-
Bí ẩn linh thiêng trong ngôi miếu 400 năm tuổi
Thứ bảy, 08/11/2014 | 07:28 GMT+7
Bài thuốc cứu tinh cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh dạ dày, đại tràng của lương y Đoàn Duy Khánh
(ĐSPL) - Miếu Bà Chúa Ngọc hay được gọi miếu Bà Chúa sông Cu Đê có lịch sử hàng trăm năm tuổi và gắn liền với lịch sử của vùng đất nơi đây. Xuôi theo cửa biển Nam ô chừng 300m về phía tây, hình ảnh gò đất "nhất thiên" nằm giữa lòng sông Cu Đê nơi ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ngọc gắn với nhiều câu chuyện huyền bí.
Gò đất nổi như phao cứu sinh
Tọa lạc trên bãi bồi giữa cửa biển Nam ô, phường Hòa Hiệp Bắc- quận Liên Chiểu, Đà Nẵng, miếu Bà Chúa Ngọc hình thành và tồn tại hơn 400 năm trên gò đất bồi giữa lòng sông Cu Đê. Miếu Bà trở thành nơi được người dân không chỉ ở làng Thủy Tú mà cả người dân khắp vùng tôn kính.
Bí ẩn linh thiêng trong ngôi miếu 400 năm tuổi - Ảnh 1
Ngôi miếu cổ.
Cụ Trần út (89 tuổi) cho biết: "Từ nhỏ tôi đã được các vị cao niên trong thôn kể, ngôi miếu này được xây dựng từ thời Chăm Pa có niên đại hơn 400 năm". Như lời cụ út thì xưa kia gò đất nơi có ngôi miếu thờ Bà Chúa sông Cu Đê chỉ là một hòn đá nổi lên giữa lòng sông do bão lớn. Theo thời gian lũ từ thượng nguồn sông Cu Đê kéo theo đất đá mà hình thành nên gò đất như ngày nay.
Trước kia làng chài Thủy Tú chủ yếu sống dọc bên bờ nam của con sông Cu Đê hung dữ bằng nghề chài lưới và chăn nuôi trâu, bò. "Cuộc sống càng trở nên khó khăn, vất vả, bắt buộc người dân phải tìm nơi trồng lúa và chăn nuôi gia súc mới. Gò đất nổi lên giữa sông như chiếc phao cứu sinh càng tiếp thêm sức mạnh cho những người muốn vượt sông sang bên bờ bắc để khai phá đất trồng và chăn thả gia súc. Nhưng kỳ lạ là từ khi gò đất hình thành, người dân và gia súc đi qua đoạn sông này chết do đuối nước ngày càng nhiều hơn”, ông út nói.
Sự hình thành của ngôi miếu đến nay dù không ai biết rõ, nhưng trong tâm tưởng người dân vùng đất sông nước nơi đây, miếu Bà ẩn chứa những câu chuyện huyền bí. ông út kể tiếp: "Được tin nhiều người cùng bầy gia súc chết do đuối nước, người dân làng Thủy Tú hết sức hoang mang và không dám vượt sông. Thế rồi, một người phụ nữ trong làng bỗng dưng nói rằng người dân làng Thủy Tú "phải" xây dựng một ngôi miếu thờ thì mới được bình an vô sự. Vậy là ngôi miếu được hình thành từ đó".
Để tìm hiểu thực hư cho những câu chuyện ly kỳ đó, PV tìm đến nhà cụ Lê Lục, người được dân Thủy Tú kính trọng và hằng suy tôn như một cuốn lịch sử của làng. Dù đã ngoài 90 tuổi nhưng khi chúng tôi hỏi về ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa sông Cu Đê thì ánh mắt cụ ngời lên tỏ vẻ tinh anh.
Cụ Lục cho PV biết: "Từ thời Chăm Pa đang còn sinh sống trên vùng đất này, Bà Chúa Ngọc được gọi là Po Yan Inư Nagar (thường gọi là Po Nagar) là thần Mẹ xứ sở. Bà là người tạo dựng nên vương quốc, người đã giáng sinh giữa mây trời và bọt biển. Theo truyền thuyết, bà có 97 chồng, sinh được 38 người con. Bà là người tạo ra muôn loài trên trái đất, bà còn là người tạo ra cây trầm hương và sản sinh nghề trồng lúa nước ngày nay. Không những vậy, bà chính là người mang mưa thuận gió hòa cho mùa màng, thuận lợi cho xứ chài Thủy tú đánh bắt cá trên vùng hạ lưu sông Cu Đê. Người Chăm cho rằng, Po Yan Inư Nagar chính là nữ thần Uma, vợ hay thần nữ của thần Siva, còn có tên là thần Bhagavati".
Bí ẩn linh thiêng trong ngôi miếu 400 năm tuổi - Ảnh 2
Cụ Trần út.
Cụ Lục còn cho biết thêm: "Cách đây hơn 400 năm người dân xứ Thủy Tú (làng Thủy Tú- Nam ô ngày nay) rất nghèo khổ, cuộc sống chủ yếu bằng nghề chài lưới bên con sông Cu Đê hung dữ, vì vậy hàng năm có rất nhiều người chết do nước lũ làm lật thuyền. Sau khi được Bà "hiển linh chỉ bảo" người dân nơi đây đã cùng nhau quyên góp tre, nứa mà xây dựng nên ngôi miếu thờ Bà trên chính gò đất giữa lòng sông này ".
Nhớ công ơn của Bà chúa nước
Theo tìm hiểu của PV, ban đầu ngôi miếu được xây dựng chủ yếu bằng tre nứa, lưng miếu tựa vào thượng nguồn sông Cu Đê, mặt miếu hướng ra cửa biển Nam ô. Khi thấy PV thắc mắc về hướng của ngôi miếu thì cụ Lục liền giải thích: "Sở dĩ ngôi miếu có hướng như vậy vì theo truyền thuyết của người Chăm, Bà Chúa Ngọc là vị thần được sinh ra từ thân cây trầm hương, người xuôi từ sông ra biển để đi khắp muôn phương. Do đó hướng của miếu được xây như vậy nhằm mục đích nhắc nhở thế hệ sau này nhớ về nguồn gốc và công ơn của Bà Chúa nước.
Đến thời vua Gia Long, ngôi miếu được dựng lại bằng gạch theo lối kiến trúc vòm cuốn. Mái miếu được tạo thành bởi ba tầng, kiểu mái cong, các đầu đao vút lên, lợp ngói liệt, có đường cổ diêm giả. Và sắc thượng phong cho miếu Bà là "Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần". Trải qua thời gian, ngôi miếu cũ đã xuống cấp trầm trọng nên năm 1980, được sự quyên góp của dân làng Thủy Tú, ngôi miếu đã được tu sửa lại và xây dựng bằng vôi vữa nhưng vẫn giữ lối kiến trúc mang phong cách thời Lê (thế kỷ XVI- XVII). Đặc biệt, trên nóc miếu và các cột đá được gắn các họa tiết hoa văn với cặp rồng đá độc đáo, trên tường của miếu được khắc chữ Hán cổ với nhiều hình thù động vật kỳ dị.
Miếu Bà Chúa sông Cu Đê còn là một chứng tích lịch sử hào hùng của người dân nơi đây trong phong trào kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Là bộ đội chiến đấu trên vùng của biển này nhiều năm, cụ Lục nói thêm: "Thời kháng chiến chống Mỹ miếu Bà không những là nơi người dân làng Thủy Tú che giấu bộ đội mà nơi này còn là nơi tập kết vũ khí, đạn dược và lương thực đưa vào chiến trường miền Nam. Điều kỳ lạ là có hàng nghìn bộ đội và dân quân tải gạo và đạn bơi qua lại nơi đây nhưng chưa bao giờ có một ai bị đuối nước chết". "Mỹ nhiều lần dùng máy bay ném bom đánh phá nơi này nhưng chưa một quả bom nào rơi trúng ngôi miếu, dù tất cả cây cối trên gò đều bị bom đánh gãy đổ hết", cụ Lục cho biết.
Cụ Lục kể tiếp: "Năm 2006 bầu trời trong xanh nhưng bỗng có một trận gió to đùng đùng nổi lên kéo theo nhiều tiếng sấm lớn làm cho dân làng hoảng sợ vội kéo hết thuyền và ngư cụ vào bờ. Khoảng 2 giờ sau, một trận lũ lớn từ thượng nguồn đổ về khiến cho những ai chứng kiến cảnh đó cũng hết sức bàng hoàng". Sau đó, người dân Thủy Tú tin rằng trận gió lớn nổi lên trước cơn lũ chính là lời cảnh báo của Bà Chúa Ngọc đối với dân làng. Càng vững tin hơn vào sự linh thiêng và chở che của ngôi miếu thần, từ bao đời nay cứ mỗi lần ngư dân đánh bắt cá chạy thuyền, thúng qua đây họ lại kính cẩn chào Bà và cầu mong cho một ngày tôm, cá đầy thuyền.
Theo thông lệ cứ vào ngày 20/6 (âm lịch) và dịp Tết Nguyên đán hàng năm, người dân làng Thủy Tú cùng hàng trăm khách thập phương khắp nơi lại mang lễ vật về đây để tưởng nhớ, kính ơn công đức của Bà Chúa.
Lấy miếu cổ là khu du lịch tâm linh
Trao đổi với PV về ngôi miếu cổ, ông Trần Phước Huấn, Phó Chủ tịch UBND phường Hoà Hiệp Bắc cho biết: "Ngôi miếu hàng năm nhân dân địa phương thờ cúng mang tính chất tâm linh về lịch sử. Hiện tại cũng có một số du khách địa phương nơi khác đến tham quan. Trong thời gian tới, chính quyền địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất để xây dựng khu du lịch sông Cu Đê, lấy miếu cổ là khu du lịch tâm linh để nhân dân và khách du lịch giữ gìn truyền thống Văn hoá tâm lin
http://www.doisongphapluat.com/xa-ho...oi-a68008.html
-
1 SỐ ĐIỀU NÊN CHÚ Ý VỀ ÂM PHẦN, ĐẤT ĐAI
A. Về đất cát – nhà ở
Đất cát của ai, ở đâu kể cả cơ quan, xí nghiệp đều có người âm quản lý. Không hỏi phần âm, phạm sai lầm khó gỡ. Hỏi phần âm là hỏi những người trong gia đình mình đã chết. Họ liên hệ với phần âm người chết từ 4 đời (tứ đại) đều được về với gia đình, ai về nhà nấy. Con cháu có tâm – luôn luôn tưởng nhớ tổ tiên ông bà, cầu xin thì được các cụ tứ đại, ông bà về độ trì cho. Ai không nghĩ đến thì ông bà không về, họ có công việc ở phần âm. Ai thích học nghề thanh sạch được lên cõi cao là cõi Thiên, trong thời gian 4 đời sau thì đi đầu thai trở lại cõi Trần.
Việc đất đai, nhà ở của chủ gia đình nào thì thuộc Thổ công nhà ấy quản lý. Nếu phạm phần âm như có mồ mả, đất của miếu mạo, đền chùa chì phải nhờ phần âm của gia đình liên hệ hỏi Thổ công mới biết rõ nguyên nhân và cách hóa giải. Vì chuyện người âm thì chỉ có người âm hiểu luật cõi âm mới giải quyết đúng. Người Trần giải quyết theo sách vở của người Trần đều sai lầm, không đúng luật ở cõi âm. Luật của cõi âm cũng theo thời gian có thay đổi, giống như cõi Trần, theo như cũ cũng là không đúng. Khi người chủ gia đình chết thì Thổ công cũng thay đổi. Thổ công mới – thay thế, điều đó có quan hệ đến số mệnh, đến tâm đức của người chủ gia đình. Lâu nay người Trần hiểu Thổ công là quản lý đất đai tài sản khu vực đó một cách vĩnh viễn là không đúng. Thổ công khác Thần linh. Thần linh như công an khu vực của người Trần vậy.
Xây dựng nhà, mua đất đai phải chọn ngày giờ, xây dựng đúng hướng, cửa chính quan trọng lắm đấy, phải đúng kích thước. Phải hỏi người âm nhà mình hướng dẫn cho, dùng thước Lỗ Ban không chính xác đâu. Tuyệt đối không nhờ người khác động thổ. Mượn họ thì họ là người chủ, tức người âm nhà họ làm chủ, mình và người âm nhà mình lại là người ở nhờ. Xảy ra trường hợp mượn người động thổ thì người âm dòng họ bực tức lắm mà con cháu ở cõi Trần không biết. Vì người âm nhà người đó đến tranh giành quyền nhà ở.
Đất, nhà ở có âm tà vì có hài cốt ở dưới, hoặc khi đổ đất làm nền tuy không có xương cốt nhưng là đất có phần máu thịt tan rữa thì phần âm vẫn nhập vào quấy phá.
Đất, nhà ở mà động là do nhiễm mấy điều sau đây:
+Có xương cốt mồ mả, thịt máu của người âm.
+Mồ mả của dòng họ đào bới có sai phạm.
+Đất ở (cơ quan) là nền đất chùa, miếu mạo.
+Tâm đức của người nhà mình có sai phạm với người phần âm.
+Tâm đức của ông cha sai trái, nay con cháu gánh chịu.
Có gia đình mời thầy trừ ma, yểm bùa chú. Sau đó bị tai họa ngay. Một vong là con – nói với mẹ: “Mẹ mời thầy về yểm 4 hướng nhà mà con vẫn về được đấy. Ma là các vong người trong gia đình 4 đời của nhà mình chứ không phải ma – là người khác, mà vào được đâu. Theo luật cõi âm phải có Thổ công quản lý, không ma nào được ra vào nhà người khác cả”.
Đất nhà ở của 3 gia đình: Hưng Yên (10 người bệnh kinh giật) Thái Bình (6 người chết trong thời gian ngắn), Quảng Trạch, Quảng Bình (có 6 người điên) là bị phạm âm, đất đền chùa và ông cụ của họ xưa kia là tên đao phủ độc ác, con cháu phải trả nghiệp quả. Họ đến trực tiếp gặp “Cô Thiên Đình” sẽ được cô giúp cách hóa giải. Ở cõi âm cũng có từ Xã đến Trung ương. Phải có người âm có quyền chức cao mới gọi Thổ công và người âm ở đó hỏi nguyên nhân và có cách giải quyết đúng thì mới hóa giải được.
Nếu nhà nào bị bùa yểm thì có gọi người âm nhà bị yểm hỏi và giải quyết là xong ngay.
Làm nhà có 3 lần rất quan trọng: một là động thổ, hai là đổ mái, 3 là ngày dọn về nhà ở.
Nhà hoàn hảo, loại một là: con cái hòa thuận – làm ăn đúng hướng, đúng khả năng và phát triển – không ai tranh giành kiện cáo (trong nhà và người ngoài) – Nội bộ đoàn kết. Ngược lại là nhà có vấn đề.
Một vong là con nói với bố: “Cơ quan bố làm trên đất, xưa kia là đình cổ, là miếu, lại còn đập phá miếu làm nhà máy. Nên xảy ra tai nạn lao động. Muốn giải hạn, Giám đốc nhà máy phải xin gặp “Cô Thiên Đình” giải hạn thì mới yên ổn.
