-
Miếu bà Phi Yến – điểm đến tâm linh ở Côn Đảo
miếu bà phi yến
Côn Đảo là nơi thu hút rất nhiều khách du lịch với các điểm đến hấp dẫn. Nếu bạn đang muốn tìm một điểm đến tâm linh ở đây thì không thể không kể đến miếu bà Phi Yến. Nơi đây chứa đựng những truyền thuyết về người phụ nữ đức hạnh cùng với lời truyền cầu được ước thấy.
Miếu bà Phi Yến ở Côn Đảo
Miếu bà Phi Yến chứa đựng những truyền thuyết về người phụ nữ đức hạnh cùng với lời truyền cầu được ước thấy.
1. Sự tích miếu bà Phi Yến
Tương truyền rằng, năm 1783, Nguyễn Ánh bôn đào ra Côn Đảo để tránh sự theo dõi của lực lượng Tây Sơn, chính vì bị thất bại liên tục, nên Nguyễn Ánh đã đưa hoàng tử Hội An (tên tục là hoàng tử Cải) tháp tùng cùng Bá Đa Lộc sang Pháp làm con tin để cầu viện. Bà Phi Yến ngỏ lời khuyên Nguyễn Ánh, thế nhưng chỉ vì những lời khuyên can ấy, mà ông nổi trận lôi đình. Không những vậy, còn nghi bà có ẩn ý thông đồng với quân Tây Sơn. Được các quan khuyên can, bà thoát khỏi tội chém đầu. Tuy nhiên, Nguyễn Ánh vẫn truyền lệnh giam cầm bà vào một hang đá trên hòn đảo hoang vắng được gọi là Hòn Bà.
miếu bà phi yến
Miếu bà Phi Yến được coi như thần hộ mệnh của làng.
Vừa truyền lệnh giam cầm Thứ phi Phi Yến xong thì ông được tin quân Tây Sơn đang chuẩn bị ra đến Côn Đảo. Ông liền chạy tiếp thì lúc bấy giờ đứa con duy nhất của hai người là hoàng tử Hội An (5 tuổi) khóc lóc đòi mẹ bị Nguyễn Ánh ném xuống biển và được chôn ở làng Cỏ Ống.
Khuyến mãi chuyến xe đi lễ đêm trị giá 200,000đ/người khi du lịch Côn Đảo khởi hành từ Hà Nội hoặc du lịch Côn Đảo từ Hồ Chí Minh.
Liên quan tới sự tích miếu bà Phi Yến, theo truyền thuyết, bà Phi Yến đã được hai con vật rất khôn ngoan, trung thành cứu sống, đó là vượn bạch và hắc hổ và được đưa đến làng Cỏ Ống nơi có nấm mộ con mình. Người dân tại đây hay tin đã dựng cho bà một ngôi nhà ở gần đó để có thể tiện bề lui tới bên nấm mộ của con mình.
Tháng 10 (âm Lịch) năm 1785, làng An Hải tổ chức hội làm chay tế lễ trong làng và bà Phi Yến được rước đến cho thêm phần long trọng. Nhưng đêm đó, tại làng An Hải bà đã bị tên Biện Thi (một tên đồ tể) lén vào cấm phòng và giở trò sàm sỡ, song bà đã kịp tri hô cho dân làng bắt giam chờ xét xử. Cũng đêm hôm ấy bà Phi Yến đã liều mình tự tử để được vẹn toàn danh tiết.
Dân làng đã lo việc tống táng và lập miếu thờ bà – người phụ nữ “Trung trinh tiết liệt”. Miếu bà Phi Yến bắt nguồn từ đây.
Miếu bà Phi Yến ở Côn Đảo
Miếu bà Phi Yến ở Côn Đảo
2. Miều bà Phi Yến – nơi cầu được ước thấy
Kể từ đó trở đi, hàng năm, cứ vào ngày 18 tháng 10 ( âm Lịch), người dân Côn Đảo lại làm lễ giỗ bà rất long trọng và thường thì sẽ dùng cỗ chay để cúng bà. Đối với người dân trên đảo, ngôi miếu bà phi Yến rất linh thiêng, vì thế được người dân ở đây rất sùng bái và coi Bà như thần hộ mệnh của làng. Dù đã bị tàn phá bởi thực dân Pháp, song cho đến ngày nay, miếu bà Phi Yến vẫn được tôn tạo lại và là điểm đến linh thiêng đối với khách du lịch. Khi đến đây, những ước nguyện của bạn sẽ được bà chứng giám và mong muốn chính đáng sẽ thành hiện thực.
sự tích miếu bà Phi Yến
Miếu bà Phi Yến rất linh thiêng
Nếu bạn là một người luôn tôn thờ những giá trị truyền thống thì không thể không đến miếu bà Phi Yến, khi khám phá đảo hoang Côn Đảo.
Ánh Dương Tours
https://anhduongtours.vn/wp-content/...ba-phi-yen.jpg
https://anhduongtours.vn/mieu-ba-phi...inh-o-con-dao/
-
Giai thoại thương gia cầu cơ bị quỷ nhập đến hóa điên ở Miếu Nổi (Kì ...
nguyentandung.org/giai-thoai-thuong-gia-cau-co-bi-quy-nhap-den...
Translate this page
Mar 14, 2014 - Bờ sông Vàm Thuât cũng là một vùng toàn mồ mả bạt ngàn, đã vậy giữa sông còn có một ngôi cổ miếu linh thiêng nức tiếng. Nên rất nhiều kẻ say mê đỏ đen, bài bạc kể cả những thương gia cũng kéo đến đây cầu cơ xin người âm chỉ dẫn. Theo ông Quan, Lục Câu có thể cũng phất lên nhờ cách này nên
-
Nô nức trẩy hội miếu Bà Rá
15:44 | 08/04/2016
(KHTĐ) - Sáng ngày 8/4 (nhằm ngày 2/3 Âm lịch), Lễ hội vía Bà năm 2016 đã chính thức khai mạc tại phường Sơn Giang, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước. Hàng ngàn du khách thập phương đã nô nức về trẩy hội.
Miếu Bà rá được trang hoàng rực rỡ trong ngày lễ hội
Miếu Bà Rá (hay còn gọi là Miếu Bà Sơn Giang) là nơi thờ tín ngưỡng dân gian, được hình thành do các tù nhân Nhà tù Bà Rá, cùng nhân dân địa phương lập nên từ năm 1943 để phụng thờ chúa sứ nương nương, tôn vinh những anh hùng liệt sĩ và những người có công khai phá vùng đất này.
Từ năm 2013, được sự hỗ trợ của Công ty TNHH Mỹ Lệ và bá tánh thập phương, Miếu Bà Rá được trùng tu xây dựng khang trang, rộng rãi hơn nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh của người dân. Năm 2015, Miếu Bà Rá được UBND tỉnh công nhận là Di tích cấp tỉnh. Đây là sự ghi nhận những nỗ lực, cố gắng của tỉnh trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Theo thông lệ, Lễ hội vía Bà Rá diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 7, 8, 9/4 (tức mùng 1 đến mùng 3/3 âm lịch). Trong lễ hội năm nay, ngoài nghi thức: Giỗ bà (chính lễ), còn có nghi thức cúng địa nàng, dâng bông; cúng bia tưởng niệm tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ và đồng bào tử nạn qua các thời kỳ kháng chiến tại Bà Rá. Phần lễ trang trọng đan xen với các hoạt động văn hóa - nghệ thuật dân gian như múa lân, múa mâm ngũ quả, hát chầu văn, hầu giá, hầu đồng... do nghệ sĩ từ các đoàn ca múa nhạc đến từ tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, cùng Bình Phước tham gia làm cho Lễ hội vừa trang nghiêm vừa sôi nổi.
Rất đông khách thập phương về vía bà
Có mặt tại buổi lễ, bà Phan Thị Nụ (ngụ thị xã Bình Long) chia sẻ: “Năm nào tôi cũng cùng với các chị em trong đội nữ kháng chiến Bình Long đến đây vía Bà để cầu bình an, sức khỏe, cầu cho quốc thái dân an. Tôi thấy lễ hội này rất có ý nghĩa trong đời sống cộng đồng. Tôi mong lễ hội sẽ được bảo tồn và ngày càng phát triển”.
Trước và trong ngày diễn ra lễ hội, không khí ở thị xã Phước Long nhộn nhịp hẳn, rất đông khách thập phương hành hương về đây với tấm lòng thành kính dâng lễ vật vía Bà, hòa mình trong tín ngưỡng để cầu phước, lộc và sự bình an, may mắn cho gia đạo và cầu cho quốc thái dân an. Các gian hàng lưu niệm hai bên đường vào miếu tấp nập người mua kẻ bán nhưng không có cảnh chèo kéo, an ninh trật tự được đảm bảo, giúp không khí ngày hội thêm phần náo nhiệt.
Video Lễ hội miếu Bà Rá:
Diệc Quyền - Thanh Khoa
http://khoahocthoidai.vn/no-nuc-tray...a-ra-2922.html
-
Mình muốn làm lễ cầu siêu cho bé trước tết âm lịch, hôm qua đọc topic 1 chị trên diễn đàn giới thiệu ở chùa Cổ Miễu 312 đường Láng có tổ chức. Chiều qua mình đến hỏi trực tiếp nhà chùa nhưng buổi sáng nhà chùa vừa tổ chức 1 lễ cho mấy gia đình rồi, Nếu một mình mình làm thì nhà chùa ko tổ chức được. Mình muốn làm luôn trong năm để ăn tết thanh thản, nhưng nhà chùa nói nếu muốn tổ chức phải có ít nhất 2-3 gia đình cùng làm vì tết nhà chùa rất bận.
Mình đăng thông tin nếu bạn nào có ý định làm lễ cầu siêu cho thai nhi trước tết thì nhắn tin cho mình nhé. Giờ đến tết chỉ còn chưa đầy chục ngày nữa nên rất mong nhận được phản hồi sớm của các bạn.
https://www.webtretho.com/forum/f188...ong-a-1063898/
-
Ông lái đò kì dị nơi miếu cổ ở Sài Gòn
Thứ Năm, ngày 14/11/2013 00:05 AM (GMT+7)
Nhiều năm nay, tại bến đò Bình Đông (Q.8, TP. HCM) xuất hiện những câu chuyện vô cùng liêu trai. Rằng, vào buổi đêm có những tiếng khóc ai oán, não nề phát ra từ ngôi miếu cổ nằm cô độc trên cồn đất giữa sông. Lại có một ông cụ làm nghề đưa đò chở khách vào khoảnh khắc u tịch nhất trong đêm. Chính vì thế, nên ngôi miếu này được một số trang mạng xếp vào danh sách 13 địa danh rùng rợn nhất Sài Gòn.
15 5
Để rõ thực hư câu chuyện, sau một ngày tìm hiểu lai lịch và xem xét khu miếu, PV quyết định chờ chuyến đò nửa đêm ra miếu hoang nổi tiếng để gặp ông lái đò kì dị và tận mục những điều rùng rợn được đồn đại.
Chuyến đò đêm kinh dị
Đêm đêm, khi mọi hoạt động tại bến đò Bình Đông đã dừng lại nhường chỗ cho những cơn gió rít qua hàng dừa mang theo nhiều thứ âm thanh hỗn tạp thì có một ông lão chèo đò miệt mài vung mái chèo trên con rạch Bà Tàng.
Ông lão tên Tư, năm nay 68 tuổi (ngụ P.15, Q.8, TP.HCM) được người dân gọi với biệt danh “lão lái đò kì dị”. Có biệt danh đó bởi ông Tư chỉ chèo đò vào khoảng thời gian duy nhất trong ngày từ 11h khuya đến 3h sáng. Hướng đò duy nhất ông đưa khách qua lại là từ bến ra đến ngôi miếu nằm giữa sông.
12h khuya, tất cả trở nên tĩnh lặng, chỉ còn lại tiếng khua chèo của người lái đò già. Nhìn cảnh vật hai bên chìm trong im lặng khiến chúng tôi gợn lên một nỗi sợ mơ hồ. Tôi chợt nhớ đến những điều mà người phụ nữ ban chiều khi hỏi đường, kể lại rằng, cứ mỗi đêm, khi tất cả đã chìm trong đêm tĩnh lặng, lại có những âm thanh kỳ quái phát ra từ ngôi miếu cổ đó.
Ông lái đò kì dị nơi miếu cổ ở Sài Gòn - 1
Ông Tư, người lái đò "kì dị" thường đưa khách đến ngôi miếu cổ. Ảnh: T.G
Vừa chèo đò, ông Tư vừa kể cho chúng tôi nghe về gốc tích của ngôi miếu này. Theo ông, ngôi miếu cổ đã có trên 100 năm tuổi, nằm biệt lập trên cồn đất nhô lên giữa bến đò Bình Đông. Nhìn chung ít ai quan tâm tới nó, ngoại trừ những vị khách đến tìm ông nhờ đưa sang. “Tôi cần tiền để sống, người ta cần ra miếu thì tôi chở”, ông lái đò cho biết.
Ông Tư cho rằng, sở dĩ mình có duyên và gắn bó lâu năm với ngôi miếu này cũng do sự tình cờ. Khoảng gần 15 năm trước, ông có nghe chuyện đồn rằng: một người dân trong ấp khi đi ngang qua miếu nhìn thấy đống hũ đựng hài cốt nên sợ hãi, vội vào thắp hương cúng bái. Nào ngờ, đêm đó có một người đàn bà về báo mộng, cho người vào thắng hương một dãy số. Được một người bạn gợi ý, người kia đánh số đề bao lô con số 68 và bất ngờ trúng đậm. Thế rồi tiếng đồn lan xa, giới cờ bạc khắp nơi đổ về ngôi miếu để cầu khấn, xin số. Từ đó, ngôi miếu hoang lạnh trở nên linh thiêng, gắn với những chuyện cầu cơ xin số. Thấy khách ùn ùn kéo đến, ông Tư cũng sắm chiếc xuồng nhỏ chở khách sang sông. Lâu dần, nghề đưa đò trở thành công việc mưu sinh chính của ông.
Ông lái đò kì dị nơi miếu cổ ở Sài Gòn - 2
Người lái đò trên bến sông ra ngôi miếu cổ. Ảnh minh họa
Sau phút chờ đợi, đò cũng cập bến, ngôi miếu mờ ảo hiện lên dưới ánh trăng, những đốm nhang đỏ hoét ngún dở in trên nền tường loang lổ trông rờn rợn. Thấp thoáng trước mặt chúng tôi là những lư hương xếp theo thứ tự, mỗi lư đều thờ một vị được coi là thần nào đó. Ở mặt Tây ngôi miếu, hai ngôi mộ nhỏ nằm thấp thoáng dưới những tán mắm rậm rịt, dưới gốc cây là manh chiếu nhỏ và lư hương với những cán hương rơi vung vãi. Nếu là dân trong nghề sẽ dễ dàng nhận thấy đây chính là lãnh địa của những tay chuyên “cầu cơ”, xin số đề từ người đã khuất. Đêm càng khuya, lại không có người chỉ dẫn, chúng tôi khẩn khoản giữ ông lái đò lại với một khoản thù lao đặc biệt. Ông lái đồ gật đầu đồng ý, và dường như lúc này mới trổ thêm “tay nghề”. Hóa ra ông lái đò cũng là “hạng thầy” trong nghề cầu cơ.
Bóc mẽ những trò bịp bợm
Nghĩ chúng tôi đến ngôi miếu này để xin số, ông lái đò lôi sau lưng ra một bàn cơ là miếng bìa cứng, xỉn màu và bắt đầu hành nghề. Ông lái đò thì thầm giảng giải: “Những vết láng bóng này có được là do nhiều lần “ma” hiện hình về, di chuyển nhiều nên mơ được như thế. Hơn nữa, bàn cờ trơn láng vậy “hồn ma” sẽ dễ đi lại hơn”. Cơ là một miếng ván nhỏ hình trái tim, theo ông lão thì tốt nhất là miếng ván được lấy từ quan tài của người chết, vì càng có “âm khí” thì sẽ càng dễ gọi hồn ma nhập về. Sau khi thắp nhang lên bát gạo đặt trước ngôi mộ hoang, ông lão lầm rầm khấn vái bằng những ngôn từ kinh sợ. Không thể chịu đựng thêm nỗi sợ hãi này, chúng tôi lấy lí do “yếu tim” và xin được ngừng lại, rồi chuyển qua thủ tục rút thăm xin số. Nhìn nét mặt xanh xám của khách, ông lái đò nở nụ cười bí hiểm.
Ông lái đò kì dị nơi miếu cổ ở Sài Gòn - 3
Ngôi miếu hoang nơi thờ di ảnh của "cậu" Hành và "cô" Lan nằm giữa đám cây rậm rạp
Thấy chúng tôi cứ loay hoay, ông Tư hướng dẫn cách thắp nhang theo thứ tự cắm vào bát hương miếu “Mẹ” trước, tiếp đến là hai miếu thờ Quan Âm ngay trước cửa, kế đến là miếu thờ Quan Vũ và cuối cùng là ngôi miếu thờ di ảnh của cô Lan và anh Hành, cùng 34 bộ hài cốt khác. Ông lão lái đò khấn: “Con lạy Bồ Tát, con xin phép ơn trên, nay con tới thắp hương trước tiên là xin sức khỏe cho gia đình con. Kế đến con khẩn khoản ơn trên cho con cái số để con rộng đường làm ăn, cho qua cơn tai ương này. Mong bà cho phép. Nếu đặng con sẽ quay lại làm lễ hậu tạ thật lớn…”. Cứ thế, ông lão lái đò khấn những câu dài dằng dặc một cách trơn tru như được học thuộc lòng tự bao giờ.
Sau khi xin được thẻ số với hàng số 079 cho chúng tôi, ông Tư cẩn thận hướng dẫn đánh lẻ ra sao, bao lô thế nào, đánh bao nhiêu… Cuối câu chuyện, ông gợi ý sáng mai quay lại, mang theo 4 quả trứng gà, ở đây có một người tên Bảy (người trông coi miếu - PV) sẽ lấy số lại cho. Để tăng thêm phần linh thiêng và gieo vào lòng chúng tôi, ông lái đò kể một mẩu chuyện về người đã được “Mẹ” ban sau khi đến cầu. “Chẳng ai yêu cầu lễ “Mẹ” vật phẩm sang trọng cả, đôi khi chỉ cần chén nước lã thôi. Nhưng khi xin đã hứa hậu tạ rồi thì phải quay lại, bởi “Mẹ” rất thiêng. Trước đây có người phụ nữ ở Long An trúng lớn đã không quay lại lễ như đã hứa nên “Mẹ” phạt, rồi cũng tán gia bại sản”. Lời “gợi ý” của lão càng tỏ cho chúng tôi nhiều điều, lí do vì sao ở tuổi gần đất xa trời ông vẫn đêm đêm miệt mài làm cầu nối cho dân sùng bái đỏ đen.
Ông lái đò kì dị nơi miếu cổ ở Sài Gòn - 4
Nơi đây thờ 30 bộ hủ cốt mà không ai biết rõ tung tích
Không thể tiếp tục trò chơi gọi hồn giữa đêm khuya này thêm nữa, chúng tôi đi loanh quanh ngôi miếu, tìm hiểu về những lời đồn đoán ma quỷ mà mình từng nghe qua. Và một sự thật về mức độ “rùng rợn” mà bấy lâu nay người dân Sài thành luôn đồn thổi ở ngôi miếu cổ đầy ma mị được lật tẩy. Theo những gì tận mắt chứng kiến và lời giải thích của người lái đò, chúng tôi lờ mờ hiểu rằng âm thanh tiếng khóc, tiếng rên rỉ, tiếng cười khúc khích giữa đêm mà mọi người đồn đại đều bắt nguồn từ những trò dọa ma của đám cờ bạc hay lui tới đây cầu cơ là mang theo đĩa nhạc ai oán rồi mang đến ngôi miếu này mở bằng một chiếc đài nhỏ. Kể cả việc ông chèo đò thường làm việc từ giữa đêm đến 3h sáng cũng vì khách thường trả nhiều tiền hơn.
Cũng chính tiếng nhạc ai oán đó, người lái đò “kì dị” nói trên đã khiến những người dân nơi đây đồn đoán, thêu dệt biết bao nhiêu câu chuyện huyền bí về ngôi miếu nằm trên cánh đồng hoang của quận 8 này. Và hơn 15 năm qua, ngôi miếu trở thành nỗi ám ảnh đáng sợ đối với người dân Sài Gòn, dẫu chỉ là nỗi sợ đến từ những câu chuyện truyền miệng.
Chỉ là lời đồn liêu trai
Qua trao đổi với PV, một số cán bộ tại P.15, Q.8 (TP. HCM) khẳng định, chuyện ngôi miếu cổ được xếp hạng là những địa danh rùng rợn nhất ở thành phố lần đầu tiên mới được nghe. Riêng chuyện ma mị thì hoàn toàn không có thật mà chỉ do một số dân cầu cơ, lô đề tự thêu dệt lên để nhằm tăng thêm sự linh thiêng cho ngôi miếu. Riêng hai người “cậu” Hành và “cô” Lan được thờ tại đó là ngày trước do uống thuốc tự tử. Sau đó, gia đình đau buồn nên đã đem di ảnh ra đặt tại ngôi miếu giữa sông thờ cúng và cả nhà chuyến đến nơi khác sinh sống.
Theo Thảo Xanh – Minh Duyên (Đời sống & Hôn nhân)
http://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-...46a587183.html
http://anh.24h.com.vn/upload/4-2013/...do-ki-di-6.jpg
http://anh.24h.com.vn/upload/4-2013/...do-ki-di-1.jpg
http://anh.24h.com.vn/upload/4-2013/...do-ki-di-2.jpg
http://anh.24h.com.vn/upload/4-2013/...do-ki-di-4.jpg
-
-
Du lịch tâm linh ở đảo Phú Quốc
21 TH4 2016
Phú Quốc là hòn đảo nhỏ có rất nhiều các ngôi chùa, đền, dinh khá linh thiêng. Phần lớn các công trình này đều đã có từ lâu đời, được nhân dân thờ phụng, cúng viếng trùng tu rất kỹ càng. Trong tour trọn gói giá rẻ của công ty du lịch Phú Quốc Xanh, du khách sẽ được khám phá nét đẹp tâm linh và nét kiến trúc kiên cố, cổ xưa tại các công trình này
Du lịch Phú Quốc đầu năm hòa mình vào lễ hội Dinh Bà Ông Lang
Hoàng hôn Dinh Cậu-tuyệt tác của thiên nhiên mà người cao tuổi không nên bỏ qua khi đi du lịch Phú Quốc
Tour Cần Thơ – Phú Quốc 4 ngày 3 đêm ngắm hoàng hôn Dinh Cậu và khám phá chợ đêm Phú Quốc
Điều gì làm nên danh hiệu “sao vàng đất Việt” của nước mắm Phú Quốc?
