Các cô đạo hữu đến xâu và trang trí chuỗi hạt.
Hoan hỷ hoan hỷ
Cửa hàng Phật Giáo Mật Tông LIÊN HOA
85 Võ Thị Sáu P.6 Q.3
01207188817
https://www.facebook.com/LienHoa85/
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...43&oe=5B30FAAD
Printable View
Các cô đạo hữu đến xâu và trang trí chuỗi hạt.
Hoan hỷ hoan hỷ
Cửa hàng Phật Giáo Mật Tông LIÊN HOA
85 Võ Thị Sáu P.6 Q.3
01207188817
https://www.facebook.com/LienHoa85/
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...43&oe=5B30FAAD
live stream bằng máy vi tính, hoặc live stream facebook bằng điện thoại di ...
Chén cúng dường lưu ly hình hoa sen.
Giá 120k/chén...
🌕Showroom:Cửa Hàng Phật Giáo Liên Hoa Số 85 Võ Thị Sáu, P.6, Q.3, Tp.HCM
🌎 Mon - Sun | 09:00am - 09:00pm|
☎Hotline: 01207188817
https://m.facebook.com/lienhoa85/
Xin cảm ơn quý đạo hữu
#lienhoa85 #cửahàngphậtgiáo
#đáphongthuỷ #vòngtay #nhẫn #dâychuyền #trangsứcthiếtkế #trangsứcbạc #fengshui #ring #necklace #jewelry #customdesign #silver #gemstone #quarzt #rhodochrosite #topaz #moonstone #rutiledquarzt #gardenquarzt #critine #amethyst #huyếtlong #dragonwood #bátkiếttường #Thấtbảoluânvương #Nhang #hương #chéncúngdường
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...43695109_n.jpg
Bộ 7 chén cúng dường Lưu Ly / bộ chén 168k / chén
Tôn tượng Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Cửa hàng LIÊN HOA
85 Võ Thị Sáu P.6 Q.3
01207188817
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...f4&oe=5B2AB0B4
~~~ HƯƠNG TRẦM PHẢNG PHẤT ~~~
An Phước tâm can
Mọi sự phiền não
Tan biến tựa sương
Thưa quý đạo hữu, tất cả chúng ta khi đi vào các nơi thờ tự, đình chùa, mùi hương trầm luôn luôn thoang thoảng trong không gian, tạo nên cảm giác an lạc dễ chịu, và, ai trong chúng ta cũng từng mong muốn gian nhà, đặc biệt là gian thờ cúng của nhà chúng ta luôn luôn thoang thoảng mùi Hương Trầm, Đàn Hương ấm áp và vượng khí.
Gian thờ ở trong nhà thì luôn được đặt ở vị trí trang nghiêm và thoáng mát nhất, là TRÁI TIM TÂM LINH của toàn căn nhà. Gian thờ vượng khí, gia chủ sẽ nhận được vô vàn các lợi lạc. Tâm trí bình an, vạn sự hạnh thông, gia đạo hòa thuận, tài bảo thịnh vượng.
Sở dĩ ở nhà chúng ta không đảm bảo được mùi hương trầm luôn luôn được duy trì là vì, mỗi cây nhang dài thông thường, thời gian cháy của nó chỉ có khoảng 45p, và chúng ta thì không phải lúc nào cũng rảnh tay để canh nhang tàn rồi đốt tiếp, chạy lên chạy xuống phòng thờ.
Vậy, cửa hàng PG LIÊN HOA chúng tôi xin giới thiệu sản phẩm trầm hương dạng khoanh
Thời gian cháy : 24 đến 26 tiếng (mỗi ngày chỉ cần châm 1 lần)
186.000/ hộp 10 khoanh (10 ngày)
Cửa hàng Phật Giáo Mật Tông LIÊN HOA
85 Võ Thị Sáu P.6 Q.3
01207188817
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...e8&oe=5B2A3598
https://www.facebook.com/LienHoa85
Thạch anh tóc vàng trong tự nhiên có giấy kiểm định của PNJ !
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...4d&oe=5B472DCE
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...68&oe=5B32F611
Cuộn chỉ ngũ sắc để xâu chuỗi và tràng hạt cho quý thầy, lần trc có rất nhiều đạo hữu hỏi mà shop tạm hết, nay đã có lại ạ
Cửa hàng Phật Giáo Mật Tông LIÊN HOA
85 Võ Thị Sáu P.6 Q.3
01207188817
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...cc&oe=5B44BC22
Chào bạn. Lông công 50.000/cây ạ
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...aa&oe=5B2E1A84
Đèn bơ cúng dường :
--- mỗi viên dc 6 giờ
--- 112.000/ hộp 20v giá lẻ
--- 100.000/ hộp 20v giá sỹ trên 10 hộp
Mong cho:
°°°Chén đựng đèn bơ này trở nên to lớn như chu vi của ba ngàn thế giới!
°°°Tim đèn trở thành to lớn như núi chúa Tu Di!
°°°Thứ bơ trong lành này bao la như biển cả bốn phương!
°°°Hàng trăm triệu ngọn đèn bơ xuất hiện trước mặt mỗi đức Thế tôn!
°°°Nhờ thứ ánh sáng này xóa tan đi sự u tối của vô minh trong luân hồi từ cõi trời cao nhất đến địa ngục A tỳ,
°°°Nguyện cầu tất cả cõi Tịnh độ của chư Phật và Bồ Tác trong mười phương biểu hiện ra trước mắt con sáng rỡ!
«*****°°°OM VAJRA A LOKE AH HUNG!°°°*****»
https://www.facebook.com/LienHoa85/
https://scontent.fsgn5-4.fna.fbcdn.n...79&oe=5B44E35C
http://cungduong.vn/
Chùa nghèo đang cần tượng Phật | Chỉ 100.000đ bạn đã giúp Chùa
QCwww.cungduong.vn/
Kết nối nhà Hảo Tâm với Chùa đang cần Tượng Phật ở vùng quê nghèo
Hộ pháp · Địa tạng · Quan Âm · Phật Thích Ca, A Di Đà
Đồng Nai: Truyền giới tỳ kheo tại giới đàn Pháp Loa
Ngày đăng: 10-10-2017 - Lượt xem: 3801Cỡ chữ: GiảmTăng
SVO - Sáng ngày 10.10.2017 bắt đầu vào lúc 6h tại Đại Giới Đàn Loa của BTS tỉnh Đồng Nai đã trang nghiêm diễn ra nghi thức truyền giới Tỳ-kheo ( Nhị bộ tăng-ni ) tại hai cơ sở của giới trường.
Chứng minh:
HT. Thích Thanh Từ
HT. Thích Minh Chánh
I. ĐÀN TRUYỀN GIỚI TỲ-KHEO:
- Hòa thượng đàn đầu: HT. Thích Nhật Quang - TV. Thường Chiếu
- Yết-ma A-xà- lê: HT. Thích Minh Thông - Chùa Huệ Nghiêm
- Giáo thọ A-xà- lê: HT. Thích Giác Quang - Quan Âm tu viện
- Thất vị tôn chứng:
1. Đệ nhất tôn chứng: HT. Thích Hải Mẫn - chùa Long Phú, Long Khánh
2. Đệ nhị tôn chứng: HT. Thích Thiện Cảnh - chùa Thiên Ân, Xuân Lộc
3. Đệ tam tôn chứng: HT. Thích Thiện Đạo - chùa Phi Lai, Biên Hòa
4. Đệ tứ tôn chứng: HT. Thích Trí Chơn - TV. Thường Chiếu, L.Thành
5. Đệ ngũ tôn chứng: HT. Thích Giác Văn - chùa Phước Huệ, Biên Hòa
6. Đệ lục tôn chứng: TT. Thích Thông Phương - thiền viện Trúc Lâm
7. Đệ thất tôn chứng: TT. Thích Huệ Quang - chùa Pháp Bảo, Trảng Bom
- Điển lễ, dẫn thỉnh:
1. TT. Thích Lệ Trang - chùa Định Thành
2. ĐĐ. Thích Thiện Phước - chùa Hội Phước
3. ĐĐ. Thích Đạo Dũng - TV. Thường Chiếu
4. ĐĐ. Thích Đạt Ma Viên Diệu - TV. Thường Chiếu
Tại Cơ Sở Ni cũng trang nghiêm diễn ra nghi thức truyền giới:
THẬP SƯ NI
ĐẠI GIỚI ĐÀN PHÁP LOA - 2017
Chứng minh:
- HT. Thích Minh Chánh - Thành viên Hội đồng chứng minh GHPGVN
- HT. Thích Nhật Quang - Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai
- NT. Thích Nữ Tịnh Hạnh - Chứng Minh Phân Ban Ni Giới thuộc Ban Tăng sự TW
- NT. Thích Nữ Tịnh Nguyện - Trưởng Phân ban Ni giới thuộc Ban Tăng sự TW
- NT. Thích Nữ Như Đức - Chùa Dược Sư
- NT. Thích Nữ Chiêu Liên - TX Ngọc Khánh
I. ĐÀN TRUYỀN GIỚI TỲ-KHEO NI
- Đàn đầu Hòa thượng Ni: NT. Thích Nữ Như Châu - chùa Huê Lâm
- Yết-ma A-xà- lê: NT. Thích Nữ Như Tịnh - TV Linh Chiếu
- Giáo thọ A-xà- lê:T. Thích Nữ Như Đức - TV Viên Chiếu
NT. Thích Nữ Như Hạnh - chùa Long Hoa
- Thất vị tôn chứng:
1. Đệ nhất tôn chứng: NT. Thích Nữ Diệu Chánh - chùa Long Khánh
2. Đệ nhị tôn chứng: NT. Thích Nữ Hiếu Liên - TX Ngọc Long
3. Đệ tam tôn chứng: NT. Thích Nữ Tấn Liên - TX Ngọc Phước
4. Đệ tứ tôn chứng: NT. Thích Nữ Như Niệm - chùa Long Hoa
5. Đệ ngũ tôn chứng: NT. Thích Nữ Xuân Liên - TX Ngọc Tuệ
6. Đệ lục tôn chứng: NT. Thích Nữ Như Hiền - chùa Phước Thanh
7. Đệ thất tôn chứng: NT. Thích Nữ Như Định - chùa Bửu Phước
- Điển lễ, dẫn thỉnh:
