyên với cõi Diêm Phù Đề”, Kiên
Lao là địa thần ở cõi Diêm Phù Đề, Ngài biết Địa Tạng Bồ Tát có duyên
phần đặc biệt đối với cõi này. Chúng ta phải hiểu lời nói này, Địa Tạng
Bồ Tát đối với địa phương nào cũng có duyên phần, duyên này tuyệt đối
đều là bình đẳng, tuyệt đối không thiên lệch. Tại sao địa thần nói như
vậy? Là nói cho chúng ta nghe. Trong phẩm Tựa chúng ta đã thấy Địa
Tạng Bồ Tát phân thân trăm ngàn ức, Ngài ở mười phương tam thế hết
thảy cõi nước chư Phật độ những chúng sanh khổ nhất, tâm Bồ Tát đều
thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, làm sao có thể thiên lệch được? Lời nói này
của Kiên Lao địa thần là lời nói tùy thuận cơ duyên, ngày nay chúng ta
sanh tại Diêm Phù Đề, hiện giờ là chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề cho
nên địa thần nói với chúng ta, Bồ Tát có nhân duyên to lớn với chúng ta,
chúng ta cảm thấy thân thiết đối với Ngài, dụng ý là như vậy. Nói thật ra
bắt đầu học Phật thì phải bắt đầu từ kinh Địa Tạng, phía trước có nói Địa
là tâm địa, Tạng là kho báu, học Phật trước hết phải khai phá kho tàng
trong tự tánh, hết thảy những lời dạy trong kinh này đều dạy chúng ta
phương pháp mở kho tàng trong tự tánh. Tự tánh có vô tận trí huệ, đức
năng, có vô tận phước báo, làm thế nào mới khai mở được? Trong kinh
này đức Phật nói rõ ràng cho chúng ta. Hiện nay điều quan trọng là
chúng ta có thể tin sâu không hoài nghi, có thể y giáo tu hành hay
không? Nếu có thể tin sâu không hoài nghi, y theo lời dạy mà tu hành thì
bạn sẽ có phước, trí huệ sẽ mở mang, phước báo sẽ hiện tiền.
Vấn đề là chúng ta đích thật tin chẳng sâu, hiểu không rốt ráo, cho
nên làm theo không dốc sức, không sốt sắng. Chúng ta được phước rất
mỏng, nhân tố đều ở tại chính mình, Phật chẳng sai, pháp cũng chẳng
sai, cổ thánh tiên hiền cũng không có sai. Họ rất từ bi, sợ chúng ta xem
xong kinh này không hiểu nên mới viết chú giải tường tận, chú giải này
chính là bố thí cúng dường. Khi chúng ta có khả năng, tốt lắm! Giảng
giải bộ kinh này, chính mình cũng có thể viết chú giải. Nếu chính mình
không có khả năng thì phải lấy chú giải của người xưa đem in ra, lưu
truyền rộng rãi cúng dường đại chúng. Phía trước trong kinh này có nói,
người soạn chú giải này là người dẫn đầu, Ngài khởi đầu tu bố thí cúng
dường, ngày nay chúng ta đọc chú giải này, chúng ta hưởng ứng và phát
tâm in ra để lưu truyền kết duyên. Còn quả báo thì người dẫn đầu làm
Chuyển Luân Thánh Vương, chúng ta tùy hỷ thì làm tiểu quốc vương,
quả báo cũng được giải thích rất rõ ràng. Việc tu phước, người có khả
năng sức lực thì tự mình làm, còn người không có khả năng sức lực thì
khuyên đại chúng cùng nhau làm, phước không bị lãng phí, mất mát.
Còn được phước nhiều hay ít là do sự dụng tâm của bạn, nếu tâm bạn
chân thành thì phước bạn được sẽ chắc thật, chân thật, tâm lượng bạn lớn
thì phước báo bạn cũng sẽ lớn.
Bồ Tát đối với địa phương nào cũng có duyên phần, duyên này tuyệt đối
đều là bình đẳng, tuyệt đối không thiên lệch. Tại sao địa thần nói như
vậy? Là nói cho chúng ta nghe. Trong phẩm Tựa chúng ta đã thấy Địa
Tạng Bồ Tát phân thân trăm ngàn ức, Ngài ở mười phương tam thế hết
thảy cõi nước chư Phật độ những chúng sanh khổ nhất, tâm Bồ Tát đều
thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, làm sao có thể thiên lệch được? Lời nói này
của Kiên Lao địa thần là lời nói tùy thuận cơ duyên, ngày nay chúng ta
sanh tại Diêm Phù Đề, hiện giờ là chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề cho
nên địa thần nói với chúng ta, Bồ Tát có nhân duyên to lớn với chúng ta,
chúng ta cảm thấy thân thiết đối với Ngài, dụng ý là như vậy. Nói thật ra
bắt đầu học Phật thì phải bắt đầu từ kinh Địa Tạng, phía trước có nói Địa
là tâm địa, Tạng là kho báu, học Phật trước hết phải khai phá kho tàng
trong tự tánh, hết thảy những lời dạy trong kinh này đều dạy chúng ta
phương pháp mở kho tàng trong tự tánh. Tự tánh có vô tận trí huệ, đức
năng, có vô tận phước báo, làm thế nào mới khai mở được? Trong kinh
này đức Phật nói rõ ràng cho chúng ta. Hiện nay điều quan trọng là
chúng ta có thể tin sâu không hoài nghi, có thể y giáo tu hành hay
không? Nếu có thể tin sâu không hoài nghi, y theo lời dạy mà tu hành thì
bạn sẽ có phước, trí huệ sẽ mở mang, phước báo sẽ hiện tiền.
Vấn đề là chúng ta đích thật tin chẳng sâu, hiểu không rốt ráo, cho
nên làm theo không dốc sức, không sốt sắng. Chúng ta được phước rất
mỏng, nhân tố đều ở tại chính mình, Phật chẳng sai, pháp cũng chẳng
sai, cổ thánh tiên hiền cũng không có sai. Họ rất từ bi, sợ chúng ta xem
xong kinh này không hiểu nên mới viết chú giải tường tận, chú giải này
chính là bố thí cúng dường. Khi chúng ta có khả năng, tốt lắm! Giảng
giải bộ kinh này, chính mình cũng có thể viết chú giải. Nếu chính mình
không có khả năng thì phải lấy chú giải của người xưa đem in ra, lưu
truyền rộng rãi cúng dường đại chúng. Phía trước trong kinh này có nói,
người soạn chú giải này là người dẫn đầu, Ngài khởi đầu tu bố thí cúng
dường, ngày nay chúng ta đọc chú giải này, chúng ta hưởng ứng và phát
tâm in ra để lưu truyền kết duyên. Còn quả báo thì người dẫn đầu làm
Chuyển Luân Thánh Vương, chúng ta tùy hỷ thì làm tiểu quốc vương,
quả báo cũng được giải thích rất rõ ràng. Việc tu phước, người có khả
năng sức lực thì tự mình làm, còn người không có khả năng sức lực thì
khuyên đại chúng cùng nhau làm, phước không bị lãng phí, mất mát.
Còn được phước nhiều hay ít là do sự dụng tâm của bạn, nếu tâm bạn
chân thành thì phước bạn được sẽ chắc thật, chân thật, tâm lượng bạn lớn
thì phước báo bạn cũng sẽ lớn.
Phật pháp được xây dựng trên cơ sở của hiếu đạo, hiếu đạo viên mãn tức
là Phật đạo viên mãn, thành tựu, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm
danh tướng vô minh chưa phá trừ nên hiếu đạo còn chưa viên mãn. Cho
nên Đại Thừa Phật pháp được xây dựng trên cơ sở của hiếu đạo viên
mãn, đây là điều chúng ta phải biết. Kinh dạy chúng ta những gì nên
làm, những gì không thể làm, đó đều thuộc về hiếu kính, người thực sự
hiếu kính cha mẹ, tôn kính sư trưởng nhất định có thể hiểu ý này, biết
phải y giáo phụng hành. Y giáo phụng hành thì cha mẹ vui mừng, đó là
tận hiếu, sư trưởng vui mừng, đó là tôn sư trọng đạo.
Hôm nay đã hết giờ, chúng tôi giảng đến đây thôi.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI170.pdf
-
Thị nhân cánh năng chuyển độc kinh điển, cúng dường Bồ Tát,
ngã thường nhật dạ dĩ bổn thần lực vệ hộ thị nhân, nãi chí thủy hỏa
đạo tặc, đại hoạnh tiểu hoạnh, nhất thiết ác sự tất giai tiêu diệt.
是人更能轉讀經典。供養菩薩。我常 夜以本神力衛
護是人。乃至水火盜賊。大橫小橫。 切惡事悉皆銷滅。
(Người đó lại có thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình
tượng của Bồ Tát, thì con thường ngày đêm dùng thần lực của mình hộ
vệ người đó, cho đến tất cả ác sự, các nạn nước, lửa, trộm cướp, và các
tai họa bất trắc lớn nhỏ thảy đều tiêu sạch.)
Ðây là lời Kiên Lao địa thần báo cáo với đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, Ngài phát tâm hộ pháp. Dùng cách nói hiện nay của chúng ta thì
Kiên Lao địa thần là vị địa thần lớn nhất, địa vị còn cao hơn vua Diêm
La, vua Diêm La là vua một nước, còn Kiên Lao địa thần là vua của toàn
thế giới, vua Diêm La cũng phải nghe lời Ngài, Ngài là địa thần ở Diêm
Phù Ðề. Giống như ngày nay chúng ta gọi là vị lãnh đạo toàn thế giới
phước báo và quyền lực của ông rất lớn, oai thế hơn người. Ðoạn cuối
cùng trong kinh văn là đoạn then chốt: “Người ấy có thể chuyển đọc
kinh điển, cúng dường Bồ Tát”, những chữ này rất quan trọng, Ngài
chẳng nói “người ấy có thể đọc kinh điển”, mà là “chuyển đọc kinh
điển”, chữ chuyển này nghĩa là gì? Mỗi ngày bạn đọc tụng kinh điển,
mỗi ngày đọc một trăm lần cũng không dùng được gì, Kiên Lao địa thần
sẽ che chở bạn hay không? Nếu bạn “chuyển đọc” kinh điển thì sẽ tương
ứng với nguyện của Ngài, các bạn suy nghĩ coi chữ chuyển này nghĩa là
gì? Cổ đức thường nói “tùy văn nhập quán” thì đó là chuyển, đọc đến
lời dạy trong kinh thì tâm niệm sẽ chuyển, do đó chuyển là y giáo phụng
hành, mỗi ngày bạn đều đọc, mỗi ngày tưởng, mỗi ngày làm theo.
Chuyển là chuyển đổi tâm niệm của chúng ta trở lại, chuyển đổi hành vi
của chúng ta, noi theo lời dạy lư luận trong kinh điển, do đó chuyển đọc
kinh điển chính là noi theo lời dạy tu hành cúng dường, đó gọi là
chuyển. Dùng công đức ấy để cúng dường Bồ Tát, cho nên cúng dường
Bồ Tát chẳng ở trên hình thức, mỗi ngày thắp hương, cúng nước, cúng
trái cây, [các Ngài] chẳng coi trọng những thứ này mà muốn bạn sốt
sắng tu hành, dùng tâm kiền thành tu hành để cúng dường, điểm này mới
quan trọng. Bạn có tâm chân thành, trên hình thức thì bạn đương nhiên
làm được. Nếu chẳng có tâm chân thành, chỉ làm trên hình thức thì
chẳng dùng được, quan trọng nhất là bạn có thành ý. Quan trọng ở chữ
chuyển, chuyển nghĩa là chuyển phàm thành thánh, chuyển phiền não
thành Bồ Ðề, chuyển mê thành ngộ, chuyển nhiễm thành tịnh đều ở chữ
chuyển này, chữ này là chữ quan trọng.
Nếu có thể noi theo lời dạy mà chuyển đổi trở lại, “ngã thường
nhật dạ”, “ngã” là Kiên Lao địa thần tự xưng, Ngài sẽ suốt ngày đêm
“dùng thần lực bảo vệ, hộ trợ người ấy”, Ngài sẽ bảo hộ họ. Cho nên
“hết thảy các nạn nước, lửa, trộm cắp, nạn lớn, nạn nhỏ, hết thảy các
việc ác đều bị tiêu diệt”, những việc ác này là do ác nghiệp của bạn tạo
từ đời trước, đời này chiêu cảm, bạn vốn sẽ bị, nhưng vì bạn có thể y
giáo phụng hành, cúng dường Ðịa Tạng Bồ Tát, nên Kiên Lao địa thần
sẽ bảo hộ bạn, tuy trong số mạng bạn sẽ gặp nạn, nhưng bạn đều có thể
tránh khỏi. Ðoạn này trong chú giải có vài câu quan trọng, chúng ta hãy
đọc xem, bắt đầu từ chính giữa hàng đầu, “Do đó thấy tâm hộ pháp của
địa thần”, trong đoạn này chúng ta thấy “giống như lời phát nguyện
trong hội Kim Quang Minh”, ý nghĩa này giống nhau. “Ngài nói ở
những nơi kinh điển này được phổ biến lưu thông, tôi đều ở đó thường
bảo vệ kinh điển”. Ðây là lời phát nguyện hộ kinh trong hội Kim Quang
Minh, lời này được ấn chứng nơi đây; Kiên Lao địa thần đích thật đã
phát nguyện này, vả lại chẳng phải chỉ phát nguyện một lần. Ba hàng
trong đoạn cuối của chú giải, bắt đầu từ giữa hàng thứ ba đếm ngược từ
dưới lên, chúng ta đọc xem “Trên thế gian có người không tin, nói đó là
lời khuyến dụ”, đây là nói người đời không tin, họ cho rằng đó là lời đức
Phật Thích Ca Mâu Ni dùng để khuyên người ta làm việc thiện, lời này
chẳng phải thật; những người có cách nhìn và nghĩ như vậy rất nhiều, họ
cứ cho rằng đức Phật nói những sự việc nhân quả báo ứng này, làm gì có
chuyện như vậy! Không phải đây là lời đức Phật Thích Ca Mâu Ni
khuyên người ta làm thiện hay sao, đây là lời nói phương tiện mà thôi.
Kế đó [trong chú giải] nói họ không hề nghe câu: “Nhà tích thiện ắt sự
vui sướng có thừa, nhà không tích thiện ắt tai ương có thừa”, câu này
chẳng phải là lời của Phật, mà là lời người Trung Quốc đời xưa nói, lời
này xuất phát từ kinh Dịch.
Phật cáo Kiên Lao địa thần: “Nhữ đại thần lực chư thần thiểu
cập”.
佛告堅牢地神。汝大神力諸神少及。
(Ðức Phật bảo Kiên Lao địa thần rằng: “Thần lực rộng lớn của
ông, các thần khác ít ai bằng”.)
Ðây là lời đức Phật tán thán địa thần. “Chư thần thiểu cập”, chư
thần là chỉ các địa thần, Kiên Lao là địa thần lớn trên địa cầu, các châu
khác cũng có địa thần, mỗi quốc gia cũng có địa thần. Giống như người
Trung Quốc thường nói về thần núi, thần đất, thành hoàng đều là các địa
thần nhỏ. Thành Hoàng là địa thần của một huyện, Thổ Ðịa là địa thần
của một hương trấn, do đó địa thần có chia cấp lớn nhỏ khác nhau, Kiên
Lao địa thần là vị lớn nhất, những địa thần khác đương nhiên chẳng bằng
Ngài. Trong phần chú thích có ghi “Thiện Tài tham học nơi An Trụ địa
thần”, Thiện Tài đồng tử cũng có tham phỏng địa thần này. “Lúc đó
trăm vạn địa thần đều phóng quang minh”, địa thần nhiều như vậy, Kiên
Lao địa thần là vị lớn nhất trong số địa thần này. Sau đó nói:
Hà dĩ cố, Diêm Phù thổ địa tất mông nhữ hộ.
何以故。閻浮土地悉蒙汝護。
(Vì cớ sao? Vì đất đai trong cõi Diêm Phù đều nhờ ông hộ trợ.)
[Kiên Lao địa thần] là tổng địa thần ở Diêm Phù Ðề.
Nãi chí thảo mộc sa thạch, đạo ma trúc vi, cốc mễ bảo bối, tùng
địa nhi hữu, giai nhân nhữ lực.
乃至草木沙石。稻麻竹葦。穀米寶貝 從地而有。皆
因汝力。
(Cho đến cỏ, cây, cát, đá, lúa, mè, tre, lau, gạo thóc, của báu, từ
đất mà có, đều nhờ nơi sức của ông cả.)
Những sanh vật trên mặt đất này, vô lượng khoáng vật ẩn chứa
dưới lòng đất, “bảo bối” là khoáng vật, đều chẳng tách lìa khỏi đại địa,
những vật này đều do Kiên Lao địa thần coi quản, Ngài có sức mạnh to
lớn để hộ trì. Tuy Ngài có thể hộ trì, nhưng thân nhân duyên vẫn là
nghiệp lực của chúng sanh, Kiên Lao địa thần chỉ là tăng thượng duyên
mà thôi. Giống như lời giáo huấn của chư Phật Như Lai, tạo tăng thượng
duyên cho chúng ta, “thân nhân duyên, sở duyên duyên, vô gián duyên”
64 nhất định là do chính mình tạo ra, “thân nhân duyên” chính là tâm
niệm thiện ác. Ngày nay khoa học gia hiểu được nguyên tố cơ bản của
hiện tượng vật chất, nguyên tố được phân tích ra thành phân tử, nguyên
tử, lạp tử, [đơn vị vật chất] được chia ra đến cuối cùng đều giống nhau.
64 a. Thân nhân duyên: Tức là hạt giống nghiệp thức trong tâm, là chánh nhân để
thành tựu tâm pháp.
b. Vô gián duyên (còn gọi là Đẳng Vô Gián Duyên): Tức là tâm phan duyên của
chúng sanh, ý niệm sau tiếp theo ý niệm trước liên tục không dứt, cho nên gọi là vô
gián duyên.
c. Sở duyên duyên: Những sự vật mà tâm niệm của chúng sanh phan duyên. Kinh
nói: “Tâm vốn chẳng sanh, do cảnh mà có”, do đó hết thảy ngoại cảnh đều là sở
duyên duyên.
d. Tăng thượng duyên: Ngoài ba thứ duyên kể trên, những sức mạnh tăng thêm bên
ngoài đều gọi là tăng thượng duyên. Bốn pháp duyên sanh này, thí dụ như người hút
thuốc, ý muốn hút thuốc do hạt giống tập khí trong tâm khởi lên là thân nhân duyên;
lòng ham muốn hút thuốc cứ khởi lên không dứt tức là vô gián duyên; khi gặp được
gói thuốc lá thì đó là sở duyên duyên; khi cơn ghiền thuốc khởi lên tức là tăng
thượng duyên; bốn duyên này thành thục nên tạo thành thói hút thuốc.
Hựu thường xưng dương Ðịa Tạng Bồ Tát lợi ích chi sự, nhữ
chi công đức cập dĩ thần thông, bách thiên bội ư thường phân địa
thần.
又常稱揚地藏菩薩利益之事。汝之功 及以神通。百
千倍於常分地神。
(Ông lại luôn khen ngợi những sự lợi ích của Bồ Tát Ðịa Tạng, thì
công đức và thần thông của ông sẽ trăm ngàn phần trội hơn của các địa
thần bình thường.)
Ðây là lời đức Thế Tôn tán thán Kiên Lao địa thần. Ngài có thể
giữa đại chúng trong pháp hội, xưng dương những sự lợi ích chúng sanh
của Ðịa Tạng Bồ Tát, đây là điều chúng ta đọc được trong kinh này,
công đức của sự lễ kính, xưng dương, tán thán, cúng dường vô lượng vô
biên, ở đây đức Phật tán thán công đức của Ngài. Và thần thông, năng
lực của Ngài hộ trì Phật pháp, hộ trì chúng sanh, hộ trì đại địa vạn vật,
năng lực này rất lớn. “Gấp trăm ngàn phần trội hơn các địa thần
thường”, đây là điều phần đông các vị địa thần chẳng sánh bằng. Trong
đoạn chú giải này có vài câu chúng ta hãy đọc xem, “Xưng dương tán
thán là môn thứ hai của mười nguyện Phổ Hiền”, nguyện Phổ Hiền có
mười môn, thứ nhất là “Lễ Kính Chư Phật”, thứ hai là “Xưng Tán Như
Lai”, do đó ở đây Ngài xưng dương tán thán hạnh Phổ Hiền. Phần sau
nói “Một niệm xưng dương, vạn đức tự đầy đủ”, rất nhiều người không
biết cái hay của sự xưng dương, chẳng biết lợi ích của sự xưng dương.
Nếu hỏi lợi ích chân thật của sự giảng kinh thuyết pháp là ở chỗ nào?
Ðại khái ngay cả người giảng kinh thuyết pháp cũng rất ít người biết, cái
hay thực sự là tỏ lộ tánh đức của chính mình.
Hết thảy kinh luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng đều từ
tự tánh lưu lộ ra, chúng ta đọc tụng tán dương, tuyên giảng là tán dương,
chính là tán dương tánh đức của chính mình, mượn tánh đức do đức Phật
Thích Ca Mâu Ni tỏ lộ để dẫn dắt tánh đức của chính mình, đây là công
đức chẳng thể nghĩ bàn, lợi ích chân thật, cái hay thực sự. Một người tu
hành không thể minh tâm kiến tánh, nếu thường giảng kinh, giả sử tiếp
tục qua nhiều năm chẳng gián đoạn, kẻ ấy nhất định sẽ minh tâm kiến
tánh, tại sao vậy? Mỗi ngày đều tuyên dương tánh đức, mỗi ngày đều
huân tu, mỗi ngày đều huân tập, không hay không biết dần dần tánh đức
cũng sẽ bộc lộ ra ngoài, là lý lẽ như vậy. Chỉ sợ là bạn không chịu tuyên
giảng, sợ là bạn thường gián đoạn nửa chừng, vậy th́ không có cách chi
khác. Nếu không gián đoạn giữa chừng, vui vẻ mà giảng, hoan hỷ giảng
là loại thứ tư “Nhạo thuyết vô ngại biện” trong “tứ vô ngại biện tài”, chữ
nhạo ở đây chính là hoan hỷ giảng; vui vẻ giảng cho người khác nghe,
khuyên người dứt ác tu thiện, thấy người ta được phước, đó là công đức
chẳng thể nghĩ bàn của việc xưng tán. Sau đó nói “Một niệm xưng
dương, vạn đức đều tự đầy đủ”, hai chữ tự đủ rất quan trọng.
