-
https://www.youtube.com/watch?v=eK4iVhim6vk
Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp - Tịnh Biên,An Giang (có phụ đề)
6,559 views
14
0
SHARE
Tâm Nguyệt
Published on May 23, 2016
SUBSCRIBE 1.8K
Subscribe Subscribed Unsubscribe
Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp, tọa lạc tại thị trấn Nhà Bàng, thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Ngôi miễu do Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên, 1807 - 1856) và các tín đồ dựng lên giữa thế kỷ 19, để cho người dân đi khai hoang có nơi thờ cúng, thỏa mãn nhu cầu tính ngưỡng tâm linh.
Trước miễu lúc ấy là một bàu nước ngọt thiên nhiên rất lớn, quanh năm không bao giờ cạn. Trên mặt bàu là những dây mướp rừng chằng chịt, nên người dân gọi là Bàu Mướp và tên gọi miễu Bà Chúa xứ Bàu Mướp ra đời cách nay trên 160 năm.
Ngôi chính điện thờ Thánh Mẫu Tiên Nương (tiền thân là ngôi miễu ngày xưa). Thánh Mẫu này (mà người dân quen gọi là Bà Chúa Xứ Bàu Mướp) là một nữ thần có quyền năng cai quản xứ sở, theo tục thờ cúng của người dân Nam Bộ.
Ngày 16 tháng 10 năm 2012, UBND tỉnh An Giang đã ra Quyết định số 1814/QĐ-UBND công nhận Miễu Bà Chúa Xứ Bàu Mướp là di tích "lịch sử và danh lam thắng cảnh" cấp tỉnh.
Hàng năm, Lễ hội vía Bà Chúa xứ Bàu Mướp diễn ra từ ngày 19 đến 21 tháng tư âm lịch
-
Tìm hiểu tín ngưỡng dân gian trong đời sống cộng đồng cư dân Khánh Hòa
Khánh Hòa là vùng đất được hình thành gắn liền với công cuộc khai hoang lập ấp của người Việt theo đoàn quân Nam tiến vào vùng đất Nam Bộ. Nguồn gốc hình thành cư dân Khánh Hòa là những tầng lớp cư dân Đàng Ngoài, vốn là nông dân bị khánh kiệt về ruộng đất, những người bị lưu đày, bị chính quyền phong kiến truy bức, những tù binh chiến tranh, những thương gia bị phá sản và những lưu dân người Hoa… về đây đứng chân, định cư.
Là một cộng đồng cư dân có nhiều dân tộc sinh sống bằng nhiều loại hình kinh tế khác nhau nên đời sống tâm linh, tôn giáo của cư dân Khánh Hòa cũng rất phong phú và đa dạng. Ngoài sự tồn tại của các tôn giáo lớn, phần lớn nhân dân còn duy trì các tín ngưỡng dân gian, lễ nghi dân tộc. Tôn giáo, tín ngưỡng có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân nơi đây, nó ảnh hưởng và chi phối tập quán, cũng như lối sống của từng thành phần dân cư.
Trên vùng đất mới của buổi đầu lập ấp “Dưới sông cá lội, trên giồng cọp um”, bởi rừng thiêng nước độc “con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”, người nông dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ “Chèo ghe sợ sấu cắn chưn; Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma”. Những ngày đầu khai phá thiếu cả công cụ, phương tiện lao động vì thế tôn giáo, tín ngưỡng như một nhu cầu lớn lao, là chỗ dựa về mặt tinh thần không thể thiếu để chống chọi lại bao tai ách, biến động của tự nhiên và xã hội. Con người luôn quan niệm rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” vì vậy về mặt tâm linh có một ý nghĩa đặc biệt cho sự tồn tại và mở mang vùng đất mới. Để đáp ứng nhu cầu đó “không chỉ tin đến những tín ngưỡng tôn giáo vốn có mà họ còn tìm cách tự tạo cho mình những dạng thức tôn giáo mới”[1], từ đó hình thành nên những dạng thức tín ngưỡng dân gian với những nét riêng biệt.
Do quá trình tụ cư khác nhau, với nhiều thành phần dân tộc (Kinh, Hoa, Chăm, Raglay, Gié T’riêng…) từ nhiều nguồn gốc khác nhau nên cư dân ở Khánh Hòa bên cạnh hệ thống tín ngưỡng truyền thống mang từ quê cũ vào thì họ cũng đã tự tạo cho mình một đời sống tâm linh mới hỗn dung giữa màu sắc bản địa và màu sắc ngoại lai “Văn hóa của cư dân vùng đất mới, dù là của dân tộc nào, cũng đều là sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa trong tiềm thức, trong dòng máu và điều kiện tự nhiên, lịch sử của vùng đất mới. Nó phát triển trong điều kiện cách xa vùng đất cội nguồn cả về không gian và thời gian”[2].
Đối với người dân Khánh Hòa, tín ngưỡng dân gian lúc nào cũng như hình với bóng, ngự trị trong cuộc sống, từ lúc sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời. Hiện nay, có nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau ở Khánh Hòa, tuy nhiên qua quá trình tiếp biến và hội nhập của các dân tộc đã tạo nên những giá trị văn hóa đồng nhất nhưng chính trong sự đồng nhất đó đã khẳng định đặc tính tâm linh riêng của mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa. Có thể thấy nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng dân gian ở Khánh Hòa gồm các loại hình sau:
1. Tín ngưỡng thờ cúng tại gia đình
- Thờ cúng tổ tiên. Đây là truyền thống lâu đời, một nét đẹp văn hóa trong đời sống tâm linh của người phương Đông. Từ lâu, họ cho rằng người chết thể xác sẽ hóa thân vào vũ trụ nhưng linh hồn vẫn tồn tại nhớ về nơi ở cũ, vì vậy bổn phận con cháu phải luôn phụng sự, tưởng nhớ linh hồn, để ông bà phù trợ cho con cháu cuộc sống yên ổn, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.
“Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”
Thờ cúng tổ tiên, ông bà được xem là đạo lý làm người quan trọng đến mức có người cho là “đạo” (tôn giáo). Hiện nay ở Khánh Hòa, những gia đình theo đạo Phật hay không theo đạo thường đặt bàn thờ tổ tiên ở chính giữa, nơi trang trọng nhất của ngôi nhà. Tùy vào hoàn cảnh của mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên được bài trí khác nhau, thường là một bệ xi măng đúc, hoặc tủ gỗ, trên bàn thờ có chân dung người đã khuất, bát nhang, bình hoa, đèn, gia đình khá giả thì có thêm lư đồng. Ngày nay, việc thờ cúng ông bà, tổ tiên được phục hồi và phát triển mạnh, nhất là đối với những người càng lớn tuổi. Người trẻ hiện nay trọng ngày giỗ ông bà, xem như thước đo của lòng hiếu thảo, đoàn tụ, giữ gìn dòng họ. Ai cũng có thể đứng ra tổ chức cúng giỗ cho ông bà, không phân biệt trai hay gái, không nhất thiết chỉ có con trai trưởng. Có những gia đình, con trai không chỉ thờ cúng cha, mẹ đẻ mà còn thờ cúng cả cha, mẹ vợ. Bên cạnh bàn thờ tổ tiên, tùy thuộc vào đối tượng theo tôn giáo nào thì có bàn thờ tôn giáo riêng[3].
- Thờ các vị thần bảo gia được phối tự thờ cúng ở gia đình và cộng đồng. Đối với người Việt, thờ ông bà ở gia đình là việc chính, được đặt ở giữa nhà, giữa trang thờ, nói lên ước vọng chính của gia đình. Các thần phụ như thần Quan Công, Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Âm, Linh Sơn Thánh Mẫu, thần Đất… sẽ bổ sung thêm những ước vọng khác của gia chủ. Thần Trời, thần Mặt Trăng, thần các Vì Sao, ông thần Sấm bà thần Sét, ông thần Bão bà thần Gió Lốc, thần Rẫy, thần Bắp Lúa, thần Tổ sinh Chăn nuôi… là những vị thần gia bảo trong tín ngưỡng của người Raglay và một số dân tộc thiểu số khác ở Khánh Hòa. Các thần bảo gia thường che chở cho gia chủ tránh khỏi sự phá rối của ma quỷ, ác thần, các rủi ro “có kiêng có lành, có cầu có ứng” và cầu điều tốt lành cho gia đình.
- Thờ cúng tổ nghề nghiệp là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, thể hiện sự biết ơn những vị sáng lập, mở mang tri thức ngành nghề cho người dân, thể hiện tinh thần “tôn sư trọng đạo” đối với vị khai Sư. Tổ nghề còn gọi là Tổ sư, Thánh sư, Nghệ sư, là người phát minh, sáng lập, gây dựng nên một nghề (thường là nghề thủ công mỹ nghệ) hoặc là người thứ nhất đem nghề từ nơi khác truyền lại cho dân chúng trong một làng hay một miền nào đó, được đời sau tôn thờ như bậc thánh. Các vị thần tổ nghiệp thường được nhân dân thờ cúng có nguồn gốc từ Trung Quốc như Bà Nữ Oa (Cửu Thiên Huyền Nữ), thần Lỗ Bang, Thái thượng Lão quân…; các vị tổ nghiệp Việt Nam như Nguyễn Diệu – tổ nghề dệt (người Thanh Hóa), Lê Công Hành – tổ nghề thêu (tên thật Trần Quốc Khái, người Hà Tây), Nguyễn Minh Không (Dương Không Lộ, người Thanh Hóa) – tổ nghề đúc đồng, tổ nghề gốm xứ là Hứa Vĩnh Kiều, Đào Trí Tiến, Lưu Phong Phú, Lê Hữu Trác, người Hưng Yên – tổ sư ngành y học dân tộc Việt Nam… Ngoài ra, ở Việt Nam còn có những tổ sư ngành nghề ở các địa phương khác nhau vẫn được người dân thờ phụng một cách tôn kính.
Hàng năm có một ngày giỗ tổ sư là tổ nghề nghiệp. Người cùng nghề thường tập trung ở đền thờ chung hay ở cơ sở sản xuất, gia đình… bày bàn làm giỗ. Việc thờ cúng mang ý nghĩa nhớ ơn người khai sáng ra nghề nghiệp, đồng thời cầu xin tổ nghiệp phù hộ tay nghề ngày càng dày dặn, đông khách hàng.
- Thờ các danh nhân, anh hùng lịch sử, liệt sỹ cách mạng là một nét đẹp văn hóa dân tộc, vừa là đạo lý truyền thống của người phương Đông “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, nhớ công ơn của những người đã chiến đấu, hy sinh trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước qua các thời kỳ lịch sử, như: Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần Hưng Đạo.... Gần đây, việc thờ cúng Bác Hồ khá phổ biến nhiều nơi ở cơ sở thờ tự của các tôn giáo và riêng từng gia đình.
Bên cạnh đó, người dân Khánh Hòa còn nhiều bàn thờ khác trong gia đình như ông Địa, thần Tài, ông Táo, bàn Thiên (tín ngưỡng thờ trời đất). Hình ảnh ông Địa và ông thần Tài thường gắn liền với nhau, cả hai đều được thờ chung tại một trang thờ. Việc thờ cúng ông Địa và thần Tài của người dân đều mang một ý nghĩa chung là sự cầu xin phước lộc, mua bán thuận lợi của những người kinh doanh. Vì vậy, bàn thờ hai vị thần này thường phổ biến trong các gia đình làm kinh tế, kinh doanh, sản xuất hơn là trong những gia đình, những nơi nhân dân chuyên sản xuất nông nghiệp.
2. Tín ngưỡng thờ cúng tại đền, miếu, đình làng
Làng xã ở Khánh Hòa không mang tính khép kín như ở Bắc bộ với lũy tre xanh, cây đa, bến nước, sân đình (trong làng, ngoài đình), mà khung cảnh sống là “tiền viên hậu điền”, phía trước là vườn, phía sau là ruộng. Làng của người Nam bộ nói chung, Khánh Hòa nói riêng theo hướng mở, nhân dân cư trú theo tuyến, dọc theo hai bên bờ kênh rạch, trục lộ giao thông do đó không mang tính chất gắn kết mật thiết như các làng ở Bắc bộ. Từ những đặc điểm này mà có thể thấy đình làng ở đây cũng rất ít, không nhất thiết làng nào cũng có miếu thờ hay đình làng. Tùy thuộc vào tình cảm của nhân dân mà đình làng, đền miếu được xây dựng để thờ cúng, tưởng nhớ những người có công trong việc khai hoang lập ấp trong những ngày đầu mở cõi.
Theo bước chân của đoàn quân Nam tiến, những lưu dân người Việt đến vùng đất Khánh Hòa sớm nhất phải từ những năm nửa cuối thế kỉ XVII, tức sau năm 1653 khi chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cùng Cai cơ Hùng Lộc hầu lập ra hai phủ Thái Khang và Diên Ninh. Khi cư dân Việt đến vùng đất mới này thì người Chămpa bản địa nơi đây đã có tín ngưỡng và có tôn giáo của riêng mình: Bàlamôn giáo mà biến thái của nó là đạo Chăm Bàni thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva[4]. Cùng với quá trình khai hoang lập làng, quy dân lập ấp, những thiết chế văn hóa truyền thống của người Việt như đình, chùa cũng được xây dựng trên vùng đất mới. Trải qua hơn 350 năm với nhiều đổi thay, biến động, hiện nay Khánh Hòa còn khoảng trên 200 ngôi đình phân bố khắp nơi trong tỉnh. Những ngôi đình, miếu có thời gian xây dựng khác nhau, gắn liền với quá trình khai khẩn, mở mang bờ cõi và phát triển của cư dân người Việt khi đến vùng đất mới sinh sống. Quy mô và vật liệu xây dựng của các ngôi đình, miếu cũng khác nhau, nhưng hầu hết đều được xây dựng đơn giản, chủ yếu là chất liệu có sẵn trong vùng, được nhân dân đóng góp xây dựng.
Hầu hết các đình ở Khánh Hòa đều có miếu thờ ông Hổ để mong được phù trợ và yên thân làm ăn. Việc thờ thần Tổ nghề, Thánh sư, Tiên sư của một ngành nghề nào đó như: nghề mộc, nghề xây, nghề rèn, nghề làm muối, nghề chài lưới... cũng rất phổ biến ở các đình miếu. Được mọi người thành tâm vọng bái, nhắc nhở nhau không được quên nghề Tổ, nghĩa Tổ, các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa được nhân dân tôn kính như: Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần Hưng Đạo... Hàng năm vào mùa Xuân hay mùa Thu, lễ cúng đình ở Khánh Hòa cũng là ngày hội hè của các làng, xã với nghi thức cúng tế, rước lễ để tỏ rõ sự mong ước “quốc thái dân an – mưa thuận gió hòa – dân cư an lạc”, mong Thành hoàng che chở cho dân làng khỏe mạnh, bình an, kinh tế phát triển, đất nước phồn vinh.
- Thờ Thành hoàng Nông nghiệp là tục thờ cúng của cư dân nông nghiệp ở Khánh Hòa. Thành hoàng có thể là nhiên thần hoặc nhân thần. Nhiên thần như thần Cao Các. Thần có nguồn gốc từ Thanh Hóa. Dưới thờ vua Trần Thánh Tông (1240 - 1290), thần Cao Các linh ứng giúp vua đánh tan giặc Nguyên tại sông Lục Đầu, được vua phong tặng "Đương cảnh Thành hoàng Hiển ứng Anh hộ Quốc huy Cao Các, Đại minh Linh ứng Thượng đẳng Phúc thần Đại vương". Triều Trần ban sắc cho các nơi dựng miếu phụng thờ thần Cao Các ở các bến sông, cửa bể. Thánh Mẫu Thiên Y A Na là thần Mẹ thiêng liêng của các vị thần dân tộc Chăm. Dưới triều nhà Nguyễn, Bà được phong là “Hồng huệ Phổ tế Linh cảm Diệu thông thượng đẳng thần”. Thần Nông, có công dạy dân cày ruộng, trồng lúa, làm nhà mái bằng để tránh mưa nắng; Nhân thần là những người có công khai hoang, lập ấp, lập làng, hoặc một vị quan có công lao to lớn trong việc trông coi, xây dựng và phát triển một thôn, hoặc một xã "Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai cơ"; khi mất, dân lập đền thờ trong đình làng để thờ và gọi là Thành hoàng. Đối với nhân dân, thần Thành hoàng là vị thần bảo hộ chung cho cả làng “Thành hoàng Bổn cảnh”. Thần ngự trị tại đình làng phù hộ cho dân được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, xóm làng thịnh vượng. Người ăn ở hiền lương được thần độ trì, kẻ gian ác hung dữ sẽ bị trừng trị. Xét về mặt này thì thần Thành hoàng mang giá trị nhân văn, là vị thần hiện thân của kỷ cương, thưởng phạt phân minh.
- Thờ Thành hoàng Ngư nghiệp. Từ bao đời nay, ngư dân vùng biển Khánh Hòa có tục thờ ông Nam Hải - hiện thân của loài cá Voi có thân hình to lớn nhưng tính tình hiền hòa, thường cứu giúp ngư dân mỗi khi bị nạn. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã phong Cá Voi tước hiệu "Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng đẳng Thần". Các vua triều Nguyễn sau đó phong sắc cho cá voi với danh hiệu "Đại càng Quốc gia Nam Hải".
Càng tin vào sự giúp đỡ của Cá Voi, ngư dân tổ chức việc thờ cúng hết sức thành kính. Họ kiêng gọi Cá Voi mà gọi là Cá Ông hoặc Ông Nam Hải. Lăng thờ cúng gọi là lăng Ông. Kiến trúc của lăng Ông cơ bản mang dáng dấp một ngôi đình, vừa mang chức năng tín ngưỡng vừa mang chức năng thế tục. Lăng thường được xây gần sông, biển và quay mặt ra hướng Đông. Hàng năm vào mùa Xuân hoặc mùa Thu, ngư dân Khánh Hòa tiến hành nghi thức cúng ông Nam Hải – còn gọi là Lễ hội Cầu ngư, cầu thần Biển phù hộ độ trì cho sóng yên biển lặng và cho một vụ đánh bắt cá mới đầy bội thu. Họ tin rằng, lễ tế càng chu đáo bao nhiêu thì ân đức của ngài ban cho ngư dân (được mùa tôm cá, đời sống sung túc) càng nhiều bấy nhiêu.
Hiện nay, ở Khánh Hòa có 50 lăng Ông dọc theo các huyện, thị ven biển: Vạn Ninh (13 lăng), Ninh Hòa (15 lăng), thành phố Nha Trang (11 lăng), thị xã Cam Ranh (11 lăng), trong đó có 12 lăng phân bố trên các đảo. Mỗi xã, phường ven biển trong tỉnh thường có một lăng, có nơi có đến 2 – 4 lăng (nhiều thôn trong một xã), đặc biệt phường Vĩnh Nguyên có đến 6 lăng. Lăng Ông Thủy Tú hiện đang giữ bộ xương cá voi lớn nhất Đông Nam Á. Lăng Ông Cù Lao (phường Vĩnh Thọ) nằm trong cụm cơ sở tín ngưỡng dân gian gồm đình làng – ngôi tiền hiền – chùa làng – lăng Ông[5].
- Thờ cúng các nữ thần. Đây là tín ngưỡng Mẫu hệ có từ xa xưa. Có thần được mang theo từ phương Bắc như Liễu Hạnh, Chúa Kho… Người Việt còn tiếp thu thần của các cư dân Khmer, Chăm, Hoa… làm cho việc thờ cúng phổ biến và phong phú hơn: Bà chúa Xứ, Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Thiên Hậu, Thất Tinh nương nương, 12 bà Mụ, Ngũ Hành… Nam cũng như nữ giới thường hâm mộ những thần phù hợp với tuổi sinh của mình, ước vọng của mình.
- Thờ cúng cô hồn khá sớm và phổ biến, biểu thị lòng thương xót của người dân đối với những người chết trong cô quạnh, tha phương, chết bất đắc kỳ tử. Người ta tin rằng cô hồn thường phá khách, quấy phá nên phải thờ cúng. Gần đây, tình trạng tai nạn giao thông có chiều hướng gia tăng, người chết thường nhiều, nơi thường hay xảy ra chết người như ở ngã ba, ngã tư, những đoạn đèo, khúc cua quẹo… Tuy là trang thờ nhỏ bên đường nhưng người dân trong ven đường, khách bộ hành, các lái xe, hành khách có dịp qua thường nhang khói cúng vái, cầu an toàn.