1. NS. Thích Nữ Như Dung - Chùa Long Vân, Biên Hòa.
2. NS. Thích Nữ Quảng Tiên - Chùa Long Vân, Biên Hòa.
3. SC. Thích Nữ Huệ Hiền - TV Linh Chiếu.
4. SC. Thích Nữ Liên Dương – Chùa Long Vân.
http://senvangonline.net/dong-nai-tr...-phap-loa.html
Hiểu rõ nghi lễ khai quang điểm nhãn trong đạo Phật
Kiến Thức 05/10/2012 17:28 GMT+7Gốc
(Kienthuc.net.vn) - Các chùa sau khi tôn tạo xong tượng Phật, Bồ-tát thường tổ chức lễ khai quang điểm nhãn, hô thần nhập tượng hay lễ an vị.
Hòa thượng khai quang tượng Phật tượng Phật A Di Đà lớn nhất Việt Nam
Từ đó, một số Phật tử có điều kiện muốn thờ Phật tại nhà thường thỉnh các sư về nhà làm lễ này. Phật tử nào không có điều kiện trước khi thỉnh tượng Phật về thờ tại nhà cũng thường hay đưa lên chùa nhờ các sư khai quang điểm nhãn.
Tuy nhiên, trên thực tế, ít người hiểu đúng ý nghĩa của việc khai quang điểm nhãn, hô thần nhập tượng trong đạo Phật. Một số người quan niệm mê tín rằng "nếu không làm lễ khai quang, tức là đưa Thần Lực của Phật an ngự vào tôn tượng, thì có những loài ma quỷ sẽ nhập vào đó để hưởng hương khói và sự cúng dường".
Hoặc hiểu ý nghĩa của khai quang điểm nhãn hô thần nhập tượng là "làm tăng linh khí của pho tượng trước khi thờ cúng".
Cũng có người cho rằng "việc khai mở một vật từ vô tri trở nên linh thiêng thì phải có những vị thầy biết được bộ môn Khai quang điểm nhãn. Tức là phải biết mật mã để khai mở." (*)
Vậy ý nghĩa đích thực của khai quang điểm nhãn là gì?
Trước hết, cần phải hiểu rõ việc thờ Phật và Bồ-tát tại chùa cũng như tại gia là nhằm nhắc nhở mọi người y theo lời dạy của chư Phật, chư Bồ-tát tu tập hướng đến giải thoát giác ngộ.
Thờ Phật, Bồ-tát không phải là để cầu xin quý ngài ban phước ban lộc cho chúng ta, bởi vì đạo Phật quan niệm mọi việc trên đời này đều có nhân có quả, không có chuyện cầu xin, cúng bái mà được.
Mở đầu khoa nghi khai quang điểm nhãn của Phật giáo miền Bắc, chư Tổ Sư định nghĩa thế nào là pháp khai quang điểm nhãn bằng bài kệ thất ngôn tứ cú: "Đại khai trí kính (cảnh) minh như nhật/ Thước phá vi trần thế giới trung/ Nhất niệm liễu nhiên siêu bách ức/ Thiên sai vạn biệt tổng giai không. Nam mô khai bảo kính (cảnh) Bồ-tát ma-ha-tát".
Tạm dịch: Khai quang là tu tập để đạt được cái gương trí tuệ sáng rỡ như ánh mặt trời, soi rõ mọi thứ nhỏ nhoi nhất trong thế gian này. Chỉ cần một niệm ngộ được cái gương trí tuệ này thì tự nhiên vượt lên tất cả mà nhận ra rằng mọi thứ đúng sai trong đời đều là Không. Con xin cúi đầu đảnh lễ vị đại Bồ-tát đã đạt được chiếc gương trí tuệ quý giá".
Cái gương trí tuệ ấy trong Duy thức học gọi là Đại viên kính/cảnh trí (大 園 鏡 智). Theo Từ điển Phật học (Phân viên nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản năm 1992), "Đại viên kính/ cảnh trí là một trong bốn trí của Hiển giáo.
Theo Đại thừa giáo thuyết về bốn trí của đức Như Lai thì chuyển từ thức thứ 8 của phàm phu tới Như Lai, gọi là Đại viên kính trí. Đại viên kính (gương tròn sáng) đó là dụ. Trí thể ấy thanh tịnh, lìa pháp tạp nhiễm lậu, từ nghiệp báo thiện ác của chúng sinh hiển hiện cảnh giới của muôn đức, như tấm gương tròn lớn, nên gọi là Đại viên kính/ cảnh trí".
Trong cuốn Vấn đề nhận thức trong Duy thức học (Lá Bối xuất bản năm 1969), trang 111, Hòa thượng Nhất Hạnh viết: "Tịnh và bất tịnh cùng một thể. Nếu tất cả các chủng tử (hạt giống - NV) đã được chuyển từ bất tịnh sang tịnh rồi thì A Lại Gia (thức thứ 8 - NV) sẽ được chuyển thành Đại viên cảnh trí, đồng với chân như (tathatà).
Trong lúc hành trì khoa nghi khai quang, sau khi sái tịnh tôn tượng và xung quanh đàn tràng, vị sám chủ cầm cái gương giơ lên đưa qua đưa lại trước tôn tượng Phật, Bồ-tát là một hành động nhắc mọi người hiểu rằng một khi đã tẩy rửa/ chuyển hóa cái tâm bất tịnh thành tịnh thì Đại viên cảnh/ kính trí liền hiển lộ.
Cái gương biểu tượng cho Đại viên cảnh/ kính trí. Đã là biểu tượng thì không quan trọng việc phải dùng gương mới hay cũ, chưa dùng hay đã dùng như một số người quan niệm. Và sái tịnh biểu tượng cho việc lau chùi, tẩy rửa tâm bất tịnh có trong mỗi người.
Tiếp đến, vị sám chủ viết chữ Án trên diện tượng Phật, Bồ-tát, đồng thời niệm: "Phụng/ cung thỉnh Như Lai điểm khai nhục nhãn..., thiên nhãn..., tuệ/ huệ nhãn..., pháp nhãn..., Phật nhãn...".
Nghĩa là chúng sinh nương vào các pháp môn tu hành của Phật dạy mà có thể khai mở được nhục nhãn, thiên nhãn... Đây gọi là điểm nhãn tượng Phật, Bồ-tát hay khai ngũ nhãn.
Trong Mật tông, chữ Án có công dụng thay thế cho chư Phật, chư Bồ-tát, có sức linh diệu hơn hết. Tiếng Án là tiếng tạo tác, nó sáng lập ra muôn vật, muôn cõi. Cũng có nghĩa là “bổn mẫu” hay “bổn”, nghĩa là căn bổn, mẫu tức là gốc, cho nên có câu thần chú gọi là Phật mẫu Chuẩn đề thần chú, nghĩa là chư Phật là cha mẹ của hết thảy chúng sanh. Nhờ hành trì chữ Án mà phát sanh ra trí huệ bát nhã để tự độ và độ tha.
Từ điển Phật học định nghĩa ngũ nhãn là năm loại mắt, gồm: 1/ Nhục nhãn: mắt của thân xác. 2/ Thiên nhãn: mắt của chư thiên trên cõi trời Sắc giới, cũng là mắt mà thiền giả đắc được khi đang tu tập; với mắt này thì chẳng luận gần, xa, trong, ngoài, sáng tối, đều thấy được tất cả. 3/ Huệ nhãn: mắt của các vị tu tập đắc đạo, nhờ dùng trí tuệ quán được Chân không vô tướng. 4/ Pháp nhãn: mắt trí tuệ của chư vị Bồ Tát, vì hóa độ chúng sanh nên nhìn thấy tất cả các pháp môn. 5/ Phật nhãn: Mắt của Chư Phật.
Theo Vô Lượng Thọ Kinh, chư Bồ tát ở cõi Tịnh độ có Ngũ nhãn và được hiểu là: 1/ Nhục nhãn: trong suốt, không chi là không phân biệt tỏ rõ; 2/ Thiên nhãn: thông đạt, vô lượng, vô hạn; 3/ Pháp nhãn: quan sát cùng tột thật tướng của các pháp; 4/ Huệ nhãn: thấy được chân tướng, có thể độ chúng sanh sang bờ an vui; và 5/ Phật nhãn: con mắt thấy đầy đủ, thông suốt vạn pháp.
Đại sư Thần Tú (Trung Quốc) khuyên: "Thân thị bồ-đề thọ/ Tâm như minh cảnh đài/ Thời thời cần phất thức/ Vật sử nhạ trần ai (身 是 菩 提 樹/ 心 如 明 鏡 臺/ 時 時 勤 拂 拭/ 勿 使 惹 塵 埃)". Tạm dịch: Thân như cây bồ-đề/ Tâm như đài gương sáng/ Luôn luôn phải lau chùi/ Chớ để dính bụi nhơ.
