-
Thời cuộc Chuyện lạ | Thương trường Hình sự 24h
Ngôi miếu hễ mạo phạm là gặp báo ứng
Thứ hai, 25/11/2013 15:22 GMT+7 4 0 chia sẻ Khi làm đường, chủ thầu thấy ngôi miếu chắn đường đã dùng lời lẽ nhục mạ. Ít lâu sau, người này bị chính chiếc xe tải do mình quản lý đâm tử vong.
Thấp thoáng bên vỉa hè đại lộ Nguyễn Văn Linh (thuộc địa phận ấp 5, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, TP HCM), quán nước hiếm hoi dưới chân cầu Bà Lớn đông khách dừng chân. Bên cạnh lý do nghỉ mát, những người ghé lại đây cốt để thắp nén nhang tri ân.
Miếu chiến sĩ khá rộng rãi, luôn được quét dọn sạch sẽ. Ông Nguyễn Văn Út (sinh năm 1944), người tự bỏ tiền phụng lập, cũng là thủ miếu giải thích: “Tôi dựng miếu để phụng thờ chiến sĩ nên miếu gọi nôm na là miếu chiến sĩ”.
Ông Út kể, hồi đất nước mới thống nhất, gia đình ông sinh sống ở vùng giáp ranh giữa quận 8 và huyện Bình Chánh hiện nay. Bấy giờ, nhận thấy khu đất sình lầy ở ấp 5 thông thoáng, lại chẳng ai ngó ngàng đến, ông bàn với vợ cày cuốc trồng rau muống. Lúc đầu, ông chỉ trồng vài luống phục vụ cho gia đình và đàn gia súc nuôi chuồng. Về sau, ruộng rau sinh trưởng nhanh mới đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo.
Trong ký ức của ông, vườn rau chẳng khác nào “ân nhân” gia đình mình, giúp gia đình từ thiếu ăn đến đủ ăn. Rồi sau đó, khi rau xanh ngày một lên giá, gia đình ông có của ăn của để. Những năm đó công việc đồng áng luôn thuận lợi, chưa năm nào ruộng rau muống thất thu.
[Caption]
Miếu chiến sĩ bên đại lộ đẹp bậc nhất TP HCM.
Theo ông Út, vị trí miếu chiến sĩ toạ lạc hiện nay nằm trên ruộng rau ngày trước. Ngôi miếu được phụng lập từ năm 1978. Thời gian đầu miếu chỉ là gò đất đắp cao có đặt tấm phên tre và bát nhang. Nguyên nhân lập miếu, ông Út cho biết thời gian trước đó thường xuyên bắt gặp giấc mộng lạ. Trong mơ, ông thấy rõ nhiều người đi lại giữa ruộng rau nhà mình. Tỉnh giấc, ông tự trấn an rằng có lẽ ban ngày nơm nớp sợ kẻ trộm đột nhập vườn rau nên đêm lại nằm mộng.
Nhưng giấc mộng lạ đeo bám ông nhiều tháng liền khiến không thể không lưu tâm. Hơn nữa, có tin đồn loáng thoáng rằng vườn rau muống có linh hồn, trước đây giữa ruộng rau hàng chục bộ đội giải phóng đã hy sinh. “Tuy nhiên khi ấy chỉ nghe như vậy, không có chứng cứ tài liệu nào cả nên tôi chưa tin lắm”, ông nhớ lại.
Mãi đến giữa năm 1978, ông mới tình cờ đọc cuốn sách viết về lịch sử quận 8 và huyện Bình Chánh. Cuốn sách có đoạn nhắc đến chi tiết 48 chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 2 Phú Lợi anh dũng hy sinh tại Bình Chánh. Đơn vị này đóng quân tại Bình Dương, được điều động xuống Sài Gòn đánh chiếm trạm xăng dầu Nhà Bè vào năm 1975.
Khu Hố Bần (khu vực ruộng rau ngày xưa, miếu chiến sĩ toạ lạc hiện nay) chính là nơi tập trung quân. Không may trong lúc họp bàn kế hoạch tác chiến trước trận đánh, Hố Bần bị máy bay giặc tập kích. Trận bom cày xới tung toé cả vùng đất rộng lớn, 48 chiến sĩ hy sinh.
Xâu chuỗi những thông tin trên, cộng với linh cảm khác thường, ông đắp cao gò đất, dựng chiếc am nhỏ để thờ cúng các chiến sĩ đã hy sinh. Ngôi miếu thờ ban đầu chỉ đủ rộng đặt bát nhang, mái che xập xệ.
Advertisement
Càng về sau, dân làng trong vùng càng biết rõ ý nghĩa ngôi miếu, nhiệt tình chung tay tôn tạo miếu thờ khang trang như bây giờ. “Ngày nào từ sáng sớm tôi đã ra miếu quét dọn lá cây, lau dọn bàn thờ để luôn sạch sẽ, ấm cúng”, ông Út nói.
Dù đã cố gắng đọc tất cả tài liệu liên quan nhưng ông không tìm thấy thông tin 48 chiến sĩ hy sinh ngày nào nên chọn ngày 26/3 âm lịch hằng năm là thời điểm dựng miếu làm ngày giỗ chung. Hằng năm cứ đến dịp giỗ các chiến sĩ, nhiều dân làng đến dự, chi phí soạn cỗ mọi người cùng đóng góp.
Điểm khác lạ ở miếu chiến sĩ, đó là hầu như người đi đường nào biết đến miếu đều ghé lại thắp nén nhang tri ân. Ông bảo vệ tên Hùng làm việc cách miếu chừng 30m xác nhận, ngoài người dân địa phương, khách đi đường ghé miếu rất đông. Nhiều người đi đường thú nhận hễ đi ngang qua đoạn đường có miếu thờ, họ cảm thấy nặng lòng, “vướng tâm” nên tạt vào thắp nén nhang tưởng nhớ các chiến sĩ.
Đầu năm 1997, khi tuyến đại lộ được triển khai thi công, viên chủ thầu đơn vị giải phóng mặt bằng thấy ngôi miếu chắn ngang giữa lòng đường liền thúc hối dẹp bỏ, dùng lời lẽ nhục mạ. Không hiểu sao ít ngày sau đó, chính viên chủ thầu này lúc sang đường lơ là chú ý, bị chính xe tải do mình quản lý tông phải, mất mạng. Tai nạn này hoàn toàn chỉ là tình cờ, nhưng từ ấy ai cũng rợn rợn, không ai dám đả động tới chuyện phá dỡ hay di dời ngôi miếu nữa.
Riêng ông thủ từ Nguyễn Văn Út suy nghĩ hoàn toàn khác. Ông tâm niệm nếu có vong hồn thì người đã khuất cũng như người đang sống, đều không thể vì tư lợi mà quên lợi ích chung. Chính tay ông đã làm lễ xin phép dời miếu cùng án thờ các chiến sĩ vào sâu trong lề đường. Ngôi miếu toạ lạc ở vị trí mới nay đã tròn 13 năm.
Năm 2000, một người phụ nữ ngoài 50 tuổi quê ở Bình Chánh đến thăm miếu, thấy khách tấp nập bèn nảy sinh ý xấu, lấy cặp rắn đá trên bàn thờ đem về nhà dựng miếu mới thu lợi riêng.
Một thời gian sau, ngẫu nhiên người phụ nữ đang khoẻ mạnh đột nhiên phát bệnh nhức đầu, mắt trợn ngược rồi tắt thở. Trước đó, người này khi còn sống đã kể chuyện luôn gặp ác mộng, đêm đêm nằm ngủ lại nhìn thấy cặp rắn cuộn tròn quanh đầu, chưa kịp đem trả thì lâm nạn đột tử.
Ông Út xác nhận, gia đình nạn nhân sau đó đã trả lại của ăn trộm, cúng tế xin tạ tội. “Chị ấy tử vong do bệnh tật chứ chẳng dính dáng đến thần linh. Nhưng dù sao ý định trục lợi từ miếu mạo là đáng lên án. Ở đây, tất cả số tiền ủng hộ từ khách viếng đều được sử dụng vào việc tôn tạo miếu thờ, chăm lo nhang khói và tổ chức lễ giỗ cho các chiến sĩ đã khuất”, ông thủ từ cho biết.
Theo Pháp Luật Thời Đại
https://ngoisao.net/tin-tuc/thoi-cuo...g-2915097.html
-
* Sống...
Phải biết mình là ai?
- Đừng vì SĨ DIỆN mà làm khổ cha mẹ.
- Đừng vì TIỀN BẠC mà bán rẻ lương tâm.
- Đừng vì HƯ DANH mà khinh mạt người đời.
- Đừng nghĩ mình KHÔN NGOAN mà lọc lừa dối trá.
- Đừng nghĩ mình TÀI GIỎI mà kiêu ngạo, biếng lười.
Sông có khúc, người có lúc
Gieo THIỆN báo THIỆN, gieo Ác gặp ÁC !
==============
Cuộc sống đã dạy tôi rất nhiều điều vô giá!
Tôi đã được học rằng, để xây dựng lòng tin phải mất đến hàng năm, nhưng chỉ cần vài giây để hủy hoại nó.
Tôi đã được học rằng, cho dù bạn quan tâm nhiều đến đâu, có những người sẽ không đáp lại sự quan tâm đó.
Tôi đã được học rằng, bạn không thể làm mọi người yêu bạn. Tất cả những điều mà bạn có thể làm là trở thành một người mà người khác có thể yêu đượ...c, phần còn lại là tùy thuộc vào người kia.
Tôi đã được học rằng, đừng bao giờ đếm những thứ bạn có được trong cuộc sống, mà hãy đếm bạn có được bao nhiêu người bạn trong cuộc sống.
Tôi đã được học rằng, đôi lúc trong cuộc sống mình có thể làm những điều khiến mình phải đau khổ suốt cả cuộc đời.
Tôi đã được học rằng, hãy nói lời tạm biệt ngọt ngào với ai đó, bởi đó có thể là lần cuối cùng bạn gặp họ.
Tôi đã được học rằng, nếu bạn không kiểm soát thái độ của mình, thì nó sẽ điều khiển bạn.
Tôi đã được học rằng, một mối quan hệ lúc đầu có mặn nồng đến đâu, thì cũng sẽ nhạt dần và luôn có một thứ gì đó lấp vào khoảng trống.
https://vi-vn.facebook.com/pages/Mi%...17845914922815
-
chiêu tài chú
http://iloveonewsky.pixnet.net/blog/...A4%A7%E5%85%A8
佛牌心咒大全@ 泰上老佛爺&成功佛堂-古曼童-台北情降法事-成功挽回 ...
iloveonewsky.pixnet.net/blog/post/31720173-佛牌心咒大全
Translate this page
藥師佛. Na mo Pa ka wa Pai sa ya ku lru 拉摩 帕哢哇 拍沙雅庫魯. Wai tu ya Pra pa Ra ca ya Ta ta ka ta ya 歪吐雅 帕巴 拉查雅 塔他哢他雅. Ah ra ha tay Sa ma sa pu ta ya Ta ya ta Om 啊啦哈貼 沙嗎薩菩塔雅 塔雅他 嗡. Pai sa je Pai sa je Pai sa je Sa mu la ka tay Sa mu la ka tay Se wa ha 派沙借 派沙借 派沙借 沙慕拉哢貼 沙慕 ...
================
佛牌心咒
泰国佛牌Amulet 泰国佛牌Amulet 2017-09-21 21:24:53
真正了解佛牌的善信都知道,每个师 的每个牌都有不同,因此此篇文章只 对通用佛牌的心咒,不代表全部。经 咒均为音译过来,基本上按照拼音的 法,略有差异无妨,全在诵读者的诚 ,也就是诚心念咒重要过经咒音准。
佛首经(在念一下经文前都应该先念 首经): Namo Tassa Pakawa Toh,araha Toh,Samma Sam Phua Dha Sa (三次)
必打经文:
Phua Dha,Dham ma,Sang ka Man Da,
Pid Ta,Khun Krut Ta Krut NatKan Phai (三次)
Sadhu ! Sadhu ! Sadhu !
泽度堪经文:
经文1: Catukam La ma tie wa Ma ma Namoputaya
经 文 2:
Catukam La ma tie wa Ta tro Wa ro Yi ti Pu ta san mi Yi ti Ah ra hang Sa ha sa ka ya Wa ra Pu to Namoputaya
经文3: Yi ti pi so Vi sei sei yi Yi sei sei Pu ta na May yi Yi may na Pu ta tang Ra ma tie Wa ta tang So yi Yi so tang Pu ta Ra ma tie wa Pi ti yi
经文4:
Catukam Ra ma tie Wa ta ro Wa ro ah tang Pu ta sa mi Yi ti ah ra hang Wa ro pu to Namoputaya Ra ma tie wa Ma nu sa na Pom ma Vi mu ta mang Ra ma tie wa Na ka Su pa na nang Pa ri Yi ti ri yang Na ma mi hang
巴拉吉 / Palakit 经文
Om La lui Ma ha la lui Kan hak Nae hak
嗡 拉雷 吗哈拉雷 堪哈 尼哈
Ho ho Ha ha Hi hi Yi hi ma ma
呵呵 哈哈 嘻嘻 依喜吗吗 (x3) 短咒: Kan hak Nae hak
堪哈 尼哈 (x9)
四面神 / Pak Phom
若是礼请佛牌,则将四面神佛牌合什 额前。
ohm pra-prom-ma pa-ti-pha- ha –ya
嗡趴砰吗 把地趴 蛤压
tu-ti- yum- pi pra- prom -ma-pa- ti -pha -ha- ya
秃底央比 趴砰吗 把地趴 蛤压
ta-ti-yum-pi pra-prom-ma pa-ti-pha-ha-ya
打底央比趴砰吗 把地趴 蛤压
i-ti-su-kha-to a-ra-hang phu-tto
以地诉卡兜 阿拉航扑头
na-mo-put-ta-ya pat-tha-wee kong-ka
拿某扑他压 把踏威空咖
par-prom-ma the-wa kha-ma mi-hang
帕彭妈 贴哇 卡吗 咪航 敬拜四面神经咒: Om Ma ha pom Ma tay wa Na ma mi Yi ti pi so Pagawata Puto Yi ti pi so Phra pom Ma tay wa Na ci tang Pagawato Yi ti pi so Tay wa na Su ka to Sa wa ha Sa wa hong(每一面念一遍)
玉佛的经文
Kayena vacaya va cetasa va
Buddha maha maniratana
Patimekhalam namamiham (三次)
帕普达奚云佛祖经咒
Yi ti Pa va ra Si Hing Ko, Un ta ma ya so pi, Tie choy Yan ta Ka ta
咦提 帕哇啦奚云柯 呜塔吗呀嗖必 贴缺 焉塔 咔塔
Ci to so Sa ka ro Un pa to Sa ka ra Phu ta sa, Sa nang Cho ta Yan to va
吸哆嗖 杀咔啰 呜帕哆 沙咔啦 噗塔沙 啥喃 缺塔 焉哆哇
Ti po Su ra na Lie hin Ma hin to, Ta ra Ma nou va Pu to
提噗 素啦纳 咧hin 吗hin哆 他啦 吗喽哇 噗多
西瓦里 / SIVALI
Sivali ja Mahathero
Devatanarapuchito Soraho Pajjayatimhi
Sivali ja Mahathero
Yakkhadeva Puchito Soraho
Pajjayatimhi Ahang Wanthami Tang
Sathatassatherassa Aetang
Khunang Sotthilabhang Bhavantumae
Nam Quat ( 南括)
Om Chow Loo Mear Kow Keow Ka Pa
Chow Hai Mern Nam Quat Mi Seah Om Om Qun Puat
鲁士经咒: 佛首经X3 Om Lu Yu Lu Yu Na ma pa ka wa Yi ti li Ca pa ta nang Ma ha la pan Ah hang Van ta mi Namoputaya 坤平将军 / Kun Phien
坤平主咒: Maha bada om siddhi sawaha sunamolo (三次)
坤平将军(人缘经咒):A嘻玛玛 拿摩菩塔雅 那玛帕他
坤平(通用经文):拉媚达 摩嘎噜拿 菩达妮 他因低 压音督
坤平(财运经文):习里抠卡 那麻撒优
抱双鸡坤平咒 Akajeya akajehi ihi mama mala jaokai kumankai (三次)
抱双童坤平咒:Nama patha om sitti sawaha sonamolo kuman thong kumankai (三次)
抱鸡与童坤平咒:Thoosa sani khuman thong lae jao kai tham hai ruay,ruay maha setthi lama riel (三次)
金翅鸟鹰神迦鲁达(Garuda):
佛首经X3
Ka lu pi ca Ki ti ma tang Ma ah un
Om Pa ya kru Ru ca ru ca Lei loi
Na Dai Gean Na Dai Thong Na Dai Sat
Na Mei Ta Na Che ren Na man khon
Na yang Ah than Ah ti Ta mi
胜利保护经
Maha-Karuniko Natho Hitaya Sabba-Paninam
Puretava Parami Sabba Patto
Sambo-Dhi-Muttamam
Etena Sacca-Vajje-Na Hotu Te Jaya-Mangalam
Jayanto Bodhi Ya Mule Sakya-Nam Nandi-Vaddhano
Evam Tvam Vijayo Hohi Jaya-Ssu Jaya-Mangale
Aparajita Pallan-Ke Sise Pathavi-Pokkhare
Abhiseke Sabba-Buddhanam Agga-Patto Pamodati
Sunak-Khattam Sumangalam Supabhatam Suhut-Thitam
Sukhano Sumu-Hutto Ca Suyi-Ttham Brahma-Cari-Su
Padak-Khinam Kaya-Kammam Padak Khinam
Padak-Khinam Mano-Kammam Panidhi Te-padakkhina
Padak-Khina-Ni Katvana Labhan-Tatthe Padakkhine
拍婴 / Phra Ngang
Nama Na A Nor Gor Na Ga Kor Or No A Na A Ga Am
U Mi A Mi Ma Hi Su Tam Su Na Buddham Na Su Na A (三次)
善伽财 罗汉 / Sang Kat Chai
Kajjayana mahathero yo satthuno saddhammam anuppato piyo
Deva manussanam pito brohmana muttamo piyo naga supan nanam piyo
Itti puvisanam cevahosi tamaham kajjayana mahatheram sirasa
Pathipujayami tamaham kajjayana mahatheram sirasa namami (三次)
引通神 / Eng Thong
人缘咒: Siddhi Karaya (三次)
护身咒: Manunnam (三次)
拉用神 / Lup Yong
Om pluk maha pluksiddhi pluk mahamuni pluk mahamuni perk jak su pert vinnan pert lokasnehamahahniyom lokasneha ei jab vinnanjit itti purut loka sneha mahamuni prasiddhime (三次)
咩菩速 女神/ Mae Por So】
Bosa bhocanam uttamalabhan mayham hotu (三次)
象神 佛首经(三次)
Om Si ke ni Sa ya na ma (三次) 拉胡经咒 To ra mo To ra mo ma ma To ra mo ma ma
多拉摩 多拉摩玛玛 多拉摩妈妈
Ku ser to ma ma Ku ser to to La la ma ma
古些多吗玛 古些多多 拉拉吗吗
To ra mo tang Hi ku ti ma ma He ku ti
多拉摩当 喜古弟吗玛 喜古弟
Yat ta tang ma ma Tang ta ya Ta wa tang
雅塔汤吗玛 汤塔雅 塔哇汤
Ma ma tang Wa ti tang Ser ka ma ma
吗玛汤 瓦弟汤 些卡吗玛
Ka ser kang Ka ti yang ma ma Ya ti ka
卡些康 卡弟洋吗玛 雅弟卡
药师佛
佛首经(三次)
Na mo Pa ka wa Pai sa ya ku lru
拉摩 帕咔哇 拍沙雅库鲁
Wai tu ya Pra pa Ra ca ya Ta ta ka ta ya
歪吐雅 帕巴 拉查雅 塔他咔他雅
Ah ra ha tay Sa ma sa pu ta ya Ta ya ta Om
啊啦哈贴 沙吗萨菩塔雅 塔雅他 嗡
Pai sa je Pai sa je Pai sa je Sa mu la ka tay Sa mu la ka tay Se wa ha
派沙借 派沙借 派沙借 沙慕拉咔贴 沙慕拉咔贴 舍瓦哈
Nar Phor (星期六佛)
YakToHang PakTiNi AkRiYaYak
ChaTiYa ChaTo NaPiCha NaMik SangChitChat
PaNang QiVitTa VoRo Peta TeNak Sak J Nak
SoTiTeh HoTok SoTi TaPakSak
崇迪经咒
Pu tang Ka mo la Pay pu tang Ta nang Ka mo la Pay ta nang
菩汤 卡摩拉 胚菩汤 塔朗 卡摩拉 胚菩汤
Ah pi ka Ye ka ya Ja ya tay wa Nang pi ya Tang su ta wa
阿必卡 也卡雅 嘉雅贴哇 朗必亚 汤素塔瓦
Yi ti pi so Pa ka wa Ya ma ra ca nu Ta ve su wa nu
依弟必叟 巴咔哇 雅玛拉查奴 他威苏哇奴
Mo ra na su kang Ah ra hang su ka to Na mo pu ta ya
摩拉纳素康 阿拉航素卡多 拉摩菩塔呀
LPDum Wat Shantitham GumanThong Katha
A Hit Ku Ma
A Hit Ko Mak Hing Sa
A Hit Tak Nang
A Hit Ah Har Lack Poh
Cha Nang Ro Hi Tang
Wa Rang Su Tha
招财女神供奉经咒
Om Nang Kuak Phu Pen Chou
Pa si ti ket Lut kum der
Kai Lam Kai Lui
Om Sa Wa Ha
洗虎哈打(五眼四耳)供奉经咒