Một vong khác nói với mẹ về việc ông bác là anh mẹ và mẹ là con ruột, hai anh em tranh giành nhau về nhà đất. Vong người con nói: “Bác tranh chấp với mẹ. Mẹ cứ giao nhà cho bác. Người Trần không tranh chấp được đâu. Con sẽ độ cho mẹ mua một nhà nhỏ khác mà ở. Con vẫn ở lại nhà cũ. Người âm với người âm sẽ giải quyết Gia đình bác về ở, không ở được đâu. Bác tâm không tốt, xấu bụng, phạm âm. Hễ ngủ thì con dựng giường lên, đó là việc ma làm mà. Bác sợ, không ở được, sẽ trả lại cho mẹ thôi”.
Đất nào cũng có người âm cả. Chỉ có là nó đã vượt Thiên đi đầu thai hay chưa mà thôi. Phải hỏi người âm nhà mình mới biết.
Nhà mình mà cho thuê, cho người ta ở nhờ là phải chọn ngày. Nếu trúng ngày người thuê ở nhờ mà mệnh lớn, lấn át mình thì hậu quả rắc rối, gay go lắm!
Nhà ở tất thì người âm trong gia đình cũng thích ở.
“Cô Thiên Đình” là thể ánh sáng, không phải là đàn ông đàn bà, gọi và xưng cô là để hợp với tâm lý người cõi Trần (lời cô giải thích).
B. Về mồ mả Mồ mả trong 4 đời phải chôn kín cố định. Chọn đất, hướng, nguyệt xây gạch, đặt áo quan rồi cất kín. Sau đó không xây, không ốp gì cả. Nếu xây, bới, động mộ sẽ gây tai họa đấy, vì làm xáo trộn vong linh người âm đang yên tĩnh tu luyện ở cõi âm để mau chóng vượt Thiên đi đầu thai kiếp khác.
Đến thăm mộ chỉ khấn xin phép Thổ địa, Thần linh. Không thắp hương ở mộ, không khấn gọi tên người chết ở tại mộ. Việc ấy chỉ làm tại nhà mình trước khi đi thăm mộ.
Nếu ra mộ khóc lóc, gọi họ, thì hồn họ ở cõi cao, đi xuống, nhập lại hài cốt thì tốc độ rung động của năng lượng linh hồn sẽ chậm chạp, nặng nề, phí công tu luyện những thời gian qua. Họ phải tu luyện lại. Nguy hiểm lắm! Mặt khác, như vậy là làm xáo trộn quy luật cõi âm nên có liên quan tác động đến cõi Trần. Có gia đình không biết – cất mộ xong, thì con cháu gia đình đau ốm, gặp tai nạn...Chọn ngày, địa điểm, chôn chặt một lần là bảo đảm.
Nếu chính quyền bắt dời mộ thì phải chấp hành theo pháp luật. Nhưng phải biết cách làm như sau: Khấn:
1. Khấn Thổ địa, Thần linh khu vực có mộ sắp di dời.
2. Bà cô Tổ dòng họ nhà mình cho dời mộ của … (tên họ).
3. Và chôn cất nơi nào (địa điểm).
4. Nếu có gì con cháu không biết xin bỏ qua, tha thứ.
5. Còn sai phạm điều gì về phần âm thì người ra lệnh phải chịu trách nhiệm.
Đến nơi mới cũng làm đủ thủ tục như khi chôn cất người chết.
Không nên mua đất làm mộ giả trước. Làm xong thì con cháu có người chết. Nơi đào huyệt có Thổ địa, Thần linh, Con cháu, người nhà đi đào huyệt phải khấn như sau: Con tên là … ở … xin Thổ địa, Thần linh quản lý đất ở đây cho phép con gửi xác mẹ (ông, bà) tên là … ở nơi đây. Khi nhập áo quan cũng nhắc lại. Và nói thêm: Nếu người Trần trong gia đình có gì sai xót, xin Thổ địa, Thần linh, Thần hoàng ở đây tha thứ, bỏ qua cho.
Một vong nói với mẹ: “Các bác quy tập mộ ông bà là động đấy, làm xáo trộn mồ mả là mang họa. Mẹ đứng ngoài, không góp tiền tham gia quy tập thì mẹ không liên đới mang họa. Tốt nhất là mẹ nên khuyên các bác không nên quy tập mộ các cụ nữa”.
Người âm tồn tại 4 đời tu luyện rồi mới “vượt Thiên” đi đầu thai.
-Mồ mả, bia, phải dùng tiếng Việt, không dùng chữ Hán, chữ Nôm.
-Tối kị là yểm bùa trong quan tài.
-Mất mộ là mất phần xác không ảnh hưởng đến linh hồn, không cần tìm mộ. Không nên quy tập mộ về một chỗ. Ai có tâm nhớ ông bà, tổ tiên thì thờ trong Tâm.
Vong người con nói với bố: “Nhà mình đón thày sửa mộ. Thầy yểm đầu chó, vì mệnh thầy nhỏ hơn người âm nhà mình. Sau 3 tháng anh con chết. Đúng không? (Ông bố gật đầu , đúng). Gia đình mình xảy ra tai nạn; vợ xa chồng, con xa bố mẹ, có người thay đổi công tác đi nơi xa. Phải nghiêm cấm việc động mộ. Mời thầy đi coi bốc mộ nguy hiểm lắm!".
Đào mộ, dời xương cốt đi; nhưng còn máu, da thịt ở đó. Người âm không đồng ý. Nên làm khó khăn cho con cháu. Đó làm phạm quy luật âm.
Phần linh hồn thoát ra về với con cháu rồi. Ai không biết mời họ về thì họ ở cõi âm, tu luyện, học tập. Trẻ thì ở Cô – nhi – viện. Từ khi bố dùng cảm xạ học, con lắc, trứng đũa tìm mộ người khác thì buôn bán làm ăn lung tung, vắng khách đi, có đúng không (ông bố: (Đúng). Cách đây 5 năm, nhà mình dời mộ ông, nhưng nhầm mộ người khác, vì trẻ con đã nghịch dời bia trên mộ sang mộ khác. Vậy là ma nhà người khác vào nhà mình đấy, gây trong nhà lạc đàn, nhiều khó khăn. Mặt khác, khi cúng, nó hưởng, người âm nhà mình không về. Nó hưởng xong, nó về nhà có độ cho con cháu nhà nó. Có láo không chứ?! (xung quanh nghe cười). Tại người Trần hay đào mồ mả, mà bốc nhầm là tai hại lắm.
C. Bàn thờ, thờ cúng, đi lễ
Bàn thờ để quay mặt ra hướng cửa chính. Cao thấp, to, bé, tùy nhà. Để bát hương sát bàn thờ, bát hương, lọ hoa, thế thôi.
Tổ tiên, ông bà yêu cầu con cháu có cái tâm. Tâm đây là tin vào tâm linh. Tâm linh là tâm trong sáng, tâm có đức tin, có tổ tiên ông bà. Con người có phần xác và phần hồn – là linh hồn, có linh hồn là tâm linh. Tổ tiên tồn tại 4 đời. Ở bên cạnh con cháu mà không biết đấy thôi! Lúc ăn thì mời như khi còn sống, đó là có cái tâm nhớ tổ tiên, ông bà. Không phải đến ngày giỗ tổ mới về.
Khi cúng phải khấn xin Thổ công nhà mình cho vong linh người chủ nhà mình về thì mới được vào nhà.
-Người chết già - ở cõi Trần, chưa được tu luyện lâu, sự rung động năng lượng linh hồn còn gần cõi TRần, nên họ còn hưởng mùi hương của hoa quả, thức ăn khi con cháu cúng giỗ.
-Còn người chết trẻ, chưa có tội lỗi ở cõi Trần (sảy thai 1,2 tháng; chết trẻ khi còn bú …) thì thời gian siêu thoát để “vượt Thiên” rất ngắn, nên các vong chết trẻ rất thiêng, không cần cúng lễ, hương hoa làm gì cả vì các linh hồn này không có nhu cầu hưởng thụ. Họ chỉ cần cái Tâm, luôn nghĩ đến họ là họ có mặt độ trì cho người thân trong gia đình.
-6 giờ rưỡi sáng 23 tháng Chạp hàng năm, cúng tiễn đưa Táo quân về Trời. Không nên đốt vàng mã: áo quần giấy, cá chép sống. Táo quân không dùng những thứ đó. Cúng bằng tiền thật, Táo quân chứng cho cái Tâm của người cúng rồi báo cáo lại với Thiên đình cái Tâm thành đó. Ý nghĩa là vậy. Còn đổi tiền thật, lấy tiền giả, áo quần mũ giả, rồi đốt đi, thì Táo quân đâu có dùng, và cũng không có hình bóng để báo cáo.
-Tiền thật, áo quần thật, cúng xong thì ta dùng, tiêu, mặc áo quần đó. Người Trần của dòng họ mình, nương theo bóng đồng tiền, áo quần đó mà độ cho con cháu làm ăn nhiều tiền, mặc áo đó sẽ được khỏe mạnh, bình an. Sau đó đốt chân hương, lau dọn sạch sẽ. Chân hương đốt, gói tro ném xuống ao hồ. Bát hương, bàn thờ, thay mới, thì cái cũ cũng vứt xuống ao hồ. Cấm vứt vào sọt rác. Làm sai sẽ bị đau, nhức đầu.
-Người âm chỉ cần cái Tâm của con cháu. Không cần có bàn thờ hay không. Cầu khấn ngay cả ở bàn uống nước, nơi làm việc, khi nằm, khi đi ngoài đường, khi ra khỏi nhà. Cầu khấn ai, xin gì, người đó sẽ độ trì cho mình.
-Khi cúng phải có 6 bát, 6 đôi đũa: 2 bát cho các cụ tứ đại, 2 bát cho bố mẹ (nếu đã qua đời), 2 bát cho họ hàng. Người già hưởng mùi hương, điều khiển, mùi hương thức ăn vào bát. Người chết trẻ không cần. Cúng khấn 5 -10 phút thôi, không để lâu. Cúng xong là lộc nhà mình, con cháu hưởng, không mang cho người khác.
Phải cúng tiền thật,Cúng xong dùng tiền bình thường. Tiền dùng vào việc có ích thì được người âm độ. Nếu dùng vào việc phi nghĩa như buôn lậu, đánh bạc, rượu chè be bét … thì người âm không chứng, họ khó chịu, bực mình và còn bị quở phạt nữa.
-Bán vong cho Chùa hoặc bố mẹ chết đưa lên chùa để “ăn mày cửa Phật” là hiểu sai lầm. Sau khi chết một thời gian, họ về với gia đình, sum họp với con cháu như khi còn sống, người Trần không biết mà thôi. Họ giúp đỡ con cháu để tu sửa cái Tâm, làm ăn lương thiện. Ai biết thì “âm phù dương trợ” con cháu sống làm ăn khá lên.
Đi đền, chùa, cũng phải đúng quy tắc người âm: trước khi đi, trình tiền đi lễ lên bàn thờ nhà mình, xin tổ tiên ông bà chứng cho lòng thành của con cháu lên chùa (đền, mẫu) lễ Phật, Thánh, Mẫu. Khi đến chùa, đền phải đi ngay vào bàn thờ chính, đặt tiền khấn: tên con...lòng thành xin công đức nhà chùa (thánh, mẫu) số tiền là....xin Thánh, Thần, Phật, Mẫu chứng giám; người Trần có gì sai trái xin...tha thứ. Sau đó cầm tiền bỏ vào hòm xông đức thì người âm mới chứng cho. Tức là người âm nhà mình gặp, nói với người âm quản lý cái chùa đó (tức Thổ công) chứ không phải Phật, Thánh, Mẫu luôn có mặt ở đó để minh chứng. Lâu nay người Trần hiểu sai làm sai. Đi cúng lễ cũng vô ích, có ai chứng cho đâu?
-Các anh em ruột là con trai, ai soi trước, mời các cụ tứ đại về thì các vong về nhà người đó trước. Không phải cứ là con trai trưởng thờ cúng thì các cụ về đâu.
-Người âm trong dòng họ, trọng người con trai đứng đầu dòng họ. Không phải là con trai trưởng mà là người con trai nào có tâm đức, thành tâm tưởng nhớ ông bà, cầu khấn thì họ về. Khi về thì các vong ngự (đứng) trên hoa tươi đang nở. Vậy dòng họ phải chọn người có tâm đức chứ không nhất thiết là con trai trưởng. Nhà không có con trai (chết cả) thì chọn con dâu, cũng chọn có tâm đức. Để lo việc thờ cúng tổ tiên, ông bà (đây là sự hướng dẫn của người âm cho các gia đình hỏi vấn đề này, khác với tục lệ lâu nay).
-Bàn thờ đang đặt ở tầng 3, định đưa xuống tầng 1 là không được. Khi cúng đặt ở bàn riêng tầng 1 rồi khấn cầu thì được. Nếu chuyển ở nhà mới thì có thể xin đặt ở tầng 1.
Một vong nói với bố chuẩn bị khi bà nội mất: “Bố nên làm thế này, đặt tiền thật lên bàn thờ, khấn bà cô Tổ 4 đời nhà mình, xin gửi số tiền để bà cô Tổ lo phần âm cho bà nội khi chết. Rồi khấn: Trước nay bà nội có gì sai trái xin bà cô Tổ và dòng họ xóa bỏ cho.
-Xin cho linh hồn ra khỏi xác. Sau đó 3 – 5 phút, cất tiền, rồi báo họ hàng biết có tang và tìm lễ tang”.
-Khi hồn thoát khỏi xác thì khiên áo quan thấy nhẹ. Khi hồn chưa ra khỏi xác thì khiên áo quan thấy nặng. Hồn đã thoát xác có hỏa táng cũng không cảm ứng nóng. Ngược lại, khi hồn chưa thoát xác mà đưa đi hỏa táng thì linh hồn bị đốt nóng. Vì vật tất cả gia đình phải cầu khấn như trên để linh hồn được độ ra khỏi xác.
-Không đặt bàn thờ Thổ địa, Thần tài dưới đất. Sai lầm! Đặt cúng bàn thờ tổ tiên. Cúng ai khấn người đó, có tâm thành thì được linh ứng, chứng giám .
D. Cái chết, chết già, chết trẻ Khi mang thai dưới 100 ngày thì chỉ còn non yếu. Linh hồn đầu thai ở bên ngoài tác động vào cái thai bên trong như những đợt sóng năng lượng. Thai còn yếu nên dễ sảy thai. Từ trên 100 ngày, linh hồn tác động với cường độ ngày càng mạnh hơn nên thai nhi ít bị sảy. Nếu người mẹ bị ngã thì không có cảm giác đau vì linh hồn nâng đỡ. Linh hồn chờ sẵn bên ngoài nên thường bị nhiễm tật xấu, lời nói, hành động xấu của bố mẹ và người trong gia đình. Khi đứa bé thoát khỏi bụng mẹ, linh hồn đầu thai liền nhập vào xác và đứa bé liền cất tiếng khóc. Vì bắt đầu từ đây, xác này phải trả hậu quả xấu của bố mẹ và người xung quanh đã tiêm nhiễm cho nó. Và cũng từ đây linh hồn đi đầu thai không còn nhớ tiền kiếp của mình nữa.