***
Tín ngưỡng dân gian là một trong những thành phần tạo nên bản sắc văn hóa của các dân tộc ở Khánh Hòa. Những lễ nghi, phong tục, tâm linh, tín ngưỡng ảnh hưởng mật thiết đến đời sống hàng ngày của cộng đồng cư dân, nó phản ánh “niềm tin của con người vào một hiện tượng, sự vật ấy có tác động trở lại đối với cuộc sống của mỗi người và cộng đồng”[6]. Bằng lòng tin tín ngưỡng, con người luôn hướng đến cái thiện, thể hiện lòng biết ơn, tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên, vị thành hoàng, tổ nghiệp, đồng thời đề cao chủ nghĩa nhân đạo làm phong phú thêm đời sống tinh thần của mình. Tín ngưỡng dân gian đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, là thành tố kết dính với truyền thống văn hóa của cộng đồng cư dân lại với nhau, góp phần làm cho nền văn hóa dân tộc thêm phong phú, đa dạng.
Ths Nguyễn Duy Trường
Ban Tôn giáo tỉnh Khánh Hòa
[1] PGS.TS Phan An, Vài suy nghĩ về tôn giáo Nam Bộ. Trong: Nam Bộ đất và người (tập 4), Nxb. Trẻ, TPHCM, 2006, trang 135.
[2] Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, trang 271.
[3] Theo thống kê năm 2008, số lượng tín đồ theo 5 tôn giáo lớn ở Khánh Hòa là: Phật giáo 205.235 người, Phật giáo Hòa Hảo: 258 người, Cao Đài: trên 7.000 người, Công giáo: 114.566 người, Tin lành: 14.421 người.
[4] Địa chí Khánh Hòa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, trang 379, 380.
[5] Nguồn: http://www.vae.org.vn
[6] Lê Như Hoa, Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001, trang 323.
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1615/
-
https://www.youtube.com/watch?v=Jg3VRoGoi7w
Làm Được Điều Này Bạn Tạo Phước Cực Kỳ Lớn... GIÀU CÓ MAY MẮN Tự Tìm Đến - Lời Phật Dạy Rất Hay
-
https://www.youtube.com/watch?v=PPGMxBtKKHw
Chùa Đèn Cầy kỉ niệm 21 năm ngày thành lập - vía mẹ Quan Âm xuất gia (phần II).
-
LỄ HỘI
Nên chăng tái thiết đàn âm hồn và tổ chức lễ tế âm hồn 23.5 ở quy mô thành phố?
15:18 | 05/07/2010
NGUYỄN PHÚC VĨNH BASau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở qui mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Nên chăng tái thiết đàn âm hồn và tổ chức lễ tế âm hồn 23.5 ở quy mô thành phố?
Ngoài đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, kinh thành Huế ngày xưa còn có một ngôi đàn nữa: Đàn Âm Hồn, hiện nay ở số 73-75 đường Ông Ích Khiêm, phường Thuận Hòa Huế. Đàn này được xây dựng xuất phát từ biến cố Thất thủ Kinh đô 23.5.1885 (Ất Dậu).
Biến cố Thất thủ Kinh đô 23.5 Ất Dậu đã để lại một vết thương trên tâm khảm người dân Huế qua nhiều thế hệ. Đó là một cuộc quật khởi anh hùng và đẫm máu nhằm lật đổ ách thực dân của đế quốc Pháp, giành lại chủ quyền độc lập cho đất nước và dân tộc. Đó cũng là một thất bại đau thương tang tóc như đã được mô tả lại trong nhiều sách vở và nhất là bài vè Thất thủ Kinh đô.
Sau biến cố này, nhân dân kinh thành Huế, kể cả các vùng phụ cận, hằng năm đã tổ chức lễ cúng cô hồn cho các người đã tử vong rất trịnh trọng. Lễ tế này còn gọi là Bữa quảy cơm chung hay lễ truy điệu Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong năm Ất Dậu.
Gửi
Gửi
Miễu Âm Hồn tại ngả tư đường Lê Thánh Tông và
Mai Thúc Loan, T.P Huế. (Ảnh TL của tác giả N.P.V.B)
Năm 1894, dưới đời vua Thành Thái, một vị vua có tinh thần yêu nước và kháng Pháp, triều đình Huế mới chính thức lập Đàn Âm Hồn lộ thiên trên một diện tích gần 1500m2 ở phường Huệ An, (nguyên là trại lính Thần cơ) gần cửa Nhà Đồ (cửa Chính Nam) để tế lễ hằng năm. Lễ này do Ty Lý Thiện phụ trách và quan Đề đốc hộ thành đứng chủ lễ. Dầu rõ ràng trên danh nghĩa Đàn này là để cúng các cô hồn phiêu bạt hầu tránh sự quấy nhiễu và dịch bệnh, việc tế lễ này là sự ngấm ngầm tôn vinh các chiến sĩ trận vong và cổ vũ cho công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp thời ấy.
Nay việc tái hiện lễ tế Âm Hồn này có tính khả thi cao vì những lí do sau:
1. Về mặt ý nghĩa:
- Bày tỏ tinh thần bất khuất, truyền thống chống ngoại xâm bảo vệ độc lập Tổ quốc.
- Bày tỏ lòng biết ơn và tôn kính đối với các liệt sĩ đã hy sinh cho chính nghĩa bảo vệ Tổ quốc.
- Bày tỏ tình nghĩa sâu xa đậm đà của bà con láng giềng hôm sớm có nhau.
- Giáo dục thế hệ sau học tập và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp đó.
- Giữ gìn một hình thức lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc, một phong tục có tính nhân bản đã phổ biến trong cộng đồng cư dân Huế.
- Công nhận một hoạt động tâm linh đặc trưng của người dân Việt.
- Tạo thêm một địa chỉ du lịch gắn liền với lịch sử xứ Huế.
2. Về mặt tài chánh:
Tái thiết đàn Âm Hồn tốn kém không cao vì kết cấu giản dị, địa điểm có sẵn dẫu đã bị lấn chiếm khá nhiều. Khả năng thu hồi là có thể thực hiện. Kinh phí cho việc tái thiết Đàn này không hơn một nhà thờ họ hay một tư thất hiện đại cỡ 2, 3 tầng. Việc tổ chức lễ tế cũng giản dị hơn là tế Nam Giao hay tế Xã Tắc.
Mong rằng trong một ngày gần đây, thành phố chúng ta có thêm một hoạt động lễ hội hợp lòng dân và hợp xu hướng bảo tồn bản sắc văn hóa của Đảng và nhà nước.
Sau đây là Văn tế (thử đềnghị) để phục vụ cho lễ tế này:
Văn tế Âm hồn Thất thủ kinh đô (23.5. Ất Dậu)
Than ôi!
Tim óc bùi ngùi,
Ruột gan tê tái.
Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây,
Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hoả tứ thời ngát mãi.
Nhớ Ất Dậu Kinh thành thất thủ, đám sanh linh phải bao nỗi thương vong,
Nay Mậu Tý Thuận Hoá thanh bình, phường tử đệ vẫn một niềm ái ngại.
Dẫu biết lẽ tử qui sinh ký, đời ngắn tấc gang,
Nhưng xét hồi quốc phá thân vong, nghĩa dài sông núi.
Phận cháu chắt tháng ngày nhớ tưởng, lòng kính yêu dễ mấy nguôi khuây,
Tình bà con hôm sớm quẩn quanh, bụng nuối tiếc khó mà bỏ trái.
Trước thưa sau gởi, đỉnh trầm kỳ hương khói vọng tiền nhân,
Xưa bày nay làm, lễ truy điệu cỗ bàn hầu trưởng bối.
Nhớ linh xưa:
Năng nổ tháng ngày;
Dịu dàng sớm tối
Ham việc ham công, ham đồng ham ruộng, trai cuốc cày gắng sức chăm lo,
Vui vườn vui tược, vui cửa vui nhà, gái bếp núc hết lòng vun xới.
Có đâu ngỡ nước nhà cơn hoạn nạn, lũ Tây dương qua lấn chiếm giang sơn,
Không may thay làng xóm trận can qua, đất Nam quốc hẹp thu dần biên giới.
Ách thực dân đè cổ, ngẩng cổ lên nào thấy trời mây,
Xiềng đô hộ tròng đầu, cúi đầu xuống chỉ là đá sỏi.
Thân mấy mà cam,
Lòng đâu chịu nỗi.
Từ nam chí bắc, mấy lớp nghĩa binh thua trận, quân Văn thân vẫn quyết chí chẳng lùi,
Trong phủ ngoài triều, bao viên mãnh tướng bỏ mình, lính Phấn nghĩa chẳng nề tâm xông tới.
Rựa sắt kiếm cùn, hoả mai con cúi, giết được thù cho thoả dạ hiếu trung,
Dao tu mã tấu, gậy gỗ tầm vông, phá tan giặc là mát lòng địch khái.
Vua nước mất phẫn uất đời nô lệ, họp mưu thần lập kế phản công,
Dân nhà tan thù hận kiếp tôi đòi, kết nghĩa đảng hợp đoàn quật khởi.
Đêm Hăm hai súng thần công nã Chánh toà Khâm sứ, bẽ bàng thay thuốc yếu rơi ngang,
Rạng Hai ba quân hoả dược đốt Tiểu trấn Bình Đài(1), oái ăm thật lửa tàn tắt vội.
Lang sa lê dương(2) xung phong vô Thượng Tứ(3), săng-đá giày(4) dẫm nát mù u,
Mã tà ma ní(5) đột nhập vượt Lương Y(6), bụp-xoà súng(7) bắn tiêu cai đội.
Bàng hoàng quá, vua xuất cung tị loạn, đa đoan văn võ quân thần,
Hoảng hốt thay, dân tẩu lộ cầu sinh, lộn xộn lão nhi phường hội.
Thảm ơi hỡi thảm!
Thành cửa nhỏ đâu dễ chen,
Hào đáy sâu sao khó lội.
Dân tan tác như ong vỡ tổ, đạp lên nhau già trẻ chết chùm,
Binh tán loạn tựa rắn mất đầu, dìu với chắc thấp cao bước mỏi.
Ơi ới, mẹ hú con chồng kêu vợ, thảm thiết sao tiếng khóc bi ai,
Hù hu, em dắt chị cháu níu ông, bi thương thật lời than khắc khoải.
Sáng đã chết, mù(8) càng mau chết, đâm bổ xuống hào,
Nghèo thiệt thân, giàu cũng thiệt thân, té nhào mép hói.
Tên bay đạn lạc, súng thằng Tây tìm kẻ ngây thơ,
Lê thọc kiếm đâm, thịt dân Việt làm mồi lang sói.
Thây nghĩa sĩ ngổn ngang đường Thành Nội, dồn đống xóm Âm hồn,
Máu lương dân vung vãi cửa Đông Ba, xông tanh cầu Gia Hội.
Ngao ngán thay!
Tay cung kiếm mà đền nợ nước, đành ngàn sau công trạng lừng vang,
Phận rác rơm lại bỏ thân tàn, khổ một kiếp tử thi rửa thối.
Nào gái nào trai, nào già nào trẻ, xác chất chồng xóm vắng làng thưa,
Ấy non ấy khoẻ, ấy mẻ ấy lành, xương vất vưởng nắng phơi mưa gội.
Thôi thôi chi nhiều kể lể, chốn tuyền đài linh hãy đến mau mau,
Thảm thảm ôi mấy oán than, cuộc siêu thoát hồn trông sao hối hối.
Man mác đám mây chiều phiêu dạt, người dương gian thêm chạnh nỗi hàn ôn,
Lạnh lành cơn gió chướng hắt hiu, khách âm cảnh còn vương tình trần giới.
Nay kính dâng,
Bát cháo thánh hầu ấm thân cô độc, trên đường xa mù mịt bốn phương,
Tấm áo binh đỡ lạnh gót lạc loài, giữa lối thẳm âm u chín suối.
Nước chè nhạt cũng tình quyến luyến, khát vơi dần miệng kẻ thác oan,
Củ khoai cằn ấy nghĩa thân quen, no đôi chút bụng người chết tủi.
Bông chuối cau trầu đủ thứ, lỡ khi cùng không thiếu vật tuỳ thân,
Giấy tiền vàng bạc sót chi, gặp lúc ngặt có thừa đồ trao đổi.
Tội sớm tha, công thưởng lớn, nguyện cầu vía yên hàn vượt thoát, đêm âm ty ám ám lưới sương giăng,
Oan thì giải, nghiệp trả dần, cầu khấn hồn thanh thản ra đi, chiều dương thế mù mù luồng khói nổi.
Đốt nén nhang ngan ngát, mặc ngậm ngùi xin chớ ngó lui,
Vẫy chén rượu thơm tho, dù ấm ức hãy mau bước tới.
Tâm thành lễ bạc, bàn phẩm vật trên dưới sơ sài,
Ngôn thiểu ý đa, câu ai điếu ngắn dài vụng dại.
Ai tai!
Hồn có hiển linh;
Niệm tình thụ bái.
Tháng 4/2008
N.P.V.B
(257/7-10)
---------
1. Tiểu trấn Bình Đài: Đồn Mang Cá nhỏ, nơi lính Tây đóng quân.
2. Lang sa lê dương: Quân viễn chinh Pháp.
3. Thượng Tứ: Cửa thành Đông Nam dẫn vào khu Tam toà và trường Quốc tử giám kế cận với Đại Nội Huế.
4. Giày săng-đá: Giày da của lính Pháp
5. Mã tà ma ní: Lính cảnh sát Pháp người Phi luật tân, có thể chỉ chung bọn lính đánh thuê của Pháp.
6. Lương Y: Một cống nhỏ trên đường dọc bờ thành dẫn tới cửa Đông Ba (cửa Chánh Đông).
7. Súng bụp xoà: Súng bắn phát một, nghe ra “cắc bụp cắc xoà” của lính Pháp.
8. Ở Cầu Kho có một xóm thầy bói mù, khi chạy loạn rớt xuống hồ ao, chết rất nhiều.
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tu...thanh-pho.html
-
CHÙA MIỄU XÃ ĐỒNG MINH
Chùa Miễu tên chữ là Linh Miếu Tự là ngôi chùa nằm trong quần thể di tích làng nghề tạc tượng Bảo Hà, nơi lưu giữ những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật độc đáo do chính các nghệ nhân trong làng tạo tác. Đây là ngôi chùa cổ kính, cảnh đẹp thanh bình. Tương truyền chùa được xây dựng từ đời Trần do Đô đốc quận công Hoa Duy Thành cùng một vị quan đại phu người cùng làng xây dựng.
Trước kia, chùa thuộc xã Linh Động, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Nay là thôn Bảo Hà xã Đồng Minh. Chùa nằm biệt lập giữa cánh đồng làng, có vị thế khá đẹp. Sau chùa là con mương lớn, nhánh của sông Vĩnh Trinh xưa. Trước chùa, chếch hướng đông nam là Đống núi, một gò đất cao được trồng rất nhiều phi lao, quanh năm vi vu gió thổi. Kể từ khi khởi dựng đến nay, chùa luôn được nhân dân địa phương cùng các vị sư trủ trì tu bổ, tôn tạo. Lần đại tu gần nhất vào thời Bảo Đại gồm 7 gian Tam bảo, 5 gian Hậu cung, Trai phòng và 5 gian nhà khách. Tháp chuông chùa cao tới 20m được xây theo kiểu chồng diêm nóc các. Rất tiếc tháp chuông đã bị giặc Pháp dỡ bỏ. Kiến trúc chùa hiện nay gồm toà tiền bái 5 gian, hậu cung 3 gian, nhà tổ 5 gian, nhà khách, giếng nước, ao cá,vườn cây và mộ tháp. Trong chùa còn giữ được 48 pho tượng phật, đều là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, niên đại trải dài từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Trong đó nổi tiếng có pho Đức Ông Cảnh Cừ cao 67cm. Tượng mặc áo pháp trùng nhiều lớp, tư thế ngồi khoanh chân, đầu đội mũ miện, vành mũ chạm nổi cúc mãn khai, hai tay để tự nhiên trên gối. Tượng Đại thiên vương (thế kỷ XVIII) cao 95cm, mặc triều phục có cân đai, trước ngực chạm rồng. Tay trái cầm thư, tay phải nắm tự nhiên đặt trên lòng đùi. Đầu đội mũ tỳ lư. Tượng Quan âm Chuẩn đề (thế kỷ XVIII) cao 70cm, tượng ngồi trên toà sen có 7 đôi tay. Đầu đội mũ thiên quan nhiều vành, tóc búi cao. Tay đeo khuyên dài tạo như bông hoa trước bờ vai. Toàn bộ hệ thống tượng trong chùa vô cùng đẹp, đậm tính nhân bản, hết sức chau chuốt, mộc mạc chứa đầy sức sống phản ánh rõ tài năng sáng tạo của những người thợ Bảo Hà, những nghệ sĩ tạo hình dân gian trong việc phản ánh hiện thực của xã hội bấy giờ như tượng Ngọc Hoàng, tượng Thánh Tăng, tượng A Di Đà, tượng Hộ Pháp...
Nhà tăng có tượng Đức Tổ và 12 vị sư trụ trì chùa. Đây là những tượng chân dung hết sức độc đáo, được tạc theo thế ngồi kiết già, ấn “tam muội”, kích thước gần giống người thật, vẻ mặt sinh động, nhân hậu, không nét xa cách và tất cả toát lên tính chất vì con người, vì cuộc sống tràn đầy trên trần gian.
Ngoài hệ thống tượng pháp, còn rất nhiều cổ vật khác như: bát hương đá (thế kỷ XVIII), chuông đồng (1823) cao 118cm, đường kính miệng 59cm, trên chuông đề 4 chữ “Linh miễu chung tự”, thân chuông khắc bài minh ca ngợi quê hương, 11 cây tháp cổ và 7 tấm bia đá (thời Lê)...là những di sản văn hoá vô giá chứng minh tầm vóc của chùa. Những tấm bia với nội dung rõ ràng bằng chữ Hán là nhân chứng về những lần trùng tu, tôn tạo chùa và ghi nhận công lao của vị Quận công cùng nhân dân cung tiến tiền của xây dựng, trùng tu Linh Miếu tự.
Đến thăm chùa Miễu, giữa cảnh sắc thiên nhiên tốt tươi, muôn vẻ, giữa không gian u tịch, lắng nghe tiếng kinh, tiếng kệ vang vọng chắc chắn du khách sẽ có những phút giây thật thoải mái, hồn quê, hồn nghề đọng mãi không thôi.
http://www.haiphong.gov.vn/Portal/De...ontentID=43110
-
Lễ hội cúng bà ở Miễu
Khám phá Lễ hội cúng bà ở Miễu Việt Nam
.
Nét đẹp Lễ hội cúng bà ở Miễu
Lễ hội cúng Bà ở mỗi miễu một khác, tùy vào ngày vía của mỗi Bà. Những ngày sóc, vọng, ngày Tết, ngày vía đất, các miễu Bà được mở cửa cúng một lễ nhỏ bằng nhang, đèn, bông, bánh trái. Ngày vía mới là lễ chính. Có nơi cúng thường niên như nhau, có nơi đáo lệ hai ba năm một lần.
Miễu Bà ở Đồng Nai, Bà được thờ là một tập hợp các nữ thần có nguồn gốc và lý lịch khác nhau, được thờ cúng ở miễu tùy theo tâm niệm của mỗi nơi, phổ biến là các Bà Ngũ Hành nương nương; Liễu Hạnh công chúa; Bà Chúa Thượng ngàn; Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương; Chúa Xứ nương nương, Linh sơn thánh mẫu; Thiên Hậu thánh mẫu; Thủy Long thần nữ, các nữ thần bổn địa…
Lễ cúng vía Bà thường vào ban đêm (thuộc âm) do Ban quý tế của làng đứng cúng hoặc có khi do tổ chức hội mẫu ở địa phương làm chủ lễ. Miễu thuộc hệ dân dã nên nghi thức cúng Bà không đúng khung theo khuôn phép điển lệ; cởi mở, sinh động hơn cúng đình. Tuy nhiên nhiều địa phương vẫn áp dụng nghi thức cúng đình trong cúng miễu.