Tour Cần Thơ Phú Quốc 4 ngày 3 đêm viếng thăm chùa Hộ Quốc
Chùa Hộ Quốc
Chùa Hộ Quốc hay còn gọi là Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc là ngôi chùa lớn và yên tĩnh bậc nhất hòn đảo này. Chùa Hộ Quốc được mệnh danh là ngôi chùa lớn nhất đảo Phú Quốc với diện tích khoảng 12ha.
Vì nằm ở trên núi nên không khí ở đây rất mát mẻ và trong lành. Xung quanh chùa trồng rất nhiều cây xanh càng làm cho không khí thêm tươi mát. Ngôi chùa như được bao bọc bởi rừng và biển, khung cảnh rất nên thơ. Phía trước mặt là mênh mông biển cả, nước biển trong xanh, sóng đánh lăn tăn vào bờ.
Phía sau là rừng cây um tùm xanh ngắt. Đến đây bạn sẽ có cảm giác rất nhẹ nhàng trong thân thể lẫn đầu óc. Mọi ưu tư phiền muộn của cuộc sống hối hả hằng ngày sẽ theo sóng, theo gió, theo từng tiếng gõ mõ bay đi mất. Vì thế vào dịp lễ Tết, các tăng ni, phật tử, du khách đến tham quan ngôi chùa này rất nhiều.
Cổng chính chùa Hộ Quốc
Cổng chính chùa Hộ Quốc
Chùa Sư Muôn
Chùa Sư Môn có tên tiếng Hán là Hùng Long Tự được thành lập bởi vị sư có tên là Nguyễn Kim Môn, sau này người dân đọc chệch thành chùa Sư Muôn. Cách thị trấn Dương Đông khoảng 5km về phía Đông, trên con đường Dương Đông-Hàm Ninh.
Cổng chính chùa Sư Muôn
Cổng chính chùa Sư Muôn
Tuy không có nhiều sự kiện lịch sử, nhưng chùa Sư Môn vẫn là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất Phú Quốc. Muốn lên chính diện của chùa, du khách phải đi qua 60 bậc cầu thang đá, phía trước có tượng Quan Âm lộ thiên đứng trên toà sen, cạnh đó là tượng một con hổ nằm chầu dưới một góc tre.
Chùa Sư Môn có không gian rất thoáng đãng với rất nhiều cây cối được trồng xung quanh. Bên hông chùa là một con đồi nhỏ dốc thoai thoải. Khung cảnh rất nên thơ và hướng nội, thích hợp cho du khách muốn đi hành hương hoặc tới viếng cảnh chùa.
Chùa Sùng Hưng
Chùa nằm trên trục đường Trần Hưng Đạo, gần với chợ đêm Dinh Cậu sầm uất, thế nên ngôi cổ tự này hằng ngày đón tiếp rất nhiều du khách từ phương xa tới tham quan cúng viếng. Chùa Sùng Hưng nằm trên một ngọn núi gần trung tâm thị trấn Dương Đông.
Cổng chính chùa Sùng Hưng
Cổng chính chùa Sùng Hưng
Cổng chùa quay về hướng Bắc, kiến trúc theo phong cách dân gian với “trước miếu, sau chùa”. Chánh điện được bày trí tôn nghiêm với hệ thống hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng lộng lẫy; cùng nhiều pho tượng bằng gỗ, đồng và thạch cao được điêu khắc rất tinh xảo.
Điểm đặc biệt tại chùa Sùng Hưng là từ sau ngày Bác Hồ (Chủ tịch Hồ Chí Minh) mất đến nay, vị sư trụ trì chùa đều dâng cơm cúng Bác mỗi ngày vào đúng giờ Ngọ. Trước năm 1975, việc cúng cơm này được bí mật tiến hành. Ngoài ra trước năm này, chùa Sùng Hưng còn là một điểm liên lạc bí mật của lực lượng Cách mạng.
Chùa Hưng Quốc
Còn gọi là chùa Phước Thiện. Ngôi chùa ở thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, thuộc hệ phái Tịnh độ Cư sĩ. Chùa do các ông Út Búp và một số huynh đệ địa phương sáng lập năm 1952, dưới sự cho phép của Đức tông sư Nguyễn Minh Trí. Dân địa phương quen gọi là chùa Hưng Quốc là chùa Phước Thiện.
Cổng chính chùa Hưng Quốc
Cổng chính chùa Hưng Quốc
Thánh thất Dương Đông
Men theo con đường chợ, dọc sông Dương Đông là cầu Nổi. Cầu như một chiếc phà bắt qua sông, chỉ dành cho xe ba bánh, hai bánh và người đi bộ. Qua cầu Nổi một đoạn là thấy thánh thất Dương Đông. Mấy ai biết được rằng Phú Quốc chính là nơi khởi nguồn của đạo Cao Đài.
Cổng chính Khánh thất Dương Đông
Cổng chính Khánh thất Dương Đông
Dinh Cậu
Dinh Cậu ở Phú Quốc là địa điểm đến khá hấp dẫn đối với du khách, không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp kỳ thú mà còn bởi sự huyền bí tâm linh qua các giai thoại được cư dân truyền miệng nhau. Trong tour du lịch giá rẻ của công ty du lịch Phú Quốc Xanh, du khách sẽ được chiêm ngưỡng công trình tâm linh độc đáo có một không hai này.
Cách thị trấn Dương Đông khoảng 20km về phía Tây, Dinh Cậu nổi bật trên một ghềnh đá nhỏ, hướng mặt ra biển. Người ta chưa biết chính xác thời điểm xây dựng nên công trình này nhưng theo sổ sách ghi chép lại, Dinh Cậu được khởi công xây dựng vào khoảng thế kỷ 17.
Muốn lên được Dinh Cậu, người ta phải đi qua 29 bậc thang đá, trên đường đi du khách sẽ thấy một ngôi miếu nhỏ thờ Thổ Thần, trong sân Dinh có đặt bàn thờ ông Thiên. Ở giữa chánh điện của dinh thờ Chúa Ngọc nương nương và tượng thờ “Cậu Tài” và “Cậu Quý” – những đấng linh thiêng cai quản vùng sông nước và luôn bảo vệ ngư dân vùng biển đảo.
Ở Phú Quốc, cứ mỗi dịp 15-16 tháng 10 Âm lịch hàng năm, nhân dân ở đây mở hội rất linh đình, có rất đông người bản địa và du khách tới tham quan. Mỗi khi tới dịp lễ Tết hoặc trước mỗi chuyến ra khơi, cư dân ở đây không quên đến Dinh Cậu để cầu khấn mong chuyến đi biển của minh bình an vô sự, có được kết quả tốt.
Dinh Bà
Thủy Long Thánh Mẫu hay thần nữ Kim Giao (không rõ năm sinh, năm mất); được xem là người có công khai phá huyện đảo Phú Quốc. Dinh Bà Ông Lang Phú Quốc nằm cách trung tâm thị trấn Dương Đông 7km, từ mặt lộ đến Dinh Bà khoảng 1km. Du khách đến lễ hội Dinh Bà vào những ngày gần đây ngày càng đông, người dân huyện đảo Phú Quốc náo nức chuẩn bị cho lễ hội Dinh Bà.
Cổng trước Dinh Bà
Cổng trước Dinh Bà
Đánh Giá
Chia sẻ lên mạng xã hội
https://phuquocxanh.com/vi/du-lich-t...-dao-phu-quoc/
https://phuquocxanh.com/vi/wp-conten...4cf1d3bd_c.jpg
-
-
MIẾU ÂM HỒN TÍN THIỆN
Hội An dầu sao cũng là vùng đất bao đời người người kéo về đây tụ hội quần cư. Đất lành đãi người nên khi làm ăn ra, con người ta thường nghĩ về kẻ thất thế, gặp vận rủi, không may:
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)
Công bằng mà nói, Hội An nhiều, thậm chí rất nhiều, miếu cô hồn quá! Có cái "to con" được cải gọi là cái đình, cái hơi nhỏ thì không gọi là miếu mà gọi là "miễu", còn xóm nào nghèo quá thì dựng cái tí hon rồi gọi là... "khóm".
Tuy nhiên, bây giờ đến Hội An mà chư huynh hỏi miếu Âm Hồn ở đâu thì chỉ một câu trả lời duy nhất: "Trong đàng kiệt Âm Hồn", số 76/8, Trần Phú, khối An Thái, phường Minh An. Đây là miếu Tín Thiện do cư dân xóm (phổ) Tín Thiện cựu xã Minh Hương lập dựng để thờ cô hồn.
Miếu Tín Thiện chỉ còn ba gian, gian thứ tư và năm (phía tấm bạt màu xanh) đã bị sụp đổ do dân đào hầm vệ sinh tự hoại mà không gia cố trước. Tất cả chái sau của năm gian này, cùng với sân miếu cũng bị dân lấn chiếm làm nhà hai bên khoảng vài chục năm trở lại đây.
THẦN MINH XÁ
Tự Đức nguyên niên xuân chính nguyệt... ... ...
Ngoài cửa miếu, Hoành phi ghi :"Tự Đức năm thứ nhất (1848), mùa xuân tháng giêng, Xã Minh Hương, Trương Đức Trạc phụng cúng.
NGHĨA TỪ
Canh Dần niên (1830) quý thu nguyệt cát đán.
Tín Thiện tộc đồng kiến tạo.
(Ngày xưa cứ hai mươi lăm nhà là một lư 閭, làng mạc gọi là lư lý. Cứ bốn lư là một tộc 族, tộc ở đây không phải là những người cùng một thủy tổ sinh ra).
Nội thất miếu bố trí ba gian thờ với ba thần chủ chạm khắc gỗ:
QUÝ HIỂN ÂM HỒN LIỆT VỊ
TẢ BAN QUÝ HIỂN ÂM HỒN LIỆT VỊ
HỮU BAN QUÝ HIỂN ÂM HỒN LIỆT VỊ
Và cùng nội dung câu đối thờ:
THÊ LƯƠNG TÚC THẢO BI HAO LÝ
PHÂN BẬC THANH TÔN THỎA LỮ HỒN
(Thê lương cỏ tối mờ đường tới
Thơm thảo rượu trong gọi bóng về)
Nhà giáo Phạm Thúc dịch thơ
Gian tả còn bố trí thờ PHƯỚC ĐỨC CHÁNH THẦN với câu đối:
Phước nhi hữu đức gia gia tự
Chánh tắc vi thần xứ xứ tôn
(Phước và có Đức nhà nhà phụng tự
Chánh tắc làm Thần xứ xứ suy tôn)
Gian hữu thờ VONG HỒN KÝ TỰ với thần chủ:
寄 祀 諸 先 靈 列 位
(KÍ TỰ CHƯ TIÊN LINH LIỆT VỊ)
Tại đây có hai bảng gỗ ghi bài vị LỊCH ĐẠI TIỀN VÃNG (Những người quá vãng trải nhiều đời) bằng chữ Hán, nội dung ghi tên, họ từng người quá cố được kí tự trong miếu cô hồn. Đây là hình thức trang trọng đề cao đạo nghĩa đối với người quá cố và làm yên lòng con cháu những người được kí tự.
Trong khi các đình miếu ở Hội An đều lập văn bia bằng đá thì tại miếu Tín Thiện lại dùng mộc bản để ghi lại quá trình kiến tạo miếu.
Minh Hương xã, Tín Thiện tộc tự dẫn
Nghĩa từ giả kiến nghĩa tắc vi dã...
Xóm Tín Thiện, xã Minh Hương. Bài tựa:
Việc nghĩa từ. Thấy việc nghĩa tất phải làm vậy! Ai thấy sa trường tịch mịch mà không dấy lên xúc cảm bi ai trải dài vạn dặm, bày tỏ thương tâm!
Xóm ta từ năm Nhâm Ngọ đã lập một đàn tế ở vùng đất mả hoang mồ lẻ ước có ngàn vạn số mà chẳng biết là ai! Vậy hậu thế ai có biết chăng?
Vì thế nhiều người cùng lo cúng tế và quét dọn mồ mả hằng năm. Sáng kiến ban đầu ấy tạm duy trì thực hiện như thế.
Minh Mạng thập niên Kỷ Sửu bổn tộc thủy đồng quyên tư lực trợ cấu mãi thổ viên nhất hạng tại Hội An xã Lâm Sa xứ kiến thử nghĩa từ...
Năm Minh Mạng thứ mười Kỷ Sửu 1829, bắt đầu quyên tiền mua đất vườn hạng nhất tại xã Hội An, xứ Lâm Sa xây đền thờ. Bốn mùa, nơi đền miếu đều khói hương chu đáo.
Mỗi đầu xuân cúng tảo mộ một lần. Mỗi ba năm chạm khắc tu bổ một lần
Tiền nhân định ra tiền lệ như vậy để hậu nhân bồi đắp làm nền móng lâu dài.
Sự đời luôn biến dời, nhất thiết không thay đổi nên viết thành bài tựa này.
Trưởng làng Nguyễn Hữu Giác bái viết.
Từ khi kiến lập đến nay, miếu không có một thạch bi, mộc bản nào ghi lại những lần trùng tu, chỉ có những hoành phi, câu đối do các nhà từ thiện phụng cúng, ghi lại một số cột mốc thời gian trong các lạc khoản: 1848, 1852, 1895. Đó là thời huy hoàng của miếu âm hồn Tín Thiện.
Ngày 21 tháng giêng hằng năm tổ chức cúng tảo mộ ở miếu. Nói rằng tảo mộ là quét dọn mồ mả âm linh nhưng thực tế hiện nay mồ mả âm linh đã hoàn toàn thất lạc. Vì vậy chỉ có một lễ cúng để tưởng vọng cô hồn.
Một tác giả vô danh từ năm 1852 phải thực sự cảm thông với cô hồn phiêu bạt mới để lại hai câu thơ trong miếu khuấy động lòng người:
Uất uất tuyền đài, tụ phách hà quy ta lữ mộng
Nguy nguy từ vũ, thê thần hữu địa úy tiềm linh
Tự Đức vạn vạn tuế chi ngũ, quý thu cát đán phụng lập
Buồn bã tuyền đài, tụ phách biết về đâu gởi mộng
Nguy nga miếu tự, quy hồn đã có chỗ nương linh
Tự Đức vạn vạn năm của năm thứ năm, tháng chín ngày tốt phụng lập
Rồi đây những mộc bài, hoành phi, câu đối sẽ bị mối mọt, nắng mưa hủy hoại hoặc thất tán khôn lường. Người Hội An hậu thế sẽ chẳng còn có cơ hội thấy được những độc đáo văn chương xưa cổ mang dấu ấn đời sống tâm linh của những thế hệ đã qua.
Được đăng bởi soncuongde vào lúc 14:25
Phản ứng:
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Twitter
Chia sẻ lên Facebook
Chia sẻ lên Pinterest
Không có nhận xét nào:
http://soncuongde.blogspot.com/2011/...-sao-cung.html
-
Miếu Sơn Tịnh Nam Diêu
Thứ hai - 17/10/2011 09:23
Làng cổ Thanh Hà ngày trước có mười ba ấp, trong đó có ba ấp chuyên làm nghề gốm. Đầu tiên là hai ấp Thanh Chiếm, An Bang. Sau đó là Nam Diêu.
Đường mòn vào ấp Thanh Chiếm
NAM (南): Phương nam
DIÊU (窯): Lò nung vôi, nung ngói với bộ HỎA bên dưới.
Ở Hội An chỉ có Nam Trung (Cẩm Nam) và Nam Diêu (Thanh Hà) là nơi có nhiều miếu thờ quy tụ về một vị trí. Xin lai rai giới thiệu, đầu tiên là miếu SƠN TINH.
Miếu Sơn Tinh ấp Nam Diêu
Dân ta xưa kia, theo tín ngưỡng dân gian, thường lập miếu thờ thần cầu mong được hưởng ân trạch của chư vị theo như sắc phong mà vua đã ban cho thần.
Sơn Tinh nhị vị là hai vị thần được vua triều Nguyễn sắc phong:
山 精 果 勇 將 君 尊 神
SƠN TINH QUẢ DŨNG TƯỚNG QUÂN TÔN THẦN
山 精 武 勇 將 君 尊 神
SƠN TINH VŨ DŨNG TƯỚNG QUÂN TÔN THẦN
Miếu có ba gian. Gian giữa thờ Nhị Vị Sơn Tinh
Gian tả thờ chư thần phối tế:
奉 昭
PHỤNG CHIÊU
Phụng thờ sự sáng suốt
(Theo truyền thống, trong nhà thờ, giữa là bệ thờ tổ, trái là bệ thờ hàng chiêu)
Và hai câu đối:
Sơn Tinh chân hiển hách
Thủy Tinh vĩnh anh linh
Có thể cổ nhân khi đặt câu đối này có sự nhầm lẫn với nhị vị ở Phong Châu chiều xưa.
(Ơi Ngài Thủy Tinh! sao ghen mà Thần chỉ... nhẹ nhàng... tát nước!?).
Gian hữu cũng thờ chư thần phối tế:
永 賴
VĨNH LẠI
Nhờ cậy lâu dài
Và hai câu đối:
Thăng thiên hoàn hóa hĩ
Xuất nhập vô di hồ
(Lên trời biến khắp nơi
Vào ra không thấy dạng)
NGŨ HÀNH DIỆU HỢP TRƯỜNG NHƯ TẠI
NHỊ KHÍ LỰ TINH TRẠC NHĨ LINH
(Ngũ hành phù hợp trường tồn mãi
Nhị khí giao hòa sáng tỏ lâu)
Miếu Sơn Tinh Nam Diêu chưa biết lập tự khi nào nhưng đây là ngôi miếu có quy mô kết cấu vững chắc, tường dày 45 phân với loại gạch đặc 6x13x27. Mái miếu dạng vòm gạch, phần mái ngói phía trên tô điểm cho kiến trúc đình chùa đương thời.
Cư dân làng nghề ngói gạch Nam Diêu chọn khu đất mà nơi đây có lần vua Minh Mạng từng ngự giá để xây khu tứ sở (bốn miếu).
Ngoài miếu Sơn Tinh còn có:
Miếu Thần bổn xứ
Miếu Tổ nghề gốm
Miếu Âm linh
Dân làng truyền rằng: "vua Minh Mệnh từng dừng chân nơi đây"
Nội dung TÂN TRÚC LỘ BI:
明命五年五月日奉塹築路之東壹千五 肆拾肆
尋肆尺至會安庯又貳千陸百陸拾陸尋 大
占海口路之西貳千壹百拾貳尋三尺五 至營
城按里路又壹千捌百捌拾尋至永奠河
Phiên âm:
Minh mệnh ngũ niên ngũ nguyệt nhật, phụng trạm trúc lộ chi đông, nhất thiên ngũ bách tứ thập tứ tầm tứ xích chí Hội An phố. Hựu nhị thiên lục bách lục thập lục tầm chí Đại Chiêm hải khẩu lộ chi tây. Nhị thiên nhất bách thập nhị tầm tam xích ngũ thốn chí Dinh Thành án lí lộ. Hựu nhất thiên bát bách bát thập tầm chí Vĩnh Điện hà khẩu.
Dịch nghĩa:
Minh Mệnh năm thứ 5 (1824), ngày tháng 5, vâng xây trạm phía đông đường, 1.555 tầm 4 xích đến phố Hội An. Lại 2.666 tầm đến phía tây đường cửa biển Đại Chiêm. 2.112 tầm 3 xích 5 tấc đến đường án lí Dinh thành. Lại 1.880 tầm đến cửa sông Vĩnh Điện.
(Bản chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa của ĐỒNG DƯỠNG)
http://www.hoianworldheritage.org.vn...m-Dieu-473.hwh
-
TỤC THỜ CÔ HỒN BIỂN Ở NAM TRUNG BỘ
Nguyễn Thanh Lợi
Trường CĐSP TW TP.HCM
Âm hồn hay còn gọi là âm linh là những khái niệm dùng để chỉ linh hồn những chết nói chung có nguồn gốc từ thuyết vạn vật hữu linh (anismism, thuyết duy hồn, thuyết vật linh). Trong tâm thức dân gian, âm hồn và linh hồn đôi khi chỉ được hiểu là linh hồn của những người chết bất đắc kỳ tử, của những người chết không nơi thờ tự, chết vì tự tử, tai nạn, thú dữ, chết yểu…Theo cách hiểu này, thì âm hồn hay âm linh gần nghĩa với vong hồn cô độc (cô hồn), sống lang thang vất vưởng, không nơi nhang khói nên thường gieo rắc tai họa. Đó là đối tượng mà thế nhân phải tìm cách giải trừ. Cộng đồng cư dân ven biển Nam Trung Bộ gọi một cách kính trọng là Cô Bác.
1. Đặt vấn đề
Thờ cô hồn biển vốn là một tín ngưỡng truyền thống của cư dân Việt ven biển Đông, nhưng ở Nam Trung Bộ có những sắc thái riêng thông qua tín lý, đối tượng thờ tự, thực hành nghi lễ. Tập tục này liên quan đến các tín niệm dân gian và có cả những yếu tố của Đạo giáo, Phật giáo chi phối. Hình thức biểu hiện của nó cũng khá phong phú: miếu âm linh, lăng thờ, nghĩa trủng, lễ tế âm linh, lễ phóng sinh, phóng đăng, tục tống ôn, hát bả trạo / chèo âm linh…
2. Tục thờ cô hồn biển ở Nam Trung Bộ
2.1 Tín lý
Âm hồn hay còn gọi là âm linh là những khái niệm dùng để chỉ linh hồn những chết nói chung có nguồn gốc từ thuyết vạn vật hữu linh (anismism, thuyết duy hồn, thuyết vật linh). Trong tâm thức dân gian, âm hồn và linh hồn đôi khi chỉ được hiểu là linh hồn của những người chết bất đắc kỳ tử, của những người chết không nơi thờ tự, chết vì tự tử, tai nạn, thú dữ, chết yểu…Theo cách hiểu này, thì âm hồn hay âm linh gần nghĩa với vong hồn cô độc (cô hồn), sống lang thang vất vưởng, không nơi nhang khói nên thường gieo rắc tai họa. Đó là đối tượng mà thế nhân phải tìm cách giải trừ. Cộng đồng cư dân ven biển Nam Trung Bộ gọi một cách kính trọng là Cô Bác.[1]
Đối với quỷ thần, Nho giáo chủ trương “kính nhi viễn chi”, xuất phát từ quan điểm hướng sự quan tâm chính yếu của họ vào các vấn đề nhân sinh. Thái độ ứng xử với các vong hồn cô độc, không người tế tự là biểu hiện của lòng nhân nghĩa thông qua lễ cúng âm linh.
Đạo giáo nỗ lực thoát khỏi định mệnh của cái chết bằng việc mưu cầu sự bất tử và những chuyến du hành tiêu dao cõi tiên ngoài thế gian là những cơ may có một không hai. Các hình thức nghi lễ nhằm chức năng giải trừ tà ma.
Theo thuyết luân hồi của nhà Phật, vong hồn, tùy theo tội phước đã có lúc sinh tiền, hoặc được “trực vãng Tây phương”/”tiêu diêu cực lạc” hoặc chưa thoát khỏi sinh tử thì chu chuyển trong vòng tứ sanh-lục đạo[2], tức tái sinh qua bốn hình thức (thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh), làm thiên, a tu la / phi thiên, làm người, làm súc vật hay phải vào địa ngục.