Sa tu Ah hang Na ma mi Phra in Ah ka sey ca Phu tat ti pang ka ro
沙吐 阿航 纳马尼 帕因 阿卡些查 菩塔弟嗙卡罗
Na mo pu ta ya Yi Ah ra na Ah ra hang Ku sa la tam ma Sam ma sam pu to
拉摩菩塔呀 依 阿拉纳 阿拉航 古沙拉汤马 善吗善菩多
Tu sa na so Na mo pu ta ya Phra so na ma Ya ko Me ta ma ha la pa
吐沙纳叟 拉摩菩塔呀 帕叟那吗 雅柯 咩塔吗哈拉巴
Pi yang ma ma Tan ta Pri wa sa to Wa su ni Ha tay Hon tu Ca ya ma ka ra ni
拼洋吗玛 坍塔 碧哇沙多 哇数尼 哈贴 鸿吐 查雅马卡拉你
师傅经咒 & 生活实用经咒
龙婆托(Luang Phor Thuat )经咒:
Na mo pho thi sa to Ah kan ti ma ya Yi ti pa ga va Namoputaya (x7)
纳摩噗提沙多 啊刊提吗呀 咦提帕咖哇 纳摩噗他呀
出门驾车平安咒:
Mie tan ca Sa pa lo ka sa ming Ma na san Pa va jie Ah pa ri ma nang (x7)
咩贪嚓 沙帕啰咔沙明 吗纳善 帕哇节 啊帕利吗喃
龙普当 圣僧 / Luong Phor Dang
A i a me buddham sanmi na ja
Li ti ehi marehi namo buddhaya
ma a u me ma a u (三次)
龙婆艮 圣僧 / Luong Phor Ngeun
Maretise mamanam buddhaya nama bada cabhakasa (x3)
龙婆班(九大圣僧)招财避险经咒
Phu ta Ma ah ou Na mo pu ta ya
菩塔 吗阿乌 拉摩菩塔呀 (一遍)
Vi ra ta yo Vi la ko na yang Vi la hin sa Vi la ta si
威拉塔哟 威拉苛纳洋 威拉hin沙 汶拉塔奚
Vi ra ta sa Vi la yi pi yo Pu ta sa Ma ni Ma mat
威拉塔沙 威拉依必哟 菩塔沙 吗尼 吗玛
Pu ta sa Sa wa hom
菩塔沙 沙哇鸿 (至少三次至无数次)
龙婆术心咒
Sam ma Ah la hang
善吗 阿拉航 (x3或x108)
金口和尚波荡开心咒
Pu tang Ah ra hang Pu tot
菩汤 阿拉航 菩多
Tang mang Ah ra hang Pu tot
汤芒 阿拉航 菩多
Sang kang Ah ra hang Pu tot
桑康 阿拉航 菩多
Tu sa ni ma Yi sa wa su Na mo pu tat ya
吐沙尼吗 依啥哇素 拉摩菩塔呀
龙婆鸿心咒
Na May Ti Pa Ca Ka
娜咩替 帕差咔 (x9)
依弟必叟经文(Eitipiso)乃最神圣歌颂 佛陀至高德行,及赞诵佛法僧之经咒 僧侣没有不会此经咒的,僧侣没有不 此经咒的,而泰国信众也大多会持诵 ,持之以恒能达到解一切厄苦和怨怼 延年益寿之功能。而如果倒念修持此 咒,可以解一切邪术、降术,化解病 疫祸殃。据说LP斑曾倒念修持此经咒, 至将经咒融入自身意念,并修得用手 摸就能打开锁头的境界。注意要先学 顺念再学倒念。
每天洗刷完毕后,坐于佛前,平心静 的默念此经咒。持诵的次数为持诵者 岁数加一,即30岁者持诵31次。
Ei Ti Pi So Pa Ka Wa
断无明烦恼的彼世尊
Aa Ra Hang Sam Ma Sam Phu Tho
自证成正等正觉阿罗汉
Vi Ja Ja Ra Na Sam Pa No Su Ka Tho
无上士调御天人师
Lo Ka Vi Thu Ah Nu Ta Lo Phu Ri Sa Tam Ma Sa Ra Hi
他以大智慧亲证成为天人导师
Sa Tang Tay Wa Ma Nu Sa Nang Phu Tho Pa Ka Wa Ti
至尊的佛陀宣告圣洁之佛法,清净高 ,文义俱足
以下为倒念的“依弟必叟”——“叟 弟依”
Wa Ka Pa So Pi Ti Ei
Tho Phu Sam Ma Sam Hang Ra Aa
Tho Ka Su No Pa Sam Na Ra Ja Ja Vi
Hi Ra Sa Ma Tam Sa Ri Phu Lo Ta Nu Ah Thu Vi Ka Lo
Ti Wa Ka Pa Tho Phu Nang Sa Nu Ma Wa Tay Tang Sa
五戒经文:
Pa na ti pa ta We ra ma ni Si ka pa tang Sa ma ti ya mi
帕那提帕塔 威拉吗尼 锡卡帕汤 沙吗替呀咪
吾身为佛子,日夜不杀害有生命之物
Ah ti na ta na We ra ma ni Si ka pa tang Sa ma ti ya mi
啊提那塔那 威拉吗尼 锡卡帕汤 沙吗替呀密咪
吾身为佛子,日夜不偷盗他人财物
Ka may su mi ca la We ra ma ni Si ka pa tang Sa ma ti ya mi
卡咩素咪差拉 威拉吗尼 锡卡帕汤 沙吗替呀咪
吾身为佛子,日夜不犯除夫妻之外的 淫
Mu sa wa ta We ra ma ni Si ka pa tang Sa ma ti ya mi
木沙哇塔 威拉吗尼 锡卡帕汤 沙吗替呀咪
吾身为佛子,日夜不说虚妄之语
Su ra may la ya Ma tca pa ma ta ta na We ra ma ni Si ka pa tang Sa ma ti ya mi
素拉咩拉呀 吗差帕吗塔他那 威拉吗尼 锡卡帕汤 沙吗替呀咪
吾身为佛子,日夜不饮一切醉人之酒
https://www.douban.com/note/638273759/
-
5 bài thuốc chữa các bệnh về khớp tuyệt vời từ cây Lá Lốt
Việc chữa bệnh khớp bằng các bài thuốc dân gian đang được nhiều người quan tâm. Vì khả năng giảm bệnh và không ảnh hưởng tới sức khỏe. Trong đó, theo kinh nghiệm dân gian, cây Lá Lốt là thảo dược thường được nhân dân sử dụng để chữa bệnh khớp rất hiệu quả.
Lá Lốt là loại rau quen thuộc trong nhân dân, thường dùng để ăn sống hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Hãy cùng Khớp Nữ tìm hiểu thêm về tác dụng chữa đau nhức xương khớp của cây Lá Lốt.
Giới thiệu cây Lá Lốt chữa bệnh khớp
Cây lá lốt có tên gọi khác là cây Tất bát. Tên khoa học: Piper lolot, thuộc họ Hồ tiêu – Piperaceae.
– Mô tả: Cây thảo sống lâu, cao 30- 40 cm, mọc bò. Thân phồng lên ở các mấu, mặt ngoài có nhiều đường rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có 5 gân chính tỏa ra từ cuống lá; cuống có gốc bẹ ôm lấy thân. Cụm hoa dạng bông đơn mọc ở nách lá. Quả mọng chứa một hạt.
– Phân bố: Cây lá lốt mọc dại ven rừng, ven suối, ở những chỗ ẩm, có bóng mát. Cây phân bố ở Cao Bằng, Quảng Ninh, Hà Nội, Ninh Bình. Và cũng được trồng ở nhiều nơi khác khắp cả nước.
Cây lá lốt trồng bằng mấu thân, cắt thành từng khúc 20- 25cm, giâm vào nơi ẩm ướt.
– Bộ phận dùng: Toàn cây, có thể thu hái cây quanh năm. Sau đó đem rửa sạch, dùng tươi hoặc phơi nắng hay sấy khô dùng dần.
Cây Lá Lốt mọc dại ven rừng, ven suối, ở những chỗ ẩm, có bóng mát
Cây Lá Lốt mọc dại ven rừng, ven suối, ở những chỗ ẩm, có bóng mát
Tính vị và tác dụng
Lá lốt có vị cay, mùi thơm, tính ấm. Lá lốt có tác dụng ôn trung, tán hàn, hạ khí, chỉ thống.
Công dụng
Dùng trị phong hàn thấp, tay chân lạnh, tê bại, rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, đầy hơi, sình bụng, đau bụng ỉa chảy. Ngoài ra, Lá Lốt còn dùng để chữa thận và bàng quang lạnh, đau răng, đau đầu, chảy nước mũi hôi.
Cây Lá Lốt dùng trị phong hàn thấp, tay chân lạnh, tê bại
Cây Lá Lốt dùng trị phong hàn thấp, tay chân lạnh, tê bại
Bài thuốc chữa bệnh khớp từ Lá Lốt
1. Chữa đau nhức xương khớp khi trời lạnh
Lấy 5-10g lá lốt phơi khô (15-30g lá tươi), sắc 2 bát nước còn ½ bát, uống trong ngày. Uống khi thuốc còn ấm, nên uống sau bữa ăn tối. Mỗi liệu trình điều trị 10 ngày. Hoặc lá lốt và rễ các cây bưởi bung, vòi voi, cỏ xước, mỗi vị 30g, tất cả đều dùng tươi thái mỏng, sao vàng, sắc với 600ml nước, còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong 7 ngày.
2. Chữa phong thấp, đau nhức xương khớp
Bài thuốc 1: Lá lốt 12g, dây chìa vôi 12g, rễ cỏ xước 12g, hoàng lực 12g, rễ quýt rừng 12g, đơn gối hạc 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài thuốc 2: Lá lốt 16g, tầm gửi cây dâu 12g, tục đoạn 12g. Sắc uống 2 lần trong ngày.
Bài thuốc 3: Lá lốt 20g, cỏ xước 20g, cẩu tích 20g, hy thiêm 20g, rễ si 16g, rễ quýt rừng 16g, cà gai leo 12g, thiên niên kiện 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài thuốc từ cây Lá Lốt giúp chữa đau nhức xương khớp
Bài thuốc từ cây Lá Lốt giúp chữa đau nhức xương khớp
3. Trị đau lưng, sưng khớp gối, bàn chân tê buốt
Rễ Lá Lốt 15g, rễ Bưởi Bung 15g, rễ cây Vòi Voi 15g, rễ Cỏ Xước 15g. Sao vàng sắc uống 3 lần trong ngày. Ngoài ra, có thể dùng Lá Lốt tươi, Ngải Cứu tươi, liều lượng bằng nhau. Giã nát, thêm ít dấm, đảo trên chảo nóng. Đắp hoặc chườm lên chỗ bị sưng đau.
Trên đây là bài thuốc Đông Y từ cây Lá Lốt chữa bệnh khớp hiệu quả. Nếu như bạn đang bị một trong những bệnh khớp ở trên, có thể tham khảo, áp dụng các bài thuốc trên để giảm đau nhức xương khớp.
https://khopnu.vn/5-bai-thuoc-chua-c...tu-cay-la-lot/
-
Bài thuốc thần kỳ trị viêm gan, xơ gan: Những bệnh nhân sắp chết bỗng… sống lại
Share
1Save
inShare
3.17 (63.33%) 18 votes
(VTC News) – Những ngày lang thang ở Hà Giang, tìm hiểu về thảo dược và những bài thuốc bí truyền của đồng bào, tôi thường được nghe kể rất nhiều chuyện, về những bệnh nhân viêm gan, xơ gan cổ trướng, bụng to như cái rổ, bị bệnh viện trả về, được cứu sống bởi những thầy lang người Dao, với những cây cỏ trong rừng.
Bệnh viện trả về… vẫn sống
Bác sĩ Nguyễn Thị Đức, Chủ tịch Hội đông y Hà Giang bảo: “Quả thực, người Dao không chỉ ở Hà Giang, mà ở khắp miền Bắc, đều sở hữu những cây thuốc chữa bệnh gan rất độc đáo. Thậm chí, có người chẳng bốc thuốc bao giờ, biết người bị xơ gan chờ chết, mà họ vào rừng lấy mấy cây thuốc tươi về nấu cho uống, cũng khỏi bệnh. Trong mỗi bản làng người Dao, đều có những thầy lang rất giỏi trị bệnh về gan”.
Ở thôn Thanh Sơn (thị trấn Việt Quang, Hà Giang), nhắc đến Phàn Giào Vạng, người Tày, sinh năm 1980, ai cũng biết, bởi anh này từng bị bệnh viện trả về chờ chết, nhưng rồi bỗng nhiên khỏe mạnh như thường, thoát khỏi vòng tay tử thần một cách ngoạn mục. Phàn Giào Vạng dáng người mảnh khảnh, nhưng rất khỏe. Hàng ngày, vẫn lên nương làm việc, vác bao ngô nặng 60kg leo phăm phăm trên núi. Nhìn Vạng, không ai nghĩ, chỉ mới năm ngoái thôi, anh đã suýt vào quan tài.
Anh Vạng được cứu sống, dù đã bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, bụng trướng phình
Anh Vạng được cứu sống, dù đã bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, bụng trướng phình
Vạng kể: “Em vốn bị viêm gan B, nhưng em có đi khám bao giờ đâu mà biết. Ở bản em, ai chẳng uống rượu. Nhưng em thì cứ ngày ba bữa, mỗi bữa ít nhất phải một chai, chứ nhạt mồm nhạt miệng không ăn được. Thế rồi, một ngày, tự dưng người mệt mỏi, chán ăn, nhìn thấy rượu lại sợ. Thời gian sau thì gầy rộc đi, nhưng bụng thì trướng phình lên, mắt vàng khè. Lúc em nằm liệt một chỗ, thì gia đình mới đưa đi viện. Bác sĩ bảo, bị viêm gan B, uống nhiều rượu quá thành xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối. Bệnh viện bảo không chữa được, gia đình lại không có tiền, nên đưa em về chờ chết. Không ngờ, uống mấy thứ lá lẩu, em lại sống được”.
Theo Phàn Giào Vạng, đợt đó, khi nằm chờ chết, nhiều người đến hỏi thăm, thậm chí bàn việc tang ma, thì có một người bên vợ xuống thăm. Chị này nhà ở xã Xuân Minh, tít gần đỉnh Chiêu Lầu Thi của dãy Tây Côn Lĩnh, nơi người Dao Đỏ sinh sống. Chị này bảo, trong xã có nhiều người bị xơ gan cổ trướng, với viêm gan, thậm chí nặng đến nỗi bệnh viện trả về, vẫn sống được, là bởi được những thầy cúng người Dao hái cho những cây thuốc trong rừng.
Nghe lời kể, gia đình anh Vạng đã tìm lên xã Xuân Minh, nhờ đồng bào Dao hái thuốc. Hầu hết người Dao lớn tuổi ở núi Chiêu Lầu Thi đều biết đến những cây thuốc gan. Họ vào rừng săn tìm cây thuốc, không kịp chế biến, đem luôn cây lá tươi xuống để gia đình Vạng sắc nước đổ vào miệng anh. Thuốc lá dễ uống, nên mỗi ngày Vạng uống hết 4 ca thuốc lá, tính ra phải đến 4 lít nước thuốc. Uống xong một lúc thì đi tiểu liên tục. Nước tiểu lúc đầu vàng khè, sau một tuần thì chuyển sang màu đỏ sủi bọt như kiểu rót bia và thấy bụng xẹp dần.
Khoảng 1 tháng sau, thì nước tiểu màu trắng, trong vắt. Lúc đó, bụng đã tóp đi. Vạng khỏe mạnh như trước khi bị bệnh. Cẩn thận, Vạng uống tiếp 2 tháng nữa, tổng cộng là 3 tháng. Hiện tại, sức khỏe của anh còn tốt hơn trước khi bị bệnh. Anh ăn khỏe, làm khỏe, thậm chí uống rượu còn khỏe hơn cả trước đây. Nhiều hôm vui miệng, uống cả lít rượu không say. Hôm đến bệnh viện kiểm tra lại, bác sĩ bệnh viện huyện Quang Bình kinh ngạc, không tin nổi là Vạng không những còn sống, mà lại khỏe mạnh như bình thường.
Chặn đứng đại dịch viêm gan
Theo chỉ dẫn của người dân, tôi tìm về xã Tân Trịnh, thuộc huyện Quang Bình (Hà Giang), tìm gặp ông Hoàng Văn Canh, người cũng từng sống lại nhờ những cây thuốc kỳ diệu của người Dao.
Nhà ông Canh ở giữa một thung lũng, bốn bề núi rừng bủa vây. Dáng người mảnh khảnh, nhưng ông rất khỏe. Hỏi về những cây thuốc của người Dao, ông Canh cho biết: “Người Dao có những cây thuốc kỳ diệu với người bị bệnh về gan như viêm gan, xơ gan cổ trướng. Bản thân tôi là ví dụ, đã được những cây rễ trong rừng cứu khỏi tử thần. Tôi còn giới thiệu cho không biết bao nhiêu người thoát khỏi căn bệnh này”.
Ông Canh thoát chết, và đã giới thiệu giúp rất nhiều người quanh xóm thoát căn bệnh viêm gan, xơ gan nhờ bài thuốc của người Dao
Ông Canh thoát chết, và đã giới thiệu giúp rất nhiều người quanh xóm thoát căn bệnh viêm gan, xơ gan nhờ bài thuốc của người Dao
Theo lời ông Canh, cách nay gần 20 năm, ông bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, đi nhiều nơi chữa trị, nhưng bệnh viện trả về để gia đình lo hậu sự, vì tây y không chữa nổi nữa. Về nhà, ai mách cây cỏ gì, gia đình đều sắc cho uống. Bệnh không thuyên giảm, nhưng cứ lay lắt không chết. Cơ thể gầy tong teo, da vàng khè như trát bột nghệ. Của cải trong nhà đội nón ra đi hết.
Thế rồi, một người đã mách cho gia đình ông Canh bài thuốc của người Dao Đỏ. Một thầy cúng kiêm thầy thuốc người Dao đã cắt thuốc cho ông, lại yêu cầu ông ăn kiêng rất nhiều thứ trong quá trình uống thuốc, như thịt trâu, thịt chó, cá mè… Không ngờ, chỉ uống chưa đầy một tháng, thần may mắn đã đến với ông Canh. Và chỉ sau 2 tháng uống thuốc, ông đã khỏi hẳn bệnh.
Việc thoát chết một cách thần kỳ của ông Canh, gây xôn xao dư luận thời bấy giờ. Có lẽ, dễ đến mấy chục người bị bệnh về gan thoát chết, khi được ông Canh giới thiệu bài thuốc của người Dao Đỏ ở dãy Tây Côn Lĩnh.
Chị Nguyễn Thị Thơm, ở xã Tân Bắc, người Tày, cũng rơi vào đúng cảnh ngộ như ông Canh, cũng bị viêm gan B, rồi dẫn đến xơ gan cổ trướng, cũng bị bệnh viện trả về, được ông Canh chỉ dẫn, nên chỉ dùng thuốc có 2 tháng mà khỏi bệnh.
Có thời điểm, cách đây chục năm, cả xã nơi ông Canh ở rộ lên căn bệnh viêm gan A. Sắc mặt ai nấy đều vàng khè. Người ta đồn rằng, do ăn nhiều đường hóa học từ Trung Quốc khiến hỏng hết lá gan, người thì bảo do “ma ám”. Thế nhưng, chỉ cần cắt mấy liều thuốc gan của người Dao mà hết bệnh. Chị Hoàng Thị Nhiêu, Phó trạm Y tế xã Tân Trịnh cho biết: “Đúng là có thời kỳ khắp xã rất nhiều người mắc bệnh lạ, người ngợm cứ vàng ệch. Đi xét nghiệm, thì toàn bị viêm gan A, như kiểu có dịch. Người dân chỉ dùng thuốc Nam của người Dao, thế mà khỏi bệnh, hết cả dịch”.
Chị Thơm không ngờ được sống lại lần nữa
Chị Thơm không ngờ được sống lại lần nữa
Bào chế bài thuốc quý
Đi xe máy, rồi cuốc bộ cả buổi, tôi mới gặp được ông Phượng Quầy Phú, ở một bản xa thuộc xã Xuân Minh, chân đỉnh Chiêu Lầu Thi cao 2.400m, nơi toàn người Dao Đỏ sinh sống. Ông Phú nguyên Chủ tịch UBND xã, hiện là Chủ tịch Hội người Cao tuổi cho biết: “Hầu hết người Dao ở đây đều biết về cây thuốc trị các bệnh về gan. Người dân trong xã uống rượu nhiều, nên không tránh khỏi các bệnh về gan, tuy nhiên, do có thuốc, nên không ai lo lắng cả. Nếu bị viêm gan, hay xơ gan cổ trướng, thì chỉ cắt vài tháng thuốc là khỏi. Tuy nhiên, cây thuốc ngày càng hiếm, vì người Trung Quốc thu mua cạn kiệt, mà không có sự bảo tồn gì cả”.