Lễ vật cúng miễu đơn giản và cũng không nhiều kiêng kỵ như cúng đình. Bình thường thì: heo quay, heo luộc, mâm xôi, đèn nhang, bánh trái, nghèo hơn thì cúng gà, xôi, chè, heo thu gọn thành thủ vĩ, vịt quay… nói chung là tùy tâm, tùy sức. Dân làng thành tâm dâng cúng hoa, mâm vàng bạc, đồ trang sức… đều được miễn là lòng thành.
Việc bày trí điện thờ hết sức đơn giản: bát nhang, bình bông, chén nước, chân đèn… Nhiều nơi vật thờ còn có thêm: gương, lược, trâm cài, quạt và một vài món trang sức khác của nữ giới. Những miễu độc lập thường có thêm Tả ban, Hữu ban, Nhị vị công tử, Nhị vị công nương, cậu Chài, cậu Quới… Vì là thờ nữ thần cho nên án thờ dù nhỏ vẫn thường được trang hoàng sặc sỡ, có lộng che, rèm phủ.
Trước kia, rất ít miễu có cốt tượng, thường thờ đơn giản bằng chữ Hán vẽ trên tường hay dán trong khám thờ. Gần đây phát triển thờ cốt tượng bằng thạch cao, xi măng, gốm hoặc vẽ bằng tranh lồng kiếng cho nên các Bà đều đồng dạng, trang phục lộng lẫy như nhau, chỉ khác ở tên gọi. Riêng Bà Ngũ Hành là dễ nhận ra nhất với bộ cốt tượng đủ năm bà trong năm sắc áo khác nhau: xanh, đỏ, tím, vàng, lục với quan niệm cổ truyền rằng hành thổ màu vàng là trung tâm nên ngồi giữa.
Đêm trước ngày vía, tiến hành lễ thay áo cho Bà như lễ mộc dục phổ biến. Khi tiến hành lễ này, Chánh bái, Bồi tế lên nhang đèn khấn vái xin phép Bà, rồi lui ra. Các phụ nữ “sạch mình” đã chuẩn bị sẵn nước thơm (nước lá sả, hương nhu, bông bưởi), dùng khăn sạch nhúng nước thơm lau khắp các tượng Bà. Khăn lau Bà xong,vắt trả nước ra thau khác, cứ như thế cho đến khi sạch rồi thay cho Bà áo mới, áo cũ và khăn lau không được dùng việc khác, sau phải đốt.
Dự phần vào lễ hội cúng Bà phổ biến là Hát bóng rỗi, chặp Địa-Nàng, một loại hình nghệ thuật truyền thống phổ biến ở Biên Hòa - Đồng Nai.
Hát bóng rỗi, Chặp Địa-Nàng vừa mang tính nghi lễ (để cúng) vừa để giải trí, vui chơi trong lễ hội; đó là hình thức diễn xướng tổng hợp, gồm nhiều tiết mục liên hoàn, đồng thời cũng có thể phân chia thành các tổ hợp tiết mục tùy chọn. Hát bóng rỗi, Địa-Nàng ở Đồng Nai thường gồm các tiết mục: Khai tràng; Chầu mời-thỉnh tổ; Chặp Địa-Nàng; Hát bóng rỗi.
Mở đầu cuộc hát luôn là lễ Khai tràng nhằm mục đích khai mạc cuộc hát, do dàn nhạc bóng biểu diễn. Tiếp theo là các xấp hát Chầu mời-thỉnh tổ. Điệu hát vận dụng cả lý, vè, nói rỗi (nói lối) nhiều khi cả làn điệu tuồng. Sau Hát Chầu là diễn Chặp Địa-Nàng. Đây là Chặp bóng - tuồng hài hước thường gắn với lễ cúng miễu Bà hoặc miễu Thổ Địa. Cuộc hát chỉ có hai nhân vật là Địa và Nàng. Chặp Địa - Nàng vừa dứt, bóng múa liền tiếp theo. Bóng múa vừa mang tính nghi lễ vừa nhằm mục đích giải trí. Các bóng thay nhau múa bông, múa dâng mâm vàng rồi tiếp theo là các tiết mục tạp kỹ. Các tiết mục múa trò chơi, gọi là múa tạp kỹ dài - ngắn, nhiều ít tùy thuộc không khí cuộc vui; dân làng thưởng nhiều thì sự hào hứng khiến các bóng múa hay, khéo, tận tình hơn và ngược lại.
Các nữ thần được thờ tại miễu ở Đồng Nai phần lớn có nguồn gốc nữ thần biển, đánh dấu một hồi ức gắn với chặng đường gian lao hình thành các cộng đồng cư dânViệt ở Đồng Nai. Với một tập hợp nữ thần phức hệ như thế, Đồng Nai như là điểm hội tụ đồng thời cũng là nơi khuếch tán các hệ tín ngưỡng thờ nữ thần của miền Bắc, miền Trung, miền Tây, người Hoa và bổn địa. Tục thờ cúng nữ thần cũng cho thấy, cư dân Việt ở địa phương ít nhất cũng tìm được biểu tượng có ý nghĩa nhân bản hơn tư tưởng Nho giáo vốn xem thường phụ nữ.
http://wiki.youvivu.com/culture/le-h...ba-o-mieu.html
-
Đời sống Phương Bắc bó tay trước âm mưu trấn yểm Đường Lâm
By admin
14/02/2016, 11:12 chiều
Biết Đường Lâm là đất đế vương, nhiều long mạch, Cao Biền đã dùng pháp thuật trấn yểm nhưng thất bại vì vương khí vượng, linh thần mạnh.
Đường Lâm nức tiếng “đất hai Vua”, là nơi sinh ra hai vị anh hùng dân tộc: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (761 – 802), người có sức khoẻ phi thường, vật được hổ dữ, có công đánh đuổi quân Đường; và Ngô Quyền (898 – 944), người chỉ huy trận chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng, đánh tan quân xâm lược Nam Hán, giành độc lập cho đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc.
Ngôi làng nằm trên thế đất hình rồng
Làng Đường Lâm cổ (nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội) có tên nôm là Kẻ Mía. Tục danh này được bắt đầu từ một cái tên chữ: Cam Giá (Mía ngọt). Cam Giá xưa được chia thành hai tổng: Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ. Cam Giá Thượng là các xã thuộc miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng… (nay thuộc về huyện Ba Vì). Còn Cam Giá Hạ là xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây).
Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét: Đường Lâm là một địa danh có vị thế đắc địa theo thế “Tọa sơn vọng thủy” tức lưng tựa vào núi Tản (núi Ba Vì) – Núi Tổ của Việt Nam, mặt ngoảnh ra sông Hồng – sông Cái, sông Mẹ. Đây cũng là một “tứ giác nước” được bao bọc bởi sông Đà, sông Tích, sông Đáy và sông Hồng. Về phong thủy, cuốn “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” viết: Sơn Tây có 36 huyệt chính và 85 huyệt bàng. Riêng đất Đường Lâm có huyệt đế vương.
Xã Đường Lâm hiện gồm chín làng: Mông Phụ, Cam Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp, Đông Sàng, Hà Tân, Hưng Thịnh, Phụ Khang và Văn Miếu. Trong đó, trọng tâm của làng cổ Đường Lâm được định vị là làng Mông Phụ. Nhìn một cách tổng thể, làng Mông Phụ nằm trên thế đất hình con rồng: Đầu rồng chính là nơi tọa lạc của đình Mông Phụ, hai mắt là hai giếng cạnh đình, râu rồng toả ra các ngõ xóm, đuôi vắt về xóm Sải. Đình Mông Phụ được xây dựng vào năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông). Ngôi đình này mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Mường (có sàn gỗ) với những nét chạm khắc tinh tế có một không hai.
Ở Mông Phụ, mỗi xóm đều có một giếng mang tên của xóm. Giếng đào ở vùng đất đá ong nên mạch nước rất trong và mát. Các giếng xóm Hè, xóm Giang xưa kia nổi tiếng nước ngon đi vào tục ngữ: “Nước giếng Hè, chè Cam Lâm” hay “Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường”.
Tương truyền, hai giếng ở hai bên đình Mông Phụ là hai mắt của con rồng chột vì một giếng nước trong vắt còn giếng kia nước bị đục. Con rồng chột này lại tạo nên vị thế đắc địa cho đình Mông Phụ.
Nằm giữa ngã ba trung tâm của làng nhưng người đi ngược, về xuôi không ai quay lưng vào đình cả. Sân đình thấp so với mặt bằng xung quanh. Khi trời mưa nước chảy vào sân, theo hai cống tạo thành hình tượng hai râu rồng. Đây chính là dụng ý nghệ thuật đầy chất lãng mạn của các kiến trúc sư cổ.
Mắt rồng thứ nhất xác định là giếng đình Mông Phụ. Ở hướng Tây đình Mông Phụ có một giếng đá ong khác, miệng giếng nhỏ hơn nhưng sâu hơn nằm khuất trong một con ngõ. Giếng này được đào ở xóm Miễu nên gọi là giếng Miễu.
Giếng Miễu được ví như con mắt rồng còn lại – đối xứng với mắt rồng giếng đình Mông Phụ. Nước giếng Đình trong vắt, còn nước giếng Miễu đục, trở thành một điểm khuyết, là con mắt Rồng mờ. Nước giếng Miễu được sử dụng đối lập với nước giếng Đình, tức là chỉ để tắm giặt chứ không để ăn.
Tản Viên Sơn thánh được thờ làm thành hoàng các làng bởi công lao bảo vệ vùng đất này chống lại cuộc chiến của Thủy Tinh và là linh thần mạnh, khiến Cao Biền không thể trấn yểm núi Ba Vì và các vùng đất phụ cận.
Truyền thuyết cho rằng Cao Biền đã dùng pháp thuật đào 100 cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì trong đó có Đường Lâm để triệt long mạch nước ta nhưng y cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên đành phải bỏ cuộc. Cao Biền bị giết năm 887. Đường Lâm không thể trấn yểm, vài chục năm sau đã sinh ra Ngô Quyền, một trong 14 vị anh hùng dân tộc.
Vị vua thứ nhất: “Bố cái đại vương”
Theo văn bia ở đình Quảng Bá (quận Tây Hồ, Hà Nội), Phùng Hưng là người Cam Lâm, sinh khoảng năm 761 và mất vào năm 801, thọ 41 tuổi. Cha mẹ Phùng Hưng sinh ba được ba người con trai khôi ngô, tuấn tú, tài năng hơn người: anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai là Phùng Hải và em út là Phùng Dĩnh. Năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất. Trong ba anh em, Phùng Hưng có sức khỏe phi thường và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần Phùng Hưng thấy hai con trâu mộng đang húc nhau, ông đã dùng tay kéo sừng hai con trâu ra không cho chúng đánh nhau nữa.
Trên những qủa đồi thuộc làng Cam Lâm có những cái tên: Đồi Cấm, Nghẽn Sơn, Vũng Hùm… in đậm dấu tích thời trai trẻ của ba anh em họ Phùng. Truyền thuyết kể lại: Thủa ấy trên đồi là rừng đại ngàn rậm rạp, dưới đồng lau lách um tùm. Năm ấy có một con cọp hung dữ về bắt bao mạng người. Dân trong vùng sợ hãi không dám vào đồi kiếm củi, hái chè. Đêm đêm, cọp dữ còn mò cả vào làng rình bắt trâu bò, lợn gà. Cả làng chưa nhọ mặt người đã vội vã về nhà, luồng lạch rấp kín, cổng ngõ buộc chặt, xóm làng eo óc nỗi sợ hãi rình rập bất cứ lúc nào.
Phung_01
Giếng đình Mông Phụ, mắt sáng của rồng
Một trai làng cực kỳ khoẻ mạnh quyết tâm diệt hổ dữ trừ họa cho dân làng. Lựa đêm một ngày tháng cuối đông gió Bấc se sắt thổi, khí lạnh trên đồi tràn về làm rờn rợn da người, chàng trai bện người nộm đem vào đồi đến bên mép nước cắm xuống, ba bốn đêm liền như thế…
Đêm ấy như bao đêm khác, hổ dữ ra vũng nước duy nhất còn sót lại trong vùng, trước khi vục đầu uống, hổ ta lấy tay tát đổ người nộm như mọi hôm thường vẫn thế. Nhưng nó đâu có ngờ hôm nay có một cánh tay rắn chắc đã túm chặt lấy đầu nó, liên hồi giáng xuống những quả đấm nặng như búa tạ. Chàng trai thông minh dũng cảm, có sức khoẻ phi phàm đó chính là Phùng Hưng.
Phùng Hưng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), trụ sở của chính quyền đô hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng gần chục năm. Bia ở đình Quảng Bá ghi: Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo tiến công vây thành. Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn) đem ra chống cự.
Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Nhân dân tôn vinh ông là Bố Cái Đại Vương (Vua Lớn). Sau khi Phùng Hưng mất, con trai là Phùng An nối nghiệp cha được hai năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc.
Sử liệu và truyền thuyết dân gian cho đến nay vẫn lưu truyền những câu chuyện về sự linh thiêng của vị Bố Cái Đại Vương. Sách “Việt điện u linh” viết rằng: “Sau khi mất, Bố Cái Đại Vương rất hiển linh. Dân các làng thường nghe có tiếng ngựa xe đi lại ầm ầm trên nóc nhà hoặc trên ngọn cây cao, ngẩng trông thì thấy ẩn hiện trong những đám mây là cờ ngũ sắc và kiệu vàng rực rỡ, lại có cả tiếng nhạc văng vẳng nữa.
Bấy giờ, nếu có việc lành hay dữ sắp xảy ra thì thế nào đêm đến cũng sẽ có dị nhân báo cho các vị hào trưởng biết để thông tin cho cả làng hay, cho nên, ai cũng lấy làm lạ, bèn cùng nhau lập đền thờ Vương ở phía Tây của phủ đô hộ.
Đền thờ Vương rất linh thiêng, mọi việc cầu mưa, cầu tạnh đều được linh ứng. Ai gặp việc khó khăn như bị kẻ xấu lấy trộm hoặc giả là muốn cầu tài, đến lễ thần đều được như ý. Bởi vậy, người đến lễ rất đông, khói hương chẳng lúc nào dứt”.
Vị vua thứ hai có “công tái tạo, vua của các vua”
Về vị vua thứ hai của đất Đường Lâm, Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở Đường Lâm. “Đại Việt sử ký toàn thư” mô tả: “Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc”. Ngô Quyền có võ nghệ tinh thông và có chí lớn. Ông từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931.
Dương Đình Nghệ lên cầm quyền vẫn tự xưng là Tiết độ sứ, đóng tại thành Đại La. Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) chức thứ sử Hoan Châu, gả con gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền và giao cho giữ Ái châu. Chính quyền họ Dương tồn tại bảy năm (931 – 937) thì Dương Đình Ngệ bị kẻ phản bội là Kiều Công Tiễn (một viên tướng dưới quyền) sát hại để đoạt chức.
Ngô Quyền với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của Dương Đình Nghệ, đồng thời cũng là người đứng đầu liên minh Ngô – Dương, tập hợp lực lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn vương Lưu Hoằng Thao đem quân sang xâm lược nước ta.
Phung_02_DenThoNgoQuyen
Đền thờ Ngô Quyền
Mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền đem quân vượt qua đèo Ba Dội, tiến như vũ bão vào thành Đại La, giết tên nội phản Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành và nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
Để chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra kế hoạch độc đáo. Ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi nước triều lên ông cho nhử thuyền giặc vào bên trong hàng cọc, đợi khi thủy triều xuống sẽ dốc toàn sức tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh gọn.
Tháng 12 năm Mậu Tuất (938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền, bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời gian rất ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa. Máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng Thao cũng bị đâm chết tại trận. Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con.
Với mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938, đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, kết thúc hơn một nghìn năm Bắc thuộc mở ra thời kỳ phong kiến độc lập, tự chủ cho Việt Nam.
Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay). Ngô Quyền – người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 – trở thành vị vua có “công tái tạo, vua của các vua” theo nhận định của Đại Việt Sử ký toàn thư. Ông xứng đáng với danh hiệu là “vị tổ trung hưng” của dân tộc như nhà yêu nước Phan Bội Châu khẳng định trong cuốn “Việt Nam quốc sử khảo”.
Chiến thắng Bạch Đằng cho thấy không chỉ Cao Biền bó tay mà cả đế chế Nam Hán hùng mạnh cũng thất bại thảm hại trước tinh thần quật khởi của nhân dân ta. Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa Thăng Long, kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của các nhà Lý, Trần, Lê./.
Nguồn: Pháp luật VN
https://www.vanhoadongho.com/2016/02...yem-duong-lam/
-
Tế âm hồn - Cơm âm phủ
NGÀY THẤT THỦ KINH ĐÔ HUẾ (23.5 ÂL) (Trich Nguoivienxu)
"Từ ngày thất thủ kinh đô
Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam"
(Ca dao)
Miếu Âm Hồn TP Huế
Ngày 23 tháng 5 âm lịch hàng năm là ngày cúng âm hồn của người dân thành Huế. Lễ cúng tế vừa có tính chất gia đình lại vừa có tính chất cộng đồng của các đoàn thể, tổ chức, tập thể những người cùng chung một ngành nghề, cùng ở trong một thôn, xóm, phường... Việc tổ chức cúng âm hồn trọng thể như vậy liên quan đến lịch sử chống giặc của đất nước ta:
Năm 1884, Pháp đã chiếm trọn hai miền Nam Bắc. Huế, trái tim của đất nước, trong cơn nguy biến mà mọi người dân Việt Nam đang lâm vòng nô lệ nhìn về. Tổng tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Roussel De Courcy tuyên bố: “Cái gút thắt của vấn đề Việt Nam là ở Huế”.
Ngày 02.7.1885 De Courcy đưa quân vào cửa Thuận An, hống hách đòi hỏi triều đình Huế: “Nếu muốn được yên ổn thì phải nộp cho chúng tôi hai vạn thoi vàng, hai vạn thoi bạc và hai vạn quan tiền...”. De Courcy tiến vào Hoàng Thành và đòi vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai vàng, đích thân ra đón. Roussel còn đòi tất cả phái đoàn của Pháp từ quan đến lính quèn phải được đi vào Đại Nội bằng cửa chính Ngọ Môn, trong khi cửa này chỉ để dành riêng cho Đại Nam Hoàng Đế. Sự ngạo mạn và lăng nhục của quân xâm lăng thiêu đốt hết mọi thiện chí ngoại giao. Sự bức xúc của vua quan và dân dã Việt Nam đã ngùn ngụt cháy thành lửa đỏ.
Tối 22 qua rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu tức là đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885, Thượng Thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết và Đề Đốc Trần Xuân Soạn đã chỉ huy 20.000 binh lính mở cuộc tổng tấn công vào thành lũy của quân Pháp ở Toà Khâm và Mang Cá, sào huyệt giặc bên sông Hương. Quân ta chiến đấu rất gan dạ. Tôn Thất Thuyết bố trí cuộc tấn công rất chu đáo nhưng vũ khí giới kém nên bị thua trận:
Từ ngày thất thủ kinh đô,
Bốn phương xiêu vẹo hán Hồ khổ thay.
Nước ta quan tướng anh hùng
Bách quan văn võ cũng không ai tày.
Người có ngọc vẹt cầm tay,
Ðạn vàng Tây bắn ba ngày không nao.
Tài hay văn võ lược thao,
Khí khái nhân địa ra vào rất thông.
Bốn bề cự chiến giao công,
Tây phiên nói: thực anh hùng nước Nam ...
(Vè thất thủ kinh đô)
Di tích Miếu Âm Hồn Thành phố Huế
Rạng sáng, quân Pháp bắt đầu phản công dưới sự chỉ huy của Pernot. Pháp đã chia quân làm ba ngã để tiến vào kinh thành. Từng đợt xung phong chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt để tràn vào các cửa Đông Ba, Thuợng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa. Toán từ Cửa Trài, phá cầu Thanh Long, vượt sông Ngự Hà, tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường vào Hoàng Cung. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho tấn công quân triều đình đang tử thủ vườn Ngự Uyển để tiếp ứng toán quân đang cố phá đổ một cách vô hiệu quả cửa Hiển Nhơn vẫn đứng trơ gan trong khói lửa. Quân triều đình không giữ nổi thành phải tháo chạy về phía Lục Bộ và tràn ra cửa Đông Ba đã bị toán quân Pháp từ phía Cửa Trài tiến lên chiếm ngự. Cuộc chém giết trời sầu đất thảm đã xảy ra nơi mà trăm năm sau vẫn còn ghi dấu: Miễu Âm Hồn.
