https://thnlscantho-4.page.tl/31-ng%....--.-74_75.htm
https://lh5.googleusercontent.com/--..._o/s800/10.jpg
“đặc tả” miếu cô hồn Miến Điện!
Printable View
https://thnlscantho-4.page.tl/31-ng%....--.-74_75.htm
https://lh5.googleusercontent.com/--..._o/s800/10.jpg
“đặc tả” miếu cô hồn Miến Điện!
Lễ tế Âm hồn ngày thất thủ Kinh đô
17:22 | 24/06/2011
Chiều ngày 24/6/2011 (nhằm ngày 23/5 Ất Mão), tại Đàn Âm hồn (cạnh cửa Nhà Đồ), phường Thuận Hòa, Huế, người dân đã tổ chức Lễ tế Âm hồn nhân sự kiện ngày thất thủ Kinh đô cách đây 126 năm (23/5 Ất Dậu - 5/7/1885).
Lễ tế Âm hồn ngày thất thủ Kinh đô
Đàn Âm Hồn được vua Thành Thái cho đắp bằng đất vào năm 1894, sau đó xây thành ngôi miếu và ngôi nhà ba gian một bên để cúng tế hằng ăn. Đàn Âm Hồn trên danh nghĩa là để thờ cúng các âm hồn phiêu bạt đây đó nhưng chính thực lại là sự ngấm ngầm tôn vinh các Chiến sĩ trận vong và cổ vũ cuộc chiến đánh đuổi thực dân Pháp.
Gửi
Gửi
Đàn Âm Hồn được vua Thành Thái cho đắp bằng đất vào năm 1894, nay chỉ là phế tích
Vào đêm ngày 22, rạng sáng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu (ngày 4 - 5/7/1885), Tôn Thất Thuyết đã chỉ huy cuộc tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá và Tòa Khâm Sứ. Do bị bất ngờ nên quân Pháp hoảng loạn, nháo nhát. Đến sáng chúng bắt đầu mở cuộc phản công, quân ta chiến đấu oanh liệt nhưng do vũ khí lạc hậu, thô sơ nên thất bại. Quân Pháp đánh chiếm Kinh thành Huế, khi xông vào bọn chúng gặp ai giết nấy, đốt phá, cướp giật và hãm hiếp, tiếng khóc vang trời dậy đất. Ngày 23 tháng năm năm Ất Dâu - 1885, Kinh đô Huế chìm trong máu lửa, đổ nát, tang thương, hằng chục ngàn binh linh, người dân chết và bị thương.
Gửi
Gửi
Trước nỗi đau thương, mất mát của bao người con dân Việt yêu nước, Cụ Phan Bội Châu đã viết bài “Văn tế cô hồn ngày 23.5” với những câu như sau:
“Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!
Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng...”
Gửi
Gửi
Và trong bài “Vè thất thủ Kinh đô” đã ghi lại biến cố thất thủ Kinh đô năm 1885, với những cảnh tan thương do quân Pháp gây ra:
“Tránh thân cho khỏi súng Tây
Mẹ con chạy vạy trời rày còn khuya
Lao xao như cá trong đìa
Tránh sao cho khỏi súng lia vào mình…”
hay
“…Từ ngày Thất thủ Kinh đô
Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam
Lên dinh tớ ở Tòa Khâm
Chén cơm âm phủ, áo dầm mồ hôi…”
Gửi
Gửi
Người dân cúng 23/5 ở Miếu Âm Hồn (ở ngã tư Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tôn)
Hằng năm vào ngày Thất thủ Kinh đô 23/5, người dân thành phố Huế và các vùng lân cận tổ chức Lễ tế Âm hồn và cúng cô hồn từ ngày 23/5 đến cuối tháng 5 âm lịch. Lễ tế, cúng cô hồn 23/5 là biểu hiện lòng kính trọng của người dân Thừa Thiên Huế đối với các chiến sĩ bỏ mình vì Tổ quốc và thể hiện lòng tri ân của người dân Huế đối với đồng bào tử nạn vào năm 1885. Đây là một hoạt động tâm linh đầy tình nghĩa dân tộc và đồng bào, là nét văn hóa độc đáo đầy tính nhân văn của người dân xứ Huế.
Dưới đây là một số hình ảnh cúng tế Âm hồn
nhân ngày Thất thủ Kinh đô 23/5 tại thành phố Huế
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
Gửi
PV
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tu...u-Kinh-do.html
https://www.youtube.com/watch?v=7Oat0pi8iiU
Chuyện tâm linh - Những ngôi miếu oan hồn ở ven đường
https://www.youtube.com/watch?v=IBAvqCarG5Q
Chuyện lạ nhất - BÍ ẨN NHỮNG NGÔI MIẾU THỜ VEN ĐƯỜNG
Chùa Ba Đồn ở Thừa Thiên Huế
Chia sẻ ngay
Nội dung [Hiện]
Huế có thể nói là quê hương của Lăng Tẩm – Chùa – Đền – Điện – Miếu. Du khách đến Huế ai mà không nghe danh lăng Tự Đức, chùa Thiên Mụ, chùa Diệu Đế, đền Nam Giao, điện Ngọc Trản (Hòn Chén), miếu Âm Hồn, v.v..
Tuy chưa thăm nhưng nghe tên không mấy lạ, nhưng lần đầu nghe tên chùa Ba Đồn, tôi cứ ngớ ra. Nhiều năm trước, tôi có đến một vùng gọi là Ba Đồn để tìm một cây đa. Ba Đồn ở đấy đúng nghĩa có 3 đồn bót của Pháp ngày trước. Tôi đã cố tìm một vài dấu tích của địa danh này, nhưng tất cả đã bị con người và mưa gió khỏa bằng, chỉ còn tên gọi trong dân gian. Chùa Ba Đồn, chẳng lẽ cũng là nơi có 3 đồn lính?
Lịch sử chùa Ba Đồn
Chùa Ba Đồn trước khi hình thành là khu đất làm nơi cải táng chôn cất các mộ phần không có thân chủ khi vua Gia Long xây dựng kinh thành năm 1803, xây đàn Nam Giao năm 1806 và quan quân, dân chúng tử nạn khi kinh đô thất thủ vào ngày 23 tháng 5 Ất Dậu (1885).
Năm 1803, để xây dựng Kinh thành Phú Xuân, vua Gia Long (1802-1819) cho giải tỏa tám ngôi làng ở bờ bắc sông Hương, nhà cửa và mồ mả phải di dời. Những mồ mả không có người thân được quy tập lên vùng đất này và Cồn mồ tám làng hiện thành. Năm Quý Hợi (1803), tại Cồn mồ tám làng, vua Gia Long cho dựng bia đá ghi ơn vua cho hợp táng những người không người thờ tự, khắc ngày 7 tháng 3 năm Quý Hợi (tức là ngày 27/4/1803).
Khi xây dựng đàn Nam Giao và lăng Gia Long, các mồ vô chủ lại được dời đến tiếp tạo thành Cồn mồ thứ hai nằm về phía nam của Cồn mồ tám làng. Theo L.Sogny, riêng bia Cồn mồ thứ hai có ghi cho biết, có khoảng 3.700 người an nghỉ ở đây; Cồn mồ thứ ba cho biết có 2250 người. Đến năm 1835, vua Minh Mạng cho lập một bàn thờ ở giữa trời (đàn) tại Cồn mồ tám làng để hằng năm nhà nước tổ chức cúng tế. Về sau cho dựng thêm hai đàn nữa để cúng tế những cô hồn của Cồn mồ thứ hai và thứ ba. Dân chúng gọi ba Cồn mồ có ba đàn hằng năm tế lễ đó là Cồn mồ Ba Đàn (Ba Đồn). Sau ngày thất thủ Kinh đô (23 tháng 5 Ất dậu, 1885) thực dân Pháp đánh chiếm Huế, dân chúng và binh lính trong thành bị giặc Pháp giết hại khi chạy theo vua ra các cửa Nhà Đồ, cửa Hữu làm chết hàng ngàn người. Lúc đầu người chết được dập hai bên lề đường và ngay trong các vườn nhà chung quanh. Về sau người Pháp bắt dân chúng phải cất bốc hết các mồ mả chôn trong và ngoài Kinh thành. Những mồ vô chủ lại được đưa lên Ba Đồn “hợp táng” hình thành thêm một số Cồn mồ nữa. Đó là nơi an nghỉ của quân lính, sĩ quan, thường dân hy sinh trong Kinh thành Huế ngày 23/5 Ất Dậu (5/7/1885), số lượng không rõ.
Từ thời Gia Long, một cái miếu nhỏ được dựng lên để hương khói quanh năm. Cuối thế kỷ XIX, cái miếu đổ nát, bà Nguyễn Thị Lựu (bà ngoại của vua Thành Thái) bỏ tiền trùng tu
Thờ cúng tại miếu Ba Đồn
Việc tế lễ cúng bái tại Ba Đồn được các vua từ Minh Mạng đến Duy Tân rất chú trọng. Ví dụ như thời Thành Thái rất thiếu thốn thế mà lễ vật hằng năm dùng cho việc tế ở Ba Đồn gồm có Ba con lợn, 15 đấu nếp, 45 chén gạo, 15 chén muối, và các thứ khác như hương đèn, rượu, cau trầu, đồ vàng bạc bằng giấy. Từ đời Thành Thái – Duy Tân mỗi năm chỉ tế lễ vào ngày Thất thủ Kinh đô 23.5 âm lịch. Đối với dân chúng, hằng năm các phổ tổ chức cúng tế vào ngày 16 tháng Giêng (Minh Niên) và ngày 16 tháng Chạp (Tất niên). Từ sau ngày có thêm ba đồn 4,5,6 ngoài việc thờ Thánh, miếu thờ thêm các cô hồn đã mất trong Biến cố 23 tháng 5 Ất dậu, các phổ lại tổ chức lễ cúng âm hồn nữa. Lễ cúng âm hồn kéo dài cả tuần lễ, bắt đầu từ ngày 23 tháng 5 cho đến cuối tháng 5. Các Phổ tự chọn ngày tế riêng hoặc hợp tế tùy theo năm.
So với các miếu tại Huế và trên tòan quốc, không nơi nào thờ cúng một số lượng cô hồn đông đảo như miếu Ba Đồn. Do đó dân chúng nghĩ miếu Ba Đồn là rất linh thiêng. Miếu Ba Đồn trở thành nơi bói xăm của bá tánh. Người đoán xăm là người có ăn học, phần lớn là các nhà sư bán thế. Do yêu cầu của thực tế, hằng ngày tại miếu có một nhà sư đoán xăm. Rồi, vì sự có mặt của các nhà sư, miếu Ba Đồn rước thêm Phật về thờ. Miếu Ba Đồn có Phật, có sư dần dần trở thành chùa Ba Đồn.
Tuy ra đời khá lâu, nhưng chùa Ba Đồn không có trụ trì và chưa bao giờ được Giáo hội Phật giáo công nhận. Vị sư bán thế đoán xăm nổi tiếng của chùa Ba Đồn là ông Mật Giải – em ruột Hòa thượng Bích Phong (1900-1968), trụ trì chùa Quy Thiện (ở gần chùa Ba Đồn). Ông Mật Giải qua đời năm năm 1986 sau 45 năm gắn bó với chùa Ba Đồn. Đồng thời với ông Mật Giải có ông Triệu Bân (?) chủ tiệm vàng Vĩnh Hòa ở Huế, có nhiều công đức trong việc xây dựng chùa Ba Đồn như còn thấy ngày nay.
Những chuyện lạ ở Ba Đồn
Ông Nguyễn Đăng Hà (70 tuổi) – Bậc cao niên sống gần chùa cho biết: Sau ngày giải phóng vài năm, ông Châu Sơn làm trưởng ban thủy lợi đã tập trung dân về chùa Ba Đồn để đi đào công trình thủy lợi Nam sông Hương.
Một số thanh niên trong đoàn đi làm công trình thủy lợi cắm trại ngủ trên bãi cỏ Đồn 1. Đến nửa đêm, họ nghe có tiếng rì rào như tiếng gió. Bỗng nhiên nhiều người trong đoàn thấy có bóng dáng giống người đến đuổi mình. Nhưng các thanh niên này nghĩ chắc nhìn nhầm nên vẫn không đi. Hôm sau đi đào thủy lợi, người thì gãy tay, người gãy chân, người bị sốt phải nghỉ việc. Đêm sau lại có “người” đến đuổi nữa. Các thanh niên này sợ quá bèn chạy vào chùa xin ông Đinh (người giữ chùa, đời thứ hai) cho vào chùa ngủ không thôi “ngủ trên Đồn người ta đến đuổi”. Lạ là các thanh niên vào chùa ngủ thì không có việc gì. Sáng mai, không thanh niên nào còn dám ở chùa Ba Đồn nữa. Họ nhổ trại đi tìm nơi khác cắm.