Ông Phượng Quầy Phú giới thiệu một cây thuốc trị bệnh gan
Ông Phượng Quầy Phú giới thiệu một cây thuốc trị bệnh gan
Cũng theo ông Phú, ở ngay thôn Lan Can, cách trung tâm xã 1 tiếng đi bộ, chị Triệu Mùi Ghến cũng vừa thoát chết chỉ nhờ cây lá trong rừng. Mấy tháng trước, chị Ghến 45 tuổi, bụng sưng to, chuyển xuống bệnh viện tỉnh, bác sĩ bảo xơ gan giai đoạn cuối, nên trả về chờ chết. Hôm chuyển từ bệnh viện tỉnh về trạm y tế, thì chị Ghến ngất xỉu, mãi mới tỉnh. Ông Phú cùng mấy thầy thuốc người Dao chia nhau đi rừng tìm cây thuốc, rồi sắc nước, đổ vào miệng chị Ghến. Uống thuốc vào thì chị tỉnh lại. Uống 2 tháng, tưởng khỏi, nên dừng thuốc, bệnh lại tái phát. Chị Ghến uống tiếp 1 tháng nữa, gọi là cắt bệnh, thế là khỏi đến giờ. Mấy tháng nay, chị Ghến đi nương, đi ruộng, khỏe như bình thường.
Trao đổi về bài thuốc đặc biệt trị bệnh viêm gan, xơ gan của người Dao, lương y Nguyễn Quý Thanh (giám đốc Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh) cho biết: “Người Dao không chỉ ở Hà Giang, mà khắp miền Bắc đều cực giỏi về các cây thuốc chữa bệnh Gan. Người Dao Sơn Đầu thì ai cũng biết thuốc trị bệnh gan. Họ uống rượu rất khỏe và không mang nỗi lo bị xơ gan, ung thư gan, vì họ có thuốc quý. Các bản làng người Dao đều lưu giữ bài thuốc mà các cụ chép lại trong các sách cổ. Đời nọ, nối tiếp đời kia, họ cứ lấy những cây thuốc bí truyền đó sử dụng, chữa bệnh rất hiệu quả”.
Lương y Nguyễn Quý Thanh - giám đốc Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh (bên trái, được chủ tịch nước Trương Tấn Sang tặng quà lưu niệm), đã mất nhiều năm nghiên cứu những thảo dược quý trị bệnh gan của người Dao.
Lương y Nguyễn Quý Thanh – giám đốc Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh (bên trái, được chủ tịch nước Trương Tấn Sang tặng quà lưu niệm), cùng các lương y của Trung tâm đã mất nhiều năm nghiên cứu những thảo dược quý trị bệnh gan của người Dao.
Lương y Nguyễn Quý Thanh đã có 20 năm sống với người Dao, và nghiên cứu rất kỹ những cây thuốc trị bệnh viêm gan, xơ gan của người Dao nhiều năm nay. Lương y Thanh đã cùng các bác sĩ của Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh sử dụng các cây thuốc của người Dao điều trị cho cả ngàn bệnh nhân, và nhận thấy rất nhiều bệnh nhân đã hết virus viêm gan khi uống thảo dược của họ. Đến trên 90% bệnh nhân xơ gan giai đoạn 1 và 2 khỏi bệnh. Bệnh nhân xơ gan giai đoạn cuối, bụng trướng to, bệnh viện không cứu nổi nữa, thì tỷ lệ khỏi thấp hơn, được vài chục phần trăm, tuy nhiên, cũng là cực kỳ xuất sắc. Ngoài chữa viêm gan, xơ gan, thì những bệnh nhân bị men gan cao, mỡ gan, mỡ máu, thậm chí nấc không ngừng cả tuần, dùng thuốc này cũng rất hiệu quả. Kể cả người không bị bệnh, dùng thay nước hàng ngày để phòng bệnh, bảo vệ lá gan, cũng rất tốt, không có tác dụng phụ nào.
Theo lương y Thanh, người Dao có khoảng 30 cây thuốc chữa gan, trong đó những cây thuốc quý nhất mà họ hay sử dụng chữa viêm gan, xơ gan, gồm: nọ vèng tèng, cây 5 lá, dây lá gan, dây rắn, châu chỉa pông, chuống gan… Các lương của Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh đã nghiên cứu tất cả những cây thuốc trị gan của người Dao, lựa chọn những thảo dược tốt nhất và thử chiết xuất dạng viên, dạng cao lỏng, nhưng hiệu quả không cao bằng sắc thô như thuốc Nam cổ truyền. Vậy nên, người mắc bệnh buộc phải kiên trì sắc thuốc hàng ngày để uống.
Lương y Nguyễn Quý Thanh, người nổi tiếng với bài thuốc An cung trúc hoàn trị tai biến, cùng các thầy thuốc ưu tú của Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh, đã nghiên cứu và phát triển bài thuốc Nam đặc biệt của người Dao, sử dụng những loại dược liệu quý nhất, để phục vụ bệnh nhân mắc các bệnh về gan trên khắp cả nước.
Bệnh nhân liên lạc theo số ĐT sau để được tư vấn dùng thuốc: 0963015446 – 0988292525
ĐỊA CHỈ CHUYỂN THUỐC
– Hà Nội:
+ Số 54F đường Vũ Trọng Phụng – Thanh Xuân – ĐT: 0167.963.5555 – 0439.168.666
– Hồ Chí Minh:
+ Số 391/10H đường Điện Biên Phủ, P.25, Q.Bình Thạnh – ĐT: 0822.639.666 – 0983.144.902
http://thanyviet.vn/bai-thuoc-than-k...-song-lai.html
-
‘Thần dược 300 tuổi’ trị tận gốc rối loạn tiền đình của nữ lang y tài ba
Share
Save
inShare
5 (100%) 1 vote
(VTC News) – Lương y Nguyễn Quý Thanh, Giám đốc Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh, không chỉ nổi tiếng với bài thuốc trị tai biến, tắc mạch, mà còn nổi tiếng với bài thuốc trị rối loạn tiền đình cực kỳ hiệu quả. Hàng ngàn bệnh nhân khắp cả nước mắc các bệnh về thiếu máu não, rối loạn tiền đình đang sống khỏe mạnh trở lại nhờ bài thuốc thần diệu của bà.
Bác sĩ phải dùng đông y
Theo địa chỉ cung cấp, tôi tìm đến phòng khám của bác sĩ Đỗ Thúy Nga ở phương Cao Ngạn, TP. Thái Nguyên. Chị Nga miệt mài bên chiếc máy soi máu. Thật kỳ tài, khi chị đọc vanh vách bệnh tình của bệnh nhân chỉ qua giọt máu thấm trên tờ giấy trắng.
Hỏi chuyện về căn bệnh rối loạn tiền đình, thiếu máu lên não, chị Nga tỏ vẻ thán phục: “Tôi là bác sĩ, đâu dễ gì tin vào mấy bài thuốc của các thầy lang trị bệnh theo đông y đâu. Nhưng, tôi quả thực kinh ngạc với mấy viên thuốc đông y của chị Quý Thanh. Những viên thuốc từ thảo dược dường như đã thay đổi hoàn toàn thân thể, cuộc sống, thậm chí cả công việc của tôi”.
Theo bác sĩ Nga, chị bị chứng thiếu mãu não từ thời sinh viên. Lấy chồng sinh con xong thì bệnh càng nặng. Những ngày trái gió trở giời thì đầu đau như búa bổ. Đứng lên ngồi xuống cũng chóng mặt, hoa mắt muốn ngã lăn. Công việc khám chữa bệnh cần sự tập trung và tỉnh táo, thì chị không thể nào tập trung và tỉnh táo được, bởi căn bệnh rối loạn tiền đình hành hạ. Nhiều hôm phải nghỉ giữa buổi vì tụt huyếp áp. Chị tự viết đơn thuốc và dùng quanh năm suốt tháng. Nhưng thuốc tây chỉ giải quyết được thời điểm đó. Cứ hết thuốc, máu lại không lên được não. Các loại thực phẩm chức năng trong ngoài nước cũng đã dùng không thiếu thứ gì để bổ sung, nhưng không ăn thua.
Bác sĩ Đỗ Thúy Nga đã thoát khỏi nỗi ám ảnh về căn bệnh Rối loạn tiền đình
Thời điểm bệnh nặng nhất là năm 2009. Khi đó, cả thể lực và tinh thần đều kiệt quệ do căn bệnh rối loạn tiền đình quái ác. Hồi đầu năm thì đi ô tô bỗng nhiên say xe. Sau đó, bệnh nặng đến mức chỉ nhìn thấy ô tô đã say nghiêng ngả, thậm chí nôn thốc nôn tháo. Sau thì chỉ nghĩ đến việc lên ô tô đã say xe, chứ chưa cần nhìn thấy cái ô tô sẽ phải trèo lên. Bệnh nặng đến mức các ám thị cứ thế chạy vào não, khiến chị không điểu khiển được tâm trí của mình.
Nghe mấy bác sĩ trong cơ quan kể chuyện dùng thuốc đông y trị rối loạn tiền đình của lương y Nguyễn Quý Thanh, lúc đầu không tin, nhưng chị Nga cũng dùng thử. Không ngờ, dùng chưa hết 3 lọ, tức là chừng một tháng, chị thấy tràn ngập sức sống, năng lượng trong cơ thể rất dồi dào, đầu óc minh mẫn. Điều đặc biệt là chị ngồi ô tô đi công tác vòng quanh Tây Bắc, toàn đường cua dốc mà không say xe tẹo nào.
Chị Nga tâm sự: “Nói ra thì thật xấu hổ, khi bản thân mình là bác sĩ, mà lại phải điều trị bằng mấy viên thuốc đông y của thầy lang. Nhưng đúng là có những thứ đặc biệt trong cây cỏ, mà chúng ta vẫn chưa hiểu rõ được. Từ năm 2009 đến nay, thi thoảng tôi mới uống lại một lọ, giá tiền có 250 ngàn đồng, mà bệnh rối loạn tiền đình mất tích luôn. Đó cũng là lý do mà mấy năm nay tôi bắt đầu để ý và nghiên cứu về đông y”.
Chấm dứt chuỗi ngày như thảm họa
Rối loạn tiền đình, thiếu máu não là căn bệnh phổ biến, và hầu như phụ nữ có tuổi đều mắc phải. Căn bệnh này tưởng đơn giản, nhưng lại gây ra nguy cơ đột quỵ rất cao và rất khó điều trị dứt điểm. Riêng ở xóm Vải ven TP. Thái Nguyên cũng có mấy chục người mắc căn bệnh này và hiện sức khỏe của họ đều rất tốt do dùng thuốc của lương y Nguyễn Quý Thanh đều đặn.
Trước mặt tôi là chị Vũ Thị Liên, sinh năm 1965, có khuôn mặt rạng rỡ, tươi vui, miệng luôn nở nụ cười gần gũi. Chị Liên bảo, nếu không có hai lọ thuốc Dưỡng tâm hoàn điều trị bệnh tim và Rối loạn tiền đình điều trị bệnh thiếu máu não trầm trọng, của lương y Nguyễn Quý Thanh, thì chị khó mà sống đến bây giờ.
Chị Liên bị hở van tim 2 lá từ 3 năm trước, nhưng chị lại bị chứng rối loạn tiền đình rất nặng, đầu đau như búa bổ, nên rất khó điều trị. Chị uống thuốc Tây nhiều, nhưng không khỏi, trong khi đó, lại bị loét dạ dày do phản ứng phụ của thuốc Tây. Khi đó, cơ thể chị gầy quắt, thở không ra hơi, sức khỏe suy kiệt, không làm được việc gì. Nhiều hôm chỉ nằm một chỗ cũng không thở được. Bác sĩ khám và bảo rằng chị có thể tai biến đột tử bất cứ lúc nào.
Chị Vũ Thị Liên đã thoát căn bệnh hở van tim và rối loạn tiền đình nhờ lọ thuốc của lương y Nguyễn Quý Thanh.
Thấy người dân trong xóm mách, chị Liên đã dùng cả thuốc Dưỡng tâm hoàn và Rối loạn tiền đình của lương y Nguyễn Quý Thanh. “Dùng thuốc của chị Thanh, cứ như cá gặp nước ấy nhà báo ạ. Không biết mọi người thế nào, chứ tôi uống vào là thấy đỡ ngay. Cả bệnh tim lẫn rối loạn tiền đình đều tan biến hết luôn. Vì thuốc rẻ, lại không có tác dụng phụ, nên tôi cứ uống hàng ngày, không bỏ ngày nào. Trước đây người gầy quắt, giờ tôi tăng được mấy kg, sức khỏe rất tốt. Trước chỉ ngồi thở, giờ thì làm mọi việc nặng nhọc, không ngán việc gì”, chị Liên vui vẻ tâm sự.
Thật khó có thể tin, một người phụ nữ từng tuyệt vọng hoàn toàn vào tương lai vì sức khỏe tồi tệ, đã thay đổi hoàn toàn. Chị trở nên vui tươi và hăng say làm việc.
Bà Đinh Thị Biểu (thôn 1, xã Thái Dương, Thái Thụy, Thái Bình), cũng từng khốn khổ vì căn bệnh rối loạn tiền đình. Trước đây, bà liên tục đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, vì căn bệnh này. Mỗi lần thiếu máu lên não, tim lại đập thình thịch, thở không ra hơi. Nhiều lần bà lên Hà Nội, vào Bệnh viện Tim Hà Nội, vì nghĩ bị tim, nhưng bác sĩ đều không tìm ra bệnh, chỉ nói máu lên não kém. Bác sĩ kê thuốc, bệnh tình thuyên giảm. Nhưng, hết thuốc, bệnh lại như cũ, thậm chí nặng hơn. Nhiều hôm, người mệt mỏi, cứ nôn khan trợn cả mắt mũi, sa sầm mặt mày.
Được người quen giới thiệu, bà dùng cả thuốc An cung trúc hoàn lẫn thuốc Rối loạn tiền đình của lương y Nguyễn Quý Thanh. Thuốc An cung trúc hoàn có tác dụng làm dãn thành mạch, khơi thông và làm sạch lòng mạch, đẩy máu lên não rất nhanh. Thuốc Rối loạn tiền đình thì giúp huyết áp ổn định. Ngay khi uống thìa thuốc An cung trúc hoàn, bà đã thấy cơ thể nhẹ nhõm, tỉnh táo, tinh thần sảng khoái. Dùng hết lọ An cung trúc hoàn, thì bà dùng thuốc Rối loạn tiền đình đều đặn.
Điều kỳ diệu, là chỉ uống hết một lọ An cung trúc hoàn và mấy lọ Rối loạn tiền đình, căn bệnh thiếu máu lên não của bà biến mất. Khỏi bệnh, lại ăn ngon ngủ tốt, nên từ 44kg, bà tăng một mạch lên 53kg, da dẻ hồng hào, trẻ ra trông thấy.
Phát triển từ bài thuốc của tổ tiên
Theo lương y Nguyễn Quý Thanh, bài thuốc trị các bệnh về tim mạch được bà thừa kế từ tổ tiên, là các Thái y triều Lê để lại. Bài thuốc đặc trị tim mạch được ghi chép cặn kẽ qua các thế hệ và có tuổi đời đã 300 năm.
Bài thuốc trị tim mạch gồm có ba loại, điều trị tai biến, tim mạch và rối loại tiền đình. Ba loại này có nhiều vị giống nhau và điều trị kết hợp cùng nhau rất hiệu quả.
Thuốc An cung trúc hoàn điều trị tai biến, tắc mạch gồm nhiều vị, trong đó, có những vị có tác dụng rất tốt cho tim mạch và tiền đình. Những bệnh nhân bị tim mạch và tiền đình sử dụng thuốc An cung trúc hoàn rất tốt, nhưng lãng phí vì đắt tiền, không phù hợp với đại đa số người dân. Chính vì thế, lương y Thanh cùng các thầy thuốc, giáo sư, tiến sĩ thuộc Trung tâm Phát triển y học cổ truyền Việt Thanh đã nghiên cứu và khôi phục bài thuốc trị bệnh rối loạn tiền đình và bệnh tim mạch. Trung tâm đã bào chế và kiểm nghiệm trên cả ngàn bệnh nhân từ 20 năm qua và cho hiệu quả rất cao.
Lương y Nguyễn Quý Thanh đã cùng các nhà khoa học, các lương y thuộc Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh và lương y thuộc Công ty Cổ phần dược thảo Fansipan, bào chế thuốc đông y trị rối loạn tiền đình thành dạng viên, và bán với giá rất rẻ, chỉ 250 ngàn đồng/lọ, để người bệnh nghèo cả nước có thể sử dụng trị bệnh. Đây là việc làm hết sức nhân văn của các lương y, nhằm tôn vinh thuốc Nam, dùng thuốc Nam trị bệnh cho người Việt.
Lương y Nguyễn Quý Thanh đã được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tặng quà lưu niệm vì có nhiều thành tích trông điều trị bệnh và phát triển thuốc Nam
Lương y Nguyễn Quý Thanh, là người duy nhất thừa kế bài thuốc trị tai biến, tim mạch, tiền đình của Thái y Nguyễn Quý Thành, ông tổ đời thứ 7. Cụ Nguyễn Thuần, cụ tổ 10 đời trước, chữa bệnh cứu sống Tổng trấn Bắc Kinh và hoàng hậu, nên được giữ lại trong triều. Chết, được phong Cố Thái y, ban chữ Quý.
Cụ Nguyễn Quý Thuần sinh ra Thái y Nguyễn Quý Khuê. Cụ Khuê chữa bệnh cứu sống Thái tử. Cụ Khuê sinh được hai thầy lang nổi tiếng, là Nguyễn Quý Thành và Nguyễn Quý Sáu. Cụ Thành là Thái y triều Lê và cụ Sáu là Trưởng nội y. Cụ Sáu lập ra chi ở Đông Anh, làm thuốc rất nổi tiếng. Cụ Thành lập ra chi ở Bắc Giang. Tuy nhiên, con cháu cụ Thành chỉ lác đác có người làm thuốc, không có ai nổi bật.
Lương y Nguyễn Quý Thanh sinh năm 1956, ở làng Mai Đình, nơi ông tổ Quý Thành 7 đời trước về sinh cư, đã khôi phục lại các bài thuốc đặc biệt của tổ tiên, trong đó nổi tiếng nhất là bài thuốc trị tai biến mạch máu não, tắc mạch máu, hoại tử tứ chi do tắc mạch, cứu sống và cứu thoát khỏi cảnh sống thực vật cho cả ngàn người trên khắp cả nước.
Thuốc đông y Rối loạn tiền đình của lương y Nguyễn Quý Thanh dành cho những bệnh nhân có triệu chứng sau: Chức năng vỏ não hư tổn, thiếu ôxi não, thiếu máu não, rối loạn tiền đình, giảm trí nhớ, say tàu xe, choáng váng và hoa mắt khi đứng lên ngồi xuống, huyết áp cao – thấp, mất thăng bằng cơ thể, thoái hóa chất trắng trong não đi cứ lao đầu về trước, mất trí nhớ do tai biến và tai nạn, người cao tuổi hay quên, trẻ con không tập trung học tập, phụ nữ hay quên sau sinh, tay chân buồn bực…
SỐ MÁY TƯ VẤN, HỖ TRỢ CÁC BỆNH TIM MẠCH, RỐI LOẠN TIỀN ĐÌNH, TAI BIẾN CỦA LƯƠNG Y NGUYỄN QUÝ THANH: 0963.015.446 – 0988.29.25.25
ĐỊA CHỈ CHUYỂN THUỐC
– Hà Nội:
+ Số 54F đường Vũ Trọng Phụng – Thanh Xuân – ĐT: 0167.963.5555 – 0439.168.666
– Hồ Chí Minh:
+ Số 391/10H đường Điện Biên Phủ, P.25, Q.Bình Thạnh – ĐT: 0822.639.666 – 0983.144.902
+ Số 158/21/13 Phạm Văn Chiêu, P.9, Q.Gò Vấp. ĐT: 0988 990 398
http://thanyviet.vn/duoc-300-tuoi-tr...-y-tai-ba.html
-
http://www.hkshp.org/cclassic/culture/buddhism/78.txt
No.2461 大和尚奉為平安城太上天皇灌頂文夫 繕深海非修足不能極其 ...
www.hkshp.org/cclassic/culture/buddhism/78.txt
大·a ja ri·率持金剛者並讚眾入堂。即禮佛著 次加持香水並供物如例次一切恭敬敬 禮常住三寶次入佛三昧耶明·na maH sa ma nta vu ddhA nAM a sa me tri sa me sa ma ye svAhA· 次法界生明·nAM dha rma dha svA bha va ko haM· 次九方便次金剛薩埵轉法輪明·NaM va jra tmA ko haM· 次無動金剛能成就明·NaM ca NDa oM ha, ..
-
640 × 496Images may be subject to copyright
民俗|收藏不谢,完整版的常山上梁 彩词!