Ðịch chiếm thành và đốt phá, hãm hiếp, giết chóc cướp bóc không từ một ai. Một cuộc chạy loạn hết sức đau thương và bi thảm xảy ra. Hầu như không có gia đình nào lại không có người bỏ mạng trong cuộc binh biến này. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là số dân chúng ở trong thành.
Ngày 23 tháng 5 âm lịch (05.7.1885) từ đó về sau đã biến thành ngày giỗ lớn, ngày "quầy cơm chung" hàng năm của cả thành phố Huế. Họ cúng cho tất cả những người tử nạn: quân sĩ, dân chúng, quan lại, thợ thầy, do nhiều nguyên do: hoặc dày đạp, chen lấn nhau mà chết, hoặc bị đạn Pháp hoặc bị ngã xuống thành khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc sẩy chân rơi xuống hồ ao dày đặc trong thành, nhất là hồ Tịnh Tâm… trong khoảng từ 02g đến 04g sáng 23.5 năm Ất Dậu.
Ngày chính cử hành nghi lễ là ngày 23 tháng 5 ÂL. Nhưng đối với các tư gia thì có thể tùy theo từng gia đình mà tổ chức từ 23 đến 30 tháng 5. Người ta thường dựng rạp hoặc bày bàn cúng ngoài trời. Lễ cúng ít nhiều tùy gia đình nhưng tối thiểu phải có chè, cháo, gạo, muối, hoa quả, nhang, trầm, trà, giấy tiền vàng bạc, hột nổ, áo binh, giấy ngũ sắc, cau trầu, rượu. Ðặc biệt, trong lễ cúng 23 tháng 5 này, từ gia đình cho đến tập thể phải nhớ có một bình nước lớn và một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người ta tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm bên đống lửa, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, chết lạnh lẽo dưới ao, hồ, sông, suối trong rạng ngày 23 tháng 5.
Phải chăng ngày thất thủ kinh đô và lễ cúng tế âm hồn có liên quan đến “cơm âm phủ” sau này rất nổi tiếng ở Huế? Chẳng thế mà từ thời giặc Pháp đánh vào kinh đô Huế năm 1885, trong bài vè “Thất thủ kinh đô” có đoạn viết:
“Từ ngày thất thủ kinh đô
Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam
Lên dinh tớ ở Tòa Khâm
Chén cơm âm phủ áo dầm mồ hôi”
B.T.
Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design
Hà Phương Hoài
Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Hoàng Vân, Julia Nguyễn
Web Database
Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17
http://e-cadao.com/tieuluan/lichsu/teamhon.htm
-
-
[PDF]Untitled - ResearchGate
https://www.researchgate.net/profile..../scan0165.pdf
Translate this page
Miễu thờ Neak Ta (phía trái) trên đỉnh núi Trọi. Neak Ta, thần của người Khmer trong tâm thức ... hiện nay các miếu đa số được xây bằng gạch, trong Hành vi thờ cúng có tính chất ma thuật này miễu có đặt hòn đá hình bầu dục, nhắn ... nào trong đời sống tâm linh người Việt, Khmer thì thần, họ tạo ra sản phẩm và họ hình ..
-
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba. Lễ tế âm hồn thất thủ kinh đô
Người post bài: TT VHH
LỄ TẾ ÂM HỒN THẤT THỦ KINH ĐÔ 23.5 (ẤT DẬU)
– MỘT NÉT VĂN HÓA ĐỘC ĐÁO CỦA XỨ HUẾ
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Lễ tế Âm hồn Thất thủ Kinh đô - bữa quảy cơm chung (còn gọi là Lễ Truy niệm Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong năm Ất dậu) là một nét văn hoá đặc trưng của nhân dân Thừa Thiên - Huế. Lễ này bắt nguồn từ sau chính biến ngày 23.5. năm Ất dậu (05.7.1885) khi Kinh đô Huế thất thủ.
Sau Hiệp ước Quý Mùi (1883) và Hoà ước Giáp thân (1884) thực dân Pháp đã gần như đã khống chế được triều đình Huế. Toà Khâm sứ, cơ quan đầu não chính trị của Pháp do một viên Khâm sứ đứng đầu, được đặt bên Hữu ngạn sông Hương nhằm giám sát và can thiệp vào mọi chuyện của triều đình Huế trên phần đất còn lại trong uy quyền của vương triều này. Bên cạnh đó còn có khoảng 200 lính mã tà ma ní thuộc lực lượng quân đánh thuê của Pháp đóng tại đồn Mang Cá nhỏ (tức Tiểu trấn Bình Đài.
Không cam tâm dưới sự áp bức đó, phái chủ chiến của triều đình Huế đứng đầu là Phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết ngày đêm mưu đồ đánh đuổi Pháp. Ông đã liên lạc với phong trào Văn thân chống Pháp, huấn luyện binh sĩ, tích trữ súng đạn, lập chiến khu Tân Sở, một Kinh thành thứ 2, ở Quảng Trị, chuẩn bị cho một cuộc đánh úp lực lượng Pháp tại Huế. Khi Toàn quyền De Courcy đổ bộ lên Thuận An với một lực lượng hùng hậu gồm 19 sĩ quan và 1024 lính, hắn đòi hai quan Phụ chính đại thần phải qua Toà Khâm trình diện. Tình hình bang giao Việt Pháp đã đến hồi quá căng thẳng. Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường và Hộ bộ Thượng thư Phạm Thận Duật sang Toà Khâm nhưng không thuyết phục được De Courcy, kể cả việc nhận lễ vật của Thái hậu Từ Dũ. Thực tâm, De Courcy xem Kinh thành Huế như một miếng mồi cần nuốt chửng.
Sau khi Pháp từ chối thoả hiệp với triều đình Huế về các nghi lễ ngoại giao (mở cửa giữa Ngọ Môn để đón cả sứ đoàn De Courcy, vua Hàm Nghi phải xuống ngai tiếp sứ thần Pháp…) mà triều đình Huế cho rằng đó là một sự miệt thị uy quyền của vương triều và có ý đồ chiếm Kinh Thành Huế như từng chiếm thành Hà Nội, thành Gia Định, ông Thuyết đã quyết định tấn công Pháp trước. Đêm 22.5 năm Ất dậu (04.7.1885) ông Thuyết cho nã súng thần công vào Toà Khâm và tấn công vào đồn Mang Cá. Đạn thần công phần lớn rơi xuống sông Hương, chỉ có một số ít làm cháy các lều trại nhỏ chung quanh Toà Khâm. Đội quân đánh vào Mang Cá cũng tháo chạy trước súng và lựu đạn của bọn lính đánh thuê (mã tà ma ní) đồn trú tại đây và pháo từ chiến thuyền của Pháp đậu trên sông Hương.
Rạng sáng, quân thuỷ lục Pháp từ trấn Bình Đài phản công theo đường Hàng Bè (bây giờ là đường Đào Duy Anh & Huỳnh Thúc Kháng). Đến cống Thanh Long ngoài (tức cầu Hàm Tế) bị đánh chận bởi lính Phấn Nghĩa, giặc Pháp rẽ theo lối mòn dành cho voi đi sang cống Lương Y trong Thành Nội, sang đường Lê Văn Hưu và tiến theo đường Âm Hồn (nay là đường Lê Thánh Tôn) đánh thẳng lên khu Tam Toà và Lục Bộ, tiến về cửa Hiển Nhơn, đánh vào Đại Nội. Trên đường đi, giặc Pháp đốt nhà chẻ cửa, cướp phá, giết chóc hãm hiếp không từ một ai. Chúng xua đàn bà trẻ con đi trước làm bia đỡ đạn. Trước sức kháng cự của quân ta, giặc Pháp quay qua tiến chiếm Kỳ Đài và treo cờ Tam tài của Pháp. Đồng thời đạn pháo từ tàu chiến Pháp bắn vào Thành Nội, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị cháy sập. Quân triều đình dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Hộ thành Trần Xuân Soạn và Hữu quân Đô thống Hồ Văn Hiển rút lui cố thủ trong Đại Nội. Sau đó, lính thuỷ Pháp từ Toà Khâm cũng sang, đốt chợ Đông Ba và đi vào cửa Thượng Tứ đã bỏ ngỏ, ra sức chém giết dân lành. Khi quân triều đình rút đi theo đoàn Ngự đạo thì bọn Pháp càng tha hồ giết chóc, cướp phá và thiêu đốt khắp nơi, trong Đại Nội cũng như ngoài Thành Nội.
Theo nhà truyền giáo H. De Pirey trong bài “Một thủ đô phù du: Tân Sở” (đăng trong Tập san “Những người bạn cố đô, Tập I, năm 1914”, NXB Thuận Hoá, tr.224) quân ta ước chừng 3 vạn (?) nhưng vũ khí quá thô sơ toàn gươm giáo mác để cận chiến. Dẫu vậy, quân Phấn Nghĩa vẫn gan dạ chiến đấu, bỏ mình vô số và đành rút lui cố thủ trong Đại Nội. Cuối cùng, ông Thuyết quyết định đưa triều đình kể cả Lưỡng Tôn Cung theo cửa Chương Đức rồi theo cửa Hữu xuất giá ra khỏi Kinh Thành. Đoàn Ngự đạo qua cầu Bạch Hổ (tức cầu Kim Long), lên ngả chùa Linh Mụ, vòng qua Trường Thi (làng La Chữ) ra Quảng Trị. Sau đó ông Thuyết đưa vua lên Tân Sở, kết hợp với các lãnh tụ Văn Thân, ban hịch Cần Vương, kêu gọi toàn dân đánh Pháp. Trong hoàn cảnh rối ren này như rắn mất đầu, dân chúng, lính tráng, quan lại, thợ thầy… hoảng loạn tìm đường chạy trốn, chen chúc qua các cửa thành chạy về miền quê hầu tránh sự tàn sát như điên dại của lính đánh thuê. Số lớn thì chết bởi súng đạn, lưỡi lê của giặc, số thì chết bởi nhà cháy, giày đạp lên nhau, ngã xuống hồ ao, rơi khỏi tường thành. Tổn thất của phe ta kể cả dân chúng rất lớn.
TS Nguyễn Văn Vịnh (Báo Người Lao động ngày 10.9.2007) thì “…11 giờ ngày 5-7-1885, Courcy điện về chính phủ Pháp: “Ngôi thành đã ở trong tay chúng ta cùng với 1.100(?) khẩu đại bác. Quân đội chúng ta tuyệt vời. Thương vong không đáng kể”. Về phía quân Pháp có 11 người chết và 62 người bị thương, trong khi đằng trước mặt họ là từ 1.200 đến 1.500 xác người Annam phải chôn cất hay đem thiêu… Tướng Prudhomme báo cáo: “Xác của 1.500 người Annam cho thấy những thiệt hại của kẻ thù ít nhất cũng phải gấp đôi thế, vì theo tập quán họ đã mang đi rất nhiều, và mang tất cả những người bị thương đi, vì họ sợ chúng ta sẽ cắt xẻo hay đối xử tàn nhẫn... Do không thể chôn cất hết những người Annam chết, người ta đã vứt một phần vào các kênh đào, và phần còn lại thì đem hỏa thiêu. Nhưng sự thối rữa của một số lượng lớn xác chết như vậy, lại do thời tiết nóng làm cho thối rữa mạnh hơn, đã làm ô nhiễm cả thành phố, và trong một thời gian dài nữa, người ta đã phải hít thở một thứ không khí sặc mùi hôi thối”.
Trong tác phẩm “Huế 1885” nhà văn Thái Vũ đã tả lại cảnh Kinh thành Huế vào ngày ấy: “Trời gần sáng. Đại bác giặc các nơi bắn dồn dập vào nội thành. Nhà cháy! Đàn bà, trẻ nít kêu khóc dậy lên khắp nơi. Phía ngoài thành, giặc cũng đốt nhà dân, đốt chợ Đông Ba, đót từ Bao Vinh đến cầu Hàm Tế (tr.311)…Bọn Mẹt-xin-gie bắn vào đám đông như điên như cuồng..Chúng bắn xối xả, bắn vào những người đang chạy về phía chúng, quần nhau với chúng. Bắn vào những người đang chạy toả khắp nơi. Bắn vào đám đàn bà con trẻ đang hoảng hốt kêu khóc. Bắn vào những người đã chết. Nhà cháy. Cây cối sụp đổ…(tr.318) Nhiều nhà phía trong này vẫn còn ngút lửa, nhất là phía kho vũ khí, kho chứa thuốc súng. Dinh bộ Binh và dinh bộ Lại của hai quan Quận và Tướng Thân thần lửa vẫn cao ngọn. Xác người chết rải khắp đường khắp ngõ. Xác gục bên hồ, ngổn ngang bên bãi cỏ. Hầu như không nhà nào không có người chết. Cả Thành Nội đúng là một chiến địa…Qua ngày sau, vài xác chết vẫn nằm rải rác khắp các ngả đường. Giặc Pháp cho những người sống sót đi nhận xác người thân. Xác không người nhận – có khi bị giết cả gia đình - giặc cho kéo chất đống để đốt…(Sđd, tr 328 & 335)”. Quả là một nỗi đau thương thống thiết cho bao người con dân Việt yêu nước.
Cụ Phan Bội Châu có viết một bài “Văn tế cô hồn ngày 23.5” với những câu bi thiết như sau:
“Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!
Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng.”
Một tư liệu văn học nữa ghi chép biến cố này là bài Vè thất thủ Kinh đô (Còn gọi là Vè cụ Mới hay mụ Mì vì hai người nầy thường đi khắp nơi đọc Vè thất thủ Kinh đô để kiếm sống), bài vè này gồm 1850 câu, kể lại toàn bộ biến cố Thất thủ Kinh đô năm Ất dậu:
…Canh hai cơm nước soạn sình
Hai bên phường phố lạnh tanh như tờ
Canh ba dàn trận binh cơ
Canh tư lấy giờ phát lệnh giao phong
Súng Tây nó nổ đì đùng
Hai bên phường điếm hãi hùng kêu la
Người chui bụi, kẻ vọt ao
Người lòn xuống cống, lao xao canh chầy
Tránh thân cho khỏi súng Tây
Mẹ con chạy vạy trời rày còn khuya
Lao xao như cá trong đìa
Tránh sao cho khỏi súng lia vào mình…
…Người sáng còn cực tấm thân
Thương ông thầy bói chân lần tay quơ…
… Từ ngày Thất thủ Kinh đô,
Bốn phương xiêu vẹo Hán Hồ khổ thay…
…Từ ngày Thất thủ Kinh đô
Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam
Lên dinh tớ ở Tòa Khâm
Chén cơm âm phủ, áo dầm mồ hôi…
Số người chết là vô kể, nằm rải rác khắp nơi, dọc đường phố, trong các mương thoát nước, các hào hói và ao hồ. Bọn Tây dồn đống và đốt như Prudhomme nói ở trên rồi cho chôn ở Cồn mồ Ba Đồn. Một số xác khác vô thừa nhận thì bị chôn lấp cẩu thả trong các mương thoát nước dọc theo các đường trong Thành Nội. Loạt chôn ngay sau biến cố Ất dậu là tại cồn mồ số 4, 5 và 6 tại Ba Đồn. Theo Sogny, Thanh tra khố xanh Pháp trong bài “Cồn mồ vùng lân cận Nam Giao” (đăng trong Tập san “Những người bạn cố đô, Tập II, năm 1915”, NXB Thuận Hoá, tr.174) thì: “Cồn mồ thứ tư, nơi an nghỉ của quân lính hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23.5 Ất dậu (5.7.1885), số lượng không rõ; Cồn mồ thứ năm, nơi an nghỉ của sĩ quan hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23.5 Ất dậu (5.7.1885), số lượng không rõ; Cồn mồ thứ sáu, nơi an nghỉ của thường dân chết trong Kinh thành Huế ngày 23.5 Ất dậu (5.7.1885), số lượng không rõ…” Còn số được chôn lấp trong mương thoát nước tại Huế thì sau này do mở đường mà được cải táng tại cồn thứ 8 chùa Ba Đồn. Cũng Sogny cho biết “Cồn thứ 8 là (nơi qui tập) các mồ chôn dọc hai bên đường từ Kinh Thành đến chợ Đông Ba lên Kim Long và đưa dời khi mở rộng con đường, kinh phí giao cho khu phố I để di chuyển mồ mã” (Bđd, tr.175). Theo con cháu của các Phổ trưởng các phổ trong Thành Nội thì các xác trong Thành Nội cũng đưa lên Ba Đồn cải táng như Sogny kể. Vậy rõ ràng Cồn mồ Ba Đồn chính là nơi chôn những nắm xương tàn của Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong trong biến cố Ất dậu. Điều đặc biệt là chính Sogny lại cho biết trong bia đá dựng tại miếu thờ ở đây có ghi “Ở Cồn mồ Ba Đồn có nhiều nghĩa địa, có nhiều mộ không biết nguồn gốc. Trong số người quá cố có những người hi sinh cho danh dự, có người chết vì trung nghĩa…” Quả là một lời công nhận kín đáo lòng yêu nước và khí tiết của người dân Việt ta mà lại được một quan thực dân Pháp ghi chép.
Cuộc sống của dân chúng trong Kinh Thành từ sau biến cố cứ gặp phải nhiều tai hoạ, bệnh dịch, hoả hoạn…. Người ta tin rằng đấy là do quá nhiều các oan hồn của các tử sĩ và nạn dân quấy nhiễu vì không được ai thờ cúng. Dân chúng hằng năm đều tổ chức cúng tế tại tư gia.(Ảnh 2). Thế nhưng gần 10 năm sau, vào năm 1894 đời vua Thành Thái, một vị vua có tinh thần yêu nước và kháng Pháp, triều đình Huế mới chính thức lập Đàn Âm Hồn lộ thiên trên một diện tích gần 1500 m2 ở phường Huệ An gần cửa Nhà Đồ (cửa Chính Nam) để tế lễ hằng năm do Ty Lý Thiện phụ trách và quan Đề đốc Hộ thành đứng chủ lễ. Đàn nay chỉ là phế tích tại 24 Ông Ích Khiêm, phường Thuận Hoà Huế. Lúc đầu Đàn được đắp bằng đất, sau được xây cất thành một ngôi miếu uy nghi với một căn nhà ba gian một bên để cất giữ đồ cúng tế. Đây nguyên là trại lính Thần cơ (pháo binh) đã bị triệt giải nên lập miếu thờ cho các chiến sĩ trận vong là một điều dễ hiểu. Ngoài Đàn Âm Hồn trên còn có 5 miếu nhỏ ở các phường Phú Nhơn (Ảnh 1), Vĩnh An, Tri Vụ, Thuận Cát và làng Phú Xuân. Đàn Âm Hồn này tiếc thay dù đã hư nát nhưng vẫn còn ngôi miếu cho đến năm 1987 mới bị triệt giải. Rõ ràng Đàn Âm hồn này trên danh nghĩa là để thờ cúng các âm hồn phiêu bạt đây đó nhưng chính thực lại là sự ngấm ngầm tôn vinh các Chiến sĩ trận vong và cổ vũ cuộc chiến đánh đuổi thực dân Pháp.
Lễ tế Âm hồn 23.5 biểu hiện tấm lòng kính trọng của toàn nhân dân Thừa Thiên Huế đối với các chiến sĩ bỏ mình vì Tổ quốc cùng lòng xót thương đến đồng bào không may phải nạn vong. Nó còn nói lên tình nghĩa sâu xa đậm đà của bà con láng giềng hôm sớm có nhau và lòng biết ơn của các thế hệ đi sau đối với tiền nhân vị quốc vong thân. Đặc biệt, hằng năm lễ tế Âm hồn được tổ chức một cách tự phát, khởi xướng từ các kỳ lão khắp nơi trong tỉnh Thừa Thiên Huế (Ảnh 2). Một tục lệ tốt đẹp như thế đã sống trong lòng người dân xứ Huế hơn cả một thế kỷ. Nhà nào cũng cúng lễ 23. 5 cả, không chung thì riêng. Điều kì lạ là lễ đã đạt được tính cộng đồng đến độ cả các làng xa Kinh Thành như Nong, Truồi, An Lỗ, Sịa… đều tổ chức cúng bái và dù không ai khuyên lơn thúc giục gì cả mà họ vẫn tự ý làm như một bổn phận đối với người đã bỏ mình vì nước. Có lẽ đây là một lễ tế có tính nhân văn sâu sắc và đáng tự hào nhất của người Huế.