Các vong hồn nói chung, chỉ được siêu thăng đến cõi Tây phương cực lạc hay đầu thai kiếp khác thì hồn người chết phải đến Phong Đô (âm ty, âm phủ), do Phong Đô đại đế chưởng quản. Ở đây có Thập điện Diêm vương thống quản với nhiệm vụ thưởng công phạt tội các vong hồn. Các vong hồn sau khi bị xử phạt ở các điện được giải về điện thứ mười do Chuyển Luân vương chưởng quản, ở tại đáy biển Đông, rồi sang sở chuyển kiếp để định tội phúc mà cho đầu thai lên các phương thế gian theo lục đạo.[3]
2.2 Đối tượng thờ tự
Những vong hồn được suy tôn là là âm linh / Cô Bác ở Nam Trung Bộ gồm:
Vong linh của mười loại người chết vì mười nguyên do khác nhau. Căn nguyên của họ được thể hiện rõ trong các bản văn tế cô hồn của các làng biển. Họ là những người chết vì bệnh dịch, đau ốm, chiến tranh, bão lũ[4]…Nói chung là những người khi sống than phận không may mắn, đến lúc chết đi vong linh phiêu dạt, mồ mả không ai chăm sóc.
Vong linh của dân sở tại cũng do chết bất đắc kỳ tử nhưng có nguồn gốc danh xưng rõ ràng. Nhưng do chết ở nơi khác, mồ mả bị thất lạc nên các đối tượng này cũng được quy về dạng âm linh / Cô Bác, dù tên tuổi của họ được ghi vào phổ hệ (gia phả) của làng, đặt thờ trong lăng âm linh.
Ngư dân các đời của các tộc họ đã bỏ mình trên biển trong cuộc mưu sinh từ xưa. Đối tượng được tôn là tiền bối nghề biển của làng vạn. Họ vừa được thờ cúng ở làng vừa được thờ ở gia tộc (thờ vọng), chủ yếu là ở làng, mang đậm sắc thái thờ cúng tổ tiên.
Những người khuất mặt hay còn gọi là “Khách” (tiền chủ) vốn là những dân tộc cư trú ở dãy đất miền Trung trước khi người Việt đến đây. Trong các lễ thức của các cộng đồng cư dân biển nơi đây bao giờ cũng có phần dành cho những người khuất mặt như trong lễ cúng vong ở gia đình và cộng đồng, lễ tống ôn ở các làng xã.
Chiến sĩ trận vong là những chiến sĩ tử trận không phân biệt địch ta, thể hiện đạo lý nhân nghĩa của dân tộc. Việc thờ cúng này diễn ra dưới hình thức thờ độc lập hoặc phối tự ở lăng âm linh.[5]
2.3 Cơ sở thờ tự
Các làng quê ven biển Nam Trung Bộ đều có các dinh, miếu, sở với tên gọi âm linh tự (nơi thờ âm linh), nghĩa tự (nơi thờ việc nghĩa) hay miếu (miễu / miểu), âm hồn, miếu cô hồn, miếu thờ Cô Bác hay dinh âm hồn, dinh cô hồn, dinh thờ Cô Bác hoặc chùa âm hồn với mật độ hết sức dày đặc.
Ngày xưa, ở đầu hoặc cuối mỗi làng có một khu đất rộng để làm bãi tha ma, chôn cất dân làng. Nơi ấy có lập một am năm ba gian hoặc xây lộ thiên đề chữ “Hàn lâm sở” thờ chung cả những mồ mả vô chủ, gọi là am chúng sinh.[6]
Lăng âm linh / sở Cô Bác là nơi quy tập vong linh vô thừa nhận. Các lăng này tương đối giống nhau về vị trí, quy mô, phương hướng. Đa số các lăng âm linh đều được xây dựng gần và cùng hướng với lăng thờ cá Ông.
Trong các ngôi lăng, ở chính điện thờ Tiêu Diện Đại Sĩ (hoặc Chúa Chưởng), thần chỉ huy cô hồn, âm hồn. Tả ban thờ A Sát Đế Mẫu. Hữu ban thờ Diệm Khẩu Quỷ Vương. Tiêu Diện được thờ vọng trong khám riêng hoặc được biểu trưng bằng một giá kỉnh, trên đó ghi hai chữ “Đại Sĩ”như các lăng Thanh Khê, Bắc Ninh, An Hải (TP. Đà Nẵng); lăng Phước Trạch (TP. Hội An) có cả tượng Tiêu Diện; lăng Tĩnh Thủy (Tam Thanh, TP. Tam Kỳ) có tượng “Sĩ Vương”.
Xã Tịnh Khê (huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi), các miếu thờ âm linh, cô hồn đều có tượng ông Tiêu Diện. Đình Mỹ Lại xưa có miếu thờ âm linh. Xóm An Thới thuộc làng Mỹ Khê Tây xưa có ngôi miếu thờ quỷ vương Tiêu Diện, sau bị đổ nát trong chiến tranh, nay đã được dân sở tại xây dựng lại.[7]
Ở Quảng Ngãi, miếu nghĩa từ là một miếu thờ lộ thiên, diện tích khoảng 40m2, bao gồm các ban thờ. Ban thờ ở trung tâm miếu là ban thờ Hội đồng, có 3 đàn để lễ vật. Hai bên tả hữu gồm 4 ban thờ: bên hữu gồm các ban Tây phối, Tiền vãng viên liệt vị; bên tả gồm các ban Đông phối, Tiền vãng quan viên liệt vị. Mặt trước có 2 ban thờ nhỏ, cạnh vòm cửa tam quan là Hữu ngoại đàn liệt vị và Tả ngoại đàn liệt vị. Nhiều nơi, còn có ban thờ Thành hoàng và Tiền hiền, Hậu hiền.
Để tiện việc cúng tế, một số nghĩa từ được làm mái che bên trên như nghĩa tự ở Thạch Bi (Sa Huỳnh), Âm linh tự ở làng An Vĩnh (đảo Lý Sơn). Âm linh tự ở làng An Hải cũng trên đảo Lý Sơn lại không có mái che.
Thông thường làng chỉ quản lý và lo việc tế lễ đình làng, còn dinh, miếu, nghĩa tự, nghĩa trủng thì do xóm hay lân quản lý và tế lễ.[8]
Các miếu nghĩa từ Thanh Khiết (xã Nghĩa Hà), Thạch Sơn (xã Nghĩa Phú) đều thuộc huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, gần cửa Cổ Lũy thờ cả những người chết trên nguồn sông Trà Khúc, sông Vệ xuôi trôi về cửa biển.[9]
Đến ngày Thanh minh, các cơ sở thờ tự của xóm như dinh, miếu, chùa trở thành nơi dùng để cúng âm hồn. Riêng xã Đức Lợi (huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi) có chùa Âm Hồn để cúng tế các vong hồn bạn chài gặp nạn trên biển. Ngày xưa các làng quê ở huyện Mộ Đức có “ruộng nghĩa trủng”dành hoa lợi thu hoạch để cúng cho miếu âm hồn.[10]
Ở Quảng Ngãi, thiết chế tín ngưỡng nằm trong khu vực lăng Ông Nam Hải còn có miếu âm hồn, miếu Ngũ Hành / Thủy Long, miếu Thổ thần. Trong lăng ông Cổ Lũy Nam (xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa) hiện có các ban thờ: Cửu Huyền Thất tổ, Nam Hải Đại tướng quân, Thành hoàng bổn xứ, Tiền hiền, Hậu hiền, Âm hồn…. Lăng này mời cả thầy chùa làm lễ cầu siêu cho các oan hồn trên biển trong lễ túc yết. Hoặc ngay như dinh thờ Thiên Y Ana Yên Phú (huyện Tư Nghĩa) cũng có ban thờ Âm hồn.[11]
Một vài nơi lập miếu thờ Chiến sĩ trận vong[12] bên cạnh lăng âm linh như làng Mân Thái, làng Thanh Khê (TP.Đà Nẵng), số còn lại phối thờ Chiến sĩ trận vong trong lăng âm linh như làng Tĩnh Thủy (TP. Tam Kỳ), làng Nam Thọ, làng Nam Ô (TP. Đà Nẵng). Các miếu này đều có bàn thờ Quan Thánh (Quan Vân Trường, Quan Công).
Theo quan niệm của cư dân ven biển Quảng Nam Đà Nẵng, lăng âm linh là nhà thờ chung của làng, của các tộc họ, nên còn được gọi là “đình thờ”. Làng Thanh Khê gọi kiến trúc này là “lăng Tập linh” với ý nghĩa là nơi quy tập linh hồn tổ tiên của các tộc họ trong làng đã bỏ mình trên biển cả. Hay nó còn được gọi là nhà thờ truyền thống nghề cá làng Thanh Khê để thờ các tổ tiên / tổ sư nghề biển của làng.
Các lăng âm linh đều do làng vạn thiết lập, nhưng cũng có nơi do một cá nhân lập để tạ ơn “cứu tử” của Cô Bác ngoài biển như lăng âm linh của làng Xuân Thiều (TP. Đà Nẵng).
Ở Khánh Hòa, mỗi làng đều có một miếu âm cô, miếu âm hồn hay miếu cô hồn. Miếu thường cất trên một gò thổ mộ công hoặc trong khuôn viên sân đình, để tiện việc cúng tế. Chính giữa phía sau một bàn thờ, hai bên tả hữu là hai bàn thờ hội đồng. Bàn thờ hội đồng ngoại, dành cho các Cô Bác, cô hồn, âm hồn, chiến sĩ trận vong.[13]
Nghĩa trang Thanh Minh ở làng Võ Cạnh, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa, nay không còn sử dụng.
Gắn liền với lăng âm linh là các nghĩa trủng, thường lập ở phía tây, đối với nơi thờ phụng ở phía đông như nghĩa trủng các làng Mân Quang, Phú Lộc, Nại Hiên, Nam Ô, Tân Lưu (TP. Đà Nẵng), Điện Dương, Phước Trạch, Tam Hải, Tĩnh Thủy, cù lao Chàm (Quảng Nam). Phần nhiều nghĩa trủng chỉ có mộ phần, nhưng cũng có nghĩa trủng có thêm miếu thờ, tường bao, bình phong, câu đối như nghĩa trủng Tĩnh Thủy.[14]
Hầu hết các làng quê từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đều xây dựng bộ ba cơ sở tín ngưỡng, đó là đình, chùa và miếu âm hồn. Miếu âm hồn có nơi còn gọi là miếu âm linh, bàn âm hồn hoặc cô đàn…thường được xây dựng ở nghĩa địa hoặc gần nghĩa địa của làng. Một số làng xây dựng miếu âm linh ngay nơi có nhiều người hy sinh hoặc bị chết trong những cuộc chiến tranh.
Miếu âm linh thường có quy mô nhỏ, kiến trúc đơn giản, theo kiểu đình làng thu gọn, thường từ một đến ba gian. Song cũng nhiều nơi miếu thờ chỉ là một bệ thờ xây lộ thiên giữa bãi đất rộng không có mái che, không tường vách bao quanh (trừ nơi đặt bài vị). Khi làm giỗ mới dựng them nhà tạm bằng tranh tre để làm chỗ hành lễ.
Trong miếu âm linh, ngoài đền thờ, bát hương, có thể có bài vị thờ chung những người đã mất. Đền âm linh ở Thuận An (Huế) có 3 bài vị: 1 bài vị thờ các võ quan cao cấp, 1 bài vị thờ binh lính, 1 bài vị thờ các nam phụ lão ấu. Miếu âm linh không chỉ là nơi thờ phụng mà còn là nơi để quàn tạm quan tài những người chết ở địa phương khác được đưa về chôn ở làng mà theo tục lệ, không được đưa vào khu ở của dân cư.
Những người không có thân nhân, họ hàng được chôn chung trong nghĩa địa của làng. Song cũng có nơi dành những khu đất riêng để chôn cất người vô thừa nhận, gọi là nghĩa trủng. Đối với những người chết trận trong cùng một ngày người ta cũng quy tập mồ mả về một chỗ, gọi là mả làng.[15]
Ở thành phố Hồ Chí Minh có 10 ngôi miếu cô hồn, được chia thành 3 nhóm. Những ngôi miếu thờ nghĩa quân hy sinh vì nước mang dáng dấp một ngôi miếu âm binh theo quan niệm Nho giáo (miếu Hòa Tây, đền Sơn Cang). Miếu thờ cô hồn, nạn nhân chiến tranh, liệt sĩ nhưng nội dung ít nhiều ảnh hưởng Phật giáo (miếu Thập Tứ Cô Hồn; miếu Cô Hồn Cầu Ông Lãnh; Cô Hồn Tự; miếu Chiến Sĩ; miếu Dân Công Cây Cám, huyện Bình Chánh; miếu Cô Hồn phường 13, quận Bình Thạnh; miếu Cô Hồn, phường 3, quận Gò Vấp). Miếu thờ liệt sĩ (phường 11, quận Tân Bình).[16]
2.4 Nghi lễ và phong tục
Ở Quảng Nam Đà Nẵng, tục cúng âm hồn, cô hồn gồm các bước.
Lễ tế âm linh còn gọi là lễ tế cô hồn / Cô Bác là nghi thức tế lễ thường xuyên, không kể vào những dịp sóc vọng, tết Nguyên đán. Nhìn chung, thường diễn ra vào khoảng thời gian có các lễ tiết liên quan đến Phật giáo như rằm tháng giêng (lăng Nam Ô), tháng 3 (Mân Thái, Điện Dương, Phước Trạch, Duy Hải, Tam Hải, Bình Minh), tháng 4 (Tĩnh Thủy 16/4, Nam Thọ 20/4) và rằm tháng 7 (Nại Hiên, Mân Quang, An Hải, Xuân Hàf, Cẩm Thanh, cù lao Chàm). Ngoài ngày tế chính, tất cả các lăng đều tổ chức cúng tế trong ngày quẻ cơm hay còn gọi là ngày giẫy mả / chạp mả âm linh / Cô Bác theo ngày lệ riêng của làng mình.
Lễ tế âm linh giống nhau về diễn trình và lễ thức. Không gian nghi lễ diễn ra cả trong và ngoài lăng âm linh. Thường diễn ra trong 2 ngày. Ngày đầu là lễ túc yết hoặc lễ chưng thường. Hôm sau là lễ chánh tế. Lễ chánh tế cử hành khoảng từ 1-5 giờ sáng, giống lễ tế đình. Chỉ khác nhau ở lời xướng, thay vì xướng nghinh tôn thần cúc cung bái thì xướng nghinh âm linh cúc cung bái. Hát bội, chèo cô hồn (hát bả trạo), đua ghe được tổ chức sau lễ túc yết. Sau đó tiến hành lễ tống ôn.
Lễ túc yết còn gọi là tế ngoại đàn, nhằm thỉnh mời / gọi hồn người chết, tiến hành tại sân lăng. Có 2 bàn cúng. Bàn thứ nhất cúng thần Thành hoàng và Thổ Địa, lễ vật gồm bông, trái cây, vàng mã và một bộ đồ Thần bằng giấy đỏ. Bàn thứ hai để tế cáo âm linh với nhiều thức chay, cúng mặn, đồ mã. Đồ chay là các vật phẩm lục cúng: hương, hoa, đăng, trà, quả, thực. Thức cúng mặn có bánh trái, cơm canh, xôi thịt, cháo thánh, bỏng nổ, khoai sắn. Đồ mã gồm vàng, áo, nhiều hình thế (bằng giấy) đàn ông, đàn bà, trẻ em.
Lễ chánh tế tiến hành trong lăng, vật phẩm cúng giống như tế ngoại đàn. Bàn thờ hậu tẩm có một con heo quay. Đôi khi có lăng cúng một con bê sống, bôi huyết toàn thân (Mân Quang, Đà Nẵng).
Lễ quẻ cơm Cô Bác ở làng Thanh Khê (Đà Nẵng) gồm các lễ thức và tục lễ sau.
Lễ nghinh Thủy lục tiến hành vào rạng sáng ngày 23/3, nghinh đón các bậc thủy thần và linh hồn Cô Bác về lăng, thay cho lễ giẫy mả.
Lễ khai kinh thỉnh Phật cầu siêu do các nhà sư, ban tế tự và đại diện các đạo hữu thực hiện.
Lễ cúng ngọ thực chất cũng là lễ cúng và tụng niệm cho Cô Bác ở ngoài lăng và trong lăng. Đáng chú ý là cùng với thức cúng là 12 bài vị, trong đó bài vị lớn nhất của Tiêu Diện, còn lại là của thập loại cô hồn / Cô Bác.
Lễ thí thực, các lễ vật như bánh trái, hoa quả, khoai sắn, được đem thí một nửa, còn một nửa cho trẻ con trong làng, những cô hồn sống theo phong tục của làng.
Lễ hoàn kinh kết thúc việc khai kinh cầu siêu cho Cô Bác.
Lễ phóng sinh, phóng đăng tiến hành vào buổi tối cùng ngày tại bến. Chim phóng sinh là chim sẻ và 28 cây nến thắp trong những hình hoa sen làm bằng giấy màu vàng.
Lễ túc yết để cáo với thần và âm linh, Cô Bác, cô hồn, chiến sĩ.
Lễ chánh tế tiến hành vào rạng sáng ngày 24/3, nghi thức như lễ chánh tế ở đình, lăng.
Lễ giẫy mã âm linh là lễ tục thống nhất ở các làng có nghĩa trủng. Thường được tiến hành vào sáng sớm, trước một ngày của lễ túc yết. Phần đông do trai tráng của làng đảm nhiệm, dưới sự hướng dẫn của ông chánh tế và một số kỳ lão. Công việc gồm giẫy cỏ, vun mộ, thắp hương. Buổi chiều là lễ nghinh thỉnh, rước nồi hương (biểu tượng là một cây hương) ở các nơi thờ tự khác của làng về lăng âm linh.
Lễ quẻ cơm Cô Bác còn gọi là “giỗ hội” hay “hiệp kỵ”, dành cho các âm hồn thuộc các tộc họ đã bỏ mình trên biển, có tên tuổi được lưu giữ thờ phụng trong lăng âm linh. Ngày lễ chính là ngày lễ thường niên của cả làng để kỷ niệm người mất, nên có một số khác biệt so với lễ cúng âm linh nói chung.[17]
Tục tống ôn[18] là một nghi lễ / phong tục nằm trong diễn trình lễ tế âm linh của hầu hết cư dân ven biển Nam Trung Bộ. Lễ này còn gọi là lễ tống ôn đưa khách vì bên cạnh việc tống ôn, làng vạn còn tiễn đưa vong hồn Cô Bác, những người khuất mặt. Mục đích của lễ này là tống tiễn xua đuổi ôn hoàng dịch lệ, mong Cô Bác, những người khuất mặt và các thần linh phò hộ độ trì cho cuộc sống bình an.
Địa điểm tiến hành lễ tống ôn tại lăng âm linh. Một vài nơi tiến hành ở đình làng (Mân Quang, Mân Thái, Đà Nẵng), lăng Bà (Nam Thọ-Đà Nẵng; Hà My-Điện Dương, Điện Bàn; Hói Láng-Hội An). Thực hành lễ tiết là ban khánh tiết do ông chủ làng đứng đầu cùng đại diện các chư tôn tộc phái trong làng. Các làng Nam Ô, Nại Hiên (Đà Nẵng) còn mời thêm thầy chùa tham gia nghi lễ. Thời gian tiến hành vào buổi sáng, trước lễ chánh tế âm linh, nhưng sự chuẩn bị các công đoạn và phương tiện, nghi trượng hành lễ thì từ nhiều ngày trước.[19]
Nghi trượng quan trọng nhất trong lễ tục này là long chu với bộ sườn bằng tre, ngoài phết giấy vẽ phẩm xanh đỏ, giữa mình là thuyền, đầu đuôi hình rồng có đủ sừng, râu, kỳ, vẩy…Trước lễ chính, 7 thầy phù thủy thuộc loại cao tay ấn do thầy Cả dẫn đầu cùng các học trò lễ đi làm phép “trấn đạo lộ” (trấn yểm). Họ mang theo những mảnh bùa vẽ sẵn dán trên mảnh gỗ, tre, vừa đi vừa giật khăn ấn bắt quyết phún hỏa đựng bùa vào ngã ba, ngã tư đường làng hoặc nơi nghi ngờ có quỷ, ôn tụ tập.
Đầu tiên là lễ cáo thần (lễ túc yết) vào giờ Tý (11-2 giờ đêm), lễ vật đơn sơ, hương đăng trà quả. Đến giờ Mão (5-7 giờ sáng) làm lễ tế thần, có cúng mặn, heo gà. Giờ Thìn (7-9 giờ sáng). Thầy Cả mặc áo Thái Thượng Lão Quân in hình bát quái, thắt lưng đỏ, vai vắt khăn ấn đỏ hoặc vàng, chân đi hia, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm cái vãng cắm hương hoặc cái kỵ lịnh (chuông lắc), tay bắt quyết. Thầy Cả đọc những bài chú đầy bí ẩn vừa đọc văn triệu 32 tường chỉ huy, văn triệu âm binh, văn phát lương, văn phát ngoại binh.
Sau cùng long chu được rước qua đường phố, thả xuống sông cho trôi ra biển, trên thuyền có những chén dầu phụng làm đèn cháy sáng.
Lễ Long chu được tiến hành 2 ngày 2 đêm. Các vùng Hội An, Duy Xuyên, Điện Bàn quanh vùng cửa Đại đều có làm long chu. Lễ hội này có sự tích hợp và hòa đồng giữa Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian.[20]
Vào khoảng tháng 2, tháng 3 hàng năm ở các xóm làng ven biển Mỹ Khê Tây có lệ tổ chức tống ôn. Địa điểm hành lễ là các nghĩa từ của xã. Trên hương án có ghi bài vị các thần. Lễ vật là thịt gà, xôi. Pháp sư được thỉnh đến để cúng vái, ấn chú, đưa các hung thần (ghi tên trên các bài vị và đồ cúng) xuống bè thả trôi sông ra khỏi địa phận của làng.[21]
Lễ tống ôn dịch trên đảo Lý Sơn lại đậm chất dân gian của người Việt hơn. Lễ tế diễn ra ở đình làng do ông hương cả đứng tế. Lễ vật gồm một con gà nấu chín, còn có trầu cau, rượu, gạo, muối. Một chiếc ghe lớn làm bằng thân cây chuối, trên ghe để các lễ vật gồm hai ống gạo, hai ống nước, bánh khô, hoa quả và những hình nhân. Làm lễ xong, ông cả dẫn đầu đoàn người đi tống ôn, tiếp theo sau là bốn người khiêng chiếc tàu, theo sau nữa là các chức sắc trong làng, sau cùng là đoàn người cầm cờ ngũ hành, trống chiêng đi khắp làng để mời các “ôn thần” dịch bệnh ra khỏi làng. Sau đó đem ghe cúng lễ vật mang thả ra biển.[22]
Bình Định lại gọi lễ tống ôn là lễ tống na. Đầu tiên là làm lễ tế thần Thành hoàng ở đình, đền, rồi sau cả làng rước cờ quạt, hương án đến bến sông để cúng thủy thần. Tại đây đã kết sẵn một chiếc thuyền có người giả bện bằng rơm phết giấy, cầm chèo giả, trên thuyền đặt tượng trưng nhiều đồ tế lễ. Sau lễ tế chiếc thuyền được thả xuống sông theo dòng nước trôi đi, các làng dưới có thể bắt gặp nhưng không ai dám quấy phá vì sợ ma quỷ làm hại.