大衢网首页- 掌上衢州
拜请三江师傅,十方尊神,满天星斗 十二宫神,五方席位,土地香火,里 源头,外到水口,有坛无庙,有庙无 坛,诸神请到东家屋中。
http://www.qz828.com/pic/0/11/11/74/11117450_719973.jpg
https://wap.qz96811.com/news.aspx?newsid=29436
-
KHOA THỈNH PHẬT, THÁNH, BÁCH THẦN
Leave a reply
Pháp sự tựu vị, Đệ tử Trai chủ, các chư Đạo hữu, Chúng đẳng
Các các hồ quỵ cung nghinh Phật, Thánh, Tôn thần Hội đồng – Ngũ bái.
ooo
Pháp sự phân ban tuyên diễn Đại thừa, tán dương khoa giáo. Trai chủ Tín chủ, Thị chư Chúng đẳng, các các hồ quỵ, Tâm trì Hương hoa, như Pháp cúng dàng, cúng dàng Thập phương, Tam thế nhất thiết Tam bảo, chư Thiên, chư Thánh, chư thần.
ooo
Lô Hương sạ nhiệt – Pháp giới mông huân – Chư Phật Hải hội tất dao văn
Tùy sứ kết Tường vân – Thành ý Phương ân – Chư Phật hiện Toàn thân. 0
Nam mô Hương Vân cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
Như lai Diệu sắc Thân – Thế gian vô dữ đẳng
Vô tỷ bất tư nghị – Thị cố cung kính lễ.
000
Thập phương chư Phật thái Hư không – Bách ức phân Thân hiển hiện đồng.
Biến hóa vạn ban Bích Ngọc tướng – Trang nghiêm thiên Xích tử Kim dung.
Từ phong hạo hạo Tường vân nhiễu – Pháp vũ phi phi Thụy khí nùng
Dao vọng Tây kiền thân lễ thỉnh – Giáng lâm Đông độ, Việt Nam giám vô cùng.
Thích ca Mâu ni Phật. (Đại chúng hòa) Đại Thánh Tam giới Sư Như Lai.
000
Nam mô Tận Hư không biến Pháp giới Thập phương Tam thế Nhất thiết chư
Phật, tôn Pháp, chư Hiền Thánh tăng – Vô lượng Thường trụ Tam bảo. (1 lễ)
Nam mô Sam Tam bảo Hộ Chính pháp Phạm vương, Đế thích
Bát bộ Thiên Long chúng. (1 lễ)
Nhất thiết Cung kính Tín lễ Thường trụ Tam bảo. (1 lễ)
000
Phù dĩ: Pháp duyên Quang khải, Thành ý tinh kiền. Dục nghinh Phật Thánh, Tôn thần dĩ lai lâm, Tu đương Tứ phương nhi Thanh tịnh. Nghi bằng Chú lực (Pháp thủy) quán sái Đàn tràng, nhất cú Diệu âm Thần chú (nhất chích Tài chiêm) Thập phương câu khiết. Ngã Phật giáo Tạng trung hữu, Mật chú Chuẩn đề Đà la ni cẩn đương trì tụng.
000
THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ:
Khể thủ quy y Tô tất đế – Đầu diện đỉnh lễ Thất câu chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn đề – Duy nguyện Từ bi thùy gia hộ.
Nam mô Sa pta Nam – Sam dac Sam But đa – Kô ti nam. Ta đi da tha:
Ôm. Ca lê Cu lê Cun đê. Sva ha. (3 lần)
Nam mô Ly Cấu địa Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
Cung văn: Dục nghinh Thập phương chư Phật tu bằng Ngũ phần Pháp Hương yên ái, Tường vân Mật bá Thiên đường Phật quốc, Phong phiêu Thụy khí tu đạt Địa phủ, Long cung. Ký năng cảm động vu Thánh hiền, tất thị vô tư ư ảnh hưởng. Cố Kinh vân Tín căn sinh Nhất niệm chư Phật tận dao tri, phần Hương đạt tín Đà la ni, cẩn đương trì tụng.
ooo
Giới hương, Định hương dữ Tuệ hương – Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương
Quang minh Vân đài biến Pháp giới – Cúng dàng Thập phương vô lượng Phật
Cúng dàng Thập phương Tam bảo tiền.
Hương tài Nhiệt lô, phần bảo Đỉnh trung – Chiên đàn, Trầm nhũ Chân kham cúng
Hương yên liễu nhiễu, Liên hoa động – Chư Phật, Bồ tát hạ Thiên cung.
Thanh Lương sơn La hán – Nạp thụ Nhân gian cúng. (họa)
Nam mô Hương Cúng dàng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
Cung văn: Phật chân Pháp thân, do nhược Hư không, vô lượng Công đức sở thành tựu cố, tiên tương Chú lực (Pháp thủy) khiết tịnh Đàn tràng, thứ bị Danh hương phả thân cúng dàng. Dĩ thử… thiên tiến lễ… (An vị, Tuần lâm…) thỉnh Phật, nguyện cầu hà sa chư Phật, chư Thánh, chư Thần giáng lâm; dĩ thử Sám hối Tội diệt Phúc sinh; dĩ thử Tri ân Phật thánh, Thiên địa, Nhật nguyệt, Quốc gia Xã hội, Thuỷ thổ, Sư trưởng, Phụ mẫu, Thập phương Tín thí Tứ sự cúng dàng; dĩ thử cầu Phúc bách Phúc tự chí, dĩ thử cầu Gia nội An khang Trường thọ sự, dĩ thử Giải trừ nhất thiết Nghiệp chướng Tội chướng, Oán kết Oan khiên, Oan gia Trái chủ, Bệnh tật Tai ương, Tam tai Bát nạn, Vô minh Phiền não. Vĩnh ly Khổ ách, thường hoạch Cát tường; tinh tiến Tu tập, chứng đắc Bồ đề, đồng sinh Cực lạc… Dĩ thử Độ sinh Chúng sinh giải thoát, Vong linh siêu thoát, Như lai giáo hữu phụng thỉnh Chân ngôn, cẩn đương trì tụng.
Nam mô Bu pu Tê ri – Ca ri Ta ri – Ta tha ga ta da. (3 lần)
ooo
Đệ tử, Trai chủ kiền thành phần Hương bái thỉnh.
Giới định Chân hương phần khởi xung Thiên thượng.
Nhất niệm kiền thành nhiệt tại Kim lô phóng.
Khoảnh khắc Nhân huân tức biến mãn Thập phương
Tích nhật da du miễn nạn tiêu Tai chướng.
Nam mô Hương Cúng dàng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Cẩn vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Nam mô Thiên hoa Đài thượng Bách bảo Quang trung Quá hiện vị lai nhất thiết Thường trụ Phật đà gia tôn; nhất thiết Thường trụ Đạt Ma gia tạng; nhất thiết Thường trụ Tăng già gia chúng. Thanh tịnh Pháp thân Tỳ lư Giá na Phật, Viên mãn Báo thân Lư Xá na Phật, Thiên bách ức Hóa thân Thích ca Mâu ni Phật, Tây phương Giáo chủ Cửu phẩm Đạo sư A Di đà Phật, Đông phương Giáo chủ Dược sư Lưu ly Quang vương Phật, Đương lai Giáo chủ Hạ sinh Di Lặc tôn Phật, Vô lượng Ức kiếp Thiên Quang vương Tĩnh trụ Phật, Thất Phật Thế tôn, Thất Dược sư Phật, Hiện tại Tam thập Ngũ Phật, Quá khứ Ngũ thập Tam Phật, Ngũ phương Ngũ Phật, Thập phương Thập Phật, Trang nghiêm kiếp thiên Phật, Hiền kiếp thiên Phật, Tinh tú kiếp thiên Phật; tận Hư không biến Pháp giới Thập phương Tam thế Nhất thiết chư Phật.
Duy nguyện: Ngã Phật Từ bi, bất vi bản thệ, lân mẫn Hữu tình, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức; Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG TAM THỪA – PHÁP TẠNG:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Nam mô Tây thiên Trúc quốc, Bạch mã Đà lai, Tu đà la liễu nghĩa Thượng thừa, Thập nhị bộ Chân kinh Bí điển, Nam mô Thập phương Tam thế nhất thiết Tu đa la Kinh tạng, Tỳ ny gia Luật tạng, A tỳ Đạt ma Luận tạng, Đà la ni Tổng Trì tạng, Bát nhã Ba la Mật đa Trí tuệ tạng, Nhất thiết Đạt ma gia tôn Pháp.
Duy nguyện: Tam thừa Bảo tạng, chư phẩm tôn Kinh, Tử Kim quang Tụ diệu Thập phương, Bạch ngọc hào phân suy Sa giới; giáng phó Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức; Hương hoa thỉnh.
(Trên đây là thỉnh Tam bảo, thỉnh tôn Pháp, còn tùy thờ tượng vị Bồ tát nào thì thỉnh vị đó)
ooo
THỈNH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT, CHUẨN ĐỀ VƯƠNG BỒ TÁT:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh:
Hải chấn Triều âm thuyết Phổ môn – Cửu Liên hoa Lý hiện đồng Chân
Dương chi nhất đích Chân Cam lộ – Tán tác Sơn hà Đại địa Xuân.
Cung duy: Nam mô Chính pháp Minh vương – Viên thông Giáo chủ Thiên thủ Thiên nhãn – Thánh quán Tự tại – Đại từ Đại bi – Tầm thanh Cứu khổ Cứu nạn Linh cảm Quán Thế âm Bồ tát Ma ha tát – Hồng Liên tọa hạ.
Duy nguyện: Thi Ân tế Khổ, trục Quỷ an Nhân, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh:
Thủ trì trung Tích trượng – Trấn sao Địa ngục chúng Môn khai
Trưởng thượng Minh châu – Chiếu triệt Thiên đường chư Lộ thấu
Chúng sinh độ tận – Phương chứng Bồ đề – Địa ngục vị Không – Thệ bất thành Phật.
Cung duy: Nam mô U minh Giáo chủ, Minh dương cứu khổ, Đại định Đại lực, Đại bi Đại nguyện, Đại Thánh Đại từ, Đại sĩ Đại Đại Địa Thần Địa Tạng vương Bồ tát Ma ha tát – Liên tọa hạ.
Duy nguyện: Từ bi vô lượng, lân mẫn Hữu tình, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh:
Tướng hảo Từ bi thu nguyệt mãn – Hóa thân đằng vân mộ vân phồn.
Hương yên đôi ly Chiêm ứng hiện – Vạn tượng đằng huy Diệu chúc lư.
Khể thủ quy y Tô tất đế – Đầu diện đỉnh lễ Thất câu chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn đề – Duy nguyện Từ bi thùy gia độ.
Cung duy: Nam mô Tỳ lô Giá na Cung điện trung Thất Câu chi Phật mẫu Đại Chuẩn đề Minh vương Bồ tát Ma ha tát – Liên tọa hạ.
Duy nguyện: Từ bi vô lượng, lân mẫn Hữu tình, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH CHƯ BỒ TÁT:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Nhập bi nguyện hải, thụ Công đức lâm, Chủng chủng Trang nghiêm, Từ bi Vô lượng Nam mô: Di Lặc Bồ tát, Đại trí Văn thù Sư lợi Bồ tát, Đại Hạnh nguyện Phổ Hiền Bồ tát, Lương Hữu đức Đại Thế chí Bồ tát, Đại Từ bi Quán Thế âm Bồ tát, Thất Câu chi Phật mẫu Đại Chuẩn đề Minh vương Bồ tát, Minh dương Cứu khổ Bản tôn Địa Tạng vương Bồ tát, Nhật Cung Bồ tát, Nguyệt Cung Bồ tát, Dược vương Bồ tát, Dược thượng Bồ tát, Bảo Đàm hoa Bồ tát, Đắc Đại thế Bồ tát, Vô Tận ý Bồ tát, Hư Không tạng Bồ tát, Kim Cương tạng Bồ tát, Kim Cương thủ Bồ tát, Kim Cương Tát đỏa Bồ tát, Trừ Cái chướng Bồ tát, Tiêu Tai chướng Bồ tát, Phả quang Giải Oan kết Bồ tát, Trường Thọ Bồ tát, Diên Thọ Bồ tát, Tổng Trì vương Bồ tát; Tận Hư không biến Pháp giới Thập phương Tam thế nhất thiết Thanh tịnh Đại Hải chúng Bồ tát.
Duy nguyện: Chư tôn Bồ tát bất vi bản thệ, phủ vận Thần thông; giáng phó Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức; Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH MỤC LIÊN, BÍCH CHI PHẬT, THANH VĂN; HIỀN THÁNH TĂNG:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh:
Tiểu xưng La bốc, Trưởng hiệu Mục liên – Thiện tâm xuất Hiếu tử chi Môn
Tu thân triệu Phật pháp chi Đạo – Thần thông Đệ nhất vận Từ bi
Nhi cứu khổ Chúng sinh – Hiếu thuận cư Tiên trì Trai giới – Nhi báo ân Phụ mẫu
Phi Cà sa trì Tích trượng – Diêm vương Văn nhi – Hợp trưởng hàng Tâm
Viên đỉnh tương quải – Phương bào Ngục tối – Kiến nhi đê đầu củng thủ.
Cung duy: Đại bi Đại nguyện Đại thánh Đại từ Đại hiếu Đại Mục Kiền liên Tôn giả – Liên tọa hạ.
Duy nguyện: Bất vi bản thệ, Lân mẫn Hữu tình, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Ma ha Ca diếp Tôn giả, A Nan đà Tôn giả, Ưu Ba ly Tôn giả, Ca Chiên diên Tôn giả, Đại mục Kiền liên Tôn giả, Phú Lâu na Tôn giả, Tân đầu Lư phả La đỏa Tôn giả, Xá Lợi phất Tôn giả, Tu Bồ đề Tôn giả, La Hầu la Tôn giả cập Chúng sở Tri thức Đại A La hán, phụ Hữu học Vô học nhị Thiên Nhân đẳng. Nam mô Thập phương Tam thế nhất thiết Duyên giác Độc giác Bích chi Phật, A La hán Thanh văn Tứ quả Tứ hướng; đắc Đạo chư Thánh tăng chư Thiên Ứng cúng; Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp lôi, Pháp điện – Việt Nam Tứ pháp – Tọa hạ.
Duy nguyện: Hoằng thi phép lực, Diệu chuyển Uy linh, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH LỊCH ĐẠI TỔ SƯ, TĂNG CHÚNG:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Tây thiên Tứ thất, Đông độ Nhị tam, Tam minh Bát giải, Ngũ quả Lục thông; phân thân ư thử độ Tha phương, thuyết Pháp ư Nhân gian Thiên thượng; Tổng ngũ gia nhi lĩnh ngộ nhất môn, Quan Đại địa nhi quán thông, chích nhãn phù bôi phi tích, cơ quan nhi hoành việt, Nhị thừa dưỡng Hổ thí Miêu, độ lượng nhi cao siêu Độc giác. Vi tiếu niêm hoa Thượng xuất, Trường giang vi độ trung lai. Pháp pháp lưu truyền, Đăng đăng tương tục.
Cung duy: Nam mô Tuệ Năng Tào Khê Lục tổ Tổ sư, Từ Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải Tam Đại Pháp sư, Minh Không Lý Quốc sư; Tỳ ni Đa Lưu chi, Định không, Quý An, Thiền ông, Vạn Hạnh, Khánh Văn Lục Đại Tổ sư; Giác hoàng Điều ngự Đầu đà, Pháp loa, Huyền Quang Trúc lâm Tam tổ… Khâu ni Danh, Ma ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác, Pháp Hiền, Khâu Đà la, Chân Nguyên, Chuyết Chuyết, Chuyết Công, Hương Hải; Quảng Đức, Thiện Hoa, Thiền Tâm… Mã Minh, Long thụ, Cưu ma La thập, Huyền Trang, Long trí, Vô Trước, Thế thân, Bồ đề Đạt ma, Tuệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn; Tuệ Viễn, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, Thừa Viễn, Diên Thọ, Tỉnh Thường, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Liên Trì, Hành Sách, Thật Hiền, Triệt Ngộ, Tế Tỉnh, Hư Vân, Ấn Quang, Pháp Trí, Ngộ Đạt, Trí Giả, Nam Nhạc, Thiện Vô uý, Kim Cương Trí, Bất Không Kim Cương, Nhất hạnh, Hiền Thủ Pháp Tạng, Thái Hư, Tuyên Hóa chư Đại Pháp sư…
Phả thỉnh Việt Nam Tỳ ni Đa Lưu chi, Vô ngôn Thông, Tào Động, Lâm Tế, Thảo Đường nhất thiết Tổ sư phả cập Tây thiên, Đông độ, Việt Nam, Đông tây Kim cổ Truyền giới Truyền giáo nhất thiết Tam tạng Pháp sư, chư Đại Pháp sư, các Tông các Phái Lịch đại Tổ sư, Tông sư Thuyền sư chư vị Bồ tát; Quá hiện vị lai nhất thiết Tăng già gia chúng – Thuyền Tọa hạ.
Duy nguyện: Hổ túy bất càn tăng điểm xuất, Long diên hữu vị tái chiêm lai; giáng phó Đàn tràng thụ tư cúng dàng, Chứng minh Công đức; Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH HỘ PHÁP:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Tích kiếp tu Nhân, sinh sinh bất muội, Thân cư Tể tướng, Tâm hội Chân như. Thị dũng kiện ư Thiên luân, tồi Tà phụ Chính, thụ di chúc ư Đại giác, hộ Pháp an Tăng.
Cung duy: Tam châu cảm ứng Vi đà tôn Thiên Kiền đạt Thần vương Vi đà Thiên tướng Bồ tát hóa thân, Thập bát Long thần, Tứ vị Bồ tát Kim cương; Bát bộ Kim cương, Thập nhị Dược xoa Đại tướng; Bát bộ Thiên long Càn Thát bà, A Tu la, Ca Lâu la, Khẩn Na la, Ma hầu La già; Hộ pháp Hộ giáo, Hộ kinh Hộ chú, Hộ giới Hộ đàn, Kim cương Mật tích, Tiêu diện Diệm nhiên Đại sĩ, Diệm khẩu Đại sĩ, Giám trai Thổ địa, Già lam Chân tể, nhất thiết chư tư Bộ chúng – Tọa hạ.
Duy nguyện: Uy linh Mật hữu, Từ tế vô biên, phù bôi Tứ hải, trác tích Thiên sơn Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh. ooo
ĐƯỜNG THỈNH CHƯ THIÊN:
Tái vận Chân hương chí tâm bái thỉnh: Tôn cư Tam giới Tổng nguyên phạm nhi Phúc hưởng vô cùng; thống nhiếp Tứ châu, hóa Quần sinh nhi Quảng hành Thập thiện; Linh thông mạc trắc, Diệu trí nan lường. Tinh la kì bố ư Quần phương, Vũ thí Vân hành ư Bát cực, tham tùy Tam bảo, Quản chưởng chư Thần.
Cung duy: Đại thiên Giới chủ Ma hê Thủ la Thiên vương; Trung thiên Giới chủ Đại Phạm Thiên vương; Tiểu thiên Giới chủ Thích đề Hoàn nhân Thiên vương; Thiên phủ chí tôn Hiệu thiên Kim quyết Ngọc Hoàng Thượng đế; Thái thượng Tam thanh, Tam phẩm Tam quan, Cửu đế, Thượng phương Đao lợi Thiên vương, Hạ phương Chuyển luân Thánh vương; Đông phương Trì quốc Đề đầu Lại tra Thiên vương, Nam phương Tăng trưởng Tỳ lâu Lặc xoa Thiên vương, Tây phương Quảng mục Tỳ lâu Bác xoa Thiên vương, Bắc phương Đa văn Tỳ Sa môn Thiên vương; Vô Sắc giới trung Tứ không Tứ thiên Thiên đế; Sắc giới Tứ thuyền Nhất thập bát Thiên Thiên đế; Dục giới Thiên trung Lục thiên Thiên đế; Nam cực, Bắc đẩu, Trường sinh, Tử vi Đại đế; Tả Nam tào Lục ty Diên thọ Tinh quân, Hữu Bắc đẩu Cửu Hoàng Giải ách Tinh quân; Nhị thập Bát tú, Thập nhất Liệt diệu Tinh quân; Thập nhị Cung phận tôn Thần, Trai chủ hợp Gia sở thuộc Bản mệnh Nguyên thần Chân quân. Phả cập mãn Thiên Tinh đẩu, Hà hán Vạn tượng Cao chân, chủ Thiện phạt Ác; đẳng chư Thần vương, Đại Biện tài Thiên nữ; tận Thiên phủ hữu cảm chi Linh chi, biến Thượng giới vô biên chi Hiền triết.
Cung duy: Địa phủ chí tôn Bắc âm Phong đô Đại đế, Địa phủ U ty Thập điện Từ vương, Đạo Minh Hòa thượng, Đại Biện Trưởng giả, Vô độc Quỷ vương, Địa phủ Tào liêu U âm Chúa tể. Cung duy: Thủy phủ chí tôn Phù tang Cam lâm Đại đế Tứ độc Giang hà Hoài hải Quảng nguyên Đại vương; bát Đại Long vương cập Thủy phủ chi trung, Long cung quyến thuộc, Thủy thấp Tinh linh, Duyên giang Bát thập, Tứ miếu Thần kì; tận Thủy phủ Nhất cảnh Thần quân, nhất thiết chư tư Chân tể. Cung duy: Dương phủ chí tôn Đông nhạc Thiên tề Nhân thánh Đế quân cập Dương phủ Môn hạ, Thất thập nhị ty, Thành Hoàng Xã miếu, Miếu mạo Uy linh, Hữu đảo Đàn tràng, Huyết thực Thần kì, nhất thiết quyến thuộc tôn Thần.