Ngày chính thức cử hành lễ tế là 23.05 A.L. nhưng dân chúng có thể theo hoàn cảnh từng gia đình mà tổ chức từ ngày ấy cho đến ngày 30.5. Lễ tế chung thì dân chúng dựng rạp ở một ngả ba đường nơi âm hồn qua lại, lễ riêng thì bàn lễ bày sát đường trước mặt nhà. Phẩm vật gồm hương, chuối, hột nổ, giấy tiền, giấy vàng, giấy bạc, khoai, đậu, sắn, mít, nhiều thứ nhưng phải có cháo thánh, (cháo loãng), cơm vắt gạo, muối (dành cho cô hồn bị chết đói) một ghè nước chè lớn (dành cho cô hồn chết khát), áo binh và một đống lửa (dành cho cô hồn bị chết lạnh dưới ao hói sông hồ). Bài văn tế của cụ Phan thường được đọc lại ở dịp lễ tế Âm hồn này.
Thiết nghĩ như một số nhà nghiên cứu khác, lễ tế Âm hồn này là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân Huế: Nó cổ vũ lòng yêu nước, lòng hi sinh vì nghĩa cả, tinh thần chống ngoại xâm của người dân và bày tỏ một đạo lí tri ân tiền nhân hay uống nước nhớ nguồn.
Chính biến Ất dậu với hịch Cần Vương là một bước ngoặt có ý nghĩa trong công cuộc kháng Pháp của toàn dân ta thời đó: Một thời kỳ chống ngoại xâm của toàn dân do nhà vua lãnh đạo hay như dân gian nói “Ở giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi”. Nó dù thất bại một cách bi tráng đã mở ra một thời kỳ bùng nổ đánh Pháp với nhiều nhà yêu nước sáng giá như Phan Đình Phùng, Lê Trung Định, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám… mà giặc Pháp phải cuống cuồng điên đầu trong công cuộc gọi là “bảo hộ Nam triều”. Nó tác động sâu xa đến lòng yêu nước của dân ta về sau từ nhà vua như Thành Thái, Duy Tân đến sĩ phu như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Nguyễn Quang Diêu, Phan Bội Châu…. Họ là lớp những nhà nho đã lớn lên trong thời có biến cố Ất dậu đầy bi tráng. Thi tù tùng thoại của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Hợp tuyển thơ văn yêu nước của NXB Văn học, hay ký sự Nhà tù An Nam ở Guyane trên báo Tuổi trẻ hiện nay đã cho ta hiểu thêm rất rõ về lòng ái quốc vô bờ và những khổ cực cùng cực trong lao tù của họ chỉ vì đã dám yêu nước mà chiến đấu chống Pháp. Phải chăng đó là những tấm gương yêu nước bất khuất và trung kiên được khơi dậy từ tấm gương Ất dậu? Tinh thần đó còn hun đúc và nêu gương cho nhiều thế hệ yêu nước sau này nữa như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh,… và bao chiến sĩ cách mạng khác mà lí tưởng của họ đã thăng hoa từ vì vua sang vì đất nước đồng bào.
Hẳn vì những ý nghĩa sâu sắc đó, chúng ta cần tổ chức một cách chính thức và trọng thể lễ Tế Âm hồn này để phát huy tác dụng tích cực của lễ. Nhà nước ta đang chuẩn bị đưa hài cốt của vua Hàm Nghi về an táng tại Huế thì việc tôn vinh tinh thần Ất dậu cũng rất thiết thực. Sau phục hồi Đàn Xã tắc, có nên phục hồi Đàn Âm Hồn Huế, xem như là một đài Liệt Sĩ thời kháng Pháp chăng? Nhiều miễu Âm hồn khác do các phường xã lập nên như ngôi miếu khá to ở cửa Chánh tây đều đã bị triệt giải vào năm 1985 rồi. Những miếu nhỏ còn lại phần lớn bị lấn chiếm gần như mất cả cảnh quan thiêng liêng của nơi thờ tự.
Image
Miễu Âm Hồn tại ngả tư đường Lê Thánh Tông và Mai Thúc Loan, địa điểm chính tổ chức lễ cúng âm hồn này hằng năm tại TPHuế. (Ảnh TL của tác giả)
Image
Một cảnh cúng khác do dân chúng một khu phố hay một xóm tổ chức vào dịp 23.5.
(Ảnh TL của tác giả)
Image
Miếu Âm Hồn ở cống Chém (An Hoà), một trong các miếu còn sót lại tại TP Huế.
(Ảnh TL của tác giả)
Image
Một miễu Âm hồn khác ở làng Thế lại - Phú Hiệp - TP Huế (Ảnh TL của tác giả)
Image
Tên miễu: Nghĩa trủng đường đàn ( nơi tế lễ các nghĩa sĩ 23.5 Ất Dậu )
(Ảnh TL của tác giả)
Văn tế Âm hồn Thất thủ kinh đô (23.5. Ất dậu)
Than ôi!
Tim óc bùi ngùi,
Ruột gan tê tái.
Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây,
Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hoả tứ thời ngát mãi.
Nhớ Ất Dậu Kinh thành thất thủ, đám sanh linh phải bao nỗi thương vong,
Nay Mậu Tý Thuận Hoá thanh bình, phường tử đệ vẫn một niềm ái ngại.
Dẫu biết lẽ tử qui sinh ký, đời ngắn tấc gang,
Nhưng xét hồi quốc phá thân vong, nghĩa dài sông núi.
Phận cháu chắt tháng ngày nhớ tưởng, lòng kính yêu dễ mấy nguôi khuây,
Tình bà con hôm sớm quẩn quanh, bụng nuối tiếc khó mà bỏ trái.
Trước thưa sau gởi, đỉnh kỳ trầm hương khói vọng tiền nhân,
Xưa bày nay làm, lễ truy điệu cỗ bàn hầu trưởng bối.
Nhớ linh xưa:
Năng nỗ tháng ngày; Dịu dàng sớm tối
Ham việc ham công, ham đồng ham ruộng, trai cuốc cày gắng sức chăm lo,
Vui vườn vui tược, vui cửa vui nhà, gái bếp núc hết lòng vun xới.
Có đâu biết nước nhà cơn hoạn nạn, lũ Tây dương qua lấn chiếm giang sơn,
Không may thay làng xóm trận can qua, đất Nam quốc hẹp thu dần biên giới.
Ách thực dân đè cổ, ngẩng cổ lên nào thấy trời mây,
Xiềng đô hộ tróng đầu, cúi đầu xuống chỉ là đá sỏi.
Thân mấy mà cam,
Lòng đâu chịu nỗi.
Từ nam chí bắc, mấy lớp nghĩa binh thua trận, quân Văn thân vẫn quyết chí chẳng lùi,
Trong phủ ngoài triều, bao viên mãnh tướng bỏ mình, lính Phấn nghĩa chẳng nề tâm xông tới.
Rựa sắt kiếm cùn, hoả mai con cúi, giết được thù cho thoả dạ hiếu trung,
Dao tu mã tấu, gậy gỗ tầm vông, phá tan giặc là mát lòng địch khái.
Vua nước mất phẫn uất đời nô lệ, họp mưu thần lập kế phản công,
Dân nhà tan thù hận kiếp tôi đòi, kết nghịch đảng hợp đoàn quật khởi.
Đêm Hăm hai súng thần công nã Chánh toà Khâm sứ, bẽ bàng thay thuốc yếu rơi ngang,
Rạng Hai ba quân hoả dược đốt Tiểu trấn Bình Đài 1, oái ăm thật lửa tàn tắt vội.
Lang sa lê dương 2 tiên phong vô Thượng Tứ 3, săng-đá giày 4 dẫm nát mù u,
Mã tà ma ní 5 hậu tập vượt Lương Y 6, bụp-xoà sung 7 bắn tiêu cai đội.
Hoảng hốt quá, vua xuất cung tị loạn, đa đoan thê tử quân thần,
Bàng hoàng thay, dân tẩu lộ cầu sinh, lộn xộn lão nhi phường hội.
Thảm ơi hỡi thảm!
Thành cửa nhỏ đâu dễ lòn,
Hào đáy sâu sao khó lội.
Dân tan tác như ong vỡ tổ, đạp lên nhau già trẻ chết chùm,
Binh tán loạn tựa rắn mất đầu, dìu với chắc thấp cao bước mỏi.
Ơi ới, mẹ hú con chồng kêu vợ, thảm thiết sao tiếng khóc bi ai,
Hù hu, em dắt chị cháu níu ông, bi thương thật lời than khắc khoải.
Sáng đã chết, mù 8 càng mau chết, đâm bổ xuống ao,
Nghèo thiệt thân, giàu cũng thiệt thân, té nhào mép hói.
Tên bay đạn lạc, súng thằng Tây tìm kẻ ngây thơ,
Lê thọc kiếm đâm, thịt dân Việt làm mồi lang sói.
Thây nghĩa sĩ ngổn ngang đường Thành Nội, dồn đống xóm Âm hồn,
Máu lương dân vung vải cửa Đông Ba, xông tanh cầu Gia Hội.
Ngao ngán thay!
Tay cung kiếm mà đền nợ nước, đành ngàn sau công trạng lừng vang,
Phận rác rơm lại bỏ thân tàn, khổ một kiếp tử thi rửa thối.
Nào gái nào trai, nào già nào trẻ, xác chất chồng xóm vắng làng thưa,
Ấy non ấy khoẻ, ấy mẻ ấy lành, xương vất vưởng nắng phơi mưa gội.
Thôi thôi chi nhiều kể lể, chốn tuyền đài linh hãy đến mau mau,
Thảm thảm ôi mấy oán than, cuộc siêu thoát hồn trông sao hối hối.
Man mác đám mây chiều phiêu dạt, người dương gian thêm chạnh nỗi hàn ôn,
Lạnh lành cơn gió chướng hắt hiu, khách âm cảnh còn vương tình trần giới.
Nay kính dâng,
Bát cháo thánh hầu ấm thân cô độc, trên đường xa mù mịt bốn phương,
Tấm áo binh đỡ lạnh gót lạc loài, giữa lối thẳm âm u chín suối.
Nước chè nhạt cũng tình quyến luyến, khát vơi dần miệng kẻ thác oan,
Củ khoai cằn ấy nghĩa thân quen, no đôi chút bụng người chết mới.
Bông chuối cau trầu đủ thứ, lỡ khi cùng không thiếu vật tuỳ thân,
Giấy tiền vàng bạc sót chi, gặp lúc ngặt có thừa đồ trao đổi.
Tội sớm tha, công thưởng lớn, nguyện cầu vía yên hàn vượt thoát, đêm âm ty ám ám lưới sương giăng,
Oan thì giải, nghiệp trả dần, cầu khấn hồn thanh thản ra đi, chiều dương thế mù mù luồng khói nổi.
Đốt nén nhang ngan ngát, mặc ngậm ngùi xin chớ ngó lui,
Vẫy chén rượu thơm tho, dù ấm ức hãy mau bước tới.
Tâm thành lễ bạc, bàn phẩm vật trên dưới sơ sài,
Ngôn thiểu ý đa, câu ai điếu ngắn dài vụng dại.
Ai tai!
Hồn hãy hiển linh;
Niệm tình thụ bái.
Tháng 4/2008
Chú thích:
1. Tiểu trấn Bình Đài: Đồn Mang Cá nhỏ, nơi lính Tây đóng quân.
2. Lang sa lê dương: Quân viễn chinh Pháp
3. Thượng Tứ: Cửa thành Đông Nam dẫn vào khu Tam toà và trường Quốc tử giám kế cận với Đại Nội Huế
4. Giày săng-đá: Giày da của lính Pháp
5. Mã tà ma ní: Lính cảnh sát Pháp người Phi luật tân, có thể chỉ chung bọn lính đánh thuê của Pháp
6. Lương Y: Một cống nhỏ trên đường dọc bờ thành dẫn tới cửa Đông Ba (cửa Chánh Đông)
7. Súng bụp xoà: Súng bắn phát một, nghe ra “cắc bụp cắc xoà” của lính Pháp.
8. Ở Cầu Kho có một xóm thầy bói mù, khi chạy loạn rớt xuông hồ ao, chết rất nhiều.
Nguồn: www.vietsciences.org
Lên trên
Cùng chủ đề
http://www.vanhoahoc.edu.vn/nghien-c...-dong/633.html
-
Bắc Ninh: Ngôi làng trắng khăn tang vì Cổ miếu nổi giận?
09:55 06/09/2013
0
Bảy năm trở lại đây, làng Đại Trạch (xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) xảy ra nhiều thảm án thương tâm, những vụ việc trái luân thường đạo lý.
Tháng 7 vừa qua, làng trắng khăn tang bởi liên tiếp có tới tám cái chết của người làng. Người mê tín đồn đoán sở dĩ có những tai ương như thế là do một số người "phạm thượng", dám sinh sống trên miếu Âm Hồn khiến người "cõi âm" vất vưởng.
Miền bắc - Bắc Ninh: Ngôi làng trắng khăn tang vì Cổ miếu nổi giận?
Ông Luận với ngôi miếu nhỏ xây trên nền móng của miếu Âm Hồn xưa
Ngôi miếu thờ "âm hồn" nghĩa sĩ
Miếu Âm Hồn được bà ba Cai Vàng xây dựng vào năm 1864 để thờ chồng là thủ lĩnh Cai Vàng cùng các nghĩa sĩ tử trận trong cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn. Ngay từ lúc khánh thành, ngôi miếu đã gắn với những câu chuyện không may.
Tương truyền, bà Ba Cai Vàng đã cho thiêu sống kẻ sát hại chồng bà ngay trước cửa ngôi miếu, lúc hành quyết, kẻ này cháy như một ngọn đuốc, gào thét mà chết trong đau đớn.
Theo các cao niên trong làng, miếu Âm Hồn từ xưa đã nổi tiếng. Luật bất thành văn, người làng có việc đi qua đều phải xuống ngựa dắt bộ. Do ngôi miếu bị tàn phá bởi chiến tranh, đến những năm 1994- 1995, khu vực nền móng cũ được quy hoạch, bán cho người dân lấy đất làm gạch ngói.
Ông Nguyễn Văn Luận (42 tuổi) là người đầu tiên nhận thầu đất làm gạch cho biết: “Tôi làm nhà cách khu vực miếu Âm Hồn khi xưa một con mương nên tận mắt chứng kiến nhiều câu chuyện là lạ. Đầu tiên, một người bị máy gạch nghiến nát một chân khi vừa nhận thầu đất được mấy bữa.
Sau đó vài hôm, lại có một người làng bị sảy chân ngã xuống cái hố vừa đào đất lên để bán, phát hiện muộn nên chết ngạt. Mấy hôm trước ông ta đào được mấy cái hồ lô bằng sứ . Có người khuyên ông ta cúng bái rồi trả lại chỗ cũ nhưng ông ta không nghe”.
Sử cũ chép, Cai Vàng (không rõ năm sinh năm mất, quê tỉnh Bắc Giang ngày nay) tên thật là Nguyễn Văn Thịnh tục danh là Vàng, vì có thời làm cai tổng nên được gọi là Cai Vàng. Năm 1862, lấy danh nghĩa "phù Lê", ông khởi binh chống lại triều đình Tự Đức ở vùng Bắc Ninh. Trúng đạn của quân triều đình, ông bị thương nặng rồi mất. Sau đó, người vợ thứ 3 của ông tiếp tục lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đến năm 1864. Bà Ba Cai Vàng tên thật là Lê Thị Miên (người làng Đại Trạch, Thuận Thành, Bắc Ninh) tục gọi là Yến Phi. Bà là người tài sắc vẹn toàn. Sau khi bãi binh, bà xây miếu Âm Hồn ở quê nhà rồi đi tu tại chùa làng với pháp danh Đàm Giác Linh. Hiện trong chùa vẫn còn phần mộ của bà, được người dân ngày đêm hương khói.
Còn ông Nguyễn Văn Tập, trưởng thôn Đại Trạch, khẳng định khi đào xung quanh khu vực miếu, chính mình đã gặp một chiếc quan tài được chôn theo hướng thẳng đứng. “Được các cụ cho biết ý nghĩa của Miếu Âm Hồn đã lâu, giờ gặp chuyện đó, tôi mới hiểu hóa ra đây còn là mồ mả. Ai dám đi xâm hại nơi an nghỉ người khác, vì thế, tôi không dám khai thác đất ở đó nữa, lại cho máy xúc bồi thêm đất, làm vững chắc lại nền cũ”.
Chuyện chỉ có vậy, nhưng những người mê tín thì cho rằng “trần sao thì âm vậy”. Cho nên khi khu đất có ngôi miếu bị quy hoạch, đồng nghĩa các vong hồn không còn nơi trú ngụ, mới “vất vưởng” làm hại mọi người.
Hàng loạt những vụ việc kinh hoàng liên tiếp xảy ra trong khoảng bảy năm trở lại đây khiến một số người khiếp sợ. Họ luôn tin rằng "phần âm" của làng không hoàn thiện nên dẫn tới những sự việc trái với đạo lý và luân thường.
Người mê tín đổ lỗi cho ngôi miếu vô tri
Mọi chuyện bắt đầu bằng bằng vụ huyết án trong một gia đình. Nạn nhân là mẹ vợ còn hung thủ chính là anh con rể hàng ngày vẫn được tiếng hiền lành. Là người cùng làng, anh con rể luôn sống lễ phép tuy phải cái hơi nóng tính. Có lẽ vì vậy, chỉ một mâu thuẫn nhỏ đã khiến anh ta không kiềm chế được, điên loạn vung dao đâm chết mẹ vợ trước sự sững sờ của các thành viên trong gia đình.
Một người hàng xóm trực tiếp chứng kiến sự việc kể lại “Nghe tiếng kêu cứu thảm thiết, tôi chạy sang thì thấy bà lão nằm sõng xoài trên sân. Thằng con rể khắp người dính máu, ngồi đờ đẫn như kẻ mất hồn. Tôi vội cùng người nhà hô hoán đưa bà cụ đi cấp cứa nhưng không kịp. Về sau mới biết nguyên nhân chẳng có gì to tát, chỉ là chuyện vợ chồng cãi vã, mẹ vợ thì bênh con gái. Cả làng không ai hiểu vì sao thằng rể hiền lành lại bỗng độc ác đến thế”.
Sau vụ án không lâu, một câu chuyện kinh hoàng khác xảy ra với hậu quả chết gần hết cả một gia đình. Đau lòng hơn, nguyên nhân lại do sự vô ý của một bà lão đã gần đất xa trời.
Hôm đó đang vào vụ gặt, thương mẹ già yếu, tất cả con cháu trong nhà xúm vào làm giúp. Bà cụ ở nhà nấu cơm chờ các con về ăn, do mắt kém, tưởng lọ thuốc diệt mối là mì chính nên bỏ vào canh. Trưa hôm đó, sau bữa cơm, cả nhà sáu người đều bị ngộ độc. Hàng xóm phát hiện quá muộn, đưa đi bệnh viện chỉ cứu được một người.
Chứng kiến sự việc, nhiều người làng bị ám ảnh đến mấy tháng trời. Bởi cứ mỗi lần chợp mắt, lại thấy hình ảnh cả nhà nạn nhân quằn quại, đau đớn, có người khuôn mặt biến dạng sưng phù.
Sau những vụ việc thương tâm, cả làng "dậy sóng" lời đồn ma ám. Người dân sợ hãi, tin rằng những âm hồn trong ngôi miếu đang báo oán, đặc biệt là sau một lời "phán" từ tận xứ người.
Nguyên có một thanh niên sinh ra trong làng, lớn lên đi lao động xuất khẩu ở Hàn Quốc rồi định cư luôn bên đó. Sống nơi xứ người hơn chục năm, bỗng một hôm, anh ta gọi điện về nhà, hỏi trong họ hàng có ai bị làm sao không? Gia đình đành thú thật có một người thân vừa bị chết đuối, do xa xôi cách trở nên mới không kịp báo tin.