“Do đó các Phật tử, khi đến pháp hội, kẻ sơ học, người tu đã lâu,
tuyên lưu Phạm Bối”, vì duyên cớ này, Phật tử là học trò của Phật, kẻ
phát nguyện học theo Phật đến pháp hội sơ kiến là người sơ học, cửu văn
là người tu lâu năm, bất kể bạn là người sơ học hay người tu lâu năm,
bạn đều có trách nhiệm tuyên lưu Phạm Bối. Tuyên lưu Phạm Bối chính
là giảng kinh thuyết pháp, tán thán lời dạy của đức Phật. Phần sau nói
“Lịnh địa thần bất duy năng chủ Diêm Phù Đề vật” (làm cho địa thần
không những chỉ có thể chủ quản vạn vật ở Diêm Phù Đề), “chủ” nghĩa
là chủ quản, ngài cai quản hết thảy vạn vật ở đại địa cõi Diêm Phù Đề,
đây là chức vụ của Ngài. “Phục cánh tán dương Địa Tạng lợi ích chi
sự” (lại còn có thể tán dương sự lợi ích của ngài Địa Tạng), đây là việc
hy hữu khó được, Ngài xứng đáng là đệ tử của Phật, Ngài có thể tán
thán. “Tắc vi hộ pháp địa thần” (ắt làm vị địa thần hộ pháp), Ngài làm
trọn bổn phận trách nhiệm của một vị địa thần, vả lại còn có thể hộ trì
Phật pháp, có thể y giáo phụng hành. “Kỳ phước nghiệp huệ nghiệp, tự
nhiên thâm quảng, công đức thần thông, diệc phả tư nghị” (phước ấy và
huệ ấy tự nhiên sâu rộng, công đức thần thông cũng chẳng thể nghĩ bàn),
đây là lời tán dương, khen ngợi địa thần. Lời trong kinh là do đức Phật
khen ngợi, lời trong chú giải là do pháp sư Thanh Liên khen ngợi. Chúng
ta nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa trong đó
Nhữ dĩ bổn thần lực nhi ủng hộ chi, vật lịnh nhất thiết tai hại
cập bất như ý sự triếp văn ư nhĩ, hà huống lịnh thọ.
汝以本神力而擁護之。勿令一切災害 不如意事輒聞
於耳。何況令受。
67 Nam Nhạc ở đây chính là ngài Nam Nhạc Huệ Tư, thầy của ngài Trí Khải (đại sư
Trí Giả). An Lạc Hạnh là tên một phẩm trong kinh Pháp Hoa, dạy về bốn hạnh cần
có của người thọ trì, hoằng dương kinh Pháp Hoa. Gọi là “hữu tướng” vì nói về
phương diện hành trì (sự tu).
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký - Quyển Hạ
Phẩm Thứ Mười Một: Địa Thần Hộ Pháp - Tập 41 356
(Thì ông nên dùng thần lực của mình mà ủng hộ, chớ để mọi tai
hại cùng sự không vừa ý lọt vào tai người đó, huống nữa là để cho phải
chịu đựng.)
Đây là lời Thế Tôn nói với Kiên Lao địa thần. “Nhữ dĩ”, nhữ chỉ
Kiên Lao địa thần, ông nên dùng thần lực của mình để ủng hộ “người tu
hành theo một điều [dạy trong kinh, nghĩa là]” người chuyên tu chuyên
hoằng này; ông dùng thần lực của mình để ủng hộ cho người đó, người
thế gian chúng ta gọi là bảo hựu, gia trì, làm cho những tai hại và những
sự chẳng như ý họ chẳng còn nghe tới huống chi là để cho họ nhận chịu,
đương nhiên họ sẽ không gặp phải. Đoạn này là đức Thế Tôn dặn dò
Kiên Lao địa thần, ân cần thỉnh Kiên Lao địa thần bảo hộ những người
này, giúp đỡ họ thành tựu. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong chú giải,
đoạn này chú thích rất hay “Sắc địa thần ủng hộ giả”, Sắc là bề trên nói
với kẻ dưới, bảo kẻ dưới làm. “Dĩ thử thiện tín nhược Phật hiện tại túc
xưng Tứ Tín. Kim ư diệt hậu khả đương ngũ phẩm” (Do vậy Thiện Tín,
nếu Phật còn tại thế, đáng xưng là bậc chứng Tứ Tín, nay do Phật đã diệt
độ, họ sẽ có thể đạt được Ngũ Phẩm). Tứ Tín và Ngũ Phẩm
68 là danh
xưng địa vị của tông Thiên Thai. Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai là
Như Lai thị hiện, rất nhiều người đều biết chuyện này, trong Sử Truyện
68 Tổ Ấn Quang giảng:
Nam Nhạc Tư đại thiền sư, là thầy đắc pháp của ngài Trí Giả, có đại trí huệ, có đại
thần thông, lâm chung có người hỏi đến sở chứng, bèn nói: “Thoạt đầu ta mong được
Đồng Luân (tức địa vị Thập Trụ, phá vô minh, chứng Thật Tướng, vừa dự vào Thật
Báo, phần chứng Tịch Quang. Bậc Sơ Trụ có thể thị hiện làm thân Phật trong tam
thiên đại thiên thế giới giáo hóa chúng sanh. Bậc Nhị Trụ có thể hiện trong một ngàn
tam thiên đại thiên thế giới, Tam Trụ thì một vạn, địa vị càng cao lên thì con số càng
tăng gấp mười, há tiểu căn làm được ư?). Nhưng vì lãnh chúng quá sớm, chỉ chứng
được Thiết Luân mà thôi! (Thiết Luân là địa vị Thập Tín. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc,
Thất Tín đoạn Tư Hoặc. Bát, Cửu, Thập Tín phá Trần Sa Hoặc, khuất phục vô minh.
Ngài Nam Nhạc thị hiện ở vào địa vị Thập Tín, còn chưa chứng được pháp Thật
Tướng. Nếu phá một phẩm vô minh, liền dự vào Sơ Trụ, mới có thể nói là viên
chứng pháp Thật Tướng). (Trích từ Ấn Quang Văn Sao Chánh Biên, Thư trả lời cư sĩ
X... ở Vĩnh Gia)
Như Trí Giả đại sư thật sự là hóa thân của Phật Thích Ca, đến lúc lâm chung, có
người hỏi đến địa vị chứng nhập, bèn đáp: “Nếu ta không lãnh chúng, ắt tịnh sáu căn.
Do tổn mình lợi người nên chỉ dự vào Ngũ Phẩm”, tức là vẫn còn thuộc địa vị phàm
phu. Ngũ Phẩm chính là địa vị Quán Hạnh trong Viên Giáo, sở ngộ ngang với Phật,
đã khuất phục trọn vẹn Ngũ Trụ Phiền Não, nhưng chưa thể đoạn Kiến Hoặc. (Văn
Sao Chánh Biên, thư gởi cư sĩ Lâm Chi Phần ở Thái Thuận – 2)
cũng có ghi chép, nói Ngài là đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái lai, đức Phật
Thích Ca ứng hóa ở Trung Quốc. Chư Phật, Bồ Tát trở lại thị hiện rất
nhiều, không lộ thân phận, phàm phu chúng ta không nhận biết được.
Hàng sau cùng, đây là lời nói trong kinh Kim Quang Minh, trang
bốn mươi ba phần cuối, bắt đầu coi từ câu cuối “Kiên Lao bạch Phật
ngôn” đây là lời Kiên Lao địa thần nói, tuy chẳng phải trong pháp hội
này, chẳng phải trong kinh này, có thể thấy Kiên Lao địa thần đã phát
nguyện nhiều lần giống như Địa Tạng Bồ Tát vậy. Ngài nói “Thuyết
pháp tỳ-kheo, tọa pháp tòa thời, ngã thường trú dạ, vệ hộ bất ly, ẩn tế kỳ
hình, tại pháp tòa hạ, đỉnh tải kỳ túc” (Tỳ-kheo thuyết pháp, lúc ngồi
trên pháp tòa, đêm ngày tôi thường hộ vệ chẳng rời khỏi, ẩn hình dưới
pháp tòa, đầu đội chân [của tỳ-kheo thuyết pháp]). Chúng ta tin lời nói
của địa thần là thật. Cho nên thực sự phát tâm thuyết pháp, dùng tâm
chân thành, tâm vô tư, tâm lợi ích chúng sanh mà thuyết pháp, khi bạn
ngồi trên ghế này thì Kiên Lao địa thần sẽ ở phía dưới ghế, địa thần cung
kính đội [chân người thuyết pháp] trên đỉnh đầu. Từ đây có thể biết
thăng tòa thuyết pháp không phải nói giỡn chơi, phải dùng tâm ân cần
kính trọng, một tơ hào lơ đễnh cũng không được, bạn lơ đễnh thì sẽ mắc
lỗi với địa thần. Do đó người đăng đàn thuyết pháp không đúng như
pháp thì yêu ma quỷ quái vây quanh, đây là đạo lý nhất định. Ở những
chỗ này chúng ta phải đặc biệt lưu ý, phải tin sâu lời của Phật, lời Phật
nói câu nào cũng chân thật, ý của đoạn này rất dài.
Hôm nay đã hết giờ, chúng tôi giảng đến đây thôi.
-
Bạn dùng tâm thiện, hạnh thiện này cúng dường Địa Tạng Bồ Tát,
chuyển đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, noi theo lý luận phương
pháp của kinh này để chuyên tu, chuyên hoằng, “nhất sự tu hành” là
chuyên tu, chuyên hoằng, bạn mới được Kiên Lao địa thần ủng hộ, bạn
mới được thiên vương, thiên thần của cõi trời Dục Giới, Sắc Giới ủng
hộ. Họ dựa vào cái gì mà ủng hộ bạn? Vì bạn là Bồ Tát, thiện nam tử,
thiện nữ nhân chẳng phải là người nào khác, là Bồ Tát thì họ làm sao
không ủng hộ được? Bạn làm được điều thứ nhất trong Tam Phước thì
bạn chỉ là người thiện trong thế gian, những thiện thần ở trời Dục Giới sẽ
bảo hộ bạn, thần thổ địa ở nơi bạn ở sẽ bảo hựu bạn. Kiên Lao địa thần
là Tổng địa thần của toàn thế giới, [làm tới mức thiện thứ nhất thì] không
cần Ngài, Ngài chỉ phái vài vị thổ địa là được. Nếu thiện của bạn đạt đến
mức thiện của Nhị Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác, bạn chẳng còn là
phàm phu nữa, trong Tiểu Thừa bạn đã dự vào dòng thánh, bạn có thể
cảm được thiên thần ủng hộ bạn, những thiên vương này tôn kính bạn,
thiên thần ủng hộ bạn. Khi bạn là Bồ Tát thì thiên vương tôn kính bạn,
ủng hộ bạn.
Phía trước Kiên Lao địa thần đã nói, trong chú giải ghi lời trong
kinh Kim Quang Minh, hàng thứ nhất trang bốn mươi ba trong chú giải,
bắt đầu từ câu cuối cùng “Kiên Lao bạch với Phật”, Kiên Lao địa thần
là địa thần của toàn thế giới, chẳng phải địa thần thường. “Khi tỳ-kheo
thuyết pháp, lúc ngồi trên pháp tòa, ngày đêm tôi thường hộ vệ chẳng
rời khỏi, ẩn hình dưới pháp tòa, đầu đội phía dưới chân [của tỳ-kheo
thuyết pháp]”, do đó đây không phải là việc thiện nhỏ có thể cảm được.
Địa vị của Kiên Lao địa thần còn cao hơn vua Diêm La; vua Diêm La
chỉ thống trị một nước, một quốc gia, còn Kiên Lao địa thần cai trị toàn
thế giới. Thế giới của chúng ta vẫn chưa được như thế, khi toàn thế giới
thống nhất rồi, vị quốc vương khi ấy mới là Kiên Lao địa thần. Kiên Lao
địa thần [núp] ở dưới chỗ ngồi của bạn, đầu đội chân của bạn, [bạn nghĩ
coi] bạn có phước báo lớn hay không! Do đó thiện nam tử, thiện nữ nhân
nói ở đây là sự thiện to lớn, không phải là thiện nhỏ. Thiện nhỏ cảm
được vị thổ địa nhỏ, đầu đội dưới ghế của bạn, bạn đã rất vinh dự rồi. Vị
thần Thổ Địa cũng như làng trưởng, thôn trưởng. Do đó chúng ta phải
hiểu rõ mỗi chữ, mỗi câu trong kinh thì mới không đến nỗi hiểu lầm.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI170.pdf
-
THỔ THẦN VÀ TẬP TỤC CÚNG MÙNG 2, 16 CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC
EDITOR February 13, 2019 0
https://i0.wp.com/nghiencuutongiao.i...size=750%2C375
Thổ thần hay Thổ địa, là một trong ba vị thần phổ biến và gần gũi nhất của dân Tàu[1].
Trong tín ngưỡng dân gian, Thổ địa là phúc thần, chuyên trách bảo hộ địa phương. Thuở ban sơ, khi mới thiết chế lễ nghi, đã có tục thiên tử tế trời, sĩ đại phu tế đất, để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Thời hiện đại thì Thổ địa đã được biên chế chính quy, ngoài nhiệm vụ khuyến nông, thần còn ban phước, trợ tài, phù hộ bình an.
NGUỒN GỐC
Trước tiên là tự dạng: do chữ Thổ 土 có hình dạng như thập tự cắm trên mặt đất, nên có kẻ bàn đây là totem bộ lạc Hữu Hùng của Hiên Viên (Huỳnh đế). Đó là bàn láo, cốt giành hình tượng thánh giá chứ chẳng chứng cớ gì. Bởi thực ra, hai nét ngang của Thổ, nét trên tượng trưng mặt đất, nét dưới là lòng đất, nét sổ là thân cây bám rễ vươn cao.
“Thuyết văn giải tự” do đó giải nghĩa: Thổ dưỡng nuôi vạn vật. Lời này cho thấy chữ Thổ chỉ xuất hiện khi loài người đã biết trồng trọt, canh tác.
Đất bao dung cung cấp vật thực cho người, nên Thổ địa được tôn Phúc Đức chánh thần, Phúc Đức lão gia, Phúc Đức bá công…
Các cổ tịch Trung Hoa như Hiếu kinh, Tả truyện, Xuân thu Công Dương giải hỗ… đều có ghi chép về tục sùng bái Thổ thần. Theo đó thì xưa gọi thần đất là Xã[2], thần lúa là Tắc. Hai chữ Xã Tắc 社稷 vì vậy hàm nghĩa đất nước ông bà.
Lễ ký còn ghi rõ: Vào tháng Trọng xuân, lấy ngày đầu tháng làm lễ tế thần Xã trong dân[3].
Theo Tả truyện, cháu đời thứ 11 của Viêm đế (Thần Nông) tên Câu Long 句龍, có công bình định chín châu, được phong tước Công, quan làm Hậu Thổ 后土; sau khi mất, ông được thờ làm thần Xã. Lễ tế thần Xã chia Xuân thu nhị kỳ, là Xuân Xã và Thu Xã.
DÂN TỤC
Xã là thần đất, tất phải có cương vực phân minh; mỗi vùng đất lại có đặc thù riêng, khiến ông Xã được cách tân, thành thần Thổ địa để đáp ứng thổ nhưỡng tùy nơi, nên trong dân gian, mỗi vùng đất đều có truyền thuyết riêng về Thổ địa. Đây chỉ lược kê vài thuyết phổ biến:
1. Đời Chu có Trương Phúc Đức, sinh vào mùng 2 tháng Hai năm Châu Võ vương thứ 2 (1.134 tr.Cn). Đức từ nhỏ đã thông minh hiếu thuận, đến năm 36 tuổi đảm nhận quan Tổng thuế, một đời cần chính thanh liêm, thọ đến 102 tuổi. Dân chúng nhớ ơn, chất đá làm miếu thờ. Đồn rằng Đức sống thanh liêm nên chết đi còn hiển hách, vẫn phù hộ dân chúng làm ăn thịnh vượng; triều đình phong làm Phúc Đức chánh thần 福德正神.
2. Thuyết khác kể rằng: đời Chu có vị Thượng đại phu, do nhậm chức phương xa, để vợ con cùng nghĩa bộc Trương Minh Đức ở lại quê. Xảy có gia biến, phu nhân phải thác, nghĩa bộc đã không quản gian nguy, địu con chủ lên lưng, xông pha ngàn dặm giúp nó tìm cha. Dọc đường bị trận bão tuyết, Trương Minh Đức cởi áo bọc kín giữ ấm cho tiểu chủ. Khi Thượng đại phu hay tin tìm tới nơi thì con gái hãy còn thoi thóp, nhưng Đức đã chết cóng. Lúc ấy bỗng sấm nổ vang, mây hồng tụ lại thành hàng chữ: “Nam thiên môn đại tiên Phúc Đức chánh thần”. Châu Võ vương cảm động khen rằng: “Người trung nghĩa dường ấy xứng làm bậc đại phu”.
3. Thuyết khác lại kể: xưa có ông lão nhặt được quả trứng trong lùm, đem về cho gà ấp. Chừng nở ra thấy là con rắn, ông vẫn tận tâm nuôi nấng. Con rắn sau thành tinh quậy phá cả vùng. Ông lão cho là do mình gây nên tội nghiệt, nên thề quyết tự tay tru diệt yêu tà, rốt cuộc cả rắn lẫn người đều chết. Cảm ân đức ấy, dân làng lập đền thờ. Nhà vua biết chuyện, ban tước Công cho ông lão, sắc phong làm Thổ địa công.
CHỨC NĂNG
Thổ địa tuy là phúc thần, nhưng chức năng chỉ tương đương viên quan địa phương, bảo hộ dân chúng trong làng xóm. Chỉ khi được triều đình sắc phong, Thổ địa làng sẽ đội mão Tể tướng (do lời tán thán của Châu Võ vương), chính thức làm Phúc Đức chánh thần, tương đương Thành hoàng trong huyện thị.
Tập tục thời xưa, mỗi làng mạc đều có miếu Thổ địa. Trẻ mới sinh đầy tháng là được ẵm tới miếu làm lễ ra mắt Thổ địa, tương tự thời nay làm chứng nhận khai sinh hộ tịch. Người già mất đi, gia quyến cũng tới miếu thắp nhang, khấn rõ tuổi tên người chết, nhờ Thổ địa dẫn lối siêu sinh, ấy là làm chứng tử.
Người Mân Nam (tức Phúc Kiến, Hakka) tin rằng ngoài chức năng bảo hộ nông nghiệp, Thổ địa còn giúp phù trì công việc mua bán thuận lợi; nên ở Đài Loan, dân chúng đồng nhất Thổ địa với Thần tài, là thủ hộ cho công ty, hãng xưởng.
Ở Quảng Đông, Hong Kong, Macao, Triều Châu, Đài Loan, bên cạnh ông Thổ địa (Thổ địa công 土地公), còn đặt thêm tượng phối ngẫu của ông, tức bà Thổ địa (Thổ địa bà 土地婆) phụ trách đỡ đần bình an cho phụ nữ.
Người Phúc Kiến gọi Thổ địa là Bá công 伯公, kiêm thêm việc canh giữ mộ địa được yên lành, nên nghĩa trang Phúc Kiến luôn có miếu Bá công. Vào 16 tháng Chạp hàng năm, người ta ra thắp nhang dâng lễ, tạ ơn vất vả của Bá công, xong mới tảo mộ người thân.
HÌNH TƯỢNG
Về chất liệu, tượng Thổ địa được nắn đất, chạm gỗ, khắc đá, đúc đồng tùy nơi. Còn hình dạng chung thì Thổ địa thường là vị trưởng giả hiền từ, nhưng tướng mạo mỗi nơi có khác nhau: nơi thị tứ thì Thổ thần ra dáng phú ông, tay cầm thẻ ngọc Như ý hoặc đồng tiền, thoi vàng; chốn thôn quê thì Thổ thần chống gậy tiên phong đạo cốt; ở chỗ sơn lâm, Thổ thần cưỡi cả cọp, rồng, kỳ lân; đất văn học thì Thổ thần được tạo hình quan văn nho nhã.
Dân Đài Loan có truyền thuyết Thổ thần cai quản cả chúa sơn lâm[4], nên đặt thêm tượng cọp phủ phục dưới bệ thần, kêu bằng “Hổ tướng quân”, giúp đuổi tà ma dịch bệnh.
MIẾU THỜ
Miếu Thổ thần còn gọi miếu Phúc Đức (người Phúc Kiến gọi Bá công miếu 伯公廟), hầu hết đều do dân chúng tự dựng nên, xuất hiện khắp hương thôn tới thị thành.
Miếu đa phần đơn sơ, vách đất che rơm cũng linh thiêng, thậm chí có khi chỉ cần ba hòn đá chất vệ đường cũng thành miếu Thổ địa[5].
TỤC CÚNG MÙNG 2, 16
Lễ cúng miếu Thổ địa thuở xưa chia làm Xuân Xã 春社, nhằm mùng 2 tháng Hai âm lịch; và Thu Xã 秋社, trùng với tiết Trung thu. Dư dả thì dâng phẩm vật đủ tam sinh[6], lỡ eo hẹp thì miếng thịt hoặc ít trứng gà, trái cây cũng đủ tỏ tâm thành.
Thổ thần ngày thêm thân thiết, nên dần được người Tàu rước về thờ cúng tại gia, mỗi ngày thắp nhang đảnh lễ. Riêng các nhà làm nghề buôn bán, do đồng nhất Thổ thần với Tài thần, nên mỗi tháng vào mùng 2 và 16, đều làm lễ cúng Thổ thần để cầu mua may bán đắt. Lệ cúng này gọi Tác nha 作牙, hoặc Nha tế 牙祭.
Nha 牙 ở đây là ngà voi. Số là vào cổ đại, trong mỗi quân doanh đều có lá đại kỳ, do chỗ cán của đại kỳ này, ở tay cầm thường làm bằng ngà voi, nên đại kỳ còn gọi Nha kỳ 牙旗, là tượng trưng chiến thần phù trợ đại quân. Mỗi tháng, trong quân đều long trọng tế Nha kỳ vào ngày mùng 2 và 16, vừa là cầu nguyện thần linh, cũng là dịp tiệc tùng thắt chặt tình đồng đội vào sinh ra tử. Vào 2 ngày này, các cửa hàng trong thành cũng được hưởng sái, từ thịt cá heo gà cho tới nhang đèn mắm muối, đều tấp nập người mua. Lệ Tác nha do đó dần thành tục cúng Thổ thần cả của giới doanh thương.
Vía Thổ thần mùng 2 tháng Hai được lấy làm ngày đầu tiên cúng Tác nha trong năm, nên gọi Đầu nha 頭牙; ngày 16 tháng Chạp theo đó là ngày cuối cúng Thổ thần trong năm, gọi Vĩ nha 尾牙. Vào hai ngày này, các chủ doanh nghiệp đều làm tiệc lớn, vừa là lễ tạ thần linh, vừa để khao thưởng nhân viên sau năm dài vất vả; nhất là Vĩ nha rất được trọng, là bữa lễ tất niên của mọi doanh nghiệp Tàu.