Chuyện ông Nguyễn Đăng Hà kể nhiều người ở địa phương đều biết. Họ truyền tai nhau nghe. Không ai nói với ai nhưng tất cả đều tin rằng các vong linh ở chùa Ba Đồn đã, đang và sẽ trừng phạt những ai dám khuấy động nơi an nghỉ của họ.
Còn những thanh niên cứng đầu trong xóm thấy bãi cỏ bằng phẳng bèn lên đá bóng, nhưng kết quả người thì bị gãy chân, người lại gãy tay phải đi Bệnh viện.
Theo một người dân kể lại: “Trước năm 1975, có một chiếc trực thăng thấy Cồn mồ rộng rãi nên đáp xuống. Nhưng sau đó lại bay lên không được phải nhờ xe cần cẩu đến cẩu về Phú Bài”.
Chuyện chùa Ba Đồn không chỉ dừng lại ở đó. Chùa còn mang trong mình những bí ẩn về loài cỏ mọc nơi đây. Chung quanh cỏ mọc um tùm cao ngang đầu gối người, nhưng các Đồn lại chỉ có độc nhất một loài cỏ mọc ở tầm thấp, mãi không thể cao lên được.
Một nhà sư bán thế làm Phật sự lâu năm ở vùng này giải thích rằng: Vì các vong linh họ ở dưới đất nên chỉ cho loại cỏ bậc thấp mọc lên để giữ đất chứ không cho bất cứ một loại cây gì có thể sống trên mộ cả.
Một điều kỳ bí nữa mà người dân địa phương nằm lòng kể nhau nghe. Cứ mỗi độ đêm đông, trời tối mịt, nhất là vào mùa mưa, sấm dông đầy trời, lại có những đốm lửa lập lòe xuất hiện lởn vởn trên các Đồn. Theo các vị cao niên trong vùng thì đó là oan hồn của những người chết trận, của những hài cốt không người chôn cất. Những “linh hồn” này không bị đầy xuống địa ngục nhưng cũng không siêu thoát nên thường vất vưởng trên bãi chiến trường và những nơi đồng không mông quạnh. Những “linh hồn” này rất sợ ánh sáng nên chỉ có thể xuất hiện vào ban đêm, đặc biệt là những đêm đông trời dông bão. Nếu ai vô tình chạy ngang gần đó, nhất định những “oan hồn” này sẽ đuổi theo sau không dứt. Nhiều người dân đã “hoảng hồn” vì gặp phải chuyện “ma ám” này. Đó cũng là lý do mà nhiều người không dám đến chùa Ba Đồn này mỗi dịp mưa rét.
Giải mã những bí ẩn ở chùa Ba Đồn
Một cán bộ phường ( trú tại KV 4, P.An Tây – TP Huế) cho biết: Người này cũng từng nghe các cụ lớn tuổi kể lại về những chuyện lạ như đã kể ở trên. Người này còn nói: “mặc dù không được cắt tỉa gì nhưng cỏ ở đây vẫn chỉ mọc lúp súp dưới mặt đất”.
Tuy nhiên về hiện tượng cỏ không mọc lên cao được ông cán bộ này giải thích: Ở vùng này có hàng ngàn xác người nằm dưới đất. Xác chết phân hủy sinh ra khí phốt pho. Khí này rất nóng khiến không loại cây gì có thể mọc lên được. Hơn nữa ngày xưa người ta vãi muối lên Cồn mồ để những xác chết ở đây ít bốc mùi lên. Muối nhiều đến nỗi chẳng còn một cây nào phát triển được, ngay cả cỏ cũng vậy. Vì thế cỏ không mọc lên cao được cũng là điều bình thường.
Cán bộ phường còn cho biết chuyện những “oan hồn” ẩn hiện trong đêm có thể giải thích theo khoa học đã chứng minh. Đó là hiện tượng “ ma trơi” hiện tượng này xuất hiện do chất lân (Phốt pho) từ trong xương cốt người nằm trong đất tỏa ra, gặp ô xy trong khí trời nên bốc cháy thành ngọn lửa màu xanh nhạt, lập lòe, khi ẩn khi hiện. Ban ngày cũng có nhưng bị ánh sáng mặt trời che khuất nên không nhìn thấy.
“Sau nhiều chuyện xảy ra nơi đây, chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa những tai nạn như gãy tay, gãy chân khi vui chơi làm việc ở chùa Ba Đồn hay những người yếu vía, sức khỏe kém nên đến đây sợ quá mà ngất, nhưng nhiều người đã đồn thổi lên” người này bày tỏ.
Những hiện tượng xảy ra ở chùa Ba Đồn cũng ít nhiều làm cho người dân trong vùng hoang mang, lo lắng. Nếu không có những hiểu biết đúng đắn về các hiện tượng trên có thể chúng ta sẽ tiếp tay cho mê tín dị đoan lên ngôi, làm lu mờ nhận thức của người dân.
https://www.tuvikhoahoc.com/data/2017/08/ba-don1.jpg
https://www.tuvikhoahoc.com/phat-gia...hua-thien-hue/
Người trong trại thương cảm lập miếu thờ. Chúng tôi tới thắp nhang, đốt vàng mã và cầu nguyện cho vong hồn các cô siêu thoát, an bình nơi mỉền vĩnh cửu
http://damau.org/archives/29199
Chuyện ly kỳ quanh những đền chùa ma quái nổi tiếng linh thiêng ở châu Á
Thứ Ba, 23/02/2016 07:00:00
Những truyền thuyết li kì, đầy ma mị là một phần thu hút trí tò mò của khách du lịch đến với những vùng đất linh thiêng của phương Đông huyền bí.
1. Miếu thờ ma nữ Nak, Bangkok, Thái Lan
Truyền thuyết này kể về nàng Nak, hết mực yêu thương chồng là Mak. Khi Mak ra chiến trường, Nak và đứa con trong bụng đã chết ở nhà. Nhưng khi Mak trở về, anh vẫn thấy vợ và con mình còn sống. Họ sống vui vẻ, hạnh phúc như vậy cho đến khi Mak nghe được những lời bàn tán xôn xao của dân làng rằng anh đang sống với ma và chứng kiến nhiều chuyện kỳ lạ xảy ra trong nhà. Mak chạy tới ẩn náu tại một ngôi chùa (nơi ma quỷ không thể bước chân vào).
Hình ảnh mô phỏng Nak.
Điều đó khiến Nak giận dữ, gây náo loạn cả vùng Phra Khanong cho đến khi một pháp sư cao tay giam cầm linh hồn cô trong lọ đất nung. Có nhiều phiên bản kết thúc cho truyền thuyết này. Một số người nói Nak được cứu thoát khỏi chiếc lọ trong một trận lụt. Người khác lại kể một tu sĩ khuyên giải được cô đi đầu thai và sẽ gặp lại Mak ở kiếp khác.
Miếu thờ Mae Nak được cho là nơi chôn cất thi thể hai mẹ con Mae Nak. Ngôi miếu được xây dựng vào cuối thời kỳ Ayutthaya và nằm trong khuôn viên chùa Wat Mahabut, nó nằm sát cạnh con kênh Khanong Phra, thuộc phạm vi Bangkok. (ảnh: wiki)
Ngày nay, người dân và du khách thường đến thăm ngôi đền ở Phra Khanong, Bangkok để cầu xin sinh nở khỏe mạnh, mong chồng mình không phải rời nhà đi phụ vụ chiến tranh.
Bên trong đền thờ với nhiều hình phác họa chân dung nàng Nak khác nhau. (ảnh: wiki)
2. Chùa Mannenji, Hokkaido, Nhật Bản
Búp bê Okiku được đặt tên theo người chủ sở hữu cuối cùng. Truyền thuyết kể rằng, một cậu bé đã mua tặng con búp bê này cho cô em gái của mình, cô bé Okiku khi mới 2 tuổi. Cô bé rất thích coi búp bê giống như một người bạn, luôn gắn bó với nó. Tuy nhiên thảm kịch đã xảy ra, cô bé mất vì bạo bệnh.
Gia đình cô bé giữ lại con búp bê, nhưng một thời gian sau họ nhận thấy mái tóc của nó thực sự… mọc dài ra. Một thầy phù thủy nhận định linh hồn cô bé không thể siêu thoát và đã nhập vào thứ gắn bó nhất với mình.
Năm 1938, gia đình quyết định giao búp bê cho nhà chùa. Búp bê Okiku hiện vẫn được trưng bày tại chùa Mannenji thuộc Iwamizawa, Hokkaido. Con búp bê khá lớn, dài khoảng 40cm, mặc kimono truyền thống của Nhật Bản và mái tóc... vẫn đang mọc tiếp.
Khi mới xuất hiện tại chùa Mannenj, búp bê Okiku có bộ tóc trụi lủi, nhưng qua nhiều năm mái tóc đã dài ra đáng kể - khoảng 25cm và vẫn đang phát triển dù được tỉa tót hàng năm.
3. Đền Awashima, Nhật Bản
Awashima Jinja là ngôi đền chỉ dành riêng cho phụ nữ tại Nhật Bản. Ngôi đền nổi tiếng với bộ sưu tập búp bê đồ sộ, được nhiều du khách đến thăm khi đi du lịch châu Á.
Bộ sưu tập búp bê hơn ngàn con tại Awashima Jinja (Ảnh: Scribotarian)
Theo tín ngưỡng của người Nhật Bản, búp bê có linh hồn và sức mạnh có thể ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Do đó, đa phần người Nhật không dám vứt bỏ những con búp bê cũ vì sợ nó sẽ quay lại trả thù. Thay vào đó, những người phụ nữ Nhật Bản thường mang búp bê, đồ chơi cũ trong gia đình đến đền Awashima Jinja để gửi lại đây, sau đó sẽ có những lễ tiễn búp bê ra biển.
Người Nhật Bản tin rằng những con búp bê có linh hồn (Ảnh: Cribotarian).
Qua năm tháng, số lượng búp bê trong đền Awashima Jinja đã lên đến hàng ngàn con. Bên cạnh búp bê, ngôi đền có có rất nhiều tượng và mặt nạ… Chính vì tín ngưỡng linh hồn cùng đủ hình dáng khuôn mặt búp bê nên ngôi đền trở nên khá huyền bí và có phần “kinh dị” với những ai yếu bóng vía có dịp du lịch đến đây.
Những bức tượng được để lại trong đền Awashima Jinja (Ảnh: Oliver Selwyn)
Chèo thuyền mang búp bê ra biển hàng năm. (Ảnh: Scribotarian)
4. Đền Tanah Loh, Indonesia
Tanah Loh là một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất tại đảo Bali. Ngôi đền này nằm tại bờ Tây của một trong những hòn đảo nổi tiếng xinh đẹp của châu Á.
Tanah Loh nổi bật giữa biển khơi. (Ảnh: Heng Steven)
Ngôi đền Tanah Loh xinh đẹp là điểm đến không nên bỏ qua trong tour du lịch mùa hè năm nay. (Ảnh: Dagmarita Smulewicz)
Tanah Lot có lẽ là ngôi đền đạo Hindu đẹp nhất cho đến khi bạn gặp những con rắn bò lổn ngổn trong đền. Chúng không chỉ đơn thuần là những con rắn đất vô hại mà là rắn biển, một số loài siêu độc.
Theo như truyền thuyết, Tanah Lot được khởi công bởi một người theo đạo Hindu có tên Danghyang Nirartha. Sau khi người này xây dựng xong ngôi đền trên một mỏm đá thuộc bờ biển Bali, vị chúa của vùng đất này trở nên đặc biệt thèm muốn ngôi đền. Vị chúa ra lệnh cho Nirartha phải rời hòn đảo và bỏ lại ngôi đền. Khi không thể chống cự lại sức ép của vị chúa, Nirartha đã ném chiếc khăn của mình choàng vào những con rắn biển và giao cho chúng sứ mệnh bảo vệ ngôi đền khi ông rời khỏi đảo.
Rắn biển xám đen - vị thần mang sứ mệnh canh giữ đảo
Cho đến ngày nay, những con rắn vẫn đang làm tốt nhiệm vụ của mình và khi thủy triều xuống, những du khách can đảm có thể đến hòn đảo đầy rắn này. Được coi là những chiến binh giữ đền, rắn biển xám đen là một loài rắn cực kỳ nguy hiểm. Điều đáng buồn hơn cả là những nguy cơ xói mòn mà đền Tanah Lot đang đối mặt mặc dù đã được trùng tu vào những năm 80.