Bấy giờ, anh ta cho biết bên nước bạn có quen một "ông thầy" gốc Việt. Vừa rồi anh ta đi xem bói, "ông thầy" cho hay đất ở quê đang bị động, có người nhà vừa mất mạng, nếu không làm lễ giải hạn thì làng sẽ còn gặp nhiều tai ương nữa. Nghe thế, anh ta vội gọi điện về nhà xem thử thực hư, ai ngờ lời "phán" lại đúng răm rắp.
Câu chuyện gia đình nọ được kể ra ngoài, cả làng sợ chết khiếp. Không ai bảo ai, nhiều gia đình mời thầy bói, đồng cốt về làm lễ giải hạn, tốn kém khá nhiều tiền của. Vậy mà đen đủi dường như vẫn chưa buông tha mảnh đất này.
Sự hoang mang được đẩy lên tột độ khi tháng 7 vừa qua, cả làng có liên tiếp tám người chết vì các căn bệnh hiểm nghèo. Ngoài ra, còn mấy trường hợp bị bệnh ung thư, tử thần đang chực chờ trước mắt. Ngồi ngẫm lại, dân làng xì xào bàn tán rằng các gia đình gặp chuyện không may đều sinh sống trong cùng một dong đất, dẫn ra miếu Âm Hồn khi xưa.
"Miếu Âm Hồn bị phá đi, đất miếu trở thành nơi sản xuất, nơi sinh sống. Các ngài không có chỗ ở nên mới báo oán những người "chiếm đất" của mình", một người làng thì thào sợ hãi.
Trao đổi về lời đồn đoán, ông trưởng thôn xác nhận nhiều người làng Đại Trạch đang gặp những chuyện không may. Không chỉ thế, gần đây còn xảy ra cả những chuyện như bố chồng làm bậy với con dâu hoặc thầy giáo dụ dỗ học sinh “chơi trò người lớn”.
Tuy nhiên, theo ông trưởng thôn, những chuyện đảo lộn cương thường ấy là do những kẻ phạm tội có lối sống suy đồi, đều đã bị pháp luật xử lý nghiêm minh. Trước đó, chuyện bà lão cho nhầm thuốc độc vào thức ăn là bài học đắt giá cho những người bất cẩn, không chu đáo trong việc bảo quản thuốc bảo vệ thực vật. Còn việc tám người chết vừa qua, phần lớn là những người già và những người mắc bệnh nan y.
"Tôi không tin những chuyện đen đủi có liên quan đến miếu Âm Hồn hoặc chuyện hồn ma báo oán. Có điều, cách đây không lâu, khi vị sư trụ trì chùa làng về cõi Phật, trước lúc viên tịch, nhà sư căn dặn người dân chúng tôi nên phục hồi lại miếu Âm Hồn như trước.
Theo đó, xây lại miếu để tỏ lòng kính trọng các bậc tiền nhân, hơn nữa còn ổn định được tư tưởng người dân, thiết nghĩ cũng là việc các cấp chính quyền cần lưu tâm", ông trưởng thôn tâm sự trước lúc chia tay.
Theo Xa lộ pháp luật
http://www.nguoiduatin.vn/bac-ninh-n...n-a101559.html
-
Kỳ lạ ngôi miếu thờ ‘bà’ rắn ở Đồng Nai
Thứ Bảy, ngày 14/11/2015 - 09:00
Kỳ lạ ngôi miếu thờ ‘bà’ rắn ở Đồng Nai
(PLO)- Ở Bến Gỗ (xã An Hòa, TP Biên Hòa, Đồng Nai) có một ngôi miếu nhỏ được nhân dân xây dựng để thờ thần rắn, theo tục thờ rắn của người Nam Bộ xưa. Có lẽ đây là ngôi miếu duy nhất ở Đồng Nai còn thờ rắn.
TIN LIÊN QUAN
Kỳ lạ ngôi miếu thờ hai viên đạn cùng mảnh vỡ khẩu đại bác
Linh thiêng nghĩa trang cá Ông lớn nhất Việt Nam
‘Cụ’ cây kỳ lạ ở cù lao xứ bưởi Đồng Nai
Lạ kỳ ngôi miếu dân lập thờ 'bà bóng' cô Hiên
Kỳ lạ ngôi miếu thờ ‘bà’ rắn ở Đồng Nai - ảnh 1
Bàn thờ “bà” bên trong chánh điện (ảnh tư liệu của học giả Lý Việt Dũng cung cấp). Ảnh: Bùi Trí
Trải qua bao lần tu bổ và xây sửa, đến nay ngôi chánh điện của miếu được xây cất lại nhìn như một... ngôi nhà cấp 4, không còn mang dáng dấp của một ngôi miếu cổ nữa.
Ngôi miếu có tên là miếu bà Khoanh, nằm sát bờ sông Bến Gỗ. Theo lời giải thích của học giả-nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ Lý Việt Dũng thì chữ "Khoanh" không phải tên một người mà là một động tác khoanh tròn của một con rắn rất lớn. Ban đầu, miếu có tên là miếu rắn Bà Khoanh. Nhưng vì thời khẩn khoang, người dân "kiêng cữ" từ "rắn" nên mới gọi miếu Bà Khoanh cho đến tận hôm nay.
Kỳ lạ ngôi miếu thờ ‘bà’ rắn ở Đồng Nai - ảnh 2
Miếu bà Khoanh hiện tọa lạc tại ấp 3, xã An Hòa, TP Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai). Ảnh: Bùi Trí
Theo cuốn "Thông chí xã An Hòa" (do tác giả Lý Việt Dũng biên soạn năm 2007) ghi lại rằng: "Xưa kia có một con rắn cái to bằng bắp chân người lớn, đầu có mào đỏ chót hay về nằm khoanh tròn trên bờ sông. Nhân dân làng Bến Gỗ cho là điềm lành, có đấng thần linh về phù hộ mùa màng tươi tốt, bội thu nên xây một ngôi miếu bằng tre lá để thờ bà thần Rắn. Sau này, dòng họ Mai ở xóm Chài (Bến Gỗ) đã phát tâm xây dựng và trùng tu ngôi miếu to đẹp hơn bằng gạch, đá, gỗ vào các năm 1930, 1954... Hằng năm, miếu Bà Khoanh cúng giỗ lớn vào rằm tháng 3 âm lịch, đặc biệt ở đây còn duy trì tục cúng thịt heo sống.
Kỳ lạ ngôi miếu thờ ‘bà’ rắn ở Đồng Nai - ảnh 3
Học giả Lý Việt Dũng đang đứng trước tiền sảnh miếu bà Khoanh (ảnh tư liệu của học giả Lý Việt Dũng cung cấp). Ảnh: Bùi Trí
Nhân dân Bến Gỗ vẫn còn truyền tụng nhau một câu chuyện: Ngày cúng lễ, vào nửa đêm họ thường nghe rất rõ tiếng nhạc ngựa và tiếng ngựa hí từ hướng sông Bến Gỗ chạy vọng dần dần lên ngôi miếu. Người ta tin rằng bà Rắn Khoanh ở dưới lòng sông Bến Gỗ cưỡi ngựa lên dự lễ cúng cùng nhân dân địa phương và để nhận vật phẩm cúng là... thịt heo sống. Đây có thể là một câu chuyện hoang đường, mang màu sắc tâm linh dân gian. Nhưng một khi người dân đã tin thì cũng không nên bác bỏ vì tín ngưỡng sẽ giúp vỗ an được lòng người...".
Kỳ lạ ngôi miếu thờ ‘bà’ rắn ở Đồng Nai - ảnh 4
Tác giả bài viết được học giả Lý Việt Dũng cho xem dòng sự tích về miếu bà rắn Khoanh được ghi trong cuốn "Thông chí xã An Hòa"
Hiện tại, không hiểu vì lý do gì mà bên trong chánh điện chỉ có bàn thờ để thờ Ngũ Hành nương nương theo tín ngưỡng thờ bà của người Nam Bộ, không còn bàn thờ linh vị “bà” rắn Khoanh nữa. Tuy vậy, tục cúng giỗ “bà” rắn vẫn được duy trì xuyên suốt thời gian từ xa xưa đến tận hôm nay. Đây là một nét đẹp văn hóa dân gian mà người dân Bến Gỗ bảo ban với thế hệ con cháu thay phiên nhau gìn giữ và phát huy muôn đời mai sau.
Bùi Trí
http://plo.vn/van-hoa/ho-so-phong-su...ai-590956.html
-
13 địa điểm được đồn đại có ma ở Sài Gòn.
Sài Gòn còn được biết đến với những câu chuyện, giai thoại về những địa điểm, nơi có ma cùng những điều kì lạ và huyền bí, rùng mình mỗi khi nhắc tới.
lapxigon
Phạm Quang Lập
Theo Dõi
97,256
Bình chọn: 7
Đăng: 24-06-2015 tại Bài viếtKhám Phá
Núp sau vẻ đông đúc và ồn ào của phố thị có một góc nhỏ Sài Gòn khác nghe rùng mình, ớn lạnh qua những câu chuyện được kể lại về những nơi có nhiều điều thật kì bí, ảo diệu, đáng sợ. Không ai đi chứng minh đó có phải sự thật hay không nhưng chắc chắn khi nghe qua ai cũng phải háo hức muốn nghe những câu chuyện "tâm linh" hư ảo, rùng rợn ấy.
1. Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai.
“Ai từng là học sinh Nguyễn Thị Minh Khai chắc hẳn đều một lần được nghe qua câu chuyện về hồn ma áo tím trên tháp đồng hồ. Nhiều người kể rằng trên đây có một bàn thờ nhỏ để thờ một nữ sinh từng tự tử trong trường, bộ áo dài tím cùng vũng máu bê bết không hiểu từ đâu ra. Tháp đồng hồ là nơi cao và huyền bí nhất, nhìn từ dưới sân lên tháp bao giờ cũng thấy một vẻ u ám ảm đạm. Việc nhà trường cấm học sinh lên đây càng làm câu chuyện trên thêm phần đáng tin. Một số truyền thuyết khác không thể không kể đến về ngôi trường này đó là những ánh đèn chập choạng trong đêm, nước trong toilet tự động tắt mở, tiếng động lạ trong những căn phòng luôn khóa, dơi đầy trên mái ngói…Tuy nhiên đến nay nhà trường đã được xây dựng mới, sự huyền bí vì thế cũng phai dần.”
ảnh có ma ở Sài Gòn,địa điểm đáng sợ ở Sài Gòn,rùng mình ở Sài Gòn,ớn lạnh ở Sài Gòn,đồn đại,lời đồn
2. Chung cư 727 - Trần Hưng Đạo.
“Từng có tên là Bulding President , được mệnh danh là chung cư triệu đô cao nhất Sài Gòn và chỉ dành riêng cho những tướng xá, sỹ quan cao cấp vào thời 1960 nhưng nay thì nơi đây đã biến thành một tòa nhà mục nát, hôi hám và đầy rác thải… Theo lời của nhiều họ dân từng sống ở đây thì ban đêm họ thường trông thấy rất nhiều những tốp lính duyệt binh và dậm chân ầm ầm xuống nền đất, một số người khác kể lại rằng mình từng thấy một người đàn ông tóc vàng dắt tay một cô gái Việt. Khi chúng tôi tới đây để thăm dò thì đã được người quản lý “hù” trước bằng câu nói: “Trên tầng thượng từng có nhiều người tự tử lắm đó con mấy con..”
chung cư 727
3. Ngôi nhà 24, Lý Thái Tổ, Q.3.
“Cách đây 12 năm, một ngọn lửa lớn đã thêu rụi toàn bộ căn nhà số 24 Lý Thái Tổ , Quận 3 - Tp Hồ Chí Minh và cướp đi sinh mạng của 7 thành viên trong gia đình trước sự ngỡ ngàng của người dân quanh đó. Tuy đã nhiều năm trôi qua nhưng khi nhắc đến ngôi nha này, ai ai cũng phải rợn người khi nhớ về những âm thanh kì quái như tiếng sột soạt của chổi quét, tiếng lịch kịch của đồ đạc bị đổ trong căn nhà hay hình ảnh về một người phụ nữ áo trắng bồng con đứng trên lan can nhìn xuống… Ông bà chủ căn nhà này may mắn thoát chết trong vụ hỏa hoạn năm xưa nhưng sau đó lại chẳng may mắc bệnh tâm thần , đến nay lối xóm không ai biết họ ở đâu, làm gì, ra sao…”
ngôi nhà 24
4. Thuận Kiều Plaza.
“Với cấu trúc 3 tầng tháp cao, Thuận kiều Plaza từng là biểu tượng cho sự phát triển của Sài Gòn cách đây hơn 15 năm về nhưng ngày nay những gì người ta nhìn thấy ở Thuận Kiều Plaza chỉ là sự lạnh lẽo, u ám mà khó ai có thể giải thích được. Tin đồn thực hư đến đâu thì chưa rõ, nhưng cảm giác lạnh sống lưng khi bước chân vào nơi đây thì không ai có thể chối bỏ được.”
thuận kiều
5. Ngôi nhà cuối khu phố Phú Mỹ Hưng.
“Cuối khu đô thị Phú Mỹ Hưng có một căn nhà xây dở dang khá kì bí. Không hiểu vì lý do gì mà tất cả các lối đi vào nhà và cửa sổ đều được lấy gạch xây kín lại như muốn giam giữ một điều gì đó không cho nó thoát ra. Có nhiều người kể lại rằng trong quá trình xây dựng, một thợ hồ đã vào đây ngủ tạm nhưng đến sáng hôm sau lại được phát hiện đã chết, con trai người thợ này sau đó không lâu có đến nhận xác cha mình và ngủ tạm lại một đêm nhưng rồi cũng ra đi ngay trong căn nhà này mà không rõ lý do. Nhiều người đi ngang đây cũng xác nhận từng thấy những bóng trắng bí hiểm lượn lờ. Căn nhà này cho đến nay vẫn được bỏ dở không xây dựng gì thêm…”
ngôi nhà cuối phú mỹ hưng
6. Công viên Lê Thị Riêng.
“Tuy chưa được kiểm chứng nhưng theo nhiều nguồn tin cho biết công viên Lê Thị Riêng trước đây từng là nghĩa trang chôn cất rất nhiều xác chết của binh lính trong thời chiến. Ai từng một lần đi sâu vào khu vực công viên buổi tối chắc hẳn không thể nào quên được ánh đèn hiu hắt rải khắp các lối đi, hàng ghế đá trơ mình cùng không khí buồn và lẻ loi ghê gớm của nơi đây. Thậm chí có người còn khẳng định đã từng thấy một cô bé cỡ từ 4 – 5 tuổi, mắt trắng bệch và ngồi đong đưa một mình trên chết xích đu cũ. Cách đây không lâu người dân cũng đã phát hiện một xác chết nổi trên mặt hồ công viên Lê Thị Riêng..”
cv lê thị riêng
7. Nghĩa Trang Bình Hưng Hòa.
“Là nghĩa trang lớn nhất TP. HCM. Nghĩa trang Bình Hưng Hòa thuộc quận Bình Tân, có diện tích khoảng 45ha. Trong khuôn viên nghĩa trang còn có Trung tâm hỏa tán Bình Hưng Hòa. Trước đây khi quá trình đô thị hóa chưa phát triển nhanh chóng, nghĩa trang vẫn thuộc những huyện ngoại thành vắng vẻ. Bên cạnh những tệ nạn xẩy ra xung quanh khu vực thì không thể nào thiếu những lời đồn đại ma quỷ của những người ở gần đây. Nhiều câu chuyện ma rùng rợn của các blogger cũng được lấy cảm hứng từ chính mảnh đất này.”
nghĩa trang bình hưng hòa
8. "12 hũ cốt".
“Nằm gần cầu Ông Sập ở khu vực quận 7, quận 8 và Huyện Bình Chánh. “12 hũ cốt” vốn là một cái miếu thờ với các hũ cốt của những người chết oan do tai nạn giao thông nhưng không có nhân thân nên được gửi vào đó. Tương truyền nếu ai đến đây nhưng không vào thắp nhang khấn vái những vong hồn chết oan sẽ phải gặp xiu xẻo. Nhiều nhóm bạn trẻ liều lĩnh thích tụ tập thành tốp đi qua đây vào ban đêm, men theo đường bờ ruộng để đến nơi mà “khám phá”. Nhưng có người biết đi ngang không ghé vào lại phải gặp chuyện xui như mất đồ, tai nạn phải vào viện, hay thậm chí gặp những chuyện ma quỷ mà không ai giải thích được”
12 hũ cốt
9. Cánh đồng hoang quận 8.
“Giữa cánh đồng hoang quận 8 gần cầu Chà Và là một vùng đất trống có miếu thờ. Ngôi miếu thờ hai anh em ruột là cậu Hành và cô Lan từng treo cổ ở đây mà không ai rõ lý do. Ở đây có một người lái đò, người đến đây phải đi gửi xe rồi đi ghe sang sông. Nhưng ông lái đò cũng chỉ nhận khách đi sang mô đất đó từ 1h đêm đến 3 giờ sáng. Khách ngồi đò sang đến ngôi miếu khoảng 10 phút giữa không gian im lặng tĩnh mịch của đồng hoang…”
Cánh đồng hoang quận 8
10. Nhà 1/5D , Đường Quang Trung.
“Nằm ngay bên cạnh gầm cầu Chợ Cầu – quận 12, ngôi nhà này đã từng được nhiều người đến thuê rồi lại vội vã ra đi vì bị “một thứ gì đó không thể xác định” chọc ghẹo. Nhiều người kể lại, họ đã phải chịu những đêm nghe tiếng gió rú qua khe cửa hay thấy những bóng người mờ ảo lướt đi trên nền nhà. Sau khi được thuê lại bởi một công ty may, các công nhân ngủ lại đêm ở đây thường xuyên phải đi cấp cứu vì ngạt thở do “ma đè”. Tuy được cơ quan chức năng cảnh báo rằng căn nhà không mấy thông thoáng, lại thêm lượng công nhân đông, nên dễ dẫn đến tình trạng thiếu không khí, nhưng người dân ở đây vẫn còn nhiều e sợ khi phải đi ngang ngôi nhà nhà này… Hiện ngôi nhà này vẫn để trống”.
nhà 1/5D
11. Hồ Đá.
“ Nằm giữa làng Đại Học Quốc Gia quận Thủ Đức, hồ đá với những vách đá cao và độ sâu hơn 20m đã cướp đi hàng chục mạng người đến vui chơi tại đây. Nhiều lần, ban quản lý ĐHQG đã cho rào chắn nhưng lâu lâu lại tìm thấy xác trôi vào bờ do vui chơi ở đây, thậm chí là do tự tử. Nhiều người cho rằng hồ bị ma ám, rằng có “ma gia” – những người chết đuối – có thể lôi kéo họ đén đây và cướp đi mạng sống của họ. Nhưng cuối cùng cũng chỉ nằm ở ý thức mỗi người vẫn chưa nhìn ra sự nguy hiểm dưới Hồ Đá.”
hồ đá
12. "Nhà vĩnh biệt" bệnh viện Chợ Rẫy.
“ Không phải ai cũng biết rằng bệnh viện Chợ Rẫy có một nơi dùng để chứa xác những người đã chết nhưng chưa có nhân thân đến nhận mang tên “nhà vĩnh biệt” tọa lạc trên đường Thuận Kiều. Dù luôn sáng đèn nhưng khu vực hành lang bên trong nơi đây lại tạo cảm giác u minh lạnh lẽo, đau thương và vô cùng đáng sợ. khi được phỏng vấn, nhiều nhân viên vệ sinh ở đây cũng chia sẻ không ít lần trong khi làm nhiệm vụ đã nghe được những âm thanh kì lạ như tiếng thì thầm bên tai của một ai đó, tiếng khóc nấc của người oan ức…”.
nhà vĩnh biệt
13. Tòa nhà họ Hứa.
“Tọa lạc số 97 đường Phó Đức Chính, quận 1 ( nay là bảo tàng Mỹ thuật Hồ Chí minh), đây là một trong nhũng địa điểm bí ẩn nhất Sài Gòn vì không khí âm u đặc trưng, dáng dấp tĩnh lặng cũng như những truyền thuyết rung rợn xoay quanh nó. Người chủ đầu tiên của căn nhà là một đại gia người Hoa tên Hứa Bồn Hoa, ông có hàng chục đứa con trai nhưng chỉ có độc nhất một người con gái là Hứa Tiểu lan. Tuy nhiên sau khi người con gái này chết bất đắc kì tử thì tòa nhà cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hiện tượng kì là như thường xuyên có bóng áo trắng lướt đi trong đêm, tiếng khóc than ai oán rùng rợn hay căn phòng gác mái bí hiểm… Tới tận bây giờ, cái chết của Hứa Tiểu Lan vẫn là một dấu chấm hỏi lớn cho nhiều người.”
tòa nhà họ hứa.