BÀN THỜ
Bàn thờ Thổ địa thường đặt dưới đất, dựa vô tường và quay ra cửa chính. Lệ đặt bàn thờ lối này có từ đời Minh, được cắt nghĩa bằng giai thoại về Chu Nguyên Chương.
Chương là kẻ thất phu lỗ mãng, nhưng từ khi lên ngôi thì chuyên tâm học hành, văn tài trở nên xuất chúng, có thể tự thảo chiếu thư, trước tác sách vở. Một hôm vi phục xuất tuần, Chương gặp Giám sinh nọ, đôi bên trò chuyện tương đắc, kéo nhau đi nhậu. Trong quán lúc đó đầy khách, Chương bèn rinh tượng Thổ thần trên bệ xuống đặt dựa vách, rồi phủi đít lên bàn thờ, ngồi đối ẩm với Giám sinh. Hỏi quê đâu thì Giám sinh nói ở Trùng Khánh. Chương nhân đó ra vế đối:
千里為重, 重水重山重慶府 Thiên lý vi trùng, trùng thủy trùng sơn Trùng Khánh phủ;
(Ngàn dặm gặp nhau, trùng nước trùng non là phủ Trùng Khánh – Câu này ý tứ bình thường, ngặt chỗ chơi chữ: Trùng 重 trên là chữ Thiên 千, dưới chữ Lý 里).
Giám sinh đối lại:
一人成大, 大邦大國大明君 Nhất nhân thành đại, đại bang đại quốc đại minh quân
(Một người nên lớn, vừa lớn đất lớn nước, vừa lớn vị vua hiền – chữ Đại 大 gồm Nhất 一 và Nhân 人 ghép thành).
Được nịnh “minh quân” đối với Chương đã thành nhàm, ông chỉ lấy làm lạ: sao tên Giám sinh kia biết mình là vua. Vừa tính gặng hỏi thì Giám sinh đã phẩy tay áo, hóa gió bay mất.
Chương đi rồi, chủ quán bê Thổ thần đặt lên chỗ cũ. Đêm đó, chủ quán chiêm bao bị Thổ thần quở trách: “Hoàng đế đã định vị ta ngồi dưới đất, sao ngươi dám cãi đem để lên trên?”[7] Từ đó, bàn thờ Thổ địa được đặt dưới đất.
Tuy địa vị có phần thấp kém, không thể so với Ngọc hoàng Đại đế, Quan âm Bồ tát, Quan thánh Đế quân… Nhưng Thổ địa gần gũi thân thiết với dân hơn hết, nên được thờ cúng rộng rãi khắp mọi nhà.
Bài vị Thổ thần phía trên thường là 4 chữ lớn “Phúc đức chánh thần”, hai bên là đôi liễn:
福而有德千家敬 Phúc nhi hữu đức thiên gia kính;
正則為神萬世尊 Chánh tắc vi thần vạn thế tôn.
(Đã phúc lại đức, ngàn nhà kính ngưỡng; Ngay thẳng nên thần, muôn đời tôn sùng).
Hoặc có khi hàm súc, đanh gọn như lời nguyền:
安仁自安宅 An nhân tự an trạch;
有土必有神 Hữu thổ tất hữu thần.
(Giữ lòng nhân thì nhà cửa tự yên ổn; Có đất ấy tất phải có thần ấy).
THỔ ĐỊA CỦA TỘC VIỆT
“Đất có Thổ công, sông có Hà bá”. Dễ nhận ra: cả Thổ công lẫn Hà bá của Việt tộc đều mang đậm ảnh hưởng của Tàu, và đặc biệt những chỗ biến cải lại thành ra tùy tiện, vô căn cớ.
Cổ tích Bắc Việt gom chung nguyên bộ Thổ địa, Thần tài với Táo quân thành mối tình tay ba, với người chồng trước làm “Thổ địa” trông coi nhà cửa, chồng sau làm “Thổ công” coi sóc bếp núc, và người vợ là “Thổ kỳ” quản việc chợ búa[8]. Nhưng trong thờ tự lúng túng lý giải không ra: tại sao lại có Thần tài đực rựa ngồi chung ban thờ với Thổ thần?
Ngộ nữa ở chỗ tạo hình: trong bàn thờ, Thổ địa là ông râu dài gầy gò nhưng quắc thước, còn Thần tài chính là ông ăn vận kiểu nông dân nhưng lại có bụng phệ. Tới chừng Tết múa lân thì ông Địa lại đổi dạng, ngó bộ y chang Thần tài. Vậy là sao?
Đó là những nghi vấn chẳng nhà văn hóa-phong tục nào, cả ta lẫn Tàu, có thể lý giải thỏa đáng, thôi cứ xí xái bỏ qua. Điều tệ hại nhất của Việt tộc không phải những tiểu tiết đó, mà ở tục cúng Mùng 2, 16.
Người Việt chỉ mới thờ cúng Thổ địa dạo gần đây. Đừng nói ngoài Bắc trước kia, dân chúng buộc phải tỏ ra vô thần cho hợp với “triết lý duy vật” của cộng sản; còn trong Nam, tuy có sống chung đụng với người Tàu, nhưng cũng chẳng người Việt nào thờ Thổ thần trong nhà, hoặc có chăng chỉ là hình thức “bàn Thông thiên” đặt ngoài sân. Việc cúng lạy vào Mùng 2, 16 Âm lịch lại càng không thể có.
Vậy mà khoảng hai, ba mươi năm trở lại đây, thì các nhà kinh doanh-dịch vụ, công ty đã đành mà công sở cũng vậy, từ khắp trong Nam ngoài Bắc đều có kiểu cúng cô hồn vào tối mùng 2, 16 hàng tháng. Việc này được giải thích là “phong tục cúng cô hồn”, là phát xuất tự cái tâm từ bi bác ái, thương tuốt âm binh cô hồn các đẳng. Nói thì hay nhưng thực tế thế nào? – Có nghe người Việt khấn vái mới hay: té ra người ta van nài âm binh đừng quấy rối!
Khác với người Tàu cúng thần minh bằng tâm thế hướng thiện tích cực, người Việt lạy cô hồn với tâm thế xua tà tiêu cực. Nên cúng xong, người Tàu ung dung dọn mâm cúng xuống, gia đình vui vẻ quây quần thưởng thức miếng ngon; còn người Việt cúng xong phải đổ bỏ lễ vật, chớ dám động tới.
Tục ngữ có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Cúng thần linh thì tinh thần cũng nhờ đó thêm sáng láng; còn cứ cúng ma quỷ vong hồn thì chỉ tổ ngày càng u tối, riết sẽ thành âm binh cả lũ.
_________
[1] Gồm Thổ thần, Tài thần và Táo quân.
[2] Theo Tả truyện, Xã nguyên nghĩa là đơn vị hành chánh cơ bản, gồm 25 nóc gia: Nhị thập ngũ gia vi nhất xã 二十五家為一社.
[3] Nguyên văn: Trọng xuân chi nguyệt, trạch nguyên nhật mệnh dân Xã 仲春之月,擇元日命民社 (Trọng xuân là tháng Hai âm lịch].
[4] Thổ địa thần hạt sơn trung hổ 土地神轄山中虎.
[5] Miếu loại này gọi “miếu hình chữ Lỗi”, do chữ Lỗi 磊 gồm ba chữ Thạch 石 chồng lên nhau. Lối thờ tự bình dân này rất giống tục thờ ông Tà của người Kh’mer Nam bộ. “Ông Tà” tức Neak Ta, vị thần cai quản phum sóc. Có khi người Kh’mer chỉ cần đặt hòn đá trơn láng bên vệ đường, dưới gốc cây, là thành nơi thờ cúng ông Tà.
[6] Tam sinh 三牲: thời xưa gồm bò, dê và heo; thời nay đổi làm heo, gà và cá.
[7] Giai thoại Lý Công Uẩn đánh Hộ pháp Già lam, đày ra ba ngàn dặm, hình như là biến thể của tích này.
[8] Sự tích Ông đầu rau.
Vinhhuy Le
Facebookgoogle_plusChia sẻ
EDITOR
Editor
TAGSTHỔ THẦNVĂN HÓA Á ĐÔNG
SHARE:
Previous Article
LỊCH SỬ THIỀN QUÁN VIPASSANA
Next Article
MÙA LỄ HỘI
Editor
RELATED POSTS
THỊ TRƯỜNG TÂM LINH
MÙA LỄ HỘI
BY EDITOR February 13, 2019 0
HÀNH TRÌNH TINH THẦN
THƠ THIỀN LÝ-TRẦN (1): THƠ ĐỊNH TÂM
BY NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO May 28, 2018 0
LEAVE A REPLY
Your email address will not be published. Required fields are marked *
Write your comment here
Name*...
Email*...
Website...
SEND
Notify me of follow-up comments by email.
Notify me of new posts by email.
http://nghiencuutongiao.info/2019/02...oi-trung-quoc/
-
堅Kiên 牢Lao 地Địa 天Thiên 儀Nghi 軌Quỹ
爾nhĩ 時thời 堅Kiên 牢Lao 地Địa 天Thiên 。 及cập 大Đại 功Công 德Đức 天Thiên 。 俱câu 共cộng 從tùng 座tòa 而nhi 起khởi 。 白bạch 佛Phật 言ngôn 。
世Thế 尊Tôn 。 若nhược 有hữu 比Bỉ 丘Khâu 。 比Bỉ 丘Khâu 尼Ni 。 優Ưu 婆Bà 塞Tắc 。 優Ưu 婆Bà 夷Di 。 童đồng 男nam 童đồng 女nữ 等đẳng 。 常thường 攝nhiếp 五ngũ 根căn 。 繫hệ 念niệm 至chí 心tâm 。 我ngã 地địa 天thiên 。 及cập 功Công 德Đức 天Thiên 。 禮lễ 拜bái 恭cung 敬kính 供cúng 養dường 。 及cập 念niệm 誦tụng 我ngã 真chân 言ngôn 者giả 。 我ngã 恆hằng 常thường 出xuất 地địa 味vị 。 資tư 潤nhuận 彼bỉ 人nhân 。 令linh 其kỳ 身thân 中trung 。 增tăng 益ích 壽thọ 命mạng 。 是thị 地địa 精tinh 氣khí 充sung 溢dật 。 行hành 者giả 身thân 中trung 。 得đắc 色sắc 力lực 。 得đắc 念niệm 。 得đắc 喜hỷ 。 得đắc 精tinh 進tấn 。 得đắc 大đại 智trí 慧tuệ 。 得đắc 辯biện 財tài 。 得đắc 三Tam 明Minh 六Lục 通Thông 。 人nhân 天thiên 愛ái 敬kính 。 得đắc 無vô 比tỉ 無vô 盡tận 大đại 福phúc 德đức 。
譬thí 如như 輪Luân 王Vương 。 聖thánh 主chủ 福phúc 德đức 。 得đắc 在tại 在tại 處xứ 處xứ 。 行hành 者giả 所sở 住trú 之chi 處xứ 。 譬thí 如như 忉Đao 利Lợi 天Thiên 園viên 觀quán 。 此thử 生sinh 彼bỉ 生sinh 。 及cập 千thiên 生sinh 萬vạn 生sinh 無vô 極cực 。 得đắc 巨cự 多đa 廣quảng 大đại 福phúc 。 得đắc 日nhật 日nhật 千thiên 萬vạn 。 眷quyến 屬thuộc 掬cúc 養dưỡng 。 亦diệc 無vô 量lượng 無vô 數số 。 有hữu 情tình 艱gian 難nan 之chi 類loại 。 活hoạt 備bị 資tư 生sinh 庫khố 倉thương 。 充sung 溢dật 七thất 珍trân 無vô 限hạn 。 象tượng 寶bảo 馬mã 寶bảo 。 及cập 輪luân 寶bảo 。 隨tùy 心tâm 女nữ 寶bảo 。 即tức 不bất 呼hô 。 自tự 來lai 限hạn 死tử 生sinh 。
如như 是thị 法Pháp 行hành 比Bỉ 丘Khâu 。 或hoặc 以dĩ 種chủng 種chủng 。 金kim 銀ngân 寶bảo 珠châu 。 種chủng 種chủng 資tư 生sinh 。 種chủng 種chủng 穀cốc 米mễ 。 具cụ 足túc 供cung 給cấp 。 如như 是thị 繫hệ 念niệm 。 從tùng 初sơ 夜dạ 。 至chí 中trung 後hậu 夜dạ 。 坐tọa 臥ngọa 行hành 立lập 。 念niệm 法pháp 心tâm 。 無vô 彼bỉ 外ngoại 緣duyên 。 行hành 者giả 。 為vì 營doanh 寺tự 舍xá 。 或hoặc 造tạo 一nhất 屋ốc 。 或hoặc 一nhất 樹thụ 林lâm 。 或hoặc 復phục 衣y 食thực 。 坐tọa 臥ngọa 床sàng 鋪phô 。 於ư 病bệnh 患hoạn 湯thang 藥dược 。 種chủng 種chủng 資tư 生sinh 。 常thường 供cung 給cấp 之chi 。 彼bỉ 得đắc 如như 是thị 。 無vô 乏phạp 少thiểu 已dĩ 。 身thân 得đắc 安an 穩ổn 。 無vô 有hữu 憂ưu 愁sầu 。 心tâm 常thường 歡hoan 喜hỷ 。 得đắc 好hảo 福phúc 田điền 。 成thành 就tựu 法Pháp 器khí 。 如như 是thị 施thí 已dĩ 。 當đương 來lai 之chi 世thế 。 得đắc 大đại 果quả 報báo 。 深thâm 心tâm 樂nhạo 法Pháp 。 不bất 生sinh 惡ác 道đạo 。 不bất 造tạo 惡ác 法pháp 。
我ngã 如như 是thị 護hộ 彼bỉ 人nhân 。 即tức 得đắc 修tu 慈từ 悲bi 心tâm 。 如như 是thị 種chủng 種chủng 。 勝thắng 妙diệu 善thiện 根căn 。 增tăng 長trưởng 不bất 減giảm 。
佛Phật 言ngôn 。
善thiện 哉tai 善thiện 哉tai 。 此thử 是thị 汝nhữ 等đẳng 。 精tinh 進tấn 之chi 心tâm 。 於ư 大Đại 乘Thừa 中trung 。 速tốc 能năng 增tăng 長trưởng 福phúc 之chi 力lực 。
爾nhĩ 時thời 地Địa 神Thần 堅Kiên 牢Lao 。 及cập 功Công 德Đức 天Thiên 。 相tương 與dữ 白bạch 佛Phật 言ngôn 。 為vì 欲dục 利lợi 益ích 安an 樂lạc 故cố 。 說thuyết 心tâm 真chân 言ngôn 。
爾nhĩ 時thời 佛Phật 告cáo 。 地địa 神thần 。 功Công 德Đức 言ngôn 。
汝nhữ 等đẳng 善thiện 哉tai 。 為vì 利lợi 益ích 一nhất 切thiết 眾chúng 生sinh 。 欲dục 說thuyết 神thần 咒chú 。 隨tùy 汝nhữ 恣tứ 意ý 說thuyết 。
即tức 說thuyết 咒chú 曰viết 。
曩nẵng 莫mạc 三tam 曼mạn 多đa 母mẫu 馱đà 南nam 。 唵án 。 鉢bát 羅la 。 婆bà 。 囉ra 怛đát 儞nễ 。 設thiết 哩rị 三tam 曼mạn 多đa 。 阿a 馱đà 阿a 馱đà 。 阿a 豆đỗ 阿a 豆đỗ 。 比tỉ 里lý 底để 毘tỳ 比tỉ 里lý 底để 毘tỳ 曳duệ 。 莎sa 訶ha 。
若nhược 有hữu 人nhân 。 誦tụng 持trì 此thử 咒chú 。 滿mãn 足túc 十thập 萬vạn 遍biến 。 為vi 最tối 初sơ 法pháp 誦tụng 咒chú 。 供cúng 養dường 地địa 天thiên 者giả 。 富phú 貴quý 無vô 極cực 。 七thất 珍trân 無vô 限hạn 。 速tốc 成thành 一nhất 切thiết 悉tất 地địa 。
又hựu 次thứ 。 說thuyết 根căn 本bổn 身thân 印ấn 。
合hợp 掌chưởng 以dĩ 二nhị 頭đầu 指chỉ 。 及cập 二nhị 小tiểu 指chỉ 。 叉xoa 在tại 掌chưởng 中trung 。 二nhị 中trung 二nhị 無vô 名danh 。 直trực 立lập 頭đầu 相tương 拄trụ 。 以dĩ 二nhị 大đại 指chỉ 並tịnh 立lập 。 押áp 二nhị 頭đầu 指chỉ 側trắc 。 大đại 指chỉ 來lai 去khứ 。 成thành 辦biện 諸chư 事sự 業nghiệp 。
復phục 次thứ 。 說thuyết 諸chư 成thành 就tựu 。 護hộ 摩ma 之chi 法pháp 。 以dĩ 稻đạo 穀cốc 華hoa 護hộ 摩ma 。 得đắc 五ngũ 穀cốc 豐phong 登đăng 。 成thành 就tựu 。
又hựu 法pháp 。 以dĩ 闍xà 底để 華hoa 護hộ 摩ma 。 蠶tằm 養dưỡng 千thiên 斤cân 。 成thành 就tựu 。
又hựu 法pháp 。 以dĩ 粳canh 米mễ 護hộ 摩ma 。 得đắc 無vô 盡tận 福phúc 德đức 。 及cập 殖thực 生sinh 生sinh 福phúc 田điền 。
又hựu 法pháp 。 一nhất 神thần 居cư 住trú 之chi 處xứ 。 眾chúng 人nhân 來lai 集tập 。 其kỳ 所sở 護hộ 摩ma 。 得đắc 巨cự 多đa 富phú 。
又hựu 法pháp 。 以dĩ 大đại 麥mạch 小tiểu 麥mạch 護hộ 摩ma 。 富phú 貴quý 。
又hựu 法pháp 。 以dĩ 兢căng 婁lâu 草thảo 護hộ 摩ma 。 得đắc 無vô 數số 六lục 畜súc 財tài 。
又hựu 法pháp 。 大đại 藥dược 叉xoa 。 住trú 古cổ 墓mộ 前tiền 。 以dĩ 闍xà 底để 華hoa 護hộ 摩ma 。 得đắc 大đại 富phú 。
又hựu 法pháp 。 以dĩ 含hàm 華hoa 護hộ 摩ma 。 得đắc 人nhân 愛ái 。
又hựu 法pháp 。 福phúc 神thần 所sở 住trú 。 欲dục 呼hô 得đắc 者giả 。 以dĩ 青thanh 馬mã 尾vĩ 。 各các 絕tuyệt 截tiệt 一nhất 寸thốn 。 二nhị 十thập 一nhất 支chi 。 每mỗi 時thời 護hộ 摩ma 念niệm 。 福phúc 神thần 必tất 來lai 付phó 我ngã 身thân 。
又hựu 法pháp 。 青thanh 馬mã 屎thỉ 。 以dĩ 前tiền 地địa 天thiên 明minh 。 加gia 持trì 二nhị 十thập 一nhất 遍biến 。 即tức 壇đàn 上thượng 。 及cập 倍bội 人nhân 。 乞khất 大đại 竈táo 額ngạch 上thượng 塗đồ 。 即tức 得đắc 如như 意ý 富phú 。
又hựu 法pháp 。 以dĩ 青thanh 馬mã 額ngạch 髮phát 毛mao 。 福phúc 神thần 祭tế 二nhị 十thập 一nhất 支chi 。 福phúc 神thần 必tất 悅duyệt 授thọ 福phúc 。
又hựu 法pháp 。 有hữu 福phúc 人nhân 家gia 。 竈táo 額ngạch 上thượng 土thổ 取thủ 。 臘lạp 月nguyệt 八bát 日nhật 。 持trì 來lai 我ngã 所sở 安an 置trí 。 必tất 得đắc 富phú 。 取thủ 土thổ 時thời 。 用dụng 前tiền 天thiên 咒chú 。 二nhị 十thập 一nhất 遍biến 。 須Tu 達Đạt 多Đa 優Ưu 婆Bà 塞Tắc 。 壇Đàn 畢Tất 理Lý 優Ưu 婆Bà 塞Tắc 。 福Phúc 寶Bảo 光Quang 明Minh 優Ưu 婆Bà 夷Di 。 行hành 此thử 法pháp 。
又hựu 法pháp 。 土thổ 氣khí 強cường 盛thịnh 為vi 。 四tứ 眾chúng 致trí 刑hình 罰phạt 。 又hựu 以dĩ 前tiền 明minh 加gia 持trì 。 得đắc 除trừ 差sái 。
又hựu 法pháp 。 長trưởng 者giả 家gia 。 碓đối 下hạ 土thổ 。 取thủ 護hộ 摩ma 。 必tất 得đắc 富phú 。
又hựu 法pháp 。 長trưởng 者giả 墓mộ 。 口khẩu 裏lý 土thổ 。 取thủ 護hộ 摩ma 。 又hựu 得đắc 富phú 。
可khả 畫họa 堅Kiên 牢Lao 地Địa 神Thần 像tượng 法pháp 。
男nam 天thiên 肉nhục 色sắc 。 左tả 手thủ 。 持trì 鉢bát 盛thình 華hoa 。 右hữu 手thủ 。 掌chưởng 向hướng 外ngoại 。 女nữ 天thiên 白bạch 肉nhục 色sắc 。 右hữu 手thủ 。 抱bão 當đương 心tâm 。 左tả 亦diệc 抱bão 當đương 股cổ 。
堅Kiên 牢Lao 地Địa 天Thiên 儀Nghi 軌Quỹ
中trung 天Thiên 竺Trúc 國quốc 大đại 那na 蘭lan 陀đà 寺tự 善thiện 無vô 畏úy 奉phụng 詔chiếu 譯dịch 。
Phiên âm và chấm câu: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Phiên âm: 16/1/2018 ◊ Cập nhật: 16/1/2018
►
Đang dùng phương ngữ: ◈BẮC NAM
古文 古Cổ 文Văn Góp Ý
https://daitangkinh.net/?f=T21n1286&m=awviet
-
-
Kiên Lao,堅牢, Chỉ sự vững chắc của đất—Firm and stable; that which is stable, the earth
Kiên Lao Địa Thần,堅牢地神, Còn gọi là Kiên Lao Địa Thiên, hay Kiên Lao Địa Kỳ, tên của vị Nữ Thần Đại Địa, tức là đất vững bền và Thần kiên cố—The earth-goddess, or deity, or spirit
http://vinhnghiemvn.com/tudienphatho...t_anh/p27.aspx
-
-
1 | P a g e
Kim Quang Minh Sám Trai Thiên Nghi Lễ
金 光 明 懺 齋 天 法 儀
2 | P a g e
Tán
讃
Như ngọc giao thiên, hạt sương sa. Biển giác lăn tăn gợn kim ba.