Như vậy, mục đích của việc hành trì nghi lễ khai quang điểm nhãn trong đạo Phật trước khi tượng Phật, Bồ-tát nào đó được tôn thờ trong chùa cũng như tại nhà là để nhắc nhở mọi người hằng ngày phải luôn luôn hành trì Phật pháp, chùi rửa tâm bất tịnh để đạt được Đại viên kính/ cảnh trí và ngũ nhãn, tức là đạt đến quả vị Phật.
Về ý nghĩa của hô thần nhập tượng, xin được nói trong bài sau.
Quần Anh
(*) Nghi lễ “khai mắt” tượng Phật theo dân gian - Báo Kiến Thức.
https://baomoi.com/hieu-ro-nghi-le-k.../c/9476580.epi
Miếu Tổ sư nghề đá / Chùa Bà Thiên Hậu
Miếu Tổ sư thuộc xã Tân Thành, Tổng Phước Vinh Trung, Quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tổ 30, khu phố 5, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai)
Miếu thuộc tổ 30, khu phố 5, phường Bửu Long, Tp. Biên Hòa
Từ trung tâm thành phố Biên Hòa đi đường bộ theo đường Huỳnh Văn Nghệ (hướng Tân Triều, Vĩnh Cửu) / Chùa Bà Thiên Hậu, thuộc địa bàn tổ 30, khu phố 5, đường Huỳnh Văn Nghệ phường Bửu Long.
bệnh tật được đẩy lùi nhân dân biết ơn Bà Thiên Hậu nên lập đàn thờ chính tại Miếu Tổ sư – từ đó nhân dân mới gọi Miếu Tổ sư là Miếu Bà Thiên Hậu. Hiện nay, cuốn sách có 103 bài thuốc hiện do ông Tiêu Sơ ở Thiên Hậu Cung (phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa gìn giữ.
Di tích miếu Tổ sư có một vai trò lớn là chỗ dựa niềm tin và tâm linh cho công cuộc mưu sinh của cộng đồng người Hoa. Do vậy, hàng ngày có rất nhiều người đến di tích cầu an và xin xăm trong công việc làm ăn, cũng như những
vấn đề khác trong cuộc sống đời thường. Nói về tập tục xin xăm ở Miếu Tổ sư có nhiều nét khác biệt so với nhiều di tích khác của người Hoa ở Biên Hòa.
nhưng với di tích Miếu Tổ sư có hai loại xăm gồm xăm thường và xăm thuốc, mỗi loại gồm 103 quẻ, được giữ riêng trong hai lọ. Loại xăm trị bệnh được dùng chữ Hán để đánh số, loại xăm thông thường đánh theo số thứ tự 1, 2, 3… Người đến xin xăm trị bệnh, sau khi được quẻ xăm số mấy sẽ đến Thiên Hậu Cung (phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa) lấy thuốc.
https://dost-dongnai.gov.vn/SiteAsse..._Giai%20Ba.pdf / http://dongnai.vncgarden.com/tu-lieu...am-da-buu-long / https://dost-dongnai.gov.vn/SiteAsse...Hoc%20sinh.pdf
===================
6. Tuyến số 7: - Điểm đầu: Bến xe Tp. Biên Hòa
- Điểm cuối: Bến xe Vĩnh Cửu, huyện Vĩnh Cửu
- Cự ly: 21 km
- Lộ trình: Bến xe Tp. Biên Hòa - đường Nguyễn Ái Quốc - đường 30/4 - đường Hà Huy Giáp - đường CMT8 - đường Huỳnh Văn Nghệ - đường ĐT.768 đến Bến xe Vĩnh Cửu, huyện Vĩnh Cửu.
- Doanh nghiệp vận tải khai thác:
+ Công ty CP vận tải Sonadezi
+ Điện thoại: 0613 837 097 hoặc 0986 157 157
+ Nơi bán vé tháng: Tại bến xe 2 đầu tuyến
- Giá vé:
+ Tháng: Giảm 25% giá vé lượt suốt tuyến
+ Tập: Giảm 25% giá vé lượt suốt tuyến
+ Lượt: Suốt tuyến: 4.000 đồng
- Số chuyến xe ngày: 92
- Giờ hoạt động: Từ 5:20 đến 18:10
- Giãn cách: Từ 10 đến 20 phút một chuyến
https://www.facebook.com/notes/th%C3...1293432277515/
===============
https://www.youtube.com/watch?v=lNgxv5yA9ls
Miếu Tổ Sư (Chùa Bà Thiên Hậu Bửu Long) Biên Hòa (có phụ đề)
“Miếu Tổ Sư” tọa lạc trên đường Huỳnh Văn Nghệ , khu phố 5, phường Bửu long, Biên Hòa – Đồng Nai. Người dân địa phương hay gọi là “Chùa Bà Thiên Hậu – Bửu long”.
Miếu do cộng đồng người Hoa, bang Hẹ xây dựng vào khoảng năm Khang Hy 16 (Canh Thìn 1680) để thờ tam vị tổ nghề : Ngũ Đăng (nghề đá), Lỗ Ban (nghề mộc), Uất Trì Cung (nghề rèn). Miếu còn phối thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Quan Thánh Đế Quân.
Khởi dựng là một ngôi miếu nhỏ, chỉ có gian chánh điện thờ 3 vị Tổ nghề, về sau vào năm 1886 – 1894 người Hoa bang Hẹ ở Bửu long làn ăn sung túc, phát tài mới góp công trùng tu nâng cấp như ngày nay.
Hàng năm miếu tổ chức vía theo âm lịch:
Thiên Hậu Thánh Mẫu 23/3
Tổ Sư 13/6
Quan Thánh Đế 24/6
Đáo lệ ba năm một lần miếu tổ chức lễ vía Tổ sư quy mô lớn trong 4 ngày.
Miếu được xếp hạng di tích lịch sử - Kiến trúc nghệ thuật 28/03/2008.
Đ.K: Nguyện nguyện Nam-mô Đại Từ Đại Bi Cứu khổ Quan Thế Âm Bồ- ...
Mẹ hiền Quan Thế Âm - Gia Dinh Phat Tu LINH SON
gdpt-linhson.vnparis.net/van-nghe/nhac-lam-a/tap-ca-lam-a08.htm
Xin Mẹ từ-bi cứu độ chúng con. Đêm nay ngoài kia mưa gío bão bùng. Thế gian quằn quại đau khổ điêu-linh. Lạy Mẹ Đức Quan Thế Âm Bồ-tát. Đoái nhìn lời con khấn cầu thiết tha. Tình Mẹ nguồn vui cao quý vô vàn. Cúi xin lạy Mẹ chứng cho lời con. Đ.K: Nguyện nguyện Nam-mô Đại Từ Đại Bi Cứu khổ Quan Thế Âm Bồ- ...
https://truclam.ca/a298/tam-thu-xay-...an-am-phat-dai
Nam mô Đại Bi Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát
EDMONTON BUDDHIST RESEARCH INSTITUTE
TU VIỆN TRÚC LÂM -TÂY THIÊN MONASTERY
11328-97 St. Edmonton, AB T5G 1X4 CANADA. Tel. (780)471-1093 Fax.(780)471-5394
Website: www.truclam.ca
TÂM THƯ
XÂY DỰNG QUÁN ÂM PHẬT ĐÀI
Edmonton, ngày 01 tháng 2 năm 2012
Nam mô Đại Bi Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát
Kính bạch chư tôn đức Tăng, Ni
Kính thưa quí thiện tín Nam, Nữ
Đại sĩ Quán Âm rất tuyệt vời
Cánh tay cứu độ hiện ngàn nơi
Không đâu cầu thỉnh mà không ứng
Biển khổ thuyền dong cứu độ người.
Thật vậy, đức Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân của bậc đại sĩ cứu khổ ban vui. Một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng Đại Bi, nền tảng của mọi công hạnh tu tập, mà cũng là chỗ nương cậy mong cầu cứu khổ của tất cả chúng sinh. Vì thế, các bậc hành giả khi tu tập đều quy hướng về Ngài như một tấm gương sáng để noi theo, và tất cả chúng sinh đang khổ đau cũng quy hướng về Ngài để được chở che, dắt dẫn. Cho nên, chúng ta cũng không lấy gì làm lạ khi từ kẻ quê mùa cho đến hàng trí giả, ai ai cũng thường cung kính niệm tưởng đến Ngài và gọi Ngài một cách thân thiện, gần gủi bằng hai tiếng “Mẹ Hiền”.
Hình tượng Phật, Bồ Tát là biểu tượng cao đẹp giúp chúng sanh hướng thượng và thanh tịnh hóa thân tâm. Để nói lên tấm lòng tri ơn Bồ Tát, học hạnh Từ Bi cũng như lưu giữ đôi nét văn hóa Phật Giáo tại xứ người chúng con/chúng tôi thành kính kiến tạo Quán Âm Phật Đài tại tu viện Tây Thiên thành phố Westlock, tỉnh bang Alberta, Canada. Dự án về các tôn tượng như sau:
1 bảo tượng Quán Âm ba thân tượng trưng Bi Trí Dũng bằng đồng cao 9.1m, 8 vị Thần Kim Cang đở chân tượng bằng đá trắng cao 1.850m. Tổng thể toàn tượng là 10.950m.