Ở thôn Trung Lý, lễ tế Thành hoàng tiến hành ở đền Trung Lý. Sau đó dân làng rước hương án và đồ cúng tế tới bến Cảnh để tế Hà Bá. Các bài dân ca nghi lễ được xướng lên, nổi bật là hát Bạt Đồng (Mục Đồng) để tỏ long thường xót các cô hồn, cho cô hồn ăn uống trong ngày lễ, gọi là thế thẩm cô hồn. Dân làng làm một chiếc long đình, trên đặt đồ cúng, khiêng tới các nấm mồ vô chủ bái lạy. Làng làm sẵn 4 vị tường giả bù nhìn, đặt 4 hướng đông tây nam bắc. Đó là 4 vị thần hộ mệnh cho làng, có nhiệm vụ trấn an, trừ tà, bảo vệ cuộc sống bình yên cho mọi nhà.[23]
Tại Quảng Ngãi, vào dịp tết Nguyên tiêu và nhất là vào tiết Thanh minh, các làng xóm chăm lo việc tế tự ở các nghĩa trủng, nghĩa từ. Hiện nay, do không có mộ bia nên các nghĩa trủng dần dần bị bỏ quên. Còn các nghĩa từ thì hầu như còn tồn tại, nhất là ở các làng xóm ven biển.
Lịch tế nghĩa từ bao gồm các bước:
Lễ giẫy mả: các thành viên trong cộng đồng, dù là dân chính cư hay ngụ cư đều phải có nghĩa vụ chăm lo giẫy mả ở các nghĩa trủng, kể cả mộ bỏ hoang. Việc này tiến hành vào trước ngày cúng ở nghĩa từ một ngày.
Lễ tế và lễ vật hiến tế: ngoài việc cúng tế vào các ngày sóc vọng, vật phẩm bằng cháo bỏ trong lá đa (cháo lá đa), có khi làm chay vào rằm tháng bảy hay chạy đèn theo kiểu đạo pháp mong cho các linh hồn đập phá được các cửa ngục, thoát khỏi chốn giam cầm ở âm ty. Vào tiết Thanh minh, dân chúng trong xóm tổ chức hai lễ chính.
Lễ yết (túc yết) cúng vào sẫm tối sau khi giẫy mả xong và lễ chánh tế tiến hành vào sáng sớm ngày hôm sau. Trong lễ này chỉ cúng hương, hoa, trà, quả nhằm báo cho quỷ thần, các âm hồn, cô hồn là lễ giẫy mả đã hoàn tất và biết để về tham dự ngày lễ khao tế của dân chúng.
Lễ vật trong chánh tế đối với các lệ đàn và những nơi thờ âm linh có quy mô lớn thường là tam sinh (tam sênh) (trâu / bò, dê, heo), rượu, vàng mã, do nhà nước tài trợ, được chế định cụ thể cho từng năm, còn ở các địa phương thì tùy theo điều kiện. Lễ vật cúng tế cũng hết sức đa dạng, tùy theo sản vật của mỗi gia đình và tùy theo hoàn cảnh: khoai, củ sắn, củ từ, bắp luộc, cháo trắng, bánh ít lá gai, bánh lá dong, nộm bằng cá, mực…
Có thể bày biện lễ vật trên bát dĩa hay trên lá đa, lá chuối, lá dong cũng được. Cách hiến tế này mang tính dân dã, gần gũi với các vong hồn. Và sau khi cúng, mọi người đều được thừa hưởng tất cả các lễ vật dâng cúng, thể hiện tính dân chủ, bình đẳng qua một lễ thức dân gian.
Thành phần tham gia tế lễ: khác với ban tế đình làng, lăng, dinh, miếu thờ thành hoàng, thờ các vị thần khác, phải do ông hương cả hay ông chủ xóm và chỉ có dân chính cư mới được tham gia thực hiện nghi lễ. Trong lễ tế nghĩa từ, miếu âm hồn, dân chính cư và dân ngụ cư đều tham gia thực hiện nghi lễ.
Trong việc thực hiện tế lễ, cả lễ túc yết lẫn lễ chánh tế đều được thực hiện theo các bước sơ hiến, á hiến và chung hiến, có đội đại chinh cổ, đội tiểu chinh cổ, ban nhạc ngũ âm, phân hiến…Sự khác biệt giữa các địa phương là ông chủ tế và cũng là chủ nghĩa từ đôi khi là dân ngụ cư.
Một ý nghĩa mới được tích hợp vào tập tục này là tại âm linh tự làng An Vĩnh (Lý Sơn), không chỉ cũng tế các âm linh, cô hồn như những nghĩa từ khác mà phối thờ vào đó các chiến sĩ đi lính thú ở Hoàng Sa, Trường Sa. Ngày 15,16/3 âm lịch hàng năm, dân làng tổ chức giẫy cỏ các nghĩa trủng, các mộ hoang trong làng, các ngôi mộ gió[24] của những người lính đi nghĩa vụ năm xưa trên những đảo xa. Đồng thời tổ chức lễ tế các âm linh, thực hiện nghi lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, cầu mong cho họ vượt qua được sóng gió bão tố trong suốt 6 tháng trời lênh đênh trên biển, từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch hàng năm.
Họ làm lễ phóng sinh, lễ thả đèn trên biển, lễ tế những hình nhân thế mạng, lễ thả thuyền hiến tế trên mặt biển cho những người đi lính Hoàng Sa. Do vậy, nghĩa từ âm linh tự An Vĩnh giờ đây đã mang thêm một chức năng mới, đó là đền thờ anh hùng, liệt sĩ.[25]
Trong tục cúng âm hồn, ở các làng xã Tịnh Khê (Sơn Tịnh) hàng đêm mỗi nhà người ta thắp nhang ngoài sân. Trước sân nhà đặt trang thờ hoặc khám thờ. Vào các ngày lễ tết, mồng một, ngày rằm, có lệ cúng âm hồn, nấu cháo gà, xôi chè, gọi là “cúng ngoài sân”. Ở Mỹ Khê Tây, vào khuya ngày 13/1 âm lịch tổ chức đi giẫy mộ hoang. Khuya hôm sau tổ chức tế âm hồn với heo, gà, xôi. Ở Tư Cung, mỗi xóm đều có một nghĩa từ riêng ngoài trời, nhiều xóm có miếu thờ, từng xóm tổ chức tế âm hồn vào ngày 16/3 âm lịch, cùng với ngày cúng đình Tư Cung. Hiện nay đã đổi lại ngày 16/1. Các xóm khác cũng có hình thức cúng tế tương tự.[26]
Dấu vết cúng cô hồn biển thể hiện khá rõ nét trong tín ngưỡng dân gian vùng biển Khánh Hòa. Ngoài việc lập các miếu thờ Các Bác ở khu vực biển đảo, thì hầu như trong các lễ cúng của ngư dân đều có liên quan đến đối tượng này như lễ cúng ra mắt, cúng lịch y, lễ cầu siêu, lễ phóng đăng, lễ cúng cầu ngư, lễ cúng hạ đăng, lễ cúng tạ, lễ cúng ông Phan Hòa (tổ nghề lưới đăng sở đầm Mai Thọ). Đặc biệt, tại sở lưới đăng hòn Một, gần đảo Hòn Tre (Nha Trang) trước đây duy trì tập tục thiêu xác một đứa trẻ người dân tộc rồi thả xuống biển để cúng cho Các Bác, nhằm cầu mong vụ mùa đánh bắt.[27]
Người dân Khánh Hòa tổ chức lễ Thanh minh vào tháng 3 âm lịch hàng năm. Có nơi phối hợp với tế xuân ở đình làng. Trước đó mấy ngày, dân làng tổ chức đi tảo mộ tập thể, sửa sang lại những ngôi mộ vô thừa nhận. Sau đó tập trung tại miếu âm hồn tổ chức tế lễ, từ 2 giờ chiều đến nửa đêm.
Trong cuộc lễ có cờ trống, phường bát âm, một cụ già đứng ra làm chủ lễ, hai người khiêng một bàn hương án, có hương hoa, đèn nến, chè rượu, 3 vị sư cùng đi đọc kinh tiếp thỉnh. Đám rước thu hút đông đảo dân chúng tham dự, đi khắp các gò mả trong làng, nhà sư tụng kinh, chủ lễ khấn vái, cung thỉnh các âm hồn về miếu dự lễ.
Lễ cúng âm hồn có hai hình thức: tụng kinh cầu siêu phả độ do các nhà sư đảm nhiệm, kết thúc lúc 12 giờ đêm. Hình thức thứ hai là tế lễ ở đình. Lễ vật trong lễ tế Thanh minh gồm xôi, thịt heo, bánh trái. Con heo sau khi làm thịt, xé ra từng tấm vai, đùi, đầu, nọng, đem nhúng nước sôi, hàm ý thịt chín cúng cho âm hồn, khác với cúng thần bằng thịt sống, huyết tươi.
Trong lời khấn vái, có nhắc đến các vị thần trong lễ tế:
La Sát đế mẫu Phạm đột thiên
Tiêu Diện đại sĩ Phạm đột địa
Diệm Khẩu quỷ vương Phạm đột nhơn
Bà La Môn tiên ta bà ngạ quỷ sơn lâm dương gian âm giới kiêm nghĩa đàn chư tiên linh âm hồn, cô hồn nam nữ đẳng chứng đồng lai phụ hưởng.[28]
Lễ tống na ở Khánh Hòa có những điểm khác biệt so với các tỉnh ở Nam Trung Bộ. Các lễ vật cúng được đặt trên một chiếc thuyền nhỏ làm bằng nan, có buồm để có thể chạy trên biển. Sau khi lễ, các phẩm vật dâng cúng trên hương án được chất hết lên thuyền nan. Chiếc thuyền nan được đặt lên một chiếc thuyền, đưa ra biển và hạ thủy. Chiếc thuyền cúng nương theo song gió ra biển cho đến khi mất dạng. Trong phần nghi lễ có hát múa bả trạo. Sau cùng là phần hát bội, còn gọi là hát đãi (hát lòng án), mọi người vừa ăn uống vừa xem hát.[29]
Tại Nghệ An, đối với những dân chài đi biển không về, người nhà cũng đóng hòm ván trong đặt gáo dừa, gỗ dâu, mời thầy chiêu hồn cầu siêu, rồi cũng cử hành lễ tống táng như đối với xác chết thật sự. Những gia đình nghèo, người ta có tục giỗ làng, làm giỗ chung với những người chết mất xác khác hoặc cũng bị một trận bão hoặc vào những trường hợp không giống nhau, nhưng không tiến hành khấn chiêu hồn cầu siêu và tống táng giả.
Xác người chết trôi nam giới thường trôi sấp, nữ giới trôi ngửa. Khi thấy có xác chết trôi, một người đại diện chính quyền thường đứng ở bờ sông thắp vài cây hương khấn:”Bớ vong hồn ai đó, có khôn thì rẽ vào đây, cho quan tìm ra nguyên nhân bất hạnh, để trả về cho thân nhân quê quán”. Và xác chết sẽ từ từ trôi vào bờ như nghe lời khấn vậy.
Những người chết vô thừa nhận, được người dân sở tại chôn tại chỗ, sau đó mỗi người qua lại sẽ bỏ thêm một hòn đất hay cắm vào mộ một nhánh cây. Dần dần những ngôi mộ này sẽ to cao hơn những ngôi mộ thông thường, gọi là “ông Đống” hay “mụ Đống”.[30]
Làng biển Nhượng Bạn (huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) có hội đám chay tổ chức 3 năm một lần vào các năm Tý, Mão, Ngọ. Mục đích của lễ hội là cầu siêu, cứu vớt những vong linh trôi dạt trên biển do bị đắm thuyền. Trong lễ hội đám chay này có lễ “đàn oan” mở cửa ngục và làm lễ “tiếp linh”, tức đưa linh hồn về siêu linh tịnh độ. Những người phụ nữ có chồng hay các chị em có người thân bị chết trong vòng 3 năm qua, đứng thành một hàng dài trên đầu đội một miếng vải trắng, tương trưng cho dòng sông, sóng biển. Trên đó, thuyền Bát Nhã làm bằng giấy ghi tên những chết trên biển cả mênh mông.[31]
Lễ cúng cô hồn ở Bình Trị Thiên tổ chức theo chu kỳ 3 năm một lần hoặc mỗi năm một lần tùy địa phương. Ngày tế cô hồn không thống nhất. Có làng tế vào 15/12 âm lịch hoặc 16, 17/7 âm lịch như làng Thuận An hoặc có làng cũng giỗ vào rằm tháng 7, đúng vào dịp lễ Vu lan.
Không gian diễn ra lễ tế cô hồn hay cô đàn là trong và ngoài miếu âm linh. Thời gian lễ hội kéo dài từ 1 đến 3 ngày.
Bàn thờ tế cô hồn bày đủ hương hoa, bánh trái, xôi thịt cùng “giầy, áo, cháo, nổ”. Nơi diễn ra lễ hội bao giờ cũng có một cây “phan” cao để gọi hồn người chết trở về. Trước miếu hoặc ở bàn thờ thường đốt một đống lửa (hoặc đặt một lò lửa) để sưởi ấm cho các cô hồn.
Nghi lễ tế cô hồn nhìn chung đơn giản hơn so với lễ tế Thành hoàng, lễ cầu ngư, lễ kỳ yên. Có làng lại tế với nhiều nghi thức khác nhau. Lễ tế ở làng Thủ Lễ (Huế) diễn ra trong 3 ngày với các lễ “hưng tác” thượng phan, lễ rước nghinh sơn thủy, lễ tụng niệm, lễ phóng sinh-phóng đăng…Có sự tham gia của các nhà sư trong lễ này để cầu siêu cho linh hồn người đã mất. Người dự được ăn uống tại nơi tế lễ, theo tục lệ “vào chay ra mặn”.[32]
Ở Quảng Bình, ngày rằm tháng 7 hàng năm là “ngày rằm xá tội vong nhân”. Mọi người đều tự nguyện cúng các cô hồn nơi các miếu âm hồn và trong gia đình. Nam phụ lão ấu đều được khuyến khích tham dự. Khác với dịp lễ tế thần, trẻ con và phụ nữ không được đến chốn đình trung. 5-6 năm làm chay một lần. Họ dọn bàn thờ giữa trời, cả làng họp lại mời các bậc tu hành đến tụng niệm kinh Phật để siêu độ cho những linh hồn cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Trong ngày rằm tháng 7, ở nơi gần sông nước thì thả chim, thả cá và thả đèn.[33]
Họ thờ cô hồn ở gia đình bằng một bàn thờ riêng ngoài bàn thờ ông bà, nếu gia đình phát hiện được xác chết trên biển mà không công bố với xóm làng. Hoặc thờ chung theo đơn vị làng xóm qua các miếu âm hồn, nghĩa địa riêng, dành để thờ cúng và chôn cất tập thể, cô hồn mà người làng may mắn bắt gặp.[34]
Cư dân miền Quảng Bình nói chung và Đồng Hới nói riêng, trong việc cúng các âm hồn, hàng năm công quỹ làng xóm đều có khoản chi phí dành riêng, có thể lệ, phép tắc riêng cho tế âm hồn và hiện vẫn còn lưu giữ bài văn tế âm hồn ở cửa sông Nhật Lệ:
…Cửa Nhật Lệ ào ào sóng dậy, thấp thoáng hương hồn
Động Bạch Sa khúc khúc cát bồi, lơ thơ cổ mộ!...[35]
Hội trãi “lục niên cạnh độ” (sáu năm đua bơi một lần) vùng cửa lạch Nhật Lệ (Quảng Bình) không những là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mà còn là một thứ tế lễ, cầu phúc, cầu yên và siêu độ chúng sinh tử nạn trên sông nước. Chính cái phần tâm linh này của ngư dân miền biển mới là linh hồn của hội trãi. Lễ cầu siêu này gọi là lễ buông phao. Sau mỗi chiếc trãi, người ta buộc vào một sợi dây dài kết bằng những chiếc phao cứu sinh bằng lồ ô và những khúc thân cây chuối cắm thẻ đề tên họ người tử nạn trên sông nước, nơi biển khơi, trong các ngày mà làng biển có hàng loạt người chết. Những chiếc trãi bơi hết sức chậm rãi trên sông Nhật Lệ, cất giọng trong không khí trầm mặc:
Ôm phao…phao… mà về
Ôm phê…phê…mà vào
Đây là lễ cầu hồn, cầu siêu cho những người đã bỏ mình trên sông nước, một thứ lễ nghi không cúng cơm, không lễ vật, không kèn trống, không tụng niệm, không hương khói, đèn nhang… mà lại hết sức thiêng liêng, dân dã, bình dị.[36]
Binh Đại Càn là một loại cô hồn biển, khá phổ biến ở Nam Bộ, liên quan đến truyền thuyết về Tứ vị Thánh nương ở cửa Cờn (Nghệ An).[37] Còn thủy đạo trường sa cũng là một loại âm binh trên mặt biển. Trong ký ức của những người dân Nam Bộ về những ngày đầu khẩn hoang từ miền Bắc, miền Trung vượt biển vào đây. Trên hành trình di cư bằng đường thủy, họ đã gặp không biết bao nhiêu phong ba bão tố, có người thiệt mạng giữa biển khơi. Hồn xác không còn và thân nhân lấy ngày ra đi làm giỗ và họ gọi những người ấy đã gia nhập vào đội thủy đạo trường sa.
Do đó, nghi lễ rước vong hồn đường biển, đường sông là một dấu ấn khá đặc trưng trong tín ngưỡng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Thời gian lễ rước vong đường thủy kéo dài trên một tháng. Lễ rước vong đường thủy hay còn gọi là lễ chiêu u[38] đường sông rất lớn. Các nhà sư đi trên hai chiếc ghe to. Trên ghe có bàn thờ Phật, bàn vong, tượng Tiêu Diện đại sĩ bằng giấy. Nối đuôi theo sau là đoàn ghe của dân chúng. Đến tối, chủ ghe làm lễ phóng đăng trên ghe đặt bàn hương án, thức ăn đồ cúng cô hồn như trái cây, bánh cấp, bánh cúng…Ghe đi từ từ ra giữa song, đèn nến thắp sáng cả mặt sông. Đúng 12 giờ đêm, tiến hành nghi thức xô giàn, những đụn tre treo đầy tiền, bánh kẹo, thức ăn được đẩy xuống đất, mọi người xô nhau tranh cướp để lấy may. Ở Long An, Sóc Trăng hình thức này gọi là cúng thí rế, vì thức ăn để trên những cái rế nồi.
Người ta phóng hỏa tượng ông Tiêu vào giữa khuya, khiến người dân tăng thêm niềm tin vào ông.
Sau cùng, chủ tế thực hiện nghi thức tống ôn, tống phong nhằm tống tiễn các ôn hoàng dịch lệ, cô hồn các đảng bằng một chiếc ghe giấy khá to đặt trên một bè chuối. Hiện nay, có nơi tổ chức gộp cả lễ cầu siêu, cầu an và tống ôn làm một cho tiết kiệm thời gian, tiền bạc.[39]
Ở lễ cúng cá Ông ở Quảng Nam Đà Nẵng, có mối quan hệ rất rõ nét với tục cúng cô hồn biển. Các lăng cá Ông đều nằm kề hoặc sát lăng âm linh và quay ra biển. Như ở Hội An, bao gồm một quần thể các cơ sở tín ngưỡng: lăng Ông, miếu Bà, miếu âm linh, miếu các vạn ghe bầu và miếu thổ thần. Lăng ông Xuân Hà (Đà Nẵng) bên phía hữu ban là bàn thờ Cô Bác.
Trong diễn trình lễ cúng cá Ông có hẳn một lễ tế riêng gọi là lễ tế Âm linh / Cô Bác (cô hồn) và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây là một lễ thức thực hiện độc lập và nằm trong hệ thống nghi lễ tế thần Nam Hải cầu ngư chứ không phải là một nghi lễ phụ, kết hợp với chánh lễ như ở Thuận An hoặc chỉ là lễ phụ, được thực hiện sau lễ tống na như ở làng Trường Nguyên (Nha Trang, Khánh Hòa) hoặc lồng ghép trong lễ chánh như ở Nam Bộ. Những nghi thức cúng Cô hồn còn được thể hiện nhiều lần trong lễ tế cá Ông (trước khi lễ vọng, lúc ra khơi nghinh Ông, lễ tế Cô hồn trước khi bước vào chánh lễ) nhằm vừa cầu an, cầu ngư, vừa xin phép Cô Bác phù hộ cho cuộc tế thần được suôn sẻ.
Lễ Nghinh ông Sanh (cá Ông) của làng An Bàng (Hội An), trong văn khấn có đoạn thỉnh mời “bá vạn cô hồn về chứng lễ”. Sau lễ nghinh Ông về đến lăng lại là nghi thức cung thỉnh Cô Bác, các vị Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền vãng về lăng.
Tiếp đó là lễ tế Âm linh / Cô Bác / Cô hồn tại sân lăng. Lễ vật cúng có: cháo thánh (cháo hoa), hương, hoa, đăng, trà, trầu, rượu, quả, thực (khoai, sắn, bỏng nổ, bánh oản). Nghi lễ thực hiện xong, thức cúng được tung ra các nơi thí thực cho Cô hồn chết và Cô hồn sống (trẻ em).