Chết là rời bỏ các xác vật chất để sống ở cõi phi vật chất, nên nó nhẹ nhàng, thanh sạch hơn. Vì vậy ai chết trẻ, chết sớm thì đâu có chuyện gì là vô phúc?
Chết trẻ là chết lúc hình hài được 1 tháng trở lên. Nó đã có duyên nợ với gia đình nên về với gia đình. Nhưng bố mẹ không biết, không tư tưởng nghĩ đến con, coi như không có con, không đặt tên, không tưởng nhớ ngày cúng bái. Vì vậy các vong trẻ mới kiện lên thiên đình. Nay Thiên Đình mở cửa cho các vong trẻ về với gia đình.
Chết càng trẻ thì càng không có sai lầm ở cõi Trần, nên thời gian ở cõi âm tu luyện rất ngắn, là “vượt Thiên” đi đầu thai. Có vong xin ở lại để hướng dẫn ông bà, bố mẹ chết sau – tu luyện. Phải qua 4 kiếp sau, vong trẻ mới đi đầu thai. Cho nên chỉ gọi hồn 4 kiếp không gọi kiếp trước nữa vì theo quy luật họ đi đầu thai cả rồi.
Ở cõi Trần ai đẻ trước là anh là chị. Khi về cõi âm thì cũng thế. Ai về trước là anh là chị. Ông bà, bố mẹ chết sau con cháu, khi về cõi âm, con cháu trở thành người huấn luyện để mau chóng “vượt Thiên” thì lại gọi con cháu là anh là đại ca (xung quanh cười).
Người chết già, sống cõi Trần bao nhiêu năm thì về cõi âm phải tu luyện bấy nhiêu năm để rửa hết tội lỗi, tật xấu, mới thanh thoát “vượt Thiên” đi đầu thai kiếp khác.
Những vong chết trẻ, siêu thoát sớm, được học nhiều, hiểu biết rộng có thể giúp gia đình cõi Trần nhiều việc, nhiều mặt. Còn người già, còn phải lo tu luyện, chỉ biết những việc trong gia đình, nhỏ hẹp thôi. Vì vậy xin gặp người chết trẻ thì được hướng dẫn cho nhiều điều.
Mỗi gia đình khi về cõi âm đều có bà cô Tổ của dòng họ mình. Xưa kia bà cô Tổ 4 đời đó chết trẻ. Bà cô Tổ sẽ độ trì cho con cháu trong dòng họ tu luyện ở cõi âm.
Ở cõi Trần ai biết, đến đay xin gặp bà cô Tổ dòng họ mình, đều gặp được. Bà sẽ độ trì cho gia đình dòng họ trong cuộc sống hiện tại. Người âm trong mỗi gia đình đều có người biết đủ các ngành nghề như cõi Trần. Con cháu cần giúp việc gì thì người âm có ngành nghề chuyên môn đó sẽ bày vẽ cách làm ăn. Không phải chỉ có một người âm phán bảo, hướng dẫn, mà nhiều người có khả năng nào thì sẽ giúp con cháu về khả năng đó.
Cách giúp của người âm cụ thể như sau: một vong nói với bố: Ví dụ ngày mai bố đi nằm viện. Bố cầu xin con hoặc mẹ theo giúp để bác sĩ chữa chóng khỏi và phục vụ tận tình. Con sẽ đến gặp người âm là người nhà đi theo bác sĩ, yêu cầu giúp đỡ. Người âm đó tác động vô hình để bác sĩ đó tận tình giúp đỡ. Đó là cách làm việc, quan hệ của người âm với nhau để giúp đỡ người Trần khi họ yêu cầu.
Chỉ có một bà cô Tổ tứ đại, còn 3 đời về sau gọi Ông cậu, Bà cô (chết trẻ).
Đất có Thổ công, sông có Hà bá. Thổ công quản lý, linh hồn chết ở hầm hố, trấn đất. Hà bá quản lý vong chết ở sông nước.
Chết tai nạn giao thông là khổ lắm. Chết ở đâu, Thổ địa nhận xác ở đó.
Đến ở đâu, để tìm người âm nhà mình, thì phải khẩn cầu Thổ địa, Thần linh ở đó để giúp đỡ, cho gặp.
mời thầy cúng, thầy pháp đến yểm bùa chú, cúng trừ tà ma phải rất chú ý . có Thầy thấy mệnh người chết lớn hơn Thầy, nên Thầy yểm, ảnh hưởng con cháu .
Trẻ chết non nhiều, không phải là vô phúc đâu, vì “chết trẻ, khỏe ma”. Những vong trẻ tu luyện hoàn thiện, chưa muốn đi đầu thai mà muốn về với gia đình thì phải làm phép về gia đình như đăng ký hộ khẩu ở cõi Trần vậy.
*******************************
https://www.facebook.com/chuyentamli...54741744727666
-
Ký ức ngày xuân: Cả làng cúng âm linh
21:40 - 18/01/2017 0 THANH NIÊN
Về vùng nông thôn vào những ngày cuối năm âm lịch, ta thường nghe các cụ già đọc hai câu ca dao này: Lo chi mả lạng mồ hoang/Hai mươi tháng Chạp có làng dẫy đưa...
Ký ức ngày xuân: Cả làng cúng âm linh
Từ câu ca cũ, ta lại biết thêm mỗi làng đều có một công trình cổ mang tên “Miếu âm linh” hoặc “Âm linh nghĩa tự” thường được xây dựng ở một vị trí cao ráo, tôn nghiêm nơi đầu làng. Ở các làng trong tỉnh Quảng Nam, miếu âm linh lại thường xây trên gò đất bên cạnh một vài cây cổ thụ, gắn liền với một phế tích nào đó (chủ yếu là đền của người Chămpa)...
Bên cạnh miếu âm linh, có khi là những dãy mộ vô chủ bằng đất, hoặc đã xây nắm bằng gạch, có dạng hình tròn. Đó là những mộ vô danh đã tồn tại hàng trăm năm và vẫn được dân làng gìn giữ, hương khói, dọn dẹp hằng năm…
Ký ức ngày xuân: Cả làng cúng âm linh - ảnh 1
TIN LIÊN QUAN
Tháng 'Củ mật' âm lịch của người Việt
Tôi đã ghi lại một bài văn cúng âm linh thường được đọc lên vào những ngày cúng âm linh 20 tháng Chạp ở vùng Điện Bàn. Xin trích lại như sau:
“…Ô hô… Nhớ âm linh xưa/Kẻ ở dưới trần sinh nơi tạo hóa/Kẻ sĩ kẻ nông kẻ thương kẻ quỳnh kẻ độc kẻ cô kẻ quả/Cũng có kẻ thi tửu cầm kỳ/Cũng có kẻ thị thành thôn dã… Tưởng những kẻ quân thần đầu thượng/Lúc bắc cầu khi mở núi gian truân/Cảnh ngộ nợ áo cơm nỡ đến hình hài…Thương những người ưu ái tánh trung, /Xông mũi đạn chịu đầu tên lỡ hội tao phùng/ Vì chinh chiến điêu linh mồ mả/Những kẻ anh hùng chí khí sống chết lẽ nào chưa biết/Gan trung thành lo vun đắp giang san/Thương những người chiến sĩ oai phong/Tử sanh coi cũng như không, lòng tiết liệt càng bền sắt đá... Tưởng những kẻ lên dương xuống dốc bị rủi ro mạng phải miệng hùm.
Tưởng những người lên bộ xuống thuyền vào lộng ra khơi vì song gió thây chôn bụng cá. Nhớ những kẻ qua sông lánh giặc, vì đạn rơi mà dòng nước nổi trôi. Thương những người hồ thỉ tang bồng, bất đắc chí cành cây vật vã. Lại thảm kẻ oan hồn yểu tử, bát nước nồi hương không ai gìn giữ, náu nương cùng cỏ rậm rừng hoang. Lại thảm kẻ túc trái tiền khiên lưu lạc với đèn tàn ba tạ…
Ôi thôi thôi! Sanh sanh hóa hóa, bóng bạch dương nghĩ cũng thêm buồn…
…Ngưỡng lạy âm linh phò trì chi gia huệ dã. Phục duy cẩn cáo!
Ký ức ngày xuân: Cả làng cúng âm linh - ảnh 2
TIN LIÊN QUAN
Quà tết Tây - Ta: Những khác biệt độc đáo
Bài văn cúng ai oán mang âm hưởng của “Văn chiêu hồn”, “Văn tế thập loại chúng sinh” thống thiết và đậm chất nhân văn của dân tộc. Bởi vậy làng nào cũng có Miếu âm linh, có tảo mộ và cúng âm linh vào ngày 20 tháng Chạp là một nghĩa cử nhân văn tốt đẹp cần được lưu truyền, gìn giữ. Trong dịp này, ở làng tôi, thông thường được tổ chức rất trang trọng do các bô lão, hội người cao tuổi, đại diện các tộc họ và cả đại diện chính quyền các thôn chủ trì, tham gia. Nhiều bà con trong làng đi làm ăn xa cũng trở về với bánh trái, hương đèn cung kính lạy tạ. “Sau bao nhiêu năm đạn bom, ly tán, hoặc thiên tai hoạn nạn, gia đình nào cũng có người mất đi, mồ mả thất lạc, xiêu tán vì những hoàn cảnh khác nhau. Đó là nỗi đau chung. Cho nên lo cho người đã khuất cũng là lo cho người thân của mình. Cũng như phong tục cúng đất, tá thổ vậy, không thể bỏ được, mà phải gìn giữ để thể hiện cái tình người của chúng ta trên mảnh đất ông cha để lại…”, một cụ lão ở Điện Bàn nói về ý nghĩa tại một buổi lễ mà tôi được tham dự. Ngày xưa cụ Phan Kế Bính mô tả ở miền Bắc có Am chúng sinh và Lệ đàn để phân biệt nơi chúng sanh và tướng sĩ tử trận, cũng tương tự như Miếu âm linh ở miền Nam, đều là nơi rất thiêng liêng. Người xưa lại làm chay đàn cầu siêu sinh tịnh độ vào rằm tháng Bảy. Tuy nghi thức có khác ở phía nam, nhưng ý nghĩa vẫn giống nhau.
*****
Ngày nay, trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng khiến nhiều làng quê mất đi các thiết chế văn hóa truyền thống. Nhưng may mắn là nhiều làng tuy mất đi không gian sống xưa cũ, vẫn còn giữ được các miếu xóm, đình làng từ xa xưa. Và vì vậy, ở nhiều khu dân cư vào ngày 20 tháng Chạp ta vẫn thấy lệ cúng xóm ở nhiều khu phố mang nội dung tưởng nhớ những người khai canh khai cư, cầu nguyện cho những oan hồn vô chủ. Có nơi lễ cúng âm linh vào ngày 20 tháng Chạp vẫn được tổ chức trang trọng ở miếu xóm, đình cổ. Cũng có nơi bà con đặt hương án giữa ngã ba trong một khu phố với đầy đủ lễ vật và mời vị cao niên đến chủ trì, đọc văn tế, vừa tưởng nhớ đến những ai đã mồ xiêu mả lạc, những oan hồn vất vưởng ở địa phương, nhưng cũng vừa là dịp để các cư dân trên địa bàn gặp nhau hàn huyên sau một năm bộn bề với công việc, vun bồi tình làng nghĩa xóm.
Tôi cho đây cũng là hoạt động tâm linh - xã hội mang tính nhân văn nên gìn giữ, khuyến khích trong những dịp cuối năm. Tuy nhiên cần củng cố về nội dung văn tế, hạn chế các biểu hiện nặng về mê tín và nạn chè chén say sưa quá đáng như thường gặp ở một số nơi…
https://thanhnien.vn/doi-song/ky-uc-...nh-784421.html
-
https://102tube.com/video/qS7R4bKiP7...up-cho-a-.html
Miếu Đống Ngục tại ngày mười tám âm lịch up cho a e .......
Đã xuất bản: 19/11/2016
Video full hd 1080 Miếu Đống Ngục tại ngày mười tám âm lịch up cho a e ......., 720 Miếu Đống Ngục tại ngày mười tám âm lịch up cho a e ......., 480 Miếu Đống Ngục tại ngày mười tám âm lịch up cho a e .......
Miếu Đống Ngục tại ngày mười tám âm lịch up cho a e .......
may mắn được như ý muốn đúng ngày 18 tháng 10 năm 2016 được đắc công việc như mong muốn
Video Miếu Đống Ngục tại ngày mười tám âm lịch up cho a e ....... upload by channel Đức Nguyễn
Thời lượng: 00:09:24
-
Lễ hội truyền thống
Lễ Hội Kỳ Yên
Chương trình lễ kỳ yên thường kéo dài hai ngày một đêm, gồm có các nghi lễ chính là: lễ thỉnh sắc thần; lễ tế Thần Nông, cúng miễu, liệt sĩ; lễ Túc yết; lễ Chánh tế; lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, Hội viên quá vãng; lễ đưa sắc thần. Mục đích của lễ kỳ yên là tế thần thành hoàng để cầu quốc thái dân an, xóm làng thịnh vượng, no ấm.
Các đình đều thờ Tiền hiền, Hậu hiền là những người có công quy dân lập làng hoặc bỏ tiền của xây dựng các công trình phúc lợi công cộng đầu tiên để lại gương soi cho đời sau. Cho nên nói chung, lễ kỳ yên mang ý nghĩa là ngày giỗ hội của làng.
Các nghi lễ thường giống nhau, gồm một tiết mục dâng hương, ba lần dâng rượu, một lần dâng trà. Cuối một nghi lễ đều có một bài văn tế thay cho lời khấn, nội dung gồm những lời tán dương thần thánh và lời cầu nguyện của dân làng. Khi tế lễ phải có dàn nhạc cụ gõ nhịp gồm: mõ, chiêng, trống, chuông.
Trong thực tế, ở lễ kỳ yên thì phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng bổn cảnh.
Lễ kỳ yên là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện gia đình yên ấm, vui chơi. Xưa kia, ở các đình còn có tục cứ ba năm đáo lệ tổ chức hát bội, cúng thần giúp vui bá gia, bá tánh. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu.
Lễ kỳ yên còn là dịp để các nghệ nhân thể hiện sự khéo léo như chưng hoa, kết quả. Buổi lễ cũng là dịp cho người làm vườn giới thiệu các loại cây trái mới, người làm ruộng giới thiệu các giống nếp ngon qua tài nữ công của chị em phụ nữ. Tuy nhiên, tiệc tùng trong ngày lễ kỳ yên chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới” nhậu nhẹt say sưa.
Lễ Cúng Miếu
Lễ cúng miễu mang tính dân dã, cả nam nữ, già trẻ đều có thể đến cúng lạy. Ban tổ chức cúng kiến có thể là một bô lão, một trùm ấp, một nông dân, một phụ nữ. Lễ vật cúng kiến biểu hiện cho tấm lòng của bà con trong xóm.