12 tôn tượng Hạnh Nguyện Quán Âm bằng đá trắng, mỗi tượng cao 2.8m,
1 tôn tượng Tứ Diện Quán Âm ngồi (4 mặt) bằng đá trắng sẽ an trí nơi hồ sen cao 3m
1 bàn hương án và đỉnh hương bằng đá trắng cao 2m.
Thời gian thực hiện công trình hơn một năm với kinh phí $800,000.00 (tám trăm ngàn Mỹ kim). Chúng con/ chúng tôi thành tâm cung thỉnh chư tôn thiền đức từ bi hộ niệm và khuyến thỉnh chư thiện nam tín nữ phát tâm trợ duyên để công trình sớm được hoàn thành như ý nguyện.
Mọi sự phát tâm cúng dường (chi phiếu) xin đề: Tu Vien Truc Lam và gửi về địa chỉ ghi trên, hoặc liên lạc về Tu Viện số điện thoại (780) 471-1093, email: info@truclam.ca
Ngưỡng nguyện đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ngàn tay nâng đở, ngàn mắt chiếu soi khiến cho tất cả chúng ta tứ đại thường hòa, chướng duyên tan biến, tâm nguyện Phật sự này sớm được viên thành.
Nam mô Thành Tựu Trang Nghiêm Công Đức Phật.
Sen búp kính bạch,
TK. Thích Pháp Hòa, Trụ trì
Edmonton Buddhist Research Institute
Authorized person: Toan Huynh (aka Thich Phap Hoa)
11328 – 97 Street
Edmonton, AB. T5G 1X4. CANADA
(780) 471-1093
https://truclam.ca/a298/tam-thu-xay-...an-am-phat-dai
Chùa Bà Thiên Hậu, Bửu Long
Di tích còn có tên gọi là Chùa Bà Thiên Hậu, thuộc địa bàn tổ 30, khu phố 5, đường Huỳnh Văn Nghệ phường Bửu Long. Đây là cơ sở tín ngưỡng của người Hoa bang Hẹ làm nghề đá ở Biên Hòa. Năm tạo dựng của di tích chưa xác định nhưng chắc chắn được xây dựng một thời gian khá lâu trước năm trùng tu là 1894. Miếu do chính những người Hoa bang Hẹ tạo dựng, nguyên vật liệu chủ yếu là loại đá khai thác tại vùng Bửu Long.
Ban đầu, ngôi miếu được xây dựng thấp. Năm 1894, khi trùng tu, người Hẹ đã cơi nới thêm phần vách tường, đồng thời toàn bộ kiến trúc miếu cũng được mở rộng, nâng cao. Dấu tích mái tường cũ của miếu vẫn còn lưu lại khá rõ nét. Kiến trúc hiện tồn của miếu theo lối hình chữ công, xung quanh có tường bao tạo kiểu “nội công ngoại quốc”; mặt tiền hướng về phía sông Đồng Nai. Gian điện chính dùng vào việc thờ phụng, bên trái thờ các vị tiền bối, hai bên phải dùng làm nhà khách và sinh hoạt. Đây là một kiến trúc tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ đá của người Hoa bang Hẹ ở Biên Hòa.
Đối tượng thờ chính tại miếu gồm: Ông Ngũ Đinh – tổ nghề đá; Ông Lỗ Ban – tổ nghề mộc; Ông Quốc Trì – tổ nghề sắt. Vì vậy, miếu có tên gọi ban đầu là Miếu Tổ sư. Trong chánh điện, Bà Thiên Hậu cùng phối thờ Thiên Long nhãn và Thuận Phong nhĩ; Đức Quan thánh cùng phối thờ có Quan Bình và Châu Xương; Phúc Đức chính thần. Ban đầu, những người Hẹ làm nghề đá chỉ dựng miếu thờ tổ của nghề là Ngũ Đinh, sau đó mới thờ các tổ nghề liên quan. Việc rước thờ bà Thiên Hậu trong miếu vào năm Đinh vị (1967) ở miếu Cây Quăn phía bờ sông Đồng Nai. Từ đây miếu có danh xưng: Thiên Hậu cổ miếu. Tên gọi này được tạc bằng chữ Hán trên cổng chính.
Bà Thiên Hậu được dùng với nhiều mỹ từ tôn kính là đối tượng giàu thần tích và linh ứng trong tín ngưỡng người Hoa. Truyền tụng, Bà Thiên Hậu có tên là Lâm Mặc, sinh ngày 23 tháng 3 (âm lịch) năm 960, tại huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc (đời nhà Tống). Khi Bà được sinh ra có đám mây ngũ sắc và hương thơm bao phủ khắp nhà. Từ khi còn nhỏ, Lâm Mặc đã có tài tiên đoán rất chính xác về thời tiết, giúp cho ngư dân trong vùng tránh được nhiều tai ương của nghề đi biển. Sau khi mất, Bà rất hiển linh. Người dân đi biển truyền kể thường gặp Bà cứu những thuyền bè lâm nạn. Cộng đồng người Hoa đến Việt Nam bằng đường biển quan niệm chính bà Thiên Hậu đã độ trì, giúp họ vượt qua bao cơn giông bão, tai ương trên chuyến hành trình vượt biển tìm đất sống. Vì vậy, khi đến vùng đất mới sinh sống, cộng đồng người Hoa không quên lập miếu thờ bà.
Thông lệ cứ 3 năm một lần, tại chùa Bà ở Bửu Long tổ chức lễ hội với quy mô lớn. Tên gọi chung là lễ hội Cầu an, kéo dài trong các ngày 10,11,12,13 tháng 6 (âm lịch). Đây là lễ hội lớn, có tục đấu giá đèn, thu hút nhiều người tham dự trong và ngoài địa phương. Trong lễ hội diễn ra nhiều nghi thức cúng Tổ sư nghề đá, bà Thiên Hậu, cầu an. Không gian lễ hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi di tích mà diễn ra rất sôi động trên địa bàn phường Bửu Long, đặc biệt tại các cơ sở tín ngưỡng liên quan như miễu Cây Quăn, miếu Tiên cô nương nương, bến nước sông trên địa bàn Bửu Long.
Kiến trúc Miếu Tổ sư nghề đá – Thiên Hậu cổ miếu là một trong những di tích nghệ thuật tiêu biểu trên vùng đất Biên Hoà, gắn liền với lễ hội tín ngưỡng độc đáo của cộng đồng cư dân địa phương. Những giá trị di sản văn hóa của di tích rất cần được lưu tâm trong quy hoạch phát triển tuyến du lịch chung của danh thắng Bửu Long.
Di tích Miếu Tổ sư – chùa Bà Thiên Hậu được xếp hạng lịch sử kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 981/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ngày 28 tháng 3 năm 2008.
www.CamNangDuKhach.com
https://www.facebook.com/camnangdukh...24764334356547
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa
VTC 16/08/2016 06:35 GMT+71 đăng lạiGốc
Tiếng lành đồn xa, người dân khắp nơi ùn ùn kéo đến mộ bà để đào móc ván hòm về làm thuốc, nên chẳng bao lâu các mảnh ván mục đã bị đào hết và hài cốt bà lộ ra.
Khi du khách tham quan khu du lịch Bửu Long (tọa lạc trên đường Huỳnh Văn Nghệ, phường Bửu Long, TP. Biên Hòa, Đồng Nai), nhìn lên một quả núi nhỏ sẽ thấy một ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi.
Không nhiều người biết rằng, miếu này do dân lập để thờ một nữ pháp sư, chuyên bốc thuốc cứu dân. Sau khi chết hiển thánh thành “Tiên cơ nương nương”. Từ đó, dân đặt tên miếu là “miếu bà Thánh”.
Sự tích bà Thánh “Tiên cương nương nương”
Theo tư liệu trong cuốn “Miếu thờ và lễ hội làm chay ở Biên Hòa” (NXB Đồng Nai, 2015), tiến sĩ Nguyễn Thị Nguyệt cho rằng, bà Thánh chỉ là một người phụ nữ người Hoa Hẹ bình thường. Bà cùng gia quyến sang Việt Nam sinh sống, lập nghiệp tại thôn Tân Lại (Bửu Long – Biên Hòa) vào thế kỷ XVII.
Còn ông Diệp Minh Thanh, thủ từ miếu hiện giờ nói lại theo lời bà ngoại của ông (bà Năm Kẻo, người coi trông miếu đến khi từ trần) kể rằng, bà Thánh hành nghề bốc thuốc bằng cây lá rừng hái xung quanh núi để cứu nhân độ thế, đồng nghề bà còn là một pháp sư tài giỏi có thể tiên đoán mọi việc. Bà là lớp người lưu dân từ Trung Quốc sang Việt Nam theo danh tướng tổng binh nhà Minh Trần Thượng Xuyên (1675- 1725). Hiện, chưa ai rõ tên tuổi chính xác của bà, nên gọi là bà Thánh.
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa - Ảnh 1
Tấm bảng chỉ dẫn đường lên cổ miếu bà Thánh. Ảnh: Ngọc Quốc
Tương truyền, để gợi nhớ về cố hương, bà Thánh ra sức trồng 100 cây dương quanh nhà mình, vừa làm thuốc vừa làm cây cảnh. Thật kỳ lạ, bà trồng mãi chỉ sống được 99 cây, còn cây thứ 100 thì thể sống được. Bà bấm độn ngón tay đoán biết trước nếu cây dương thứ 100 sống thì bà sẽ chết. Quả thật, khi trồng xong cây dương thứ 100, cây phát triển xanh tốt thì bà Thánh đột ngột từ trần trong nỗi tiếc thương của dân làng.