5. Đền thờ ở chân núi Osore, Nhật Bản
Núi Osore (hay còn được gọi là núi Osorezan) là một trong những ngôi đền thiêng nhất Nhật Bản nhưng đồng thời cũng là một trong những con đường dẫn đến địa ngục vì nó nằm trên vùng núi lửa hoạt động. Không khí nhiễm sulfur, mặt đất gồ ghề với những mạch nước nóng ngầm và những hồ nước gần đó bốc mùi tanh như mùi khí sulfur trong không khí.
Ngôi đền nằm dưới chân núi Osore được dẫn lên bằng con đường cõi âm.
Những con đường lên núi được ví như đường dẫn đến cõi âm. Ngôi đền được bao bọc bởi một con sông và tám ngọn núi cùng các hòn đá cuội dọc bờ sông được cho là do linh hồn của những đứa trẻ đặt vào để đánh dấu đường đi. Những bước tượng quanh quần thể đền được gọi là Jizo - vị thần xua đuổi ma quỷ khỏi đứa trẻ và các hòn đá đánh dấu đường. Những gia đình mất con thường mang đá cuội đến đền với hy vọng góp phần tạo nên một chiếc cầu dẫn dắt linh hồn con họ.
Tượng thần Jizo - vị thần xua đuổi ma quỷ khỏi những đứa trẻ và ngăn chúng phá những hòn đá đánh dấu đường
Nỗ lực của những linh hồn trẻ này dường như chỉ là vô vọng bởi những linh hồn xấu luôn đi theo và phá con đường đá mà lũ trẻ tạo nên. Và khắp ngôi đền, bãi biển, cánh đồng hoang… đều tràn ngập những món quà của các bậc phụ huynh dành cho con mình như chiếc chong chóng nhỏ sặc sỡ, đồng xu, kẹo bánh và nhiều món đồ chơi nhỏ. Họ còn tặng giày cho thần Jizo để giúp thần đánh đuổi quỷ sứ, bảo vệ lũ trẻ.
Khu đền đầy những món quà, đồ chơi nhỏ do các bậc cha mẹ gửi lại cho linh hồn con trẻ
Trong suốt lễ hội đền, những người phụ nữ được gọi là itako sẽ trò chuyện với những linh hồn và truyền tải thông điệp để người thân của họ. Những người phụ nữ được trời phú cho năng lực này nhưng lại thiếu mất một thứ khác: một đôi mắt sáng.
Theo như nghi lễ, cây cầu nhỏ ở núi Osore tượng trưng cho số mệnh của mỗi người. Nó là cây cầu dẫn đến kiếp sau, những người tốt sẽ băng qua cầu dễ dàng còn những người xấu sẽ không thấy được nó.
6. Chùa Rắn, Myanmar
Chùa Rắn là tên gọi khác của ngôi chùa Yadana Labamuni Hsu-taungpye Paya. Ngôi chùa có niên đại từ giữa thế kỉ 11 và 15 nhưng mãi đến những năm 70, những con rắn mới bắt đầu xuất hiện trong chùa. 3 con trăn lớn từ khu rừng gần đó đã đến và nằm ngủ quanh tượng Phật. Trong số đó có một con trăn đặc biệt khổng lồ, bề ngang bằng bắp đùi của người đàn ông và dài 5m. Tương truyền, đó là con trăn thiêng và là hiện thân của một trong số những vị thần trong đền.
Chùa Rắn thu hút đông du khách từ các tour du lịch đến Myanmar (Ảnh: Ed Sentner)
Kể từ khi xuất hiện tới nay, những con trăn khổng lồ trong chùa không hề rời đi mà đã trở thành những con rắn thần được các tín đồ và chư tăng kính trọng, chăm sóc mỗi ngày. Ngày nay, nếu đến thăm đền, du khách có thể tham dự nghi lễ tắm trăn vào 11 giờ sáng mỗi ngày. Bạn cũng có thể mạnh dạn sờ vào những con trăn này để cầu may.
Con rắn vẫn ở trong đền và được người dân cũng như du khách chăm sóc.
Rợn tóc gáy thăm hòn đảo búp bê bị ma ám
Giải mã bí ẩn đằng sau những bức ảnh có hồn ma
10 đồ vật bị quỷ ám có thật
TH (Vntinnhanh.vn)
http://m.depplus.vn/241/chuyen-ly-ky...o-chau-a-39555
Ngôi miếu hình con thuyền vô cùng lạ mắt ở Việt Nam
Kiến Thức 30/06/2015 19:00 GMT+7Gốc
(Kiến Thức) - Ngôi miếu hình con thuyền này có lối kiến trúc vô cùng lạ mắt với đầy đủ các "trang thiết bị" của một con thuyền như mỏ neo, bánh lái...
Khi đi dọc bãi biển Thanh Khê ở Đà Nẵng, nhiều du khách không khỏi ngạc nhiên khi bắt gặp một ngôi miếu hình con thuyền với lối kiến trúc vô cùng độc đáo, lạ mắt.
Công trình này chính là ngôi miếu thờ Cô Bác, còn gọi là miếu làng Thanh An, Thanh Thủy, hai làng chài khá nổi tiếng của Đà Nẵng.
Đây vốn là nơi tọa lạc một ngôi miếu nhỏ, đã có từ rất lâu đời.
Năm 2010, miếu bị bão phá hủy. Tại địa điểm cũ, dân làng đã xây dựng lại ngôi miếu với hình dáng con tàu đánh cá độc đáo.
Miếu được xây từ tiền đóng góp của người dân ở các làng chài ven biển Đà Nẵng và cả những cá nhân, gia đình ở nước ngoài.
Tên gọi miếu thờ Cô Bác thể hiện tục thờ cúng âm hồn của ngư dân ven biển Nam Trung Bộ, theo đó ngôi miếu là nơi thờ cúng vong linh những ngư dân thiệt mạng trên biển, không phân biệt là người ở đâu.
Miếu được xây dựng vững chãi với các cột móng chôn sâu vào cát đỡ con tàu phía trên.
Ngôi miếu hình con thuyền này có đầy đủ các phòng thờ cúng, bàn thờ, chỗ dựng tượng Phật.
Chính điện của ngôi miếu với đầy các bàn thờ, linh vị...
Các chi tiết kiến trúc được làm khá tỉ mỉ.
Đặc biệt, ngôi miếu có đầy đủ các "trang thiết bị" của một con thuyền như mỏ neo...
Bánh lái.
Mũi thuyền cũng được đánh số hiệu như một chiếc tàu cá quen thuộc của ngư dân Nam Trung Bộ.
Ngôi miếu hình con thuyền độc đáo của Đà Nẵng là nơi dân làng Thanh An, Thanh Thủy tổ chức các lễ hội như cầu ngư, cúng cơm hàng năm và thắp hương vào các ngày rằm, mùng 1 và Tết.
https://uphinhnhanh.com/images/2018/...nam-hinh-3.jpg
https://baomoi.com/ngoi-mieu-hinh-co...c/16951806.epi
Thực hư chuyện tái xuất của "rắn thần" tại miếu Bà
Cảnh báo biến chứng nguy hiểm của bệnh dạ dày, đại tràng: Chủ quan có ngày mất mạng
Thứ bảy, 30/03/2013 | 22:13 GMT+7 Trang chủ » Tin tức » Muôn màu cuộc sống
Tin liên quan
Những ngôi đền thờ rắn thần lạ nhất Việt Nam
Hàng trăm người tụ tập tại đền thờ rắn thầnTheo tin từ UBND huyện Hải Lăng, Quảng Trị, ngôi miếu Bà - nơi cha con ông Thiệt khẳng định đã nhìn thấy con rắn có kích thước khủng - là một trong những "chứng nhân" lịch sử của thôn Lam Thuỷ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, đây là căn cứ địa cách mạng. Dưới lòng miếu lúc bấy giờ là nơi hoạt động của các chiến sĩ cách mạng, từ miếu này nhiều đường giao thông hào cũng được đào dẫn ra nhiều nơi. Hiện miếu Bà đang được các cơ quan chức năng huyện Hải Lăng lập hồ sơ xin được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
Đêm hôm trước nằm mơ thấy có cụ bà đến nhắc nhở mình về tội dựng trại nuôi vịt cạnh miếu thiêng. Sáng hôm sau vừa thức giấc bất ngờ con rắn to lớn không biết từ đâu xuất hiện trong tư thế "ngồi xổm" nhìn thẳng vào mắt người đàn ông chủ trại vịt. Vừa sợ vừa mừng thầm, dân làng thôn Lam Thuỷ, xã Hải Vĩnh, huyện Hải Lăng (tỉnh Quảng Trị) tin rằng con rắn chính là vị "Ngài" của làng ẩn nấp bấy lâu nay "tái xuất" trở về thăm làng.
Hình ảnh Thực hư chuyện tái xuất của rắn thần tại miếu Bà số 1
Ngôi miếu Bà - nơi được cho là có "rắn thần" xuất hiện. Ảnh: Vân Sơn
"Rắn thần" nắn gân chủ trại vịt
Sự việc xảy ra cách đây đã hai năm nhưng đến nay mỗi lần nhắc lại ông Nguyễn Đức Thiệt (58 tuổi, trú thôn Lam Thuỷ) vẫn chưa hết sợ hãi. Ông Thiệt kể vào khoảng tháng 7.2010 tiết trời mưa lũ, nhằm cải thiện thu nhập gia đình trong thời gian nông nhàn nên ông mua đàn vịt nhỏ về chăn thả. Thấy bãi đất trống gần miếu Bà sát bờ sông Cổ Hà thoáng mát bèn chọn làm nơi dựng trại nuôi vịt. Dựng trại được vài ngày ông Thiệt thấy ruột gan bồn chồn lo lắng mà không hiểu nguyên nhân vì sao, cho đến một ngày: "Hôm đó trời mưa to, dông tố ầm ầm, tôi nằm mộng thấy có bà lão tóc bạc đến răn dạy miếu Bà là nơi linh thiêng, không được dựng trại nuôi vịt làm ô uế miếu và bảo tôi chuyển trại vịt đi nơi khác".
Giấc mộng lạ khiến ông chủ trại vịt tỉnh giấc và càng lo âu. Nhưng rồi cứ nghĩ đó chỉ là mộng mị nên vẫn tiếp tục trở lưng thiếp đi. Đến tờ mờ sáng ông Thiệt thức dậy cho đàn vịt ăn thì cảnh tượng "thật như mơ" khiến bản thân ông hồn xiêu phách lạc: "Con rắn to bằng đùi chân người lớn, dài khoảng 2m, đen nhánh toàn thân, thè lưỡi đỏ lòm. Nó nằm ngay dưới giường ngủ, đầu ngẩng cao nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Lúc đó sợ quá tôi chỉ biết chắp tay van xin thì nó lại nằm xuống một lúc khá lâu rồi trườn xuống sông. Con rắn to lắm, mỗi bước trườn của nó đè dẹp cả những đám cỏ tranh cao tốt " - ông Nguyễn Đức Thiệt nhớ rõ đến từng chi tiết.
Cũng theo lời ông chủ trại vịt này, bao năm hành nghề chăn vịt thường xuyên len lỏi chốn bụi bờ sông nước nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến con rắn nào to lớn đến thế. Dân làng thôn Lam Thuỷ xưa nay cũng chưa ai tận mắt nhìn thấy rắn to lớn như vậy xuất hiện. Như để minh chứng lời mình nói, ông Thiệt cho biết hôm "rắn thần" xuất hiện ông gọi cả con trai lên "ứng cứu" nhỡ có chuyện chẳng lành xảy ra. Thế nhưng như lời ông nói, đứa con trai vừa đến nơi chứng kiến con rắn có kích thước "khủng" liền khiếp vía bỏ chạy la làng. Người dân cho biết thêm con trai ông Thiệt sau lần đó có lẽ vì quá hoảng sợ mà tâm lý bất an, có triệu chứng hoảng loạn.