Các lễ hội ở đình, miếu thu hút nhiều khách đến hành hương lễ bái hàng năm
Chương trình lễ cúng miễu là chương trình lễ kỳ yên thu gọn. Tùy theo đối tượng của miếu thờ phụng, có thể chia ra làm ba loại lễ cúng miễu: lễ cúng miễu Ông, lễ cúng miễu Cô Hồn, lễ cúng miễu Bà.
Lễ cúng miễu Ông: miếu Ông là miếu thờ các vị nam thần xuất phát từ văn hoá Hán - Việt, gồm có Quan Công, Thổ Địa, thần Nông. Nghi lễ cúng miễu Ông là nghi lễ Nho giáo, gồm có các lễ: Thỉnh Tro (thỉnh lư hương từ đền thờ chính về miếu, mang ý nghĩa thỉnh thần về dự lễ), cúng Tiền Yết, Chánh Cúng, cúng Tiên Sư, Tiền Vãng (tức là những bậc đàn anh có công với xóm ấp, những người đứng ra lập miếu). Những nơi có điều kiện có thể dùng nghi thức tế với nhạc lễ, lễ sanh, … thay vì dùng nghi thức cúng vái bình thường. Trừ những nơi thờ Quan Công phải có ba ngày vía (vía sanh ngày 13 tháng giêng âm lịch, vía tử ngày 13 tháng năm, vía hiển thánh ngày 23 tháng 6) còn các miếu thờ Thổ Địa hoặc Thần Nông chỉ có hai ngày lễ hội là lễ xuân tế hay lễ thu tế, lễ Hạ Điền và lễ Thượng Điền. Các ngày vía này thường không thống nhất mà do các địa phương quy định.
Lễ cúng miễu Cô Hồn: chương trình cúng miễu Cô Hồn cũng giống như chương trình cúng miễu Ông. Ngoài ra khi cúng miễu Cô Hồn còn phải mời các nhà sư đến tụng kinh cầu siêu và khí thực cho Cô Hồn. Mỗi năm có ba lễ cúng Cô Hồn: rằm và 16 tháng giêng, rằm và 16 tháng mười và đặc biệt nhất là rằm và 16 tháng bảy âm lịch là ngày xá tội vong nhân, không thể nào thiếu được.
Lễ cúng miễu Bà: tại Vĩnh Long có nhiều miếu thờ Thất Thánh Nương Nương, Ngũ Hành Nương Nương, Thiên Hậu Thánh Mẫu, … nhưng đều áp dụng nghi lễ cúng miễu nữ thần Thiên Y Ana. Chương trình cúng miễu Bà gồm các nghi thức: lễ thỉnh Đất và Nước, lễ cúng Tiên Sư, Tiền Vãng, lễ Tiền Yết, lễ Chánh Cúng. Đặc biệt, vì nữ thần Thiên Y Ana thuộc tín ngưỡng Chăm nên trước kia có tục mời bà bóng đến rỗi mời, múa dâng lễ. Các nghi tiết này đều có dàn nhạc lễ diễn đầu. Nhiều nơi khi cúng miễu Bà còn mời sư đến tụng kinh cầu an.
Lễ hội làng xóm ở các đình, miếu vừa mang tính chất tín ngưỡng, vừa mang tính chất tri ân, cũng là dịp để bà con xóm làng vui chơi, thắt chặt tinh thần đoàn kết. ở khía cạnh nào đó, hình thức diễn xướng của lễ hội vừa có chức năng nghi lễ, lại vừa có chức năng nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu hội hè của bà con trong làng, trong xóm. Bên cạnh đó, do tính chất dân dã của đình miếu ở địa phương đã khiến các lễ hội này thu hút nhiều khách đến hành hương lễ bái.
Lễ Chol Chnam Thmay
Là lễ mừng năm mới của người Khơme, được tổ chức vào giữa tháng ba âm lịch hàng năm. Đây cũng chính là lúc giao mùa giữa mùa nắng và mùa mưa, thời điểm bắt đầu vụ sản xuất nông nghiệp theo nông lịch cổ truyền của người Khơme nên lễ Chol Chnam Thmay còn đồng nghĩa với việc mừng vụ mùa mới trong năm.
Lễ Đônta đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
lễ hội cộng đồng của người Khơme ở Vĩnh Long
Lễ Chol Chnam Thmay là một trong những lễ quan trọng nhất trong năm, được tổ chức tại chùa và trong từng gia đình. Lễ kéo dài trong 3 ngày: ngày thứ nhất gọi là ngày “sangkran” tức là ngày “rước quyển Đại lịch” (Maha sangkran) với ý nghĩa đón mừng năm mới mà nghi thức lễ gắn với thần thoại Thomabal và Kabil Maha Prum; ngày thứ hai là ngày “wonbot”, mọi người sẽ đi chùa lễ Phật, mang thức ăn dâng cho các sư sãi; ngày thứ ba được gọi là ngày “Lơn sak” với các nghi thức chính là cầu siêu và tắm tượng Phật.
Trong ngày thứ ba của lễ, trước tượng đức Phật, chư tăng đọc kinh sám hối và sau đó dùng một cành hoa nhúng vào nước có hương thơm để tắm tượng Phật bằng cách vẩy nước thơm vào tượng. Sau đó, mọi người tuần tự đến trước tượng để làm lễ đức Phật. Đến đây thì Phật tử dùng nước thơm để vẩy lên người các vị sư để tỏ lòng tôn kính và cũng từ đó mọi người cùng té nước vào nhau để chúc mừng và cầu xin sự may mắn bởi đối với người Khơme nước là biểu tượng của sự sung túc và may mắn. Đây là nghi thức kết thúc hội lễ Chol Chnam Thmay nhưng cũng là sự tiếp nối cuộc vui trong những ngày đầu năm mới.
https://tpvinhlong.vinhlong.gov.vn/D...spx?tabid=1468
-
https://cuuhocsinhphuyencom.wordpres...-noi-tho-cung/
KIẾM CHUYỆN VÔ DUYÊN, MỘT ÔNG GỐC VIỆT BỊ “GIAM GIỮ và PHẠT TIỀN”…MƠ VỀ EM… ANH TÚ ! →
THỜ CÚNG VÀ CÁCH PHÂN BIỆT NƠI THỜ CÚNG !!!
Posted on March 13, 2016 by chrisvietstar
Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am
Không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am…
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,…
Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó.
chùa
Chùa là gì? (pagoda)
Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo.
Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lợi và chôn cất các vị đại sư.
đìnhĐình là gì? (communal house)
Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.
đềnĐền là gì? (temple)
Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.
Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.
miếuMiếu là gì? (joss house)
Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.
Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.
Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)
nghèNghè là gì?
Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).
Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh.
Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.
( nghè = người đậu tiến sĩ thời phong kiến )
Điện thờ là gì? (shrine)
Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.
Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…
nghèPhủ là gì?
Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật).
Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.
Phủ là ngôi đền đặc biệt mà nơi đó thờ vị thần đứng đầu trong Tứ Bất Tử đó là THÁNH MẪU LIỄU HẠNH, có thể gọi là trung ương trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Việt Nam chỉ có 3 Phủ: Phủ Chính, Phủ Vân (đều ở Nam Định), Phủ Tây Hồ (ở Hà Nội)
quánQuán là gì?
Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh.
Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.
Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).
Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).
amAm là gì?
Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.
Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.
TỔNG KẾT LẠI
Hầu hết các địa điểm thờ cúng đều gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, và tùy theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau. Có thể tóm gọn lại như sau:
1. Am và Chùa đều là nơi thờ Phật nhưng Am có quy mô nhỏ hơn chùa và thường hoạt động riêng lẻ. Chùa là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni (mang tính chất tập thể)
– Chùa mà có khoảng từ 20 vị tăng tu tập trở lên gọi là Tu Viện.
– Chùa có hệ phái khất sĩ gọi là Tịnh Xá (ở trong miền Nam).
– Những nơi tu tập có khu tăng, khu ni, có nhiều khu, nhiều chùa gọi là Đại Tòng Lâm.
2. Đình, Đền, Miếu, Điện đều là nơi linh thiêng thờ Thánh, Thần. Đình thường thoáng, cao, rộng, phù hợp với hội họp làng xã. Còn Đền, Miếu, Điện thường tối hơn, tạo cảm giác thiêng liêng, huyền bí cho người tới cầu cúng lễ bãi. Nhìn chung, Miếu có cấu trúc nhỏ hơn Điện, Điện nhỏ hơn Đền và Đền nhỏ hơn Đình (Miễu < Miếu < Điện < Đền < Đình). Thông thường mỗi làng chỉ có 1 Đình nhưng có thể có nhiều Đền, Miếu.
3. Phủ là nơi thờ Mẫu và truyền bá đạo Mẫu. Tuy nhiên cũng có nhiều phủ thờ cả Phật, đây được coi như sự giao thoa hòa nhập giữa các tôn giáo, tín ngưỡng.
4. Quán là nơi tu luyện và thờ cúng của Đạo giáo.
chuaByodo-in Tại Việt Nam các nền văn hoá tín ngưỡng thường giao thoa hoà nhập với nhau rất sâu (đây cũng là nét đặc trưng văn hóa tín ngưỡng tại Việt Nam). Có khi Chùa thờ cả Thần (kiến trúc: Tiền Phật hậu Thánh), Chùa thờ cả Mẫu (Tiền Phật hậu Mẫu)… Vì thế sự phân biệt ở đây là không rõ ràng trong đối tượng thờ cúng. Các bạn nên đặc biệt lưu ý đặc điểm này để tránh việc cầu xin không đúng ban, đúng chỗ, cũng như đặt lễ và hành lễ sai nghi thức (ví dụ để đồ mặn, đồ vàng mã ở Ban thờ Phật hoặc để đồ sống ở ban thờ Mẫu chẳng hạn. .
Ngay bản thân Đền, nếu đi sâu tìm hiểu sẽ rất phức tạp, khó phân loại. Có nơi thờ Nam thần, có nơi thờ Nữ thần. Thông thường đền thờ Nam thần thì to hơn Nữ thần nhưng đền thờ Nữ thần thì lại nhiều ban thờ hơn như ban Tứ phủ công đồng, ban Cô, ban Cậu. Tuy nhiên, hiện lại có 1 số đền thờ Nam thần lại cũng có ban thờ Mẫu, rồi thờ Cô, thờ Cậu… thành ra rất khó phân loại.
Phước_Điền_TựGHI CHÚ THÊM:
Đình khởi đầu của nó là Trạm, nơi dừng chân cho các quan đi tuần du và người bộ hành, từ Trạm phát thiển thành Quán vì các quan tuần du ngày càng đi xa cần có nơi nghỉ ngơi, cần có người phục dịch nên cắt cử người ra trông coi đến khi quan quân đi qua dừng chân ăn uống, nghỉ ngơi dể rồi ngày hôm sau đi tiếp. Nhưng quan về mỗi năm chỉ một vài lần nên Quán thường vắng vẻ nên người coi Quán phục vụ ăn uống, nghỉ ngơi luôn cho lữ khách nếu có nhu cầu. Nhưng ngày xưa ngoài quan quân đi tuần du thì khách bộ hành cũng không phải là nhiều; trái lại việc làng, việc xã ngày xưa rất quan trọng (Phép vua thua lện làng) nên các cụ cao niên thường tổ chức họp bàn công việc một cách công khai và họ thấy Quán là nơi hợp lý nhất nên các cụ cao niên lấy Quán làm nơi hội họp cho làng cho xã (kêu kiện, nộp cheo, phạt vạ) đều ở Quán.
Đến đây Quán được gọi là Đình; và Đình trở thành nơi sinh hoạt chung cho cả cộng đồng làng xã. Đến khi có tục thờ Thành Hoàng, Những làng xã có điều kiện thì họ xây Đền để thời Thành Hoàng, nhiều nơi cho rằng Đình là nơi tổ chức mọi sự kiện của làng thì rước Thành Hoàng thờ luôn trong Đình cũng là hợp lẽ. Và Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân bản địa là vậy. Quá trình phát triển này kéo dài nhiều thế kỷ, qua nhiều triều đại phong kiến cùng với sự phát triển làng xã trong xã hội Việt Nam xưa nói riêng (còn có cả Trung Cộng)
PHAN NGUYÊN LUÂN… sưu tập, tổng hợp và thực hiện
Share this:
-
Ngôi Miếu Cổ Thờ Đá Và Những Bộ Hài Cốt Bí Ẩn
16/06/2014 1218
https://static.mytour.vn/upload_imag...en1220-450.jpg
Ở ấp Chợ Cũ, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng từ bao đời nay tồn tại một ngôi chùa. Tuy được gọi là "chùa" nhưng tấm biển trên cổng lại ghi dòng chữ "Ba Thắc Cổ Miếu". Các bô lão địa phương cho biết ngôi miếu hình thành từ rất xa xưa.
Theo truyền thuyết, ngôi miếu đó được cất để thờ một phò mã lưu vong nước Lèo (tên gọi xưa của nước Lào). Không có chứng tích nào giải thích vì sao một ông phò mã nước Lào lại sang đây sinh sống rồi qua đời.
Ngôi miếu cổ thờ đá và những bộ hài cốt bí ẩnChánh điện miếu Ba Thắc. - Ảnh: Sưu tầm
Tuy thờ một ông phò mã nhưng trên bàn thờ chỉ có 1 viên đá có hình dạng đầu người. Điều lạ là dưới nền đất trước sân miếu thỉnh thoảng một số xương cốt người lộ lên. Từ trước đến nay, người ta đã nhặt được vài chục bộ xương người như thế.
Dù ngôi cổ miếu chất chứa nhiều bí ẩn nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào giải mã.
Từ thành phố Sóc Trăng đi theo đường Lê Hồng Phong, qua khỏi thị trấn Mỹ Xuyên khoảng 2 km sẽ gặp một chiếc cổng ghi "Ba Thắc Cổ Miếu". Qua khỏi cổng, đi men theo một con đường tráng xi măng uốn lượn khoảng 500m chúng tôi mới đến miếu.
Từ bên ngoài nhìn vào, chánh điện ngôi miếu nằm nép sau một gốc bồ đề đại thụ to khoảng 7 vòng tay người ôm. Bà Mười là người giữ miếu cho biết, trước năm 1970, dưới gốc bồ đề có một cặp vợ chồng rắn hổ ngựa.
Ngôi miếu cổ thờ đá và những bộ hài cốt bí ẩnBàn thờ - Ảnh: Sưu tầm
Không ai trông thấy trọn vẹn thân hình của cặp rắn này. Thỉnh thoảng người ta chỉ trông thấy cái đầu của chúng to bằng nắm tay người đàn ông, ngóc cao lên nhìn ngó mọi người rồi thụt vào. Người ta ước đoán cặp rắn dài hơn 10m.
Điều lạ là cặp rắn tồn tại dưới gốc cây bồ đề suốt hàng chục năm nhưng chưa từng làm hại ai. Bất ngờ chúng biến đi đâu không ai rõ. Những người dân cư ngụ xung quanh miếu tin rằng, chúng đã tu thành... chính quả.