Trong cuốn “Biên Hòa sử lược” (xuất bản năm 1972), tác giả Lương Văn Lựu cho rằng, rừng dương của bà Thánh vẫn còn dấu tích là những gốc thông mục sau cơ sở làm đá xanh nổi tiếng ở Bửu Long Đặng Hữu Lợi.
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa - Ảnh 2
Ngôi miếu nằm trên đỉnh quả núi nhỏ trong Khu du lịch Bửu Long. Ảnh: Ngọc Quốc
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa - Ảnh 3
Chánh điện trang trọng thờ bà Thánh “tiên cương nương nương”. Ảnh: Ngọc Quốc.
Dân làng và gia quyến tiếc thương nên liệm bà trong chiếc quan tài bằng gỗ cây huỳnh đàn và lập ngôi miếu nhỏ thờ bà ngay tại căn nhà bà sinh sống. Còn mộ bà được chôn tại mảnh đất ven sông Đồng Nai...
Vách hòm mộ bà Thánh chữa được bách bệnh?
Ông Diệp Minh Thanh (65 tuổi), thủ từ miếu nhắc lại những câu chuyện xa xưa mà ông nghe được từ thời bà ngoại ông còn sống, rằng sau một cơn mưa rất lớn ngôi mộ bà Thánh nằm sát sông bị sạt lở làm cho vách hòm của bà Thánh lộ thiên, tỏa mùi hương thơm gỗ cây huỳnh đàn ngan ngát.
Cùng thời điểm ấy, dân vùng Bửu Long mắc dịch bệnh đậu mùa rất nặng. Bà Thánh hiển linh nhập vào một trinh nữ báo mộng rằng dân làng cứ lấy mảnh vách hòm của bà mang về bào mỏng hòa với nước uống sẽ khỏi bệnh ngay. Quả nhiên, một số người hết bệnh dịch.
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa - Ảnh 4
1. Ông Diệp Minh Thanh say sưa kể cho tác giả bài viết sự tích về bà Thánh “tiên cương nương nương”. Ảnh: Trí Bùi
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa - Ảnh 5
1. Ngôi tháp mộ bà Thánh nằm sau lưng miếu, sát bên triền núi Bửu Long. Ảnh: Trí Bùi
Trước chuyện này, bang trưởng người Hoa Hẹ là ông Huỳnh Phúng lo sợ bị bà “quở phạt” nên tiến hành làm cái lễ bái bà rất lớn rồi cho hốt tro cốt bà đựng vào cái khạp rước về miếu và đem chôn sau lưng miếu cho đến nay...
Miếu bà Thánh nằm trăm năm bình yên trên núi Bửu Long như để minh chứng một thuở lớp người xưa di dân đến mảnh đất Đồng Nai và họ phải bỏ bao công sức khó nhọc để khai phá và xây dựng mảnh đất mới mà an cư lạc nghiệp.
Quái dị chuyện lấy quan tài bà Thánh làm thuốc chữa bệnh ở Biên Hòa - Ảnh 6
1. Hàng năm vào ngày 23 tháng 7 (âm lịch), dân chúng tập trung về miếu làm lễ giỗ lớn và trang trọng cho bà Thánh. Ảnh: Ngọc Quốc
Du khách phương xa khi dừng chân bên miếu, bước lên 10 bậc thềm đá vô chánh điện thắp nhang cầu khẩn bà Thánh rồi ra phía sau lưng miếu chiêm ngưỡng ngôi tháp mộ bà được xây dựng bằng gạch men khá độc đáo.
Không gian quanh ngôi miếu bà Thánh nằm trên núi nên thoáng đãng, gió thổi mát rượi sẽ làm cho tinh thần con người cảm thấy bình an và phủi bỏ hết mọi bụi trần...
Trí Bùi
Bình luận
https://baomoi.com/quai-di-chuyen-la...c/20101717.epi
THẦN TÍCH PHẤN NHĨ QUỶ VƯƠNG THẦN NỮ VÀ MIẾU CÂY ME
Nguyễn Văn Nighệ
Ở chương 6 : “ Những nơi thờ phụng” trong tác phẩm “ Xứ Trầm hương” có viết về Miếu Cây Me như sau: “Miếu thuộc địa phận thôn Phú Ân Nam, cách miếu Cây Dầu Đôi vài trăm thước, bên cạnh đường Quốc lộ số 1.
Thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ, nhưng vì nằm dưới gốc cây me cổ thọ nên gọi là Miếu Cây Me”; “Miếu Cây Me linh có tiếng. Đi ngang qua, kẻ ngồi xe ngựa, phải xuống xe ngựa, kẻ đi bộ phải lấy nón cúi đầu”(1).
“ Miếu Cây Me linh có tiếng”, nhưng khi hỏi đến sự tích vị thần được thờ trong miếu là Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ thì chẳng ai biết cả , ngay cả Quách Tấn và chỉ được trả lời một cách chung chung là : Bà là một vị thần hung dữ (có lẽ người ta thấy có chữ “ Quỷ” nên kết luận như vậy!). Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ được người dân Khánh Hòa gọi tắt là “ Bà Phấn”.
Mặt tiền của miếu Cây Me bị quán giải khát che khuất
Miếu Cây Me nằm cạnh Quốc lộ 1 về phía tay phải tính từ bắc vào nam (vị trí miếu nằm khoảng giữa đoạn đường Cây Dầu Đôi và cầu Sông Cạn –nay gọi là cầu Trần Quí Cáp). Trước đây miếu thuộc xã Diên An , nay thuộc Thị trấn Diên Khánh.
Trong tác phẩm “Đình Nam Bộ Xưa & Nay” của tác giả Huỳnh Ngọc Trảng ghi : “ Một số miếu thờ Ngũ Hành nương nương bên cạnh các ngôi đình vùng Bình Chánh (TPHCM) tòng tự Hồ Ly tinh và Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ” và ở cuối trang ,tác giả chú thích: “Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ: Có lẽ là một loại ác thần gốc Bà la môn giáo của người Chăm đã bị Việt hóa, thờ ở vùng Phú Yên – Khánh Hòa” (2)
- Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ là ai vậy?
Với cách giải thích về sự tích Phấn Nhĩ Quỷ vương thần nữ của nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng làm tôi không hài lòng. Tôi quyết tâm tìm cho cho đến nơi đến chốn. Nhân đọc được đạo sắc phong cho Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ ở đình Hội Xương thuộc xã Suối Hiệp , huyện Diên Khánh ,tỉnh Khánh Hòa được ban cấp vào ngày 25/05/năm Khải Định thứ 9 (1924) thì tôi mới được tiếp cận chữ “Phấn” viết bằng chữ Hán. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có tất cả hai chữ cùng đọc âm “phấn” nhưng viết nét chữ khác nhau.Chữ “Phấn” trong Phấn Nhĩ Quỷ vương thần nữ thuộc bộ “Đại” (bên trên là chữ “Đại”, dưới chữ “ Đại” là chữ “Chuy”, dưới chữ “Chuy” là chữ “Điền”) và Thiều Chửu đã giải thích chữ “Phấn”: Chim dang cánh bay. Chim to sắp bay, tất dang cánh quay quanh mấy cái rồi mới bay lên gọi là phấn.
Tôi tìm đọc cuốn “ Tìm về cội nguồn chữ Hán” của Lí Lạc Nghị để xem giải thích chữ “Phấn” theo giáp cốt văn trong chữ Hán như thế nào và bên dưới những hình ảnh giáp cốt văn , tác giả giải thích: Có người bắt một con chim cho vào bên trong áo giữ, chim này đang vỗ cánh muốn bay về đồng ruộng. Nghĩa gốc là “loại chim vỗ cánh bay cao trên trời”(3) các giải thích trên ta có thể tạm kết luận là Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ có liên quan đến loài chim. Trong một chuyến đi Đà Nẵng tôi có dịp đến thăm miếu Bà Hàm Trung. Miếu xưa thuộc ấp Hàm Trung ,làng Xuân Thiều, huyện Hòa Vang (nay thuộc tổ 18, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng), miếu được dựng bằng vật liệu kiên cố vào năm Tự Đức thứ 15 (1862) và thờ hai vị thần nữ. Theo như thần vị ghi bằng chữ Hán ở trong miếu ,đó là:
Hồ Ly Cửu Vĩ tiên nương thần vị tiền.
Phấn Nhĩ Quỷ Vương tiên nương thần vị tiền
Theo lời kể của người dân trong vùng : Hồ Ly Cửu Vĩ tiên nương (Cáo 9 đuôi tu luyện thành tiên nữ) và Phấn Nhĩ Quỷ Vương tiên nương( Chim xù lông, tu luyện thành vương ,trấn giữ cõi quỷ) là hai chị em và là đấng bảo trợ cho dân làng. Xưa làng Xuân Thiều là một vùng đất hoang vu đầy chướng khí, rừng cây rậm rạp , có nhiều thú dữ. Những người đầu tiên đến khai khẩn vùng đất này gặp lắm hiểm nguy, hằng ngày phải chống chọi với thú dữ, bệnh tật hoành hành khiến nhiều người ốm đau ,chết chóc. Dân làng khấn nguyện thần linh phù hộ để họ vượt qua những khó khăn đang bao quanh họ. Vào một đêm nọ dân làng thấy một con cáo 9 đuôi từ trong hang chui ra và một con chim lông xù từ trên núi bay về và biến thành hai người phụ nữ xinh đẹp. Hai bà trừ khử thú dữ và chữa bệnh cho dân trong làng. Sau đó không ai thấy hai bà nữa, kể từ đó trong làng được bình yên. Dân làng tin là tiên nương trên trời xuống giúp nên lập miếu thờ.