Ảnh: 19day.info/theo Mlog
https://www.ohay.tv/view/13-dia-diem...-sai-gon/t4Owk
-
-
Miếu Vũ Hồn- Thờ đức thần tổ Vũ Hồn
3 January, 2018
Vũ Hồn được xem là vị tổ của họ Vũ ở nước Việt Nam. Ông vốn là con trai của một người Trung Quốc tên là Vũ Công Huy, và mẹ là người Việt Nam tên là Nguyễn Thị Đức ở trang Mạn Nhuế (nay thuộc Nam Sách, Hải Dương) Vũ Hồn đỗ Tiến sĩ, nhà Đường cho làm quan ở nước Nam (năm 828). Sau đó ông ở lại, trở thành vị tổ họ Vũ ở làng Mộ Trạch, huyện Chí Linh (Hải Dương).
Tìm hiểu về Miếu Vũ Hồn
Dòng họ Vũ ngày càng đông đúc, gồm nhiều chi. Suốt mấy mươi thế kỷ, trải ra khắp miền Nam Bắc Việt Nam. Ở làng Mộ Trạch, con cháu và dân làng tôn ông làm Thành hoàng. Miếu thờ ông được gọi là miếu Vũ Hồn.
Miếu trước ở sau làng, bên cạnh đường xứ ông Hãy. Đến năm Vĩnh Thọ (1658-1662), đi về xứ Long Nhãn (Mắt rồng) ở phía Bắc, phía trong lũy tre làng. Miếu quay về hướng Đông. Trước miếu có hai ao nhỏ tròn, gọi là mắt rồng. Từ cửa miếu ra cánh đồng vòng về đình có con đường gọi là đường Nghinh. Năm vào đám rước thần từ miếu về đình, rồi lại rước thần từ đình về miếu bằng con đường ấy.
Đọc tiếp: Những điều cần biết về Miếu Trám & Lễ hội trò trám
miếu vũ hồn thờ ai
Miếu Vũ Hồn thờ Thành hoàng là Vũ Hồn, người lập ra ấp Khả Mộ tức là Mộ Trạch ngày nay. Trong miếu Vũ Hồn có bàn thờ, tế khí bằng đồng, bằng sứ, bằng gỗ trạm trổ, sơn son thếp vàng. Xung quanh miếu trồng nhiều cây ăn quả như nhãn, mít, ổi, dứa, muỗm… Dân làng cử người ra trông nom, đèn hương hàng ngày, tiếp những người ra lễ bất cứ lúc nào, gọi là ông từ. Ông từ trông nom đèn hương cả ở đình.
Trong miếu có 3 bức hoành phi và 3 câu đối chữ Hán nói về sự tích và ca tụng sự linh thiêng của Thành hoàng.
Bức thứ nhất: Có ba chữ:
“Vạn thế trạch”
(ơn vạn đời)
Bức thứ hai: Có 4 chữ lớn viết kiểu chữ cổ:
“Thánh trạch vạn thế
(ơn Thánh vạn đời)
Bức thứ ba: Có 16 chữ khảm trai:
“ủ duy thần tổ, lại tự Bắc phương, Giao Châu đô hộ ngô ấp Thành hoàng”.
(Nguyên đức thần tổ từ phương Bắc đến, làm đô hộ Giao Châu, là Thành hoàng ấp ta).
Câu đối:
Cao hậu dữ tham, vọng quốc mặc phù, linh trạc trạc.
Thông minh như nhất, danh hương hiển tướng phúc nhương nhương.
(Tiến sĩ Vũ Phương để soạn)
(Cao đầy trời đất, bậc vua giúp nước, linh thiêng ngời ngợi.
Sáng suốt trước sau, danh hương hiển tướng, phúc dạt dào).
Trước Miếu Vũ Hồn, trên 2 đội đồng trụ, ghi 2 đôi câu đối nói năm dựng miếu và kiểu đất của miếu.
Bạt nhi khởi chi, nhất vọng uyển thành Đỉnh tự
Thị bất vong giã, trùng doanh kế tự Thân niên
(Phá để xây lên, ngắm trong vườn thành chữ Đinh Thật không mất được, làm lại kể từ năm Thân).
Long khai lưỡng nhăn lâm tiền ứng Tinh liệt tam thai tự ngoại triều.
(Rồng mở hai mắt, ngay đằng trước Sao ở ba gò, ngoài chiếu vào).
Cổng Miếu Vũ Hồn mới xây. Câu đối khắc trên đồng trụ, lấy câu đối của đình. Trên bờ ao mắt rồng có 3 gian nhà xây năm 1994 do ông Vũ Mạnh Hà cung tiến.
Trong tập thơ: “Mộ Trạch bát cảnh” của Hoàng giáp Thượng thư Vũ Cán có bài thơ vịnh cổ miếu:
Cảnh ngưỡng thần minh đất độ tư Tiện thần hương hỏa cổ tồng từ Dương dương phúc tịnh quang lâm nhật Trạc trạc anh linh giảm cách thì Hãn hoạn trừ tai, công thậm đại An dân lợi vật huệ bàng thi Ngô hương kỳ phúc hàm mông đức Thiên cổ danh ngôn doãn tại tư.
Dịch nghĩa:
Thờ thần cảnh miếu tỏ khôn lường Chẳng có khi nào ngớt khói hương Giáng lâm phúc thịnh, ngày thêm rõ Rực rỡ, anh linh, rất đỗi thiêng Ngăn hại, trừ tai, công to lớn Yên dân, lợi vật, ích vô cùng Làng ta cầu phúc thì được phúc Danh ngôn truyền tụng hẳn không nhầm.
Ở di tích Miếu Vũ Hồn, có một số bia và tượng đá thu thập từ các nhà tư và nhà thờ trong làng. Một bia nói về cụ Vũ Phong trạng vật, khai tổ nhà thờ “Lê Trạch đường”, chi 5 họ Vũ làng Mộ Trạch, chuyển từ nhà ông Vũ Đình Diễm ra miếu, lại còn tượng thờ thần cổng Bắc, trước đây thờ ở miếu nhỏ, nay phá để mở rộng đường nên rước tượng về miếu Thành hoàng.
Bia cụ Vũ Phong nhà thờ Lê Trạch đường viết:
“Triều nhà Lê, tiên tổ ông làm cẩm y vệ đình úy ti, chỉ huy sứ. Vũ Quý Công, húy Phong, hiệu Tôn Trai phủ quân. Tiên tổ bà, được ấm phong phu nhân, người thôn Mạc, Nguyễn Quý Thị, húy Thỏ, hiệu Gia Thân phu nhân.
Năm Vĩnh Hựu thứ hai, tức năm Bính Thìn (1736) tiết đầu xuân, ngày tốt.
Tiên tổ ông giỗ ngày 11, tháng 11, mộ tại xứ Mã Miễu.
Tiên tổ bà giỗ ngày 17, tháng 12, từ chỉ rộng 4 thước, 4 tấc, tọa lạc tại Phủ Thủ xứ, đông 4 ngũ, 5 thước 5 tấc. Tây 4 ngũ, 4 thước, Nam 4 ngũ, 7 thước, Bắc 4 ngũ, 6 thước.
Cả họ cùng quy ước mỗi năm tháng giêng, ngày 17 sắm lễ có lợn, xôi, rượu, kim ngân mọi thứ”. Bia của gia đình cụ Vũ Huy Thìn, thuộc nhà thờ “Thế khoa đường” chi 5. Bia do Biểu quyến (họ ngoại) soạn. Con trưởng là tú tài Vũ Huy Giám viết. Gần đây gia đình cụ Thìn đã rước bia ấy về nhà.
Sau ngày hội làng, nhiều người họ Vũ các nơi về nhận họ, đã cung tiến vào Miếu Vũ Hồn: Một tượng Thành hoàng, một bức đại tự có 4 chữ “Âm hà tư nguyên” (Uống nước nhớ nguồn), một bức trướng ca ngợi Thành hoàng cùng bảng ghi tên tiến sĩ người làng Mộ Trạch.
Cần phải đọc: Tìm hiểu về di tích Miếu Mạch Lũng
https://tienamphu.com/mieu-vu-hon/
-
Nghi thức cúng lễ "vay vốn" ở ngôi miếu nổi tiếng nhất miền Tây
GiadinhNet – Miền Bắc có đền Bà Chúa Kho là nơi dân kinh doanh, buôn bán tìm đến khấn lễ, cầu mong một năm làm ăn hanh thông, thuận lợi. Miền Nam cũng có một địa chỉ tâm linh nổi tiếng mang ý nghĩa như vậy. Đó là miếu Bà Chúa Xứ (tại Núi Sam, phường Núi Sam, TP. Châu Đốc, tỉnh An Giang). Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, dân kinh doanh, buôn bán lại nườm nượp đổ về đây để “vay vốn Bà Chúa Xứ”.
Từ những truyền thuyết ly kỳ
Ngay từ đêm Giao thừa, miếu Bà Chúa Xứ đã là điểm đến của rất nhiều người dân địa phương và các vùng lân cận với nhiều lứa tuổi. Thanh niên, đôi lứa đến để tham quan, cầu duyên còn người già thì tìm đến để cầu bình an, sức khỏe. Song cũng không ít người, nhất là giới làm ăn, buôn bán đến đây để “vay vốn” Bà Chúa Xứ. Không biết chuyện này thực hư thế nào nhưng lượng người đổ về đây hàng năm cứ ngày một tăng lên theo cấp số nhân. Nói về vấn đề này, ông Nguyễn Tùng Lâm (72 tuổi, ngụ phường Núi Sam) cho biết vào đêm giao thừa, người dân muốn vào cúng lễ thì phải xếp hàng ngay từ tối bởi lượng người tới đây là rất lớn. “Những năm trước chỉ có người dân địa phương và các tỉnh lân cận tới lễ. Nhưng mấy năm trở lại đây xuất hiện nhiều lời đồn thổi rằng, miếu Bà Chúa Xứ rất linh thiêng, cầu gì được nấy khiến cho rất nhiều người sùng tín từ khắp nơi tìm về. Nhất là những người làm kinh doanh, họ tin rằng muốn năm mới làm ăn phát đạt thì phải “vay vốn” của bà Chúa Xứ và sẽ được bà phù hộ”, ông Lâm cho biết.
Miếu Bà Chúa Xứ thu hút rất đông dân kinh doanh, buôn bán.
Miếu Bà Chúa Xứ thu hút rất đông dân kinh doanh, buôn bán.
Cũng theo ông Lâm, chính vì lượng khách hành hương tới đây ngày một nhiều nên vẻ đẹp thanh tịnh của chốn linh thiêng này cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Bên cạnh đó, các loại dịch vụ ăn theo ngày càng mọc lên như nấm, trong đó có dịch vụ bán heo quay cúng và dịch vụ cúng thuê. Điều đáng nói là hầu hết những vị thầy cúng ở đây đều là tự phong, những bài cúng của họ cũng là tự “sáng tác” nhưng lại rất được khách hành hương tin tưởng. “Để có được mâm cúng đầy đủ lễ vật như heo quay, hương hoa, trái cây… du khách phải bỏ ra ít nhất từ 1 đến 2 triệu đồng. Ai cũng muốn có một mâm lễ vật “hoành tráng” để thể hiện lòng thành với Bà Chúa Xứ. Nhiều người còn thuê hẳn một vị thầy cúng riêng để thỉnh nguyện, dù không biết vị thầy này sẽ thỉnh gì”, ông Lâm cho biết.
Theo ông Đào Minh Tâm, trong dịp Tết Nguyên Đán năm 2015, Ban quản lý miếu Bà Chúa Xứ sẽ tiến hành nhiều biện pháp nhằm hướng dẫn người dân tới thăm viếng thực hiện đúng nếp sống văn minh chốn tâm linh. Nhất là không để xảy ra tình trạng người dân chen lấn nhau vào lễ, không để xảy ra những chuyện mê tín dị đoan. Việc cầu cúng, thỉnh nguyện dịp đầu năm từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt nhưng cũng không nên vì thế mà người dân quá tin vào những điều chỉ có trong tưởng tượng. Nhất là không nên tin tưởng vào những điều chèo kéo của những “cò mồi” bên ngoài khu vực miếu. Nói về việc vay vốn, xin lộc làm ăn đầu năm, ông Tâm chia sẻ thêm: “Con người có tướng, có số, vũ trụ quay vòng, cây cỏ mùa xuân đâm chồi, nảy lộc, thu và đông kết trái. Con người có nghị lực, lại đến vận thì ắt làm ăn được. Nếu chỉ cầu xin mà giàu thì có lẽ chẳng ai cần phải làm việc nữa”.
Còn theo ông Huỳnh Văn Sơn (62 tuổi, ngụ tại chân núi Sam) thì núi Sam là một trong “Thất Sơn huyền bí” (một trong 7 ngọn núi huyền bí). Miếu bà Chúa Xứ được xây dựng ở khu vực này nên cũng hàm chứa nhiều bí ẩn với những câu chuyện đi vào truyền thuyết. Theo nhiều vị cao niên trong vùng thì trước đây, khi người Việt tới sinh sống ở vùng này phát hiện tượng Bà ở đỉnh núi nên mới bàn nhau khiêng xuống lập miếu thờ. Tuy nhiên Bà Chúa Xứ “hiển linh” vào một người tu hành bảo phải có 40 trinh nữ đến khiêng mới chịu đi. Dân làng đã làm theo và khiêng đến nơi thờ hiện nay thì Bà nặng trịch và chọn nơi này an ngự. Cũng có nhiều người cho rằng, Bà Chúa Xứ từng “hiển linh” báo mộng vào một cô gái, bảo phải có 9 cô gái đồng trinh khiêng kiệu mới di tượng. Một truyền thuyết liên quan đến ngôi miếu này, đó là nói về công lao ông Thoại Ngọc Hầu. Khi ông đi dẹp giặc ngoại xâm ở biên giới, bà Châu Thị Tế đã khấn vái Bà Chúa Xứ phù hộ ông dẹp yên giặc, gìn giữ xóm làng bình yên. Để tạ ơn những điều linh nghiệm, ông Thọai Ngọc Hầu cho thỉnh Bà từ trên đỉnh núi Sam về xây một ngôi miếu khang trang dưới chân núi và chọn ngày 24 tháng 4 làm ngày cúng lễ Bà.
“Tuy rằng đó chỉ là những truyền thuyết nhưng vì lòng tin vào sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ nên nhiều đời nay, người dân luôn tỏ lòng sùng bái Bà. Nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán, nơi đây trở thành điểm du lịch tâm linh được rất nhiều người lựa chọn. Một số người còn tin rằng, Bà Chúa Xứ có thể thực hiện mọi điều ước. Nào là có thể trị khỏi bệnh, ban phúc, cho vay vốn làm ăn nhưng đó chỉ là niềm tin tâm linh, không ai có thể kiểm chứng. Còn nhìn vào thực tế, chỉ duy nhất những người làm dịch vụ ăn theo quanh khu vực là được cả vốn lẫn lời”, ông Sơn cho biết.
Cúng lễ tối giản
Ông Đào Minh Tâm, Phó Ban quản trị miếu Bà Chúa Xứ cho biết, niềm tin tâm linh của người dân vốn là nét đẹp văn hóa ngàn xưa. Nhưng nếu quá đà, nó dễ sa vào mê tín, dị đoan. “Miếu Bà Chúa Xứ là địa điểm tâm linh của người dân địa phương. Mấy năm trở lại đây, miếu còn là nơi tìm đến của nhiều khách hành hương từ khắp mọi miền tổ quốc và cả nước ngoài. Ngoài dịp lễ Bà từ tháng 4 đến tháng 6 thì Tết Nguyên Đán là thời điểm du khách tìm đến nhiều nhất. Trong các dịp lễ, người dân thường đến đây cầu cúng, xin lộc, xin được khỏi bệnh, vay vốn làm ăn… Tuy nhiên, đó chỉ là niềm tin tâm linh của người dân còn kết quả thế nào thì không ai dám khẳng định”, ông Tâm cho biết.
Cũng theo ông Tâm, tại khu vực miếu, việc cúng bái không bị ngăn cấm, cũng không có quy định, tất cả là tùy vào lòng thành của người dân đối với Bà. Với người dân địa phương trước đây, việc lễ lạt cúng lễ rất đơn giản. Họ có thể cúng bất cứ thứ gì, từ gạo, nước, trái cây cho tới gà, heo quay tùy vào khả năng kinh tế của từng người. Còn điều quan trọng nhất chính là lòng thành tâm. Tuy nhiên hiện nay, nhiều người lại mê muội rằng, muốn Bà ban phước thì phải có lễ vật thật lớn. “Theo tôi, nếu có thần thánh thật thì các Ngài chắc chắn không quan trọng chuyện lễ lạt. Bởi vậy, người dân không nên bỏ nhiều tiền của để thể hiện lòng thành. Việc dâng quá nhiều đồ ăn thức uống vào chốn tâm linh sẽ làm mất đi ý nghĩa và không khí nơi đây”, ông Tâm cho hay.
Ông Tâm trao đổi với PV.
Ông Tâm trao đổi với PV.
Chia sẻ về cách cúng lễ sao cho hợp lý và không vướng vào chuyện mê tín dị đoan, ông Tâm cho biết: Miếu Bà Chúa Xứ chỉ có một ban thờ chính nên việc tối giản trong cúng lễ là điều người dân nên làm, vừa tiết kiệm, vừa không làm ảnh hưởng tới mỹ quan của miếu. Việc đến cầu cúng lễ là do niềm tin tâm linh của người dân, vì thế không nên chạy theo phong trào phải có mâm cao cỗ đầy, tiền vàng. Điều này không những làm ảnh hưởng tới kinh tế mà vô tình lại rơi vào chuyện mê tín dị đoan. “Chuyện tới viếng Bà là do thành tâm, người dân không nên quá cả tin vào lời chèo kéo của những người ăn theo quanh khu vực miếu. Nhất là với những người từ nơi khác tìm tới, họ đặt niềm tin một cách mù quáng khi thuê hẳn người vào cúng lễ nhằm xin lộc, vay vốn làm ăn. Tuy đó là niềm tin của họ nhưng vô tình trở thành mê tín dị đoan. Việc cúng lễ không hề có sách vở hay quy định gì mà chủ yếu là do lòng thành, ước nguyện gì cũng là tùy ý”, ông Tâm chia sẻ.
Còn bà Nguyễn Kim Hoa (67 tuổi, một người dân địa phương) thì chia sẻ: “Việc hàng năm lượng người hành hương về đây ngày một tăng cho thấy niềm tin của người dân vào Bà Chúa Xứ là rất lớn. Bản thân tôi cũng thường tới viếng Bà vào những dịp lễ nhưng cảm thấy rất bức xúc trước nhiều hiện tượng cực đoan. Nào là việc chèo kéo của những người bán hàng rong, bói toán, xin xăm, nhất là niềm tin thái quá của người dân vào những chuyện không hề có thực như vay vốn của Bà Chúa, xin chữa bệnh tật. Mong rằng tình trạng này thời gian tới sẽ được khắc phục, trả lại cảnh quan, vẻ đẹp cho khu vực miếu Bà Chúa Xứ”.
Châu Anh
Báo Gia đình và Xã hội cập nhật tin tức trong ngày liên tục, mới nhất
http://giadinh.net.vn/xa-hoi/nghi-th...3133128501.htm
-
-
Cơm Âm Phủ
Posted on October 28, 2017 by dongsongcu
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Việt Nam là quê hương của cổ tích nên dường như con người, món ăn, tình cảm và tình yêu cũng được màu cổ tích. Trong khu rừng thần thoại đó, Huế nhỏ nhoi mà là lại lớn như chiếc hài xinh xinh của cô Tấm ngày xưa. Khổ thân cho Huế là trong cái cõi ta bà phiền trược nầy cũng hơi có nhiều cô Cám. Những cô Cám chung dòng máu anh em hay ghen tỵ và những bà dì ghẻ chanh chua Nhật Mỹ Tây Tàu. Người mơ giấc mơ hiền thục như cô Tấm thì nhiều, mà chiếc hài bị lạc lại vắng chàng hoàng tử áo xanh, cỡi ngựa hồng đi săn tình cờ nhặt được. Cũng vì thế nên những cô Tấm Huế đã bao năm rồi lớn lên thành những bà mẹ quê âm thầm lượm hoài thóc gạo một mình trong chinh chiến, vắng bóng chim tiên về phụ nhặt thóc, cho người bị lãng quên đi trầy hội Ướm Hài.