Phả cập Thiên quan, Địa quan, Thủy quan; Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ, Nhạc phủ; Thượng nguyên Tích phúc Thiên quan, Trung Thiên xá tội Địa quan, Hạ nguyên giải ách Thủy quan, Tam giới Thiên chúa, Tam phủ Công đồng, Tứ phủ Vạn linh; nhất thiết Uy linh Bộ chúng.
Duy nguyện: Bảo Dân hộ Quốc đa Linh nghiệm, Nhân thiên Pháp giới đẳng Thụ trì. Thỉnh giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH CHƯ THẦN:
Tái vận Chân hương chí tâm Cung thỉnh: Nãi Thánh nãi Thần, chí Tinh chí Túy. Thính phất văn nhi thị phất kiến, phù Nhật Nguyệt chi Dung quang. Kiến hồ ẩn nhi hiển hồ vi, liệu Càn Khôn chi bí tiết, ứng vật tự giang ấn nguyệt, kiến cơ như ảnh tùy hình. Kim niên Kim nguyệt, Kim nhật Kim thời, Hư không Quá vãng, Thần tiên Tứ trực Công tào, Ngũ phương Sứ giả, Trì phán Đồng tử, Dẫn đạo Tướng quân, Kim niên Đương niên Hành khiển Linh thần; Thiên hạ Thành Hoàng Chúa tể Cửu châu Ty quan Nhất cảnh Đương cai, Quốc gia Châu huyện, Bản phủ Bản cảnh Bản thổ Đương cảnh Thành Hoàng, Đương cai Xã lệnh thủ Thổ chi Thần, Phụng tự, Phật đường, Gia đường (Hợp tự…) tự phụng.
Hương hỏa Hữu cảm, nhất thiết minh Thần, Môn thừa Hộ úy, Tỉnh táo Linh quan, Tự vũ Kiểm đề, Thổ địa Giám trai, Đại sĩ Sứ giả, Kiên lao Địa thần; Pháp duyên Hữu cảm, hữu phân Phương thốn, vô lượng Thần kỳ, thị Thánh thị Phàm, viết U viết Hiển, Thần gia trấn tọa nhất thiết các cấp quyến thuộc chư tư Bộ chúng.
Cung thỉnh: Chư vị Ngũ đế Ngũ thổ Ngũ phương, Sơn thần Thổ công, Thổ thần Thổ phủ, Thổ địa Thần kỳ, Vạn phúc Phu nhân, chư đẳng gia Thần, Thổ gia quyến thuộc cập Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Táo công Bản gia Định phúc Chính thần, Táo phủ chư tinh, Táo gia quyến thuộc; phả cập Phục long, Đằng xà, Thanh long Bạch hổ, Chu tước Huyền vũ; Tứ phương Bát hướng, Cửu cung Bát quái, Nhị thập tứ Sơn, Nhị thập tứ Hướng, Nhị thập tứ Khí, Nhị thập bát Tướng, Thất thập nhị Hầu, Long mạch Long Thần; Địa phương Địa chủ, Tiếp dẫn tài Thần; Chúa cảnh Bản thổ, Bản xứ, Chúa đất Phúc đức Chính thần; Lục giáp Cấm kị, Thập nhị Thời thần, Môn đình, Hộ mạch, Tỉnh giáo, Tinh lộ… Tứ duy Lục hợp, Đạo lộ Thần quan, Đường thượng Hộ trung, Hỗn biên chi Thần; phả cập nhất thiết chư vị tôn Thần thượng Thiên hạ Địa, Nội ngoại Trạch thổ, Thần gia trấn tọa, nhất thiết Uy linh chư tư Bộ chúng.
Cung thỉnh: Tự Từ thần, Đàn thần, Miếu tháp thần, Xá trạch Thần, Vân thần, Vũ thần, Lôi thần, Chấn thần, Điện thần, Phong thần, Hư không Thần, Thủy thần, Hỏa thần, Hải thần, Ba thần, Hải Triều thần, Hà chiểu Thần, Giang hải Thần, Tuyền nguyên Thần, Khê thần, Hồ Đàm thần, Trì thần, Nguyên khí thần, Linh khí thần, Thổ thần, Địa thần, Sa thần, Sa khoáng thần, Kim thần, Lâm thần, Lâm Khí thần, Thụ thần, Dược thảo thần, Thảo mộc thần…. cập nhất thiết chư tư Bộ chúng.
(Thỉnh cúng Tạ mộ: Ngũ phương Ngũ đế Thủ mộ Thần quân; Thủ quan Thủ mộ Thủ hình Thủ cốt Thần quân, Đương phương Thủ sứ nghĩa trang…).
Duy nguyện: Hà sa chư Thánh đằng vân tập, ức triệu Tôn thần giá vũ lai, giáng lâm Pháp hội, chiêm ngưỡng Thế tôn, thủ hộ Đàn tràng, thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH HỘI ĐỒNG THÁNH MẪU:
Tái vận Chân hương chí tâm cung vọng: Đệ nhất Thiên tiên Cửu trùng Thiên Thanh vân Tiêu Huyền nữ Thánh mẫu. Đệ nhị Địa tiên Quỳnh hoa Dung Liễu Hạnh Thánh mẫu. Đệ tam Thủy tiên Xích Lân Long nữ Bạch ngọc Động đình Thủy tinh Thánh mẫu. Đệ tứ Nhạc tiên Thượng ngàn Lê Mại Bạch anh Quản trưởng Sơn lâm Thánh mẫu.
Chí tâm bái thỉnh: Thiên đình, Địa phủ, Thủy cung, Thượng ngàn Ngũ vị Hoàng Thái tử Vương quan. Thượng thiên, Địa tiên, Thủy cung, Nhạc cung Tứ ban Khâm sai Công chúa, Tứ phủ Thánh Hoàng, Tam thập lục Thần nữ, Lục thập Hoa giáp Thần nương, Bát bộ Sơn trang, Thập nhị Tiên nàng, Hoàng triều Hoàng quận, Hội đồng Sơn trang Tiên cô, Hội đồng Thánh cô Thánh cậu, phả cập nhất thiết Tả hữu Công đồng, Liệt vị Bách quan, chư tư Bộ chúng.
Duy nguyện: Giáng Phúc lưu Ân chiêm vũ lộ, trừ Tai tống Ách bảo Bình an, thỉnh giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức. Hương hoa thỉnh.
ooo
ĐƯỜNG THỈNH HỘI ĐỒNG TRẦN TRIỀU:
Tái vận Chân hương chí tâm cung vọng: Đông A hiển Thánh, Nam nhạc giáng Thần; cung tự Trần vương vận cổ xưng dương Thánh đức – Long công Thịnh đức Vĩ liệt Hồng huân – Thượng đẳng Tối linh Thần Thái phu Thượng phụ Thượng Quốc công Bình Bắc Đại Nguyên súy Nhân vũ Hưng đạo Ðại vương, Trần triều khải Thánh An sinh Hiển Hoàng Khâm minh, An sinh Thiện đạo Quốc mẫu nhị vị Đường tông Đại vương. Vương phi Nguyên từ Quốc mẫu Đại vương.
Cung duy: Trần triều Vương tử Khai Quốc công Hưng Vũ Đại vương, Hưng Hiến Đại vương, Hưng Nhượng Đại vương, Hưng Chí Đại vương. Trần triều Điện súy Thượng Chiêm cảm Hùng văn Đại vương. Vương nữ Thiên Thành Quyền Thanh Công chúa, Vương dưỡng nữ Đại Hoàng Công chúa, Vương nữ Tôn thuận Thánh Bảo từ Hoàng hậu, Vương nữ Ngoại tôn Tĩnh Huệ Công chúa. Phả thỉnh: Nam Tào Bắc Đẩu, Dã Tượng Yết Kiêu, Vương tế Vương tôn, Tả hữu Công đồng Văn quan Võ tướng, Liệt vị Bộ hạ LInh quan, Gia tướng Gia thần cập Trần triều tông Thần, Hoàng thân Quốc thích, Tả hữu Giám đàn, nhất thiết Bộ chúng.
Duy nguyện: Nam bang hiển Thánh, Việt địa giáng Thần, hằng An dân kế thế chi Công, uy sát Quỷ tà chi Diệu, thỉnh giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
000
ĐƯỜNG THỈNH CHƯ THÁNH, CHƯ THẦN VIỆT NAM:
Tái vận Chân hương Chí tâm phụng thỉnh: Sơ đại Nam Việt Thủy tổ Thần nông Xã tắc Đại vương, Nhị đại Nam Việt Thủy tổ Viêm đế Đại vương, Tam đại Nam việt Thủy tổ Đế Minh Đại vương, Vụ Tiên Thánh mẫu Đại vương; Xích Quỉ Kinh Dương Vương Đại vương, Động Đình Thần Long Thánh mẫu Đại vương, Lạc Long Quân Thánh phụ Đại vương, Âu Cơ Thánh mẫu Đại vương, Thập bát Hùng vương Đại vương, Phù Đổng Thiên vương Đại vương, Phù tiên Chử đạo Tổ Đại vương; Tam vị Quốc chúa Nam thiên: Tản viên Sơn Thánh Đại vương, Cao Sơn Hiển ứng Đại vương, Quý Minh Uy linh Đại vương.
Phả cập chư vị Thượng đẳng Phúc thần: Trung thiên Bảo quốc Đại vương, Trung lang Tế thế Đại vương, Khai thiên Hộ quốc Thân vệ Tướng quân Đại vương, Thánh Địa lý Tả Ao Đại vương, Đại Thần y Thiền sư Tuệ Tĩnh Đại vương, Đại Thần dược Hải Thượng Lãn ông Đại vương, Quang Trung Thái Tổ Đại vương, Hồ Chí Minh Chủ tịch Đại vương, Võ Nguyên Giáp Đại tướng Đại vương; phả cập nhất thiết các chư vị Việt Nam Đại thánh, Thượng đẳng Tối Linh thần; Đông tây Nam bắc Đường thượng Lịch đại nhất thiết chư vị Thánh tổ, Thánh sư, Tiên hiền Tiên nho, Thần y Thần dược, Tử vi Lý số, Các các Tổ nghệ, Khai dựng Tổ nghiệp, Truyền phát Tinh hoa bách nghệ vạn nghề, nhất thiết Bộ chúng.
Duy nguyện: Bảo an Xã tắc, hộ Quốc tý Dân, Hưng long Thổ phủ, Diệu danh Giang sơn, an Dân tập Phúc, giáng phó Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức, Hương hoa thỉnh.
000
ĐƯỜNG THỈNH GIA TIÊN:
Nhất tâm phụng thỉnh: Thủy Tổ, Tổ chi, Cửu huyền Thất tổ, Tổ cô Hội đồng, Tổ mãnh Hội đồng, Cao cao cao Tổ khảo, Cao cao cao Tổ tỷ, Cao cao Tổ khảo, Cao cao Tổ tỷ, Cao tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ tỷ, (Hiển khảo Hiền tỷ), Thúc bá Huynh đệ, Cô di Tỷ muội, Cô bé Cậu bé Nội ngoại, Tại gia phả cập nhất thiết các chư Chân linh Tiền sinh Hậu hóa, Tảo sinh Tảo lạc, Hữu danh Hữu vị, Hữu danh Vô vị, Hữu vị Vô danh, Vô danh Vô vị, Khuyết danh U danh, Hữu sinh Vô dưỡng, Vô sinh Vô dưỡng… Đường thượng Lịch đại Nội ngoại Tổ tiên …tộc dữ Lục thân Quyến thuộc các thế các đời nhất thiết các chư Chân linh; đẳng đẳng sảng linh, trùng trùng quyến thuộc phả cập Tiền chủ Hậu chủ, Chân linh phảng phất, Y thụ Thảo mộc cư ngụ Trạch thổ.
Duy nguyện: Nội ngoại Tổ tiên, Lục thân Quyến thuộc, các chư Chân linh giáng phó Đàn tràng chiêm ngưỡng Thế tôn, thụ lộc Phật thánh, Quy y Tam bảo, thính Pháp văn Kinh, siêu đăng Giác ngạn, vãng sinh Tây phương Cực lạc.
000
(Đường thỉnh dưới đây chỉ thỉnh khi cúng ở chùa, đền đình, ở gia trung không được cúng mà tiếp ngay vào đoạn: Thượng lai phụng thỉnh, ký hạ Quang lâm, An tọa Chân ngôn, cẩn đương trì tụng…Trang 14)
000
ĐƯỜNG THỈNH TĂNG NI, CƯ SĨ, THẦN HẬU, TRĂM HỌ, CHÚNG SINH:
(không cúng tại tư gia nhà riêng)
Nhất tâm phụng thỉnh: Viên minh Pháp tính Vô sinh diệt, Tụ tán phù Ân hữu lậu thân, Nhất thể Linh quan Hồn nhiên tại, Đường đường đối nhãn thị tư nhân. Chân tục Nhị đế Cao đê, Tứ chúng Bật sô Thụ kí tảo đăng giải thoát chi Môn; Thiện tín Quy đầu, dĩ vãng Tiêu dao chi Cảnh.
Cung thỉnh: … tự Tiền hậu khai sáng Già lam, Tỷ khiêu Tỳ khiêu Ni, Thức sao Ma la, Sa di Tăng, Sa di Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phả cập Tăng gia Thí chủ, Tạo tượng đúc chuông, Sửa chùa in kinh, Chúc cơ lập tự, Ký địa ký điền, Sinh tiền ký hậu, Đa thiểu, tùy duyên Công đức. Phả thỉnh các Tông Pháp phái, Thiền tông Pháp quyến, Tịnh hạnh Tiêu vong, nhất thiết truy lưu Đẳng chúng.
Kiền thỉnh: Đa sinh Phụ mẫu Lũy thế gia lương, Thất tổ Cửu huyền, các phái Tổ tiên, chư vị Phật hậu, các Thế các Đời chư vị Liệt sĩ, Anh hùng Thân mẫu; Tiền vong hậu hóa, Hữu danh Vô vị, Hữu vị Vô danh, Đẳng đẳng sảng linh, Trùng trùng quyến thuộc chư gia Tộc tính. Phả cập: Pháp giới Oan thân, Tam đồ Lục đạo, Thập loại Cô hồn Nhất thiết truy lưu đẳng chúng.
Duy nguyện: Đại thánh Khải giáo A Nan đà Tôn giả, Tiêu diện Diệm nhiên Đại sĩ tiếp dẫn Chúng sinh Đông Tây Nam Bắc, Tứ phương Thượng hạ, Nam nữ Đẳng chúng Chúng sinh, Cô hồn. Thừa Tam bảo chi Diệu lực, trượng Bí mật chi Chân ngôn, lai đáo Đàn tràng, Chiêm ngưỡng Thế tôn, thụ Trà hưởng Thực, đồng thụ Cam lộ vị, thính Pháp văn Kinh, lĩnh triêm Công đức, đốn Thức Tham Sân Si, cần tu Giới Định, Tu hàm thoát khổ luân, Siêu đăng Giác ngạn, chứng minh Công đức. Hương hoa thỉnh.
oooooooooo
Thượng lai phụng thỉnh, ký hạ Quang lâm, An tọa Chân ngôn, cẩn đương trì tụng.
000
Chư Phật, Bồ tát hiện Chân hình – Hộ pháp Long thiên ứng khẩn tình
Vạn Thánh Hiền, Thiên lai giám cách – Bất sả Từ bi tác Chứng minh.
000
Nam mô Vân Lai tập Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Ân cần phụng thỉnh: Phật Pháp Tăng, Tam bảo, Thiên Địa Thủy Vạn linh, lượng Phật Thánh dĩ Từ bi, nguyện thùy lân nhi cảm ứng. Cung vọng: Thập phương Tam bảo, chư Phật Thế tôn, Hộ pháp Long thiên, vô biên Thánh triết, chư Thánh chư Thần; thị nhật (dạ) kim thời bất sả Từ bi, Quang giáng Đàn tràng thụ tư cúng dàng, chứng minh Công đức.
Nam mô An Bảo tọa Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Nam mô An Vị tọa Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
Dĩ kim Đệ tử Trai chủ đồng Gia quyến đẳng (Hương thôn…) kiền cụ Hương hoa Đăng trà Quả thực Lục cúng phỉ nghi, cẩn đương phụng hiến.
ooo
BIẾN THỰC CHÂN NGÔN:
Nam mô Sa rva Ta tha ga ta A va lô ki tê. Ôm. Sam ba ra Sam ba ra Hum. (3 b)
ooo
CAM LỘ THỦY CHÂN NGÔN:
Nam mô Sô rô Ba da – Ta tha ga ta da. Ta đi da tha:
Ôm. Sô rô Sô rô – Ha ra Sô rô – Ha ra Sô rô. Sva ha. (3 lần).
ooo
Thử Thực sắc Hương vị thượng cúng Thập phương Phật, trung phụng chư Thánh hiền; hạ cấp Lục đạo phẩm đẳng thí vô sái biệt, tùy duyên giai Báo mãn. Năng linh Thí giả đắc vô lượng Ba la mật. Tam đức, Lục vị cúng Phật cập Tăng, Pháp giới Hữu tình phổ đồng cúng dàng.
Ôm. Ga ga na – Sam ba va – Va di ra. Hôt. (3 lần)
Nam mô Phả Cúng dàng Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
Khể thủ Bạc già phạm, viên mãn Tu đa la, Thượng thừa Bồ tát tăng Công đức nan tư nghị. Ngưỡng duy Tam bảo, chư Phật Thế tôn chứng minh Công đức.
Nam mô Phật đà gia. Nam mô Đạt ma gia. Nam mô Tăng già gia.
Nam mô Đa bảo Như lai. Nam mô Bảo thắng Như lai. Nam mô Diệu sắc Thân Như lai.
Nam mô Quảng Bác thân Như lai. Nam mô Lý Phố úy Như lai.
Nam mô Cam Lộ vương Như lai. Nam mô A di đà Như lai.
Duy nguyện: Thường trụ Tam bảo, Thập phương chư Phật, Bồ tát Hiền thánh, chư Thiên, tôn Thần bất xả Từ bi vị tác Chứng minh cúng dàng.
000
Dĩ tất cụ hữu Đầu từ kim đương tuyên độc (Mật đảo). (Tuyên sớ)
Thượng lai Sớ văn tuyên đọc dĩ chu. Văn sớ, Kim ngân đối Đàn tiền dụng bằng phó lô thiêu hóa. (Hóa sớ)
(Cúng Phóng sinh)
ooo
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH:
Nam mô Bát nhã Ba la Mật đa Tâm kinh. Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời chiếu kiến Ngũ uẩn giai Không – độ nhất thiết Khổ ách. Xá lợi tử! Sắc bất dị Không – Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không – Không tức thị Sắc; Thụ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.
Xá lợi tử! Thị chư Pháp – Không tướng; bất Sinh – bất Diệt, bất Cấu – bất Tịnh, bất Tăng – bất Giảm. Thị cố Không trung vô Sắc; vô Thụ, Tưởng, Hành, Thức; vô Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý; vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn giới… nãi chí vô Ý thức giới; vô Vô minh diệc vô Vô minh tận… nãi chí vô Lão, Tử diệc vô Lão, Tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệc vô Đắc dĩ vô Sở đắc cố.
Bồ đề Tát đỏa y Bát nhã Ba la Mật đa cố, Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo, mộng tưởng; cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la Mật đa cố đắc A nậu Đa la Tam miệu Tam Bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la Mật đa thị Đại Thần chú, thị Đại Minh chú, thị Vô Thượng chú, thị Vô Đẳng đẳng chú; năng trừ nhất thiết Khổ, Chân thực bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la Mật đa chú; tức thuyết chú viết:
Ga tê Ga tê – Pa ra Ga tê – Pa ra Sam Ga tê – Bô đi. Sva ha. (3 lần)
ooo
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC:
Phật từ quảng đại, cảm ứng vô sai, Tịch quang Tam muội biến Hà sa, nguyện bất ly Già da, Phúc đẳng Trai gia, Kim địa dũng Liên hoa.
Nam mô Tăng Phúc tuệ Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
ooo
Cúng Phật, Thánh thần Công đức Thù Thắng hạnh. Vô biên Thắng Phúc giai Hồi hướng, phổ nguyện trầm nịch chư Hữu tình, tốc vãng Vô lượng Quang Phật sát. Hồi hướng Nhân duyên Tam thế Phật, Văn thù, Phổ hiền, Quán Tự tại… Nguyện dĩ thử Công đức phổ cập ư nhất thiết; Ngã đẳng dữ Chúng sinh giai cộng thành Phật đạo. Thập phương Tam thế nhất thiết Phật, chư tôn Bồ tát Ma ha tát, Ma ha Bát nhã Ba la mật. Tứ sinh Cửu hữu đồng đăng Hoa tạng Huyền môn. Bát nạn, Tam đồ cộng nhập Tỳ lư Tính hải.