Các bàn thờ bên trong miếu Cây Me.
Tín ngưỡng thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ ở Khánh Hòa là do những cư dân từ miền ngoài mang vào khi đến định cư ở vùng đất Khánh Hòa.
- Những nơi thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương ở Khánh Hòa
Ngoài Miếu Cây Me như Quách Tấn đã viết , trong tỉnh Khánh Hòa còn có các nơi thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ:
Miếu Thanh Tự Trung (còn gọi là Miếu Vuông), thuộc xã Diên An ,huyện Diên Khánh.
Miếu Bà Cư Thạnh , thuộc thôn Cư Thạnh ,xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh.
Miếu Bà Hội Xương ,thuộc làng Hội Xương , xã Suối Hiệp, huyện Diên Khánh.
Miếu Rù Rì, nay thuộc làng Văn Tứ ,xã Cam Hòa , huyện Cam Lâm .Sau khi theo Trần Bá Lộc ra Khánh Hòa đàn áp phong trào Cần vương ở tỉnh Khánh Hòa năm 1886, Aymonier đã cho xuất bản tác phẩm Notes sur l’Annam (Ghi chép về xứ An Nam) ,trong phần viết về đoạn đường giữa trạm Hòa Do và trạm Hòa Tân như sau: “Enfin on atteint un petite village très ombragé que les Annamites du Khánh Hòa appellent Trong Bong où est une petite pagode appelée Rù Rì” ( Sau cùng người ta đến một ngôi làng nhỏ, nhiều bóng mát mà những người An Nam ở Khánh Hòa gọi tên Trong Bong (4), nơi đó có một ngôi miếu nhỏ có tên Rù Rì) (5). Sau năm 1954 không ai bảo quản nên miếu Rù Rì trở thành phế tích ,chỉ còn các bức vách chung quanh và đôi câu đối viết trên cột
- Hộ quốc tí dân vi đức kỳ thịnh hỹ
- Hãn tai ngự hoạn hữu công tất tự chi
Cách nay khoảng vài năm phế tích ấy đã được san ủi để xây dựng Trường Tiểu Học Cam Hòa 1- Điểm Văn Tứ.
- Những lệch lạc trong việc thờ tự Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ.
Miếu Bà Cư Thạnh (xã Suối Hiệp) là miếu thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ, miếu có sắc phong và trong miếu có thần vị ghi danh hiệu của thần nữ nhưng không biết vì lí do gì mà cách nay khoảng vài năm trước miếu đắp dòng chữ “ Miếu Thiên Y” bằng vật liệu xi măng, phía trước thần vị Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ lại đặt một tượng Bà Thiên Y. Miếu Thanh Tự Trung cũng vậy, tuy không đắp chữ Miếu Thiên Y , nhưng bên trong cũng thiết đặt tượng Bà Thiên Y. Người xưa rất trọng thuyết “ Chính Danh” bởi vì “danh chính ngôn thuận”. Miếu Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ thì thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ chứ không thể thờ Thiên Y được hoặc ngược lại.
- Miếu Cây Me xưa và nay
Miếu Cây Me được kiến tạo vào năm 1885 và đã qua 3 lần tái thiết: Tái thiết lần 1 không rõ năm ; lần2 vào năm 1960; lần 3 vào năm 2002.
Miếu Cây Me trước đây có sắc phong nhưng bị thất lạc trong thời chiến tranh. Do không hiểu thần tích của Phấn Nhĩ Quỷ vương thần nữ nên các bô lão trong khu vực chung quanh miếu Cây Me cho rằng Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ chính là nữ tướng Bùi Thị Xuân thời nhà Tây Sơn. Tướng của nhà Tây Sơn làm sao được thờ tự công khai trong suốt dưới triều nhà Nguyễn?
Khu vực trường học , nơi trước đây là miếu Rù Rì thờ Phấn Nhĩ Quỷ vương thần nữ.
Ở ngay góc sân bên phải của Miếu Cây Me trước đây có một cây me cổ thụ đến mùa ra hoa , hoa rơi đầy sân và cộng với sự linh thiêng của ngôi miếu nên khi tái thiết đợt 2 , một nhà Nho ở đất Diên Khánh cho đôi câu đối bằng chữ Hán rất hay viết trên hai cột trước miếu(đôi câu đối ấy tồn tại cho đến năm 2002) :
-Miếu mạo kỷ niên lai, cổ thụ đình tiền hoa như cẩm
- Oai linh thiên cổ tại, hành nhân lộ thượng khẩu thắng bi
Tạm dịch : Miếu mạo bao năm nay, cổ thụ (cây me) trước sân hoa như gấm/ Oai linh ngàn năm vẫn còn, người đi trên đường miệng khen còn hơn bia đá.
Năm 2002 Miếu Cây Me được tái thiết đợt 3 và do mở rộng Quốc lộ nên cây me cổ thụ không còn nữa , Ban tái thiết miếu không dùng lại đôi câu đối ấy nữa và anh Võ Nhân, một người am tường chữ Nho đã cho đôi câu đối để thay thế :
Nhai đồ quảng tịch, hành nhân chiêm ngưỡng tán anh linh
Miếu hiệu do tồn, cổ thụ hình dung lưu kí ức
Tạm dịch ( Đường sá mở rộng , người đi đường chiêm ngưỡng miếu , khen ngợi là anh linh/ Tên miếu vẫn còn( Cây Me đã chặt mất), nhưng hình dáng cây me cổ thụ vẫn còn lưu trong kí ức ) .
Tiếc thay đôi câu đối chỉnh niêm luật, nội dung thâm thúy không được Ban tái thiết dùng mà lại sử dụng đôi câu đối không đúng luật đắp trên hai cột giữa trước miếu:
Đình tiền lộ quảng cây me lưu miếu tích
Ấp nội nhân đồng tái thiết đáp thần ân
Về cách thờ tự trước thời điểm tái thiết miếu lần 3 vào năm 2002 so với hiện nay cũng có khác nhau. Trước khi tái thiết lần 3 , trong miếu có tất cả 5 bàn thờ và tất cả đều ghi bằng chữ Hán. Bàn thờ chính giữa thờ Phấn Nhĩ Quỷ vương thần nữ với chữ “Thần” ; bên tả của bàn thờ chính giữa là bàn thờ Tam Giáo Tổ Sư; bàn thờ bên hữu của bàn thờ chính giữa là bàn thờ Ngũ Phương Thổ Công; bàn thờ vách phía đông là bàn thờ Tiền Hậu Bối; bàn thờ vách phía tây là bàn thờ Âm Cô Hồn.
Sau khi tái tiết năm 2002 ,trong miếu vẫn 5 bàn thờ nhưng có sự thay đổi : Bàn thờ chính giữa vẫn là bàn thờ Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ; bên tả bàn thờ giữa là bàn thờ Tam Giáo Đạo Sư (trước đây là chữ “Tổ” nay thay bằng chữ “Đạo”), bên hữu bàn thờ giữa là bàn thờ Tả Hữu Chi Thần; bàn thờ vách phía đông là bàn thờ Tiền Hậu Bối Linh; bàn thờ vách phía tây là bàn thờ Quản Cuộc (Cục) Thổ Công.
Như vậy hiện nay trong miếu thêm bàn thờ Tả Hữu Chi Thần và bỏ bớt bàn thờ Âm Cô Hồn. Theo nhận xét của tôi thì đây là lần đầu tiên tôi thấy Tả Hữu Chi Thần cùng chung một bàn thờ. Người xưa đặt ra cách thờ tự rất có í nghĩa. Tả Hữu không thể cùng chung trên một bàn thờ . Nếu cùng chung trên một bàn thờ thì Tả/ Hữu của ai? Vả lại người xưa quan niệm : “ Tả hữu bất đồng danh phận”. Trong tất cả đình , miếu ở Khánh Hòa khi thiết lập bàn thờ tả ban, hữu ban thì bên tả bàn thờ chính giữa là bàn thờ Tả Ban Liệt Vị; bên hữu bàn thờ chính giữa là bàn thờ Hữu Ban Liệt Vị.
- Nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt
Câu chuyện Tả quân Lê Văn Duyệt bị Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ quở phạt khi đi ngang qua miếu Cây Me mà không chịu xuống võng được Quách Tấn ghi lại, nếu là người am tường lịch sử họ sẽ cho câu chuyện ấy hoàn toàn được bịa đặt. Bởi vì Tả quân Lê văn Duyệt mất năm 1832 mà Miếu Cây Me mãi đến năm 1885 mới được kiến tạo. Tuy vậy câu chuyện ấy vẫn lưu truyền theo dòng thời gian mà không bị đào thải. Tác giả câu chuyện ấy không chú trọng mốc thời gian mà chỉ chú trọng nội dung câu chuyện để giáo dục hậu thể bài học tôn kính những nơi thờ phụng: Cho dù có làm quan to đến đâu đi nữa nhưng khi đi ngang trước những nơi thờ tự phải có thái độ tôn kính. Tỏ thái độ tôn kính khi đi ngang qua những nơi thờ tự tôn giáo, tín ngưỡng là nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt . Song nét đẹp văn hóa tâm linh ấy dường như biến mất trong thời đại chúng ta đang sống. Nhiều nơi thờ tự bị xâm phạm không còn cảnh trang nghiêm ,linh thiêng như trước đây nữa . Người đi đường khi nhìn vào Miếu Cây Me sẽ thấy ngay trước miếu có một quán nước che chắn làm mất đi vẻ mỹ quan của miếu, khiến người đi đường không thể nào “ chiêm ngưỡng tán anh linh” được!