Hình ảnh Thực hư chuyện tái xuất của rắn thần tại miếu Bà số 2
Ông Nguyễn Đức Thiệt đang kể chuyện gặp rắn. Ảnh: Vân Sơn
Quá khiếp sợ, ông Thiệt vội vã tìm đến nhà thủ bộ của làng là cụ Nguyễn Trí Thản năm nay đã hơn 80 tuổi để cầu cứu. Được hướng dẫn, ông Thiệt trở về làm mâm cỗ mang đến miếu Bà làm lễ tạ lỗi rồi tháo dỡ trại vịt chuyển đi nơi khác. Không biết có phải nhờ thế hay không nhưng từ đó con trai ông Thiệt mới hoàn toàn bình thường trở lại như trước. Câu chuyện "rắn thiêng", "rắn thần" nhanh chóng trở thành đề tài "hót" ở vùng quê Lam Thuỷ từ đó. Nhiều bậc cao niên lúc đó mới cho hay trước đây từng nghe cha ông kể về con "rắn thần" sống gần miếu Bà. Tuy nhiên không ai có cơ hội diện kiến "Ngài" bởi chỉ những người hợp mạng mới được "Ngài" cho thấy.
Thực hư chuyện rắn hổ chúa báo thù ở Quảng Ngãi
“Thần xà” gây hoang mang”: Nhiều người đang lợi dụng “buôn thần, bán thánh”
“Thần xà” gây hoang mang”: Nhiều người đang lợi dụng “buôn thần, bán thánh”
“Rắn thần” - kỳ bí, thêu dệt hay sắp đặt?
“Rắn thần” - kỳ bí, thêu dệt hay sắp đặt?
Bóc mẽ chuyện “rắn thần có mào”
Bóc mẽ chuyện “rắn thần có mào”
Miếu thờ 3 "cụ" rắn ?
Chúng tôi tìm đến cụ Nguyễn Trí Thản, hiện đang đảm nhận chức thủ bộ làng Lam Thủy, để tìm hiểu về thực hư chuyện trên. Lật giở từng trang gia phả đã ố vàng, cụ Thản cho hay trong làng mình còn có ngôi miếu nằm bên bờ sông Cổ Hà là nơi thờ cúng 3 "cụ" rắn với ba bài vị, tên tuổi các "cụ" được ghi chép tỉ mỉ trong gia phả làng như sau: "Cụ thứ nhất tên Thủy Dái Húy Công Đệ nhất Nguyễn Tôn thần, cụ thứ hai tên Thủy Dái Đệ nhị Nguyễn Tôn thần, cụ thứ ba tên Thủy Dái Húy viện Đệ tam Nguyễn Tôn thần. Hằng năm, vào dịp giỗ làng, tên của 3 cụ vẫn được xướng lên trong các lễ cúng". Vị thủ bộ làng Lam Thủy cũng cho biết trước đây thi thoảng 3 "cụ" rắn có về thăm làng nhưng lúc ẩn lúc hiện. Mỗi lần "rắn thần" xuất hiện tức năm đó mùa màng bội thu, người dân ăn nên làm ra.
Lần các "cụ" rắn xuất hiện gần đây nhất là vào năm 1982. Người làng Lam Thủy bây giờ vẫn còn nhớ chuyện dịp rằm tháng 7.1982, khi dân làng đến chùa làm lễ cúng cô hồn. Đúng giờ hành lễ, trụ trì chùa tiến đến thắp hương trên bàn phật thì bất giác rùng mình nhìn thấy một con rắn đen, to bằng cổ chân nằm khoanh tròn "chễm chệ" dưới chân tượng Phật. Biết "Ngài" về thăm quê, nhà sư thắp nhang, quỳ gối niệm Phật như không có chuyện gì xảy ra. Lúc bài kinh kết thúc, vị sư trụ trì mở mắt nhìn lên thì không thấy "ngài" đâu nữa. Theo lời cụ Thản, chuyện này hoàn toàn thật 100% bởi không chỉ vị trụ trì mà nhiều người dân đến làm lễ cũng nhìn thấy. Cụ bà Nguyễn Thị Loan, 85 tuổi - một phật tử của chùa - xác nhận thêm: "Vì đứng gần bàn thờ Phật nên tôi thấy rất rõ "cụ" rắn nằm khoanh tròn, đầu ngẩng cao chăm chú nghe kinh. Thiệt tình lúc đầu tôi có phần hoảng sợ toan bỏ chạy thì nhà sư vẫy tay ra ký hiệu đừng làm kinh động ngài rắn".
Nói đến đây, tuy không khẳng định nhưng vị thủ bộ làng có ý liên tưởng rằng "cụ" rắn năm xưa và "cụ" rắn mà bố con ông Thiệt chứng kiến tại miếu Bà là một. Nhiều người mới nghe chuyện có phần hoài nghi có thể bố con ông Thiệt bịa đặt thì cụ Thản đặt câu hỏi ngược: "Chẳng có lý gì ông ta phải đặt điều huyễn hoặc, chẳng nhẽ tự dưng người ta lại nhờ tôi bày vẽ rồi tốn kém làm cỗ tạ lễ?". Như vậy có thể "cụ" rắn năm xưa sau gần 30 năm "mất tăm" nay lại xuất hiện tại làng. Thêm điều trùng hợp nữa là năm 2010 dân làng Lam Thuỷ lại được mùa bội thu khiến ai nấy càng tin rằng "ngài" rắn về thăm làng.
Ly kỳ giai thoại người sinh ra rắn
Nói về ngôi miếu thờ 3 "ông" rắn ở nơi mình sinh sống, cụ Nguyễn Trí Thản dẫn đọc từng câu chữ ghi chép trong gia phả của làng kể lại xưa kia trong làng có đôi vợ chồng sống với nhau nhiều năm nhưng không có con. Một hôm, người vợ ra tắm ở hồ nước lớn trước nhà thì đột nhiên mất tích bí ẩn. Dân làng đổ xô tìm kiếm khắp nơi nhưng không ai thấy tăm hơi người phụ nữ này đâu. Tìm kiếm vô vọng, người chồng cùng dân làng nghĩ rằng chị đã bị "hà bá" bắt đi bèn lập đàn gọi hồn. Kỳ lạ thay đúng 3 ngày 3 đêm sau người vợ bất ngờ trở về làng trước sự ngỡ ngàng của gia đình, hàng xóm. Thêm điều lạ nữa, sau khi về nhà không lâu thì phụ nữ này mang thai. Rồi cũng đúng chín tháng mười ngày người vợ trở dạ sinh nở như những phụ nữ bình thường khác. Thế nhưng ngay trong lần sinh đầu tiên thai phụ cho ra đời 3 quả trứng tròn trĩnh. Chuyện tưởng chừng chỉ có trong thần thoại nhưng người dân Lam Thuỷ tin chắc hoàn toàn có thật.
Chứng kiến cảnh tượng lạ, lại quá hoảng sợ nên người chồng đem 3 quả trứng để ngay ngắn trên mô đất cao đầu làng. Suốt mấy ngày sau đó hôm nào vợ chồng người nông dân kia cũng ra thăm nom 3 quả trứng như những đứa con của mình. Rồi một hôm, như thường lệ vợ chồng anh ra mô đất cao đầu làng người chết lặng bởi 3 quả trứng nở ra 3 con rắn. Chuyện người sinh ra rắn tức thì gây xôn xao xóm làng. Người thì cho đây là "điềm dữ" nhưng cũng có người lại quan niệm đấy là "điềm lành" bởi năm đó làng Lam Thuỷ lại lần nữa trúng mùa lúa.
Kể tiếp giai thoại đậm chất liêu trai mà cha ông ghi chép lại, cụ Thản nói: "Sau khi "hạ thế" được bốn tuần thì vào một đêm tối trời, mây đen từ đâu kéo về dày đặc, sấm chớp ầm ầm kèm theo trận mưa như trút nước. Cũng từ đêm đó mọi người không thấy 3 con rắn đâu nữa". Cụ Thản cho hay câu chuyện 3 "cụ" rắn gắn với làng mình đến nay đã xấp xỉ 200 năm nhưng bất kể người dân làng nào đều thuộc nằm lòng. Tung tích 3 con "rắn thần" được người dân lý giải rằng có thể các "ngài" đã di chuyển sang các tỉnh lân cận Thừa Thiên Huế hoặc Quảng Bình. Sự biến mất đầy bí ẩn của 3 con rắn khiến các bô lão trong làng quyết định lập miếu thờ tại mô đất cao nơi vợ chồng nông dân đặt trứng. Cho đến nay ngôi miếu thờ vẫn còn nguyên vẹn, bên trong miếu thờ 3 bát nhang tượng trưng cho 3 "ông rắn".
Theo lời người dân, miếu rắn cực kỳ linh nghiệm, hằng năm bậc bô lão đều tế lễ tại đây nhằm cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Miếu thiêng đến mức cách đây mấy thập kỷ khi tiến hành mở rộng đường làng người ta phải "né" miếu ra xa cả chục mét do sợ "phạm" đấng thần linh. Liên tưởng đến con rắn "khủng" mà cha con ông Thiệt chứng kiến, nhiều người thôn Lam Thuỷ một lần nữa tin rằng đấy chính là một trong 3 "cụ" rắn năm xưa.
http://www.tinmoi.vn/Thuc-hu-chuyen-...011258182.html
"Giải mã" ngôi miếu bí ẩn bên con đường đắt giá nhất Đà Nẵng
12/04/2016 02:13:20
Ngôi miếu tĩnh lặng nằm ở cuối đường Bạch Đằng - con đường đẹp nhất TP.Đà Nẵng, với nhiều trụ sở cơ quan hành chính quan trọng cùng các tòa nhà cao chọc trời. Điều gì khiến ngôi miếu không tên được giữ lại nơi “tấc đất tấc vàng” đắt giá này?
Nếu du khách tới TP.Đà Nẵng, chắc chắn đều muốn trải nghiệm vẻ đẹp của sông Hàn thơ mộng, với đường Bạch Đằng phồn hoa uốn quanh bờ Tây sông Hàn.
Ngôi miếu nằm nép mình trên con đường đắt giá nhất Đà Nẵng.
Đường Bạch Đằng, nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ thời Pháp như: UBND thành phố, Sở Tư pháp, Bảo tàng Điêu khắc Chăm… cùng nhiều công trình mang dấu ấn phát triển của thành phố như cầu quay sông Hàn, cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý…
Đối với người dân TP.Đà Nẵng, đường Bạch Đằng biểu tượng cho sự phồn hoa khi không có chút thời gian ngơi nghỉ, với chợ Hàn rộn ràng mua bán từ 2-3h sáng, với những chương trình, lễ hội quanh năm để phục vụ du khách trong nước cũng như quốc tế…
Hằng ngày nhiều người đi lại qua ngôi miếu...
...nhưng rất khó để du khách biết thông tin về ngôi miếu, khi ngôi miếu không có bảng tên, không có cửa.
Giữa dòng chảy không ngừng nghỉ, nhiều du khách không khỏi bất ngờ khi thấy ngôi miếu không tên chưa tới 10m 2 nép mình tĩnh lặng dưới cây đa cổ thụ, nằm ở cuối Bạch Đằng giao với đường Như Nguyệt chạy tới cửa vịnh Đà Nẵng.
Vào bên trong, ngôi miếu có thờ bức tượng Quan Âm nhỏ, xung quanh giản tiện với vài bông hoa cúc tươi ai đó vừa dâng lên…
Ngôi miếu nằm tĩnh lặng giữa các tòa nhà chọc trời.
Đặc biệt, bên mép đường Bạch Đằng, ngay cạnh ngôi miếu có hai ngôi mộ được xây gọn gàng và có cả bát hương.
Cuối giờ chiều, nhiều người dân Đà Nẵng đi dạo và tập thể dục qua ngôi miếu đều ghé vào vái một lạy rồi tiếp tục công việc của mình.
Hai ngôi mộ nằm ven đường Bạch Đằng, ngay cạnh ngôi miếu.
Ông Lê Văn Thu (78 tuổi, trú đường Duy Tân, quận Hải Châu, Đà Nẵng) cho hay: “Ngôi miếu có từ những năm 1960, khi Cảng Đà Nẵng đóng ở đây. Thời đó, ngôi miếu còn nhỏ hơn bây giờ, nhưng theo thời gian đã được tôn tạo dần lên và đến năm 1974 thì được xây dựng cơ bản như hôm nay. Miếu được dựng lên để tưởng nhớ những công nhân, lao động đã tử vong khi làm việc ở Cảng Đà Nẵng".
Ông Thu cho biết thêm, thời đó Cảng Đà Nẵng tấp nập tàu thuyền ra vào. Hằng ngày, hàng ngàn công nhân tham gia bốc vác bằng tay không những bao gạo, bao thiết bị… tới cả 100kg từ tàu xuống cảng. Vất vả và nguy hiểm nên năm nào cũng có người tử vong, vì vậy Nghiệp đoàn lao động của cảng đã lập ra ngôi miếu ngay cổng để công nhân hằng ngày thắp hương…
Ông Lê Văn Thu hằng ngày đều đi qua ngôi miếu.