Nam mô Sa bà Thế giới Tam giới Đạo sư Tứ sinh Từ phụ Nhân Thiên Giáo chủ
Thiên bách ức Hóa thân Bản sư Hòa thượng Thích ca Mâu ni Phật. (3 lần)
ooo
TAM QUI, HÒA NAM THÁNH CHÚNG:
Tự quy y Phật, đương nguyện Chúng sinh – Thể giải Đại đạo, phát Vô thượng Tâm. (1 lễ
Tự quy y Pháp, đương nguyện Chúng sinh – Thâm nhập Kinh tạng, Trí tuệ như Hải. (1 lễ)
Tự quy y Tăng, đương nguyện Chúng sinh – Thống lý Đại chúng, nhất thiết Vô ngại. (1 lễ)
ooo
Nguyện dĩ thử Công đức – Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ Chúng sinh – Giai cộng thành Phật đạo.
ooo
Thượng lai Sám tạ hiến cúng Phật thánh, Tôn thần Công đức vô ngần, Lương nhân khể thủ, Hòa nam Tam tôn Thánh chúng. Đệ tử, Trai chủ (Đồng gia, … tộc…) Chúng đẳng kiền thành Tạ lễ Phật, Thánh, Tôn thần; Tam bái./.
ooo
QUAN KIM NIÊN HÀNH KHIỂN 1 GIÁP 12 NĂM
Năm Tý: Chu vương Hành khiển, Thiên ôn Hành binh chi thần, Lý Tào phán quan.
Năm Sửu: Triệu vương Hành khiển, Tam thập lục Thương Hành binh chi thần, Khúc Tào phán quan.
Năm Dần: Ngụy vương Hành khiển, Mộc tinh Hành binh chi thần, Tiêu Tào phán quan.
Năm Mão: Trịnh vương Hành khiển, Thạch tinh Hành binh chi thần, Liễu Tào phán quan.
Năm Thìn: Sở vương Hành khiển, Hỏa tinh Hành binh chi thần, Biểu Tào phán quan.
Năm Tỵ: Ngô vương Hành khiển, Thiên hao Hành binh chi thần, Hứa Tào phán quan.
Năm Ngọ: Tần vương Hành khiển, Thiên hao Hành binh chi thần, Ngọc Tào phán quan.
Năm Mùi: Tống vương Hành khiển, Ngũ đạo Hành binh chi thần, Lâm Tào phán quan.
Năm Thân: Tề vương Hành khiển, Ngũ miếu Hành binh chi thần, Tống Tào phán quan.
Năm Dậu: Lỗ vương Hành khiển, Ngũ nhạc Hành binh chi thần, Cự Tào phán quan.
Năm Tuất: Việt vương Hành khiển, Thiên bá Hành binh chi thần, Thành Tào phán quan.
Năm Hợi: Lưu vương Hành khiển, Ngũ ôn Hành binh chi thần, Nguyễn Tào phán quan.
https://taaonamtri.wordpress.com/201...anh-bach-than/
-
Thăm chùa Liên Hoa trước thềm Đại hội Phật giáo Cà Mau
(PGVN)
Thực ra Liên Hoa tự là ngôi chùa lớn thuộc huyện Đông Hải, Bạc Liêu, song vị trụ trì ở đây đương nhiệm Trưởng BTS Phật giáo tỉnh lân cận, Cà Mau - Ủy viên HĐTS, TT.Thích Huệ Thành.
Tôi có vinh dự được Thầy thượng tọa tiếp không phải lần đầu. Thầy thường dẫn đầu đoàn Ban Trị sự tỉnh dự các sự kiện ở Văn phòng II Giáo hội ở quận 3 Tp.HCM và có lần tôi thọ chay cùng thầy ở nhà ăn Thiền viện Quảng Đức.
Chùa Liên Hoa là kiến trúc tương đối cổ, và lớn. Phần cổ thuộc công trình chùa cũ vốn do người cô ruột đã viên tịch của thầy thượng tọa trụ trì, có từ thời chiến tranh, một phần kiến trúc cũ nay vẫn được bảo quản và hương khói, nằm ở mặt tiền hướng ra Quốc lộ 1. Công trình hoành tráng được coi là lớn nhất trong các cơ sở Phật giáo tỉnh Bạc Liêu hay cả Cà Mau gồm các khối: tòa chính điện 2 tầng, nhà vãng sinh, tăng ni xá... xa xa, vượt qua con đường làng nhỏ xíu cắt ngang khuôn viên đất chùa, nơi được quy hoạch thành một nghĩa địa thuộc chùa quản lý, sau hồ nước rộng.
Nhiều lần đến chùa chiêm bái hành hương và có nghỉ lại ở phòng khách, tôi vẫn bị chút choáng khi xem đi xem lại hình ảnh quay bởi thiết bị bay trên không ở độ cao thấp, Liên Hoa tự khá đẹp. Diện tích rộng, vị thế tốt, lịch sử tồn tại dài. Duy hạn chế ở sinh thái bản địa nước mặn và do vậy thảm thực vật nghèo. Khi cây cầu Công Lý do công ty cùng tên tài trợ khánh thành cách đây mấy năm, kết nối quốc lộ bên kia với đất chùa bên này kênh đào 16, hành hương của phật tử thuận lợi hơn rất nhiều nếu so với gian nan qua phà khi trước.
Tôi vượt chặng đường khá dài nếu so với sức xe đạp còm, đến Liên Hoa vào hôm qua, 11/09/2017, sau khi đọc tệp văn bản gửi từ một ủy viên Ban Thông tin Truyền thông T.Ư của Giáo hội về những khó khăn và trăn trở khi hai tỉnh quê nhà chưa tổ chức được Đại hội Phật giáo cùng một loạt tỉnh thành trong toàn quốc. Văn bản giàu thông tin, chi tiết và biểu cảm nỗi lo của người trong cuộc.
Thầy Thượng tọa trụ trì Liên Hoa bên này con kênh thuộc tỉnh Bạc Liêu nhưng gánh trọng trách Trưởng Ban Trị sự tỉnh dưới kia, Cà Mau. Thầy vừa về từ Thiền Lâm tự của ni thuộc trách vụ quản trị, mệt và tiếp khách vội vàng. Khi tôi hỏi về Đại hội, thầy chỉ gật đầu xác nhận và đi nghỉ, ý định phỏng vấn sâu để viết về Liên Hoa không thành.
Nhưng, tôi gặp may, Liên Hoa tự đang bước vào ngày thứ 2 của khóa tu Phật thất. Thời pháp của TT.Thích Huệ Thành ở tầng 2 chính điện có tính tổng hợp, về vãng sinh và pháp môn niệm Phật. Khoảng gần 100 phật tử, chủ yếu là nữ, trang nghiêm lắng nghe. Trận mưa lớn vừa tạnh, vị Thượng tọa thuyết giảng không cần micro, không có hỗ trợ khuyếc đại, tự nhiên song vẫn sang sảng.
Ngoài hành lang tôi tiếp chuyện một vị ni và được biết đây là kỳ Phật thất thứ 84, “số lượng tham dự viên vơi dần”- vị ni thiệt tình chia sẻ. Chùa thỉnh sư cho các khóa tu 7 ngày và một danh sách những giảng sư nổi tiếng được xướng lên bởi vị ni Thích Trí Huệ, Thích Phước Tiến... Trong một tuần tu học, các phật tử chuyên tâm vào thời khóa gồm hành thiền, nghe pháp, niệm Phật... hậu cầu được cúng dường và nhân lực đủ đảm bảo. Hai tháng một kỳ, 6 khóa tu cho một năm, duy trì. Thành tích này đáng ngưỡng mộ, và có thể tin nhờ vào vị thế một ngôi chùa lớn như Liên Hoa tự. Điều kiện để duy trì các khóa tu như thế ở tỉnh xa xôi như thế không có nhiều chùa làm được.
Có lẽ công tác chuẩn bị Đại hội Phật giáo Cà Mau đang xúc tiến khẩn trương, và cả Bạc Liêu nữa. Nhưng ở Liên Hoa tự hôm qua tôi chứng kiến sự tu học khẩn trương và khả năng thuyết pháp của vị Thượng tọa khả kính Thích Huệ Thành trong tiết trời lất phất.
Một duyên may...
Nguyễn Thành Côn
http://phatgiao.org.vn/Images/Conten...-Ca-Mau-10.jpg
http://phatgiao.org.vn/chua-viet/201...-Ca-Mau-28340/
-
Mực chu sa pha sẵn,thể tích 60ml. Giấy hoàng chỉ dùng vẽ bùa,phù ....khổ A4 ( 21x27cm)
Chi tiết vui lòng ib,xin cảm ơn !
https://www.facebook.com/banthienlin...20888457961729
-
Sách Phương Tiện Thông Dụng Khoa GỒM CÁC KHOA CÚNG: ( giá vui lòng ib ,xin cảm ơn ! )
1. Năm lời khuyên chân thành
2. Sáu mươi năm thái tuế
3. Ngũ hành và các ứng dụng trong phong thủy
4. Nghi thức tang lễ
5. Nghinh sư duyệt định khoa
6. Cúng tổ, giác linh tổng khoa
7. Khoa cúng phật ngắn
8. Cúng phật đại khoa
9. Khoa cúng tiếp linh
10. Khoa cúng triệu linh
11. Khoa cúng cơm thông dụng
12. Khoa cúng đức ông
13. Khoa cúng gia tiên
14. Khoa cúng phục hồn ba ngày
15. Khoa cúng tống thần, trừ trùng tang
16. Nghi thức xả tang
17. Khai huyệt pháp
18. Khoa cúng mụ đầy tháng
19. Khoa cúng tiểu nhi phạm giờ quan sát
20. Văn khấn trung thiên
21. Khoa cúng động thổ sửa sang phần mộ hay sang cát
22. Khoa cúng tạ mộ
23. Lê tạ thần linh khi hạ huyệt xong
24. Lễ tạ thần linh ở nhà hỏa táng
25. Khoa cúng về nhà mới
26. Khoa điền hoàn long mạch
27. Khoa cúng động thổ cất nóc
28. Văn cúng khai trương cửa hàng
29. Khoa cúng trầm lịch
30. Khoa chiêu hồn lập mộ
31. Khoa cúng giải ác mộng
32. Khóa lễ vô thường
33. Khoa cúng trình xe
34. Khoa cúng trai thiên
35. Khoa úng chúng sinh
36. Nghi thức phóng sinh
37. Khoa cúng tạ đàn
38. Phụ lục tạp tiếu chư văn
39. Các văn khấn
40. Xem tướng người
41. Xem tướng mặt người
42. Xem tuổi lấy vợ chồng
43. Tham khảo xem sinh trai hay gái
44. Xem lục nhâm tẩu mã
45. Xem tiều nhi có phạm giờ quan sát
46. Điếu văn viếng phật tử vãng sinh
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...62979870_n.jpg
https://www.facebook.com/banthienlin...20888457961729
-
Chiêm tinh gia Huỳnh Liên chuyên xem vận mệnh, tướng số tử vi lại tái sinh?
06:01 10/11/2013 5 Mai Phụ
Chia sẻ
ANTĐ Những năm 1960, đất Sài Gòn - Chợ Lớn có một ông thầy tướng số nổi danh. Đó là thầy Huỳnh Liên hay người đời thường gọi là chiêm tinh gia Huỳnh Liên. Không chỉ nổi danh về tài tướng số, ông là một trong những người soạn nhiều sách tướng số, tử vi, cũng như sách xem bói các loại. Hiện nay trên các sạp báo, quầy sách bầy bán vỉa hè, không khó gì để tìm mua được những quyển sách bói toán tướng số, xem tử vi, tuổi hợp hôn… có in tên tác giả Chiêm tinh gia Huỳnh Liên mới cóng, do các nhà “xuất bản lậu” ấn hành.
ảnh 1
Ông thầy tướng số một thời nức tiếng Sài Gòn
Ngày nay, đến khu vực Chợ Lớn cũ, nay là chợ Bình Tây, nhiều người Hoa buôn bán ở đây còn kể lại sự việc năm Nhâm Tý (1972), dưới thời chính quyền Sài Gòn, Giám đốc Việt Tấn Xã, Đại tá Trần Văn Lâm đã long trọng mời ông thầy Huỳnh Liên lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia. Không những thế, thời ấy, trên nhiều tờ báo lá cải còn có mục xem tướng số do thầy Huỳnh Liên phụ trách. Người đến xem tướng số, tài vận… ở nhà thầy cứ nườm nượp. Đặc biệt, nhiều chính khách còn đến nhờ thầy bấm độn, coi tướng, xin những lời khuyên để thay đổi tướng mạo cho được công thành danh toại hơn.
Do tạo được danh tiếng, trong những năm này thầy Huỳnh Liên làm ăn phát đạt bởi nghề tướng số. Thầy Huỳnh Liên không chỉ có ngôi nhà lớn tọa lạc trên đường Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ) mà còn tậu một khu nhà vườn ở làng Vĩnh Phú - Lái Thiêu. Chẳng biết chiêm tinh gia Huỳnh Liên có thể đoán số mệnh và “giải hạn” cho nhiều người như thế nào nhưng cũng có những câu chuyện khiến nhà chiêm tinh này phải thất điên bát đảo vì cái nghiệp tướng số. Bà Hoàng K.O (Phú Nhuận, TP.HCM) cho biết: năm xưa chính một người trong đại gia đình tôi, có đến xin ông Huỳnh Liên để bán một căn nhà ở Phú Nhuận với giá cao như ông nói. Đợi mãi, nhà không bán được, mà cũng không ai đến xem, nên người đóng tiền làm lễ cho ông Huỳnh Liên tìm tới văn phòng của ông đòi tiền lại. Lúc đó văn phòng đang đông khách. Sau một hồi nói qua nói lại, mà vẫn không lấy tiền lại được, người nhà của tôi bực tức, nói: “Tôi nói cho ông biết. Ông làm được thì nói, không làm được thì thôi, đừng lừa bịp chúng tôi. Tôi thách ông có bùa phép gì làm cho tôi chết. Nếu ông ếm bùa mà tôi không chết, tôi đến đốt nhà ông”. Lần đó khách đang ngồi đợi, sững sờ đến ngạc nhiên! Chuyện này cũng đăng đầy trên các báo Sài Gòn xưa.
Dù đoán trước và hóa giải số mệnh cho nhiều người nhưng chiêm tinh gia Huỳnh Liên cũng không thể đoán và hóa giải được cái chết thê thảm của mình về sau. Năm 1975, đất nước thống nhất. Nghề thầy bói bị dẹp bỏ, thầy Huỳnh Liên hứa trước chính quyền và công luận rằng “Từ nay thôi không lừa bịp bà con nữa”. Từ tháng 10-1982 ông về ở hẳn với bà vợ nhỏ tại căn nhà ở Lái Thiêu, Bình Dương. Tuy ở cùng, nhưng thầy Huỳnh Liên không tin tưởng vợ nên luôn giữ bên mình chìa khóa tủ cất tiền, vàng. Một hôm, đường dây điện thoại trên tầng bị hư, ông sai vợ đi gọi hai người cháu của bà lên sửa. Buổi chiều, hai anh thợ điện tới nhà và báo với ông Huỳnh Liên là bà ở Sài Gòn chơi đến mai mới về. Vừa đến nhà, hai anh thợ điện liền đi tới xem xét chiếc xe hơi của ông chủ. Sau đó, họ theo ông chủ lên tầng lo sửa điện. Một lát sau, chị giúp việc bỗng nghe có tiếng động lạ, chị chạy lên thì thấy cảnh tượng hãi hùng. Một người cầm đoạn dây điện ngắn siết chặt cổ ông Huỳnh Liên. Chị bếp bỏ chạy xuống đường và kêu mọi người cứu giúp. Hai tên giết người vội vàng lên xe tháo chạy, bỏ quên cả áo tại hiện trường. Lúc công an đến thì ông Huỳnh Liên đã chết. Tủ cất giấu tiền, vàng của ông vẫn còn nguyên và đồ đạc trong nhà cũng không bị mất món nào. Vậy là chiêm tinh gia cũng khó thoát khỏi số trời đã định!
ảnh 2
Chiêm tinh gia Huỳnh Liên… tái sinh
Số thầy Huỳnh Liên đã không ra gì, có ai ngờ bây giờ vì miếng ăn mà nhiều chiêm tinh gia Huỳnh Liên lại “tái sinh”. Hôm nọ, bà chị dâu tôi đi cúng bái ở đâu về bỗng nhiên thì thầm với vợ tôi về ông thầy tướng số phán như thần ở Khánh Hòa. Vợ tôi cũng bán tín bán nghi, đem chuyện kể lại cho tôi và đưa tấm các vi dít của thầy. Rành rành chữ Huỳnh Liên to tướng ở giữa, ở dưới là chữ CTG (ý là chiêm tinh gia), hai bên ngạo nghễ hai dòng chữ: Bảo toàn chi thuật tri thiên mạng, thiên hạ can chi hợp phá xung, phía trên mấy chữ Hán. Lại còn ghi rõ địa chỉ số nhà, số điện thoại. Bán tín bán nghi, có lẽ nào ông Huỳnh Liên năm nào chết đi nay sống lại. Vợ tôi còn nhất mực khẳng định, mấy cuốn sách tướng số để trong nhà bấy lâu nay là của ông này viết. Thế là chúng tôi quyết định đi tìm sự thật.
Không khó để phóng viên tìm đến nhà CTG Huỳnh Liên tại Xuân Tự, Vạn Hưng, Vạn Ninh, Khánh Hòa. Ngay trung tâm xã, trước một ngôi nhà ba tầng sơn xanh đẹp như một biệt thự có tấm biển lớn đề rõ Thày Huỳnh Liên với rất nhiều chữ Hán to nhỏ vây quanh. Vừa mới ngó mấy chậu cảnh to bự trước nhà, một bà sồn sồn chạy ra. Khi biết chúng tôi tìm đến để xem vận mệnh, bà đon đả: “May cho mấy chú, hôm nay thầy có nhà. Mọi ngày giờ này thầy còn đi làm việc nghĩa”. Mãi sau chúng tôi mới biết, thầy đi làm việc nghĩa là thầy đi làm thầy cúng. Phòng “làm việc” của thầy nằm ở gian sau, xung quanh ốp gỗ sáng bóng, bàn thờ thần bày lọ bông thơm phức. Thầy “Huỳnh Liên tái sinh” tuy có tuổi nhưng vẫn mạnh khỏe, hồng hào. Chưa ngồi ấm chỗ, thầy đã gõ nhẹ vào chiếc chuông nhỏ đặt trên mặt bàn: Các con xem gì? Tiền vận, hậu vận hay hướng nhà, cưới hỏi, tang ma? Cậu phóng viên mau mắn: Dạ, nhà con bị chuyện chi mà gặp lắm chuyện xui quá, con đến nhờ thầy xem có thư, hay bị ám quẻ gì chăng? Thầy nhìn kỹ cả mấy chúng tôi rồi cười nhếch mép, rồi nói: “Các con đã xem các sách của ta chưa? Nói rồi thầy đẩy về phía chúng tôi cả một chồng sách của tác giả Huỳnh Liên đã mất từ mấy chục năm trước: “Ta chính là chiêm tinh gia Huỳnh Liên, trước giải phóng, ta đã từng xem quẻ cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Quốc vương Lào và Hoàng gia Campuchia, được thưởng tiền và vàng nhiều vô kể”.
Ông Liên còn kể ra nhiều chủ nhà hàng, khách sạn, hãng xe khách... trong và ngoài tỉnh, thậm chí ở tận Hà Nội, TP.HCM nhờ ông cúng mà ăn nên làm ra. Thấy chúng tôi tỏ ra kính phục thầy ra mặt, thầy hỏi tuổi của những người trong gia đình phóng viên rồi đến trước bàn thờ, thắp ba nén hương, lầm bầm khấn vái. Khấn xong thầy lấy hai đồng tiền xem âm dương. Mày nhíu lại, thầy gieo đến ba lần, hai đồng tiền một sấp một ngửa mới hiện ra ở lòng đĩa. Thầy thở phào, nói với phóng viên: “Nhà cậu bị động long mạch, phải cúng sao giải hạn. Chuẩn bị các thứ đi, tuần sau đón thầy vào cúng thì mới tai qua nạn khỏi. Không giải hạn sớm thì nhẹ cũng tán gia bại sản, nặng thì chết người. Trong những ngày chưa giải hạn, cậu tránh cho con gái nhỏ của cậu ra đường. Nhớ nhé”. Quả là thầy có kinh nghiệm dọa người. May là cậu phóng viên chưa có vợ và dĩ nhiên chưa có con. Để rút êm khỏi nhà thầy, chúng tôi đặt tờ 200.000đ lên chiếc đĩa trên bàn thờ và xin phép ra về. Ra đến cửa phòng thờ thầy còn ân cần dặn mua và chuẩn bị lễ cho thầy vào cúng. Phần thầy thì tùy lòng gia chủ, nếu khó khăn thì vài triệu cũng được. Nghe các thứ thầy kê ra, có lẽ lễ cúng này phải mất ít nhất 5 triệu, chưa kể tiền cho thầy và chi phí đón và đưa thầy về. Dĩ nhiên là chúng tôi không bao giờ đón thầy rồi.