Cùng chung tay giữ gìn cảnh quan những nơi thờ tự luôn xanh- sạch- đẹp và trang nghiêm cũng là thể hiện nét đẹp trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân Việt trong thời hiện đại.
Nguyễn Văn Nghệ
Chú thích;
Quách Tấn, Xứ trầm hương, Nxb Văn học nghệ thuật Khánh Hòa, trang 235-236.
Huỳnh ngọc Trảng& Trương Ngọc Tường, Đình Nam bộ xưa&nay, Nxb Đồng Nai, trang 142.
Lí Lạc Nghị, Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế Giới, Hà Nội 1997, trang 833.
Địa danh Trong Bong. Dân địa phương ở xã Cam Hòa nơi có phế tích miếu Rù Rì gọi là Đồng Bông.
Theo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định soạn xong năm 1806 gọi địa danh ấy là Bồng Bông.
5- Étienne Aymonier, Notes sur l’Annam (deuxième partie Le Khanh Hoa) , Saigon Imprimerie Coloniale 1886, page 16.( Ghi chép về xứ An Nam- Phần 2 Khánh Hòa).
Nguyễn Văn Nghệ
8/2014
http://www.ninh-hoa.com/images/Nguye...uyVuong-02.jpg
http://www.ninh-hoa.com/images/Nguye...uyVuong-01.jpg
http://www.ninh-hoa.com/NguyenVanNgh...uongThanNu.htm
Văn Miếu Trấn Biên ra đời được xem như là "Văn Miếu Quốc Tử Giám" của Nam Bộ. Ðây chính là biểu trưng cho truyền thống học tập, hào khí và văn hóa của người Việt phương Nam. Văn Miếu là nơi thờ phụng các danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước và là biểu trưng của nền văn hóa dân tộc. Với các công trình được xây dựng theo kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở Hà Nội, gồm các hạng mục: nhà thờ chính, tả vu hữu vu, sân hành lễ... thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo,
kính trọng hiền tài.
http://thongtinxamxam.blogspot.com/2...a-van-bia.html
Hội quán, Đạo quán và chùa Phật giáo người Hoa ở Saigon.
Nói đến người Hoa ở vùng Saigon (chung cho Sài Gòn - Chợ Lớn), có lẽ cũng nên nhắc lại đôi chút về lịch sử của họ. Người Hoa có mặt ở vùng Saigon vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII, khi ở Trung Hoa nhà Thanh đã lật đổ hoàn toàn nhà Minh vào năm 1644. Những người buộc phải ra đi là những người chống lại nhà Thanh không thành và bị đàn áp, bắt bớ. Thoạt đầu họ được chúa Nguyễn cho định cư ở vùng Đồng Nai và một vài nơi tại miền Tây Nam bộ. Tại Đồng Nai mà họ gọi là Nông Nại, người Hoa đã lập nên Cù Lao Phố sầm uất một thời.
Kẹt giữa cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và nhà Nguyễn Tây Sơn của anh em Nguyễn Huệ, vì theo giúp chúa Nguyễn nên họ đã bị nhà Nguyễn Tây Sơn tàn sát khi anh em Nguyễn Huệ kéo quân đến Đồng Nai. Người Hoa ở Cù Lao Phố chạy về vùng Saigon bây giờ, ở đó họ còn chịu những tổn thất nữa cho đến khi Nguyễn Ánh đánh thắng quân Tây Sơn, và lên ngôi năm 1802. Người Hoa khi đến Saigon, đã biến vùng Chợ Lớn bây giờ thành một trung tâm buôn bán sầm uất của cả miền Nam. Cùng với những khởi sắc về kinh tế, họ cũng đã đặt những nền tảng về giáo dục, văn hóa, tín ngưỡng riêng của họ... mà điển hình là về mặt tín ngưỡng.
Một trong những điển hình về tín ngưỡng của họ là những ngôi miếu mà tên chữ gọi là Hội quán, và gọi theo dân gian là "chùa Tàu". Các bạn nào ở Saigon chắc đã nghe nói đến chùa Tàu, một cách nói nôm na về những nơi thờ phượng của người Hoa ở Saigon. Người Hoa họ gọi những nơi này là Hội quán, từ điển giải nghĩa Hội quán là "nơi gặp gỡ, tụ họp của một hội". Đối với người Hoa, kể từ thời chúa Nguyễn ở vào các thế kỷ trước, khi đã có mặt khá đông đúc tại đất Gia Định, và cuộc sống đã ổn định họ lập ra những Hội quán, đó là nơi tụ họp, gặp gỡ của những người cùng một "Bang", bang là một tổ chức của những người Hoa đồng hương. Ở Saigon người Hoa có những bang tiêu biểu như bang Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam, Hẹ... Ngày trước năm 1975, một bang của người Hoa như thế được tổ chức khá quy mô, thường gồm một hay vài miếu thờ (Hội quán), trường học các cấp, bệnh viện, nghĩa trang (người Hoa gọi là Nhị tì)... Đó là một hình thức nương nhờ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng của họ nơi đất khách quê người.
Có khá nhiều Hội quán của người Hoa ở vùng Saigon, đó là nơi tụ họp, gặp gỡ, thông qua hình thức tín ngưỡng. Người Hoa thờ đa thần, kết hợp giữa Phật giáo, Lão giáo, và tín ngưỡng dân gian. Trong những Hội quán của họ thờ rất nhiều vị thần. Họ thờ từ Đức Phật Như Lai, Phật Bà Quán Thế Âm, cho đến Ngọc Hoàng Thượng Đế, Bà Chúa Thai Sinh, Bà Thiên Hậu, Phật Bà Nam Hải, Quan Thánh Đế Quân, Ông Bổn, Thổ Thần, Thổ Địa, Thần Tài, cho đến Thày trò Đường tăng... Tuy nhiên phổ biến tên gọi dân gian của những Hội quán là chùa Ông, chùa Bà... Có điều đặc biệt tuy gọi là chùa, nhưng những nơi này xưa nay hoàn toàn không có sư tăng như những ngôi chùa của người Việt, quản lý một ngôi miếu là một Ban trị sự. Có lẽ những miếu thờ, Hội quán này có chức năng như ngôi Đình của người Việt. Trong entry này tôi muốn giới thiệu với các bạn về một vài nơi thờ phượng của người Hoa, trong đó có những ngôi chùa Ông, chùa Bà tiêu biểu của họ ở Saigon, cùng một vài nơi tín ngưỡng khác khá độc đáo, mà có thể ngay cả các bạn ở Saigon lâu năm cũng không biết...
- Ngôi chùa Ông lớn nhất của người Hoa ở Saigon (Miếu Quan Công - Nghĩa An hội quán):
Nghĩa An hội quán. Ảnh Internet.
Những khoanh nhang vòng nơi chùa Tàu. Ảnh Internet.
Đó là ngôi miếu thờ Quan Công (Quan Vũ, Quan Vân Trường), tọa lạc tại số 678 Nguyễn Trãi, quận 5. Hội quán của bang Triều Châu (còn gọi là người Tiều), do những di dân người Triều Châu và người Hẹ sống ở Triều Châu thành lập. Không rõ lập năm nào, nhưng năm 1818 trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức có nhắc đến hội quán Triều Châu: "Đường lớn đầu phía Bắc có miếu Quan Thánh và ba hội quán Phước Châu, Quảng Đông, Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu... Hễ gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt bàn, đua tranh kỳ xảo...".
Như tất cả các ngôi chùa Tàu khác, tuy được gọi là chùa Ông, chùa Bà, nhưng bên trong thờ rất nhiều vị thần của người Hoa như Phúc Đức Chính Thần (Thổ Thần), Tài Bạch Tinh Quân (Thần Tài), Mã Đầu Tướng Quân tay cầm cương ngựa Xích Thố. Nơi Mã Đầu Tướng Quân và con ngựa Xích Thố này tôi hay thấy mấy chị phụ nữ sau khi cầu khẩn, lắc lắc cái chuông đeo nơi cổ Xích Thố, có khi còn chui qua bụng con ngựa. Chùa Ông nhưng cũng có thờ Bà Thiên Hậu, theo hầu là hai tiên nữ, và hai vị thần là Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ...
Là Chùa Ông, nên Quan Đế là vị thần được thờ chính, có câu hoành phi chữ Hán trong chính điện nêu lên công đức của ngài: Nghĩa khí trung tâm nguy nguy đế đức tham thiên địa/ An Lưi tá Hán hách hách thần uy quán cổ kim. (Nghĩa khí lòng trung đức ngài cao sánh trời đất/ Giúp Lưu (Lưu Bị) phò Hán uy thần lừng lẫy khắp xưa nay).
Hàng năm lễ cúng Quan Đế được tổ chức vào ngày 24 tháng 6 âm lịch, là ngày cúng lớn nhất của hội quán. Ngoài lễ phát lộc bánh trái cho trẻ em, người lớn được vay vốn để làm ăn, còn có hát Tiều, hát Hồ Quảng...
- Ngôi chùa Bà lớn nhất (Miếu Thiên Hậu - Tuệ Thành hội quán):
Tuệ Thành hội quán. Ảnh Internet.