瑤 天 玉 露 。 覺 海 金 波 。
yáo tiān yù lù jué hǎi jīn bō
Rải khắp đại thiên, sen trắng xóa
大 干 沙 界 灑 芬 陀 。
dà gàn shā jiè sǎ fēn tuó.
Tam muội rửa sạch hết trần a. Một giọt biến hằng sa
三 昧 滌 塵 疴 。 少 水 成 多 。
sān mèi dí chén kē shǎo shuǐ chéng duō
Thanh tịnh cả sơn hà.
一 滴 淨 山 河 。
yī dī jìng shān hé
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lạy)
南 無 清 涼 地 菩 薩 摩 訶 薩 (三稱, 三拜)
ná mó qīng liáng di pú sà mó hē sà (3x)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3x)
南 無 大 悲 觀 世 音 菩 薩 (三稱)
ná mó dà bēi guān shì yīn pú sà (3x)
法主唸 Pháp chủ niệm
Đầu cành dương liễu vương cam lồ. Một giọt mười phương rưới cũng đầy
菩 薩 柳 頭 甘 露 水 能 令 一 滴 遍 十 方
pú sà liǔ tóu gān lù shuǐ néng lìng yī dī biàn shí fang
Bao nhiêu phiền lụy tiêu tan hết Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây
腥 羶 垢 穢 盡 蠲 除 令 此 壇 場 悉 清 淨
xīng shān gòu huì jǐn juān chú lìng cǐ tán chǎng xī qīng jìng
3 | P a g e
Giáo hữu mật ngôn cẩn đương trì tụng: (đại chúng cùng tụng chú Đại Bi)
教 有 真 言 謹 當 持 誦 (持大悲咒)
jiào yǒu zhen yán jǐn dāng chí sòng
Chú Đại Bi
大悲咒
Nam mô Cam Lộ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lạy)
南 無 甘 露 王 菩 薩 摩 訶 薩 (三稱首者舉)(三拜)
ná mó gān lù wáng pú sà mó hē sà (3x)
Nhất thiết cung kính
一 切 恭 敬 (首者嗚聲眾上香, 執爐, 作梵, 眾和)
yī qiè gong jìng
Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trụ Phật (1 lạy)
一 心 頂 禮 十 方 常 住 佛 (一拜)
yī xīn dǐng lǐ shí fāng cháng zhù fó
Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trụ Pháp (1 lạy)
一 心 頂 禮 十 方 常 住 法 (一拜)
yī xīn dǐng lǐ shí fāng cháng zhù fǎ
Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trụ Tăng (1 lạy)
一 心 頂 禮 十 方 常 住 僧 (一拜)
yī xīn dǐng lǐ shí fāng cháng zhù sēng
Cung thỉnh đại chúng, tất cả đồng quỳ, tay cầm hương hoa, như pháp cúng dường.
是 諸 眾 等 各 各 胡 跪。 嚴 持 香 花。如 法 供 養。
shì zhū zhòng děng gè gè hú guì. yán chí xiāng huā. Rú fǎ gong yǎng.
Nguyện thử hương hoa Biến mãn thập phương giới
願 此 香 花 雲。 遍 滿 十 方 界。
yuan cǐ xiāng huā yún, biàn mǎn shí fang jiè.
Cúng dường nhất thiết Phật Tôn Pháp chư Bồ Tát
4 | P a g e
供 養 一 切 佛。 尊 法 諸 菩 薩。
gòng yang yī qiè fo, zūn fǎ zhū pú sà.
Thanh Văn Duyên Giác chúng Cập nhất thiết Thiên Tiên
聲 聞 緣 覺 眾。 及 一 切 天 仙。
shēng wén yuan jué zhòng. jí yī qiè tiān xiān.
Thọ dụng tác Phật sự Cúng dường dĩ nhất thiết cung kính. (1 lạy)
受 用 作 佛 事。 供 養 已 一 切 恭 敬 (拜起)
shòu yong zuò fó shì. gong yǎng yǐ yī qiè gong jìng
Phụng Thỉnh Tam Bảo Chư Thiên
奉請三寶諸天
5 | P a g e
Chỉ riêng pháp chủ tay cầm “thủ lư”
只法主拿手爐
引磬 十 鐘
慢唸,一字一拍
6 | P a g e
Hương hoa nghênh, hương hoa thỉnh:
香 花 迎 香 花 請
xiāng huā yíng xiāng huā qǐng
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Bổn Sư Thích Ca Văn Phật, Đông phương A Súc
一 心 奉 請。 南 無 本 師 釋 迦 文 佛 。 東 方 阿 閦
yī xīn fèng qǐng, ná mó běn shī shì jiā wén fó, dōng fāng ā chú
Phật, Nam phương Bảo Tướng Phật, Tây phương Vô Lượng Thọ Phật, Bắc phương Vi
佛。 南 方 寶 相 佛 。 西 方 無 量 壽 佛 。 北 方 微 妙
fó, nán fang bǎo xiāng fó, xī fang wú liàng shòu fó, běi fang wei miào
Diệu Thanh Phật, Bảo Hoa Lưu Ly Phật, Bảo Thắng Phật đẳng, tận Kim Quang Minh hội
聲 佛 。寶 華 琉 璃 佛。 寶 勝 佛 等 。 盡 金 光 明 會
sheng fó, bǎo huá liú lí fó, bǎo shèng fó děng, jǐn jīn guāng míng huì
trung, cập mười phương ba đời hết thảy chư Phật. (3x)
中 。 及 十 方 三 世 一 切 諸 佛。(三遍)(九鐘十五鼓)
zhōng, jí shí fāng sān shì yī qiè zhū fó. (3x)
(thỉnh 3 lần, mỗi lần đều 1 lạy, trừ lần thứ 3 niệm tiếp phía dưới) (已上三請畢起身禮拜 已下三請者只站立)
Duy nguyện bất dị bổn tế, bình đẳng từ huân, lai giáng đạo tràng,
唯 願 不 移 本 際,平 等 慈 薰,來 降 道 場,
wéi yuan bù yí běn jì, píng děng cí xūn, lái jiàng dào chǎng,
thọ ngã cúng dường. (1 lạy)
受 我 供 養。 (一拜) (九鐘十五鼓)
shòu wǒ gong yǎng.
Khể thủ quy y Phật. Phật tại Kỳ Cô viên. Kỳ Cô viên thuyết Pháp.
稽 首 皈 依 佛 。 佛 在 給 孤 園 。 給 孤 園 說 法 。
qǐ shǒu guī yī fó fó zài ji gū yuan ji gū yuan shuō fǎ
Thuyết Pháp lợi nhân thiên.
說 法 利 人 天 。
7 | P a g e
shuō fǎ lì rén tiān
8 | P a g e
Nam mô Chân Như Phật Đà Dạ
南 無 真 如 佛 陀 耶
ná mó zhēn rú fó tuó yé
Nam mô Phật Bảo Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (1x, 1 lạy)
南 無 佛 寶 尊 菩 薩 摩 訶 薩 (一遍, 一拜)
ná mó fó bǎo zūn pú sà mó he sà
9 | P a g e
Hương hoa nghênh, hương hoa thỉnh:
香 花 迎 香 花 請
xiāng huā yíng xiāng huā qǐng
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Đại Thừa Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh,
一 心 奉 請 。 南 無 大 乘 金 光 明 最 勝 王 經 。
yī xīn fèng qǐng, ná mó dà chéng jīn guāng míng zuì shēng wáng jīng,
thập phương tam thế nhất thiết mười hai bộ kinh. (3x)
十 方 三 世 一 切 十 二 部 經 。(三遍) (九鐘十五鼓)
shí fāng sān shì yī qiè shí èr bù jīng.
(thỉnh lần thứ 1 và 2 xong, lạy. Lần thứ 3 niệm tiếp phía dưới) (已上三請畢起身禮拜 已下三請者只站立)
Duy nguyện vỡ khai mật tạng, phổ diệu quang minh, hiển hiện đạo tràng,
唯 願 豁 開 秘 藏, 普 耀 光 明, 顯 現 道 場,
wéi yuan huō kāi mì zàng, pǔ yào guāng míng, xiǎn xiàn dào chǎng,
thọ ngã cúng dường. (1 lạy)
受 我 供 養。 (一拜) (九鐘十五鼓)
shòu wǒ gong yǎng.
Khể thủ quy y Pháp. Pháp bảo trấn long cung. Long cung tịnh hải tạng.
稽 首 皈 依 法 。 法 寶 鎮 龍 宮 。 龍 宮 並 海 藏 。
qǐ shǒu guī yī fǎ, fǎ bǎo zhèn lóng gōng, lóng gōng bìng hǎi zàng,
Hải tạng diễn Tam Thừa.
海 藏 演 三 乘 。
hǎi zàng yǎn sān chéng.
Nam mô Hải Tạng Đạt Ma Dạ
南 無 海 藏 達 摩 耶。
ná mó hǎi zàng dá mó yé
Nam mô Pháp Bảo Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (1x, 1 lạy)
南 無 法 寶 尊 菩 薩 摩 訶 薩 (一遍, 一拜)
ná mó fǎ bǎo zūn pú sà mó hé sà
10 | P a g e
11 | P a g e
Hương hoa nghênh, hương hoa thỉnh:
香 花 迎 香 花 請
xiāng huā yíng xiāng huā qǐng
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Tín Tướng Bồ-tát, Kim Quang Minh Bồ Tát, Kim Tạng
一 心 奉 請 。南 無 信 相 菩 薩。金 光 明 菩 薩 。金
藏
yī xīn fèng qǐng, ná mó xìn xiāng pú sà, jīn guāng míng pú sà, jīn zàng
Bồ Tát, Thường Bi Pháp Thượng Tận Kim Quang Minh hội trung, cập thập phương tam
菩 薩 。常 悲 法 上 盡 金 光 明 會 中 。及 十 方 三 世
pú sà, cháng bēi fǎ shàng jǐn jīn guāng míng huì zhōng, jí shí fāng sān shì
thế nhất thiết Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác, Hiền Thánh Tăng. (3x)
一 切 菩 薩 。聲 聞 緣 覺 。賢 聖 僧 。(三遍)(九鐘十五鼓)
yī qiè pú sà, shēng wén yuan jué, xián shèng sēng.
(thỉnh lần thứ 1 và 2 xong, lạy. Lần thứ 3 niệm tiếp phía dưới) (已上三請畢起身禮拜 已下三請者只站立)
Duy nguyện đồng vân Thánh từ, phổ nhiếp quần sanh, lai giáng đạo tràng,
唯 願 同 運 聖 慈, 普 攝 群 生, 來 降 道 場,
wéi yuàn tóng yùn shèng cí, pǔ shè qún sheng, lái jiàng dào chǎng,
thọ ngã cúng dường. (1 lạy)
受 我 供 養 。 (一拜) (九鐘十五鼓)
shòu wǒ gong yǎng.
Khể thủ quy y Tăng. Tăng tâm tự thủy thanh. Thủy thanh thu nguyệt hiện.
稽 首 皈 依 僧 。僧 心 似 水 清 。水 清 秋 月 現 。
qǐ shǒu guī yī sēng, sēng xīn sì shuǐ qīng, shuǐ qīng qiū yuè xiàn,
Nguyệt hiện nhất luân minh. Nam mô Phước Điền Tăng Già Dạ
月 現 一 輪 明 。 南 無 福 田 僧 伽 耶
yuè xiàn yī lún míng. ná mó fú tián sēng jiā yé
Nam mô Tăng Bảo Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (1x, 1 lạy)
12 | P a g e
南 無 僧 寶 尊 huā qǐng 菩 薩 摩 訶 薩 (一遍, 一拜)
ná mó sēng bǎo zūn pú sà mó hē sà
13 | P a g e
Hương hoa nghênh, hương hoa thỉnh:
香 花 迎 香 花 請
xiāng huā yíng xiāng
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Đại Ca Diếp Ba Tôn Giả, Xá Lợi Phất Tôn Giả,
一 心 奉 請 。南 無 大 迦 葉 波 尊 者 。舍 利 弗 尊
yī xīn fèng qǐng, ná mó dà jiā shè bō zūn zhě, shè lì fú zūn
Tu Bồ Đề Tôn Giả, A Nan Đà Tôn Giả, thập phương vô lượng Thanh Văn
者 。須 菩 提 尊 者 。阿 難 陀 尊 者 。十 方 無 量 聲
zhě, xū pú tí zūn zhě, a nán tuó zūn zhě, shí fāng wú liàng sheng
Duyên Giác, cập truyền tông diễn giáo, lịch đại Tổ Sư Thánh Chúng. (3x)
聞 缘 覺 。及 傳 宗 演 教 。歷 代 祖 師 聖 眾 。(三遍)
wén yuán jué, jí chuán zōng yǎn jiào, lì dài zǔ shī shèng zhòng.
(thỉnh lần thứ 1 và 2 xong, lạy. Lần thứ 3 niệm tiếp phía dưới) (已上三請畢起身禮拜 已下三請者只站立)
Duy nguyện đồng vân Thánh từ, phổ nhiếp quần sanh, lai giáng đạo tràng,
唯 願 同 運 聖 慈, 普 攝 群 生, 來 降 道 場,
wéi yuàn tóng yùn shèng cí, pǔ shè qún sheng, lái jiàng dào chǎng,
thọ ngã cúng dường. (1 lạy)
受 我 供 養 。 (一拜) (九鐘十五鼓)
shòu wǒ gong yǎng.
Khể thủ quy y Tăng. Tam minh tịnh lục thông. Linh Sơn thân thọ ký.
稽 首 皈 依 僧 。 三 明 並 六 通 。 霊 山 親 授 記 。
qǐ shǒu guī yī sēng sān míng bìng liù tōng. Líng shān qīn shòu jì.
Duy nguyện giáng lai lâm. Đãng Đãng Tứ quả Tăng Già Gia
惟 願 降 來 臨 。 蕩 蕩 四 果 僧 伽 耶 。
wéi yuan jiàng lái lín. Dàng dàng sì guǒ sēng jiā yé.
Nam mô Hiền Thánh Tăng Bồ Tát Ma Ha Tát (1x, 1 lạy)
南 無 賢 聖 僧 菩 薩 摩 訶 薩 (一遍, 一拜)(九鐘十五鼓)
14 | P a g e
ná mó xián sheng sēng pú sà mó hē sà
15 | P a g e
Hương hoa nghênh, hương hoa thỉnh:
香 花 迎 香 花 請
xiāng huā yíng xiāng huā qǐng
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Ta Ba Giới Chủ, Hiệu Lệnh Độc Tôn, Đại Phạm Thiên
一 心 奉 請 。南 無 娑 婆 界 主 。號 令 獨 尊 大 梵
天
yī xīn fèng qǐng, ná mó suō pó jiè zhǔ, hào lìng dú zūn dà fàn tiān
Vương Tôn Thiên, Địa Cư Thế Chủ, Đao Lợi Xưng Vương - Đế Thích Tôn Thiên,
王 尊 天 。地 居 世 主 忉 利 稱 王 帝 釋 尊 天 。
wáng zūn tiān, dì jū shì zhǔ dāo lì chēng wáng dì shì zūn tiān,
Bắc Phương Hộ Thế - Đại Dược Xoa Chủ - Đa Văn Thiên Chủ Tôn Thiên,
北 方 護 世 大 藥 叉 主 多 聞 天 王 尊 天 。
běi fāng hù shì dà yào chā zhǔ duō wén tiān wáng zūn tiān,
Đông Phương Hộ Thế Càng Thát Bà Chủ - Trì Quốc Thiên Vương Tôn Thiên,
東 方 護 世 乾 闥 婆 主 持 國 天 王 尊 天 。
dōng fāng hù shì gàn tà pó zhǔ chí guó tiān wáng zūn tiān,
Nam Phương Hộ Thế Cưu Bàn Trà Chủ, Tăng Trưởng Thiên Vương Tôn Thiên,
南 方 護 世 鳩 槃 茶 主 增 長 天 王 尊 天 。
nán fāng hù shì jiū pán chá zhǔ zēng cháng tiān wáng zūn tiān,
Tây Phương Hộ Thế Đại Long Vương Chủ, Quảng Mục Thiên Vương Tôn Thiên,
西 方 護 世 大 龍 王 主 廣 目 天 王 尊 天 。
xī fang hù shì dà long wáng zhǔ guǎng mù tiān wáng zūn tiān,
Bách Minh Lợi Sanh, Thiên Quang Phá Ám, Nhật Cung Thiên Tử Tôn Thiên,
百 明 利 生 千 光 破 暗 日 宮 天 子 尊 天 。
bǎi míng lì sheng qiān guāng pò àn rì gong tiān zǐ zūn tiān,
Tinh Tú Trung Vương Thanh Lương Chiếu Dạ, Nguyệt Cung Thiên Tử Tôn Thiên,
星 宿 中 王 清 涼 照 夜 月 宮 天 子 尊 天 。
16 | P a g e
xīng sù zhōng wáng qīng liáng zhào yè yuè gōng tiān zǐ zūn tiān,
Thân Phục Ma Oán, Thệ Vị Lực Sĩ - Kim Cang Mật Tích Tôn Thiên,
親 伏 魔 冤 誓 為 力 士 金 剛 密 跡 尊 天 。
qīn fú mó yuan shì wéi lì shì jīn gang mì jī zūn tiān,
Đặc Tôn Chi Chủ, Cư Sắc Giới Đảnh - Ma Hê Thủ La Tôn Thiên,
特 尊 之 主 居 色 界 頂 魔 醯 首 羅 尊 天 。
tè zūn zhī zhǔ jū sè jiè dǐng mó xī shǒu luó zūn tiān,
Nhị Thập Bát Bộ Thống Lãnh Quỹ Thần Tán Chỉ Đại Tướng Tôn Thiên,
二 十 八 部 統 領 鬼 神 散 脂 大 將 尊 天 。
er shí bā bù tǒng lǐng guǐ shén sàn zhī dà jiàng zūn tiān,
Năng Dữ Tổng Trì Đại Trí Huệ Tụ - Đại Biện Tài Tôn Thiên,
能 與 總 持 大 智 慧 聚 大 辯 才 尊 天 。
néng yǔ zǒng chí dà zhì huì jù dà biàn cái zūn tiān,
Mật Hạnh Từ Nhẫn Quảng Hóa Tam Châu Vi Đà Thiên Tướng Tôn Thiên,
密 行 慈 忍 廣 化 三 洲 韋 馱 天 將 尊 天 。
mì xíng cí rěn guǎng huà sān zhōu wéi tuó tiān jiāng zūn tiān,
Tăng trưởng xuất sanh, chứng minh công đức – Kiên Lao Địa Thần Tôn Thiên.
增 長 出 生 證 明 功 德 堅 牢 地 神 尊 天 。
zēng zhǎng chū sheng zhèng míng gong dé jiān láo de shén zūn tiān.
Giác trường thùy ấm nhân quả: Hổ Nghiêm Bồ Đề Thọ Thần Tôn Thiên.
覺 場 垂 陰 因 果 互 嚴 菩 提 樹 神 尊 天 。
jué chǎng chuí yīn yīn guǒ hù yán pú tí shù shén zūn tiān.
Sanh chư quỉ vương bảo hộ nam nữ - Quỉ Tử Mẫu Thần Tôn Thiên.
生 諸 鬼 王 保 護 男 女 鬼 子 母 神 尊 天 。
sheng zhū guǐ wáng bǎo hù nán nǚ guǐ zǐ mǔ shén zūn tiān.
Hành nhựt nguyệt tiền, cứu binh phạt nạn – Ma Lợi Phộc tôn thiên.
行 日 月 前 捄 兵 戈 難 摩 利 攴 尊 天 。
17 | P a g e
xíng rì yuè qián jiù bīng gē nán mó lì pū zūn tiān,
Bí tạng pháp bảo chủ chấp quần long – Ta Kiệt La Vương Tôn Thiên.
祕 藏 法 寶 主 執 群 龍 沙 竭 羅 王 尊 天 。
mì chǎng fǎ bǎo zhǔ zhí qún lóng shā jié luó wáng zūn tiān,
Chưởng u minh quyền, vi địa ngục chủ - Diệm Ma La Tôn Thiên.
掌 幽 冥 權 為 地 獄 主 閻 摩 羅 王 尊 天 。
zhǎng yōu míng quán wèi dì yù zhǔ yán mó luó wáng zūn tiān,
Nhất thiết giai thị đại Bồ Tát đẳng cập thử quốc nội danh sơn đại sông.
一 切 皆 是 大 菩 薩 等 及 此 國 內 名 山 大 川 。
yī qiè jiē shì dà pú sà děng jí cǐ guó nèi míng shān dà chuān,
Nhất thiết linh miếu bổn châu địa phân thuộc nội quỷ thần.
一 切 靈 廟 本 州 地 分 屬 內 鬼 神 。
yī qiè líng miào běn zhōu dì fēn shǔ nèi guǐ shén,
Thử sở trụ xứ hộ Già Lam Thần thủ chánh pháp giả. Nhất thiết Thánh chúng. (3x)
此 所 住 處 護 伽 藍 神 守 正 法 者 。 一 切 聖 眾 。(三
遍)
cǐ suǒ zhù chù hù qié lán shén shǒu zhèng fǎ zhě. yī qiè sheng zhòng.
(thỉnh lần thứ 1 và 2 xong, lạy. Lần thứ 3 niệm tiếp phía dưới) (已上三請畢起身禮拜 已下三請者只站立)
Duy nguyện bất vi bổn thệ, ủng hộ pháp luân, lai giáng đạo tràng,
唯 願 不 違 本 誓, 擁 護 法 輪, 來 降 道 場,
wéi yuàn bù wéi běn shì, yǒng hù fǎ lún, lái jiàng dào chǎng,
thọ ngã cúng dường. ( 1 lạy)
受 我 供 養 。 (一遍, 一拜) (九鐘十五鼓)
shòu wǒ gong yǎng.
XƯỚNG TAM BẢO TÁN 唱三寶讃
Tam Bảo quảng vô biên. Tăng kỳ vạn đức công viên.
18 | P a g e
三 寶 廣 無 邊 。 僧 祇 萬 德 功 圓 。
sān bǎo guǎng wú biān, sēng qí wàn dé gōng yuán,
Lục niên khổ hạnh chứng kim tiên. Thuyết Pháp lợi nhân thiên.
六 年 苦 行 證 金 仙 。 說 法 利 人 天 。
liù nián kǔ xíng zhèng jīn xiān, shuō fǎ lì rén tiān,
Phóng quang hiện thụy chu sa giới. Thiên long bát bộ đồng chiêm ngưỡng.
放 光 現 瑞 週 沙 界 。 天 龍 八 部 同 瞻 仰 。
fàng guāng xiàn ruì zhōu shā jiè, tiān lóng bā bù tóng zhān yang,
Thiên Hiền vạn Thánh Kỳ Viên. Kết tập vĩnh lưu truyền.