Lăng ông Thanh Khê (Đà Nẵng), trước khi ra biển nghinh Thủy thần, phải tiến hành nghi lễ vía bà Chúa Ngọc và mời các nhà sư đến tụng kinh cầu siêu cho những người trong vạn mất tích trên biển ngay sau lễ nghinh Thủy thần.[40]
Trong lễ Nghinh Ông ở Bình Thắng (huyện Bình Đại, Bến Tre), khi chiếc ghe lễ đi nghinh trên biển ta thấy có bày một bàn lễ vật gồm 1 con heo quay, 2 dĩa lòng, gan heo (1 dĩa sống, 1 dĩa chín), 1 dĩa bánh hỏi, hoa quả. Bên cạnh con heo quay là 12 chiếc chén cùng 12 đôi đũa. Sau ghe lễ là ghe chở đoàn múa lân, theo sau là hàng trăm ghe đi nghinh, tất cả cùng tiến ra biển. Cả ghe lễ và các ghe khác đều thả một sợi dây xuống nước, cuối sợi dây là một cái giẻ, được thả trôi trên mặt nước.[41]
Theo Nguyễn Chí Bền giải thích, thì sợi dây buộc theo mảnh giẻ chính là một dạng “hèm”, có liên quan đến truyền thuyết cá Ông được sinh ra từ tấm lòng của Phật Bà Quan Âm. Nó ở dạng khá đơn giản, không có đường dây gắn kết với trò diễn và cũng chỉ được tiến hành khi các ghe thuyền ra khơi nghinh ông. Thực ra đó là nghi thức vớt vong cô hồn đường thuỷ trong khoa nghi của nhà Phật. Chiếc giẻ đó chính là hình ảnh “rút gọn” của 12 gút dây tượng trưng cho 12 chi, được kéo trên biển để các vong hồn theo đó mà về.[42] Và các dụng cụ cúng cũng có 12 chiếc chén, 12 đôi đũa chính là dành cho các cô hồn biển.[43] Đây là lễ rước vong hồn của người bị tai nạn nghề nghiệp bị chết ngoài biển, gọi chung là "cô hồn thủy đạo". Khoa chiêu u được cử hành khi đám rước về đến nơi. Nội dung nghi lễ này là cầu nguyện cho tất cả các cô hồn ngạ quỷ quy y tam bảo để vĩnh viễn không còn đọa địa ngục, súc sanh hoặc ngạ quỷ.[44]
Trong lễ cúng cá Ông ở Vàm Láng (huyện Gò Công Đông, Tiền Giang), có tiến hành nghi thức Nghinh Ông trên biển. Theo tín niệm của của ngư dân, khi thấy cá Ông phun nước vọt lên thì làm lễ thỉnh Ông về. Thực chất đây là nghi thức đón vong hồn các ngư dân bị tai nạn nghề nghiệp. Đoàn nghinh về đến bến, tiếp tục nghi thức rước Ông và vong hồn các bạn lái về lăng. Tại đây, các nhà sư tụng kinh cầu siêu cho các cô hồn bị tai nạn.[45] Có tục xô giàn cúng cô hồn trong lễ thỉnh sắc.[46]
Lăng ông Thủy tướng Cần Thạnh (huyện Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh), ngoài bàn thờ Nam Hải Đại Tướng Quân ở chánh điện, còn có các bàn thờ Thủy Tề Công Chúa, Tiêu Diện Đại Sĩ, Tiên Sư, Hội Đồng, Tam Thập Lục Vị, Tứ Sanh Lục Đạo.[47]
Trong lễ hội Nghinh Ông ở Cần Thạnh, khi đi nghinh trên biển, các chủ ghe thỉnh thoảng gõ vào be ghe của mình thay cho chuông mõ mời những người ’’khuất mặt, khuất mày” (cô hồn) về chứng giám bên mâm đồ cúng của mình. Ông vạn trưởng rót một chén rượu đổ xuống biển thì đồ cúng được mọi người thả xuống biển để hiến cho ’’Ông’’, tất cũng có phần cho các vong hồn của thủy đạo trường sa.[48]
Mối liên hệ trong tục thờ cô hồn biển nơi đây còn thấy ở tập tục thờ cá Ông, qua sự gắn kết giữa truyền thống và hiện đại, phần nào giống như lễ khao lề thế lính trên đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Đó là sự kết hợp tưởng niệm những người sống chết vì nghề nghiệp trên biển mà ngư dân địa phương gọi là ’’Bạn xưa lái cũ’’ với việc viếng thăm nghĩa trang liệt sĩ của huyện, tri ân các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì quê hương trong lễ cúng cá Ông hàng năm.[49]
Hát bả trạo còn được gọi là hò rỗi, hò đưa linh, hò hầu linh, chèo âm linh, chèo người, chèo / hát chèo cô hồn…Đây là hình thức diễn xướng thực hành nghi lễ gắn với lễ tang cá Ông và tín ngưỡng thờ cúng Nam Hải cự tộc Ngọc Lân Thượng đẳng thần / Nam Hải tướng quân, nó bắt nguồn từ hình thức hò / hát đưa linh trong tang lễ của người đời.
Hát chèo âm linh thường được tổ chức vào buổi tối. Hát bả trạo trong lễ tế âm linh được coi là hát lễ, bởi nó cũng là một bộ phận của tế lễ Âm linh. Tâm thức chèo của bả trạo là đưa linh Cô Bác trực giảng về cõi Phật. Cuộc hát mang đậm tính chất hát lễ cầu siêu, độ thoát cho âm linh / thập giới cô hồn được siêu thăng. Nó có ý nghĩa như một hình thức trai đàn cúng Phật, dùng từ bi làm phương tiện siêu độ cho các vong hồn. Trên con thuyền Bát Nhã, bả trạo tiếp dẫn âm linh vượt bờ mê sang bờ giác trong tâm thức vừa tự giác vừa giác tha. Qua đó, cộng đồng dân biển gửi gắm vào đó nguyện ước cầu xin được Cô Bác hộ trì cho cuộc sống bình an. Ngoài ra, còn là một buổi biểu diễn văn nghệ dân gian với các trò diễn thể hiện qua màn giăng câu, bủa lưới, đưa thuyền vượt qua bão tố phong ba.[50]
3Nhận xét
-Tục thờ cô hồn biển ở Nam Trung Bộ trên cơ sở so sánh với tín ngưỡng này ở Bắc Trung Bộ và Nam Bộ có những biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng, sinh động với những sắc thái đặc trưng riêng; thể hiện rõ nét nhất ở Quảng Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Khánh Hòa.
- Nó chịu ảnh hưởng từ những quan niệm tư tưởng triết lý khác nhau (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo) kết hợp với những tín lý dân gian. Tích hợp cả những giá trị truyền thống và đưa vào những yếu tố hiện đại phù hợp (thờ cúng liệt sĩ).
-Tín ngưỡng thờ cúng âm hồn nói chung, cô hồn nói riêng là dạng tín ngưỡng khá phổ biến ở các làng quê ven biển Nam Trung Bộ. Thể hiện tâm linh cầu mong những người đã khuất, những thế lực siêu nhiên giúp đỡ, phù hộ sự bình an cho dân chúng, đồng thời là sự thông cảm sâu sắc đối với những vong hồn đã khuất không nơi thờ tự. Một tập tục mang ý nghĩa nhân văn hết sức cao cả (giá trị giáo dục đạo đức, cố kết cộng đồng).
- Biểu hiện mối quan hệ giao lưu về văn hóa tín ngưỡng giữa người Việt với các tộc người khác cư trú trên mảnh đất miền Trung này. Tục thờ cô hồn biển có mối quan hệ chặt chẽ với các tín ngưỡng của cư dân chài lưới như thờ Đại Càn, thờ cá Ông, lễ cúng ra mắt, cúng lịch y, lễ cầu siêu, lễ cúng cầu ngư, lễ cúng hạ đăng, lễ cúng tạ…
- Hình thái tín ngưỡng này vừa cho thấy nguồn mạch văn hóa chung và sự biến đổi, thích nghi cao độ trong việc tiếp biến các giá trị văn hóa của các cộng đồng cư dân ở những hệ tọa độ địa lý - lịch sử văn hóa khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Đăng Vũ (2007), Quảng Ngãi một số vấn đề lịch sử văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2.Nguyễn Xuân Hương (2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam Đà Nẵng (Hình thái, đặc trưng và giá trị), Nxb Từ điển bách khoa – Viện Văn hóa, Hà Nội.
3.Huỳnh Ngọc Trảng (2010), Âm linh, âm hồn và thế giới bên kia, Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Chuyên san Phương Nam, số 2, tháng 11.
4.Huỳnh Ngọc Trảng (2005), Sự hỗn dung văn hóa trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Nam Bộ, Nguyệt san Giác ngộ, số 116, tháng 11.
5.Trần Quốc Vượng (2003), Trong cõi: những ý kiến về lịch sử, truyền thống và hiện trạng dân tộc của một sử gia trong nước, Nxb Trăm Hoa, Califonia.
6.Tạ Chí Đại Trường (2000), Thần, người và đất Việt (bản mới), Nxb Văn Học, California.
7.Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
8.Đoàn Ngọc Khôi, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Đăng Vũ, Phan Đình Độ, Nguyễn Văn Bốn (2002), Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn, Sở Khoa học-Công nghệ và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi.
9. Lê Quang Nghiêm (1970), Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa, Trung tâm Văn bút Việt Nam, Sài Gòn.
10.Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2002), Diễn xướng dân gian Gia Định-Sài Gòn, Trung tâm Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.
11.Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Đình Nam Bộ xưa & nay, Nxb Đồng Nai, 1999.
12.Nguyễn Đăng Vũ (2003), Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
In trong: Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, số 27, 2012
Nguồn: Tác giả
[1] Tục thờ cúng âm hồn dọc biển. Trong Nguyễn Đăng Vũ (2007), Quảng Ngãi một số vấn đề lịch sử văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.137. Huỳnh Ngọc Trảng (2010), Âm linh, âm hồn và thế giới bên kia, Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Chuyên san Phương Nam, Số 2, Tháng 11, tr.28-31.
[2] Tứ sanh (tứ chủng sanh) là bốn cách sanh ra của chúng sinh:1. Noãn sanh (từ trong trứng mà nở ra, như chim); 2.Thai sanh (từ trong bào thai mà sanh ra và lớn lên, như người, ngựa, lừa…); 3. Thấp sanh (từ chỗ ướt mà sanh ra, như rắn, cá); 4. Hóa sanh (tự nhiên mà hóa ra, sanh ra do sức mạnh của cái Nghiệp, như những hồn sanh lên cõi tiên hoặc đi đày ở địa ngục, ngạ quỷ hoặc những vật cỡi lốt đòi hình, như loài bướm do sâu mà thành).
Lục đạo (lục thú) là sáu chốn luân hồi, tùy theo căn thiện ác mà chuyển vào trong lục đạo luân hồi: 1.Thiên (tiên); 2.A tu la (thần); 3.Nhân (người); 4.Địa ngục; 5. Ngạ quỷ (ma đói); 6.Súc sanh (thú vật) (Đoàn Trung Còn (2009), Phật học từ điển, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.1.214, 648).
[3] Hồi hướng nhân quả-Ngọc Lịch minh kinh. Dẫn theo Huỳnh Ngọc Trảng, Vu Gia (2007), Địa chí Đại Nghĩa (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam), Nxb Đà Nẵng, tr.326-327.
[4] Trong tín ngưỡng của Nhật Bản, ngư dân rất tôn thờ Phật trôi. Đó là những tử thi chết đuối trôi dạt từ nơi khác đến, nếu gặp được xem là may mắn lớn trong đánh bắt, nên ngư dân thường đối xử rất hậu với Phật trôi. (Chu Xuân Giao (2008), Mấy vấn đề về làng chài và nghiên cứu làng chài ở Nhật Bản từ góc nhìn văn hóa dân gian. Trong Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.411).
[5] Nguyễn Xuân Hương (2009), Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam Đà Nẵng (Hình thái, đặc trưng và giá trị), Nxb Từ điển bách khoa – Viện Văn hóa, Hà Nội, tr.129-133.
[6] Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp, tr.127.
[7] Cao Chư (2010), Văn hóa dân gian xã Tịnh Khê, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.94-95.
[8] Nguyễn Đăng Vũ, Sđd, tr.142-143.
[9] Tư liệu do nhà nghiên cứu Cao Chư (Quảng Ngãi) cung cấp. Nhân đây, tôi xin chân thành cám ơn.
[10] Cao Chư (chủ biên) (2008), Địa chí huyện Mộ Đức, Huyện ủy-HĐND- UBND huyện Mộ Đức, tr.456.
[11] Nguyễn Đăng Vũ (2003), Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, tr.47, 61, 38, 63.
[12] Ở những nơi chiến trận, các tướng sĩ tử trận chôn một chỗ thì nhà vua lập đàn thờ, gọi là lệ đàn. Mỗi năm nhà vua sai quan về tế hoặc là hội thiện góp tiền với nhau để cúng hay làm chay (Phan Kế Bính, Sđd, tr.128).
[13] Nguyễn Đình Tư (1969), Non nước Khánh Hòa, Sông Lam xb, Sài Gòn, tr.205-206.
[14] Nguyễn Xuân Hương, Sđd, tr.133-136. Nguyễn Đăng Vũ, Sđd, tr.142-143.
[15] Trần Hoàng (1997), Tục chạp “Mả làng” và lễ tế “Cô đàn” một loại sinh hoạt văn hóa đặc thù ở các làng quê Bình Trị Thiên. Trong Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Kỷ yếu hội thảo khao học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.394-396.
[16] Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr.97-98.
[17] Nguyễn Xuân Hương, Sđd, tr.136-144.
[18] Người Chăm có lễ hội múa tống ôn đầu năm (Rija Nưgar) với ý nghĩa tống khứ những điều xấu xa, xui xẻo, để đón năm mới với những điều tốt lành, đón nước, cầu mưa, chuẩn bị mở đầu cho việc khai mương. Lễ Cầu đảo (Palau Sah) ở thôn Bĩnh Nghĩa (huyện Ninh Hải, Ninh Thuận) có nội dung tương tự như lễ Rija Nưgar. (Sakaya (2003), Lễ hội của người Chăm, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.76, 56). Theo nhà nghiên cứu Sakaya, trong lễ này mặc dù không có phần lễ cúng riêng cho Cô hồn nhưng trong phần nghi thức lễ cuối cùng của Rija Nưgar, người Chăm luôn cầu cô hồn, những người chết bụi, chết bờ, những bậc tiền hiền chết chưa biết tên tuổi về hưởng lễ vật dâng cúng của dân làng. Cuối cùng người Chăm tống khứ họ cùng với những “hình nhân thế mạng” (salih) mang đi những điều xấu, xui xẻo, bệnh dịch của dân làng ra sông, biển (Tư liệu phỏng vấn Sakaya ngày 14/3/2011).
[19] Nguyễn Xuân Hương, Sđd, tr.144-145.
[20] Nhiều tác giả (2008), Lễ lệ lễ hội Hội An, Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích thành phố Hội An, tr.80-87.
[21] Cao Chư, Văn hóa dân gian xã Tịnh Khê, Sđd, tr.95.
[22] Đoàn Ngọc Khôi, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Đăng Vũ, Phan Đình Độ, Nguyễn Văn Bốn (2002), Văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn, Sở Khoa học-Công nghệ và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi, tr.191-192.
[23] Nguyễn Xuân Nhân (chủ biên) (2004), Văn hóa cổ truyền ở các làng quê Bình Định, Sở Văn hóa-Thông tin Bình Định, tr.271-272.
[24] Hiện trên đảo Lý Sơn có hàng ngàn ngôi mộ gió với những hình nhân thế mạng được nặn bằng đất sét, bông gòn và cây dâu để thay thế hình hài của những người đã vĩnh viễn nằm lại giữa biển khơi. Nhiều ngôi mộ không có cả một tấm bia ghi khắc tên tuổi người chết.
[25] Nguyễn Đăng Vũ, Sđd, tr.144-147.
[26] Cao Chư, Văn hóa dân gian xã Tịnh Khê, Sđd, tr.96-97.
[27] Lê Quang Nghiêm (1970), Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa, Trung tâm Văn bút Việt Nam, Sài Gòn, tr.66, 68, 69-72, 76-78, 82, 128.
[28] Nguyễn Đình Tư, Sđd, tr.206-207.
[29] Nguyễn Viết Trung (2007), Lưới đăng nghề biển truyền thống ở Khánh Hòa, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa, tr.78-79, 145.
[30] Nguyễn Đổng Chi (chủ biên) (1995), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ An, tr.473.
[31] Nguyễn Trí Sơn (2008), Hò chèo cạn và hội đám chay, nét sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc ở làng biển Nhượng Bạn, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Trong Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ, Sđd, tr.163, 165.
[32] Trần Hoàng, Sđd, tr.397-398.
[33] Nguyễn Tú (2010), Văn hóa dân gian Quảng Bình, Tập 3, Phong tục tập quán, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.120-121.
[34] Văn Lợi (chủ biên) (2001), Nguyễn Tú, Địa chí văn hóa miền biển Quảng Bình, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr.181-182.
[35] Nguyễn Tú (2004), Địa chí Đồng Hới, UBND thành phố Đồng Hới, tr.469-470.
[36] Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Tú (2000), Vài nét văn hóa truyền thống vùng cư dân biển Quảng Bình, Tài liệu hội thảo Văn hóa nghệ thuật miền Trung – vấn đề định hướng nghiên cứu, Phân viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật tại TP. Huế, TP. Đồng Hới. Nguyễn Tú, Sđd, tr.147-149.
[37] Xem Nguyễn Thanh Lợi (2010), Tín ngưỡng thờ Đại Càn ở Nam Bộ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11, tr.31-41.
[38] Chiêu u là hình thức đi rước vong (thỉnh vong, rao binh) để kêu gọi các vong hồn xiêu mồ lạc mả các nơi về tập hợp ở chùa để các nhà sư thực hiện những nghi thức cầu siêu cho họ được siêu thoát (Phan Thị Yến Tuyết (2004), Tâm thức của cư dân Nam Bộ qua lễ hội Trai đàn cầu siêu – cầu an. Trong Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hóa văn nghệ dân gian Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.111).
[39] Võ Thành Hùng (2010), Văn hóa tâm linh người Việt trong các nghi lễ cầu an cầu siêu vùng Tây Nam Bộ. Trong Văn hóa phi vật thể Tây Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo, Văn phòng đại diện Tạp chí Văn hóa nghệ thuật – Khoa Văn hóa học Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, tr.208.
[40] Nguyễn Xuân Hương, Sđd, tr.52, 54, 55, 407, 309, 65, 98, 67, 68, 70.
[41] Nguyễn Chí Bền (1997), Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.82, 93. Trong lễ Nghinh Ông ở Quảng Ngãi, khi đoàn đi nghinh ra đến địa điểm nhất định trên mặt biển, ông chánh tế (hoặc ông sư) thả xuống nước một sợi dây, cuối sợi dây buộc một miếng vải trắng. Sợi dây này sẽ được kéo rê dưới nước cho đến khi vào tận bờ. (Nguyễn Đăng Vũ, Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, Tlđd, tr.39-40). Điểm khác biệt là trong lễ Nghinh Ông ở Bình Thắng (Bến Tre), chiếc giẻ được thả trôi trên mặt nước trước khi ra biển.
[42] Nguyễn Thanh Lợi (2008), Tục thờ cá Ông ở ven biển Tây Nam Bộ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9, tr.38, 43.
[43] Trong lễ cúng Dàng của các sở đầm ở Khánh Hòa ngày trước, tiến hành trong tháng 3 hoặc thượng tuần tháng 4 âm lịch, còn gọi là lễ Thập nhị Nhang Dàng. Mỗi vật phẩm đều phải làm 12 phần: 12 vắt cơm, 12 trứng gà, 12 miếng thịt heo luộc, 12 lá trầu, 12 miếng cau, 12 con tôm, 12 con cua…Khi rót rượu, nước trà “rót trên đá” cũng phải rót 12 lần. Họ cho 12 vị Dàng đó là những âm binh theo tín ngưỡng của người Chăm, mà hiện nay chỉ nhớ tên được 7, đó là: Dàng Châm, Dàng Chợ, Dàng Mọi, Dàng Rợ, Dàng Đĩ, Dàng Thỏa, Dàng Ó Ma Lai. (Lê Quang Nghiêm, Sđd, tr.72-75). Chữ Dàng bắt nguồn từ chữ Yang của người Chăm và các tộc người Mã Lai – Đa Đảo nói chung, có nghĩa là Thần như cách gọi của các dân tộc ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên. Còn Nhang cũng có nghĩa là Thần như cách gọi trong lễ cúng Nhang của người Châu Ro ở Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai.
[44] Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Đại Phúc, Lê Hải Đăng (2002), Diễn xướng dân gian Gia Định-Sài Gòn, Trung tâm Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tr.281-282.
[45] Trần Hoàng Diệu, Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2005), Địa chí Tiền Giang, Tập 1, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang – Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử văn hóa Việt Nam, tr.778.
[46] Nguyễn Thanh Lợi (2004), Tục thờ cá Ông ở Nam Bộ. Trong Nam Bộ đất & người, Tập 2, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, tr.423.
[47] Nguyễn Thanh Lợi, Tục thờ cá Ông ở Nam Bộ. Bđd, tr.421.
[48] Nguyễn Thanh Lợi (1999), Sinh hoạt văn hóa dân gian ở xã Cần Thạnh (huyện Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh) qua tục thờ cá Ông. Trong Làng xã Nam Bộ- quá khứ và hiện tại, Huỳnh Lứa, Đinh Văn Liên chủ nhiệm, Đề tài của Viện Khoa học xã hội tại TP. Hồ Chí Minh.
[49] Nguyễn Thanh Lợi (2003), Thờ cá voi ở thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr.54.
[50] Nguyễn Xuân Hương, Sđd, tr.153-155.
Lên trên
Cùng chủ đề
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/v...-trung-bo.html
-
Chuyện ngôi mộ bà Hai Hiên linh thiêng cho số đề ở Đồng Tháp là nhảm nhí
26/09/2015 | 18:40
Đường vào khu mộ của bà Hai Hiên.
Người dân vùng Châu Thành, TP.Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp truyền tai nhau rằng, tại ấp Tân Thuận, xã Tân Nhuận Đông có ngôi mộ người phụ nữ tên Phạm Thị Hiên linh thiêng lắm. Ai đau yếu, nghèo đói hay gặp khó khăn trong cuộc sống… chỉ cần thành tâm đến đó cầu khấn sẽ được bà thương tình mà ban phép cho được như ý.
Cái chết của bà Hai Hiên
Không chỉ dân trong vùng tin tưởng mà từng đoàn người ở các tỉnh miền Trung cũng kéo đến mong được bà Hai Hiên thương lòng giúp đỡ.
Theo những bậc cao niên ở ấp Tân Thuận, xã Tân Nhuận Đông kể lại, chuyện về cô Hai Hiên là có thật. Câu chuyện xảy ra cách đây khoảng 100 năm. Tại chợ Nha Mân xưa, làng Phú Nhuận tỉnh Sa Đéc, có ông Phạm Vương Cần là người có uy tín trong vùng nên được dân chúng trọng vọng, cất cử ông làm Hương Cả. Vợ chồng ông hiếm hoi, chỉ sinh được cô gái duy nhất đặt tên là Phạm Thị Hiên nên rất nâng niu, chiều mến và gọi là Hai Hiên.
Thiếu nữ Phạm Thị Hiên là người thùy mị, nhân từ và được mọi người cảm mến. Năm cô Hai Hiên tròn 18 tuổi đã nổi danh khắp vùng cả về tài và sắc, nhiều nơi sang ngỏ ý cầu duyên nhưng lòng thiếu nữ này vẫn trinh trắng, chưa nhuốm bụi trần. Thủa ấy, tại Nha Mân có con rạch xuyên qua QL8, chưa xây cầu như bây giờ, muốn qua bên kia thì phải đi đò. Hàng ngày, cô ra ngồi chơi dưới mé rạch, thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình và trổ tài thi họa. Giữa lúc cô Hai Hiên đang vẽ một bức tranh thì nghe bên kia sông có tiếng gọi đò. Thấy một bà lão dáng vẻ gấp gáp, trong khi người lái đò lại đi vắng, cô chẳng mảy may nghĩ ngợi xuống lấy mái chèo đón khách. Chẳng may ra tới giữa dòng rạch, bị nước chảy siết, thuyền chao đảo, cô Hai Hiên luýnh quýnh mất tay trèo, ngã xuống rạch chết đuối.