Chánh điện. Ảnh Internet.
Chùa Bà còn gọi là miếu thờ Thiên Hậu, tọa lạc tại số 710 Nguyễn Trãi, quận 5, là ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của cộng đồng người Hoa bang Quảng Đông, gốc ở thành phố Quảng Châu - Trung quốc. Do tên Tuệ Thành còn là biệt hiệu của thành phố Quảng Châu, nên cộng đồng người Hoa khi đến Việt Nam định cư, đã lấy tên gọi này làm tên cho hội quán. Đây là ngôi miếu thờ Bà Thiên hậu lớn nhất trong tổng số 7 miếu thờ Bà tại Saigon. Chùa Bà Thiên Hậu được xây dựng vào khoảng năm 1760 (đầu triều đại Mãn Thanh). Do những thương nhân Trung Hoa đi thuyền buôn sang buôn bán. Khi đi biển họ thường van vái Thánh Mẫu phù hộ đi bình an, cho nên những thương nhân khi đến vùng này đã quyên góp tiền bạc xây nên ngôi miếu này, cũng là nơi dừng chân cho họ khi đến Saigon.
Điện thờ chính trong miếu dành cho Bà Thiên Hậu. Bà tên thật là Lâm Mặc Nương, sống ở tỉnh Phúc Kiến vào thế kỷ thứ X. Theo truyền thuyết Bà là người hiếu thảo và có lòng thương người, hay giúp đỡ người khác. Bà rất thông minh, có tài tiên tri, chữa bệnh, trừ tà..., được nhiều người thương yêu. Bà mất năm 987 lúc 28 tuổi, được người dân lập miếu thờ. Trước khi vượt biển những thương nhân thường đến cầu xin Bà đi về bình yên.
Cũng như những ngôi chùa Tàu khác, chùa Bà Thiên Hậu còn có những khám thờ Quan Thánh Đế Quân, Địa Tạng, Thần Tài, Thổ Địa, Long Mẫu Nương Nương, Kim Hoa Nương Nương... Cả đức Phật Thích Ca cùng Phật Bà Quán Thế Âm...
Hàng năm lễ vía Bà được tổ chức long trọng vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, và ngày lễ Thượng Nguyên (rằm tháng giêng), vào những ngày này là ngày hội đèn lồng (sau lễ những chiếc đèn lồng được tổ chức bán đấu giá lấy tiền làm phước thiện. Thường những doanh nhân người Hoa đấu giá mua để lấy may mắn). Dịp này chùa Bà cũng có hát Quảng, múa lân, múa rồng tưng bừng...
- Ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của người Hoa ở Saigon:
Toàn cảnh chùa Nam Phổ Đà. Ảnh Internet.
Cổng chùa Nam Phổ Đà.
Một buổi lễ tại chùa Nam Phổ Đà. Ảnh Internet.
Trong khi những Hội quán thờ Bà và thờ Ông với tín ngưỡng dân gian của người Hoa đã có từ rất lâu trước đó, thì chùa Phật giáo nơi người Hoa ở Saigon mãi đến gần giữa thế kỷ XX mới được xây dựng. Chùa Nam Phổ Đà là ngôi chùa Phật giáo của người Hoa được xây dựng đầu tiên ở Saigon vào năm 1945. Chùa Nam Phổ Đà được xây dựng bởi hai vị hòa thượng Thống Lương và Thanh Thuyền tại số 117 Hùng Vương, quận 6, đặt nền móng cho Phật giáo Hoa tông sau này. Đây là một ngôi chùa Phật giáo đại thừa Bắc tông, được phát triển bởi hai vị hòa thượng Vinh Tâm và Hư Trung, truyền thừa của hai phái thiền Lâm Tế và Tào Động từ Trung Hoa.
Chánh điện của chùa có tượng Tam Tôn, thờ Di Đà, Quan Âm, Thế Chí. trong chùa còn thờ các vị Bồ tát của Phật giáo như Chuẩn Đề, Văn Thù, Phổ Hiền..., có cả khám thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế. Tại sân thiên tỉnh (giếng trời của ngôi chùa), có tháp cải táng của các hòa thượng người Phúc Kiến trước đây tu tại chùa Nam Phổ Đà.
- Ngôi Đạo quán duy nhất của người Hoa ở Saigon (Đạo giáo - Khánh Vân Nam Viện):
Cổng Khánh Vân Nam Viện. Ảnh Internet.
Khánh Vân Nam Viện. Ảnh Internet.
Ngôi Đạo quán (Đạo giáo) duy nhất của người Hoa ở Saigon là Khánh Vân Nam Viện (trên cổng ghi là chùa), tọa lạc tại số 46/5 Lò Siêu, quận 11, được xây dựng từ năm 1941 trên một khu đất khá rộng khoảng 2.000 mét vuông. Chánh điện là Thái Thanh cung thờ Thái Thượng Lão Quân, phía sau chính điện là phòng thờ Phật Thích Ca. Tiền điện thờ Vương Đại Thiên Quân (vị Hộ pháp của Đạo giáo), bên phải thờ Phúc thần. Trung điện thờ Hoa Đà Giáo Chủ, Phật Bà Quán Thế Âm, Quan Công, Lữ Động Tân, Huỳnh Đại Tiên, có cả bài vị thờ Thổ Địa...
Những ngày lễ chính gồm: lễ cúng Lữ Tổ ngày 14-4 âm lịch, vía Quan công 24-6 âm lịch, vía Ngọc Hoàng 9-1 âm lịch...
- Hội quán Lệ Châu (nhà thờ Tổ nghề thợ bạc) ở Saigon:
Hội quán Lệ Châu. Ảnh Internet.
Bàn thờ Tổ. Ảnh Internet.
Tấm vải ghi Sắc phong Tổ sư Kim hoàn. Ảnh Internet.
Một buổi lễ giỗ Tổ nghề kim hoàn. Ảnh Internet.
Hội quán Lệ Châu, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Saigon tọa lạc tại số 586 đường Trần Hưng Đạo B, quận 5, trên một khu đất rộng 805 mét vuông. Trong sách Sài Gòn năm xưa cụ Vương Hồng Sển viết: "Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là 'chùa tổ' thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm". Tài liệu lưu trữ tại Hội quán Lệ Châu cho biết đây là ngôi nhà thờ tổ nghề kim hoàn ở Saigon của người Việt, còn ghi trên bia đá, sau đó theo như cụ Vương Hồng Sển những thợ bạc người Hoa đến cùng thờ chung. Lệ Châu là lấy từ câu trong sách thiên tự văn: "Kim trầm Lệ thủy/ Ngân xuất Châu đê" (Vàng chìm sông Lệ/ Bạc xuất đê Châu), như vậy tên Lệ Châu có nghĩa là vàng bạc.
Không có tài liệu nào cho biết ngôi nhà thờ tổ nghề kim hoàn này được xây dựng từ năm nào, chỉ có bốn tấm bia ghi năm trùng tu nhà thờ, sớm nhất là vào tháng 4 năm Quý Tỵ (1893), như vậy hội quán phải được xây dưng trước đó, đến nay cũng đã được trên 100 năm. Theo như truyền tụng thì nhà thờ tổ sư nghề kim hoàn này được dựng để thờ một vị tổ sư họ Trần (không rõ tên) là người từ miền ngoài vào, nguyên là thợ bạc trong cung, học nghề thợ bạc từ hai vị tổ của nghề kim hoàn Việt Nam là hai cha con: "Đệ nhất tổ sư" Cao Đình Độ (1743-1810), và "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương (1773-1821).
Lễ giỗ tổ nghề kim hoàn tại Hội quán Lệ Châu được tổ chức vào ngày 7 tháng 2 âm lịch, là ngày giỗ của "Đệ nhị sư tổ" Cao Đình Hương. Ngày xưa lễ giỗ có rất đông thợ bạc ở khắp Nam Kỳ lục tỉnh về dự trong ba ngày, rất trang trọng. Lễ vật cúng tổ chính gồm một con heo và hai con vịt (không quay), và món ăn chính chiêu đãi trong ngày giỗ chủ yếu là thịt vịt. Bởi quan niệm vịt là loài ở dưới nước luôn được tắm gội sạch sẽ, người xưa có ý khuyên các nghệ nhân kim hoàn phải trong sạch, giữ đạo đức trong nghề nghiệp.
Tại một số nơi khác như Tiền Giang, Bến Tre thợ bạc cúng tổ là ba anh em họ Trần (Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền), vào ngày 12 tháng 2 âm lịch, như một số làng Định Công, Đồng Sâm, Châu Khê... ở miền Bắc...
Đối với tín ngưỡng của người Hoa ở Saigon, còn một nơi thờ phượng rất phong phú, không phải Hội quán, Đạo quán, hay chùa Phật giáo, mà gọi là Điện. Đó là Điện Ngọc Hoàng ở vùng Đakao, quận 1, có lẽ tôi sẽ viết riêng một entry về nơi này, vào một dịp sắp tới.
Tham khảo:
- Một số cơ sở tín ngưỡng dân gian, nhiều tác giả, Ban Quản lý di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh TP HCM, xuất bản năm 2001.
- Các vị tồ ngành nghề Việt Nam, tập 1, Lê Minh Quốc, NXB Trẻ, xuất bản năm 2010.
- Hỏi đáp về Sài Gòn TP HCM, tập 6, Kiến trúc & Tín ngưỡng, nhiều tác giả, NXB Trẻ xuất bản năm 2007.
https://ngochieppham.blogspot.com/20...phat-giao.html