千 賢 萬 聖 會 祇 園 。 結 集 永 流 傳 。
qiān xián wàn shèng huì qí yuan, jié jí yǒng liú chuán,
Nam mô Tam Bảo Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lạy)
南 無 三 寶 尊 菩 薩 摩 訶 薩 (三拜) (九鐘十五鼓)
ná mó sān bǎo zūn pú sà mó hē sà
19 | P a g e
Hương hoa nghênh, hương hoa thỉnh:
香 花 迎 香 花 請
xiāng huā yíng xiāng huā qǐng
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Đệ Nhất Oai Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại
一 心 奉 請 。南 無 第 一 威 德 。成 就 眾 事 大 功
德
yī xīn fèng qǐng, ná mó dì yī wēi dé, chéng jiù zhòng shì dà gōng dé
Công Đức Thiên.
天 。
tiān.
(行者應念此菩薩。即是道場法門之 。當殷勤三請。希望來至。請已放香 即便
胡跪合掌。誦善女天咒。)
大 吉 祥 天 女 呪 Đại Cát Tường Thiên Nữ Chú
(或三遍或七遍想一切三寶及諸天仙 悉集道場。想已。唱光明讃畢。佛事 稍
歇一刻)
大吉祥天女呪 Đại Cát Tường Thiên Nữ Chú
NA MWO FWO TWO 南無佛陀。 Nam mô Phật đà.
NA MWO DA MWO 南無達摩。 Nam mô Đạt ma.
NA MWO SENG CHYE 南無僧伽。 Nam mô Tăng già.
NA MWO SHR LI 南無室利。 Nam mô thất rị.
MWO HE TI BI YE 摩訶提鼻耶。 Ma ha đế tỷ da.
DA NI YE TWO 怛你也他。 Đát nễ dã tha.
BWO LI FU LOU NWO 波利富樓那。 Ba rị phú lầu na.
JE LI SAN MAN TWO 遮利三曼陀。 Giá rị tam mạn đà.
DA SHE NI 達舍尼。 Đạt xá ni.
20 | P a g e
MWO HE PI HE LWO CHYE DI 摩訶毗訶羅伽帝。 Ma ha tỳ ha ra già đế.
SAN MAN TWO 三曼陀。 Tam mạn đà.
PI NI CHYE DI 毘尼伽帝。 Tỳ ni già đế.
MWO HE JA LI YE 摩訶迦利野。 Ma ha ca rị giã.
BWO MI 波禰。 Ba nể,
BWO LA 波囉。 Ba ra,
BWO MI 波禰。 Ba nể.
SA LI WA LI TWO 薩利縛栗他。 Tát rị phạ lật tha.
SAN MAN TWO 三曼陀。 Tam mạn đà.
SYOU BWO LI DI 修鉢黎帝。 Tu bát lê đế.
FU LI NOW 富隸那。 Phú lệ na.
E LI NOW 阿利那。 A rị na.
DA MWO DI 達摩帝。 Đạt mạ đế.
MWO HE PI GU BI DI 摩訶毗鼓畢帝。 Ma ha tỳ cổ tất đế.
MWO HE MI LEI DI 摩訶彌勒帝。 Ma ha di lặc đế.
LOU BWO SENG CHI DI 婁簸僧祇帝。 Lâu phả tăng kỳ đế.
SYI DI SYI 醯帝蓰。 Hê đế tỷ.
SENG CHI SYI DI 僧祇醯帝。 Tăng kỳ hê đế.
SAN MAN TWO 三曼陀。 Tam mạn đa.
E TWO E DU 阿他阿耨 A tha, a nậu,
PE LWO NI 婆羅尼。 (七遍) Đà ra ni. (7X)
Tán
舉讃
21 | P a g e
Quang Minh hội thượng, Hộ Pháp Chư Thiên,
光 明 會 上 。 護 法 諸 天 。
guāng míng huì shàng hù fǎ zhū tiān
Trời, trăng, sao tỏ rạng nhân gian,
日 月 星 斗 耀 人 間 。
rì yuè xīng dòu yào rén jiān
Giữ đất nước an khang, Lòng thành dâng hiến cúng,
持 國 賜 安 然 。 保 佑 心 虔 。
chí guó cì ān rán bǎo yòu xīn qián
phước thọ vĩnh bình an.
福 壽 永 綿 綿。
fú shòu yǒng mián mián
Nam Mô Tăng Phước Thọ Bồ Tát Ma Ha Tát (3x) (九鐘十五鼓)
南 無 增 福 壽 菩 薩 摩 訶 薩。 (三稱畢佛事長稍歇一刻)
ná mó zēng fú shòu pú sà mó hē sà
22 | P a g e
Tán Hương
香 讚
Lò hương vừa đốt. Cõi pháp thơm lây
爐 香 乍 熱 。 法 界 蒙 熏 。
lú xiāng zhà rè fǎ jiè mēng xūn
Chư Phật bốn biển đều xa hay. Tùy xứ cát tường vân.
諸 佛 海 會 悉 遙 聞 。 隨 處 吉 祥 雲。
zhū fó hǎi huì xī yáo wén suí chù jí xiáng yún
Thấu tâm thành này. Chư Phật hiện thân ngay.
誠 意 方 殷 。 諸 佛 現 全 身 。
chéng yì fang yīn zhū fó xiàn quán shēn
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3x) (九鐘十五鼓)
南 無 香 雲 蓋 菩 薩 摩 訶 薩 。 (三稱)
ná mó xiāng yún gài pú sà mó hē sà
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3x)
南 無 本 師 釋 迦 牟 尼 佛 (三稱)
ná mó běn shī shì jiā móu ní fó
Khai Kinh Kệ
開經偈
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
無 上 甚 深 微 妙 法 百 千 萬 劫 難 遭 遇
wú shàng shèn shēn wéi miào fǎ bǎi qiān wàn jié nàn zāo yù
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
我 今 見 聞 得 受 持 願 解 如 來 真 實 義
wǒ jīn jiàn wén dé shòu chí yuàn jiě rú lái zhēn shí yì
23 | P a g e
Nam mô Đại Thừa Kim Quang Minh Kinh Phẩm Không (Việt dịch Thích Thiện Trí)
南 無 大 乘 金 光 明 經 空 品
ná mó dà chéng jīn guāng míng jīng kong pin
無 量 餘 經 已 廣 說 空 Vô lượng các kinh
wú liàng yú jīng yǐ guǎng shuō kōng Nói nhiều nghĩa không,
是 故 此 中 略 而 解 說 Thế nên ở đây
shì gù cǐ zhōng lüè ér jiě shuō Giải thích lược qua.
眾 生 根 鈍 鮮 于 智 慧 Chúng sanh căn độn,
zhòng shēng gēn dùn xiān yú zhì huì Trí tuệ kém cõi,
不 能 廣 知 無 量 空 義 Không thể biết rộng
bù néng guǎng zhī wú liàng kōng yì Vô lượng nghĩa không.
故 此 尊 經 略 而 說 之 Nên tôn kinh nầy
gù cǐ zūn jīng lüè ér shuō zhī Chỉ nói tóm lược.
異 妙 方 便 種 種 因 緣 Phương tiện mầu nhiệm
yì miào fang biàn zhǒng zhǒng yīn yuán Dùng đủ nhân duyên,
為 鈍 根 故 起 大 悲 心 Vì kẻ độn căn
wèi dùn gēn gù qǐ dà bēi xīn Khởi lòng Đại-bi.
我 今 演 說 此 妙 經 典 Ta nay diễn nói
wǒ jīn yǎn shuō cǐ miào jīng diǎn Kinh điển nhiệm mầu,
如 我 所 解 知 眾 生 意 Như ta đã hiểu
rú wǒ suǒ jiě zhī zhòng sheng yì Biết ý chúng sanh.
是 身 虛 偽 猶 如 空 聚 Thân này hư ngụy
shì shēn xū wěi yóu rú kōng jù Như mây trong không,
六 入 村 落 結 賊 所 止 Xóm làng sáu nhập
liù rù cūn luò jié zéi suǒ zhǐ Chổ ở của giặc
一 切 自 住 各 不 相 知 Tất cả tự ở
yī qiè zì zhù gè bù xiāng zhī Đều chẳng biết nhau.
眼 根 受 色 耳 分 別 聲 Mắt thâu nhận sắc,
yǎn gēn shòu sè ěr fēn bié shēng Tai phân biệt tiếng,
鼻 嗅 諸 香 舌 嗜 於 味 Mũi ngửi các mùi,
24 | P a g e
bí xiù zhū xiāng shé shì yú wèi Lưỡi nếm các vị,
所 有 身 根 貪 受 諸 觸 Còn phầ thân căn
suǒ yǒu shēn gēn tān shòu zhū chù Tham lãnh các xúc,
意 根 分 別 一 切 諸 法 Ý căn phân biệt
yì gēn fēn bié yī qiè zhū fǎ Tất cả các pháp.
六 情 諸 根 各 各 自 緣 Sáu tình các căn
liù qíng zhū gēn gè gè zì yuán Mỗi mỗi tự duyên
諸 塵 境 界 不 行 他 緣 Cảnh giới căn trần
zhū chén jìng jiè bù xíng tā yuán Không duyên thứ khác
心 如 幻 化 馳 騁 六 情 Tâm như ảo hóa,
Xīn rú huàn huà chí chěng liù qíng Giong ruổi sáu tình,
而 常 妄 想 分 別 諸 法 Mà thường vọng tưởng
ér cháng wàng xiǎng fēn bié zhū fǎ Phân biệt các pháp.
猶 如 世 人 馳 走 空 聚 Cũng như người đời
yóu rú shì rén chí zǒu kōng jù Đuổi bắt hư không.
六 賊 所 害 愚 不 知 避 Sáu giặc phá hoại
liù zéi suǒ hài yú bù zhī bì Ngu không biết tránh.
心 常 依 止 六 根 境 界 Tâm thường nương tựa
xīn cháng yī zhǐ liù gēn jìng jiè Cảnh giới sáu căn,
各 各 自 知 所 伺 之 處 Mỗi mỗi tự biết,
gè gè zì zhī suǒ cì zhī chù Cảnh riêng của mình.
隨 行 色 聲 香 味 觸 法 Duyên theo sắc thanh
suí xíng sè shēng xiāng wèi chù fǎ Hương vị xúc pháp,
心 處 六 情 如 鳥 投 綱 Tâm ở sáu tình
xīn chù liù qíng rú niǎo tóu gāng Như chim sa lưới,
其 心 在 在 常 處 諸 根 Tâm ấy thường thường
qí xīn zài zài cháng chù zhū gēn Ở nơi các căn,
隨 逐 諸 塵 無 有 暫 舍 Theo đuổi các trần
suí zhú zhū chén wú yǒu zàn shě Không thể tạm bỏ.
身 空 虛 偽 不 可 長 養 Thân luống hư dối
25 | P a g e
shēn kōng xū wèi bù kě cháng yǎng Không thể trưởng dưỡng
無 有 諍 訟 亦 無 正 主 Không có tranh tụng
wú yǒu zhèng sòng yì wú zhèng zhǔ Cũng không chánh chủ.
從 諸 因 緣 和 合 而 有 Từ các nhân duyên
cóng zhū yīn yuán hé hé ér yǒu Hòa hợp mà có,
無 有 堅 實 妄 想 故 起 Không có chắc thật
wú yǒu jiān shí wàng xiǎng gù qǐ Do vọng tưởng khởi,
業 力 機 關 假 偽 空 聚 Cơ quan nghiệp lực
Yè lì jī guān jiǎ wěi kōng jù Giả ngụy tụ họp
地 水 火 風 合 集 成 立 Đất nước gió lửa
dì shuǐ huǒ fēng hé jí chéng lì Hợp lại thành lập
隨 時 增 減 共 相 殘 害 Tùy thời tăng giảm
suí shí zēng jiǎn gòng xiāng cán hài Tàn hại lẫn nhau
猶 如 四 蛇 同 處 一 篋 Như bốn con rắn
yóu rú sì shé tóng chù yī qiè Đồng nhốt một hộp,
四 大 嫵 蛇 其 性 各 異 Bốn rắn to ấy
sì dà wǔ shé qí xìng gè yì Tánh chất khác nhau,
二 上 三 卜 諸 方 亦 二 Hai trên hai dưới
èr shàng sān bo zhū fang yì èr Các phương cũng hai
如 是 蛇 大 悉 滅 無 馀 Rắn lớn như thế
rú shì shé dà xī miè wú yú Đều diệt không sót,
地 水 二 蛇 其 性 沉 下 Hai rắn Đất, Nước
dì shuǐ èr shé qí xìng chén xià Tánh chúng chìm xuống,
風 火 二 蛇 性 輕 上 升 Hai rắn Gió Lửa
fēng huǒ èr shé xìng qīng shàng shēng Tánh nhẹ đi lên
心 識 三 性 躁 動 不 停 Hai tánh Tâm, Thức
xīn shí sān xìng zào dòng bù tíng Tháo động không ngừng.
隨 業 受 報 人 天 諸 趣 Tùy nghiệp chịu báo
suí yè shou bao rèn tian zhū qu Các cõi Người Trời,
隨 所 作 業 而 墮 諸 有 Tùy chỗ tạo nghiệp
26 | P a g e
suí suǒ zuò yè ér duò zhū yǒu Mà đọa các loài
水 火 風 種 散 滅 壞 時 Thứ Nước Lửa Gió
shuǐ huǒ fēng zhǒng sàn miè huài shí Khi tan diệt hoại.
大 小 不 淨 盈 流 於 外 Đại tiểu bất tịnh
dà xiǎo bù jìng yíng liú yú wài Đầy chảy ra ngoài,
體 生 諸 蟲 無 可 愛 樂 Thân sanh các trùng
tǐ shēng zhū chóng wú kě ài yuè Không thể ưa mến,
捐 棄 塚 間 如 朽 敗 木 Vất bỏ ngoài gò
Juān qì zhǒng jiān rú xiǔ bài mù Như cây mục nát!
善 女 當 觀 諸 法 如 是 Thiện-Nữ nên xét
shàn nǚ dāng guān zhū fǎ rú shì Các pháp như thế
何 處 有 人 及 以 眾 生 Chỗ nào có Người
hé chù yǒu rén jí yǐ zhòng shēng Và có chúng sanh?
本 性 空 寂 無 明 故 有 Bổn tánh vắng lặng
běn xìng kōng jì wú míng gù yǒu Vì vô minh có.
如 是 諸 大 一 一 不 實 Các đại như thế
rú shì zhū dà yī yī bù shí Mỗi mỗi chẳng thật.
本 自 不 生 性 無 和 合 Vốn tự không sanh,
běn zì bù shēng xìng wú hé hé Táng không hòa hợp.
以 是 因 緣 我 說 諸 大 Do nhân duyên ấy
yǐ shì yīn yuán wǒ shuō zhū dà Ta nói các đại
從 本 不 實 和 合 而 有 Từ gốc không thật,
cóng běn bù shí hé hé ér yǒu Hòa hợp mà có.
無 明 體 相 本 自 不 有 Thể tướng vô minh
wú míng tǐ xiāng běn zì bù yǒu Vốn tự không có
妄 想 因 緣 和 合 而 有 Nhân duyên vọng tưởng
wàng xiǎng yīn yuán hé hé ér yǒu Hòa hợp mà có.
無 所 有 故 假 名 無 明 Vì không thật có
wú suǒ yǒu gù jiǎ míng wú míng Giả danh vô minh,
是 故 我 說 名 曰 無 明 Thế nên Ta nói
27 | P a g e
shì gù wǒ shuō míng yuē wú míng Gọi là vô minh,
行 識 名 色 六 人 觸 受 Hành thức danh sắc
xíng shí míng sè liù rén chù shòu Lục nhập Xúc Thọ
愛 取 有 生 老 死 愁 惱 Ái Thủ Hữu Sanh
ài qǔ yǒu shēng lǎo sǐ chóu nǎo Lão tử sầu não,
眾 苦 行 業 不 可 思 議 Hạnh nghiệp các khổ
zhòng kǔ heng yè bù kě sī yì Không thể nghĩ bàn,
生 死 無 際 輪 轉 不 息 Sanh tử vô ngằn
sheng sǐ wú jì lún zhuǎn bù xī Luân chuyển chẳng dứt.
本 無 有 生 亦 無 和 合 Vốn không có sanh
běn wú yǒu shēng yì wú hé hé Cũng không hòa hợp.
不 善 思 惟 心 行 所 造 Suy nghĩ bất thiện
bù shàn sī wéi xīn xíng suǒ zào Tâm hành gây tạo.
我 斷 一 切 諸 見 纏 等 Ta đoạn tất cả
wǒ duàn yī qiè zhū jiàn chán děng Các kiến trói buộc.
以 智 慧 刀 裂 煩 惱 網 Dùng dao trí tuệ
yǐ zhì huì dāo liè fán nǎo wǎng Rọc lưới phiền não.
五 陰 舍 宅 觀 悉 空 寂 Quán thân năm ấm
wǔ yīn shě zhái guān xī kōng jì Tất cả vắng lặng,
證 無 上 道 微 妙 功 德 Chứng đạo vô thượng.
zhèng wú shàng dào wéi miào gong dé Công đức nhiệm mầu.
開 甘 露 門 示 甘 露 器 Mở cửa cam lồ,
kāi gān lù mén shì gān lù qì Chỉ đồ cam lồ,
入 甘 露 城 處 甘 露 室 Vào thành cam lồ,
rù gān lù chéng chù gān lù shì Ở nhà cam lồ,
令 諸 眾 生 食 甘 露 味 Khiến các chúng sanh
lìng zhū zhòng shēng shí gān lù wèi Ăn vị cam lồ;
吹 大 法 螺 擊 大 法 鼓 Thổi loa đại pháp,
chuī dà fǎ luó jī dà fǎ gǔ Đánh trống đại pháp.
燃 大 法 炬 雨 勝 法 雨 Đốt đuốc đại pháp,
28 | P a g e
rán dà fǎ jù yǔ shèng fǎ yǔ Tuôn mưa đại pháp,
我 今 摧 伏 一 切 怨 結 Ta nay phá dẹp
wǒ jīn cuī fú yī qiè yuàn jié Tất cả oan kết,
堅 立 第 一 微 妙 法 幢 Dựng cao cờ pháp
jiān lì dì yī wéi miào fǎ chuáng Mầu nhiệm thứ nhất,
度 諸 眾 生 於 生 死 海 Độ các chúng sanh
dù zhū zhòng shēng yú sheng sǐ hǎi Khỏi biển sanh tử,
永 斷 三 惡 無 量 苦 惱 Hằng dứt ba ác
yǒng duàn sān è wú liàng kǔ nǎo Vô lượng khổ não.
煩 惱 熾 膚 燒 諸 眾 生 Lửa dữ phiền não
fán nǎo chì fū shāo zhū zhòng shēng Đốt các chúng sanh,
無 有 救 護 無 所 依 止 Không ai cứu hộ,
wú yǒu jiù hù wú suǒ yī zhǐ Không chỗ nương tựa,
我 以 甘 露 清 涼 美 味 Ta dùng mỹ vị
wǒ yǐ gān lù qīng liáng měi wèi Cam lồ mát mẻ.
充 足 是 輩 今 離 焦 熱 Giúp họ đầy đủ,
chōng zú shì bèi jīn lí jiāo rè Khiến lìa nóng đốt,
於 無 量 劫 遵 修 諸 行 Ở vô lượng kiếp
yú wú liàng jié zūn xiū zhū xíng Lo tu các hạnh,
供 養 恭 敬 諸 佛 世 尊 Cúng dường, cung kính
gong yǎng gong jìng zhū fó shì zūn Chư Phật Thế Tôn,
堅 固 修 習 菩 提 之 道 Kiên cố tu tập
jiān gù xiū xí pú tí zhī dào Đạo nghiệp Bồ Đề,
求 於 如 來 真 實 法 身 Cầu được Như Lai
qiú yú rú lái zhēn shí fǎ shēn Pháp thân chân thật.
捨 諸 所 重 肢 節 手 足 Xả bỏ thân mạng
shě zhū suǒ zhòng zhī jié shǒu zú Lóng đốt chân tay
頭 目 髓 腦 所 愛 妻 子 Đầu mắt tủy não,
tóu mù suǐ nǎo suǒ ài qī zi Vợ con yêu dấu,
錢 財 珍 寶 真 珠 纓 絡 Tất cả của báu
29 | P a g e
qián cái zhēn bǎo zhēn zhū yīng luò Chân châu, anh lạc,
金 銀 琉 璃 種 種 異 物 Lưu ly vàng bạc,
jīn yín liú lí zhǒng zhǒng yì wù Trân bảo tiền tài...