Sau 3 ngày quần đảo, tìm kiếm, thi thể cô Hai Hiên được tìm thấy nhưng kỳ lạ thay thân thể của cô còn hơi ấm như người bình thường mà không có biểu hiện phân hủy. Ông Cần khóc 3 ngày, đến khi tìm thấy thi thể con gái ông vẫn tiếp tục khóc, vừa ôm con ông vừa ngước nhìn lên bức tượng Quan Thanh Đế Quân thờ giữa nhà. Như người mất hết thần trí vì quá đau thương, ông lột luôn tấm tượng xuống đậy trên mình con gái rồi an táng theo thi thể cô.
Những câu chuyện đồn thổi khó tin
Sự xúc phạm thần phật của ông Cần cùng với cái chết của cô Hai Hiên khiến người dân trong vùng kinh hãi nhưng không ai dám can ngăn. Tuy thế, trong thâm tâm mỗi người đều băn khoăn lo ngại một điều gì đó sẽ xảy ra. Ba hôm sau ngày cô Hai Hiên mồ yên mả đẹp, chuyện quái dị bắt đầu xảy ra. Người ta kể rằng, cô Hai Hiên ngồi trên chiếc xe ngựa từ hướng Sa Đéc về tới nhà bước xuống bảo người đánh xe vào nhà gặp bố mình yêu cầu trả tiền, còn cô sẽ vào nhà sau. Người đánh xe nghe theo lời cô Hai Hiên vào gặp ông Hương Cả liền bị ông mắng cho một trận tơi bời.
Nghe lời ông Hương Cả mắng, người đánh xe sợ toát mồ hồi, lại lóc cóc đi ra thì vẫn thấy cô Hai Hiên ngồi đó. Chẳng kịp để cho người đánh xe trình bày, cô Hai Hiên bảo người đánh xe trở vào nhà lần nữa, yêu cầu ông Cần thắp lên 3 nén hương, cô sẽ làm cho hương tắt để ông Cần tin tưởng mà trả tiền. Dù tỏ ra nghi ngờ lắm nhưng vì miếng cơm manh áo nên người lái xe đánh liều quay trở lại một lần nữa. Ông Hương Cả nghe người đánh xe trình bày giận dữ lắm nhưng trong lòng vẫn lăn tăn nên đã làm theo. Không ngờ, ba nén hương ông vừa thắp lên cắm trên bàn thờ bỗng dưng vụt tắt. Lúc này, ông mới sợ hãi khấn vái rồi trả tiền cho người đánh xe.
Có lần, khi cô Hai Hiên đi qua ngã ba Vĩnh Long - Cần Thơ bị một tên lính buông lời trêu ghẹo. Về nhà, tên lính nằm mê sảng, đôi mắt đỏ ngầu, miệng lầm bầm xin lỗi người con gái đã qua đời - Hai Hiên. Mọi người thấy vậy bèn bảo cô vợ của tay lính may một bộ đồ mới không sỏ tay đem đến nhà ông Cần nhờ xin tội. Vợ người lính nghe theo, ông Cần chấp nhận lễ vật, đem vào phòng của cô Hai Hiên kêu xin. Bỗng chốc, trong phòng phát ra tiếng cười trong trẻo, lời xin của ông Cần vừa dứt cũng là lúc tiếng cười tắt ngấm và người lính khỏi bệnh.
Người dân ấp Tân Nhuận, xã Tân Nhuận Đông còn truyền tai nhau câu chuyện “linh hồn” của cô Hai Hiên quá giang ghe bầu ra tận Thừa Thiên - Huế. Đó là vào những năm của giữa thế kỷ 20, có đoàn ghe bầu từ ngoài Huế vào đậu tại Nha Mân bán quế và thúng rổ. Khi bán hết, đoàn ghe nhổ neo về xứ. Thời điểm chuẩn bị nhổ neo, đoàn ghe bầu gặp một cô gái xin quá giang ra Huế. Trong đoàn ghe, chỉ có một chiếc bằng lòng cho cô gái ấy quá giang, hẹn ngày nước ròng sẽ trở về. Tới giờ nhổ neo, chờ mãi không thấy cô đến, chiếc ghe ấy buộc lòng tách bến cho thuận con nước. Đi được mấy ngày trời, khi ra biển gặp sóng to gió lớn, các ghe đều chìm, duy chiếc ghe nhận lời chở cô gái Nha Mân chống trả được với sóng gió, cập bến an toàn.
Những câu chuyện liêu trai về cô gái Hai Hiên ấy được người dân truyền tai nhau từ bao đời nay. Chẳng biết đó là chuyện hư hay thực, cũng chưa một ai có thể kiểm chứng nhưng người dân vẫn căn cứ vào đó để nói về sự linh thiêng về ngôi mộ của người con gái Phạm Thị Hiên. Hàng ngày, có cả chục lượt người, thậm chí hàng trăm lượt người tới đây thắp hương khấn vái. Bà Nguyễn Thị Tuyền, 54 tuổi, nhà gần ngôi mộ cho biết: “Không chỉ người dân trong vùng tới thắp hương cầu khấn mà ngay cả những người ở các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Quảng Ngãi… biết tin cũng thuê xe tới thắp hương, thuê nhà trọ ở tá túc qua đêm. Người thì đến cầu tài lộc, người thì đến cầu may mắn, người thì đến cầu sức khỏe. Nói chung, người đến đây hầu hết đều là những người khó khăn, nghèo khổ”.
Theo tìm hiểu của PV, ngôi mộ bà cố Hai Hiên linh thiêng còn thu hút cả những người ham mê đỏ đen. Trong hàng chục lượt người tới thắp hương tại ngôi mộ thì có quá nửa là tới xin số đề, cầu mong trúng số. Ông Trịnh Văn Phụng, 61 tuổi, người hơn 30 năm trông nom ngôi mộ cho biết: “Nhiều đêm đã khuya mà vẫn có người gọi mở cổng xin được vào thắp hương cho bà cố để được sự may mắn. Những người dân trong vùng cũng thường xuyên tới đây thắp hương rồi mua vé số để cầu mong mình được đổi đời. Cũng có vài người tới đây cầu khấn rồi hôm sau trúng số, tin đồn cứ thế lan truyền ra khiến người tìm đến càng lúc càng đông. Hàng năm, cứ vào ngày 24 - 25.8 âm lịch, gia đình lại tổ chức lễ giỗ cho bà cố. Tuy chẳng mời ai nhưng không hiểu sao mọi người nghe được tìm về đông lắm, chật kín cả sân nhà, xe đậu thành một dãy dài ngoài đường quốc lộ.
Người dân quỳ trước mộ bà Hai Hiên xin số đề.
Không có chuyện “người âm” cho số đề
Kể về sự linh thiêng của ngôi mộ mà mình đang hàng ngày hương khói thờ phụng, ông Trịnh Minh Phụng chia sẻ: “Tôi vốn là người có quan hệ họ hàng với bà cố nên được giao trông coi, thờ tự. Ngay từ hồi còn bé, người thân trong gia đình cũng hay kể về những huyền tích về bà cố, câu chuyện cứ hư hư thực thực mà tôi chưa một lần tận mắt chứng kiến. Rồi người ngoài biết được hư cấu lên thành những câu chuyện nhuốm màu tâm linh mê tín. Lời đồn cứ thế lan xa, những người ở tận đâu đâu cũng tìm đến thắp hương mong bà cố đáp ứng những nhu cầu cá nhân của họ. Tôi là người trông coi nhưng chả nhẽ họ đến thành ý thắp hương cho người đã khuất lại không chấp nhận”.
Trao đổi về những câu chuyện linh thiêng mà người dân trong vùng đồn đại, ông Phụng chia sẻ: “Đó là những chuyện đã được người dân hư cấu lên. Chỉ biết rằng, những người dân trong vùng nếu có gặp chuyện gì khó khăn hay con cái đi làm ăn, thi cử đều sắm lễ tới mộ bà cố cầu khấn. Như thế, chí ít cũng khiến cho con người vững tâm hơn để cố gắng hoàn thành tốt mục tiêu mà mình đề ra”.
Nói tiếp về việc ngôi mộ của bà Hai Hiên linh thiêng cho trúng số, ông Phụng cười nói: “Tôi ở đây hàng ngày thắp hương cho bà cố mà đã trúng số lần nào đâu…”.
Ông Nguyễn Thanh Châu - Phó Chủ tịch xã Tân Nhuận Đông - cũng cho rằng: “Không có chuyện người âm cho số đề, đó chỉ là những tin đồn thất thiệt, nhảm nhí. Rất nhiều người đã cố công tìm địa chỉ và danh tính người đã xin số tại ngôi mộ bà Hai Hiên và trúng số lớn nhưng đều thất bại. Có thể nói, chuyện cầu thần xin số đề và trúng số chỉ là điều bịa đặt, nhảm nhí. Người dân đến mộ bà Hai Hiên thắp hương cầu khấn là niềm tin về tâm linh, giống như con người muốn tìm thấy cho mình một điểm tựa trong tâm trí. Đó là một hành động đẹp nhưng biến nó thành chuyện mê tín là điều không nên”.
KHANH DƯƠNG - KHANHDUONG127@GMAIL.COM
https://laodong.vn/xa-hoi/chuyen-ngo...nhi-380032.bld
-
MIẾU LÃI LÈN NƠI PHÁT NGUỒN XOAN CỔ
Thứ 4 | 03/08/2016
Nhắc đến miếu Lãi Lèn là chúng ta lại được quay trở về với truyền thuyết dân gian gắn liền với huyền thoại vua Hùng đi tìm đất xây thành “ba anh em vua Hùng đi qua thôn Phù Đức vào buổi trưa và nghỉ lại ở một khu rừng gần thôn. Từ trong rừng các vị nhìn ra bãi cỏ trước mặt thấy lũ mục đồng vừa chơi vừa hát, chỗ thì đánh vật, chỗ thì kéo co, thấy vậy Đức Thánh Cả liền bảo bọn tùy tùng đem một số điệu hát dạy thêm cho lũ trẻ những bài hát xướng, cầu chúc năm mới”. Để ghi nhớ kỷ niệm này, hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 1 âm lịch dân làng lại mở hội cầu, sau này hội cầu kéo dài từ mùng 1 đến mùng 6/giêng hàng năm, lễ vật cúng các vị là bánh nẳng vào buổi trưa và thịt bò vào buổi chiều ở miếu Lãi Lèn. Đến chập tối hội cầu hàng năm phường Xoan phải lên hát thờ, hát mời vua ở miếu Lãi Lèn. Thế là câu chuyện về Hát Xoan được sinh ra từ đó, các họ Xoan đều coi ngôi miếu này là nơi phát tích của hát Xoan. Nơi mà các vua Hùng đã từng truyền dạy điệu hát Xoan cho thôn dân, và được người dân gọi là hát Lãi Lèn… phải chăng hát tại miếu Lãi Lèn thì gọi là hát Lãi Lèn, và vì sao lại xuất hiện từ thuần Việt, hay nói đúng hơn là từ Việt Cổ “Lãi Lèn” có lẽ là vì xuất phát từ từ khóa “Lễ Lên” trong cách diễn xướng của Xoan cổ (xuất hiện trong 14 quả cách tại bản Xoan gốc chữ Nôm có niên đại 1840), sau này biến âm đi hát thành “Len là len..hỡi là len”. Rất nhiều các học giả, các chuyên gia đã bàn về từ Lãi Lèn và có trích dẫn cả từ Đại Việt sử ký toàn thư, thượng điện xướng ca… Tôi chỉ xin dừng lại ở góc độ tìm về di tích miếu Lãi Lèn ngày nay, nơi biết đến là một điểm phát nguồn của làn điệu Hát Xoan. Miếu cổ không còn, trải qua thời gian, cùng với chiến tranh tàn phá miếu Lãi Lèn chỉ còn lại những vết tích, dấu tích và nền móng cũ trơ chọi với thời gian. Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tại Quyết định số 437/QĐ-UBND ngày 30/11/2011 của UBND tỉnh Phú Thọ đã phê duyệt cho phép khôi phục miếu Lãi Lèn. Miếu Lãi Lèn được khôi phục trên nền móng cũ tại gò đất giữa đồng thuộc thôn Phù Đức xã Kim Đức nhìn quay theo hướng Đông Nam. Qua khoảng sân miếu rộng khoảng 200m2, khoảng rộng phù hợp với khuôn viên tổ chức lễ hội và các hoạt động tín ngưỡng hàng năm. Đứng tại sân miếu ngắm tổng thể kiến trúc di tích ta thấy tòa tiền tế bề thế gồm 3 gian 2 dĩ, nền miếu được giật cấp cao hơn sân khoảng 0,50m, ta nhìn thấy sự thông thoáng của một ngôi miếu phục dựng theo phong cách truyền thống, với 4 hàng chân cột chạy song song, thượng thu hạ thách như từ đất mọc lên, vững vàng đỡ lấy mái miếu xòe rộng lan xuống thấp và cong dần lên. Kết hợp với đường cong của mũi ngói từ nóc miếu đến giữa uốn nhẹ và khi gần kết thúc nó lại lượn vút lên ăn khớp với đường mũi ngói mái bên cạnh vừa chạy tới, vươn cao thành đao miếu cong vút mập mạp mang đầy sức sống. Bốn mái đao cong, chạy cùng đường cong là các đường gờ, đường soi của lá mái, lá diềm lượn cùng nhịp độ. Bờ nóc miếu với kiến trúc tạo hình của những con giống như vẫn còn ghi dấu về tục thờ mặt trời của cư dân làm lúa nước. Đó là hình đôi rồng từ 2 đầu bò xoải vào chầu mặt trời, bờ giải được đắp trơn gần xuống tới đao đình mới có rồng ghìm đao lại. Kiến trúc miếu Lãi Lèn được làm theo kết cấu kiến trúc truyền thống kiểu chữ Đinh (J) gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian, 2 dĩ bít đốc, chiều dài tổng thể 18,4m x rộng 6,62m; gian giữa cách đều nhau 3,2m, các
gian cạnh cách đều 2,67m; các gian dĩ cách đều nhau 1,6m. Kết cấu kiến trúc bộ khung tiền tế miếu Lãi Lèn được làm đúng theo truyền thống, theo kiểu nhà truyền thống lòng thuyền, thượng thu hạ thách. Các bộ vì gian giữa, gian cạnh đều được làm theo kiểu chồng bồn kẻ nghé, các cốn đều được chạm khắc đề tài tứ linh . Miếu Lãi Lèn được làm theo kiểu miếu cổ truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ 4 hàng chân cột có 3 loại cột: Cột cái, cột quân, cột hiên, với tổng số 48 cột gỗ, các cột đều được làm từ gỗ lim. Hậu cung miếu Lãi Lèn được làm 3 gian, một dĩ với chiều dài hậu cung dài 10,75m x rộng 6,4m. Các bộ vì hậu cung được làm theo kiểu chồng rường cốn mê. Trên cốn mê hoặc cốn nách đều được chạm khắc hổ phù. Nền miếu Lãi Lèn được lát gạch bát cổ sạch sẽ. Từ nền miếu tới xà nóc (thượng lương) là 4,9m. Toàn bộ các cột được kê trên đá xanh đã được các nghệ nhân chế tác, nổi trên nền đình 0,10m so với mặt nền để chống ẩm và tránh cho các vi sinh vật ăn tiêu tâm cột sau này. Các cột, xà ngang, dọc được ăn khớp với nhau. Có thể nói khung miếu Lãi Lèn là sự liên kết tài tình của các nhóm gỗ, chủ yếu là gỗ lim và táu mật, chỉ có mộng, mẹo, không cần sự tham gia của bất cứ một kim loại nào. Đầu cột được giằng với nhau bằng những quá giang, những xà, những kẻ. Sự liên kết đó được thực hiện bằng các mộng, mộng chéo, mộng đuôi, mộng cá, mộng kép…chúng tự hãm lấy nhau rất chặt chẽ tạo ra sự cân bằng tuyệt đối khiến cho ngôi miếu khỏe khoắn vững vàng. Lối cấu trúc này khi trùng tu hoặc cần thay đổi một bộ phận nào đó có thể tháo rất dễ dàng và khi chờ lắp cấu kiện mới vẫn không ảnh hưởng gì tới sự vững chắc của di tích. Tóm lại miếu Lãi Lèn có qui mô kiến trúc không quá đồ sộ, nhưng không gian nội thất thoáng mát, hài hòa ấm cúng. Các cấu kiện chi tiết kiến trúc của miếu được làm chủ yếu bằng vật liệu gỗ tốt và được gia cố cẩn thận, mực thước chính xác đến tuyệt đối. Xung quanh được xây tường gạch chỉ và bít đốc, phía trước là bộ cửa bức bàn ngồi trên ngưỡng vững chắc và an toàn cho di tích.
Di tích Miếu Lãi Lèn. Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn
Miếu Lãi Lèn với vẻ bề ngoài bề thế vững chãi, đăng đối với vẻ bề thế ấy bên trong di tích cũng được sắp xếp bố trí nội thất tương đối phong phú. Ngay khi qua ngưỡng cửa bức bàn chính giữa, bước chân vào tiền tế ta bắt gặp bức hoành phi 神降嶽惟 “duy nhạc giáng thần” (thần từ núi giáng xuống), tiếp đến gian chính giữa bên trên cùng là bức hoành phi 德合陽陰 “âm dương hợp đức” (đức sinh từ sự hòa hợp âm dương), hoành phi có kích thước dài 1,82m x rộng 0,62m được sơn son thếp hoàng kim, lòng hoành phi là bốn chữ hán đen, nền hoành phi được trang trí hình triện gấm, triện chữ vạn và hoa văn kỷ hà. Bên dưới hoành phi là bộ cửa võng dài 2,2m được chạm lộng lưỡng long chầu nhật vào chính giữa, bên dưới cách điệu mặt hổ phù, hai bên cạnh được đục chạm hình long mã, phượng càm thư. Bên dưới hoành phi và cửa võng được bố trí câu đối:
肇祖建文郎義领風光隨處有
生民居富壽越池春色自天來
Triệu tổ kiến Văn Lang Nghĩa Lĩnh phong quang tùy xứ hữu
Sinh dân cư Phú Thọ Việt Trì xuân sắc tự thiên lai
Nghĩa là: Tổ dựng nước Văn Lang vẻ phong quang Nghĩa Lĩnh nơi nào cũng có
Dân cư Việt Trì Phú Thọ đẹp rực rỡ như sắc xuân trời mang lại
Câu đối được đục chạm khá công phu, son son thếp hoàng kim, lối viết chữ hán theo thể khải thư, chữ đen lòng vàng được tranh trí bởi triện gấm chữ vạn xen lẫn hoa văn kỷ hà. Phía đầu trên câu đối được đục chạm con dơi – một biểu tượng của đại phúc, xung quanh đường diềm câu đối được cách điệu hoa cúc dây leo và hình linh vật.
Cột đối xứng của gian cạnh cũng được bố trí đôi câu đối dài 2,1m x rộng 0,36m không kể diềm đối, được sơn son thếp hoàng kim:
節届三春觀合行典禮
時維四季斂福錫仝民
Tiết giới tam xuân quan hợp hành điển lễ
Thời duy tứ quý liễm phúc tích đồng dân
Nghĩa là: Dịp xuân tháng ba dân đến xem cung nghinh hành lễ
Quanh năm suốt bốn mùa thần gom phúc ban tặng toàn dân
Tiến vào hậu cung, gian giữa được đặt sập thờ chân quỳ dạ cá, hai bên bày chấp kích bát bửu, rồi đến hương án cũng được chạm trổ khá đẹp, bằng những kỹ thuật đục bong, chạm lộng tạo nên một hương án hội tụ đầy đủ tứ linh. Phía ngoài hương án trên cột được bố trí câu đối, bên trên là hoành phi và cửa võng, hoành phi có bốn chữ觀可樂禮lễ nhạc khả quan (chiêm ngưỡng lễ nhạc) hoành phi được làm theo phong cách truyền thống, sơn son thếp hoàng kim như các hoành phi khác trong di tích. Bên dưới là cửa võng chạm trổ cầu kỳ, phía dưới nữa là đôi câu đối:
禮正尊卑金德淳風存邃古
樂隨音律蠡春曲引來今
Lễ chính tôn ty Kim Đức thuần phong tồn thúy cổ
Nhạc tùy âm luật Lãi Lèn xuân khúc dẫn lai kim
Nghĩa là: Lễ chuẩn dưới trên thuần phong Kim Đức được bảo lưu từ cổ
Nhạc theo âm luật khúc Xoan Lãi Lèn còn truyền mãi tới nay
Tiếp đến gian trong cùng hậu cung được bố trí đặt ở 03 vị trí ở giữa và hai bên cạnh, 03 cỗ long ngai, bài vị đặt trên bệ đá được làm từ đá nguyên khối, đá xanh Thanh Hóa dài 1,7m x rộng 0,99m x cao 1,05m; xung quanh được đục chạm tứ linh, hoa lá. Bên trên bệ đá đặt 03 bộ long ngai thờ các vua Hùng, 03 bộ long ngai có chiều cao 1,2m x rộng 0,66m cả 3 cỗ long ngai đều được chạm trổ, sơn thếp lộng lẫy bằng kỹ thuật chạm thủng, chạm lộng, mang phong cách nghệ thuật chạm truyền thống, thể hiện các hoạ tiết thường được trang trí trên ngai thờ: gai dứa, rồng uốn, cột tiện cổ bồng, cánh sen, giác lòng tôm...Bệ ngai được chạm trổ hình linh vật, lưỡng long chầu nhật ở mặt trước và đốc hai bên, tay ngai được đặt trên mặt bệ với tư thế của hai đầu rồng ngậm ngọc đua ra phía trước; mỗi bên tay ngai được tạo bởi 3 con song tiện, ở mỗi song tiện lại được chạm nổi hình rồng lộn khá công phu, lưng ngai được chạm thủng hình tứ linh chia đều 3 ô, tầng trên cùng là lưỡng long chầu nhật, ở giữa là hình ly lớn nằm trong tia lửa điện, ô dưới là hình phượng xen lẫn vân, mây hoa lá. Trên mặt long ngai được đặt bài vị, cả 3 bài vị đều được chạm với công thức chung giống nhau theo nghệ thuật chạm khắc truyền thống đầu bài vị được tạo một núm tròn nổi gồ, xung quanh là hình rồng được chạm nổi đang lẩn khuất trong mây, tiếp giáp với mộc dục được chạm đôi rồng đỡ đầu bài vị, viền quanh bài vị được đục chạm hình gai dứa, gần trong lòng bài vị chỗ để ghi chữ Hán mỹ tự của vị thần mỗi bên có hình rồng lộn chạy sát xuống chân bài vị rồi ngóc đầu sang hai bên chầu vào bài vị.