"Hai ngôi mộ bên ngôi miếu là mộ thật. Hai nữ công nhân mang bầu làm việc trong cảng, do lao động quá sức đã đẻ non và các cháu đã ở lại đây” - ông Thu cho hay.
Theo ông, nhiều công nhân làm việc cho Cảng Đà Nẵng trước năm 1975 và sau này đều kính cẩn thắp hương mỗi ngày tại ngôi miếu. Họ thắp hương là để tưởng nhớ đồng nghiệp. Ngoài ra, họ tin rằng ngôi miếu rất linh thiêng sẽ phù hộ cho công việc nặng nhọc hằng ngày của họ được an toàn. Cũng bởi yếu tố lịch sử và sự linh thiêng của ngôi miếu nên rất nhiều lần thành phố xây dựng chỉnh trang, kéo dài đường Bạch Đằng, nhưng ngôi miếu vẫn tồn tại.
Theo Gia Hu
http://img.thoibao.today/home/fetch?...at-da-nang.jpg
http://thoibao.today/paper/giai-ma-n...da-nang-348587
ĐÔI NÉT VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG ÂM HỒN TẠI NGHĨA TRỦNG TỪ Ở XÃ PHAN RÍ THÀNH, HUYỆN BẮC BÌNH
Thứ sáu - 30/06/2017 10:19
Đôi nét về tín ngưỡng thờ cúng âm hồn tại Nghĩa Trủng từ ở xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình
Di tích Nghĩa Trủng từ
Di tích Nghĩa Trủng từ
So với các địa phương khác ở Bình Thuận, Hòa Đa xưa là vùng đất sớm có sức thu hút lớn những bộ phận dân binh từ các tỉnh Ngũ Quảng đến khẩn hoang, tạo lập cuộc sống. Trên mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa này, ông cha ta ngày trước đã để lại cho hậu thế nhiều công trình kiến trúc có giá trị tiêu biểu thể hiện sức sáng tạo và phản ánh một đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần, tâm linh tín ngưỡng hết sức phong phú. Bên cạnh tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ Cá Ông (thần Nam Hải)… tín ngưỡng thờ cúng âm hồn cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người dân nơi đây.
Vậy âm hồn là gì? Có thể hiểu âm hồn là hồn của người chết vì nhiều lý do khác nhau mà không được người thân hay biết, trở thành những linh hồn cô độc lưu lạc không nơi nương tựa, không người thân thờ cúng.
Nghĩa Trủng từ (miếu Nghĩa Trủng) tọa lạc tại thôn Bình Long, xã Phan Rí Thành (Bắc Bình) là thiết chế tín ngưỡng dân gian được tạo lập vào đầu thế kỷ XIX; được xem là một trong những di tích tiêu biểu về tục thờ cúng âm hồn ở Bình Thuận. Nghĩa trủng theo nghĩa của âm Hán Việt là ngôi mộ chung cho những người chết vì làm việc nghĩa. Nghĩa trủng ở Phan Rí Thành (Bắc Bình) không chỉ có những hài cốt của những người làm việc nghĩa, những chiến sỹ vô danh mà còn có hài cốt vô chủ khác. Ở phía sau ngôi miếu hiện có rất nhiều ngôi mộ được người dân địa phương quy tập, chăm lo thờ cúng và thực hiện tế lễ từ thời nhà Nguyễn cho đến nay.
Theo quan niệm dân gian, trên mảnh đất sinh sống của mỗi làng quê (do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh…) thường có sự hiện diện của những linh hồn không nơi nương tựa, họ chết vì nhiều lý do khác nhau trở thành những linh hồn cô độc, không được người thân hay biết, không người hương khói. Chính vì vậy, thờ cúng âm hồn, cô hồn cũng là đạo lý xưa nay của người Việt là sự cảm thông sâu sắc của người đang sống đối với những thân phận bất hạnh đã khuất. Bên cạnh thờ cúng âm hồn tại Nghĩa Trủng từ hay phối thờ trong các thiết chế tín ngưỡng dân gian như: đình, chùa, lăng vạn…, việc cúng cô bác âm linh tại các gia đình cũng tương đối phổ biến nhằm cầu mong cho gia đình, xóm làng được bình yên, công việc làm ăn thuận lợi, cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
Từ lâu, tục thờ cúng âm hồn là loại hình tín ngưỡng dân gian khá phổ biến trong nhân dân, nhờ được sự bảo trợ của nhà nước phong kiến triều Nguyễn nên tín ngưỡng này không ngừng được duy trì và bồi đắp trong suốt chiều dài lịch sử. Liên tiếp các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều ra các chỉ dụ cho quan dân địa phương trong cả nước chú trọng đến tục thờ cúng này. Vào thời Minh Mạng nhà vua cho lập đàn tế âm hồn chu cấp tiền bạc, phẩm vật, để hàng năm các địa phương từ kinh thành cho đến các trấn Gia Định, Bình Thuận, Hòa Bình, Phú Yên… chăm lo tế lễ. Đến thời vua Tự Đức việc làm này cũng được cụ Nguyễn Thông nói rõ trong bài Nghĩa Trủng Phú: “Vào năm Tự Đức thứ 18 (1865), nhà vua có lệnh sai tất cả các quan lập nghĩa trủng, kiểm tra thu nhặt hài cốt các mồ hoang mai táng một chỗ, hàng năm đến tháng hai thì ban tế một lần”.
Đó cũng là cơ sở để Nghĩa Trủng từ được thiết lập trên mảnh đất Hòa Đa giàu truyền thống vốn là trung tâm chính trị, văn hóa được các vua nhà Nguyễn chọn làm nơi đóng tỉnh thành (các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Đồng Khánh và Thành Thái tỉnh thành Bình Thuận đều đóng trên địa phận huyện Hòa Đa). Xưa kia đây là vùng đất đầy biến động bởi các cuộc giao tranh trong thời kỳ mở nước về phía Nam của chúa Nguyễn đồng thời hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ đã làm biết bao dân thường vô tội và binh lính tử nạn, để lại trên mảnh đất này nhiều mồ mả hoang. Ngoài ra, trước đây người dân sống tại các làng gần sông Luỹ cũng từng phải đối mặt với thiên tai, dịch bệnh làm dân cư suy tán và chết chóc rất nhiều. Lịch sử đã ghi lại làng Kỳ Xuyên đã từng xảy ra bệnh dịch tả giết chết nhiều người. Vì vậy sự hiện diện của Nghĩa Trủng từ trên mảnh đất Phan Rí Thành và tồn tại cho đến ngày nay cũng là điều dễ hiểu; thể hiện đạo lý của người Việt trọng tình nghĩa, biết xót thương những thân phận bất hạnh và tri ân các bậc tiền nhân đã có công khai phá vùng đất này.
Từ khi tạo lập cho đến nay di tích không ngừng được người dân chăm lo, tôn tạo và bồi đắp qua thời gian. Để đến hôm nay dù trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử di tích vẫn hiện diện trên mảnh đất này với đầy đủ các giá trị đáng tự hào. Đặc biệt là bảo lưu tương đối nguyên vẹn công trình kiến trúc dân gian của thế kỷ XIX và lưu giữ nhiều di vật có giá trị lịch sử văn hoá, trong đó tiêu biểu là 09 sắc phong của các đời vua triều Nguyễn (Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân và Khải Định). Cùng với nhiều câu đối, hoành phi được khắc trên gỗ, trong đó đáng chú ý là bức hoành phi khắc ba chữ Hán “Nghĩa Trủng từ” do tri huyện Hòa Đa phụng tạo, được treo trang trọng tại Chính điện đã nói lên vị trí tầm quan trọng của di tích trong quá khứ.
Như vậy, vào đầu thế kỷ XIX, bên cạnh các thiết chế tín ngưỡng văn hóa được hình thành trên mảnh đất Hòa Đa như đình, chùa, đền, miếu… Nghĩa Trủng từ cũng được thiết lập, trở thành chỗ dựa tinh thần của người dân địa phương từ trước cho đến nay. Việc tổ chức tế lễ hàng năm vào các dịp Thanh minh và rằm tháng Bảy thể hiện các giá trị đạo đức đầy tính nhân văn và tính cố kết cộng đồng, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tác giả bài viết: Phòng Bảo tồn và Quản lý di tích
Nguồn tin: Bảo tàng Bình Thuận
https://uphinhnhanh.com/images/2018/02/15/KO.jpg
Di tích Nghĩa Trủng từ
http://baotangbinhthuan.com/index.ph...-Bac-Binh-181/
http://anthropos.vn/wp-content/uploa...0/49207683.jpg
Tiền Giang: Lễ giỗ Tứ Kiệt - Anthropos.vn
Anthropos.vn800 × 600Tìm kiếm bằng hình ả
http://anthropos.vn/tien-giang-le-gio-tu-kiet/
LÀNG NÀNH
“Ai đi buôn đâu bán đâu
Tháng giêng mười tám rủ nhau mà về”
Đó là câu ca dao mà người dân Ninh Hiệp vẫn truyền nhau trong ngày hội làng.
Làng Nành (tên cũ là làng Phù Ninh) nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm có diện tích 38 ha, trên 15.000 dân với lịch sử hơn 1000 năm, có chợ vải, chợ thuốc bắc lớn nhất cả nước: chợ Ninh Hiệp.
Làng Nành vào đầu thời Nguyễn thuộc tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ năm 1831 là tỉnh Bắc Ninh). Xa xưa làng Nành là một làng lớn, gồm sáu giáp: Tố Thôn, Ninh Thượng, Nhân Hậu, Đính Thượng, Đính Hạ và Nội Đình. Cuối thế kỷ XVI, các giáp Tố Thôn, Đính Hạ, Nội Đình tách ra thành các làng (cũng là các xã) mang tên: Hiệp Phù, Ninh Giang, Ninh Xuyên (sau đổi thành Tế Xuyên); còn các giáp: Ninh Thượng, Nhân Hậu, Đính Thượng chuyển thành các làng: Thượng, Trung, Hạ nằm trong xã Phù Ninh.
Sau cách mạng tháng 8- 1945 các xã trên hợp nhất với các xã khác. Đến giữa năm 1956 tách ra thành xã Ninh Hiệp thuộc huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Từ tháng 5- 1961 xã Ninh Hiệp chuyển về huyện Gia Lâm – Hà Nội.
Vị trí làng Nành
1.Cổng làng:
Hình ảnh cổng làng cũ kĩ, đầy rêu phong đã trở nên quen thuộc đối với mỗi làng quê ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Bởi theo quan niệm truyền thống, bên cạnh cây đa, giếng nước, đình chùa, cổng làng vốn có ý nghĩa như một sự chào đón chân thành, hồ hởi của người địa phương dành cho khách. Nhưng, hiện nay trước “cơn gió” của nền kinh tế thị trường, hình ảnh “cái cổng làng” đang dần dần bị quên lãng.
May thay, ở Ninh Hiệp cái cổng làng – một phần “hồn cốt” của làng quê, vẫn còn được lưư giữ và trân trọng cho đến ngày nay.
conglangnanh cong2
Cổng làng Nành
Cổng làng trổ về hướng Đông Nam- nơi đón gió mát và mặt trời mọc. Và là một trong 13 cổng làng cổ nhất Kinh Bắc còn lại cho nên ngày nay.
Đây là cổng tam môn – cổng có quy mô bề thế nhất hiện nay, gồm một cửa chính và hai cửa nhỏ bên tả- hữu. Cổng làng Nành là cổng đẹp bên cạnh các làng khác như: Đông Ngạc, Đường Lâm( Hà Tây),… đã để lại ấn tượng đặc biệt trong du khách.
Lịch sử xây dựng cổng làng thì không ai nhớ chính xác. Ngay đến các cụ già làng khi được hỏi thì chỉ trả lời là cổng có từ lâu lắm rồi, khi các cụ sinh ra thì nó đã có. Như vậy cổng làng đã tồn tại hằng trăm năm nay và đã lưu giữ nhiều kho báu vô giá. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, bom đạn tàn phá dữ dội nhưng cổng làng vẫn hiên ngang như minh chứng cho tinh thần đấu tranh bất khuất của người dân. Trong quá trình cải tạo lại đường làng thì nhiều lần định nâng cổng làng lên nhưng cuối cùng họ quyết định giữ nguyên vẹn cổng làng cho đến bây giờ.