Nam Mô Bảo Hoa Lưu Ly Phật (3x)
南 無 寶 華 琉 璃 佛 (三稱)
ná mó bǎo huá liú lí fó
Mặt Phật như trăng tròn thanh tịnh Như ngàn mặt trời phóng ánh sáng
佛 面 猶 如 淨 滿 月 亦 如 千 日 放 光 明
fó miàn yóu rú jìng mǎn yuè yì rú qiān rì fang guāng míng
Mắt trong dài rộng như sen xanh Răng trắng khít đều giống Kha Tuyết
目 淨 修 廣 若 青 蓮 齒 白 齊 密 猶 珂 雪
mù jìng xiū guǎng ruò qīng lián chǐ bái qí mì yóu kē xuě
Công Đức của Phật như biển lớn Trong ấy chứa vô lượng Diệu Bảo
佛 德 無 邊 如 大 海 無 限 妙 寶 積 其 中
fó dé wú biān rú dà hǎi wú xiàn miào bǎo jī qí zhōng
Luôn đầy nước Công Đức, Trí Tuệ Trăm ngàn Thắng Định đều tràn đầy
智 慧 德 水 鎮 常 盈 百 幹 勝 定 咸 充 滿
zhì huì dé shuǐ zhèn cháng yíng bǎi gàn shèng dìng xián chōng mǎn
Dưới chân tướng bánh xe nghiêm sức Đùm, vành, ngàn căm đều ngang bằng
足 下 輪 相 皆 嚴 飾 轂 輞 千 輻 悉 齊 平
zú xià lún xiāng jiē yán shì gǔ wǎng qiān fú xī qí píng
30 | P a g e
Trai chân màng mỏng trang nghiêm khắp Giống như ngỗng chúa đầy đủ tướng
手 足 縵 綱 遍 莊 嚴 猶 如 鵝 王 相 具 足
shǒu zú màn gāng biàn zhuāng yán yóu rú é wáng xiāng jù zú
Thân Phật tỏa sáng như núi vàng Thanh tịnh thù đặc không gì sánh
佛 身 光 耀 等 金 山 清 淨 殊 特 無 倫 匹
fó shēn guāng yào děng jīn shān qīng jìng shū tè wú lún pǐ
Cũng như Diệu Cao đủ Công Đức Nên con cúi lạy Phật Sơn Vương
亦 如 妙 高 功 德 滿 故 我 稽 首 佛 山 王
yì rú miào gāo gōng dé mǎn gù wǒ qǐ shǒu fó shān wáng
Tướng tốt như hư không khó lường Dạo nơi Thiên Nguyệt phóng ánh sáng
相 好 如 空 不 可 測 逾 於 千 月 放 光 明
xiāng hǎo rú kōng bù kě cè yú yú qiān yuè fàng guāng míng
Đều như lửa huyễn khó nghĩ bàn Nên con cúi lạy Tâm Vô Trước
皆 如 燔 幻 不 思 議 故 我 稽 首 心 無 著
jiē rú fán huàn bù sī yì gù wǒ qǐ shǒu xīn wú zhuó
Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn
七佛滅罪真言
Ly bà ly bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà la ni đế. Ni ha ra đế, Tỳ lê nễ đế, Ma ha già đế,
Chân lăn càn đế, Ta bà ha. (3x)
離 婆 離 婆 帝。求 訶 求 訶 帝。陀 羅 尼 帝。尼 訶 囉 帝。
lí pó lí pó dì。 qiú hē qiú hē dì。 tuó luó ní dì。 ní hē là dì。
毗 黎 你 帝。摩 訶 伽 帝。真 陵 乾 帝。莎 婆 訶。(3x)
pí lí nǐ dì。 mó hē qié dì。 zhēn líng qián dì。suō pó hē。
Bổ Khuyết Chân Ngôn
補闕真言
Nam-mô hát ra đát na đa ra dạ da, khê ra khê ra, cu trụ cu trụ ma ra ma ra, hổ ra hồng,
hạ hạ tô đát noa hồng. Bát mạt noa, ta bà ha. (3x)
31 | P a g e
南 謨 喝 囉 怛 那 哆 囉 夜 耶。佉 囉 佉 囉。俱 住 俱 住。
nán mó hē la dá nà duō la yè yé 。 chye la chye la 。 jù zhù jù zhù 。
摩 囉 摩 囉 。虎 囉 吽。賀 賀 蘇 怛 拏。吽。 潑 抹 拏。
mó la mó la 。 hǔ la hung 。hè hè sū dá nuo 。 hung 。 pō mǒ nuo 。
娑 婆 訶. (3x)
suō pó hē
主白文
上 来 来 奉 請 三 寶 諸 天 已 荷 光 臨 大 眾 上 来 來 奉 請 三
寶 諸 天 已 荷 光 臨 大 眾 虔 誠。誦 咒 安 奉。
楞 嚴 咒 CHÚ LĂNG NGHIÊM
大 悲 咒 CHÚ ĐẠI BI
32 | P a g e
上供
1、唱誦
Chiên đàn hải ngạn Lư nhiệt danh hương
旃 檀 海 岸 。 爐 爇 名 香 。
zhān tán hǎi àn. lú ruò míng xiāng.
Gia Tô Tử Mẩu lương vô ương
耶 輸 子 母 兩 無 殃 。
yé shū zǐ mǔ liǎng wú yāng.
Hỏa nội đắc thanh lương Chí tâm kim tương
火 內 得 清 涼 。 至 心 今 將 。
huǒ nèi dé qīng liáng. zhì xīn jīn jiāng.
Nhất chú biến thập phương
一 炷 偏 十 方 。
yī zhù piān shí fāng.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3x)
南 無 香 雲 蓋 菩 薩 摩 訶 薩 (三稱)(九鐘十五鼓)
ná mó xiāng yún gài pú sà mó hē sà (3x)
2、稱聖號
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (3x)
南 無 靈 山 會 上 佛 菩 薩 (三遍)
ná mó líng shān huì shàng fó pú sà (3x)
Nam mô Phật Nam mô Pháp Nam mô Tăng
南 無 佛 。 南 無 法 。 南 無 僧 。
ná mó fó ná mó fǎ ná mó sēng
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
33 | P a g e
南 無 本 師 釋 迦 牟 尼 佛
ná mó běn shī shì jiā móu ní fó
Nam mô Tứ Phương Tứ Phật
南 無 四 方 四 佛
ná mó sì fang sì fó
Nam mô Bảo Hoa Lưu Ly Phật
南 無 寶 華 琉 璃 佛
ná mó bǎo huá liú lí fó
Nam mô Đại Thừa Kim Quang Minh Kinh
南 無 大 乘 金 光 明 經 。
ná mó dà chéng jīn guāng míng jīng
Nam mô Tín Tướng Bồ Tát
南 無 信 相 菩 薩
ná mó xìn xiāng pú sà
Nam mô Kim Quang Minh Bồ Tát
南 無 金 光 明 菩 薩
ná mó jīn guāng míng pú sà
Nam mô Kim Tạng Bồ Tát
南 無 金 藏 菩 薩
ná mó jīn zhang pú sà
Nam mô Thường Bi Bồ Tát
南 無 常 悲 菩 薩
ná mó cháng bēi pú sà
Nam mô Pháp Thượng Bồ Tát
南 無 法 上 菩 薩
ná mó fǎ shàng pú sà
Nam mô Đệ Nhất Oai Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên
34 | P a g e
南 無 第 一 威 德 成 就 眾 事 大 功 德 天
ná mó dì yī wēi dé chéng jiù zhòng shì dà gong dé tiān
35 | P a g e
Nam mô Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát
南 無 護 法 韋 馱 尊 天 菩 薩
ná mó hù fǎ wéi tuó zūn tiān pú sà
Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát
南 無 護 法 諸 天 菩 薩
ná mó hù fǎ zhū tiān pú sà
Nam mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát
南 無 伽 藍 聖 眾 菩 薩
ná mó qié lán shèng zhòng pú sà
Nam mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
南 無 歷 代 祖 師 菩 薩
ná mó lì dài zǔ shī pú sà
Nam mô Đại Thánh Khẩn Na La Vương Bồ Tát (3x)
南 無 大 聖 緊 那 羅 王 菩 薩 (三遍)
ná mó dà sheng jǐn nà luó wáng pú sà (3x)
(此上各聖號,皆周而復始,三遍。
3、變食真言 Biến Thực Chân Ngôn
NA MWO SA WA DAN TWO 南無薩縛怛他 Nam mô tát phạ đát tha,
YE DWO 誐哆。 Nga đa
WA LU JR DI 縛嚕枳帝。 Phạ lồ chỉ đế.
NAN 唵。 Án
SAN BWO LA SAN BWO LA 三跋囉三跋囉 Tam bạt ra, tam bạt ra
HUNG (3X) 吽(三遍) Hồng (3X)
4、 甘露水真言 Cam Lộ Thủy Chân Ngôn
NA MWO SU LU PE YE 南無蘇嚕婆耶。 Nam mô tô rô bà da,
36 | P a g e
DAN TWO YE DWO YE 怛他誐哆耶。 Đát tha nga đa da,
DAN JR TWO 怛姪他。 Đát điệt tha.
NAN 唵。 Án
SU LU SU LU 蘇嚕蘇嚕。 Tô rô tô rô,
BWO LA SU BWO LA SU LU 鉢囉蘇嚕鉢囉蘇嚕。 Tát ra tô rô, bát ra tô rô,
SWO PE HE (3X) 娑婆訶 (三遍) Ta bà ha. (3X)
Món ăn sắc hương vị Trên cúng mười phương Phật
此 食 色 香 味, 上 供 十 方 佛,
cǐ shí sè xiāng wèi, shàng gong shí fang fó,
Kế phụng các Thánh Hiền, Dưới tới sáu đạo phẩm
中 奉 諸 聖 賢, 下 及 六 道 品。
zhōng fèng zhū sheng xián, xià jí liù dào pǐn,
Đẳng thí không sai biệt Tuỳ nguyện đều no đủ.
等 施 無 差 別, 隨 願 皆 飽 滿,
děng shī wú chā bié, suí yuàn jiē bǎo mǎn,
Khiến người bố thí được Vô lượng ba la mật.
令 今 施 者 得, 無 量 波 羅 蜜。
lìng jīn shī zhě dé, wú liàng bō luó mì.
Tam đức lục vị Cúng Phật cùng Tăng
三 德 六 味, 供 佛 及 僧,
sān dé liù wèi, gōng fó jí sēng,
Pháp giới hữu tình Khắp đồng cúng dường.
法 界 有 情, 普 同 供 養。
fǎ jiè yǒu qíng, pǔ tóng gong yang.
5、普供養真言 Phổ Cúng Dường Chân Ngôn
37 | P a g e
NAN 唵 Án
YE YE NANG 誐誐曩 Nga nga nẵng
SAN PWO WA 三婆縛 Tam bà phạ
FA DZ LA 韈日囉 Phiệt nhựt ra
HUNG (3X) 斛。 (三遍) hồng. (3X)
38 | P a g e
Xướng tụng
唱誦 (大讃)
Kiền thành hiến hương hoa. Trí tuệ đăng hồng diễm giao gia.
虔 誠 獻 香 花 。 智 慧 燈 紅 焰 交 加。
qián chéng xiàn xiāng huā zhì huì dēng hóng yàn jiāo jiā
Tịnh bình dương liểu sái kham khoa. Cảm lãm cộng tì bà.
淨 瓶 楊 柳 灑 堪 誇 。 橄 欖 共 枇 杷。
jìng píng yáng liǔ sǎ kān kuā gǎn lǎn gòng pí pá
Mông sơn tước thiệt trà phụng hiến Tô đà phổ cúng dường
蒙 山 雀 舌 茶 奉 獻。 酥 酡 普 供 養。
méng shān què shé chá fèng xiàn sū tuó pǔ gong yang
Thích Ca Tôn, bách bảo minh châu phụng hiến Phật Bồ Tát
釋 迦 尊,百 寶 明 珠 奉 獻 佛 菩 薩。
shì jiā zūn bǎi bǎo míng zhū fèng xiàn fó pú sà
Y phụng hiến Pháp Vương gia
衣 奉 獻 法 王 家。
yī fèng xiàn fǎ wáng jiā
Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lạy)
南 無 普 供 養 菩 薩 摩 訶 薩 (三拜)
ná mó pǔ gong yang pú sà mó hē sà
39 | P a g e
Nam mô Đại Thừa Thường Trụ Tam Bảo (3 lạy)
南 無 大 乘 常 住 三 寶 (三稱, 三拜)
ná mó dà chéng cháng zhù sān bǎo
40 | P a g e
维那唱
Phật Pháp Tăng Tam Bảo, Chúng sanh lương phước điền,
佛 法 僧 三 寶, 眾 姓 良 福 田,
fó fǎ sēng sān bǎo zhòng xìng liáng fú tián
Chí tâm hiến diệu cúng Phước thọ quảng vô biên.
志 心 献 妙 供, 福 壽 廣 無 邊。
zhì xīn xiàn miào gong fú shòu guǎng wú biān
上來恭對三寶諸天菩薩聖前。修設香 果品酥酡妙供。供獻
諸佛聖眾護法尊天。伏乞發廣大慈悲 受。
主接讃疏文
稱聖號
Nam mô Bảo Hoa Lưu Ly Phật
南 無 寶 華 琉 璃 佛。
ná mó bǎo huá liú lí fó
Nam mô Đại Thừa Kim Quang Minh Kinh
南 無 大 乘 金 光 明 經。
ná mó dà chéng jīn guāng míng jīng
Nam mô Đệ Nhất Oai Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên (3x)
南 無 第 一 威 德 成 就 眾 事 大 功 德 天 (三稱)
ná mó dì yī wēi dé chéng jiù zhòng shì dà gong dé tiān (3x)
主者白文
Nay chúng con đạo tràng, phu thiết cúng dường, thắp đủ loại hương đèn, phụng đủ loại
ẩm thực, tịnh kiết như pháp. Cung trì phụng cúng chư Phật Thế Tôn, đại thừa kinh điển,
Bồ-tát Thánh Hiền, nhất thiết Tam Bảo. Lại công đức đại thiên, Đại Biện, bốn vua Phạm
Thích, thiên long bát bộ Thánh chúng.
41 | P a g e
今我道場。敷設供養。然種種香。点 種燈。奉種種飲食。
淨潔如法。恭持奉供。諸佛世尊。大 經典。菩薩賢聖。一
切三寶。又復別具香華飲食。奉獻功 大天。大辯四天。梵
釋天龍。八部聖眾。复持飲食。散擲 方。施諸神等。
Duy nguyện Tam-bảo Thiên Tiên xót thương nạp thọ chúng con và hết thảy chúng. Dùng
Kim Quang Minh lực và oai thần của chư Phật khiến các thứ cúng dường hiển hiện mười
phương tất cả các cõi Phật, như mây che khắp, như mưa thấm nhuần, rộng làm Phật sự,
đẳng huân chúng sanh phát tâm Bồ-đề, đồng viên chủng trí.
惟願三寶天仙。憐愍我等。及諸眾生 受此供養。以金光明
力。及諸佛威神。於一念間。顯現十 一切佛剎。如雲遍
滿。如雨普洽。廣作佛事。等熏眾生 發菩提心。同圓種
智。 (作是語已。當持飲食至道場外淨處。 散四方。)
大吉祥天女呪 Đại Cát Tường Thiên Nữ Chú
NA MWO FWO TWO 南無佛陀。 Nam mô Phật đà.
NA MWO DA MWO 南無達摩。 Nam mô Đạt ma.
NA MWO SENG CHYE 南無僧伽。 Nam mô Tăng già.
NA MWO SHR LI 南無室利。 Nam mô thất rị.
MWO HE TI BI YE 摩訶提鼻耶。 Ma ha đế tỷ da.
DA NI YE TWO 怛你也他。 Đát nễ dã tha.
BWO LI FU LOU NWO 波利富樓那。 Ba rị phú lầu na.
JE LI SAN MAN TWO 遮利三曼陀。 Giá rị tam mạn đà.
DA SHE NI 達舍尼。 Đạt xá ni.
MWO HE PI HE LWO CHYE DI 摩訶毗訶羅伽帝。 Ma ha tỳ ha ra già đế.
42 | P a g e
SAN MAN TWO 三曼陀。 Tam mạn đà.
PI NI CHYE DI 毘尼伽帝。 Tỳ ni già đế.
MWO HE JA LI YE 摩訶迦利野。 Ma ha ca rị giã.
BWO MI 波禰。 Ba nể,
BWO LA 波囉。 Ba ra,
BWO MI 波禰。 Ba nể.
SA LI WA LI TWO 薩利縛栗他。 Tát rị phạ lật tha.
SAN MAN TWO 三曼陀。 Tam mạn đà.
SYOU BWO LI DI 修鉢黎帝。 Tu bát lê đế.
FU LI NOW 富隸那。 Phú lệ na.
E LI NOW 阿利那。 A rị na.
DA MWO DI 達摩帝。 Đạt mạ đế.
MWO HE PI GU BI DI 摩訶毗鼓畢帝。 Ma ha tỳ cổ tất đế.
MWO HE MI LEI DI 摩訶彌勒帝。 Ma ha di lặc đế.
LOU BWO SENG CHI DI 婁簸僧祇帝。 Lâu phả tăng kỳ đế.
SYI DI SYI 醯帝蓰。 Hê đế tỷ.
SENG CHI SYI DI 僧祇醯帝。 Tăng kỳ hê đế.
SAN MAN TWO 三曼陀。 Tam mạn đa.
E TWO E DU 阿他阿耨 A tha, a nậu,
PE LWO NI (7X) 婆羅尼。 (七遍) Đà ra ni. (7X)
Chúc Nguyện
祝愿
43 | P a g e
Tôi nay y lời Phật dạy cúng dường Đại Thừa Tam Bảo, và cát tường đại thiên, đem
những món ăn tung vãi mười phương khắp thí quỷ thần. Nguyện thần minh oai quyền
tự tại, khắp đồng họp tập, cùng thọ pháp thực, sung túc đầy đủ, thần lực mạnh thêm.
Biết chỗ chúng tôi mong cầu giúp cho mãn nguyện. Xin đem phước lợi này khắp nhuận
hàm linh, đồng hưởng an vui mãi mãi.
我今依教供養大乘三寶。及吉祥大天 持此種種飲食。散灑
諸方。遍施諸神。願 諸神明。威權自在。一念普集。各受
食。充足無乏。身力勇銳。守護堅強 知我所求。願當相
與。回此福利。普潤含生。果報自然 常受勝樂。
(作是咒願竟。即便以食散擲四方。想 量鬼神悉來受食。爾時或誦前咒。或 但云
南無室利摩訶天女。以食盡為度。散 畢回道場禮佛)。
消 災 吉 祥 神 咒 TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
NA MWO SAN MAN DWO 曩謨三滿哆 Nam mô tam mãn đa
MU TWO NAN 母馱喃 mẫu đà nẫm
E BWO LA DI 阿缽囉底 a bát ra để
HE DWO SHE 賀多舍 hạ đa xá
SWO NANG NAN 娑曩喃 ta nẵng nẫm
DA JR TWO 怛侄他 đát diệt tha
NAN 唵 Án
CHYWE CHYWE 佉佉 khư khư
CHYWE SYI 佉呬 khư hế
CHYWE SYI 佉呬 khư hế
HUNG HUNG 吽吽 hồng hồng
RU WA LA 入嚩囉 nhập phạ ra
44 | P a g e
RU WA LA 入嚩囉 nhập phạ ra
BWO LA RU WA LA 缽囉入嚩囉 bát ra nhập pha ra
BWO LA RU WA LA 缽囉入嚩囉 bát ra nhập pha ra
DI SAI CHA 底瑟奼 để sắt sá
DI SAI CHA 底瑟奼 để sắt sá
SHAI JR LI 瑟致哩 sắt trí rị
SHAI JR LI 瑟致哩 sắt trí rị
SWO PAN JA 娑癹吒 ta phấn tra
SWO PAN JA 娑癹吒 ta phấn tra
SHAN DI JYA 扇底迦 phiến để ca
SHR LI YE 室哩曳 thất rị duệ
SWO WA HE (3X) 娑嚩訶 (3X) ta phạ ha. (3 lần)
45 | P a g e
Xướng kệ
唱偈
Hỡi chúng Thiên Tiên. Tôi nay khắp cúng dường.
汝 等 天 仙 眾 。 我 今 施 汝 供 。
rǔ děng tiān xiān zhòng wǒ jīn shī rǔ gōng
Thức ăn biến mười phương. Tất cả Thiên Tiên chung hưởng.
此 食 徧 十 方 。 一 切 天 仙 共 。
cǐ shí biàn shí fāng yī qiè tiān xiān gòng
Nguyện đem công đức này, Phổ cập tới tất cả.
願 以 此 功 德 。 普 及 於 一 切 。
yuàn yǐ cǐ gōng dé pǔ jí yú yī qiè
Kẻ thí người thọ. Đều trọn thành Phật đạo.
我 等 與 天 仙 。 皆 共 成 佛 道 。
wǒ děng yǔ tiān xiān jiē gòng chéng fó dào
Hỡi chúng Địa kỳ. Tôi nay khắp cúng dường.
汝 等 地 祇 眾 。 我 今 施 汝 供 。
rǔ děng di qí zhòng wǒ jīn shī rǔ gōng
Thức ăn biến mười phương. Tất cả Địa kỳ chung hưởng.
此 食 徧 十 方 。 一 切 地 祇 共 。
cǐ shí biàn shí fāng yī qiè di qí gòng.
Nguyện đem công đức này, Phổ cập tới tất cả,
願 以 此 功 德 。 普 及 於 一 切 。
yuàn yǐ cǐ gōng dé pǔ jí yú yī qiè
Kẻ thí người thọ Đều trọn thành Phật đạo.
我 等 與 地 祇 。 皆 共 成 佛 道 。
wǒ děng yǔ di qí jiē gòng chéng fó dào
Hỡi chúng vua quan. Tôi nay khắp cúng dường.
46 | P a g e
汝 等 王 官 眾 。 我 今 施 汝 供 。
rǔ děng wáng guān zhòng wǒ jīn shī rǔ gōng
Thức ăn biến mười phương. Tất cả vua quan chung hưởng.
此 食 徧 十 方 。 一 切 王 官 共 。
cǐ shí biàn shí fāng yī qiè wáng guān gòng
Nguyện đem công đức này, Phổ cập tới tất cả,
願 以 此 功 德 。 普 及 於 一 切 。
yuàn yǐ cǐ gōng dé pǔ jí yú yī qiè
Kẻ thí người thọ Đều trọn thành Phật đạo.
我 等 與 王 官 。 皆 共 成 佛 道 。
wǒ děng yǔ wáng guān jiē gòng chéng fó dào
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
般 若 波 羅 蜜 多 心 經
觀 自 在 菩 薩,行 深 般 若 波 羅 密 多 時,照 見 五
guān zì zài pú sà, xíng shēn bō rě bō luó mì duō shí, zhào jiàn wǔ
蘊 皆 空,度 一 切 苦 厄。舍 利 子!色 不 異 空,空
不
yùn jiē kōng, dù yī qiè kǔ è, shè lì zi! sè bù yì kōng, kōng bù
異 色。色 即 是 空,空 即 是 色。受 想 行 識,亦 復
如
yì sè. sè jí shì kōng, kōng jí shì sè. shòu xiǎng xíng shí, yì fù rú
是。舍 利 子!是 諸 法 空 相,不 生 不 滅,不 垢 不
shì. shè lì zi! shì zhū fǎ kōng xiāng, bù shēng bù miè, bù gòu bù
淨,不 增 不 減。是 故,空 中 無 色,無 受、想、行、
jìng, bù zēng bù jiǎn. shì gù, kōng zhōng wú sè, wú shòu, xiǎng, xíng,
47 | P a g e
識;無 眼、耳、鼻、舌、身、意;無 色、聲、香、味、
觸、
shí; wú yǎn, ěr, bí, shé, shēn, yì; wú sè, shēng, xiāng, wèi, chù,
法;無 眼 界,乃 至 無 意 識 界;無 無 明,亦 無 無
明
fǎ; wú yǎn jiè, nǎi zhì wú yì shí jiè; wú wú míng, yì wú wú míng
盡,乃 至 無 老 死,亦 無 老 死 盡;無 苦、集、滅、
jǐn, nǎi zhì wú lǎo sǐ, yì wú lǎo sǐ jǐn; wú kǔ, jí, miè,
道,無 智 亦 無 得,以 無 所 得 故,菩 提 薩 埵;依
般
dào, wú zhì yì wú dé, yǐ wú suǒ dé gù, pú tí sà duǒ; yī bō
若 波 羅 密 多 故,心 無 罣 礙;無 罣 礙 故,無 有 恐
rě bō luó mì duō gù, xīn wú guà ài; wú guà ài gù, wú yǒu kǒng
怖,遠 離 顛 倒 夢 想,究 竟 涅 槃。三 世 諸 佛,依
般
bù, yuǎn lí diān dǎo mèng xiǎng, jiù jìng niè pán. sān shì zhū fó, yī bō
若 波 羅 密 多 故,得 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提。故
rě bō luó mì duō gù, dé ā nòu duō luó sān miǎo sān pú tí. gù
知,般 若 波 羅 密 多 是 大 神 咒,是 大 明 咒,是 無
zhī, bō rě bō luó mì duō shì dà shén zhòu, shì dà míng zhòu, shì wú
上 咒,是 無 等 等 咒,能 除 一 切 苦,真 實 不 虛。
故
shàng zhòu, shì wú děng děng zhòu, néng chú yī qiè kǔ, zhēn shí bù xū. gù
說 般 若 波 羅 密 多 咒,即 說 咒 曰:
shuō bō rě bō luó mì duō zhòu, jí shuō zhòu yuē:
48 | P a g e
揭 帝 揭 帝 波 羅 揭 帝 波 羅 僧 揭 帝 菩 提 薩 婆
訶!