Chỉ mới đi một vòng quanh khu vực thầy “Huỳnh Liên tái sinh” chúng tôi đã được nghe nhiều chuyện lừa đảo của thầy. Tin vào lời thầy phán, nhiều gia đình phải bấm bụng chi cả chục triệu đồng để làm những lễ cúng giải hạn. Bà P.T.H.T (phường Vĩnh Nguyên, TP Nha Trang) là một trong số những nạn nhân gần đây của “thầy” Huỳnh Liên. Khi quán phở của mình đang trong giai đoạn ế ẩm, lại nghe người giúp việc giới thiệu “thầy” Huỳnh Liên rất “cao tay”, bà T. tìm đến nhờ “thầy” giải để làm ăn phát đạt. Sau buổi xem bói, ông Huỳnh Liên đã lấy của bà T. hơn 1,5 triệu đồng. Đồng thời, “thầy” kê lễ và chọn ngày giờ hẹn bà T. phải thuê ô tô đến rước vào cúng. Vài ngày sau đó, một lễ cúng linh đình, được gia đình bà T. tổ chức với đầy đủ những lễ vật. Bà T. ngao ngán kể: “Khi thủ tục cúng bái xong, tôi đem gói thuốc xông nhà để trừ tà ma do “thầy” mang đến đi đốt thì mới té ngửa vì khi mở ra mới nhìn thấy giá được ghi bên trong là 3 triệu đồng. Tổng chi phí cho việc cúng giải hạn mất gần 20 triệu đồng. Từ ngày cúng giải hạn đến nay, mọi thứ chẳng thay đổi gì, hàng quán vẫn ế ẩm”.
Tìm hiểu về lai lịch và việc hành nghề của thầy bói Huỳnh Liên, chúng tôi được biết người này tên thật là Nguyễn Trọng Liên, sinh năm 1930, trú thôn Xuân Tự 1, xã Vạn Hưng. Tuy nhiên, theo bà Trần Thị Thu - Chủ tịch UBND xã Vạn Hưng, việc ông Liên hành nghề bói toán địa phương hoàn toàn không biết. “Chúng tôi sẽ tiến hành kiểm tra xác minh thông tin này, nếu có việc hành nghề mê tín dị đoan, chúng tôi sẽ có biện pháp xử lý”, bà Thu nói.
http://anninhthudo.vn/phong-su/chiem...nh/523649.antd
-
-
Sau đây là cách tính mệnh đơn giản trong dân gian mà nhiều chư vị chưa biết tới : Can + Chi = Mệnh.
Trong đó, các Can có giá trị là:
- Giáp, Ất = 1
- Bính, Đinh = 2
- Mậu, Kỷ = 3
- Canh, Tân = 4
- Nhâm, Quý = 5
Tương tự, giá trị của các Chi lần lượt là:
- Tý, Sửu = 0
- Dần, Mão = 1
- Thìn, Tỵ = 2
- Ngọ, Mùi = 0
- Thân, Dậu = 1
- Tuất, Hợi = 2
Lưu ý : Giá trị của Mệnh là kết quả của Can + Chi (nếu kết quả lớn hơn 5 thì trừ đi 5 để ra mệnh), trong đó:
- Kim = 1
- Thủy =2
- Hỏa = 3
- Thổ = 4
- Mộc = 5
Ví dụ người sinh năm 1980 tức Canh Thân ,ứng với bên trên sẽ là Canh =4.Thân = 1 => 4 + 1 = 5 ứng với Mộc.
Vậy người sinh năm 1980 sẽ mang mệnh Mộc.
Ví dụ người sinh năm 1983 tức Quý Hợi,ứng với cách tính trên sẽ là Quý = 5. Hợi = 2 => 5+ 2 = 7 ( lớn hơn 5 ta sẽ trừ đi 5 ) nên còn lại là 2,ứng với Thủy
Vậy người sinh năm 1983 mang mệnh Thủy
Các năm sinh khác cũng làm tương tự như trên.
https://www.facebook.com/banthienlin...20888457961729
-
Kiến Thức Tâm Linh & Khoa Học Huyền Bí
18 Tháng 6 2017 ·
Sau đây tôi xin Chia sẻ Dương trạch tam thập yếu quyết trong phong thủy ,Dựa vào huyền không phi tinh pháp :
1) Ở thôn quê không khí thông thoáng ,phép lập trạch phải thu cả sơn lẩn thủy thì mới được tốt, Nơi thành thị khí tụ, tuy không có nước để thu mà có nhà lân cận lồi lõm thấp cao, đường xá quanh co rộng hẹp, thấp lõm uốn khúc rộng là thủy, lồi cao thẳng hẹp là sơn .
2) Ai tinh, âm dương trạch ai tinh không khác, lấy nguyên vận thụ khí làm chủ, sơn hướng phi tinh với khách tinh gia lâm làm dụng, âm trạch trọng thủy, dương trạch trọng môn hướng, nhưng môn hướng sở dỉ nạp khí, như ngoài cửa có nước óng ánh,thì tốt hơn đường lộ, suy vượng do thủy, cân nhắc do lý của sao, cũng là không khác vậy.
3) Hướng nhà Hướng cửa, phàm nhà mới xây cất thì hướng nhà hướng cửa quan trọng như nhau, trước tiên từ ngoài nhà mà đoán 6 việc được thất, nếu không nghiệm thì lấy hướng cửa mà đoán thêm, như hướng nhà đoán đả nghiệm thì khỏi đoán thêm hướng cửa, ngược lại nếu đoán hướng cửa đả nghiệm thì khỏi đoán thêm hướng nhà.
4) Hoàn cảnh đường cục, phàm xem dương trạch, trước xem hình thế khí mạch của núi sông có hợp cục không, sau xem lộ đi và chu vi của ngoài 6 việc, nóc nhọn nhà lân cận cột cờ mồ mã chùa chiền cây cối các vật tọa lạc ở tinh cung nào, phân biện suy vượng để đoán cát hung.
5) Cửa cái mở xê bên: phàm dương trạch lấy đầu hướng cửa cái nạp khí mà đoán cát hung, cửa cái mở xê một bên, tức phải dùng hướng cửa và hướng nhà, hợp hai bàn mà xem, ngoại cát nội hung, khó tránh nầy nọ, nội cát ngoại hung, chỉ được khá giả.
6) Nhà lớn cửa nhỏ, phàm nhà với cửa lớn nhỏ phải tương xứng với nhau, nếu nhà lớn cửa nhỏ sẽ không tốt, nhưng hướng nhà hướng cửa sinh vượng thì không sao.
7) Thừa vượng khai môn: phàm nhà củ muốn mở cửa vượng, phải lấy thời gian từ ngày xây cất, phi tinh của vận đó mà suy luận, như vận nhất bạch lập nhâm sơn bính hướng, vượng tinh đáo tọa, không phải nhà tốt,đến vận tam bích mở cửa tại giáp, thì mới hấp thu được vượng khí, vì lúc xây cất hướng thượng phi tinh tam bích đáo chấn,giao vận tam thừa thời đắc lệnh, không phải là chấn tam của địa bàn, nếu khai môn tại mão cũng phài kiêm giáp, mới được khí đồng nguyên của sơn hướng vậy
8) Tân khai vượng môn: phàm nhà củ mở vượng môn sau, phép đoán dùng hướng cửa khỏi dùng hướng nhà, đặt bếp lập phòng cũng dùng hướng cửa mà định vị, tức theo đó trước, là chỉ đại khai vượng môn, nếu như cửa cái bị che lấp, hoặc đóng kín, thì xét phương hướng âm dương thuận nghịch, mà thừa thời lập hướng, như mở cửa nhỏ để thông vượng khí, phải dùng đồng nguyên nhất khí, vẩn theo lúc khởi tạo lập cục hướng nhà mà luận đoán thì được .
9) Vượng Môn bế tắc: phàm sở khai vượng môn, trước mặt có nhà bế tắc, không thể trực đáo, thì mở thêm 1 cửa nhỏ kế bên để thông với vượng môn, tức cửa nhỏ kể như khí con đường thông qua vậy, khỏi cần đặt la bàn xem.
10) Vượng môn nền cao: ngoài cửa vượng môn có nước, vốn là đại cát, nhung nền cửa lại cao hơn nền nhà, tuy có vượng thủy nhưng không thu được, nền cửa cao hơn nội minh đường cũng vậy, như ngoài cửa lộ cao, thì luận cách khác.
11) Lý đồng: trong nhà có hành lang hay đường hẽm u tối, không thấy ánh mặt trời, theo âm khí luận, nếu nhị hắc hoặc ngũ hoàng giá lâm, chủ nhà đó thường thấy ma, dù không có hai sao nhị ngũ cũng vẩn là xấu .
12) Đặt Bếp: Bất luận phương sinh vượng suy tử đều đặt được, nhưng phương sinh vượng tránh được thì nên tránh, lấy cửa lò làm trọng trang thờ thần Táo có thể tùy, cửa lò hướng nhất bạch chủ thủy hỏa ký tế,hướng tam bích tứ lục là mộc sinh hỏa là tốt nhất, hướng bát bạch hỏa sinh thổ trung cát, hướng cửu tử cũng thứ cát nhưng hiềm hỏa quá vượng, lục bạch thất xích không nên hướng vì cửa lò hướng về đó là lúc xây cất nhà hướng thượng phi tinh sống nơi đó, đây là luận về địa bàn cửu tinh mà nói.
13) Nhà xí, Vũng trâu: ô uế hơi thúi không nên để gần, Ngũ hoàng gia lâm sẻ bị ôn dịch, nhị hắc bay đến cũng là bệnh tật, nên đặt phương thối khí nơi xa là thích hợp.
14) Cách Vận xây cất thêm, phàm nhà đồng vận xây cất, cứ lấy nhà chính làm chủ, như vận sau xây thêm phía trước hay sau hoặc bên hong,mà không mở thêm cửa cái,thì dùng vận ban sơ mà luận,không dùng 2 vận mà luận, bằng nhà xây thêm đó có mở cửa cái ra vô riêng thì mới dùng 2 vận mà luận bày, thảng như hậu vận thêm tạo có sửa dờì cửa cái tức toàn bộ nhà đều dùng hậu vận mà luận vậy.
15) Phân phòng bài sam : phàm nhà xây cất vào 1 vận nào, đến vận sau chia làm 2 phòng, vẩn lấy vận ban đầu làm chủ, lại lấy cửa tư của 2 bên mà làm dụng, bởi tinh vận định lúc khởi tạo, không vì phân phòng mà biến động, sau khi phân phòng, các lấy tinh khí cục bộ nơi ở của từng phòng mà suy đoán cát hung, đồng vận phân phòng thì cũng theo như vậy mà suy.
16) Nhiều gia đình ở chung một nhà: nhiều gia đình hay cả chục gia đình ở chung 1 nhà, phép đoán lấy cửa riêng của mổi gia đình làm chủ ,đường các nhà đi qua lại làm dụng, xem đường xa gần suy vượng, tức sẻ biết được thân sơ được mất của khí đó vậy.
17) Phân chia nhà: Nhà qui hoạch thành nội thất, lập cửa riêng tư, thì theo cửa riêng mà tính, nhưng toàn nhà thông nhau liên tiếp, vẩn tính 1 gia đình mà bài, không tính 2 gia đình mà đoán vậy.
18) Gặp tù mà không tù: Vận của hướng tinh nhập trung, như 2, 4, 6, 8 , lớp nhà, tại sao gặp tù mà không tù, bởi trung cung ắt có minh đường, khí trống không có thể luận là nước, hướng tinh nhập thủy nên tù không đặng, nếu 1, 3, 5, 7, lớp nhà trung cung có nhà, nhập trung bèn bị tù, nhưng đầu hướng có nước lóng lánh cũng tù không đặng.
19) Tiệm buôn: Phàm xem tiêm buôn lấy hướng cửa làm chủ, kế đến quầy tiền, thứ nửa là trang thờ thần tài, đều muốn phối hợp sanh vượng, như môn hướng cát, quầy tiền hung, thần tài hung, thì trong cát có tì vết, chủ bạn giúp việc bất hòa hoặc làm trở ngại,cái khí suy hay vượng đều do nơi hướng cửa hấp nạp mà ra.
20) Phương cát hung cao : phương cát của trạch tung cao, khi niên nguyệt phi tinh đến sanh trợ thì càng cát, đến mà khắc tiết thì hung, nếu phương hung cao tung, niên nguyệt phi tinh đến khắc tiết lại thành cát, lai sanh trợ tức hung, đây là nói về sơn thượng long vị ( là chỉ phi sơn tinh đến phương vị đó ).
21) Cây to, tàng tre che khuất: phương vượng của nhà có tàng tre cây to che khuất, chủ không tốt, tàng tre không ngại nhưng cũng phải lưa thưa để thông khí, phương suy tử có cây cối to lớn lại cát.
22) Phương suy nhất bạch: dương trạch phương suy của nhất bạch nhà lân cận có đòn dông hay nóc nhọn chỉa nhằm chủ uống độc tự vận, nếu là đầu thú vật càng nặng .
23) Tài đinh vượng tốt: Tài khí là do nơi hướng thủy hay bàng thủy của trạch, xem vượng tại phương nào gia thái tuế mà đoán lấy,công danh thì xem nhất bạch tứ lục của hướng thượng phi tinh, xem hòn non hoặc tam xoa thủy nơi lưu thần uốn khúc, gia thái tuế hợp niên mạng mà đoán, đinh khí thì xem đương vận sơn tinh nơi tọa mà đoán rất là ứng nghiệm.
24) Lưu niên suy tử đồng lâm với vượng tinh đáo hướng: Dương trạch suy tử đáo hướng là chữ nào, gặp lưu niên phi tinh đáo hướng là chữ nào, ( tức tuế tinh vận tinh đồng lâm ) chủ thương tổn đinh,vượng tinh không đáo hướng của suy trạch, gặp lưu niên vượng tinh đáo hướng, cũng chuyển chủ phát họa, âm trạch đồng đoán, như sanh khí đáo hướng hoặc có thành môn dùng được thì ngoại lệ.
25) Quỉ quái : Phương suy tử nơi ngoài nhà có núi cao hoặc cạnh nóc hay đòn dông nhà, ở trong nhà không nhìn thấy, thì gọi là ám sát, khi vận nhà suy, quẻ âm hiện quỉ , quẻ dương hiện quái, đến lúc Thái Tuế nhật nguyệt thời gia lâm thì ứng, ban sơ xuất hiện có ảnh không hình, sau thì càng rỏ, hoặc dời chổ đồ đạt, hoặc nhát người, cây khô xung xạ, khi vận nhà suy, quẻ âm chủ quỉ, quẻ dương chủ thần, âm dương lẩn lộn chủ yêu quái.
26) Lộ Khí : Đường lộ là nơi dẩn khí đến, suy vượng là do nơi hấp dẫn, cách xa nhà ảnh hưỡng nhẹ, nhưng vẩn kị xung xạ gọi là xuyên sa,có cát có hung âm dương trạch đồng vậy, nhà sát đường lộ, hoặc hẽm trong nhà lại càng quan hệ cát hung,nên đường hẽm trong nhà nên chọn đầu hướng có sao phi tinh sinh vượng, hợp tam ban là cát, còn ngoại lộ, thì luận một cong của đầu đuôi, xét hai đầu của ba uốn, xem phương vị đó thuộc tinh quái nào, nơi cong uốn là khí đến,chổ ngang thẳng là khí ngừng, đó là xem theo đầu hướng cửa mà bài vậy, Thiên Nguyên Ngũ Ca nói , dấm chua không nên rót vào sữa, ý nói nhà cát lộ hung thì sẽ sanh tai họa.
27) Giếng: giếng là nơi nước có nguồn quang khí ngưng tụ mà bốc lên, long thần trong nước sinh vượng phương mà làm văn bút, rơi vào suy tử khắc chủ hung họa, âm trạch cũng luận vậy
28) Tháp: tháp là hình dựng đẹp, gọi tên văn bút, tại phi tinh nơi phương 1 x 4; 1 x 6, nếu đương vận chủ khoa danh, thất vận cũng chủ văn hay, như tại phi tinh phương 7 x 9; 2 x 5, chủ hung tai tác họa, khắc sát đồng đoán, âm trạch cũng vậy.
29) Cầu :cầu tại sanh phương năng thụ ấm, tọa lạc phương suy tử tức chiêu ương, cầu đá ảnh hưỡng mạnh, cầu cây ảnh hưỡng nhẹ, âm dương trạch đoán như nhau .
30) Góc ruộng: chọn chổ có tình ôm lại, kị quay lưng, nhọn chĩa, âm dương trạch như nhau
https://www.facebook.com/banthienlin...38547129529187
-
KHOA LUYỆN QUAN TƯỚNG ( ngũ hổ )
Tuân sắc lệnh truyền
Phật Thánh cung Thiên
Thần con Thỉnh Luyện
Phụng sai Quan Tướng
Cấp Đáo Điện Trung
Hộ Quốc cứu Dân
Linh Linh Bí Chú:
( nhạc )Nam Mô Bộ Bộ Đế , Lỵ Gìa , Lỵ Đá , Lỵ Đát , Đá Nga Đá Ra . ( 7 lần )
Nam Mô Phổ Cúng Dàng Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
Sắc cẩn thỉnh Ngũ Phương ngũ hổ
đại tướng uy linh
Ở trên Thiên Đình
con vua Đế Thích
Đêm ngày hách dịch
cung điện các tòa
Xung đột vao ra t
hần thông dũng mãnh
Ngọc Hoàng sắc lệnh
Thượng Đế gia ban
Ở dưới dương gian
Thạch Bàn chốn ấy
Quan tướng lừng lẫy
có phép thần thông
Dạo khắp Tây Đông
cứu dân hộ quốc
Nay thời có việc
Thỉnh giáng điện trung
Kíp Kíp phong lâm
là tật tốc giáng
Tốc giáng ,Tốc giáng
Hỡi Quan Tướng ơi !
Là tật tốc giáng ( Nhạc Xai )
Ngũ Dinh Ngũ Tướng
Ngũ Hổ Thần Quan
Long Xà Tượng Mã
Tốc Giáng Lô Nhang
Chư Binh Chư Binh
Thủy Bộ Không Binh
Lệnh Kỳ Hiệu Triệu
Tốc Đáo Điện Đình
Đông Phương Giáp Ất Mộc
Thanh Hổ Thần
Tây Phương Canh Tân Kim
Bạch Hổ Thần
Nam Phương Đinh Bính Hỏa
Sích Hổ Quan
Bắc Phương Nhâm Qúy Thủy
Hắc Hổ Quan
Trung Ương Mậu Kỷ Thổ
Hoàng Hổ Quan
Ngũ Phương Ngũ Hổ
Tốc Giáng Lô Nhang
Phong Lôi Vũ Điện
Hiển Sích Đáo Đàn
Quan Quân Tướng Sĩ
Phụng Mệnh Thiên Nhan ( nhạc luyện )
Cẩn thỉnh Ngũ Hổ xưa nay
Con vua Đế Thích đêm ngày vào ra
Chỉ huy các bộ các tòa
Quan quân tướng sĩ đều là trí trung
Thầy tôi phụng sự Thiên Cung
Sắc lệnh cửu trùng điều tướng khiển binh
Cảm phiền các bộ các dinh
Nghe hồi chiêng trống hiển hình thần thông
Khi chơi nước ngược non bồng
Khi vào phủ nội hầu trong Tam Tòa
Hoặc còn đâu đó gần xa
Nay thầy hiệu triệu quan đà ứng lai
Móng vàng vuốt thiết một hai
Răng nhe ngọc thạch tầm loài tà ma
Lông mày dựng tợ ngân hà
Nhãn tinh sáng chói sao xa xanh lè
Quan quân thanh thế trẻ tre
Rầm rầm tứ phướng tức thì chẳng sai
Ngũ hành bát quái đáo lai
Thiên la địa võng bắt loài yêu tinh
Ra tay cứu tử độ sinh
Vạn phù vạn phép anh linh vô cùng
Thầy tôi phụng sự Cửu Trùng
Thỉnh xin quan tướng dốc lòng cùng tôi
Dầu khi có việc tôi mời
Hành trì Pháp Sự tức thời hiển linh
Trừ tà cấp tróc ngục hình
Cứu bệnh cấp hốt độ sinh chớ trì
Dầu ai cầu đảo việc chi
Cấp theo chính Đạo tức thì cho mau
Thầy cùng quan tướng bấy lâu
Trên thờ Phật Thánh quy đầu làm tôi
Nay thời quan tướng y lời
Giáng đàn lẫm liệt theo tôi tùy hành
Đông tây nam bắc rành rành
Năm phương mười hướng tốc linh trợ đàn
Nào là những kẻ dương gian
Điêu ngoa xảo trá những toan hại người
Nào là ma quỷ ở đời
Chết rồi không chịu tái hồi siêu sinh
Mượn vong mượn bóng mượn hình
Giả thần giả quỷ đi hành sinh nhân
Nào là phản quốc tà thần
Không quy Chính Pháp ô luân tham tàn
Bắt ngay nhốt ngục rõ ràng
Lệnh truyền tức tốc không khoan không trì
Trước lấy Phật Đạo khuyến vi
Biết đường quy hối tức thì lại tha
Còn như mánh khóe điêu ngoa
Dối lừa bất phục gian tà vòng quanh
Quan theo Phép Thánh thi hành
Kẹp kìm kéo lưỡi hồn phanh trăm nghìn
Vạc dầu sôi sục nhấn chìm
Thực tà nuốt quỷ biết hình phép linh
Hết đường tà Đạo gian manh
Tướng quan chính pháp trung trinh thủ trì
Bắt hết tà quỷ một khi
Tùy theo tội định tức thì không tha
Thầy tôi phụng cáo Thiên Tòa
Bề trên xem xét khảo tra mọi bề
Thầy tôi bát nước bông huê
Tư tuần lễ tiết quan về chứng minh
Dẫu rằng lễ bạc tâm thành
Đồng tâm hiệp lực anh linh một lòng
Hộ đàn trợ Pháp việc công
Thầy tôi thỉnh luyện quan cùng giúp tôi
Hưng Long Thánh Giáo đời đời
Điện đường linh hiển cứu người dương gian
Dầu quan dạo chốn thượng ngàn
Thiên cung Thủy quốc hay đang non bồng
Lệnh truyền trống mõ điện trung
Tức thời tốc đáo uy hùng giáng lâm
Hiện hình biến tướng phân thân
Không binh thủy bộ ầm ầm phong lôi
Sắc tuân Phật Thánh triệu đòi
Hỡi Quan Tướng ơi ! Là tật tốc giángTốc Giáng , Tốc Giáng là tật tốc giáng
Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần )
https://www.facebook.com/banthienlin...26253014091936
-
* Hộ Phù
Hộ phù gồm có nhiều loại như: gỗ, đá quý, kim loại.