Gốc bồ đề đại thụ, mái ngói âm dương rêu phong và những truyền thuyết bí ẩn càng khiến ngôi miếu cổ thêm thâm trầm huyền hoặc.
Ông Ngô Văn Minh, thường gọi là ông Chín, sinh năm 1951 - Phó ban Trị sự quản lý ngôi cổ miếu cho biết: "Theo ông bà tôi kể lại, hồi xưa ngôi miếu cất bằng cây gỗ tạp theo lối kiến trúc cổ của người Kh''''mer. Lúc đó, thưa người, cây cối rập rạm, ngôi miếu nhỏ nằm ẩn mình sâu trong góc rừng.
Đến năm 1927, ngôi miếu hư mục nên ông Thái Chấn An (Hội trưởng Ban Tế tự) bắt tay cùng ông Lê Văn Hoạnh (chức Lý Tổng nhà cầm quyền thực dân Pháp) đứng ra vận động, quyên góp tiền bạc từ các thân hào để sửa chữa, cất mới bằng xi măng cốt thép theo kiến trúc Triều Châu cổ. Tổng diện tích xây dựng là 5.000 m2.
Ngôi miếu cổ thờ đá và những bộ hài cốt bí ẩnÔng Ngô Văn Minh và ngôi mộ vô danh chứa các hài cốt nhặt được từ nền sân miếu. - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm: Các khách sạn giá ưu đãi tại Sóc Trăng
Năm 2008, những người trong Ban trị sự đã gom những bộ xương vô danh ấy cho vào hũ rồi táng chung vào những ngôi mộ cạnh miếu để nhang khói.Thời đó, ông Hoạnh rất uy quyền nên việc quyên góp tiền bạc dễ dàng. Sau khi sửa chữa, trên tấm biển xi măng ở mái dựng chánh điện, thợ xây tạo hàng chữ Pháp: "Pagode de Bassac", tức "Miếu thờ ông Bassac". Trải qua một thời chiến tranh ác liệt, Ba Thắc Cổ Miếu bị hư hao do bom đạn nên được trùng tu lần cuối vào năm 1995.
Những bô lão những đời trước truyền miệng lại cho con cháu rằng, từ đầu thế kỷ 18, công chúa nước Lèo (tức Lào) cãi lệnh vua cha yêu một tráng sĩ thường dân tên là Bak Sak. Vua cha tức giận ngầm sai người truy sát tráng sĩ. Công chúa nghe tin đã mật báo cho người yêu.
Thế rồi hai người cùng một số gia nhân, tùy tùng lên thuyền chạy trốn. Họ xuôi theo dòng sông Mekong nhắm hướng hạ nguồn rong ruổi ngày đêm. Do người Lèo chỉ sử dụng loại thuyền đường sông, nên khi ra cửa biển Trấn Di (nay gọi là Trần Đề) họ bị sóng biển đánh đắm.
Thế là Bak Sak, công chúa và nhóm gia nhân đành hạ trại định cư. Sau này, nơi đó được gọi là Sóc Lèo, có nghĩa là làng của người Lào (hiện nay, nơi đây có tên hành chính là ấp Sóc Lèo, xã Lịch Hội Thượng, huyện Long Phú).
Bak Sak và công chúa đi sâu vào đất Bãi Xàu (nay là Chợ Cũ, Mỹ Xuyên) khai phá rừng hoang xây dựng cơ ngơi. Ông Bak Sak là người có công mở cửa cảng giao thương Bãi Xàu rất sung túc tại đây vào thời điểm giữa thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Đó là một trong những trung tâm thương mại của vùng Hậu Giang, nơi tập trung nhiều thương nhân người Hoa và các thương buôn từ các nước kéo đến.
Ở đâu khi đi du lịch tại Sóc Trăng ?
Khách Sạn Ngọc Thu Khách Sạn Ngọc Thu
6.0
Giá từ: 510,000 đ
Khách Sạn Trần Vinh Khách Sạn Trần Vinh
8.4
Giá từ: 517,000 đ
Khách Sạn Sài gòn Bạc Liêu ( Bạc Liêu cũ ... Khách Sạn Sài gòn Bạc Liêu ( Bạc Liêu cũ )
7.5
Giá từ: 470,000 đ
Khách Sạn Như Toàn Khách Sạn Như Toàn
7.7
Giá từ: 275,000 đ
Ngôi miếu cổ thờ đá và những bộ hài cốt bí ẩnViên đá hình đầu người được để trên bệ thờ. - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm : Các khách sạn giá rẻ tại Sóc Trăng
Khi ông Bak Sak mất, hài cốt được hỏa táng theo lễ nghi và xây tháp thờ tại chùa vua Bak Sak, tức chùa Bốn Mặt (cách miếu thờ Ba Thắc khoảng 500m). Để tưởng nhớ công khai phá vùng đất Bãi Xàu, đồng bào 3 dân tộc Kinh, Kh''''mer và Hoa đã xây thêm 1 ngôi miếu thờ ông tức cổ miếu Ba Thắc. Bak Sak là cách gọi theo phiên âm tiếng Kh''''mer, tiếng Pháp là Bassac.
Còn Ba Thắc là cách gọi của người Hoa và người Kinh. Không nghe ai nhắc đến chuyện thờ bà công chúa Lào, vợ ông Bak Sak. Cũng không ai lý giải thỏa mãn nguyên do bàn thờ ông Bak Sak không tượng, không di ảnh mà chỉ có một viên đá hình đầu người.
Ngoài ra, cũng có những truyền thuyết khác, như: Ông là người Lào đi du ngoạn đến vùng đất này thì bị bệnh và chết. Lại có suy luận cho rằng, ông là người Kh''''mer hoặc người Hoa đến vùng này để giao thương mua bán và bệnh chết…
Tất cả các truyền thuyết này không được các nhà khoa học công nhận bởi những câu chuyện này không lý giải vì sao nơi nền miếu thỉnh thoảng có những bộ xương người lại lộ thiên sau những cơn mưa xói mòn đất.
Anh Tám - một người dân cư ngụ gần miếu cho biết: "Cứ sau một mùa mưa là xương cốt người lại lộ ra. Từ thời ông nội tôi đến giờ, năm nào người ta cũng phát hiện vài bộ xương cốt, chất đống cạnh hông miếu".
Ông Chín Minh khẳng định: "Năm 2002, tôi cho người đào móng xây hàng rào cho miếu thì thấy dưới lớp đất mặt là những bộ xương cốt nằm chồng chéo lên nhau. Có vẻ như họ bị giết rồi chôn vùi tập thể. Xương to lắm. Dứt khoát không phải của người Kinh hay Kh''''mer.
Đến năm 2005, mưa trôi đất vẫn còn lộ xương. Tôi cho lót gạch lên nền miếu chứ không xương cốt vẫn còn tiếp tục lộ thiên hoài. Bây giờ, nếu đào xuống khỏi nền đất trên sân miếu sẽ gặp ngay thôi".
Từ hiện tượng đó, có người nêu giả thuyết cho rằng, nơi đây từng là chiến trường quyết tử giữa quân Xiêm với quân Tây Sơn.
Chiếu theo sử thì Vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh bại đã sang Xiêm cầu viện vào khoảng tháng Giêng năm Giáp Thìn (1784).
Lúc bấy giờ, Xiêm La dưới quyền cai trị của Vua Chakkri. Vị vua này đang nuôi tham vọng thôn tính Chân Lạp và Gia Định để mở rộng cõi bờ. Được Nguyễn Phúc Ánh xin cứu viện, vua Xiêm chộp ngay cơ hội.
Khoảng tháng Giêng năm Giáp Thìn (1784), vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên phong, thống lĩnh 2 vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng 1.000 quân của Nguyễn Phúc Ánh từ Kiên Giang kéo lên Gia Định.
Đồng thời vua Xiêm phái thêm 2 tướng Lục Côn và Sa Uyển phối hợp cùng với Chiêu Thùy Biện (một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm) đem hai đạo binh trên 3 vạn người, hành tiến sang Chân Lạp rồi đánh thốc xuống Gia Định.
Nói về giai đoạn này, lịch sử Thái Lan cũng thừa nhận: "... Vào tháng 5 (lịch Xiêm, khoảng tháng 3 DL) của năm Giáp Thìn (1785) nhà vua sai cháu là Chaofa Kromluang Thepharirak chỉ huy một đội chiến thuyền và 5.000 quân, với lệnh là tấn công và tái chiếm - không được thất bại - lãnh thổ Saigon cho Ong Chiang Su (chúa Nguyễn).
Nhà vua cũng cho phép đích thân Ong Chiang Su đi theo đoàn quân. Một toán quân đường bộ do Phraya Wichinarong chỉ huy được lệnh tiến theo đường Cam Bốt và điều động thêm một đoàn quân Cao Miên. Chaophraya Aphaiphubet tuyển thêm một lực lượng 5.000 quân Cam Bốt để đi cùng quân Thái…
Cháu của vua là Chaofa Kromluang Thepharirak, cùng với các tướng lãnh cao cấp cùng Ong Chiang Su từ biệt nhà vua và đưa chiến thuyền thẳng tiến theo hướng biển đến Banteay Meas (Mang Khảm, tức Hà Tiên).
Quân tại Banteay Meas dưới quyền của Phraya Rachasetthi và Phraya Thatsada được điều động để tăng viện. Liên quân tiến vào sông Bassac (Ba Thắc) và dừng lại tại rạch Wamanao (Trà Tân)". Theo một số học giả, số quân trong sử Thái giảm khá nhiều so với thực tế.
Trấn thủ Gia Định là Trương Văn Đa thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho các nơi vừa chặn đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng.
Quân Tây Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Đốc ở biên cương rút về Cần Thơ. Quân Xiêm đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ Hậu Giang lui dần xuống Ba Thắc. Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh cho một trận tơi bời phải thối lui.
Tại Rạch Gầm - Xoài Mút trên sông Tiền Giang, một đạo quân Xiêm cũng bị quân Tây Sơn phục kích đánh tan tác. Có thể nói, mặt trận Rạch Gầm - Xoài Mút không chỉ diễn ra trên sông Tiền mà kéo dài sang sông Hậu, đến tận Bãi Xàu - địa điểm ngôi miếu cổ Ba Thắc.
Kết thúc trận chiến, 5 vạn quân Xiêm chỉ còn sống sót vài ngàn tìm đường về nước bằng nhiều đường khác nhau. Hàng vạn tử thi chồng chất lên nhau là điều không tránh khỏi.
Nếu địa danh Ba Thắc đúng là nơi quân Tây Sơn phục kích quân Xiêm thì dưới nền sân miếu chính là nấm mồ tập thể chôn quân Xiêm tử trận. Theo truyền thống nhân đạo, nhân dân Ba Thắc đã cất một ngôi miếu nhang khói chung cho những người chết trận.
Để tượng trưng chung cho những người trận vong, dân địa phương dùng một cục đá hình đầu người đặt trong miếu thay cho di ảnh. Có thể, sau khi Vua Gia Long phục quốc đã thực hiện chính sách trả thù những người theo Tây Sơn nên người dân nơi đây không dám hé răng kể về chiến tích Ba Thắc.
Dần dà, người ta quên hẳn nơi đây đã từng xảy ra một trận chiến hào hùng mà chỉ gọi chung là miếu thờ Ba Thắc. Người đời sau nghĩ rằng Ba Thắc là một cái tên của ai đó rồi nảy ra truyền thuyết về một ông phò mã nước Lèo.
Ngôi miếu cổ thờ đá và những bộ hài cốt bí ẩnCận cảnh Viên đá hình đầu người được để trên bệ thờ. - Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm: Các tour du lịch
Nếu giả thiết này đúng thì các nhà khoa học khảo cổ cần tổ chức khai quật, xác định để làm sáng tỏ thêm một giai đoạn lịch sử vệ quốc hào hùng của người Việt xưa để trả lại thuyết đúng cho ngôi miếu cổ Ba Thắc.
Ngày nay, mỗi năm Ba Thắc Cổ Miếu tiến hành lễ cúng kị vào các ngày 21, 22 (chính) và 23 tháng 2 Âm lịch, thu hút hàng ngàn người tham dự. Lễ cúng gồm có heo quay, xôi, trái cây và nhang đèn, có ông lục chùa Watt Luong Bassac đến "sáp môl" (đọc kinh cầu an). Ngoài ra, ban trị sự cũng mời bằng được một đoàn hát cải lương diễn tích tuồng xưa phục vụ công chúng.
Cứ đến ngày rằm tháng Bảy, Ban trị sự miếu đều mời những người nghèo tại địa phương đến nhận gạo từ thiện. Đặc biệt, Tết Nguyên đán năm nào miếu cũng có khoảng 5.000 lượt khách tứ xứ cúng bái. Ngôi miếu cổ Ba Thắc trở thành một địa chỉ du lịch văn hóa tín ngưỡng của địa phương.
Mytour.vn - Nguồn: tổng hợp
Tags: di sản văn hóa du lịch Sóc Trăng du lịch tâm linh đền chùa
https://mytour.vn/location/6062-ngoi...cot-bi-an.html
-
https://toptravels.vn/mieu-ba-co-chu-o-hon-son.html
https://blogdacthoi.blogspot.com/201...mieu-quan.html
Phân biệt Chùa, Đình, Đền, Phủ, Miếu, Quán
Phong Tục Việt
Không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am...
Chùa Kim Liên tại Nghi Tàm, Quảng An, Tây Hồ, Hà Nội
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,…
Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó.
Chùa là gì?
Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo.
Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư.
Đình là gì?
Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Đình làng Đình Bảng
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới.
Đền là gì?
Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Đền Kiếp Bạc
Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.
Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.
Miếu là gì?
MIẾU NGŨ HÀNH HY HÒA - HỘI AN
Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.
Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)
Nghè là gì?
Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh
Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).
Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII.
Điện thờ là gì?
Điện Thái Hòa (Hoàng thành Huế)
Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.
Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,…
Phủ là gì?
Phủ Tây Hồ
Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật).
Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.
Quán là gì?
Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh.
Bích Câu đạo quán
Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.
Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).
Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).
Am là gì?
Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.
Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.