Tôi nhớ thuở đi học như nhớ trái thị vàng còn thơm trong chiếc bị, nhưng mỗi kỷ niệm học trò đều có những phút giây xao xuyến đầy cảm xúc đeo đẳng mãi cả một đời sâu… Tôi làm sao quên được thầy Lê Khắc Phó khi dạy về lịch sử Pháp xâm lăng. Dáng thầy đăm chiêu, mắt thầy xa vắng và tiếng thầy như tiếng kêu tội tình, trầm trầm, đứt đoạn: ‘… đến năm 1884, giang sơn Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay quân Pháp, tổ quốc Việt Nam chỉ còn trong lòng người dân Việt!’. Giọng Thầy bỗng nghẹn ngào. Thầy rút chiếc khăn mù-soa trong túi áo ra chặm nước mắt cùng lúc với tiếng chuông báo hiệu hết giờ. Giọt nước mắt của thầy xứ Huế sẽ hòa vào biển nước mắt của người dân Huế gần một trăm năm về trước đã đổ xuống trong cảnh nước mất nhà tan.
Sau ngày thất thủ kinh đô, cơn ác mộng kéo dài trên đất Huế. Bao kẻ hiền tài, người lương thiện chỉ qua một đêm là có thể thành tên tử tội, cơ nghiệp tan tành, chỉ vì bị bắn tiếng là theo Cần Vương mà không cần chứng cớ. Sông Hương biến thành
‘nhất giang lưỡng quốc’. Bên kia sông là giang sơn của Pháp với tòa Khâm Sứ, bên nầy sông vẫn là Hoàng Thành rêu phong sương phủ… thế giới u trầm, cúi mặt của vua quan với thân phận nếu không phải tiếng quốc kêu sương như Trần Cao Vân, Tăng Bạt Hổ thì cũng là cá chậu chim lồng như vua Thành Thái, vua Khải Định, vua Bảo Đại mà thôi.
Giấc mơ “xênh xang áo gấm về làng, ngựa anh đi trước võng nàng theo sau’ chỉ còn là vang bóng của ngày qua. Đã lác đác có những nhóm từ làng quê lên Dinh làm thuê, ở mướn cho các ông Tây, bà Đầm, mong thoát khỏi cảnh bùn lầy nước đọng. Phải chăng ‘Chén Cơm Âm Phủ’ bắt đầu từ đó:
Lên Dinh ở tớ Tòa Khâm,
Chén cơm âm phủ, áo đầm mồ hội…!
Trong tâm thức của người bình dân xừ Huế, ‘Cơm Âm Phủ’ là miếng cơm kiếm được bằng nỗi nhục nhằn, lao khổ; miếng cơm đổ mồ hôi, sôi nước mắt của kiếp người gian nan bất hạnh.
Thế rồi… mười, hai mươi, ba mươi năm sau, sông Hương vẫn âm thầm cưu mang ‘hai nước’. Nếu chỉ nhìn trên bề mặt thì trong mối giao tình, giữa thiên nhiên và ngoài xã hội, Tây vẫn là Tây; Ta vẫn là Ta; Huế vẫn là Huế xưa dịu dàng, thanh bạch như những dòng sông Xuân sau mùa lũ lụt. Nhưng trong thâm sâu, Huế mang chung thân phận trôi nổi của một đất nước mất chủ quyền. Đó là khi tuổi mất đi lòng tự hào quá khứ và tuổi trẻ không màng đến tương lại.
Hoàn cảnh mới đã tạo nên vùng đất mới. Vùng đất lau lách phía Đông tiếp giáp với đồng An Cựu, trở thành vùng Đất Mới. Nếu phải có rừng mắm để làm thuần những vùng đất mới Cà Mâu, thì phải có những tâm hồn trôi nổi quen chịu cay đắng giữa đời để làm thuần những vùng đất mới của Huế. Nơi vùng đất mới chưa thuần đó, mọc lên đồn lính Tây Khố Xanh, Săng Đầm; nổi lên những khu nhà mới chứa gái giang hồ; chỗ trọ qua đêm của những con buôn tứ xứ. Trên một gò đất cao tiếp giáp với con đường mòn có hai dãy hàng me dẫn ra bến sông Hương là cái chòi tranh mới mọc, xung quanh là ruộng nước mênh mông. Đó là cái quán cơm bên đường lộng gió mùa Hè và khép nép gió mùa Đông. Quán cơm bình dân không tên không tuổi mọc lên cùng thời với sự khởi công xây dựng sân vận động Huế (Stade Olympique). Đây là sân vận động độc nhất tại Đông Dương có vòng chảo đua xe đạp (stade vélodrome) khánh thành năm 1936 với sự hãnh diện của người Pháp bày tỏ công khai trên báo chí đương thời. Quán cơm bình dân nầy là tiền thân của quán Cơm Âm Phủ, nằm ngay trước mặt Stade Olympique Huế.
Quán hoạt động từ 11 giờ đêm đến 5 giờ sáng, khi có 3 phát súng lệnh của thành phố nổ rền báo hiệu sinh hoạt của một ngày mới bắt đầu. Đương lúc cả thành phố ngủ say là lúc quán và khách bắt đầu sinh hoạt. Giữa vùng đồng hoang hiu quạnh tối đen, ánh đèn dầu leo lét và bếp lửa lập lòe nhẩy múa theo gió khuya. Trong cái chòi tranh, thay cho bàn ghế là những cái đòn thô sơ trên nền đất. Cái đòn tre vừa đủ giúp cho khách tựa mông ngồi chò hõ mỗi tụm năm ba người; chia nhau chút ánh sáng vàng vọt và mảnh không gian trong quán xào xạc mái lá với bốn bề gió lộng. Trong cái vắng lặng hoang sơ của vùng đất mới, có một thế giới nhỏ bé đang sống về đêm với một nếp sống âm u, ẩn hiện trong ánh sáng mờ mờ gần như tan loãng vào bóng tối mông lung. Thế giới kia vụt biến mất giữa sáng ban ngày như những hồn ma đã tìm về cổ mộ trước bình minh. Đó là thế giới lạ lùng, cô quạnh và kỳ bí của Âm Phủ. Cái quán cơm nhỏ bé vô danh sống về đêm đó, đã được người đổi đặt tên là quán Cơm Âm Phủ.
Chủ nhân đời thứ ba của quán Cơm Âm Phủ là ông Tổng Phước Thôi, một cầu thủ đá banh xuất sắc của đội bóng tròn Công An Huế thuộc thế hệ ‘Tây Tiến’ hơn năm mươi năm về trước. Kiện tướng sân cỏ vang bóng một thời, nay là ông già tuổi ngoại lục tuần nho nhã, ngồi nhớ lại chuyện ngày qua để giở lần từng trang quá khứ.
Thực khách là loài chim ăn đêm: những người kéo xe, những cô gái ăn sương mà tụ điểm là những quán tranh lụp xụp quanh khu Xóm Mới. Đội ngũ gái ăn sương thuở đó khá nhiều, được nhà nước ‘bảo hộ’ cấp giấy môn bài, thu thuế du dương và khám ‘lục xì’ định kỳ để tránh bệnh phong tình cho đám con cháu Gaulois. Khách khuya khoắt nhất là các chú lính tuần canh; những nghệ nhân lang thang đờn ca xướng hát. Khách nửa đêm về sáng là những con bạc đò đêm xuôi ngược lên về sòng bạc lớn ở Kim Long.
Thực khách thì từng chặng, từng nhóm trong đêm mà quán thì phải phục vụ thâu đêm.
Mỗi người khách đều có một cảnh đời khác biệt, nhưng lại gặp gỡ nhau qua hai món ăn ‘âm phủ’ vừa hợp với cái khẩu vị cao lương cũng tốt, muối hột cũng xong; vừa hợp túi tiền khi xu hào rủng rỉnh, khi không còn dính một trự ăn ba; vừa no lâu, vừa đằm bụng: Đó là thịt heo dưa giá và cá sông ‘ 7 món’, ăn với cơm nóng thơm phưng phức suốt bốn mùa. Thức uống thì có rượu đế từng ly hay nước chè xanh có vài miếng gừng đập dí. Khí hậu về đêm, cho dẫu là đên mùa Hè, cũng rất cần đôi miếng gừng cay. Quán Cơm Âm Phủ đã trở thành điểm hẹn cho những ‘con ma sống’ dọc đường gió bụi rủ nhau về dừng chân ăn đêm.
Món đưa cơm chủ lực, dưa giá Huế, là một tổng hợp cây trái thổ sản địa phương đầy màu sắc: Màu xanh của cây kiệu, màu vàng của măng tre xắt thành sợi, màu đỏ của ớt trái chín xắt dài, màu trắng của giá đậu xanh. Tất cả dầm với muối thành dưa,ngã vị hơi chua chua và mùi nồng nồng đậm đà hương vị. Thịt heo lý tưởng là thịt ba chỉ đủ da, đủ nạc, đủ chút viền mở thanh thanh. ‘Heo Huế nhỏ con mà thịt săn mềm, thớ mịn, luộc phay chấm nước mắm Hòn thì ngon không chỗ nói’ (Vương Hồng Sến; Tôi Nhớ Huế, 1968. TSH 95). Dưa giá kẹp với thịt heo ba chỉ, chấm với nước mắm có pha chút đường, ớt, tỏi, ngọt thơm dịu dịu ăn một lần nhớ tới… chín tháng mười ngày. Làm dưa giá phải ‘có tay’. Gặp người có tay ‘lục bại’, làm dưa giá sẽ không ‘chín’ mà sẽ biến thành một mớ eo xèo, ma đói cũng lơ ăn!
Người Huế thường mang tiếng là hay ‘làm đày’ và ‘xét xét’ vì cái bản chất nhạy cảm và nhiều mặc cảm không tên tuổi, chỉ có thể ‘cảm’ mà không giải thích được. Vì vậy, chiếc nón bài thơ nghe đâu để che nắng, che mưa là việc phụ, mà công dụng chính là để ra đường ngăn tia phóng xạ của người đời ‘Răng em biết anh nhìn mà em nghiêng nón, trời mùa Thu mây che có nắng mô em…’ Ra đường thì vậy mà ngược lại, cái triết lý về nhà mẹ hỏi của Huế thật là gần gũi: ‘Chi cũng không bằng cơm với cá, chi cũng không bằng mạ với con’. Cá sông ‘bảy món’ của quán Cơm Âm Phủ được ưa chuộng trong bao nhiêu năm dài cũng là một phần hình ảnh về nguồn đơn giản mà thân thương đó.
Trong một bài khảo cứu về Huế, khi nói về cá tôm, (Thạch Nhân, St. Louis 1998) đã viết: ‘Nếu có đi nhiều nơi, ăn nhiều chốn mới thấy được cá Huế ngon là dừng nào. Cá bất cứ ở đâu, nếu tươi, thì cũng chỉ béo và ngọt. Riêng con cá Huế đến mùa(!) còn có chất thơm nữa. Đến mùa cá, chỉ cần một khúc cá kho ớt bột (khô hoặc nước), một đĩa nước mắm cay, nếu có thêm một ít mắm ruốc nữa càng tốt, và một nồi cơm nóng là đã có được một bữa ăn ngon hơn nem công chả phụng!. Đọc xong đoạn văn ‘ngon nhức răng’ trên, có người sẽ chảy nước bọt và hoang mang tự hỏi, không biết ông Thạch Nhân đã ăn nem công chả phụng lần nào chưa mà lại ‘làm hoanh’ so sánh với cá Huế một cách rất chi là hào sảng như vậy.
Cá sông ở Huế có khá nhiều loại, nhưng chỉ có một số loại cá ngon như: cá phác lác, cá kình, cá rô, cá diếc, cá tràu, cá trê, cá gáy, cá đối, cá ngạnh, cá cấn, cá mại, cá hỏn…. Nhưng đặc biệt và ngon nhất vẫn là cá bống. Cá bống chia làm nhiều loại: Cá bống cát, cá bống thệ, cá bống mù (hay còn gọi là cá bống trứng). Món cá bống Huế trứ danh là cá bống thệ nấu canh thơm, hoặc canh rau răm cho nhiều tiêu. Cá bống thệ kho riêng hay kho chung với thịt ba chỉ xắt mỏng. Một lớp cá, một lớp rau răm, ớt bột, đường, nước mắm, nước màu, tiêu sọ. Đun lửa riu riu cho đến khi thịt cá săn lại, dẻo quẹo mà giòn tan, ăn với cháo gạo buổi sáng hay với cơm nóng, các cô sẽ say men cá mà để cho cái eo chữ ‘V’ của mình thành ra chữ ‘A’ lúc nào không biết. Cá bống mù kho tiêu cũng là một loại cá kho cao cấp vì mắc và hiếm nên thường dành đặc biệt cho các bà đã khoe là nhờ ăn cá bống mù kho tiêu thời son trẻ, nên lúc về già, gõ lên cái bụng còn chắc nịch nghe ‘bong, bong’ như chén sành Thượng Hải(?!)
Thử nghe nhạc cụ Vương Hồng Sến, nhà khảo cổ học uyên bác Việt Nam, diễn tả lần đầu ra Huế ăn cá bống ở quán ăn ở cửa Thượng Tứ: ‘Con cá bống… ngon quá thể, ăn giòn đến xương cũng giòn; kỳ vĩ đều giòn, nhứt là cái đuôi vàng cháy, thật là giòn khớu, giòn rụm, hằm bà lằng giòn. Ăn mút từ miếng xương đầu, gặm từ khớp xương đuôi, ăn rồi bữa cơm xương rải đầy mặt đất, giựt mình nhớ lại thấy thú quá!’
Chỉ cần cá phác lác loại cá ‘bình dân’ thôi, nhưng qua tay các bà nội trợ, đã được chế biến thành lắm món: Các Phác lác vằm nhuyễn để ram vàng hườm, có vị thơm và ngọt thanh hơn cả món chả chiên truyền thống bằng thịt heo, thịt bò. Cá phác lác lóc thịt vằm mịn để nấu canh; nước canh trong, thịt cá trắng, bát canh ngọt tự nhiên và đầy hương vị. Cá phác lác kho nước, cá phác lác kho khô, cá phác lác nguyên con chiên vàng rộm, ăn giòn tan cả xương lẫn thịt.
Chủ nhân đầu tiên của quán Cơm Âm Phủ tuy chỉ dựng cái chòi tranh sơ sài nơi Xóm Mới, nhưng đã biết dựa trên nền móng vững vàng của thủy thổ và sản vật phong phú địa phương. Thêm vào đó, là sự khai thác khéo léo nhu cầu sinh sống của một tầng lớp khách hàng có nếp sinh hoạt ‘bềnh bồng’ độc đáo về đêm: Làm về đêm, ăn về đêm, ‘chơi’ về đêm… và đêm về mới sống thật.
Lịch sử Huế, trong suốt thời Pháp thuộc đến hôm nay, là một dòng lịch sử đầy biến cố nổi trôi theo số phận chung của toàn đất nước. Nhưng quán Cơm Âm Phủ trong lịch sử lâu dài đó vẫn không có gì thay đổi. Theo Đoàn Tuyền Châu, nhà dịch lý đất Lương Y ở Huế, thì cái tên Âm Phủ vốn đã mang sẵn tính ‘tiền định’. Âm Phủ là cõi siêu hình, tồn tại như một ‘linh thể’; cái biến dịch chỉ dành cho dương thế.
Sau này, quán Cơm Âm Phủ không còn dừng lại trên hai món chủ lực đầu nguồn là dưa giá thịt heo và cá sông kho ‘7 món’ nữa, mà đang chế biến các đặc sản thực phẩm của Huế theo sát với khẩu vị và nhịp sống của con người ‘dương gian’ trước mắt. Từ dĩa cơm thập cẩm đến khúc cá chình, dĩa lươn um hay món dồi trường và môi mép bò chấm mắm nêm… vẫn còn mang một hương vị hay hay, trong một khung cảnh là lạ riêng, rất chi là… âm phủ.
Thì cũng chỉ là một buổi hẹn hò trong quán nhỏ, nhưng mấy ai khỏi giật mình thảng thốt khi chợt nghe lời tình tự của đôi tình nhân Thành Nội xứ Huế: ‘Chiều tối gặp nhau ở ngã tư Âm Hồn rồi đi ăn cơm Âm Phủ!’
– Lời hẹn hò nghe mà dễ sợ, giống như ma, như quỷ dưới âm ty!
Một Dì Huế răng đen tóc bối, ngày xưa cha mẹ đặt đâu ngồi đó, cứ nghĩ chuyện tình yêu là sản phẩm của Tây Đầm, nên ‘ưng’ nhau ba năm chưa dám cầm tay, nói chi tới chuyện dễ sợ là hôn lên cái má, dù chỉ là chút trao gởi âm thầm riêng lẻ. Dì kỷ đáo để. Dì đợi cho đến ngày cưới mới chịu cầm… luôn cả cuộc đời người ‘nớ’. Lửa thời gian đốt tóc dì cháy bạc, nhưng dì chưa hề được sưởi ấm bằng những cơn sốt của tình yêu, nên dì mới dại miệng dại mồm, vừa móm mém nhai trầu, vừa đỏng đảnh bình luận như vậy.
Trong khung cảnh phong ba đã thành rêu phong của Huế thì lời hẹn hò trên đây có sức lôi cuốn mạnh hơn muôn lần những đợt sống tình lao xao tối bạc đầu mà chưa gối được lên bờ. Thôi thì cứ tưởng tượng cô bé có vầng tóc mây dài gần che kín mặt, thập thò đợi ‘người nớ’ dưới gốc đa già có rễ lạnh lùng như những chùm râu mọc ra từ tượng đá. Trong bóng chiều của Huế, hoàng hôn chưa tím mà nhà Thành Nội đã lên đèn vì rợp bóng cây xanh. Ngọn đèn lắt lay từ trong Miễu Âm Hồn như đôi mắt của linh hồn mở ra trừng trừng, chờ đợi. Một ngọn lá rơi trên tóc cũng làm cho cô bé giật mình, lạnh cóng, huống chi là bàn tay ấm áp của người tình. Cho nên, cái bản lĩnh của những chàng trai Thành Nội là biết chọn địa điểm hẹn hò. Một lần hẹn gặp ở miễu Âm Hồn sẽ thu ngắn bớt còn đường ba năm viết thư tình, cùn bao nhiêu là bút sắt, cạn mấy hồ mực mà sương khói vẫn cứ bay hoài trong mơ mộng. Có phải chăng vì ở Nội Thành đi đâu cũng có cảm giác ‘chập chờn ma dễ sợ!’ kể từ thời thất thủ kinh đô, đi về cần có chung hai bóng, mà người Huế Thành Nội có vợ có chồng sớm hơn là người Huế Bến Ngự, Nam Giao. Những người Huế Nội Thành cả nước đều biết như nhạc sĩ Văn Giảng – tức là Thông Đạt, tác giả Ai Về Sông Tương, thi nhân tiền chiến như Phan Văn Dật, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba… đều là những bậc có ‘nhà tôi’ từ khuya đến sớm. Trong lúc đó thì những người Huế ngoại thành, mãi vui với non xanh nước biếc như ca sĩ Hà Thanh ở đường lên ga Huế nên trễ tàu triền miên; hay nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở vùng Nam Giao thì lạc mất Diễm Xưa đến nỗi bóng xế trăng lu rồi, mà cơ khổ, vẫn chưa biết ‘quỳnh thơm hay môi em thơm’ (!).
Có người tự hỏi, nếu quân Tây đừng xâm lăng nước mình, thì Huế có Miễu Âm Hồn, có quán Cơm Âm Phủ hay không?
Hình như đã có một thi sĩ nào đó ở Huế đã trả lời mà không trả lời chi cả:
Nếu không có ai sinh ra trên mặt đất,
Ai biết màu trời của buổi Nguyên Sơ.
Trần Kiêm Đoàn
https://hoiquanph
https://dongsongcu.wordpress.com/2017/10/28/com-am-phu/