Cổng làng trước đây có cánh cửa do bà con địa phương chung tiền dựng bằng gỗ hoặc bằng tre. Cổng có người thay nhau canh gác để bảo vệ bình an cho bà con khi có biến động. Ngày nay do quá trình phát triển thì các cổng làng đều không còn cánh cửa nữa.
Cổng làng là nơi chứng kiến các hoạt động của người nông dân, là nơi chứng kiến những phút giây đấu tranh anh hùng của người dân trong kháng chiến. Cổng làng cũng là nơi hẹn hò của các đôi trai gái. Cổng làng đứng đó như một chứng tích của lịch sử. Khi xa quê ai cũng phải cúi đầu, quay lại, nhìn và chào cái cổng làng. Người đi xa, khi về quê phải bước qua cổng làng mới về được tới nhà. Các quan trạng thời xưa, khi đỗ đạt vinh quy, áo gấm về làng, tới cổng làng đều phải kính cẩn “hạ mã”, cúi đầu rồi mới bước qua cổng. Theo phong tục thì khi trong làng có đám tang, trên đường đưa linh cữu người quá cố ra mộ phải qua cái cổng làng. Lúc này linh cữu phải khiêng hạ thấp xuống để người chết có lời cáo biệt. Ra đến mặt trước cổng làng, linh cữu phải hơi quay lại phía sau để linh hån người đã khuất được nhìn cái cổng làng lần cuối. Đối với người dân, cổng làng đã là một phần máu thịt trong mỗi người dân. Điều ấy cũng giống như làng không có cổng như nhà không có cửa.
Không gian xung quanh cổng làng
Cùng với thời gian rêu phong đã mọc đầy, những mảng tường loang xuất hiện ngày càng nhiều hơn làm trơ mòn, trũng lõm từng viên gạch, những vết nứt đã bắt đầu lộ ra. Đó là thực trạng xuống cấp chung của nhiều công trình di tích hiện nay và nếu không có những biện pháp bảo tồn kịp thời, hợp lý thì trong tương lai không xa hình ảnh chiếc cổng làng thân quen sẽ chỉ còn trong quá khứ của mỗi người.
Không gian xung quanh cổng làng Nành đã có nhiều thay đổi. Xưa kia, sau cổng làng bao giờ cũng có một quán nước nhỏ với chõng tre chơ vài hũ kẹo bột, kẹo vừng, bánh đa khoai hay dăm tấm bánh nếp, bánh gai. Nhưng giờ đây hai bên cổng làng, nhà cửa, quán hàng đã mọc lên san sát.
nanh1 nanh2
Nhưng vẫn còn đó cây đa cổ thụ sừng sững đứng bên cạnh cổng làng. Đây là chính là nơi dừng chân nghỉ ngơi của mỗi người dân khi bước chân về làng. Khó ở nơi nào có cổng làng như ở Ninh Hiệp khi vẫn giữ được nét “đặc sắc” này.
2.Quần thể cảnh quan có công trình kiến trúc:
Ở làng Nành hiện có khoảng 20 di tích lịch sử, văn hóa lớn nhỏ trong đó đã có 6 di tích được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Mỗi di tích đều gắn liền với những huyền thoại và sự tích góp phần làm giàu thêm truyền thống văn hóa làng xã nơi đây.
2.1 Chùa Nành:
Theo tương truyền, chùa Nành được xây dựng vào thời nhà Lý (1010-1225), nằm ở trung tâm của làng và mang tính bản địa độc đáo. Chùa Nành (hay chùa Cả) là tên thường gọi của chùa Pháp Vân Cổ Tự, thuộc hệ thống “Tứ Pháp” gồm các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.chuananh
Chùa Nành là một trong những ngôi chùa cổ nhất vùng đồng bằng Bắc Bộ, được xây dựng từ năm 207 đến năm 226. Lý Công Uẩn trước khi lên ngôi vua (1010) đã về trú ngụ ở chùa và được sư cụ Nguyễn Huệ Chung giúp đỡ. Năm 1583, Hoàng Thái Hậu Triều Mạc Trần Thị Trân đã đứng ra tu bổ chùa cùng Phúc Thành Công chúa. Năm 1675 Phúc quận công Hoàng Anh Hào đứng đầu xây dựng nhà bái đường. Năm 1733 Ninh quận công Nguyễn Thọ Tràng đứng đầu xây dựng hậu cung, hai dãy giải vũ, nhà động, tạc nhiều tượng Phật. Cuối thế kỷ 18, Chiêu nghi Hoàng hậu sinh Ngọc Hân Công chúa đã đem gác chuông, gác khánh về xây dựng nhà Thuỷ đình và Thạch sàng cho chùa. Trong những năm 40-45, đây là cơ sở của những cán bộ cách mạng cốt cán: như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng.
Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Hiện thời kiến trúc chùa chủ yếu mang phong cách thời Nguyễn (1802-1945). Chùa còn 104 gian, 106 pho tượng. Toàn bộ bình đồ nằm theo trục “thần đạo”, bố cục hình “nội công ngoại quốc”. Nhà tiền đường có bộ vì kèo thượng cốn hạ kẻ trạm hình mây xoắn là bộ vì kèo sử dụng duy nhất ở kiến trúc này. Hai bên tiền đường có chuông, gác khánh. Chùa thờ Đức Phật Pháp Vân, tượng đặt trong khám ngồi theo tư thế “kết ấn vị quý” tượng trương tín ngưỡng tôn giáo thời nguyên thủy.Ngôi chùa hiện nay còn có nhiều di vật của thế kỷ XVII, XVIII, như chuông đồng (1653), khánh đồng (1733), 3 tấm bia đá cùng nhiều pho tượng gỗ phủ sơn rất quý như bộ tượng Tam Thế Phật (tượng cao 0,80m, tòa sen và đế cao 0,70m), tượng Tuyết Sơn (cao 0,73m), tượng Bát bộ Kim Cang (cao 1,56m), tượng Thập Điện Minh Vương (cao 1,35m), tượng Thập bát La-hán (cao 1,08m), tượng Bà Nành v.v… Các pho tượng khác đều giữ được phong cách nghệ thuật Ấn Độ không lai, tạc vào thế kỷ 17, 18. Tượng Thập bát La Hán được các chuyên gia đánh giá là khá thực, không thua kém chùa Tây Phương.
Tượng Tuyết Sơn
Tượng La Hán
Chùa hiện còn nhiều hoành phi, câu đối và đồ thờ vàng son rực rỡ, còn khoảng 100 tượng, trong đó pho tượng Tuyết Sơn đầy vẻ linh thiêng, tượng 18 vị La Hán thì mỗi vị một vẻ thật sinh động.
Chùa được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1989.
2.2 Đình Hiệp Phù:
Đình Hiệp Phù (xóm 9) có thần phả ghi chép về Đốc tướng Bạch Sam, người được thờ Thành hoàng làng. Ông là bộ tướng của Thánh Gióng, có công đánh đuổi giặc Ân, được vua phong ấp ở Nành. Ông lập ấp, lấy vợ là Lý Nương, mất đi được chôn cất ở Nành. Nay vẫn còn ngôi mộ mà dân làng gọi là Mả Vua.
1matsauthanhda2 1matsauthanhda
Mặt sau thánh đá
Theo sự tích kể lại thì có giếng Bán Nguyệt vẫn chưa tìm được “Có giếng Bán Nguyệt có chùa Vân Tinh”.
2.3 Giá Ngự:
Theo sự tích kể lại thì đây là nơi gặp gỡ của các “quan âm”. Giá Ngự nằm ở trung tâm của làng có không gian xanh khá đẹp với nhiều loại cây xanh. Đặc biệt có hai cây đa do đích thân cố tổng bí thư Trường Chinh và nguyên tổng bí thư Đỗ Mười trồng khi hoạt động cách mạng tại đây.
So với trước đây thì diện tích của khu này bây giờ bị thu hẹp đi nhiều do xã cắt đất để xây dựng trung tâm thư viện của xã.
Toàn bộ khu di tích này đã được cải tạo lại cách đây 10 năm tuy nhiên nó vẫn giữ được nét kiến trúc như xưa.
Cây đa do nguyên tổng bí thư Đỗ Mười trồng
Cây đa do cố tổng bí thư Trường Chinh trồng
2.4 Đình Hạ Thôn:
Thành Hoàng được thờ ở đình là người họ Lữ (gọi chệch là Lã) tên Gia. Ngài sinh ngày 10-2 khoảng năm 200 trước CN tại Sài Sơn- Sơn Tây.
Ngoài thờ Thành hoàng là Lã Thừa tướng, đình còn thờ Vịnh quân công Nguyễn Đức Chiêm(1618- 1678) người con ưu tú của đất Nành làm hậu thần- người có công lớn trong việc xây dựng đình được lưu giữ đến bây giờ.
Đình Hạ Thôn được xây dựng năm 1670 với quy mô lớn, có nét chạm khắc độc đáo, tinh sảo, nghệ thuật kiến trúc đậm sắc thời Nguyễn. Có nhà Đại đình, hậu cung với các bộ vì phân gian, vì hồi, các cốn, cữa võng, hoành phi,..còn lưu giữ 3 tấm bia đá, hương án, khám thờ, kiệu, nát hương, chuông đồng. Và nhất là 9 đạo sắc phong thần của các triều đại (có sắc phong tắc “Lã Nam Đế Không Hoàng Đại Đế” mà hiếm thấy các vị thần khác có được).
Hiện nay đang tái tạo lại nhà bia đình Hạ Thôn.
31 32
2.5 Điếm Kiều:
Nơi đây thờ “Lý Nhũ Thái Lão Dược Sư thần linh” Tổ nghề thuốc và được phục chế năm 1992.
Tương truyền vào thế kỷ thứ XI có người con gái họ Lý (gọi là Lý nương) ham mê nghề bốc thuốc trị bênh cứu người đến nỗi không nghĩ đến chuyện thành lập gia thất. Một hôm trên đường vào rừng tìm cây thuốc, Lý nương gặp một bà lão tóc trắng như cước, da dẻ hồng hào và ban tặng cho Lý nương một cuốn sách. Lý nương hiểu rằng mình đã được tiên ban cho sách quý, về nhà bà ra sức học rồi đi chữa bệnh ở khắp nơi, tiếng tăm lừng lẫy. Một hôm, bà vượt sông Nhị Hà, qua dòng Thiên Đức, khi ngồi nghỉ dưới một tán cây của làng Phù Ninh (hay còn gọi là làng Nành xưa và xã Ninh Hiệp ngày nay), thấy cảnh vật hữu tình và con người nơi đây cần cù, hiền hoà, hiếu học, bà đã chọn là nơi dừng chân và truyền nghề, không chỉ nghề làm thuốc, trị bệnh cứu người mà cả nghề dệt vải. Khi bà mất đi, nhân dân ở đây đã tôn bà là” Lý Nhũ Thái Mẫu dược sư thần linh”, tổ sư của làng và lập đền thờ bà.
Đây là di tích có kiến trúc khá dơn giản và quy mô nhỏ nằm khiêm tốn bên đường vào trung tâm làng. Tuy nhiên đối với người dân Ninh Hiệp thì Điếm Kiều là nơi có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của họ.
Ở đây còn là nơi diễn ra lớp học chữ Hán miễn phí vào thứ 7 và chủ nhật hằng tuần do các thầy đồ làng Nành dạy đã thu hút rất nhiều người tham gia gồm đủ mọi tầng lớp và lứa tuổi.
Không gian bên trong Điếm Kiều
Cổng Điếm Kiều
2.6 Mộ công chúa Lê Ngọc Hân và mẹ Nguyễn Thị Huyền:
Mộ mẹ Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền- bên trái, Mộ tượng trưng công chúa Lê Ngọc Hân- bên phải
Bà là công chúa thứ 21 của vua Lê Hiển Tông, mẹ tên là Nguyễn Thị Huyền. Ngọc Hân tài sắc hơn người, kiều diễm, đoan trang, được mệnh danh là “Chúa Tiên”. Chính vì thế, khi Nguyễn Huệ đem quân ra “Phù Lê diệt Trịnh” thành công, nhà vua đã chọn Ngọc Hân làm ý trung nhân cho Nguyễn Huệ. Cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Hân với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã xua đi sự nghi ngờ của triều đình nhà Lê đối với Tây Sơn, nhờ đó mà đất nước yên bình, thoát cảnh nồi da nấu thịt.