Theo Vtc
-
Espelhos
25 de abril de 2005
Alguns Mantras
OM BABAGI AH HUM (mantra para iluminação, sabedoria, amor e desapego)
OM MANI PADME HUM (mantra para harmonizar os chakras e iluminação)
OM MANE PADME HUM HRI
OM TARE TUTTARE TURE SOHA (produz modificações no nosso interior e em todo o universo à nossa volta)
OM BEMA TARE SENDARA HRI SARVA LOKA WASHUM KURU HO (antra de Tara para evoluir)
OM SRI SARASWATTI NAMAH (mantra para pedir iluminação e desenvolvimento intelectual)
OM NARAYANAYA VIDMAHE VASUDEVAYA DHI MAHI TANNO VISHNU PRACHODAYA(mantra para proporcionar força, crescimento, bem estar espiritual, físico, mental e emocional)
UM RATANA TARE SARVA LOKAJANA PITEYA DARA DARA DIRI DIRI SHENG SHENG DZA DZANIJA NA BU SHENG KURU UM (Ajuda a desenvolver a inteligência e sabedoria)
OM AH GURU HASA BENSA HUNG (Mantra que desenvolve a diligencia e o fervor na prática)
"TADIATA OM GATE GATE PARAGATE PARA SAM GATE BODHI SO HÁ (Mantra que permite eliminar o apego ao ego como uma entidade individual dotada de existência própria e realizar que os fenômenos estão vazios de natureza própria)
OM AMI DEWA HRI (permite desenvolver um amor infinito para todos os seres)
MANTRAS PARA CURA
UM TARE TUTTARE TURE MAMA SARVA RANDZA DUSHEN DRODA (Ajuda a superar problemas de saúde e auxilia no tratamento de doenças graves)
OM TARE TUTARE TURE SARVA DZARA SARVA DHUKKA BRASHA MANAYA PEH SOHA (Mantra que cura as enfermidades)
AOM TAT SAT TAM PAM PAZ (Mantra que traz a força curativa do Sol - Mantra do Arcanjo Miguel)
IN EN (Envoca as forças curativas do Espírito Santo)
ADONAI (Mantra curativo da Lua)
GU RU (Mantra que cura o fígado)
BHUR (Mantra que cura o Baço)
KRIM (cura o estômago, congestões, úlceras etc...)
EFTAH (cura as cordas vocais e tiróide)
OMNIS BAUN IGNEOS (Mantra dos médicos Maias)
ABRAXAS (cura pelos Seres do Fogo)
Mantras do Buda da Medicina:
TEYATA OM . BECATSE.
BECATSE . MAHA BECATSE .
RADSA SAMUNG GATE SOHA
MANTRAS PARA PROTEÇÃO
ALMANAH MARE ÃLBEHA AREHAIL (mantra para proteção)
OM TARE TUTARE TURE SOHA (mantra Tara, que contém todos os 21 mantras Tara, harmonia, paz, amor, prosperidade, cura, proteção, etc.)
THANA YAMAKA NAVAYAAAAA CHYVAIAH SARAHHHHH (Mantra do Senhor Luz Prateada [Mestre Egípcio] para desobseção). O Senhor Luz Prateada é uma entidade incorporada pelo médium Michel (Diretor do P.S.E.)
OM SRI DURGAIA NAMAH (Mantra de proteção contra abuso e violência, principalmente para as mulheres)
OM SRI GANESHAYA NAMAH (mantra para proteção, prosperidade e desobstrução)
PÃLAYATI GRHA ARI OM ( mantra para proteger a casa dos inimigos )
PÃLAYATI GRHASTHA ARI OM (mantra para proteger o dono da casa dos inimigos)
OM SRI KALIKAYA NAMAH (Para força protetora - sermos respeitados pelo mundo)
UM BANZA TARE SARVA BIGANEN SHINDHAN KURU SOHA (Protege contra acidentes e afasta todo o mal)
GATE GATE PARAGATE PARASANGATE BODHI SVAHA
TATYATA OM MUNI MUNI MAHA MUNI SHAKYAMUNIYE SVAHA
HELION MELION TETRAGRAMATON (Mantra que fecha a bioenergia para defesa psíquica)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA RANDZA DUSHEN DRODA SHINDHAM KURU SOHA (mantra que impede calamidades que vem do inferno)
OM TARE TUTARE TURE SARVA DUSHING BIKANEN BHAM PEH SOHA (mantra que impede o mal causado por demônios)
OM GARMA TARE SARWA SHATDRUM BIGANEN MARA SEHNA HA HA HEH HEH HO HO HUNG HUNG BINDA BINDA PEH (mantar da Tara que subjuga demônios)
MANTRAS CONTRA ATAQUES ESPIRITUAIS
THANA YAMAKA NAVAYAAAAA CHYVAIAH SARAHHHHH (Mantra do Senhor Luz Prateada [Mestre Egípcio] para desobseção). O Senhor Luz Prateada é uma entidade incorporada pelo médium Michel (Diretor do P.S.E.)
HELION MELION TETRAGRAMATON (Mantra que fecha a bioenergia para defesa psíquica)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA RANDZA DUSHEN DRODA SHINDHAM KURU SOHA (mantra que impede calamidades que vem do inferno)
OM TARE TUTARE TURE SARVA DUSHING BIKANEN BHAM PEH SOHA (mantra que impede o mal causado por demônios)
OM GARMA TARE SARWA SHATDRUM BIGANEN MARA SEHNA HA HA HEH HEH HO HO HUNG HUNG BINDA BINDA PEH (mantar da Tara que subjuga demônios)
MANTRAS PARA OS CHAKRAS
OM MANI PADME HUM (mantra para harmonizar os chakras e iluminação)
OM MANE PADME HUM HRI
OM AIM HRIM SRIM KLIM SOU HU OM (mantra chakra coroa)
OM KRIM NAMAHA (mantra chakra olho)
OM SO HU NAMAHA (mantra chakra garganta)
OM AIM HRIM KLIM CHAMUNDAYE VICHE (mantra chakra coração)
OM SRIM NAMAHA (mantra chakra plexo)
OM HRIM NAMAHA (mantra chakra alma)
OM AIM NAMAHA (mantra chakra base)
OM AH HUM (Purifica o corpo e ativa os chakras)
MANTRAS DE TARA
OM TARE TAM SOHA (Ajuda para iluminação)
OM TARE TAM SOHA (o mundo muda e a iluminação torna-se possível)
OM BEMA TARE SENDARA HRI SARVA LOKA WASHUM KURU HO (mantra de Tara para evoluir)
OM TARE TUTARE TURE SOHA (Mantra da fonte das outras 20 emanações)
OM BANZA TARE SARVA BIGANEN SHINDHAM KURU SOHA (para impedir desastres)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA LAM LAM BHAM DZALA BHAY SHINDHAMKURU SOHA (para impedir calamidades naturais)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA BHAM BHAM DZALA BHAYA SHINDHAM KURU SOHA (para impedir destruição forjada pela água)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA RAM RAM DZALA BHAYA SHINDHAM KURU SOHA (para impedir destruição forjada pelo fogo)
OM AH VAJRA-VINE HUM (Mantra de Tara azul, que toca o alaúde)
OM AH VAJRA-VAM SHE HUM (Mantra de Tara amarela, que toca a flauta)
OM AH VAJRA-MURAGE HUM (Mantra de Tara vermelha que toca o tambor)
OM AH VAJRA-MRIDAMGE HUM (Mantra de Tara verde que toca o tambor)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA YAM YAM DZALA BHAYA SHINDHAM KURU SOHA (para impedir destruição forjada pelo vento)
OM RATANA TARE SARVA LOKA JANA PITEYA DARA DARA DIRI DIRI SHENG SHENG DZA DZAANJIA NA BU SHENG KURU UM (Mantra que aumenta a sabedoria)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA EH EH MAHA HANA BHAYA SHINDHAM KURU SOHA (impede calamidades que vem do céu)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA DIK DIK DIKSHENA RAKSHA RAKSHA KURU SOHA (mantra que impede destruição causada por exércitos)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA RANDZA DUSHEN DRODA SHINDHAM KURU SOHA (mantra que impede calamidades que vem do inferno)
OM TARE TUTARE TURE MAMA SARVA DZORA BENDA BENDA DRKTUM SOHA (impede o mal caudado por ladrões)
OM BEMA TARE SENDARA HRI SARVA LOKA WASHUM KURU HO (mantra que aumenta o poder)
OM TARE TUTARE TURE SOHA (mantra Tara, que contém todos os 21 mantras Tara, harmonia, paz, amor, prosperidade, cura, proteção, etc.)
OM TARE TUTARE TURE SARVA DUSHING BIKANEN BHAM PEH SOHA (mantra que impede o mal causado por demônios)
OM TARE TUTARE TURE SARVA HAM HAM DUSHING HANA HANA DRASAYA PEH SOHA (impede o mal que afeta o gado)
OM TARE TUTARE TURE SARVA HEH HEH DZALEH DZALEH BENDA PEH SOHA (Impede o mal causado por bestas selvagens)
OM TARE TUTARE TURE SARVA DIKSHA DZALA YAHA RAHA RA PEH SOHA (Impede o mal causado por veneno)
OM GARMA TARE SARWA SHATDRUM BIGANEN MARA SEHNA HA HA HEH HEH HO HO HUNG HUNG BINDA BINDA PEH (mantar da Tara que subjuga demônios)
OM TARE TUTARE TURE SARVA DZARA SARVA DHUKKA BRASHA MANAYA PEH SOHA (Mantra que cura enfermidades)
OM TARE TUTARE TURE BRAJA AYIU SHEI SOHA (Mantra que confere longevidade)
OM TARE TUTARE TURE DZAMBEH MOHEH DANA METI SHRI SOHA (Mantra que confere prosperidade)
MANTRAS PARA MUDAR O PSICOLÓGICO
OM YAMANTAKA HUM PHAT - (mantra que elimina os padrões mentais negativos)
OM HRIM BRAHMAYA NAMAH (mantra para elevar o estado de animo, para felicidade)
OM TARE TUTTARE TURE SOHA (produz modificações no nosso interior e em todo o universo à nossa volta)
OM ADISHAYA NAMAH (trás alegria e felicidade)
OM SRI LAKSHIMYAI NAMAH (mantra para superar o medo e a insegurança)
OM SRI GOVINDAYA NAMAH (mantra para felicidade)
OM CHANDRAYA NAMAH (mantra para tranqüilidade e clareza de raciocínio)
OM PAVAM PUTRAYA NAMAH (mantra para dificuldade em se envolver afetivamente)
OM SHANTI (Mantra para insônia, paz interior)
OM NARAYANAYA VIDMAHE VASUDEVAYA DHI MAHI TANNO VISHNU PRACHODAYA (mantra para proporcionar força, crescimento, bem estar espiritual, físico, mental e emocional)
OM SRI RAMAYA NAMAH (para equilíbrio e bem estar)
OM NAMAH SHIVAYA (para ter força interior)
OM AH RA PA TSA NA DHI
OM TARE TUTTARE TURE SVAHA
OM VAJRASATTVA HUM
OM TARE TUTARE TURE SOHA (mantra Tara, que contém todos os 21 mantras Tara, harmonia, paz, amor, prosperidade, cura, proteção, etc.)
OM VAJRASATTVA HUM (mantra para purificar e esvaziar a mente)
OM HRIM GAURYAI NAMAH (mantra para desenvolvimento em todas as áreas)
AUM SOM SOMAYE NAMAH AUM (mantra para controlar nosso psiquismo, transmutar a energia solar em energia visual, magnética e protetora)
OM BABAGI AH HUM (mantra para iluminação, sabedoria, amor e desapego)
MANTRAS PARA PROSPERIDADE
OM HRIM GAURYAI NAMAH (mantra para prosperar em todas as áreas)
OM TARE TUTARE TURE DZAMBEH MOHEH DANA METI SHRI SOHA (mantra para a prosperidade)
OM TARE TUTARE TURE DZAMBEH MOHEH DANA METI SHRI SOHA (mantra que confere prosperidade)
AUM BRING HANSAH SURYAYE NAMAH AUM (mantra para prosperidade em geral e prosperar no crescimento interior)
OM SRI GANESHAYA NAMAH (mantra para prosperidade, desobstrução e qualquer pedido)
OM SRI MAHALAKSHMYAI NAMAH (mantra para a prosperidade)
OM TARE TUTARE TURE SOHA (mantra Tara, que contém todos os 21 mantras Tara, harmonia, paz, amor, prosperidade, cura, proteção, etc.)
OM SHRI GAM (mantra usado como invocação a GANESHA para prosperidade)
UM BEMA TARE SENDARA HRI SARVA LOKA WASHUM KURO HO (mantra para prosperidade)OM TARE TAM SOHA (ajuda para prosperar com a iluminação)
SUPO KAIO ME BAUA (prosperidade no desenvolvimento)
OM AMI DEWA HRI (prosperidade no amor para todos os seres)
MANTRAS ASTROLÓGICOS
OM SAN SANIAIÊ NAMAH OM (Mantra de saturno para responsabilidade, prudência e modéstia)
OM BRAM BRIM BRAUM SAH BUDHAIA NAMAH (Mantra de Mercúrio para poder e agilidade mental e capacidade de expressão pela palavra falada e escrita)
OM DRAM DRIM DRAUM SAH SUKRAIA NAMAH (Mantra de Vênus para estabilizar a vida, altruísmo, harmonia, senso estético e serenidade)
OM KUJAIE NAMAHÁ OM (Mantra de Marte para luta, coragem, senso de justiça, espirito pioneiro e poder de liderança)
OM GRAM GRIM GRAUM SAH GURVE NAMAHÁ (Mantra de Júpiter para simpatia, jovialidade, esperança, desprendimento e senso de justiça)
OM HRAM HRIM HRAUM SAH SURIAIA NAMAHÁ (Mantra do Sol para autoconfiança, autoconhecimento, entusiasmo, criatividade, liderança e brilho pessoal)
OM SOM SOMAIA NAMAHÁ OM (Mantra da Lua para superar medo, raiva, mágoa e tristeza)
MANTRAS CANTADOS
Primeiro Mantra - Mantra de Tributo a Shiva
NAHMA OM!
NAHMA OM !
NAHMA OM !
OM BRAHMAN !
OM BRAHMAN !
OM BRAHMAN !
OM BRAHMAOM VISHNU !
OM SHIVA !OM BRAHMA !
OM VISHNU !
OM SHIVA !
OM BRAHMA !
OM VISHNU !
OM SHIVA !
NAHMA OM !
NAHMA OM!
NAHMA OM!
OM NAMAH SHIVA !
OM NAMAH SHIVA !
OM NAMAH SHIVA !
SHIVA OM NAMAH !
SHIVA OM NAMAH !
SHIVA OM NAMAH !
SHIVA SENHOR DO UNIVERSO
SHIVA SENHOR DO AMOR
SHIVA SENHOR DA ALEGRIA
SHIVA SENHOR DOS ASCETAS
OM SHIVA !NAHMA SHIVA !
OM NAMAH SHIVA !
QUE A TUA DANÇA SENHOR SHIVA
CONTAGIE O MEU CAMINHAR
QUE A TUA DANÇA SENHOR SHIVA
CONTAGIE A HUMANIDADE DE ALEGRIA
QUE A TUA DANÇA SENHOR SHIVA
CONTAGIE A HUMANIDADE A MEDITAR
SHIVA, SENHOR, SÁBIO GUERREIRO
CUJA LANÇA É O DANÇAR
NA DANÇA ALEGRE, SENHOR SHIVA !
ENSINA O DISCÍPULO A TRILHAR !
OM NAMAH SENHOR SHIVA !
QUE O DISCÍPULO APRENDA A ENXERGAR !
NA DANÇA ALEGRE DO INFINITO
OM NAMAH SENHOR SHIVA !
ENSINA O DISCÍPULO A ESPERAR !
NA DANÇA ALEGRE DO INFINITO
OM NAMAH SENHOR SHIVA !
ENSINA O DISCÍPULO A CALAR !
NA DANÇA ALEGRE DO INFINITO
OM NAMAH SENHOR SHIVA
ENSINA O DISCÍPULO A FALAR!