Thông thường người ta hay dùng nhiều nhất là những loại đá quý thiên nhiên, (loại nhân tạo không có tác dụng bằng). Những loại thường dùng nhất là: mã não, cẩm thạch, saphia, hoàng ngọc, ngọc trai.
"Khi Cô Ba Hột Nút tập xong thì có ý làm một công trình để lại trần gian. Đó là hệ thống hoá lại các hộ phù bằng ngọc và đeo ngay huyệt Ngọc Đường."
Vì mỗi loại đá quý phát ra những hào quang khác nhau. Những hào quang này có thể đẩy lui những ác xạ và hỗ trợ cho hào quang của người đeo hộ phù được tốt đẹp hơn, nên những loại đá quý này chữa được một số thân bệnh, đồng thời cũng giúp cho những hành giả tu tập ít bị chướng ngại hơn.
Công dụng của mỗi loại (gồm về thân và về tâm):
1) Cẩm thạch: có màu xanh ngọc
Về thân: chữa bệnh phổi, ruột già.
Về tâm: giúp hành giả tiếp thông tốt hơn.
2) Mã não: có màu đỏ hoặc cam.
Về thân: chữa bệnh tim, ruột non.
Về tâm: giúp tăng lòng từ bi
3) Saphia: có màu xanh dương.
Về thân: chữa bệnh gan.
Về tâm: giảm sân hận.
4) Hoàng ngọc (Topaz): có màu trắng hoặc vàng.
Về thân: chữa bệnh đau đầu
Về tâm: giảm nghiệp sát.
5) Ngọc trai: có màu trắng.
Về thân: chữa bệnh thận.
Về tâm: giảm nghiệp si
6) Ruby: Có màu đỏ
Về thân: Chữa bệnh máu loãng
Về tâm: Ma cà rồng (vampire) - Giảm tình trạng hấp tinh
đại pháp của người bịnh
7) Thạch Anh: Màu tím và trắng
Về tâm: Chữa bệnh thần kinh
(Chú ý: mục 6 và 7 mới thêm vào sau này – HL)
- Trọng lượng: phải nặng từ 3 kara trở lên.
- Vị trí: phải đeo hộ phù tiếp xúc với da và nằm ngay huyệt Ngọc Đường (chính giữa ngực).
Như vậy, đá quý chỉ giúp chữa một số bệnh căn bản từ nội tạng - còn đối với những bệnh do căng thẳng thần kinh như tiểu đường, cao huyết áp... thì em chưa nghiên cứu.
Về phần tâm linh: tuy hộ phù có tác dụng hỗ trợ cho hành giả trên đường tu tập nhưng không có nghĩa là chỉ cần đeo hộ phù là có thể đi đến giải thoát - mà hành giả cần phải nỗ lực, tinh tấn theo khả năng của mình.
Trên đây là những điều em biết về đá quý, còn nhiều điều em chưa biết, mong được học hỏi thêm.
Huyệt Ngọc Đường ở chỗ nào?
dò vị trí huyệt, sai số là 2 cm (thì cũng tạm được)
Ngay cái gạch phía trên chấm đen (vị trí huyệt), lây ngón tay từ trên yết hầu và dò xuống từ từ, thì sẽ thấy rằng,
Phần này có hai phần:
1. Thông thường là xương ở phần trên (từ yết hầu trở xuống) nó hơi lồi lên một tý.
2. Sau đó thì nó sẽ bắt đầu lõm xuống và khi nó lõm xuống nhiều nhất là chỗ cái chấm đen đó.
Thạch Anh là gì?
Thạch anh là một loại đá thiên nhiên, và nếu mà làm hộ phù thì sẽ chặn được những căng thẳng thần kinh. Những giao động này là do ảnh hưởng của những tiền kiếp mà nạn nhân bị những tai nạn về đầu. Như là bị thương ngay đầu, bị chặt đâu, bị bể đầu, dãn đến chuyện bị khùng, bị điên. Đây là dạng biệt nghiệp. Người đầu tiên được áp dụng là ... Nhí do Cô Ba Hột Nút tìm ra. Và sau đó thì Nhì tìm ra và áp dụng cho nhiều người bị căng thẳng thần kinh.
Loại màu tím là ngon lành.
https://www.facebook.com/banthienlin...20888457961729
-
* Cầu công danh
cầu công danh sơ văn
×× tỉnh×× huyền( thị ) cư trụ đệ tử×××( thi thuật giả pháp danh) cẩn dĩ tố diên、 tiên quả、 hương hoa、 thanh tửu chi nghi。 kính hiến vu
cửu thiên ti mệnh chân quân。
tiên thiên hoát lạc linh quân。
văn xương tử đồng đế quân tọa tiền, phục dĩ
thần ân nghiễm đại vô cảm bất thông。
thánh trạch nguy nga hữu cầu giai ứng。 kê tra thiện ác chi quyền。 chủ trì công quá chi bính。 thiết niệm đệ tử nhị thập niên hàn song。 tam canh đăng hỏa。 cần tu võng giải。 sĩ đồ đa quai。 vị đắc thốn tiến。 quan giai tụ ngọc yêu kim。 tổng nan bộ siêu, nho sanh dương mi thổ khí。 mỗi hàm hạ đệ chi tu。 đồ bão lăng vân chi chí。 cố cùng tố thủ xuyên tài bấn xích, cầu tiến vô môn, thanh giới nan tăng。 phục khất××× đường( cung bổng* đích đàn tức xưng đường, như cung bổng tam thanh, tựu xưng tam thanh đường)。 phi loan khải kì。 thủy tri đế ân khai thi cách ngoại。 đại phổ hồng từ。 cố kiền tâm phát nguyện。×××( thi thuật giả pháp danh) cẩn vi đệ tử cầu danh, hiển tổ diệu tông dĩ chấn môn mi。 phục kí ân chủ giám thử ngu thầm。 cư tình khải tấu。 tỉ đắc nhất quan bán chức, phục vụ quan giới。 đắc truy dương chấn chi cao phong。 miễn hiệu lí nghiễm chi kì sổ。 vô nhậm khẩn đảo chi chí。 chiêm ngưỡng chi chí。
thiên vận niên nguyệt nhật×××( thi thuật giả pháp danh)
cửu khấu thượng thân。
=========
* Cầu thọ cho cha , mẹ
vi phụ mẫu cầu thọ sơ văn
phục dĩ
kì cầu thượng thương hàng cát tường giải oan trừ chướng thọ diên trường
thiêm thọ tăng phúc thân thể tráng hành công tích đức phản cố hương viên hữu
nhất tứ thiên hạ nam chiêm bộ châu kim cứ
đại trung hoa dân quốc thai loan tỉnh
OO cung mộc ân cung chủOOO đạo hàoOO hội đồng toàn thể mộc ân cung sanh thiện nam tín nữ chúng đẳng
thành hoàng thành khủng, kê thủ đốn thủ phần hương khấu bái cẩn dĩ
tố diên tiên hoa ngũ quả thanh trà chi nghi cung phụng
tam giáo phật đạo thánh tôn, tuyên kinh khải kiến vị thai loan tỉnhO thịO lộO hàoO lâu, cư
trụ đệ tửOOO vi sanh phụ sanh mẫuOOO kì cầu thiêm thọ tăng phúc diên trường thọ ki do。
cẩn tu sơ ý cung trình
vô cực dao trì đại thánh tây vương kim mẫu đại thiên tôn bệ hạ ngự tiền
vạn thiên chí tôn, vũ trụ chủ tể, huyền khung cao thượng đế, ngọc hoàng xá tội đại thiên tôn bệ hạ ngự tiền
trung hoàng đại thiên tôn huyền linh cao thượng đế bệ hạ ngự tiền
vô thượng hư không địa mẫu huyền hóa dưỡng sanh bảo mệnh từ tôn đại từ tôn thánh tiền
tam nguyên tam phẩm tam quan đại đế tứ phúc giải ách đại thiên tôn thánh tiền
vô cực hỗn huyền thánh tổ huyền huyền thượng nhân đại tông nguyên đại thánh quân đại từ tôn thánh tiền
thái thượng vô cực hỗn nguyên giáo chủ nguyên thủy thiên tôn thánh tiền
linh bảo quảng pháp đại thiên tôn thánh tiền
huyền khung đạo tổ thái thượng lão quân chưởng giáo đạo đức thiên tôn thánh tiền
vô cực khai thiên thượng thánh ngũ phương ngũ hoa tông nguyên đại thánh quân đại từ tôn thánh tiền
vô cực đào nguyên thánh tổ đại từ quân đại từ tôn thánh tiền
đại thánh đại nguyện ngũ giáo giáo chủ chưởng giáo vô lượng đại kim tôn thánh tiền
đại từ đại bi ngũ thánh đế quân ân chủ cứu thế đại sư tôn thánh tiền
nam vô đại nguyện địa tàng vương bồ tát thánh tiền
nam vô đại bi quan thế âm bồ tát thánh tiền
tiên thiên hoát lạc linh quan vương ân chủ thánh tiền
nam vô tiêu tai diên thọ dược sư phật thánh tiền
nam đẩu lục ti diên thọ tinh quân thánh tiền
bắc đẩu thất nguyên giải ách tinh quân thánh tiền
cửu thiên ti mệnh chân quân thánh tiền
văn xương tử đồng đế quân thánh tiền
tam giới thập phương thường trụ chư phật、 chư thần、 chư thánh、 chư chân、 chư đại bồ tát thánh tiền
diên thọ hội thượng hộ pháp chư thiên liệt vị từ tôn các bảo kim liên tọa hạ thánh tiền
cung thân ý giả: thiết niệm đệ tửOOO sanh phụOOO sanh mẫuOOO kim niênO tuế,
khí lực tiệm suy, thể nhược đa bệnh, mệnh cung hành niên vận hạn, tinh thần bức khắc, tuế sát hình trùng
, quyên trừ quá phạm chi oan, điễn tán tương lai chi ách, tai tinh ngôn ẩn, đồng vi phúc họa dĩ trực
thân, nhi nữOOO khán phụ mẫu tư tình, cù lao vị báo, tu tri nan tri, vi nhân tử nữ
, thật ẩn ưu, phục khất
OO cung thỉnh kì thủy tri
mẫu ân hạo đãng
đế trạch nguy nga, ân thi cách ngoại, đại phổ hồng từ, cố kiền tâm phát nguyện, trai giới mộc dục, tụng kinh lễ sám。
cung tụng
dao trì kim mẫu phổ độ thu viên định tuệ chân kinh
từ bi dược sư bảo sám
nam đẩu trường sanh chân kinh
bắc đẩu diên thọ diệu kinh
đại thừa kim cương bàn nhược bảo sám, công đức hồi hướng phụ mẫu。
đệ tửOOO xích tâm ai cầu
mẫu nương、 thần phật bồ tát, vi phụ mẫu tăng thiêm phúc thọ, sảo đáp thân ân
kì cầu
dao trì kim mẫu tác chủ
ngọc hoàng đại thiên tôn
chư thiên thần thánh, giám thử ngu thầm, tứ sanh phụ sanh mẫu dĩ đăng thọ khảo, tại diên thọ ki, xá khế tử nữ bất hiếu
tiền khiên, vô nhậm khẩn đảo chi chí
túc thử cẩn sơ thượng
văn
thiên vận đại trung hoa dân quốc đệ niên nguyệt nhật
khế tử nữ chúng đẳng đoan biểu cửu khấu thượng thân
https://www.facebook.com/banthienlin...20888457961729
-
* Tính tuổi làm nhà
Tính tuổi làm nhà thì chúng ta phải lưu ý, phải là tổng họp của các tính sau:
1. tính tuổi Hoang ốc.
2. Tính tuổi Kim Lâu
3. Tính tuổi Tam tai
4. Tính tuổi hạn sao Thái Bạch
CÁCH TÍNH TUỔI HOANG ỐC
Khẩu quyết: Nhất cát - nhị nghi - tam địa sát - tứ tấn tài - ngũ thọ tử - lục hoang ốc.
Trong đó: Nhất cát, nhi nghi, tứ tấn tài là tốt.
Cách tính như sau:
Tính đến các tuổi hàng chục, hết hàng chục vào hàng đơn vị.
ví dụ: 45 tuổi. Tính như sau: 10 tuổi - nhất cát; 20 tuổi - nhị nghi ; 30 tuổi - tam sát; 40 tuổi - tứ tài; 41 tuổi - ngũ tử; 42 - lục hoang ốc; 43 - nhất cát, 44 nhị nghi; 45 tam địa sát.
Không cần coi các cách tính khác; người tuổi 45 này không làm được nhà
Tuổi Tam Tai
Những tuổi sau phạm tam tai vào nhưng năm:
Thân, tý, thìn - tam tai vào năm dần - mão - thìn
tỵ - dậu, sửu tam tai vào năm hợi - tý - sửu
Dần , ngọ, tuất tam tai vào năm thân - dậu - tuất.
hợi, mão mùi tam tai vao năm tỵ - ngọ - mùi
8 tuổi không sợ Kim lâu. gặp 8 tuổi này khỏi tính Kim lâu
tân Mùi
Nhâm thân
kỷ sửu
canh dần
tân sửu
nhâm dần
kỷ mùi
canh thân
Cách tính tuổi Kim Lâu
Tuổi Kim lâu được tính theo 2 giai đoạn: Trước 50 Tuổi và Từ 50 tuổi trở đi.
Tính Kim Lâu trước 50 Tuổi
Khẩu quyết: khôn - đoài - càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly.
Cách tính cũng theo phương pháp "Đại - Tiểu liên tiết"
trong đó :
Phạm cung Khôn: Nhất Kim lâu thân: Chính kỵ nhất.
Phạm cung Càn: Nhị Kim Lâu thê: kỵ người vợ.
Phạm cung Cấn: Tam Kim Lâu tử: kỵ cho con cái
Phạm cung Tốn: Tứ Kim Lâu lục súc: kỵ súc vật nuôi.
Các cung khác thì được.
Ví dụ: Người 32 tuổi, tính như sau:
10 tuổi tại khôn
20 tuổi tại Đoài
30 tuổi tại Càn
31 tuổi tại Khảm
32 tuổi tại Cấn
Người này không nên làm nhà vì làm nhà vào tuổi này sẽ ảnh hưởng tới con cái.
Tính Kim Lâu sau 50 tuổi.(Tính từ 50 trở đi).
Khấu quyết: Trung cung - khôn - đoài - càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly.
Ví như 61 tuổi tính như sau:
50 tuổi tai trung cung (tuổi 50 này cũng không làm nhà được vi theo cách tính Hoang Ốc thì pham Ngũ Thọ Tử)
60 tại khôn
61 tại Đoài.
Theo cách tính hoang ốc thì 61 tuổi thuộc Nhất cát: làm tốt.
Tuổi có sao Thái bạch chiếu:
nam: 13-22-31-40-49-58-67-76-85-94
nữ: 17-26-35-44-53-62-71-80-89-98
Sau khi so tính theo cả 4 cách trên mà gia chủ không phạm những điều trên thì có thể làm nhà. Tuy nhiên tại topic này, Quang Tịch vẫn có thể tư vấn miễn phí cho mọi người về tuổi làm nhà, cách hóa giải nếu phạm vào những tuổi này, tính năm tháng ngày giờ khởi công động thổ, điền hoàn, nhập trạch, khánh trạch. Phương hướng an vị. ( ẢNH ĐÃ ẨN )
Cách tính kim lâu
Các phương pháp tính tuổi kim lâu đều lấy bảng Cửu tinh , Hậu thiên Bát quái để tính , cùng thống nhất bắt đầu khởi từ cung Khôn và cùng tính thuận kim đồng hồ đến các cung Càn thì kim lâu thê , đến cung Cấn thì kim lâu tử , đến cung Tốn thì kim lâu lục súc , đến cung Khôn thì kim lâu thân .
Nhưng lấy tuổi để khởi điểm thì khác nhau và khác nhau về cách Ngũ nhập trung cung , Ngũ Thập nhập trung cung hoặc không nhập trung cung . Nên các cách tính này lại ra các kết quả về tuổi kim lâu lại khác nhau.
- Cách thứ nhất:
Của Trần Văn Tam tác giả sách " Xây dựng nhà ở theo phong thuỷ " và Tân Việt - Thiều Phong , tác giả sách " Bàn về lịch vạn niên " .
Khởi 1 tuổi từ Khôn , 2 tuổi Đoài , 3 tuổi Càn , 4 Khảm , 5 vào trung cung , 6 ra Cấn , 7 Chấn , 8 Tốn , 9 Ly , 10 Khôn ...Cứ như vậy tính đến tuổi cần xem .
Cách tính này chỉ cần lấy cả tuổi mụ của người cần xem rồi chia cho 9 , nếu dư 1 là kim lâu thân , nếu dư 3 là kim lâu thê , nếu dư 6 là kim lâu tử , nếu dư 8 là kim lâu lục súc .
- Cách thứ hai:
Của Hoàng Bình tác giả sách " Thế kỷ Âm Dương đối lịch " .
Khởi 1 tuổi tại Khôn , 2 tuổi tại Đoài , 3 tuổi tại Càn , 4 tại Khảm , 5 vào trung cung , 6 ra Cấn , 7 Chấn , 8 Tốn , 9 Ly , 10 vào trung cung , 11 tại Khôn ...Cứ như vậy tính đến tuổi cần xem .
- Cách thứ ba:
Của Huỳnh Liên tác giả " Sách số coi tuổi làm nhà " .
Khởi 10 tuổi tại Khôn , 20 tuổi tại Đoài , 21 tuổi Càn , 22 Khảm , 23 Cấn , 24 Chấn , 25 Tốn , 26 Ly , 27 Khôn , 28 Đoài ...
Cách tính này là khởi hàng chục 10 , 20 ... khi hết tuổi chục sang tuổi lẻ thì cứ đếm luôn 21 , 22 và không vào trung cung , cứ như vậy đến tuổi người cần xem .
Dưới đây là bảng tính sẵn của ba cách tính trên đây .
Tuổi -- Cách 1 -- Cách 2 -- Cách 3
20 --- không --- không --- không
21 -- kim lâu -- kim lâu -- kim lâu
22 --- không --- không --- không
23 --- không -- kim lâu -- kim lâu
24 -- kim lâu --- không --- không
25 --- không --- không --- kim lâu
26 -- kim lâu -- kim lâu --- không
27 --- không ---- không -- kim lâu
28 -- kim lâu -- kim lâu -- không
29 --- không --- không -- kim lâu
30 -- kim lâu --- không -- kim lâu
31 --- không -- kim lâu --- không
32 --- không --- không -- kim lâu
33 --- kim lâu -- kim lâu --- không
34 --- không --- không -- kim lâu
35 -- kim lâu --- không --- không
36 --- không -- kim lâu -- kim lâu
37 -- kim lâu --- không --- không
38 --- không -- kim lâu -- kim lâu
39 -- kim lâu --- không --- không
40 --- không --- không --- không
41 --- không -- kim lâu -- kim lâu
42 -- kim lâu --- không --- không
43 --- không -- kim lâu -- kim lâu
44 -- kim lâu --- không --- không
45 --- không --- không -- kim lâu
46 -- kim lâu -- kim lâu --- không
47 --- không --- không -- kim lâu
48 -- kim lâu -- kim lâu --- không
49 --- không --- không -- kim lâu
50 --- không --- không -- kim lâu
51 -- kim lâu -- kim lâu --- không
52 --- không --- không -- kim lâu
53 -- kim lâu -- kim lâu --- không
54 --- không --- không -- kim lâu
55 -- kim lâu --- không --- không
56 --- không -- kim lâu -- kim lâu
57 -- kim lâu --- không --- không
58 --- không -- kim lâu -- kim lâu
59 --- không --- không --- không
60 -- kim lâu --- không --- không
61 --- không -- kim lâu -- kim lâu
62 -- kim lâu --- không --- không
63 --- không -- kim lâu -- kim lâu
64 -- kim lâu --- không --- không
65 --- không --- không -- kim lâu
66 -- kim lâu -- kim lâu --- không
67 --- không --- không -- kim lâu
68 --- không -- kim lâu --- không
69 -- kim lâu --- không -- kim lâu
70 --- không --- không --- không
https://www.facebook.com/banthienlin...18277014889540