Sau khi nhà Lê đổ, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (năm 1789), hiệu là Quang Trung, Ngọc Hân được phong là Bắc cung Hoàng hậu. Bà là người thông minh, học cao, biết rộng, biết người, đoán xét được mọi việc nên đã giữ được vai trò quan trọng trong sự nghiệp lớn của vua Quang Trung. Chỉ mới sáu năm chung sống, Hoàng đế Quang Trung đã đột ngột ra đi để lại Bắc cung Hoàng hậu còn trẻ (tuổi 22) và hai con nhỏ thơ dại. Ngọc Hân đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Phú Xuân – Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng, nuôi con. Bà gượng sống tới ngày 8-11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc ấy mới 29 tuổi. Triều đình Cảnh Thịnh lục đục, suy yếu và sụp đổ. Nhà Nguyễn lên ngôi với sự thù hận sâu sắc hoàng tộc trước. Các con của Ngọc Hân phải đổi sang họ Trần tránh sự truy đuổi của Gia Long Nguyễn ánh, nhưng chẳng tồn tại được bao lâu. Hoàng tử Văn Đức mất ngày 23-12-1801 khi mới 10 tuổi, và công chúa Ngọc Bảo mất ngày 18-5-1802 khi mới 12 tuổi. Thương con gái, cùng các cháu ngoại chết yểu nơi xa, năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền khi ấy đang sống ở Phù Ninh (Ninh Hiệp ngày nay) thuê người vào Huế, đem hài cốt của ba mẹ con Ngọc Hân về làng. Ngày 28-6-1804, ba bộ hài cốt được đưa về bến ái Mộ (Gia Lâm – Hà Nội) và ngày 11-7-1804 đưa về bản Dinh (tức dinh Thiết Lâm của bà Nguyễn Thị Huyền), sau đó ngày 16-7-1804 được an táng tại bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu làng Nành. Bà Nguyễn Thị Huyền không có con trai, đã ký hậu 50 mẫu ruộng tốt với làng và chuyển dinh Thiết Lâm làm đền thờ. Năm 1823, bà Huyền mất, thọ 70 tuổi, dinh Thiết Lâm thờ bà và mẹ con Ngọc Hân. Theo tộc phả họ Nguyễn Đình và truyền thuyết địa phương, vào khoảng thời gian từ đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị (1840) có người trong làng đã tố cáo việc thờ cúng này với chính quyền đương nhiệm. Vua Thiệu Trị đã ban sắc, bắt phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm. Mộ ba mẹ con Lê Ngọc Hân bị quật đào, hài cốt đổ xuống sông Hồng – nơi sau này dân lập đền Ghềnh thờ bà; chánh tổng bị lột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức.
Từ năm 1842, dinh Thiết Lâm bị phá, bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là “Vườn Dinh” và dựng lên một “Miếu cô hồn” kín đáo thờ Ngọc Hân. Thời gian trôi, mãi gần trăm năm sau, đến năm 1937 họ Nguyễn Đình đổi đất với làng lấy lại một phần dinh Thiết Lâm và lập lại đền thờ bà Nguyễn Thị Huyền cùng với Ngọc Hân. Và, tại bãi Cây Đại, cùng với việc sửa lại mộ bà Nguyễn Thị Huyền, dân làng cũng đắp nấm mồ tượng trưng của mẹ con Ngọc Hân, tương truyền là chính chỗ mà năm 1842 bị nhà Nguyễn quật phá.
2.7 Giếng Cầu Cả:
giengcauca12 giengcauca1
Giếng cầu Cả nằm phía trước mặt chùa Pháp Vân và ngay cạnh đường làng. Bên cạnh giếng là Bệ thờ Thần Giếng. Đây vừa là tín ngưỡng cổ đại ít nơi còn giữ được, vừa là nơi cung cấp nước cho dân làng làm đậu, làm tương từ bao đời nay. Miệng giếng hình tròn có đường kính 92 cm được xây bằng gạch. Thân giếng thẳng.
Hiện nay giếng không còn được sử dụng nữa. Người dân còn tận dụng không gian xung quanh giếng để kinh doanh dịch vụ vì ở đây có cây bàng lâu năm tán rộng xum xuê tỏa bóng mát cho khu vực giếng. Điều này cũng dễ hiểu vì hầu hết bên cạnh các giếng cổ thường mọc các cây cổ thụ như: cây đa, sanh,..
2.8 Ao Rối:
Đây là một trong những ao còn lại ít ỏi của làng Nành vì nhiều ao trong làng đã bị lấn chiếm và san lấp để xây dựng nhà cửa.
Ao Rối nằm ngay trước cổng chùa Nành – một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Rõ ràng vị trí này là phù hợp với phong thủy. Bởi vì những nơi thờ thấn không thể thiếu nguồn nước, đặc biệt là nước ở phía trước để tạo nên “tụ thủy tích phúc”. Người ta tin rằng với thế đất như vậy thì sức mạnh của thần sẽ lớn hơn và ban ân huệ cho con người nhiều hơn.
Đây là nơi diễn ra hoạt động múa rối ngày xưa. Tuy nhiên hoạt động văn hóa đặc sắc này đã không còn tồn tại nữa. Hình dạng của ao bị thay đổi nhiều so với trước đây. Ngày nay ao có kích thước hình chữ nhật với kích thước khoảng (đo sau). Xung quanh thành ao được xây dựng kiên cố với kè thẳng đứng bằng gạch và xi măng.
Ao Rối trước cổng chùa Nành
Không gian xung quanh ao
Ở giữa ao là tòa nhà với kiến trúc 2 tầng, 8 mái giống với kiến trúc của phương đình trong các đình làng.Không gian xung quanh ao mặc dù là các đường làng nhưng hoạt động buôn bán lại diễn ra rất sôi nổi. Giá như xung quanh ao là những hàng cây xanh mát kết hợp với không gian thanh tịnh trong chùa, môi trường ao được giữ sạch sẽ thì đây là nơi nghỉ ngơi lý tưởng. Đó cũng là mong ước chung của nhiều người trong làng.
2.9 Miếu Thượng:
Nơi đây thờ thành hoàng làng và bây giờ trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá cộng đồng của xóm 6 xã Ninh Hiệp. Miếu Thượng có không gian cảnh quan khá đẹp với hồ nước, cây đa.
mieuthuong12 mieuthuong1
3.Cổng nhà- tường rào:
Ninh Hiệp là một trong những xã có nền kinh tế phát triển với chợ vải lớn nhất miền Bắc. Người dân ở đây có kinh tế gia đình khá đầy đủ nhờ vào buôn bán vải. Chính vì vậy ở đây nhà cao tầng khá nhiều. Đồng nghĩa là các nhà truyền thống còn lại rất ít. Tuy nhiên vẫn còn một số it cổng, tường rào giữ được những nét kiến trúc xưa.
cong nha1 cong nha12
4.Không gian ngoài làng:
Làng Ninh Hiệp tiếp giáp với huyện Từ Sơn – tỉnh Bắc Ninh chính vì vậy mà không gian bên ngoài làng cũng có nhiều công trình di tích có giá trị lịch sử. Đó là miếu thời quốc mẫu và miếu thờ vua nhà Lý. Ngoài ra còn có các lăng thờ các vị vua nhà Lý nằm rải rác trên cánh đồng ngoài làng – nơi tiếp giáp với huyện Từ Sơn.
Miếu Thần Gò
Miếu thờ Vua
Miếu thờ quốc mẫu
(Bài viết của nhóm nghiên cứu, năm 2008)
FacebookGoogle+Share
http://disanlangviet.com/wp-content/...eu-tho-vua.jpg
http://disanlangviet.com/lang-nanh/
Nhơn Châu từ góc nhìn lịch sử
16:59', 30/8/ 2012 (GMT+7)
Thôn Thanh Châu là tên cũ của một cụm dân cư ở Cù Lao Xanh, người phương Tây trong các luồng hàng hải qua phương Đông từ thế kỷ XVI, XVII gọi là Poulogambir. Cù Lao Xanh có diện tích 5 km2, chiều dài của đảo 4km, nơi rộng nhất 1,2km, xác định tọa độ địa lý Cù Lao Xanh ở vị trí 130 36’ vĩ Bắc; 1090 30’ kinh Đông.
http://www.baobinhdinh.com.vn/datnuo..._dinhlang2.jpg
Đình làng ở Nhơn Châu và các sắc phong.
Cù Lao Xanh cách bờ biển nội thành Quy Nhơn 24 km về phía tây bắc và cách bờ tỉnh Phú Yên 22 km về phía tây. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi rằng Hòn Thanh Chim thuộc thôn Chánh Thành ở phía nam huyện, tục gọi là Cù Lao, là trấn Sơn Nam của cửa biển Thị Nại. Đầu thời Gia Long thuộc huyện Đồng Xuân Đạo Phú Yên, đến giữa năm Minh Mệnh đổi lệ thuộc huyện Tuy Phước. Tư liệu thuộc địa lại xác nhận về sự chính xác của sách Đại Nam nhất thống chí.
Năm 1997 đoàn nghiên cứu lịch sử thành phố Quy Nhơn đã phát hiện một tấm bia gỗ ở Miếu Thanh minh (Miếu cô hồn) ở thôn Đông. Bia dài 1,27m, rộng 0,47m có ghi tên 39 người và tập thể bô lão cúng tiền xây dựng miếu là 388 tiền, bia được lập vào mùa hè năm Thành Thái thứ 8 tức là năm 1888. Như vậy, cách đây hơn một thế kỷ đã có dân Cù Lao Xanh, lúc đó là đơn vị hành chính có dấu riêng cấp cơ sở thuộc thôn Chánh Thành. Đến năm Bảo Đại thứ 10 năm 1935 đã là đơn vị hành chính độc lập như các thôn làng khác. Sắc phong ở Miếu Thành hoàng gọi là Đình làng tọa lạc tại thôn Trung vào năm 1935 ghi là thôn Thanh Châu, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Văn tế ở thôn cũng ghi là Tuy Phước phủ, Chánh Thành xã, Thanh Châu thôn. Các họ Nguyễn, Trần, Đinh, Lê, Hồ, Phan, Phạm đến lập cư xóm ở Thanh Châu đến nay đã từ 5 – 6 đời đều có nguồn gốc từ Tuy Phước, Phù Mỹ theo nghề đánh cá rồi ở lại lập cư. Trong tấm bia lập năm 1896 họ nguyễn có 10 người, họ Trần có 10 người. Đây là hai họ có nhiều người đứng cúng xây dựng miếu thờ nhiều nhất, điều đó phản ánh đúng tình hình cư dân theo tộc họ hiện nay. Các tư liệu thuộc địa chỉ cho phép chúng ta nhận thức về sự tụ cư lập làng ở Nhơn Châu là vào giữa thế kỷ XIX trở về sau. Nhưng địa danh Bờlucambia đã được các nhà hàng hải phương tây ghi lại trên các tấm bản đồ đi về phương đông cách đây 4 – 5 thế kỷ.
Một bằng chứng khác là tại Nhơn Châu người ta phát hiện được khá nhiều gạch Chăm, các mảnh gốm Chăm, giếng Chăm lát đá ong hình vuông còn lại chứng minh từ xa xưa ở Cù Lao Xanh đã có người ở, ít ra cũng là một căn cứ tiền tiêu, án giữ kiểm soát lãnh hải, bảo vệ đất nước dưới các vương triều Chăm Pa, Đại Việt trong nhiều thế kỷ qua.
Có thể nói Cù lao Xanh là một trong những làng xã văn hóa biển điển hình của miền Trung nói riêng và cả nước nói chung. Nhơn Châu ngày nay được thành lập đơn vị hành chính là một xã đảo trực thuộc Thành phố Quy Nhơn và được chia làm 3 thôn: Thôn Tây, Thôn Trung và Thôn Nam. Ở đây có đầy đủ các di tích sinh hoạt tín ngưỡng đặc trưng của cư dân làng xã miền biển như: Thờ ngũ hành (có đầy đủ 5 miếu thờ Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ). Có Lăng ông thờ Nam hải thần ngư (cá voi); có Đình làng để sinh hoạt hội họp và thờ Thần hoàng làng phù hộ cho dân làng an cư lạc nghiệp; có Miếu Thanh minh (Miếu cô hồn) để thờ những linh hồn phiêu tán không có người thờ cúng. Ngoài ra còn có Chùa (Chùa Thanh Phước), Tịnh xá (Tịnh Xá Ngọc Châu)... Đặc biệt, tại Lăng ông Nam hải và Đình làng còn lưu giữ được 4 tờ sắc phong dưới triều đại nhà Nguyễn.