Phía cột giữa gian trong cùng hậu cung được bố trí câu đối:
攸萃精神洋洋如在上
不遷功德屹屹仰彌高
Du tụy tinh thần dương dương như tại thượng
Bất thiên công đức ngật ngật ngưỡng di cao
Nghĩa là: Tinh thần của thần mênh mang như trên cao vậy
Công đức ấy vòi vọi không dời trông lại càng thấy cao thêm
Hoành phi và câu đối trong miếu Lãi Lèn đều được đục chạm, trang trí phủ hoàng kim cầu kỳ, tinh xảo, chúng mang trên mình một ý nghĩa hay nói đúng hơn là một thông điệp gửi lại hậu thế rằng nơi đây là nơi thần giáng, nơi đất thiêng, và nơi vang lên mãi khúc ca Xoan truyền cho hậu thế. Có thể khẳng định miếu Lãi Lèn là sự tổng hòa tương đối của một di tích vừa liên quán đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đồng thời cũng là di tích gốc liên quan đến nguồn gốc ra đời của một di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - nghi lễ hát thờ, hát Xoan Phú Thọ. Vì vậy công tác bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích cần được sự quan tâm đồng bộ của các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương. Hiện tại công trình phục hồi, tu bổ miếu Lãi Lèn đã hoàn thành, còn rất nhiều hạng mục của các công trình phụ trợ đang tiếp tục được triển khai như: sân vườn, nghi môn, cổng, tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, nhà khách… đặc biệt là công trình nhà trưng bày bởi đây sẽ là nơi giới thiệu đến các tầng lớp nhân dân, bạn bè quốc tế đầy đủ nhất những hình ảnh hát Xoan xưa và nay của bốn phường Xoan gốc, giới thiệu các trang phục, đạo cụ, bài bản, lề lối, cách thức trình diễn của loại hình nghệ thuật độc đáo này trước khi bước vào thắp nén tâm nhang, chiêm bái ngôi miếu chính và đích mục sở thị xem các nghệ nhân của phường Xoan gốc trình diễn. Tổng thể công trình di tích kiến trúc nghệ thuật miếu Lãi Lèn hoàn thành sẽ góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đặc biệt là giá trị di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ.
Lê Công Luận
Phó trường phòng Di sản Văn hóa
http://svhttdl.phutho.gov.vn/tin/mie...an-co_536.html
-
MIẾU ÂM HỒN
Địa điểm: Ngã tư đường Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tông, phường Thuận Lộc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 1895, khi thực dân Pháp tiến hành quy hoạch, điều chỉnh lại đường phố Huế, nhiều nơi trong Thành Nội đã phát hiện được hàng trăm hài cốt, tập trung nhiều nhất ở rãnh cống khu vực hồ Phu Văn (miếu Âm Hồn ngày nay) của những người chết trong biến cố “Thất thủ kinh đô” vào đêm ngày 22 rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu (tức ngày 5.7.1885). Để tưởng nhớ những người đã chết vì vận nước, đồng bào đã quyên góp tiền của xây dựng miếu Âm Hồn và lấy ngày 23.5 là ngày huý kị “quảy cơm chung”. Lễ cúng âm hồn được tổ chức chu đáo theo nghi thức thờ cúng tín ngưỡng cổ truyền ở Huế, với những bài văn tế thống thiết, ai oán.
Thời kỳ gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh vào Huế sống tại ngôi nhà ở đường Đông Ba (112 - Mai Thúc Loan) là lúc miếu Âm Hồn được xây dựng, dư âm nặng nề của sự biến thất thủ kinh đô đang còn ghi dấu sâu đậm trong lòng người dân xứ Huế. Bác Hồ hồi ấy (Nguyễn Sinh Cung) đã cùng cảm nhận nỗi đau chung đó. Nguyễn Sinh Cung thường hay lui tới khu vực Miếu, tham dự vào các buổi lễ cúng âm hồn, hít thở bầu không khí linh thiêng, ấp áp tình đồng loại, xót thưong cho những người bị nạn, căm giận sự tàn ác của quân cướp nước.
https://www.thuathienhue.gov.vn/vi-v...6-C7F9470EC584
-
Dân trí › Xã hội › Thứ Sáu, 13/07/2012 - 09:19
Sự thật về “miếu vỉa hè linh thiêng” góc tường Văn Miếu
Chia sẻ
Vì sao lại có nơi thờ cúng kỳ lạ ngay cạnh tường Văn Miếu - Quốc tử giám giữa lòng Hà Nội? Câu chuyện đằng sau là gì? Người viết tiếp tục tìm hiểu vén bức màn kỳ bí về chuyện “miếu vỉa hè” hút người cúng lễ.
Những câu chuyện ly kỳ
Quyết tâm tìm hiểu đến cùng, PV đến đây vào nhiều thời điểm khác nhau và tìm hỏi nhiều người. Người thì kể lại “sự tích”, người thì cho biết chỉ nghe đồn miếu thiêng chứ không biết là thờ cái gì. Những câu chuyện kỳ bí mà PV được nghe kể lại rất khác nhau.
Miếu thiêng ở vỉa hè nhìn khá nhếch nhác.
Miếu thiêng ở vỉa hè nhìn khá "nhếch nhác".
Theo lời kể của anh Quân (Ba Đình - Hà Nội) - người đã đi lễ nhiều năm ở đây - miếu đã có từ lâu. Xưa có hai cô gái trẻ đi qua ngã tư này bị tai nạn tử vong, người dân lập bát hương thờ cúng gọi là Miếu Hai Cô. Nhiều người chơi cờ bạc tới đây cầu may đều được như ý nên miếu mỗi ngày một đông hơn.
Cũng gọi là Miếu Hai Cô nhưng chị Trang (chủ cửa hàng kinh doanh ở Đội Cấn- Hà Nội) lại kể khác: Chị đã theo lễ ở đó được 3 năm, nghe nhiều lời đồn là miếu thiêng và có từ lâu. Chị được nghe kể xưa kia ở đó là một gốc cây gạo cổ thụ, có hai cô gái trẻ chưa chồng chết ở đó. Rồi sau có người tới đây cầu tình duyên, không hiểu do trùng hợp ngẫu nhiên hay do miếu thiêng thật mà ít lâu sau cô gái chậm đường tình duyên đó lấy ngay được chồng. Tin đồn này lan đi và người ta tới đây rất đông để cầu may mắn. Sau khi nhà nước có các chính sách về việc giải phóng mặt bằng, mở rộng đường xá thì gốc gạo cũ không còn nữa. Nhưng người dân vẫn quen lệ tới đây để cầu cúng.
Ông N.V.T thì có vẻ hiểu rõ hơn, ông kể lại rằng miếu này thực sự rất thiêng, cứ nhìn số lượng người tới đây lễ mỗi ngày là biết. Xưa kia có miếu thờ hẳn hoi nhưng không hiểu vì lý do gì mà bây giờ không còn nữa, chắc hai cô “giận” lắm. Ai đi cầu hai cô thì đều được việc, ai “báng bổ” thì coi chừng.
Cứ như vậy, chẳng có ai được chứng kiến tận mắt hai cô gái trẻ qua đường bị tai nạn như thế nào, chẳng ai biết hình thù gốc cây gạo như thế nào nhưng người này vẫn truyền tai người kia về câu chuyện như thật ấy để tìm tới khấn vái tại miếu thiêng.
Tiền lễ “chảy” vào túi ai?
Tìm tới đây vào ngày mùng 1 âm lịch, PV quan sát thấy số lượng người tới lễ rất đông. Tiếp cận được với một người bán nước, PV đã được mời mọc mua lễ cúng, sau khi biết chúng tôi tới lần đầu, chị bắt đầu kể những câu chuyện linh thiêng về miếu như một bài học thuộc lòng. Chuyện kể rằng: “Có 2 cô gái chưa chồng đi đến đây bị tàu điện đâm chết, bình thường người ta vẫn để bát hương khu vực góc đường khi mới mất, người qua đường vẫn thường thắp hương cho cô. Sau đó có ai đó dựng tạm cái miếu tự phát ngay góc Văn Miếu cũ và khi quy hoạch Văn Miếu, bát hương đó được chuyển vào bên trong này để thờ”.
Thành tâm khấn vái bên miếu vỉa hè
Thành tâm khấn vái bên "miếu vỉa hè"
Ngày 5/5 âm lịch (là ngày tết Đoan Ngọ), ngã tư này cũng đông đúc, nhộn nhịp chẳng kém gì ngày mùng 1. Sau khi tác nghiệp được vài tấm ảnh, nhóm PV đã bị một bà chủ cửa hàng bán vàng mã “đe dọa” bằng những lời lẽ “mê tín”: “Hai Cô ở đây là thiêng lắm đấy, cứ chụp ảnh đi rồi ngày mai không biết thế nào đâu, đi ngay ra chỗ khác mà chụp. Thích chụp chỗ nào thì chụp, riêng ở chỗ thần thánh như thế này thì đừng có mà động tới...”.
Qua tìm hiểu thì ở đây chỉ có vài người bán hàng nước kèm đồ cúng lễ, và một người chuyên bán vàng mã. Vốn bỏ ra không nhiều nhưng thu nhập thì rất đáng kể bởi người mua chẳng ai đi “mặc cả” với thần thánh.
Một người chuyên đốt vàng mã (xin được giấu tên) cho biết, ngã tư này là nơi kiếm sống, anh ta ở đây để đốt vàng mã giúp những người tới lễ, mỗi chủ lễ lại cho một ít tiền và bình quân mỗi tối anh ta thu được ít nhất là 200 nghìn.
Khói đốt vàng mã, bụi trùm ngã tư vào những ngày có đông người tới lễ bái
Khói đốt vàng mã, bụi trùm ngã tư vào những ngày có đông người tới lễ bái
Thêm vào đó một lượng không nhỏ tiền lẻ từ việc cúng lễ không biết đã và đang "chảy" vào túi ai? Nhiều người sẽ đặt câu hỏi về lý do của việc "thêu dệt, tô vẽ" câu chuyện thêm phần ly kỳ, hấp dẫn.
Tiếp tục tìm hiểu, chúng tôi đã gặp gỡ những bậc cao niên ở Hà Nội, rất ít người biết về câu chuyện "hai cô gái chết trẻ" ở đó. Một số người cao tuổi cho rằng, chỉ là trước đây tồn tại câu chuyện có người đàn ông ngoài 40 tuổi nhảy ra khỏi tàu điện đang chạy và chết ở khu vực đó. Người qua đường thấy thương cảm mua bát hương về đặt tại ngã tư này. Một thời gian sau không thấy bát hương nữa thì lại mọc ra một cái “miếu Hai Cô” huyền thoại... có hàng nghìn người tới lễ. Theo sử liệu cũng không hề có một sự tích nào ở Hà Nội nói về Hai Cô được thờ trong “miếu thiêng” ở vị trí này.
Những câu chuyện ly kỳ kia không biết còn được thêm thắt những gì, nhưng có một điều chắc chắn rằng vỉa hè này sẽ ngày một đông hơn về những người tới lễ bái. Sự việc đã diễn ra từ rất lâu, đã có một số cơ quan lên tiếng và cũng đã có cơ quan chức năng dựng lan can, vận động người dân không tụ tập mê tín dị đoan nhưng vẫn không ngăn được việc cúng lễ như thế này. Nên chăng các cơ quan chức năng cần có hành động kịp thời, biện pháp giải quyết triệt để, ổn thỏa trả lại vẻ mỹ quan cho đô thị và nét đẹp cho Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Trích Nghị định 75/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010, Điều 18. Vi phạm các quy định về nếp sống văn hoá
Tiết c, Khoản 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
Đốt đồ mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hoá, nơi công cộng khác.
Tiết b Khoản 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
Tuyên truyền mê tín dị đoan để tiêu thụ hàng mã;
(Còn nữa)
Theo Ngọc Trang- Hồng Chuyên
Infonet
http://dantricdn.com/i:I3KdHJtU0B3EL...nhech-nhac.jpg
http://dantri.com.vn/xa-hoi/su-that-...1342529796.htm
-
Kỳ lạ con đường rẽ đôi biển tại Vũng Tàu | Thị trường NLD
thitruong.nld.com.vn/.../ky-la-con-duong-re-doi-bien-tai-vung-tau-...
Translate this page
Oct 8, 2016 - Là thắng cảnh đẹp, mang ý nghĩa tâm linh mà nhiều du khách trong và ngoài tỉnh tìm đến. Trên đảo, có một ngôi miếu nhỏ, người dân nơi đây gọi là Miếu Hòn Bà, đây được cho là nơi rất linh thiêng luôn nghi ngút khói hương bởi là nơi thờ cúng, cầu cho những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió của ngư ...
http://baophapluat.vn/rubic-cuoc-son...ng-284201.html
-
Theo chân "ma đề" - Kỳ 4: Hận người âm cho số trật, "ma đề" đập phá miếu thờ
03/8/2016 10:41 UTC+7
(Công lý) - “Ma đề” có thể đọc ra số từ đầu lọc thuốc lá, từ tờ giấy thấm nước vừa cúng người âm được hơ trên ánh lửa đèn dầu, từ cách dựng những quả trứng trước am thờ người quá cố,…
Đặc biệt, ma quái và rùng rợn hơn, “ma đề” có được số từ việc kêu gọi sự hỗ trợ của người âm thông qua hình thức cầu cơ, ngồi đồng, nhập xác,... Tuy nhiên, khi những con số xin được chỉ đem về nỗi thất vọng cùng cực, “ma đề” không ngần ngại trút giận lên cõi âm bằng cách đập miếu, phá tượng, dỡ nhà, khai quật những nấm mồ hoang.
Theo chân "ma đề" - Kỳ 4: Hận người âm cho số trật, "ma đề" đập phá miếu thờ
Am thờ này trước đây từng bị “ma đề” đập tan, bàn cầu cơ vẫn còn nát vụn
Muôn vạn phương cách xin đề
“Ma đề” kêu gọi, cầu cứu sự giúp sức của những thế lực siêu nhiên, ma quái thông qua vô vàn phương thức. “Nói đến xin số thì mỗi người mỗi kiểu, mỗi nơi mỗi cách. Nhưng có thể kể ra vài cách sau như xin nước, xin thuốc, xin trứng, cầu cơ, nhập xác,… Muốn biết như thế nào, anh chị phải trực tiếp tham gia thì mới biết được”, K. giới thiệu.
Theo K., để chứng kiến việc xin số bằng cách dựng trứng gà, PV có thể tìm đến các ngôi miếu không tên tại phường Thạnh Lộc (quận 12), miếu Ngũ Hành tại phường 7 (quận 8),…
Theo chân "ma đề" - Kỳ 4: Hận người âm cho số trật, "ma đề" đập phá miếu thờ
Phía trước các am thờ hơn chục hũ cốt tại miếu hoang bên rạch Bà Cả Bốn (quận 12) từ lâu đã có sẵn bàn dựng trứng xin số đề
Tại miếu không tên thuộc khu phố 3A (phường Thạnh Lộc), PV có cơ hội mục kích rõ cách xin số bí ẩn. Khoảng 12h trưa, các “ma đề” kéo về miếu cổ, đưa xe gửi vào dưới những tán cây cổ thụ, rút nhang thắp tại những am thờ hũ cốt, miệng lầm rầm khấn vái. Dưới các am này, trên miếng gạch tàu, người xin số kẻ sẵn những ô vuông có đánh các số từ 0-9.
Dứt lời khấn, “ma đề” lấy trứng gà ta dựng lên những ô số. Trứng đứng thẳng, không ngã, ngay cả khi có người lay động trên số nào, “ma đề” sẽ ghi số đó. Quá trình trên lặp lại với những “ma đề” khác cho đến hết giờ linh. Nơi đây cũng thường xuyên được cánh ghi đề thực hiện cầu số bằng cách xin thuốc, xin nước,…
Theo K. “xin thuốc” là cách xin được số bằng những đầu lọc thuốc lá. Người xin tìm đến những nơi có mồ hoang, nghĩa địa nổi tiếng linh ứng, ngồi trước mộ phần, thắp nhang, khấn vái cầu xin người đã khuất hiện về cho số. Sau đó, người xin rút thuốc, châm lửa rít một hơi dài rồi nhả khói ra. Nếu linh ứng, người âm nhận lễ, đồng ý cho số, người xin sẽ thấy số được con số được cho hiện lên sau đầu lọc điếu thuốc vừa hút. Xin nước được tổ chức cầu kỳ hơn.
Tại ngôi mồ hoang sâu trong khu vực đồng hoang thuộc quận 8, PV được dịp chứng kiến cách xin độc đáo này trong đêm. Người xin chuẩn bị lễ vật gồm những dĩa bánh trái, thuốc lá, rượu,... cùng một chiếc đèn dầu, một bát nước và một tờ giấy trắng. Đợi đúng 12h đêm, nhóm ma đề kéo về từ Long An tiến hành soạn lễ, bày bàn cúng, thắp nhang nghi ngút rồi lầm rầm đọc tên tuổi, ngày tháng năm sinh của mình, xin người đã khuất chứng giám, hiện về cho số làm ăn. Khấn xong, người này trong trạng thái tĩnh lặng, âm thầm cầm tờ giấy nhúng vào bát nước đặt trước hương án rồi đem hơ trên ngọn lửa đèn dầu. Người xin sẽ đọc được số người âm cho thông qua tờ giấy này. Đáng chú ý là chỉ người trực tiếp xin mới nhìn thấy số và đọc lại cho người khác nghe.
Rùng rợn, liêu trai hơn cả là cách xin số bằng hình thức cầu cơ, gọi hồn, nhập xác. Cách xin này thường xuyên được những “ma đề” chơi lớn sử dụng tại những ngôi miếu, nghĩa trang, nhà hoang vào lúc nửa đêm. Bàn cầu cơ được giới chơi đề khẳng định là lấy từ áo quan của người đã khuất. Người đã khuất chết trẻ, chết oan, ván áo quan càng linh thiêng, quý giá. Bàn cơ được khắc những con số, ở giữa có một đồng tiền làm vật chỉ định số cần đánh. Sau khi bày lễ cúng, người xin số đọc chú gọi hồn về. Nếu linh ứng, đồng xu giữa bàn cầu cơ sẽ tự chạy. Đồng xu chạy vào ô số nào, “ma đề” sẽ đánh số đó.
Hận người âm, “ma đề” đập miếu, quật mồ hoang
K. cho biết, nhiều “ma đề” có “số má” còn chọn cách gọi hồn, nhập xác để có được những con số mà họ tin rằng sẽ hóa thua thành thắng. Dưới sự hướng dẫn của ông lái đò tên S. tại phường 7 (quận 8), PV được đi chung với nhóm xin số từ nhiều địa phương khác vào nấm mồ hoang sâu trong rạch Bà Tàng lúc nửa đêm.
Tại đây, nhóm này cử ra một thanh niên khoảng 30 tuổi làm người cho hồn nhập xác để xin số. 12h khuya, nhóm bắt đầu hành lễ, nhang được thắp trên mồ hoang và xung quanh khu vực xin số. Bánh kẹo, thuốc lá, nước, quần áo, tiền âm phủ,… cũng được bày biện tươm tất. Sau ít phút, người biết câu chú lầm rầm khấn vái, gọi hồn về nhập vào người đang ngồi tĩnh lặng trước mộ phần. Tuy nhiên, có lẽ “do có người ngoài”, vong không về, hồn không nhập vào xác đợi sẵn. Cả nhóm rời nấm mồ hoang, yêu cầu ông lái đò chở đi nơi khác.
Ông S. giải thích, việc hồn không nhập xác hoặc nhập nhưng cho số mà người ghi vẫn trắng tay là chuyện thường. “Không phải cứ xin là trúng mà số được cho còn phụ thuộc vào việc mình có “tài” (may mắn –PV) vào ngày đó hay không, mình có hợp với vong cho số hay không. Tuy nhiên, không mấy ai hiểu và tin vào điều này. Do đó, nhiều “ma đề” rút rỗng túi, đặt trọn niềm tin vào việc cầu cơ, gọi hồn nhập xác mà vẫn tay trắng, nợ nần ngập đầu, ngập cổ”, ông S. cho biết.
Đặt trọn sự kỳ vọng, niềm tin vào người âm mà vẫn thua xơ xác, nhiều ma đề cuồng tín bỗng nhiên nổi giận, tìm cách trả thù, rửa hận. Những địa điểm mà trước đó, các “ma đề” còn trao trọn niềm tin, kính cẩn khấn vái, cầu xin bỗng chốc trở thành nơi đáng đập phá, đốt bỏ.
Ông N.V.S. (50 tuổi, người trông coi ngôi miếu không tên tại phường Thạnh Lộc) cho biết: “Trước đây, ngoài việc miếu bị đồn thổi là có ma, quỷ, âm hồn trú ngụ, thu hút dân đánh đề bằng chuyện có người xin số ở miếu trúng tiền tỷ. Từ đó, cánh đánh đề kéo về miếu nườm nượp. Mấy am thờ các hũ cốt vô danh tự nhiên trở thành chỗ xin số “đắt khách”. Tôi không biết có ai trúng không chứ người bị đề làm cho tán gia bại sản thì nhiều vô kể. Có người hôm trước còn có tiền tỷ, đến xin bằng xe hơi, hôm sau đã trở thành con nợ phải bỏ xứ trốn đi biệt tích. Có người xin được số, đánh không trúng thì nổi điên đến miếu đập phá. Có người đập tan nát am thờ mấy hũ cốt, có hũ cốt còn bị người ta đập vỡ, vứt xuống ruộng. Thậm chí, cả tượng Phật Bà Quan Âm trước miếu, bọn họ cũng nổi điên, quật ngã, đẩy xuống rạch”.
Sự thực bất ngờ trên cũng được những người từng sống dở, chết dở vì đề như K. công nhận. K. cho biết: “Nhiều người lúc xin thì tin tưởng, khấn vái hết sức chân thành. Thế nhưng khi ghi, chiều xổ không ra đúng số được cho thì cho là miếu không thiêng, vong hồn chọc phá, theo ám, chặn đường trúng của mình. Để “đổi vận”, bỏ đen lấy đỏ, trấn áp vong âm theo ám, nhiều người tìm đến nơi mình xin đập phá. Đối với những căn nhà hoang, nhiều người thẳng tay đốt bỏ, các nấm mồ vô chủ từng được họ nể sợ, tin tưởng khi không ra đúng số cũng bị nhiều tay đề quật lên, tháo bia mộ… cho bõ tức”.
Ông Đ.T.S. (người quản lý Miếu ngũ Hành thuộc phường 7 (quận 8, TP. HCM) cho biết: “Trước đây, miếu cũng là nơi tụ tập xin số cũng những người chuyên đánh đề. Tuy nhiên, từ khi chúng tôi siết chặt quản lý thì việc xin số cũng giảm hẳn. Ban ngày, khách cũng chỉ đến miếu để thắp nhang, van vái rồi xin xăm lấy số thôi. Đêm xuống, tôi về nhà ngủ nên không thể biết có ai vào xin số hay không. Do đó, việc người ta đến cầu cơ, gọi hồn xin số tôi không quản lý, cấm đoán được. Tuy nhiên, tôi cũng nói rõ rằng việc đến xin không thành mà đập phá, làm tổn hại đến miếu, đến nơi linh thiêng là hết sức không tốt”.