Jiē dì, jiē dì, bō luó jiē dì, bō luó sēng jiē dì, pú tí sà pó hē!
Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhất thiết khổ ách.
Xá-lợi tử sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ,
tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-lợi tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất
giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt,
đạo, vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại
cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết-bàn. Tam thế chư Phật
y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề .
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô
đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, bala-tăng
yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.
Thân Phật sáng ngời như Kim Sơn Thanh tịnh đặc thù không ai bằng
佛 身 光 耀 等 金 山 清 淨 殊 特 無 倫 匹
fó shēn guāng yào děng jīn shān qīng jìng shū tè wú lún pǐ
Nhị thập chư Thiên công đức mãn Nay con kệ thủ Đại Tôn Thiên
二 四 諸 天 功 德 滿 故 我 稽 首 大 尊
天
èr sì zhū tiān gong dé mǎn gù wǒ qǐ shǒu dà zūn tiān
Nam mô Công Đức Tôn Thiên (người xuất gia xá, Phật tử tại gia lạy)
南 無 功 德 尊 天 (出家问询,在家礼拜)
ná mó gong dé zūn tiān
49 | P a g e
Nam mô Đại Biện Tài Tôn Thiên
南 無 大 辯 才 尊 天
ná mó dà biàn cái zūn tiān
Nam mô Đại Phạm Tôn Thiên
南 無 大 梵 尊 天
ná mó dà fàn zūn tiān
Nam mô Đế Thích Tôn Thiên
南 無 帝 釋 尊 天
ná mó dì shì zūn tiān
Nam mô Trì Quốc Tôn Thiên
南 無 持 國 尊 天
ná mó chí guó zūn tiān
Nam mô Tăng Trưởng Tôn Thiên
南 無 增 長 尊 天
ná mó zēng cháng zūn tiān
Nam mô Quảng Mục Tôn Thiên
南 無 廣 目 尊 天
ná mó guǎng mù zūn tiān
Nam mô Đa Văn Tôn Thiên
南 無 多 聞 尊 天
ná mó duō wén zūn tiān
Nam mô Kim Cang Mật Tích Tôn Thiên
南 無 金 剛 密 跡 尊 天
ná mó jīn gang mì jī zūn tiān
Nam mô Tán Chỉ Tôn Thiên
南 無 散 脂 尊 天
ná mó sàn zhī zūn tiān
50 | P a g e
Nam mô Vi Đà Tôn Thiên
南 無 韋 馱 尊 天
ná mó wéi tuó zūn tiān
Nam mô Kiên Lao Địa Tôn Thiên
南 無 堅 牢 地 尊 天
ná mó jiān láo di zūn tiān
Nam mô Bồ Đề Thọ Tôn Thiên
南 無 菩 提 樹 神 尊 天
ná mó pú tí shù shén zūn tiān
Nam mô Quỉ Tử Mẫu Tôn Thiên
南 無 鬼 子 母 尊 天
ná mó guǐ zǐ mǔ zūn tiān
Nam mô A Lợi Đế Nam Tôn Thiên
南 無 阿 利 帝 喃 尊 天
ná mó a li dì nan zūn tiān
Nam mô Ma Hê Thủ La Tôn Thiên
南 無 摩 醯 首 羅 尊 天
ná mó mó xī shǒu luó zūn tiān
Nam mô Nhật Cung Tôn Thiên
南 無 日 宮 尊 天
ná mó rì gong zūn tiān
Nam mô Nguyệt Cung Tôn Thiên
南 無 月 宮 尊 天
ná mó yuè gōng zūn tiān
Nam mô Tinh Cung Tôn Thiên
南 無 星 宮 尊 天
ná mó xing gōng zūn tiān
Nam mô Tam Thập Tam Tôn Thiên
51 | P a g e
南 無 三 十 三 尊 天
ná mó san shi san zūn tiān
Nam mô Diệm La Tôn Thiên
南 無 閻 羅 尊 天
ná mó yán luó zūn tiān
Nam mô Ta Kiệt La Long Vương Tôn Thiên
南 無 沙 竭 羅 龍 王 尊 天
ná mó shā jié luó long wáng zūn tiān
Nam mô Khẩn Na La Vương Tôn Thiên
南 無 緊 那 羅 王 尊 天
ná mó jǐn nà luó wáng zūn tiān
Nam mô Quang Minh Hội Thượng Hộ Pháp Chư Thiên
南 無 光 明 會 上 護 法 諸 天
ná mó jīn guāng míng hui shàng hù fǎ zhū tiān
52 | P a g e
Viên Mãn Phụng Tiễn Thánh
圓 满 奉 送 聖 (鼓聲大振)
Phật từ quãng đại Cảm ứng vô sai
佛 慈 廣 大, 感 應 無 差,
fó cí guǎng dà gǎn yìng wú chà
Tịch quang tam muội biến hà sa
寂 光 三 昧 偏 河 沙
Jì guāng sān mèi piān hé shā
Nguyện bất ly già gia
願 不 離 伽 耶。
yuan bù lí jiā yé
Giáng phước trai gia Kim địa dũng liên hoa
降 福 齋 家。 金 地 湧 蓮 花。
jiàng fú zhāi jiā jīn dì yǒng lián huā
Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lạy)
南 無 登 雲 路 菩 薩 摩 訶 薩(三拜)
ná mó dēng yún lù pú sà mó hē sà
Hồi Hướng
迴向
Trai Thiên công đức thù thắng hạnh. Vô biên thắng phước giai hồi hướng
齋 天 功 德 殊 勝 行, 無 邊 勝 福 皆 迥 向。
zhai tian gōng dé shū shèng xíng, wú biān shèng fú jiē jiǒng xiàng.
Phổ nguyện pháp giới chư chúng-sanh Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
普 願 沉 溺 諸 眾 生, 速 往 無 量 光 佛 剎。
pǔ yuàn chén nì zhū zhòng shēng sù wǎng wú liàng guāng fó shā
Thập phương tam thế nhất thiết Phật Nhất thiết Bồ Tát Ma ha tát
53 | P a g e
十 方 三 世 一 切 佛, 一 切 菩 薩 摩 訶 薩。
shí fāng sān shì yī qiè fó yī qiè pú sà mó hē sà
Ma ha bát nhã ba la mật
摩 訶 般 若 波 羅 蜜。
mó hē bō rě bō luó mì
Tam Quy Y
三 皈 依
Tự quy y Phật, nên nguyện chúng sanh,
自 皈 依 佛, 當 願 眾 生,
zì guī yī fó dāng yuàn zhòng shēng
Thể giải đại đạo, phát tâm vô thượng.
體 解 大 道, 發 無 上 心。
tǐ jiě dà dào fā wú shàng xīn
Tự quy y pháp, nên nguyện chúng sanh,
自 皈 依 法, 當 願 眾 生,
zì guī yī fǎ dāng yuàn zhòng shēng
Hiểu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.
深 入 經 藏, 智 慧 如 海。
shēn rù jīng cáng zhì huì rú hǎi
Tự quy y Tăng, nên nguyện chúng sanh,
自 皈 依 僧, 當 願 眾 生,
zì guī yī sēng dāng yuàn zhòng shēng
Thống lý đại chúng, tất cả không ngại.
統 理 大 眾, 一 切 無 礙。
tǒng lǐ dà zhòng yī qiē wú ài
54 | P a g e
Hòa nam Thánh chúng.
和 南 聖 眾。
hé nán sheng zhòng
(金光明懺齋天儀規圓滿)
Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn
佛 說 盂 蘭 盆 經
Nam Mô Vu Lan Bồn Hội Phật Bồ Tát (3 lần)
南 無 盂 蘭 盆 會 佛 菩 薩 (3 稱)
ná mo yú lán pén huì fo pú sà
Tôi nghe như vậy, một thuở nọ Ðức Phật trú tại khu vườn Kỳ-đà Cấp cô
độc.
如 是 我 聞。一 時 佛 在 舍 衛 國 祇 樹 給 孤 獨
rú shì wǒ wén. yī shí fo zài shě wèi guó qí shù ji gū dú
Bấy giờ Trưởng giả Ðại Mục-kiền-liên mới chứng đắc sáu thứ Thần thông,
muốn cứu độ cha mẹ để báo ân đức sâu dày dưỡng dục,
園。大 目 犍 連 始 得 六 通,欲 度 父 母,報 乳
yuán. dà mù jiān lián shǐ dé liù tōng, yù dù fù mǔ, bào rǔ
bèn dùng Ðạo nhãn quán sát khắp thế giới, thấy người mẹ đã qua đời của
mình
哺 之 恩。即 以 道 眼 觀 視 世 間,見 其 亡 母 生
bǔ zhī ēn. jí yǐ dào yǎn guān shì shì jiān, jiàn qí wáng mǔ sheng
55 | P a g e
bị đọa trong loài ngạ quỷ, không được uống ăn nên thân hình chỉ còn da
bọc lấy xương. Tôn giả Mục-liên thấy vậy vô cùng xót thương, buồn bã,
餓 鬼 中,不 見 飲 食,皮 骨 連 立。目 連 悲 哀,
è guǐ zhōng, bù jiàn yǐn shí, pí gǔ lián lì. mù lián bēi āi,
liền lấy bát đựng đầy cơm và vận dụng Thần thông đem hiến dâng cho
mẹ. Bà mẹ vừa nhận được bát cơm,
即 以 缽 盛 飯,往 餉 其 母,母 得 缽 飯,即 以
jí yǐ bō chéng fàn, wǎng xiǎng qí mǔ, mǔ dé bō fàn, jí yǐ
liền dùng tay trái che đậy, tay phải bốc ăn, cơm chưa vào miệng đã hóa
thành than hồng nên không thể ăn được.
左 手 障 缽,右 手 搏 食,食 未 入 口,化 成 火
zuǒ shǒu zhàng bō, yòu shǒu bó shí, shí wèi rù kǒu, huà chéng huǒ
Tôn giả Mục-liên lớn tiếng kêu khóc trở về bạch Phật, thuật lại đầy đủ mọi
sự việc như vậy.
炭,遂 不 得 食。目 連 大 叫,悲 號 涕 泣,馳 還
tàn, suì bù dé shí. mù lián dà jiào, bēi háo tì qì, chí huan
白 佛,具 陳 如 此。
bái fo, jù chén rú cǐ.
Ðức Phật bảo: “Mục-liên! Thân mẫu của ông tội chướng sâu dày,
không phải năng lực một mình ông có thể cứu được.
佛 言:'汝 母 罪 根 深 結,非 汝 一 人 力 所 奈
fo yán: 'rǔ mǔ zuì gēn shēn jié, fēi rǔ yī rén lì suǒ nài
Tuy lòng hiếu thảo của ông vang động trời đất, nhưng những Thiên thần,
địa kỳ,
何。汝 雖 孝 順,聲 動 天 地、天 神 地 祇、邪 魔
hé. fǔ suī xiào shùn, sheng dòng tiān dì, tiān shén de qí, xié mó
56 | P a g e
tà ma ngoại đạo, đạo sĩ và bốn vị Thiên vương cũng không thể làm gì
được.
外 道、道 士 四 天 王 神,亦 不 能 奈 何。當 須
wài dào, dào shi sì tiān wáng shén, yì bù néng nài hé. dāng xū
Nay ông phải nhờ vào oai lực của Tăng chúng ở mười phương thì mới có
thể siêu thoát được. Nay ta chỉ dạy cho ông phương pháp cứu tế để cho
tất cả những kẻ khổ nạn cũng được siêu thoát.
十 方 眾 僧 威 神 之 力 乃 得 解 脫。吾 今 當 說
shí fang zhòng sēng wēi shén zhī lì nǎi dé jiě tuō. wú jīn dāng shuō
救 濟 之 法,令 一 切 難 皆 離 憂 苦。'
jiù jì zhī fǎ, lìng yī qiè nán jiē lí yōu kǔ.'
Này Mục-liên! Ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ của mười phương
Tăng chúng,
佛 告 目 連:'十 方 眾 生,七 月 十 五 日,僧
fo gào mù lián: 'shí fang zhòng shēng, qī yuè shí wǔ rì, sēng
nên vì cha mẹ bảy đời, cha mẹ hiện tại, những người đang ở trong vòng
khổ nạn luân hồi,
自 恣 時,當 為 七 世 父 母 及 現 在 父 母 厄
難
zì zì shí, dāng wèi qī shì fù mǔ jí xiàn zài fù mǔ è nàn
mà sắm sửa đầy đủ cơm, thức ăn, năm thứ trái cây, bồn chậu múc nước,
hương dầu đèn nến,
中 者,具 飯、百 味 五 果、汲 灌 盆 器、香 油
錠
zhōng zhě, jù fàn, bǎi wèi wǔ guǒ, jí guàn pén qì, xiāng yóu ding
57 | P a g e
giường chõng, đồ nằm đầy đủ, đều là loại tươi ngon, tốt đẹp ở đời để
dâng cúng
燭、床 敷 臥 具、盡 世 甘 美 以 著 盆 中,供
養
zhú, chuáng fū wò jù, jǐn shì gān měi yǐ zhe pén zhōng, gong yang
đại đức chúng Tăng ở khắp mười phương. Chính trong ngày này, các vị
Hiền thánh tăng
十 方 大 德 眾 僧。當 此 之 日,一 切 聖 眾,
或
shí fang dà dé zhòng sēng. dāng cǐ zhī rì, yī qiè sheng zhòng, huò
hoặc tu thiền định; hoặc thường đi kinh hành ở dưới gốc cây lớn;
在 山 間 禪 定、或 得 四 道 果、或 在 樹 下 經
zài shān jiān chán dìng, huò dé sì dào guǒ, huò zài shù xià jīng
hoặc là hành Thanh văn, Duyên giác đầy đủ sáu Thần thông, giáo hóa tự
tại. Hoặc những vị Bồ-tát, Ðại sĩ đã lên Ðịa thứ mười,
行、或 六 通 自 在 教 化 聲 聞 緣 覺、或 十 地
xíng, huò liù tōng zì zài jiào huà shēng wén yuán jué, huò shí dì
mà lại phương tiện hiện tướng Tỳ-kheo. Tất cả đều quy tụ trong hàng
chúng Tăng, đồng đẳng nhất tâm
菩 薩 大 人,權 現 比 丘,在 大 眾 中,皆 同
一
pú sà dà rén, quán xiàn bǐ qiū, zài dà zhòng zhōng, jiē tóng yī
mà thọ Tự tứ. Vì giới pháp thanh tịnh đầy đủ, nên đạo đức của Tăng
chúng sâu rộng mênh mông.
58 | P a g e
心,受 缽 和 羅 飯,具 清 淨 戒,聖 眾 之 道,
其
xīn, shòu bō hé luó fàn, jù qīng jìng jiè, shèng zhòng zhī dào, qí
Nếu có người dâng cúng chúng Tăng Tự tứ như vậy thì tất cả cha mẹ
trong đời hiện tại,
德 汪 洋。其 有 供 養 此 等 自 恣 僧 者,現 世
dé wāng yáng. qí yǒu gong yǎng cǐ děng zì zì sēng zhě, xiàn shì
bà con quyến thuộc đã quá vãng sẽ được siêu sinh trong ba đường khổ
liền được đầy đủ áo cơm.
父 母、六 親 眷 屬,得 出 三 塗 之 苦 應 時 解
fù mǔ, liù qīn juàn shǔ, dé chū sān tú zhī kǔ yìng shí jiě
Nếu cha mẹ còn sống thì được hưởng phước lạc sống lâu trăm tuổi,
脫,衣 食 自 然;若 父 母 現 在 者,福 樂 百
tuō, yī shí zì rán; ruò fù mǔ xiàn zài zhě, fú lè bǎi
còn cha mẹ quá khứ bảy đời thì được sinh lên cõi trời Tự tại hóa sinh ở
trong cõi trời, hoa lệ chói sáng, hưởng vô lượng phước lạc.”
年;若 七 世 父 母 生 天,自 在 化 生,入 天
華
nián; ruò qī shì fù mǔ shēng tiān, zì zài huà shēng, rù tiān huá
光。'
guāng.'
Bấy giờ, Phật bảo chúng Tăng ở mười phương trước tiên phải chú
nguyện,
時 佛 敕 十 方 眾 僧,皆 先 為 施 主 家 咒
59 | P a g e
Shí fo chì shí fang zhòng sēng, jiē xiān wèi shī zhǔ jiā zhòu
nguyện cha mẹ bảy đời của tín thí rồi sau mới thọ thực. Lại nữa, trước án
bàn thờ Phật sắp đặt mọi thứ; tại nơi Tăng chúng hoặc ở trong chùa tháp
cũng vậy, chúng Tăng đều phải chú nguyện trước sau rồi mới thọ thực.
願,願 七 世 父 母 行 禪 定 意,然 後 受 食。
初
yuàn, yuàn qī shì fù mǔ xíng chán dìng yì, rán hòu shòu shí. Chū
受 食 時,先 安 在 佛 前,塔 寺 中 佛 前,眾
僧
shòu shí shí, xiān ān zài fú qián, tǎ sìzhōng fú qián, zhòng sēng
咒 願 竟,便 自 受 食。
zhòu yuàn jìng, biàn zì shòu shí.
Khi ấy, Tôn giả Mục-liên cùng với chư vị Ðại sĩ, Bồ-tát đều rất hoan
hỷ, tiếng than khóc bi thương của ngài Mục-kiền-liên cũng tan biến.
時 目 連 比 丘 及 大 菩 薩 眾 皆 大 歡 喜,
目
Shí mù lián bǐ qiū jí dà pú sà zhòng jiē dà huān xǐ, mù
連 悲 啼 泣 聲 釋 然 除 滅。
lián bēi tí qì sheng shì rán chú miè.
Thân mẫu của ngài cũng trong ngày ấy được thoát khổ trong loài
ngạ quỷ.
時 目 連 母 即 於 是 日,得 脫 一 劫 餓 鬼
Shí mù lián mǔ jí yú shì rì, dé tuō yī jié è guǐ
60 | P a g e
之 苦。
zhī kǔ.
Khi ấy ngài Mục-kiền-liên lại bạch: “Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con đã
được siêu thoát, đó là nhờ năng lực công đức Tam bảo,
目 連 复 白 佛 言:' 弟 子 所 生 母,得 蒙
三
mù lián fù bái fo yán: ' dì zǐ suǒ sheng mǔ, dé méng sān
trong đó cũng có uy lực của Tăng chúng. Nếu đời vị lai, tất cả đệ tử Ðức
Phật
寶 功 德 之 力,眾 僧 威 神 力 故。若 未 來
世,
bǎo gōng dé zhī lì, zhòng sēng wēi shén lì gù. ruò wèi lái shì,
muốn hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ thì kinh Vu-lan-bồn này có thể cứu
一 切 佛 弟 子,亦 應 奉 盂 蘭 盆,救 度 現 在
yī qiè fo dì zǐ, yì yīng fèng yú lán pén, jiù dù xiàn zài
độ cha mẹ hiện tại cho đến cha mẹ bảy đời chăng? “
父 母,乃 至 七 世 父 母,可 為 爾 否?'
fù mǔ, nǎi zhì qī shì fù mǔ, kě wéi ěr fǒu?'
Ðức Phật nói: “Này Mục-kiền-liên! Rất hay. Ðiều mà Như Lai muốn
nói Tôn giả đã hỏi.
佛 言:'大 善 快 問!我 正 欲 說,汝 今 復
Fo yán: 'Dà shàn kuà i wèn! Wǒ zhèng yù shuō, rǔ jīn fù
Này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, quốc vương, vương tử, đại
thần,
61 | P a g e
問。善 男 子!若 比 丘 比 丘 尼、國 王 太 子、
大
wèn. shàn nán zǐ! ruò bǐ qiū bǐ qiū ní, guó wáng tài zǐ, dà
tể tướng, tam công, bách quan cùng cả thảy dân chúng muốn thực hành
đức từ hiếu,
臣 宰 相、三 公 百 官、萬 民 庶 人,行 慈 孝
chén zǎi xiàng, sān gōng bǎi guān, wàn mín shù rén, xíng cí xiào
trước nên vì cha mẹ hiện tiền, kế đó cha mẹ bảy đời trong quá khứ là
者,皆 應 先 為 所 生 現 在 父 母、過 去 七 世
zhě, jiē yīng xiān wéi suǒ shēng xiàn zài fù mǔ, guò qù qī shì
cứ đến rằm tháng bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày chư Tăng Tự tứ,
父 母,於 七 月 十 五 日,佛 歡 喜 日,僧 自
恣
fù mǔ, yú qī yuè shí wǔ rì, fo huān xǐ rì, sēng zì zì
nên sắp đặt đủ thứ các loại trái cây, thức ăn, nước uống vào bồn Vu-lan
để dâng cúng chư Tăng ở mười phương.
日,以 百 味 飯 食,安 盂 蘭 盆 中,施 十 方
自
rì, yǐ bǎi wèi fàn shí, ān yú lán pén zhōng, shī shí fang zì
Ngày chư Tăng Tự tứ cầu nguyện cha mẹ hiện còn, sống lâu trăm tuổi,
không bệnh tật.
恣 僧,願 使 現 在 父 母,壽 命 百 年 無 病、
無
zì sēng, yuàn shǐ xiàn zài fù mǔ, shòu mìng bǎi nián wú bìng, wú
62 | P a g e
Cha mẹ trong bảy đời quá khứ thoát khỏi khổ đau trong loài ngạ quỷ,
一 切 苦 惱 之 患,乃 至 七 世 父 母 離 惡 鬼
yī qiè kǔ nǎo zhī huàn, nǎi zhì qī shì fù mǔ lí è guǐ
được sinh trong cõi trời, người phước lạc an vui. Thiện nam, thiện nữ là
đệ tử của Ðức Như Lai phải nên
苦,生 人 天 中,福 樂 無 極。是 佛 弟 子 修
孝
kǔ, sheng rén tiān zhōng, fú lè wú jí. shì fo dì zǐ xiū xiào
thực hành chữ hiếu, trong mỗi niệm thường thương tưởng đến cha mẹ
hiện tại, cho đến cha mẹ bảy đời trong quá khứ.