OM NAMAH SENHOR SHIVA !
A VIDA DO YOGUIM É O EQUILIBRAR
ABRA OS BRAÇOS MEU YOGUIM
VAMOS, VAMOS, DANÇAR !
A DANÇA DO INFINITOÉ SEMPRE UM ETERNO TRILHAR !
DANÇANDO, EQUILIBRANDO,INSPIRANDO, EXALANDO
MEDITANDO,MEDITANDO,MEDITANDO !
OH MEU YOGUIM !
VAMOS, VAMOS CAMINHAR !
DANÇANDO, CANTANDO, SORRINDO E AMANDO
EM MEDITAÇÃO O YOGUIM IRÁ TRANSMUTAR !
INSPIRANDO, EXALANDO,EQUILIBRANDO E POLARIZANDO
O YOGUIM NADA DEVE TEMER !
O YOGUIM EM SUA BUSCA
É UM GUERREIRO DO GRANDE SER !
NAHMA SHIVA!NAHMA SHIVA!
NAHMA SHIVA!
OM NAMAH SHIVA !
OM NAMAH SHIVA !
OM NAMAH SHIVA !
SHIVA OM NAMAH !
SHIVA OM NAMAH !
SHIVA OM NAMAH !
OM BRAHMAN !
OM BRAHMA !
OM VISHNU !
OM SHIVA !
OM BRAHMAN !
OM BRAHMA !
OM VISHNU !
OM SHIVA !
OM BRAHMAN !
OM BRAHMA !
OM VISHNU !
OM SHIVA !
OM TRIMURTI !
TRIMURTI OM !
OM TRIMURTI !
TRIMURTI OM !OM TRIMURTI !
OM !OM !OM !NAHMA !NAHMA !NAHMA !
Segundo Mantra - Mantra Guru Stotran
Brahmanandam parama sukhadamKevalam jñana murtimDwandwa titam gaganasadrishamTattwamasyadi lakshyamEkam nityam vimalamachalamSarvadhi sakshi bhutamBhavatitam trigunarahitamSadgurum tam namamiOM OM OM
Tradução do Mantra:
Brahamanandam: A personificação bem aventurada de Brahman.paramasukhadam: O doador de Suprema Felicidade. kevalam: O Liberto. jnanamurtim: A personificação do Conhecimento. dwandwatitam: A unidade além de todas as dualidades.gaganasadrsham: Infinito como o firmamento. tattwamasya, dilakshyam: Indicado na escritura sagrada pela expressão "Tat Twam Asi", (Tu és)ekam: O Um. nityam: Eterno. vimalamachalam: Puro. sarvadi: Firme. sakshibhutam: O que vê além do Intelecto de cada um.bhavatitam: além de todas as manifestações. trigunarahitam: livre de todos os atributos .sadgurum tamnamami: minhas saudações ao iluminado Guru.
Mantra Saranam Chinmaya Deva
Saranam
Saranam Chinmaya
Saranam Chinmaya
deva deva - Ni
Saranam Chinmaya
Saranam Chinmaya
deva deva - Ni
Ya devi
Sarva bhuteshu
Santhi Rupena Samsthita
Namastasye, Namastasye
Namo - Namami
Namo - Namami
Ya devi Sarvabhuteshu
Rati Rupena Samsthita
Namastasye, Namastasye
Namo - Namami - Namo - Namami
Significado:
Estou buscando proteção na claridade da mente, em ti Senhor (Aquele que Brilha). O poder da Deusa que existe em todos os seres como paz, curvo-me em reverência diante Dela; reverência a Ela, reverência a Ela, reverência a Ela ... ... O poder da Deusa que existe em todos os seres como sensualidade, curvo-me em reverência ...
Diversos Mantras
OM MANI PADME HUM (mantra para harmonizar os chakras e iluminação)
OM MANE PADME HUM HRI
OM BABAGI AH HUM (mantra para iluminação, sabedoria, amor e desapego)
OM YAMANTAKA HUM PHAT - (mantra dque elimina os padrões mentais negativos)
OM HRIM GAURYAI NAMAH (mantra para desenvolvimento em todas as áreas)
OM TARE TUTTARE TURE SOHA (produz modificações no nosso interior e em todo o universo à nossa volta)
OM SRI GOVINDAYA NAMAH (mantra para felicidade e riqueza)
OM AH RA PA TSA NA DHI
OM TARE TUTTARE TURE SVAHA
OM VAJRASATTVA HUM
OM AH HUM (mantra para iniciação a ioga)
OM DHUPE AH HUM (mantra para oferecer incenso)
OM KALI AH HUM (mantra saudação á Divindade)
OM WAGI SHORI MUM
GAYATHRI (mantra para obter criatividade)
OM AIM HRIM SRIM KLIM SOU HU OM (mantra chakra coroa)
OM KRIM NAMAHA (mantra chakra olho)
OM SO HU NAMAHA (mantra chakra garganta)
OM AIM HRIM KLIM CHAMUNDAYE VICHE (mantra chakra coração)
OM SRIM NAMAHA (mantra chakra plexo)
OM HRIM NAMAHA (mantra chakra alma)
OM AIM NAMAHA (mantra chakra base)
OM SANAT KUMARA AH HUM (mantra para força e coragem)
OM CHANDRAYA NAMAH ( mantra para tranqüilidade e clareza de raciocínio)
OM TARE TUTARE TURE SOHA (mantra Tara, que contém todos os 21 mantras Tara, harmonia, paz, amor, prosperidade, cura, proteção, etc.)
OM TARE TUTARE TURE DZAMBEH MOHEH DANA METI SHRI SOHA (mantra de Tara para a prosperidade)
OM BEMA TARE SENDARA HRI SARVA LOKA WASHUM KURU HO (mantra de Tara para evoluir)
OM VAJRASATTVA HUM (mantra para purificar e esvaziar a mente)
OM SRI GANESHAYA NAMAH (mantra para proteção, prosperidade, desobstrução e qualquer pedido)
OM SRI KALIKAYA NAMAH (mantra transformador:Karma e auto limitações)
OM NAMAH SHIVAYA (mantra transformador: Karma e Auto limitações)
OM SRI MAHALAKSHMYAI NAMAH (mantra para a prosperidade)
OM SRI SARASWATTI NAMAH (mantra para pedir iluminação e desenvolvimento intelectual)
OM NARAYANAYA VIDMAHE VASUDEVAYA DHI MAHI TANNO VISHNU PRACHODAYA
(mantra para proporcionar força, crescimento, bem estar espiritual, físico, mental e emocional.
OM HRIM BRAHMAYA NAMAH (mantra para elevar o estado de animo, para felicidade)
OM KLIM KRISHNAYA NAMAH (mantra para termos paz, coragem e poder)
AUM SOM SOMAYE NAMAH AUM (mantra para controlar nosso psiquismo, transmutar a energia solar em energia visual, magnética e protetora)
Mantras que canalizam a energia solar: renova: metabolismo, vigor físico, emocional e mental.
OM BHUR BHUWAH SWAHTAT SAVITUR VARENYAMBHARGO DEVASYA
DHIMAHIDHIYO YO NAH PRACHODAYAT
AUM BRING HANSAH SURYAYE NAMAH AUM (mantra para purificação, iluminação, prosperidade e revitalizante)
HÃMURÃBI ÕM SHIKTË SANSALA PHRÃSHIVATA. ( mantra para obter vitória )
OH HA HUM VAJRA GURU PADME SIDDHI HUM
OH AH MA RA NI JI VAN TI YE SVAHA
PÃLAYATI GRHA ARI OM. ( mantra para proteger a casa dos inimigos )
PÃLAYATI GRHASTHA ARI OM. ( mantra para proteger o dono da casa dos inimigos )
GATE GATE PARAGATE PARASANGATE BODHI SVAHA
TATYATA OM MUNI MUNI MAHA MUNI SHAKYAMUNIYE SVAHA
RAM YAM KAM (mantra para equilibrar as energias do ambiente)
ALMANAH MARE ÃLBEHA AREHAIL ( mantra para proteção )
OM TARE TUTARE TURE SARVA ATA SIDDHI SHIDDHI KURU SOHA - (mantra de Tara para pedidos)
UM BANZA TARE SARVA BIGANEN SHINDHAN KURU SOHA (Protege contra acidentes e afasta todo o mal)
UM RATANA TARE SARVA LOKAJANA PITEYA DARA DARA DIRI DIRI SHENG SHENG DZA DZANIJA NA BU SHENG KURU UM (Ajuda a desenvolver a inteligência e sabedoria)
UM TARE TUTTARE TURE MAMA SARVA RANDZA DUSHEN DRODA (Ajuda a superar problemas de saúde e auxilia no tratamento de doenças graves)
OM AH VAJRA-VINE HUM (Mantra de Tara azul, que toca o alaúde)
OM AH VAJRA-VAM SHE HUM (Mantra de Tara amarela, que toca a flauta)
OM AH VAJRA-MURAGE HUM (Mantra de Tara vermelha que toca o tambor)
OM AH VAJRA-MRIDAMGE HUM (Mantra de Tara verde que toca o tambor)
OM AH GURU HASA BENSA HUNG (desenvolve a diligencia e o fervor na prática)
OM BENDSA PANI HUNG (permite desenvolver a coragem na ação para o bem de todos os seres)
TADIATA OM GATE GATE PARAGATE PARA SAM GATE BODHI SO HÁ (aumenta a inteligência, permite eliminar o apego ao ego como uma entidade individual dotada de existência própria e realizar que os fenômenos estão vazios de natureza própria)OM MANI PEME HUNG (elimina os sofrimentos e permite atingir a paz mental)
OM AMI DEWA HRI (permite desenvolver um amor infinito para todos os seres)
OM AMARANIDSI WENTIYE SO HÁ (ermite obter longevidade para poder ajudar a todos os seres)
OM HÁ HUNG BENSA GURU PEMA SIDHI HUNG (permite afastar os obstáculos e receber os benefícios ordinários e último; o insuperável despertar)
MANTRAS VISUAIS E ESPACIAIS
Visuais
Mandala- concretização plástica de uma ideia cosmológica; pode ser em pin¬tura, relevo ou
construção ( habitação ou arquitectura religiosa); é uma espécie de yoga visual;Espaciais
Peregrinações-organizadas segundo esquemas que obedecem a um rito espacial-temporal
rigoroso.
Tratakam - vibrações internas do corpo; sons imaginados; ruidos naturais: ronronar de um
cortiço, cadência de um regato, sibilo do vento;
Kasina - temas de fixação: lago comtemplado do alto e de longe; terra lavrada no meio de uma planície verde, chama da vela ; lareira ; flores ; discos coloridos (neste caso a cor é o
tema absorvente );
Postado por Ana Maiz às 5:02 PM
2 comentários:
Anônimo disse...
Now I am reаԁy tο ԁο my breakfast, lаteг thаn hаving my breaκfast coming agаin to read additional nеws.
Feеl free to surf tο my web blog - planetside 2 aimbot
My page :: planetside 2 cheats
3:13 PM
Anônimo disse...
Muito bom! Alguns mantras a gente decora outros só com o tempo. Haja mantras para memorizar.
9:31 AM
Postar um comentário
Links para esta postagem
Criar um link
http://espelhosetransparencias.blogs...s-mantras.html
-
-
Aikido - Môn Võ Của Tình Thương
http://i19.servimg.com/u/f19/19/22/38/88/atlant10.jpg
Aikido là một môn võ của Nhật Bản được thành lập vào đầu thế kỷ 20 bởi Tổ Sư Morihei UESHIBA 植芝 盛平(1883 –1969). Trong hoàn cảnh Nước Nhật thất bại sau thế chiến thứ hai, Ngài đã lang thang khắp đất nước để học hỏi trao đổi và suy tư về Võ Thuật, với tâm nguyện nâng dậy Tinh Thần của dân tộc.
Chữ Aikido được ghép bởi ba chữ Ai (Hiệp) chỉ về sự hòa hợp, hòa hợp giữa con người với con người, giữa con người và Thượng Đế (Thiên - Địa); Ki (Khí) tức là năng lượng cuộc sống, sức mạnh của yêu thương; Do (Đạo) là Chân Lý tối thượng cũng là con đường đi tất yếu phải đi ... Aikido có thể coi là môn võ nhưng thực chất nó là nghệ thuật hóa giải xung đột mà giảm đến tối đa sự tổn thương đến đối phương, và hơn thế hòa hợp với đối thủ ... Cao cấp hơn Aikido là con đường (Đạo) giúp thanh lọc cơ thể và tâm hồn !
Tổ Sư Morihei UESHIBA được tôn xưng là O-Sensei (Người Thầy Vĩ Đại) ... Ngài nói "Đừng nhìn thế giới này với sự sợ hãi và ghê tởm. Hãy mạnh mẽ đối mặt với bất cứ điều gì Thượng Đế ban cho chúng ta !"
http://phapdat.taodiendan.com/t5-topic
-
Cư Hữu Thạch Tiện An (Nhà ở có Đá mới Yên Ổn)
Bài gửi by a tư tiểu khang on Thu May 28, 2015 9:45 am
Đá Cảnh, Ngọc Thạch có thể nói có mối quan hệ chặt chẽ và rất quan trọng đối với nhà ở. Đá dùng để trấn giữ nhà cửa, chống lại các ác sát. Đá cho ta sự vui vẻ khỏe mạnh tinh thần cũng thân thể. Đá cho ta nhiều bài học. Đá dùng để trưng bày làm đẹp cho nhà cửa...Xưa có câu nói "Vườn không có Đá tất không đẹp, phòng khách không có Đá tất không sang, nhà không có Đá không yên ổn, phòng đọc sách không có Đá thì không u nhã" đó là những câu mà người xưa đã tổng kết về Đá Ngọc với đời sống con người. Chúng ta ngày nay dựa vào câu nói của người xưa có thể nói rằng "Cư Hữu Thạch Tiện An - Nhà ở có Đá mới yên ổn".
Người chơi Đá Ngọc dẫu co bận rộn công việc, cho dù phải đi công tác xa nhà lâu ngày, một ngày , mười ngày, một tháng, mười tháng khi quay về Đá vẫn chờ đợi bạn với nụ cười vui vẻ...Đó cũng là chúng ta thể hội cái đẹp trong câu thơ của cổ nhân "Hoa Như Giải Ngữ Hoàn Đa Sự, Thạch Bất Năng Ngôn Tối Khả Nhân". Đá thường im im mà cho chúng ta nhiều cảm nhận, một sự im lặng có hàm dưỡng, chứ không là cái im lặng hư vô. Mỗi lúc sau khi công việc nhàn tản, ngồi bên một khối đá đẹp một ấm trà thanh, tâm hồn như lãng tĩnh. Cảm khái có thể nói một câu "Danh lợi nhạt nhòa theo gió cuốn, đất bùn tìm lấy chút an vui. Đời người thường mắc bao buồn khổ, trầm lặng nâng chén cùng Đá say"...Đá Ngọc có thể An Tâm, Tâm An thì Khí An, Khí An thì gia cư cũng An Ổn Vậy ! Đó là Đạo Lý !