Theo chân "ma đề" - Kỳ 3: Tự phong "thánh" để ban số
Theo chân "ma đề" - Kỳ 2: Những dịch vụ “ăn theo” hoạt động xin đề chuyên nghiệp
Theo chân "ma đề" - Kỳ 1: Ma đề thiết lập hệ thống cứ điểm cầu cơ, xin số
Nguyễn Ngọc
http://congly.vn/xa-hoi/doi-song/the...ho-165124.html
-
Ngôi miếu và cây cổ thụ linh thiêng cho số trúng độc đắc
06:00 19/01/2014 2 Nguyễn Văn Bách
http://image.anninhthudo.vn/w480/upl...ay-tram-ma.jpg
Chia sẻ
ANTĐĐã lại cuối năm, sắp đến ngày làm lễ cầu an hàng năm vào ngày 18-2 âm lịch tại Miếu Cây Trâm, một ngôi miếu nổi tiếng linh thiêng tại xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Vào ngày này dân trong xã cũng như dân quanh mấy tỉnh miền Tây lại nườm nượp về đây cúng lễ. Mấy năm nay, Miếu Cây Trâm cũng là nơi tụ hội của những người mê tín dị đoan, những đệ tử lô đề cơ bạc tụ tập, mong thần linh ban cho một vài con số đổi đời.
Câu chuyện chỉ mới xảy ra năm 2012 kể về một ông già sống ở quận 7, TP Hồ Chí Minh khổ sở vì con cháu làm ăn thất bát, đến cầu cúng tại miếu, xin thần cho một đường nợ nần. Ông định thử lần cuối, nếu thất bại, ông sẽ tự kết thúc cuộc đời. Ai ngờ, khi ông đang cúng, bỗng có cơn gió thổi, làm bay một tờ tiền lẻ ông cúng giọt dầu từ trên ban thờ bay xuống cạnh chỗ ông đang khấn. Tờ tiền có số đuôi là 62. Tối đó ông dốc hết những đồng tiền cuối cùng trong nhà đánh con đề 62, lại mua mấy bộ xổ số có đuôi 62. Ai ngờ chiều về giải đặc biệt có đuôi 62, ông ăn đề đã đành, lại còn được một tờ vé số trúng giải đặc biệt 1,5 tỷ đồng. Cả gia đình thoát nợ. Từ đó cứ đến ngày rằm, mồng một, ông lại lặng lẽ sắp lễ đến miếu làm lễ tạ thần linh. Câu chuyện từ lời đồn thổi đã kéo hàng trăm người hàng tuần đến cúng lễ tại miếu, gây nhiều khó khăn cho công tác bảo vệ trật tự trị an địa phương.
ảnh 1
Ngôi miếu linh thiêng và cây trâm ma
Thật ra không phải bây giờ mới có dư luận về sự linh thiêng của ngôi miếu này. Ngôi miếu và cây trâm cổ thụ đã được ghi trong sử sách và những câu chuyện kỳ lạ về nó đã được đồn thổi khắp miền tây Nam bộ. Đã hơn 300 năm, người dân quanh vùng vẫn truyền miệng nhau những câu chuyện kỳ bí về cây trâm bảo vệ miếu thiêng. Ngoài vẻ ngoài sum xuê, tán lá che rợp góc miếu, cây trâm cổ thụ nhiều năm tuổi luôn ám ảnh người dân địa phương. Nỗi sợ xen lẫn kỳ quái khiến không một ai đủ can đảm bước ngang qua khu vực của cây vào đêm tối, ban ngày đi qua phải bỏ nón cúi chào, những ai cố ý chặt cành, phạm cây đều bất ngờ gặp tai họa… Nhiều người gọi cây trâm này là cây trâm ma. Cây trâm có gốc khá lớn chia nhiều gốc phụ bao quanh gốc chính tạo thành một khối khổng lồ 10 người ôm không xuể. Những gốc trâm này vươn lên trời xanh, chia thành nhiều nhánh đan xen nhau, cành lá um tùm, che mát cả một khoảng đất rộng. Nhiều bậc lão niên sống gần cây trâm ma ở xã Đức Hòa Hạ ước chừng cây trâm này có tuổi thọ hơn 300 năm. Tuy nhiên, nhiều người dân nơi đây còn cho rằng cây đã sống gần ngàn năm. Từ hồi nhỏ xíu, họ đã nghe ông bà, cha mẹ kể về nó với những câu chuyện đầy bí ẩn. Người nắm giữ nhiều bí mật cũng như những câu chuyện bí hiểm về cây đã qua đời gần hết.
Cây trâm cổ thụ tỏa bóng mát rộng đến gần 400m2 nhưng tuyệt nhiên không người dân nào dám đến đây nghỉ trưa khi đi làm ruộng. Ông Nguyễn Văn Ba (78 tuổi) cả đời sinh sống gần cây trâm linh thiêng khẳng định: “Cây trâm này đã sống hàng ngàn năm rồi. Từ nhỏ tôi đã thấy nó to lớn sừng sững như bây giờ. Tôi cũng nghe ông bà xưa kể lại, trước đây, toàn bộ khu vực này là rừng rậm, dân đến cư ngụ ở đây hàng trăm năm, cây cối chặt hết lấy đất làm ruộng, không hiểu tại sao cây trâm vẫn sừng sững ở đó. Có lẽ thần thánh đang trú ngụ ở cây trâm cổ thụ”. Cũng không ai nhớ ngôi miếu cổ dưới gốc cây trâm có từ bao giờ. Một trong những cách lý giải khác cho sự xuất hiện miếu thờ dưới gốc cây nhằm thờ cúng những vong linh không nơi trú ngụ. Người dân nơi đây cho rằng, gốc cây tập trung rất nhiều linh hồn người đã khuất không mồ mả, không hương khói. Ông Đỗ Văn Đệ (69 tuổi, ngụ ấp Bình Tả 1, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa), bí thư chi bộ, thành viên Hội cựu chiến binh xã Đức Hòa Hạ thông tin: “Cái miếu lớn nhất mới được tôn tạo lại gần đây. Miếu này thờ Bà Chúa Sứ và vong linh của những người lính ngã xuống trên đất này. Cây này, miếu này thiêng lắm, trước đây ai cũng nể sợ. Thời còn chiến tranh, cây cối còn nhiều nhưng không có cây nào trong ấp này to và cổ thụ như vậy. Vùng này cũng trong tầm pháo giặc nhưng không hề bị một vết trầy xước nào do bom đạn nên càng thiêng hơn”.
Tuy nhiên, những câu chuyện thần bí xung quanh cây trâm cổ thụ biến nó trở thành địa điểm đáng sợ và ám ảnh người dân bắt đầu từ những năm kháng chiến chống Pháp. Bậc cao niên trong vùng như ông Bảy Nên hơn chục năm trông coi miếu dưới gốc cây luôn dành cho nơi đây lòng thành kính đặc biệt. Ông Bùi Văn Sáu (79 tuổi, ở ấp Bình Tả 1, xã Đức Hòa Hạ) cho biết: “Vào ban đêm, đứng dưới thân cây rất dễ chứng kiến những sự việc đáng sợ. Không chỉ phát ra những thanh âm đầy ma quái, nơi gốc cây cũng xuất hiện những ánh sáng kỳ lạ khiến người chứng kiến phải nổi da gà. Dần dà, người ta tin rằng cây trâm là nhà của các vong hồn lang bạt, không có chỗ nương tựa”. Những năm kháng Pháp, câu chuyện kỳ bí về cây trâm ma một lần nữa được khẳng định, lan truyền và có phần thực tế hơn. Các bậc cao niên và cựu chiến binh trong vùng cho biết trong những năm kháng chiến có vô số chiến sĩ ngã xuống dưới gốc cây này. Số người chết nhiều đến nỗi người ta phải lập miếu thờ chung cho những người ngã xuống ở đây. Nhiều người tin rằng linh hồn các chiến sĩ bám víu vào cây rất linh. Trước đây, ban ngày, khi đi ngang qua cây, các cụ đều ngả mũ, cung kính chào”.
Người Pháp nhiều lần tìm cách triệt hạ cây trâm nhưng đều phải hoảng sợ và bỏ cuộc trong vô vọng. Ông Sáu kể: “Người Pháp vốn không tin vào sự thiêng liêng của cây trâm nên tìm mọi cách đốn hạ nó. Đầu tiên, họ thuê người chặt hạ những cây con bọc quanh thân cây chính. Tuy nhiên, không ai dám nhận. Người nhận tiền, định ngày đốn hạ thì bị bệnh tật liên miên, người héo hon, vàng võ”. Tuy nhiên, giặc vẫn quyết đốn hạ cây thiêng cho bằng được. Ông Bảy Nên, người nhiều năm trông coi miếu thờ dưới gốc cây kể: “Trải qua biết bao bão bùng, mưa nắng mà cây trâm ma không hề suy chuyển. Hơn nữa, cây rất to, nằm trong tầm đạn, pháo của giặc nhưng không mảy may thương tổn, bình yên một cách kỳ lạ. Người Pháp muốn chứng minh sức mạnh khoa học vượt qua cả điều thiêng liêng nên lái xe tăng nhằm thẳng miếu thiêng và thân cây húc tới. Tuy nhiên, khi bánh răng xe tăng vừa lăn lên những chiếc rễ cổ thụ oằn lên trên mặt đất, chiếc xe bỗng khựng lại. Không ai hiểu vì cớ sự gì nhưng khi mở nắp hầm xe, người trong đó đều hộc máu mà chết. Từ đó, chúng không bao giờ dám bén mảng tới gần cây trâm nữa”.
Đến hôm nay, nỗi ám ảnh về một cây trâm ma có sức mạnh thần bí vẫn tồn tại trong tâm trí của nhiều người sống trong ấp. Mấy năm nay được sự giúp đỡ của chính quyền và các nhà hảo tâm, ngôi miếu dưới gốc cây trâm đã được trùng tu, xây dựng lại khang trang, là nơi dành cho dân xã cúng lễ. Hàng năm đến ngày 18-2 âm lịch, dân xã lại sửa lễ lớn làm lễ cầu an, cầu cho Bà Chúa Xứ và các vị thần linh cho mưa thuận gió hòa mùa màng thắng lợi.
Sự thật và những lời đồn đại mê tín dị đoan
Ông Đỗ Văn Đệ, bí thư chi bộ, thành viên Hội cựu chiến binh xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cho biết: “Những lời đồn đoán trên tồn tại trong người dân hàng chục năm nay. Hiện rất nhiều người tin vào sự thiêng liêng của cây trâm cổ thụ cũng như miếu thờ dưới gốc. Tuy nhiên, những lời đồn về sự thiêng liêng của cây trâm cổ và miếu thờ là không có căn cứ”. Hiện nay, cây trâm này đang bị nhiều thành phần xấu lợi dụng tuyên truyền những điều không hay. Đặc biệt, gần đây, khi ngôi miếu lớn được tôn tạo khang trang hơn, nhiều “đệ tử lô đề” tụ tập về đây cúng vái xin số tạo hình ảnh không đẹp ở nơi thờ cúng. Rất nhiều người đã cố công tìm địa chỉ và danh tính người đã xin số tại Miếu Cây Trâm và trúng số lớn nhưng đều thất bại. Có thể nói chuyện cầu thần xin số đề và trúng số chỉ là điều bịa đặt. Cơ quan chức năng địa phương nhiều lần tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu về chuyện này. Ngay ông Bảy Nên, người trông coi miếu cũng không đồng ý với việc cầu cúng xin số đề ở đây. Tuy nhiên, không cho họ cúng trong miếu thì họ lại ra gốc cây cầu cúng, rất khó quản lý. Cần sớm có những biện pháp phối hợp nhiều lực lượng, đảm bảo không gian bình yên cho những hoạt động văn hóa cổ truyền của nhân dân địa phương.
http://anninhthudo.vn/Phong-su/Ngoi-...ac/533631.antd
-
Phóng sự - Tiêu điểm
Ngôi miếu thờ vong linh những nạn nhân bị tai nạn giao thông
07:00 14/03/2015
Có một ngôi miếu hằng đêm thu hút rất nhiều người đến thắp nhang, cúng bái. Người ta nói rằng, đây là ngôi miếu yên nghỉ của những vong hồn nạn nhân không may bị tai nạn trong khu vực. Ngôi miếu có từ bao giờ không ai nhớ nổi.
Người đàn ông 15 năm trông coi, dọn dẹp vệ sinh ngôi miếu cho hay, ngoài việc thắp nhang cho vong hồn những nạn nhân không may tử vong vì tai nạn giao thông, dân thập phương đi qua con đường này, hầu hết họ đều ghé lại thắp nén nhang cầu cho đi đường được bình an.
Ngôi miếu thờ vong linh những nạn nhân xấu số vì tai nạn giao thông
Chuyện về ngôi miếu tọa lạc ngay ngã tư một con đường lớn ở Đồng Nai có lẽ luôn thu hút sự chú ý của người dân mỗi khi có dịp ghé qua đây. Người ta không chỉ chú ý vì vẻ trang nghiêm của ngôi miếu, mà còn bởi sự đông đúc tấp nập mỗi khi đêm về. Người ta chẳng hiểu tại sao chỉ là một ngôi miếu thôi mà lượng người đến thắp nhang, hương khói lại tấp nập đến như vậy. Và, khi tìm hiểu thực tế, chúng tôi hoàn toàn bất ngờ về câu chuyện của ngôi miếu này.
Ngôi miếu trong câu chuyện chúng tôi đề cập trên đây là Miếu Bà Quan Âm, tọa lạc trang nghiêm ngay ngã tư Vũng Tàu – Thái Lan (TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Nằm ở địa điểm đắc địa đó, thế nhưng ngôi miếu này xưa nay vẫn vững vàng kiên cố. Bao nhiêu lần mưa bão, cây xanh đổ xuống nhưng ngôi miếu vẫn không hề hấn gì.
Người dân đến thắp nhang, cầu ơn đi đường được bình an.
Khi tìm hiểu về nguồn gốc ngôi miếu, chúng tôi đều nhận được cái lắc đầu từ người dân sống xung quanh khu vực, bởi tất cả họ phần lớn đều là dân góp, dân thập phương, nay đây mai đó. Tuy nhiên, cụ ông Trần Minh Thông, 72 tuổi, người trông coi ngôi miếu từ lúc còn nhỏ kể lại:
“Nghe nói đây là ngôi miếu do một cặp vợ chồng vốn sống ở quanh khu vực này lập nên. Trước đây gia đình đó có duy nhất một người con trai. Thế nhưng, trong một lần đi chơi khuya về, trong lúc cua xe rẽ hướng về nhà, anh ta bị chiếc xe ôtô chạy bên kia tới đâm phải. Cú tông mạnh đã làm cho người con trai ấy chết ngay tại chỗ. Trước cảnh tượng đau lòng ấy, bố mẹ anh ta như ngã quỵ.
Thế nhưng, người chết thì cũng đã chết rồi, và để tưởng nhớ người con đoản số ấy, vợ chồng ông bà đã cho dựng ngôi miếu này làm nơi nhang khói cũng như là “ngôi nhà” cho con ở mỗi khi đêm về hay những lúc trời mưa nắng. Tình cảm của bậc làm cha mẹ dồn hết cho người con xấu số lên ngôi miếu này”.
Thế rồi, hai vợ chồng ấy cũng chết đi. Từ đấy, ngôi miếu này được người dân trong vùng thay nhau hương khói, dọn dẹp vệ sinh khuôn viên. Dù chẳng lớn lao gì cho lắm, nhưng từ ngày đó đến nay, ngôi miếu luôn có người chăm giữ.
Không bao giờ tắt đèn dầu, không bao giờ thiếu làn hương khói nghi ngút bay lên. Bởi giờ đây, nó không chỉ là nơi yên nghỉ của người con trai xấu số kia, mà còn là “tạm trú” của rất nhiều vong hồn những nạn nhân xấu số vì tai nạn giao thông khu vực ngã tư “nuốt người” này.
Có thể nói, ngã tư Vũng Tàu là điểm nóng về tai nạn giao thông của tỉnh Đồng Nai và của cả nước. Nói về vấn đề này, một cán bộ CSGT đang làm nhiệm vụ khu vực này cho biết: “Đây là khu vực nhạy cảm về giao thông của địa bàn tỉnh Đồng Nai. Nếu tính trung bình, mỗi tháng có ít nhất 7 – 10 vụ tai nạn giao thông xảy ra, trong đó, có những vụ gây chết người. Gần đây nhất, tháng 11/2014, chỉ trong một ngày đã có tới hai vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng diễn ra làm chết hai người”.
Dù không nói ra, nhưng trong quan niệm của người Việt, những người chết đường như thế thường không được đưa về nhà. Cũng theo quan niệm của nhiều người, vong hồn những nạn nhân trong những vụ tai nạn đó thường lởn vởn những nơi đó. Họ không biết làm sao để tìm đường về nhà cả. Bởi thế, những người không may mắn “nằm xuống” ở ngã tư thường được người nhà thắp nhang và gửi lại Miếu Bà Quan Âm này.
Tấp nập người dân thắp nhang xin đi đường bình an
Những ngày giữa tháng Chạp năm Giáp Ngọ (2014), chúng tôi có dịp ghé thăm ngôi miếu nay. Theo quan sát ghi nhận, ngôi miếu có hình dáng, cấu trúc rất đơn giản: một tượng bà Quan Âm với chiều cao gần 3 mét. Một ngôi miếu cao chừng khoảng 2 mét. Phía sau lưng tượng Phật Bà Quan Âm là bàn thờ ông địa và rất nhiều hũ nhang tượng trưng cho mỗi nạn nhân trong các vụ tai nạn đã tử vong. Tổng diện tích của ngôi miếu chỉ vỏn vẹn khoảng 20m2. Thế nhưng, từ rất sớm đã có rất nhiều người đến đây thắp nhang, cúng bái.
Là một người từng có 15 năm trông giữ, dọn dẹp ngôi miếu, anh Bùi Văn Rồng (39 tuổi, quê Thái Bình) chia sẻ với chúng tôi: “Người dân đến đây thắp nhang thuộc đủ mọi thành phần. Tuy nhiên, những ngày đầu tháng hay ngày rằm thì dân địa phương đến nhiều. Còn những ngày bình thường, phần lớn họ là người thân của những người đã không may bị tai nạn ở khu vực này”.
Anh Bùi Văn Rồng, người đã trông coi, dọn dẹp ngôi miếu 15 năm.
Anh Rồng là một người quê ở Thái Bình. Trước đây anh từng làm đủ mọi nghề sinh sống ở thành phố Hồ Chí Minh. Thế nhưng, cách đây 15 năm, trong một tai nạn nghề nghiệp, anh đã bỏ nghề và từ đó chuyển về ngôi miếu này làm công tác dọn dẹp vệ sinh, chăm lo hương khói, dầu đèn để bà con có nơi cúng bái trang nghiêm.
Anh tâm sự: “Tôi không phải là người định cư ở đây và cũng không mong điều đó. Tuy nhiên, trong một lần đi ngang qua, thấy ngôi miếu này nhiều người đến hương khói nhưng lại quá bề bộn. Trong thời gian đó, tôi lại vướng phải chuyện buồn gia đình, công việc, bởi thế, tôi đã chuyển đến đây và ngày hai buổi thay hương, châm dầu đèn và dọn dẹp ở ngôi miếu này”.
Anh cũng chia sẻ thêm, trong suốt 15 năm trông giữ, anh nằm ngủ luôn trên nền ngôi miếu. Những lúc trời mưa gió, anh lại chuyển nơi ở đến chân cầu vượt bên đường. Cuộc sống của người đàn ông cứ thế lặng lẽ trôi từ 15 năm nay. Anh cũng cho biết, ra Giêng, anh sẽ không còn trông coi ở đây nữa mà sẽ đi kiếm việc ở công ty làm, để lo cuộc sống của mình. Anh sẽ chỉ ra đây thay hương nến, đèn dầu khi có thời gian rảnh, ngoài công việc mà thôi.
Về cuộc sống thường ngày trong những năm trông coi ngôi miếu, anh chia sẻ: “Thú thật nói về tiền cúng bái thì không hề có. Năm ngàn, ba ngàn chỉ đủ lo đèn dầu, hương khói ở đây mà thôi. Khi người dân đến cúng, thắp nhang, người ta mang theo rất nhiều hoa để cắm ở tượng và miếu.
Bên cạnh đó, trái cây để cúng thì tôi ăn không hết. Đó là sự thật. Nhưng trái cây thì không thể ăn để trừ bữa được. Tôi lại gọi những người xe ôm, những người bán vé số đến chia sẻ với họ. Còn chuyện cơm nước, mỗi khi đói, tôi lại ghé vào ngôi chùa phía trong để xin cơm chay ăn”.
Cũng theo anh, trong thời gian dọn dẹp ở đây, những tưởng ở đây dễ kiếm tiền, có lúc bọn “giang hồ nhí” kéo đến kiếm chuyện. Thế nhưng tiền bạc đâu ra ở ngôi miếu nhỏ xíu này. Công việc làm ở cái tâm của mình thôi. Biết không kiếm được gì, rồi bọn chúng cũng kiếm đường rút. Còn những người làm công tác an ninh trật tự, biết anh hiền lành, chỉ ở đây ngày hai buổi thay nhang nến, dọn dẹp ngôi miếu nên cũng chẳng nói năng gì.
Tiếp tục câu chuyện về ngôi miếu, anh Rồng trầm tư chia sẻ: “Chuyện tâm linh tôi không bàn đến. Thế nhưng, sự thật là hằng ngày có rất nhiều người đến đây thắp nhang cho những người đã khuất vì tai nạn, và cũng có rất nhiều người đến đây để xin đi đường được bình an. Cứ trước lúc đi công tác xa, hay công việc đòi hỏi phải chạy xe đường dài, người ta lại ra đây cầu ơn. Không chỉ đi một mình, người ta còn đem cả con cháu đi cùng nữa”.
Chia sẻ về vấn đề này, một cán bộ CSGT, người thường xuyên làm nhiệm vụ tại ngã tư Vũng Tàu, cho hay: “Vì thường xuyên túc trực chốt ở đây, nên tôi xác nhận có rất nhiều người hằng đêm đến ngôi miếu này thắp nhang, cúng bái. Cũng nghe bảo người ta đến thắp nhang cho vong hồn những nạn nhân không may tử vong vì tai nạn ở khu vực này.
Còn về chuyện nhiều người thắp nhang để xin đi đường được bình an, tôi nghĩ, khi họ đã có xin như vậy là họ đã ý thức khi tham gia giao thông rồi. Và nếu họ được an toàn khi tham gia giao thông với tâm thức như vậy cũng là điều tất yếu mà thôi”.
Thành Giáp
http://static.cand.com.vn/Files/Imag...8_cau137-1.jpg
http://static.cand.com.vn/Files/Imag...8_cau137-2.jpg
http://cstc.cand.com.vn/Phong-su-Tie...-thong-344154/
-