順 者,應 念 念 中,常 憶 父 母,乃 至 七 世
父
Shun zhě, yīng niàn niàn zhōng, cháng yì fù mǔ, nǎi zhì qī shì fù
Hằng năm đến ngày rằm tháng bảy, đem lòng từ hiếu thương tưởng song
thân hiện tiền,
母。年 年 七 月 十 五 日,常 以 孝 慈,憶 所
生
mǔ. nián nián qī yuè shí wǔ rì, cháng yǐ xiào cí, yì suǒ sheng
cha mẹ bảy đời quá khứ, sắm sửa bồn Vu-lan, hiến cúng Phật-đà, dâng
cúng chúng Tăng để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
父 母,為 作 盂 蘭 盆,施 佛 及 僧,以 報 父
母
fù mǔ, wèi zuò yú lán pén, shī fo jí sēng, yǐ bào fù mǔ
Nếu là đệ tử của Ðức Phật thì phải tuân giữ những điều trên đây.
63 | P a g e
長 養 慈 愛 之 恩。若 一 切 佛 弟 子,應 常 奉
zhǎng yǎng cí ài zhī ēn. ruò yī qiè fo dì zǐ, yīng cháng fèng
持 是 法。'
chí shì fǎ.'
Lúc ấy, Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên cùng với bốn chúng đệ tử nghe
Phật giảng dạy đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
時 目 連 比 丘、四 輩 弟 子,歡 喜 奉 行。
Shí mù lián bǐ qiū, sì bèi dì zǐ, huān xǐ fèng xíng.
Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn
佛 說 盂 蘭 盆 經
BÁO PHỤ MẪU CHÂN NGÔN
報父母恩真言
南無密栗多,哆婆曳,莎诃。
(nā mó mì lì duō,duō pó yì,suō hē).
The Buddha Speaks the Ullambana Sutra
NA MO HOMAGE TO THE ULLAMBANA ASSEMBLY OF
BUDDHAS AND BODHISATTVAS (recite 3 times)
Thus I have heard, at one time, the Buddha dwelt at Shravasti
in the Garden of the Benefactor of Orphans and the Solitary.
Mahamaudgalyayana had just obtained the six penetrations and
wished to cross over his father and mother to repay their
kindness for raising him. Thus, using his Way Eye, he regarded
64 | P a g e
the world and saw that his deceased mother had been born
among the hungry ghosts. Having neither food nor drink, she
was but skin and bones.
Mahamaudgalyayana felt deep pity and sadness, filled a bowl
with food, and went to provide for his mother. She got the bowl,
screened it with her left hand, and with her right hand made a fist
of food. But before it entered her mouth, it turned into burning
coals which could not be eaten. Mahamaudgalyayana called out
and wept sorrowfully, and hastened to return to the Buddha to
set forth all of this.
The Buddha said, "Your mother's offenses are deep and firmly
rooted. You alone do not have enough power. Although your filial
sounds move heaven and earth, the heaven spirits, the earth
spirits, twisted demons, and those outside the way, Brahmans,
and the Four Heavenly King Gods are also without sufficient
strength. The awesome spiritual power of the assembled Sangha
of the ten directions is necessary for liberation to be attained. I
shall now speak a Dharma of rescue which causes all those in
difficulty to leave worry and suffering, and to eradicate obstacles
from offenses.
"The Buddha told Maudgalyayana, "The fifteenth day of the
seventh month is the Pravarana Day for the assembled Sangha
of the ten directions. For the sake of fathers and mothers of
seven generations past, as well as for fathers and mothers of the
present who are in distress, you should prepare an offering of
clean basins full of hundreds of flavors and the five fruits, and
other offerings of incense, oil, lamps, candles, beds, and
bedding, all the best of the world, to the greatly virtuous
assembled Sangha of the ten directions.
"On that day, all the holy assembly, whether in the mountains
practicing dhyana samadhi, or obtaining the four fruits of the
Way, or walking beneath trees, or using the independence of the
six penetrations to teach and transform Sound Hearers and
Those Enlightened to Conditions, or provisionally manifesting as
65 | P a g e
Bhikshus when in fact they are Great Bodhisattvas on the Tenth
Ground--all complete with pure precepts and ocean-like virtue of
the holy Way--should gather in a great assembly and all of like
mind receive the Pravarana food.
"If one thus makes offerings to these Pravarana Sanghans, one's
present father and mother, parents of seven generations past, as
well as the six kinds of close relatives will escape from the three
paths of suffering, and at that time attain release. Their clothing
and food will spontaneously appear. If the parents are still alive,
they will have wealth and blessings for a hundred years. Parents
of seven generations past will be born in the heavens.
Transformationally born, they will independently enter the
celestial flower light, and experience limitless bliss."
At that time the Buddha commanded the assembled Sangha of
the ten directions to recite mantras and vows for the sake of the
donor's family, for parents of seven generations. After practicing
dhyana concentration, the Sangha accepted the food. When they
first received the basin, they placed it before the Buddha in the
stupa. When the assembled Sangha had finished the mantras
and vows they received the food.
At that time the Bhikshu Maudgalyayana and the assembly of
Great Bodhisattvas were all extremely delighted and the
sorrowful sound of Maudgalyayana's crying ceased. At that time
Maudgalyayana's mother obtained liberation from one kalpa of
suffering as a hungry ghost. Maudgalyayana addressed the
Buddha and said, "This disciple's parents have received the
power of the merit and virtue of the Triple Jewel, because of the
awesome spiritual power of the assembled Sangha. If in the
future the Buddha's disciples practice filiality by offerings up the
Ullambana basins, will they be able to cross over their present
fathers and mothers as well us those of seven generations
past?"
The Buddha replied "Good indeed! I am happy you asked that
question. I just wanted to speak about that and now you have
66 | P a g e
also asked about it. Good man, if Bhikshus, Bhikshunis, kings,
crown princes, great ministers, great officials, cabinet members,
the hundred ministers, and the tens of thousands of citizens wish
to practice compassionate filial conduct, for the sake of the
parents who bore them, as well as for the sake of fathers and
mothers of seven lives past, on the fifteenth day of the seventh
month, the day of the Buddha's Delight, the day of the Sangha's
Pravarana, they all should place hundreds of flavors of foods in
the Ullambana basins, and offer them to the Pravarana Sangha
of the ten directions. They should vow to cause the length of
their present fathers' and mothers' lives to reach a hundred years
without illnesses, without sufferings, afflictions, or worries, and
also vow to cause seven generations of fathers and mothers to
leave the sufferings of the hungry ghosts, to be born among
humans and gods, and to have blessings and bliss without limit."
The Buddha told all the good men and good women, "Those
disciples of the Buddha who cultivate filial conduct should in
thought after thought, constantly recall their present fathers and
mothers when making offerings, as well as the fathers and
mothers of seven lives past, and for their sakes perform the
offering of the Ullambana basin to the Buddha and the Sangha
and thus repay the loving kindness of the parents who raised
and nourished them."
At that time the Bhikshu Maudgalyayana and the four-fold
assembly of disciples, hearing what the Buddha said, practiced it
with delight.
End of the Buddha Speaks the Ullambana Sutra.
TRUE WORDS FOR REPAYING PARENTS’ KINDNESS
Na mwo mi li dwo dwo pe ye swo he
67 | P a g e
UNIVERSAL BOWING 普佛 Phổ Bái
HOMAGE TO OUR ORIGINAL TEACHER SHAKYAMUNI BUDDHA
(bow 3 times)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3x)
南 無 本 師 釋 迦 牟 尼 佛 (3 拜)
na mo běn shī shì jiā móu ní fo
HOMAGE TO MANJUSHRI BODHISATTVA (bow 3 times)
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
南 無 文 殊 師 利 菩 薩 (3 拜)
na mo wen shu shr li pu sa
HOMAGE TO UNIVERSAL WORTHY BODHISATTVA (bow 3 times)
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát (3x)
南 無 普 賢 菩 薩 (3 拜)
na mo pu syan pu sa
HOMAGE TO THE BODHISATTVA WHO OBSERVES THE WORLD’S
SOUNDS (bow 3 times)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3x)
南 無 觀 世 音 菩 薩 (3 拜)
na mo guan shi yin pu sa
HOMAGE TO EARTH STORE BODHISATTVA (bow 12 times)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (12x)
南 無 地 藏 王 菩 薩 (12 拜)
na mo di zhang wang pu sa
68 | P a g e
HOMAGE TO THE ULLAMBANA ASSEMBLY OF BUDDHAS AND
BODHISATTVAS (bow 3 times)
Nam mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát (3x)
南 無 盂 蘭 會 上 佛 菩 薩 (3 拜)
na mo yu lan hui shang fo pu sa
69 | P a g e
THREE REFUGES
Tam Quy Y
三皈一
TO THE BUDDHA I RETURN AND RELY, VOWING THAT ALL LIVING BEINGS
Tự quy y Phật, nên nguyện chúng sanh,
自 皈 依 佛, 當 願 眾 生,
zì guī yī fó dāng yuàn zhòng shēng
UNDERSTAND THE GREAT WAY PROFOUNDLY, AND BRING FOR THE BODHI MIND.
Thể giải đại đạo, phát tâm vô thượng.
體 解 大 道, 發 無 上 心。
tǐ jiě dà dào fā wú shàng xīn
TO THE DHARMA I RETURN AND RELY, VOWING THAT ALL LIVING BEINGS
Tự quy y pháp, nên nguyện chúng sanh,
自 皈 依 法, 當 願 眾 生,
zì guī yī fǎ dāng yuàn zhòng shēng
DEEPLY ENTER THE SUTRA TREASURY AND HAVE WISDOM LIKE THE SEA.
Hiểu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.
深 入 經 藏, 智 慧 如 海。
shēn rù jīng cáng zhì huì rú hǎi
TO THE SANGHA I RETURN AND RELY, VOWING THAT ALL LIVING BEINGS
Tự quy y Tăng, nên nguyện chúng sanh,
自 皈 依 僧, 當 願 眾 生,
zì guī yī sēng dāng yuàn zhòng shēng
FORM TOGETHER A GREAT ASSEMBLY, ONE AND ALL IN HARMONY.
Thống lý đại chúng, tất cả không ngại.
統 理 大 眾, 一 切 無 礙。
tǒng lǐ dà zhòng yī qiē wú ài
Hòa nam Thánh chúng.
70 | P a g e
和 南 聖 眾。
hé nán sheng zhòng
TRANSFERRING THE MERIT
Hồi Hướng
廻向
I DEDICATE THE MERIT AND VIRTUE FROM THE PROFOUND ACT OF DHARMA
ASSEMBLY.
Pháp hội công đức thù thắng hạnh. Vô biên thắng phước giai hồi hướng
法 會 功 德 殊 勝 行, 無 邊 勝 福 皆 迥 向。
fa hui gōng dé shū shèng xíng, wú biān shèng fú jiē jiǒng xiàng.
WITH ALL ITS SUPERIOR, LIMITLESS BLESSINGS, WITH THE UNIVERSAL VOW THAT ALL
BEINGS SUNK IN DEFILEMENT,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng-sanh Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
普 願 沉 溺 諸 眾 生, 速 往 無 量 光 佛 剎。
pǔ yuàn chén nì zhū zhòng shēng sù wǎng wú liàng guāng fó shā
WILL QUICKLY GO TO THE LAND OF THE BUDDHA OF LIMITLESS LIGHT (AMITABHA).
ALL BUDDHAS OF THE TEN DIRECTIONS AND THE THREE PERIODS OF TIME.
Thập phương tam thế nhất thiết Phật Nhất thiết Bồ Tát Ma ha tát
十 方 三 世 一 切 佛, 一 切 菩 薩 摩 訶 薩。
shí fāng sān shì yī qiè fó yī qiè pú sà mó hē sà
ALL BODHISATTVAS, MAHASATTVAS. MAHA PRAJNA PARAMITA!
Ma ha bát nhã ba la mật
摩 訶 般 若 波 羅 蜜。
mó hē bō rě bō luó mì
71 | P a g e
http://www.bplmonastery.org/uploads/...hap___nghi.pdf
-
Nam mô Công Đức Tôn Thiên (người xuất gia xá, Phật tử tại gia lạy)
南 無 功 德 尊 天 (出家问询,在家礼拜)
ná mó gong dé zūn tiān
-
Nam mô Quỉ Tử Mẫu Tôn Thiên
南 無 鬼 子 母 尊 天
ná mó guǐ zǐ mǔ zūn tiān
Nam mô A Lợi Đế Nam Tôn Thiên
南 無 阿 利 帝 喃 尊 天
ná mó a li dì nan zūn tiān
-
Nam mô Kiên Lao Địa Tôn Thiên
南 無 堅 牢 地 尊 天
ná mó jiān láo di zūn tiān
-
Một là đức Vua KUVERA [2]
[2] Tàu dịch: Trì-Quốc Thiên.
https://www.budsas.org/uni/u-nhat-tu...ng01.htm#_edn2
=============
Bốn là đức Vua VIRŪḶHAKA [5]
[5] Đa Văn Thiên.
https://www.budsas.org/uni/u-nhat-tu...ng01.htm#_edn5
-
-Ha Emperor Capital Model Suite Programming is:
Projects, concerted effort working hard ma Li ca tetrarchy, sa-phộc ha.
OM-TONU MARIKA HITE-SVÀHÀ
Organize as called Up Utility Fund Facilities
http://bodhimandala1.blogspot.com/20...number-in.html
-
Hạo Thiên Thái Dịch Linh Long Thần
22 tháng 12, 2015 ·
"Tỳ Sa Môn Thiên (Bishamonten) Vị Thần của chiến tranh và chiến binh, sự trân trọng và may mắn. Tỳ Sa Môn Thiên cũng được coi là một vị Thần chữa bệnh, với sức mạnh để tiết chế các Ôn Thần đe dọa tính mạng và đánh đuổi Tà Quỷ của bệnh dịch. Tỳ Sa Môn Thiên thường mặc áo giáp, một tay cầm Thương và một tay nâng Bảo Tháp. Ngài là khắc tinh của cái ác, mạnh mẽ nhất trong số Thiên Vương vệ Đạo (Tứ Đại Thiên Vương). Trong bốn Đại Thiên Vương, Ngài chính là Bắc - Đa Văn Thiên Vương. Trong bốn Vị Thiên Vương, duy nhất Ngài được tôn thờ tại Nhật Bản. Tỳ Sa Môn Thiên - Bishamon trong tiếng Phạn là Vaishravana, có nghĩa là "Người nghe tất cả mọi thứ trong vương quốc." Nó rất gần gũi với Hình Tượng của vị Thần Hindu tên Kubera / Kuvera. Bảo Tháp Ngài nâng trên tay tượng trưng cho kho tàng thiêng liêng. Ngài vừa là một người bảo vệ và phân phối các kho tàng - Ngài chia sẻ kho tàng rộng lớn của Ngài chỉ cho Người Xứng Đáng. Tại Nhật Bản, do được coi là vị Thiên Vương nghe nhiều nhất, Ngài được cho là vị thường có mặt trong các buổi thuyết Pháp của Đức Phật để bảo vệ cũng như học tập tu luyện Đạp Pháp. Đây là vị Thần trấn giữa cửa phía Bắc của núi Tu Di, Ngài Điều Khiển hai Quỷ Lực Vương chế ngự Ma Quỷ là Yasha (Yaksa) và Rasetsu (Raksha). " - Đọc xong muốn có một Tôn Tượng vậy vậy để tập Thếp Vàng !
https://www.facebook.com/thatphuctha...8292696524366/
-
Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương cai quản BẮC CÂU LÔ CHÂU
Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương (Vaisramana): Vị Thiên Vương này còn được gọi là Tỉ Sa Môn, nổi tiếng (多闻, Đa Văn) Phúc Đức, ở tại Thuỷ Tinh Đỏa – Núi Tu Di,
Thân hình màu lục, mặc giáp trụ, tay phải cầm một chiếc lọng (Gọi là Bảo Phan), tay trái ôm con Chuột Thần (Ngân Thử, Chuột Bạc).
Ngài có trách nhiệm hàng ma phục quỷ, ban sự giàu có cho nhân dân, nên còn gọi là Thí Tài Thiên (施财天),
Ngài là Thiên Vương thứ ba trong Nhị Thập Chư Thiên.
Trong Tứ Đại Thiên Vương, Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương là nổi tiếng nhất. Đa Văn Thiên Vương còn có tên khác là Tỳ Sa Môn, trú tại đồi thuỷ tinh trên sườn núi Tu Di, suất lĩnh Dạ Xoa và La Sát, bảo vệ Bắc Câu Lô Châu.
Tỳ Sa Môn ban đầu là 1 thiên thần trong thần thoại Vệ Đà Ấn Độ cổ. Tỳ Sa Môn Thiên Vương là thuộc hạ của cõi Đế Thích, nhưng sau này dần tự lập môn hộ, trở thành 1 thiên vương độc lập. Sau khi tiến nhập vào Phật môn, lãnh địa của Tỳ Sa Môn Thiên Vương là trong 3 toà thành Khả uý, Thiên Kính, Chúng Quy ở phía Bắc núi Tu Di. Tỳ Sa Môn Thiên Vương có 5 người con trai và 28 sứ giả, 5 con trai lần lượt là Tối Thắng, Độc Kiện, Na Tra, Thường Kiến, Thiền Chỉ, trong đó con trai thứ 3 Na Tra chính là tiền thân của Na Tra trong thần thoại Trung Quốc.
Bảo tháp của Thác Tháp Thiên Vương vốn là tháp xá lợi trong tay của Tỳ Sa Môn, bảo tháp này phát ra lửa, có thể thiêu kẻ địch thành tro. Thác Tháp Thiên Vương sau này làm đại tướng bảo vệ thiên cung dưới trướng của Ngọc Hoàng Đại Đế, thủ hạ có thần Cự Linh, tướng Ngư Đỗ, tam thái tử Na Tra và 10 vạn thiên binh. Khi trấn áp Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, chính Thác Tháp Thiên Vương đã dẫn đầu đội ngũ trấn áp này.
2 cha con Thác Tháp Thiên Vương và Na Tra vốn là hộ pháp cõi trời trong Phật giáo, sau này tiến nhập vào Trung Quốc, trở thành nhân vật điển hình trong Đạo giáo. Dù trong Phong Thần Diễn Nghĩa hay Tây Du Ký, Na Tra và cha là Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh đều là nhân vật Đạo giáo điển hình. Nhưng rất nhiều người không biết tịch quán (quê gốc) của họ lại là Ấn Độ và họ vốn là Hộ pháp trong Phật giáo.
https://www.flickr.com/photos/127184898@N07/31276723467
-
-
Mogao GrottoesCave 012 - Digital Dunhuang
https://www.e-dunhuang.com/cave/10.0001/0001.0001.0012
Dịch trang này
The south and north side of the entrance wall in the front chamber respectively show the Virūdhaka (king of the south) and Vaisramana (King of the north).
Tales of the Samurai - Kết quả Tìm kiếm Sách của Google
https://books.google.com.vn/books?isbn=0486162222 - Dịch trang này
James S. de Benneville - 2012 - Fiction
Shaka (Sakyamuni), Monju (Buddhist god of wisdom), Fugen (pictured as riding a white elephant), Bishamon-ten (God of war—and luck: Vaisramana)—these ...
https://books.google.com.vn/books?id...ramana&f=false
-
The Sutra on the Dharani of Peaceful Home, Spoken by the Buddha
(Furd Siud Ngorn Tzuc Taw Law Ney Ging)
Thus have I heard:
At one time The Buddha was in Sravasti, in Jeta groove, in the Garden of the Benefactor of Orphans and the Forlorn, accompanied by 1250 great monks and 40000 great Bodhisattvas. Besides, many heavenly gods, who were 84000 in number, together with their sons and relatives, also joined the congregation. They were: Brahma-heaven's king, the ruler of Saha world; Sakra-devanam-Indra (the king of Trayastrimsa heaven); the four heavenly kings known as the heavenly king Dhritarastra, heavenly king Virudhaka, heavenly king Virupaksha, and heavenly king Vaisramana; the twenty eight great Yaksha generals; and so forth.
At that time, from that place, passing through 10 trillion Buddha-worlds, there was a world named Numerous Flowers, in which the Buddha was named Supreme-Lamp-King Tathagata, One who deserves offerings (Arhat), Perfectly Enlightened One (Samyak-sambuddha). The Buddha was speaking Dharmas at that time. He commanded two Bodhisattvas, one of whom was named Great Light, and another was named Unlimited Light, saying:
"Virtuous men, you should go to Saha World and deliver this Dharani to Sakyamuni Buddha. This Dharani is very beneficial, it can grant peace and happiness to the living beings in the long night [of reincarnations], and give them great virtuous benefits, physical energy, and fames." The Buddha then spoke the Dharani:
Tadyata porosuli suli suli lisa modi maha-somodi somandi maha-somandi soli sololi svaha
The two Bodhisattvas received this Dharani from the Buddha, and in the time it takes for a vigorous person to bend and extend his arm, they left Numerous Flowers Buddha-World and reached the Garden of the Benefactor of Orphans and the Forlorn, in Jeta Groove in Sravasti.
The two bodhisattvas went to where Sakyamuni Buddha was, bowed to the Buddha's feet with their heads touching the ground, withdrew to one side, and said to the Buddha:
"World Honored One, from this world, passing through 10 trillion Buddha-worlds, there was a world named Numerous Flowers, the Buddha who was speaking Dharmas in there was named Supreme-Lamp-King Tathagata, One who deserves offerings (Arhat), Perfectly Enlightened One (Samyak-sambuddha). He sent us to here to inquire you: World Honored One, are your illnesses few, are your worries few, is your strength fine? Would your disciples be disturbed by demons, heavenly beings, ghosts, Raksas, Bhutas, Kumbhandas, Putanas, Pisacas, hungry ghosts, Asuras, Garudas, dry-man-ghosts, Gorn-Taw ghosts, disease ghosts, the ghosts that make people mad, the ghosts that distract people's mind, Forng-Doe ghosts, rising-corpse ghosts, the ghosts that make diseases outbreak in one day, the ghosts that make diseases outbreak in two, three, four, or seven days, the ghosts that make diseases often outbreak, and so forth?"
"Supreme-Lamp-King Tathagata sent us to deliver this Dharani to you, to make this Saha world's living beings peaceful in their long night [of reincarnations], and grant them great virtuous benefits, physical energy, and fames." They then spoke the Dharani, as mentioned previously.
At that time, the Buddha told Ananda: "You should accept and hold this Dharani, and recite it fluently; you should explain this Dharani to others, write it, and make offerings to it. Why? Because a Buddha's appearance in a world is difficult to encounter, but having opportunity to hold this Dharani is even more difficult. Ananda, if anyone accepts, holds, reads, and recites this Dharani fluently, he will gain great blessing and benefits."
http://www.buddhism.org/Sutras/2/Sutras11.htm