A Tư Tiểu Khang - www.phongthuy123.com
avatar
a tư tiểu khang
Admin
Tổng số bài gửi : 24
Join date : 14/05/2015
Age : 32
Xem lý lịch thành viên
Về Đầu Trang Go down
http://phapdat.taodiendan.com/t18-topic
-
-
Kích hoạt cát khí tuổi Mậu Tý
Sinh năm Mậu Tý
1. Mầu sắc ngũ hành sinh vượng: Mầu đỏ và mầu xanh
2. Đồ ăn: Tốt với việc ăn thịt chim, thịt chó, thịt bò, thịt dê cùng với lá dâu, trà mật ong…Ăn những đồ ăn này có thể bổ sung cho ngũ hành của các bộ phận cơ thể, cải biến sinh mệnh, tự nhiên đạt được nhiều cát tường.
3. Giường ngủ: Đối với người sinh năm Mậu Tý thì giường nên kê ở cung vị Mão. Cung vị này là cung Văn xương, Văn khúc, Quan tinh, Thiên y, Thiên thọ, Trường thọ, Hoành tài tinh quý thần. Kê giường tại phương vị này nhất định sẽ đắc phúc thọ quý, đại cát.
4. Phương pháp tăng cường cát khí, trợ giúp vượng khí:
Người tuổi Mậu Tý nên cầm miếng nam châm nhỏ trong tay và nhất
tâm niệm 2995 biến
Lục minh chú, trong lúc niệm chú tưởng tượng ra phía bắc là mầu đen, phía Đông là mầu Xanh lục, phía Tây là mầu
trắng, phía nam là mầu đỏ, dưới chân là ánh sáng mầu trắng dẫn nhập vào miếng nam châm đang cầm trên tay. Bằng phương pháp này, dựa vào nguyên lý là dựa vào từ trường của nam châm mà hút được tụ linh
khí của thiên địa, tiếp âm dương, ngũ hành, bát quái, sinh khắc chế hóa, hình xung hợp hại của thiên can, địa chi. Và như vậy sẽ được cát tường như ý.
5. Phương pháp tăng quan quý: Người sinh năm Mậu Tý thì vào năm Kỷ Dậu tìm ngày đẹp rồi tại phương vị Tý dán lên đó một tờ giấy mầu vàng khổ A4 trên có viết 2 chữ“官印”(Quan ấn). Cách làm này sẽ giúp thúc đẩy năng lượng và tăng biên độ quan quý của người có tuổi Mậu Tý
6. Phương pháp tăng tài lộc: Tương tự như trên nếu người tuổi Mậu Tý muốn tăng tài lộc thì tại phương vị Tý của phòng ngủ dán một tờ giấy mầu vàng trên có đề hai chữ“横财”(Hoành tài) thì sẽ tăng được tài vận.
7. Tăng cường khả năng học hành, nghiên cứu: Đối với người tuổi Mậu Tý, tại phương vị Tị của phòng ngủ dán tờ giấy mầu vàng trên có đề hai chữ“文魁”(Văn khôi). Cách làm này sẽ làm tăng khả năng học tập của bạn, trợ giúp tốt đường học hành, thi cử đỗ đạt.
8. Phương pháp cầu để dễ đi đến hôn nhân: Người sinh năm Mậu Tý nến muốn sớm gặp được tình duyên trong hôn nhân thì vào giờ Thìn ngày Ngọ tháng Thìn lấy một tờ giấy mầu vàng trên có viết hai chữ “凤凰”(Phượng hoàng) tại cung vị Ngọ của phòng ngủ thì sẽ kích hoạt được sao Hồng Loan để gia tăng lực lượng, nhanh chóng đi tới hôn nhân.
9. Cầu thọ: Đối với người tuổi Mậu Tý, để cầu thọ thì tại phương vị Thân của phòng ngủ dán tờ giấy mầu vàng trên có viết 3 chữ “长寿星”(Trường thọ tinh). Cách này sẽ tăng cường sao Trường thọ làm cho người tuổi này có thể hưởng diên niên ích thọ, thanh xuân bất lão.
10. Phương pháp cầu hoành tài đại phát: Đối với người Mậu Tý vào giờ Mùi, ngày Dần, tháng Mão, đem một tờ giấy vàng trên có viết hai chữ “横财”(Hoành tài) dán vào phương vị Nhâm của phòng ngủ. Việc làm này sẽ kích hoạt năng lực của sao Hoành tài nên dễ đem đến cho người tuổi Mậu Tý nhiền tài lộc bất ngờ.
http://phongthuyhk.blogspot.com/2012...-sinh-nam.html
-
Phong thủy với biển số xe, số điện thoại.
Trong cuộc sống, nhân tố có ảnh hưởng tới một con người là tương đối nhiều. Như môi trường xung quanh ngôi nhà, mầu sắc thường gặp, thói quen của từng người,…Tuy nhiên trong số các nhân tố ảnh hưởng đến đời sống của con người thì các con số có ảnh hưởng tương tối lớn tới cuộc sống của mỗi người như số điện thoại, số biển xe máy, ô tô,…Vì vậy, xin giới thiệu một số bí quyết khi chọn các con số để giúp cho cuộc sống của mỗi người được thuận lợi hơn.
1. Nếu bạn là chủ một doanh nghiệp hoặc làm việc độc lập, làm một công việc gì đó do mình làm chủ thì con số có lợi nhất
cho bạn phải là những con số mà 2 số cuối là tổ hợp của các số 6, 8 hoặc 9 như 89, 98, 68, 96,…Ví dụ số điện thoại di động là 09xxxxxx69, v..v.. Với các số đuôi như thế này, bạn sẽ được thuận lợi trong công việc làm ăn, dễ dàng thành công, giúp đỡ rất nhiều cho sự nghiệp của bạn.
2. Nếu bạn chỉ là người làm công ăn lương, nhân viên tại các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn thì các số có 2 số cuối có tổng bằng 10 hoặc 15 sẽ là những con số có lợi nhất cho bạn như các con số có số cuối là 37, 46, 28, 19, 91, 82,…Đây là những con số hợp thập hoặc hợp thập ngũ. Những con số này sẽ sinh vượng cho bạn vì theo Hà đồ lạc thư thì những con số này sẽ mang lại nhân duyên tốt, dễ dàng gặp quý nhân phù trợ, được lãnh đạo quý mên, tin tưởng.
3. Nếu bạn làm các nghề như sáng tác, nghệ thuật, nghiên cứu, thiết kế, biểu diễn, tiếp thị thì bạn nên chọn các số có 2 số cuối là các cặp số 1 và 6 hoặc 1 và 4 như 16, 14, 41, 61, …Với các tổ hợp của 2 cặp số này nó sẽ giúp bạn có được những tư duy, sáng tạo và tính phát huy rất tốt.
4. Nếu về phương diện tình cảm của bạn không được thuận lợi hoặc không gặp được đào hoa thì ngoài việc chọn các con số như ở phần 2 bạn có thể chọn theo cách sau: Nếu bạn là nam muốn cầu sớm gặp được ý trung nhân hoặc cầu về đường tình duyên được thuận lợi hơn bạn có thể chọn các con số có 2 số cuối là 16, 38, 50 hoặc 61, 83, 05. Nếu bạn là nữ bạn nên chọn các con số có 2 số cuối là 27, 49 hoặc 72, 94. Những cặp số này rất có tác dụng cho việc làm gia tăng đào hoa, kích vượng đào hoa của bạn.
Đương nhiên, không phải là cứ chọn được một con số đẹp thì bạn sẽ không cần phải làm gì mà vận may sẽ đến. Mà trên thực tế khi bạn dùng số điện thoại, số biển xe như trên sẽ luôn được thuận lợi trong đời sống hàng ngày, đạt được kết quả cao nhất có thể, không xảy ra phiền toái trong cuộc sống.
(catvantrinh)
http://phongthuyhk.blogspot.com/2013...ien-thoai.html
-
Kích hoạt cát khí tuổi Canh Thân
Sinh năm Canh Thân
1. Mầu sắc ngũ hành sinh vượng: mầu xanh lá, mầu đen. Có nghĩa người sinh năm này nên dùng chăn, ga trải giường, gièm cửa, quần ào,… mầu xanh lá cây hoặc mầu đen. Dùng các mầu này sẽ trợ giúp sinh vượng cho ngũ hành của bản mệnh như vậy sẽ thuận lợi hơn trong cuộc sống.
2. Đồ ăn: Phù hợp với việc ăn thịt ngựa, thịt rắn, thịt thỏ, hạt sen,…Những đồ ăn này ngoài tác dụng bồi bổ dưỡng chất cho cơ thể còn có tác dụng làm vượng ngũ hành cho các bộ phận cơ thể.
3. Giường ngủ: Đối với người sinh năm Canh Thân thì giường nên kê ở cung vị Bính. Cung vị này là cung Văn xương, Văn khúc, Quan tinh, Thiên y, Thiên thọ, Trường thọ, Hoành tài tinh quý thần. Nếu kê giường được ở phương vị này thì sẽ được phúc, thọ, phú quý đạt cát.
4. Phương pháp tăng cường tài lộc: Người tuổi Canh Thân nên cầm miếng nam châm nhỏ trong tay và nhất tâm niệm 2445 biến Lục minh chú, trong lúc niệm chú tưởng tượng ra phía bắc là mầu đen, phía Đông là mầu Xanh lục, phía Tây là mầu trắng, phía nam là mầu đỏ, dưới chân là ánh sáng mầu trắng dẫn nhập vào miếng nam châm đang cầm trên tay. Bằng phương pháp này, dựa vào nguyên lý là dựa vào từ trường của nam châm mà hút được tụ linh khí của thiên địa, tiếp âm dương, ngũ hành, bát quái, sinh khắc chế hóa, hình xung hợp hại của thiên can, địa chi. Và như vậy sẽ được cát tường như ý.
5. Phương pháp tăng quan quý: Người sinh năm Canh Thân thì vào năm Giáp Tuất tìm ngày đẹp rồi tại phương vị Thân dán lên đó một tờ giấy mầu vàng khổ A4 trên có viết 2 chữ “官星”(Quan tinh). Cách làm này sẽ giúp thúc đẩy năng lượng và tăng biên độ quan quý của người có tuổi Canh Thân.
6. Phương pháp tăng tài lộc: Tương tự như trên, người tuổi Canh Thân nếu muốn tăng tài lộc thì tại phương vị Ngọ của phòng ngủ dán một tờ giấy mầu vàng trên có đề hai chữ “金柜”(Kim quỹ) thì tài vận sẽ được đại vượng.
7. Tăng cường khả năng học hành, nghiên cứu: Đối với người tuổi Canh Thân, tại phương vị Hợi của phòng ngủ dán tờ giấy mầu vàng trên có đề hai chữ “文魁”(Văn khôi). Cách làm này sẽ làm tăng khả năng học tập của bạn, trợ giúp tốt đường học hành, thi cử đỗ đạt.
8. Phương pháp cầu để dễ đi đến hôn nhân: Người tuổi Canh Thân nếu muốn việc kết hôn được thuận lợi nên chọn tháng Tỵ, ngày Mùi, giờ Sửu rồi lấy một tờ giấy vàng trên có viết 2 chữ “凤凰”(Phượng hoàng) dán lên phương vị Mùi của buồng ngủ, sau khi làm được việc này mọi việc về hôn sự sẽ diễn ra rất thuận lợi. Cũng có thể dùng biện pháp kích Hồng loan tinh để dễ dàng tiến tới hôn nhân.
9. Cầu thọ: Đối với người tuổi Canh Thân, để cầu thọ thì tại phương vị Tuất của phòng ngủ dán tờ giấy mầu vàng trên có viết 3 chữ “长寿星”(Trường thọ tinh). Cách này sẽ tăng cường sao Trường thọ làm cho người tuổi này có thể hưởng diên niên ích thọ, thanh xuân bất lão.
10. Phương pháp cầu hoành tài đại phát: Người tuổi Canh Thân chọn ngày Tỵ, tháng Tỵ, giờ Tỵ lấy tờ giấy vàng trên có viết hai chữ “横财”(Hoành tài) dán lên phương vị Tỵ của phòng ngủ. Với phương pháp này, Hoành tài tinh của người tuổi Canh Thân sẽ được tăng thêm lực lượng, bạn sẽ dễ có những tài lộc bất ngờ.
�\ � g � @� � iờ Sửu rồi lấy một tờ giấy vàng trên có viết 2 chữ “凤凰”(Phượng hoàng) dán lên phương vị Mùi của buồng ngủ, sau khi làm được việc này mọi việc về hôn sự sẽ diễn ra rất thuận lợi. Cũng có thể dùng biện pháp kích Hồng loan tinh để dễ dàng tiến tới hôn nhân.
9. Cầu thọ: Đối với người tuổi Canh Thân, để cầu thọ thì tại phương vị Tuất của phòng ngủ dán tờ giấy mầu vàng trên có viết 3 chữ “长寿星”(Trường thọ tinh). Cách này sẽ tăng cường sao Trường thọ làm cho người tuổi này có thể hưởng diên niên ích thọ, thanh xuân bất lão.
10. Phương pháp cầu hoành tài đại phát: Người tuổi Canh Thân chọn ngày Tỵ, tháng Tỵ, giờ Tỵ lấy tờ giấy vàng trên có viết hai chữ “横财”(Hoành tài) dán lên phương vị Tỵ của phòng ngủ. Với phương pháp này, Hoành tài tinh của người tuổi Canh Thân sẽ được tăng thêm lực lượng, bạn sẽ dễ có những tài lộc bất ngờ.
https://uphinhnhanh.com/images/2018/03/02/CanhThan.jpg
http://phongthuyhk.blogspot.com/2013/
http://phongthuyhk.blogspot.com/2013...than.html#more
-
https://www.youtube.com/watch?v=XoXeIigt1IM
Xem tướng bàn tay - Hướng dẫn tự xem tử vi lòng bàn tay, ngón tay tại nhà
Hướng dẫn tự xem tử vi lòng bàn tay, ngón tay... xem bàn tay cho đàn ông, phụ nữ. Xem hôn nhân tốt xấu qua đường tình duyên trên 2 tay Xòe hai bàn tay ra rồi để sát vào sao cho ngang bằng nhau. Xem bói qua là biết bàn tay giàu sang, phú quý, bàn tay nghèo, hèn... Chỉ bàn tay như thế nào là có nhiều tiền, người phúc hậu, quyết đoán, thông minh....
-
https://www.youtube.com/watch?v=_ouvqTkIEpk
Bạn Có Chữ M Trong Lòng Bàn Tay? KINH NGẠC Khi Biết Ý Nghĩa Của Nó Là .../ Vận Mệnh Tài Lộc
-
https://www.youtube.com/watch?v=U4GPzNFVziM
Bói Bài Tây Xem Quẻ Bát Quái Cho 1 Năm Cực Linh Ứng
-
https://www.youtube.com/watch?v=3fzuH57Bds0
CỰC CHUẨN: Nhìn CMND Biết Ngay Số Phận Giàu Nghèo, Chẳng Cần Xem Bói