Ở Nhơn Châu còn có một ngọn Hải Đăng trên 100 năm tuổi do Pháp xây năm 1890 (là ngọn Hải Đăng xuất hiện sớm nhất tại Việt Nam) hiện nay vẫn còn hoạt động cũng là một điểm nhấn thu hút du khách gần xa khi đến thăm quan nơi đây. Hầu hết các kiến trúc này đều có niên đại trên 100 năm hoặc được xây mới trên nền kiến trúc cũ có từ trước đó hàng trăm năm.
Giờ đây khi đến với Nhơn Châu chúng ta sẽ thấy sự thay đổi lớn lao trên hòn đảo này. Nhơn Châu hôm nay đã khang trang hơn với những ngôi nhà ngói mới, đường bê tông kiên cố chạy dọc bờ biền, những chiếc ghe, tàu đậu chi chít ngoài mặt biển chờ những chuyến ra khơi. Với những tiềm năng về danh lam thắng cảnh cũng như các di tích lịch sử văn hóa Nhơn Châu hứa hẹn sẽ là một điểm đến hấp dẫn khách thăm quan khi tới Bình Định nói chung và Quy Nhơn nói riêng.
BẢO ĐỊNH
(Bảo tàng Tổng hợp Bình Định)
http://www.baobinhdinh.com.vn/datnuo...2012/8/131551/
UNCATEGORIZED
Ai được thờ trong các “Am” (Một loại đền thờ nhỏ ngoài trời) ở Việt nam?
May 25, 2017daophuongthaoblog
Trong tín ngưỡng tôn giáo, Am là nơi thờ Phật, phạm vi nhỏ hơn chùa. Miếu thờ thần linh bản thổ ở các làng, hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là “Am”.
Gioto-denTran222.jpg~original
Ngày nay ở xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường có ngôi chùa mang tự danh “Đa Am tự” có thể hiểu theo nguyên nghĩa là am chùa của thôn Đa (Đa – Bố – Đình là 3 thôn của xã Yên Lập). Từ “Am” phát triển lên thành chùa.
236950
Am và chùa là điểm thực hiện lễ giáo đạo Phật. Về sau thường dùng từ “am” để chỉ định là nơi yên tĩnh, tu tâm đọc sách của văn nhân các đời. Các nhà sư cũng thường tu tâm, đọc kinh Phật ở các am chùa.
Mời các bạn quan tâm đến đề tài tìm hiểu luận văn có cùng chủ đề “Ai được thờ trong các “Am” (Một loại đền thờ nhỏ ngoài trời) ở Việt nam?” của tác giả Michio Suenari tại đường link: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/24343
Title: Ai được thờ trong các “Am” (Một loại đền thờ nhỏ ngoài trời) ở Việt nam?
Authors: Michio, Suenari
Keywords: Văn hóa Việt Nam
Đền thờ ngoài trời
Đền thờ
Issue Date: 2004
Publisher: H. : ĐHQGHN
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/24343
Appears in Collections: Việt Nam học (LIC)
https://daophuongthaoblog.wordpress....oi-o-viet-nam/
ĐÌNH TRƯỜNG LẠC
(Xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa)
Đình Trường Lạc tọa lạc tại thôn Trường Lạc, xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; thờ các vị: Bản Cảnh Thành Hoàng, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải, Cao Các, Tiền Hiền, Thiên Y A Na, Tiền Bối, Âm Hồn, Cô Hồn.
Bố cục mặt bằng tổng thể của Đình Trường Lạc bao gồm các hạng mục: Nghi Môn, Án Phong, Chánh Điện, Nhà thờ Tiền Hiền, Miếu Thiên Y, Miếu Âm Cô (nằm bên ngoài khu vực đất Đình).
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đình Trường Lạc là địa điểm gắn liền với các sự kiện:
- Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đình Trường Lạc là địa điểm tập traung của quần chúng nhân dân (nòng cốt là Đội Thanh niên và nông dân) dưới sự vận động của các cán bộ Việt Minh đã thị uy, biểu dương lực lượng và đồng loạt tiến hành đi giành chính quyền.
- Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Đình Trường Lạc là địa điểm đặt trụ sở của Đội Dân quân tự vệ thay phiên nhau tuần tra canh gác, bảo vệ địa phương.
- Trong Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa kháng chiến (từ ngày 23/10/1945 đến ngày 01/02/1946), Đình Trường Lạc là địa điểm phục vụ cho Mặt trận, cứu chữa thương bệnh binh, kịp thời đưa các chiến sỹ về lại chiến trường tiếp tục chiến đấu.
- Giai đoạn 1945-1946: Đình Trường Lạc là nơi các cơ quan cấp huyện lấy làm bàn đạp tiến về các làng để xây dựng cơ sở cách mạng tại địa phương. Bộ đội, dân quân huyện Diên Khánh đã nhiều lần tập hợp lực lượng tại Đình để từ đây xuất phát đánh địch, diệt ác ôn.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đình Trường Lạc còn là địa điểm hội họp bí mật, là địa chỉ thông tin liên lạc của các cán bộ cách mạng; nơi tổ chức học tập, quán triệt các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng cho đến ngày quê hương hoàn toàn giải phóng.
Đình Trường Lạc được các vua triều Nguyễn ban tặng 12 đạo sắc phong:
- 03 sắc phong niên hiệu Tự Đức năm thứ 05 (1852);
- 02 sắc phong niên hiệu Tự Đức năm thứ 33 (1880);
- 02 sắc phong niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 02 (1887);
- 02 sắc phong niên hiệu Duy Tân năm thứ 03 (1909);
- 03 sắc phong niên hiệu Khải Định năm thứ 09 (1924).
Đặc biệt, di tích còn lưu giữ 01 bản Chế đề ngày 18 tháng 10 niên hiệu Minh Mệnh năm thứ 18 (1837); được viết ra nhân dịp mừng thọ Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng Thái Hậu (tức Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu - Hoàng hậu thứ 02 của vua Gia Long - mẹ của vua Minh Mệnh), tuyên cáo cho muôn dân, trong đó nội dung khoan hoà, ban bố ân đức cho dân và quan viên, lại ghi các hạng thuế má được khoan miễn.
Lễ hội “Xuân Thu nhị kỳ” truyền thống tại Đình Trường Lạc diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu hàng năm, thu hút đông đảo cộng đồng dân cư tham gia.
Tại Đình Trường Lạc, hệ thống kết cấu khung gỗ vẫn còn được bảo lưu; các hoa văn, họa tiết trang trí trên các cấu kiện kiến trúc được thể hiện tinh tế, sinh động, giàu tính biểu cảm và nghệ thuật. Ngoài ra, di tích còn lưu giữ được các hiện vật có giá trị về văn hóa, khoa học, lịch sử… Tiêu biểu là:
- 01 bức Hoành Phi “Trường Lạc Đình” có niên đại tháng 7 năm 1869 (niên hiệu Tự Đức trọng Thu);
- 01 Bài Vị có niên đại năm 1816 (niên hiệu Gia Long năm thứ 15);
- 01 Bài Vị có niên đại năm 1826 (niên hiệu Minh Mệnh năm thứ 17).
Ngày 22/8/2007, Đình Trường Lạc được xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 1523/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
http://svhtt.khanhhoa.gov.vn/Default...d-57c4f5158d49
Lễ cúng Miễu
Khám phá Lễ cúng Miễu Việt Nam
.
Nét đẹp Lễ cúng Miễu
Lễ cúng miễu mang tính dân dã, ban tổ chức cúng kiếng cũng mang tính dân gian. Ở Nam bộ, việc đình miếu đã bớt tính chính thống. Thời cận đại, giới phụ nữ có thể đến lễ bái hoặc tham gia một số công việc một cách tự nhiên. Thế nhưng việc tổ chức và tế lễ đều do giới đàn ông đảm nhiệm.
Trái lại, lễ cúng miễu thì bình dị hơn. Cả nam nữ, già trẻ đều có thể đến cúng lạy. Ban tổ chức cúng kiếng có thể là một bô lão, một trùm ấp, một nông dân, một phụ nữ. Lễ vật cúng kiếng biểu hiện cho tấm lòng của bà con trong xóm. Trừ một số lễ bị cấm kẹp theo truyền thống, nhìn chung không có quy định khắt khe như lễ cúng đình.
Tùy theo đối tượng của miếu thờ phượng, có lễ chia ra làm 3 loại lễ cúng miễu :
+ Lễ cúng miễu ông
Miễu ông là miễu thờ các vị nam thần xuất phát từ văn hóa Hán – Việt, gồm có Quan Công, Thổ địa, thần Nông. Nghi lễ cúng miễu ông là nghi lễ Nho giáo, gồm có các lễ : thỉnh Tro (thỉnh lư hương từ đền thờ chính về miễu, mang ý nghĩa thỉnh thần về dự lễ), cúng Tiến Yết, Chánh cúng, cúng Tiên sư, Tiền vãng (tức là những bậc đàn anh có công với xóm ấp, những người đứng ra lập miễu). Những nơi có điều kiện có thể dùng nghi thức tế với nhạc lễ, nhạc sanh… thay vì dùng nghi thức cúng vái bình thường.
Trừ những nơi thờ Quan Công phải có ba ngày vía (vía sanh ngày 13 tháng Giêng âm lịch, vía tử ngày 13 tháng Năm, vía hiển Thánh 23 tháng Sáu. Vía sanh, vía tử có thể cúng mặn. Riêng ngày vía hiển Thánh, người ta tin Quan Công đã quy y Phật giáo nên cúng chay). Còn các miễu thờ Thổ địa hoặc thần Nông chỉ có hai ngày lễ gọi là lễ xuất tế hay lễ thu tế, lễ Hạ điền và lễ Thượng điền. Các ngày vía này do địa phương quy định, không thống nhất. Gần đây, tín ngưỡng Phật giáo tràn về nông thôn nên nhiều miễu khi cúng có mời sư đến tụng kinh cầu an cho bà con trong xóm ấp.
+ Lễ cúng miễu cô hồn
Chương trình cúng miễu cô hồn cũng giống như chương trình cúng miễu ông, tức là có các nghi tiết cúng (hay tế), tiền vàng, tiền sư, Tiền yết và Chánh cúng. Ngoài ra, khi cúng miễu cô hồn còn phải mời sư đến tụng kinh cầu siêu và khí thực cho cô hồn. Những nơi có điều kiện, lễ cúng cô hồn kéo dài ra 3 ngày, mời nhiều sư đến “ứng phú” và giàn nhạc lễ đến làm lễ theo khoa nhi Phật giáo như : lễ Hưng tác, lễ Khai chung bản thỉnh Phật, thỉnh Tổ, lễ Chiêu u, lễ Đề phan, lễ Tịch trù cấp thủy, lễ Lược pháp, lễ thỉnh Thập điện, lễ các Thủy quan, cuối cùng là lễ đăng đàn Chân tế cô hồn.
+ Lễ cúng miễu bà
Tại Vĩnh Long có nhiều miễu thờ Thất thánh Nương nương, Ngũ hàng Nương nương, Thiên hậu Thánh mẫu… (thuộc văn hóa Hán – Việt) nhưng đều áp dụng nghi lễ cúng miễu nữ thần Thiên Y A Na (hoặc Chúa xứ Thánh mẫu, Thủy long Thần nữ… ). Chương trình cúng miễu bà gồm các nghi thức : lễ thỉnh Đất và Nước (đất và nước lấy từ giữa dòng sông đưa về, ngụ ý mời thần về dự lễ, ý nghĩa tương tự lễ thỉnh Tro). Lễ cúng (hay tế) Tiên sư, Tiền vãng. Lễ Tiền yết, lễ Chánh cúng. Đặc biệt vì nữ thần Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi vì gốc từ tín ngưỡng Chăm nên trước kia có tục mời bà bóng đến rỗi mời, múa dâng lễ (gồm dâng một mâm vàng – mô hình chiếc tháp Chàm bằng giấy, dâng ba chén bông và ba chén trái cây). Các nghi tiết này đều có giàn nhạc lễ diễn đầu. Những nơi có điều kiện có thể mời diễn viên (thường là các thầy đờn và các bà bóng) múa tạp kỹ, hát tuồng “Địa nàng” hay “Địa trạo nghinh năm bà”. Chương trình văn nghệ này mang tính tùy hứng đề nghị, ít khi tổ chức trước.
Nhiều nơi khi cúng miễu bà cũng mời sư đến tụng kinh cầu an.
Điều đáng chú ý là tục mời bà bóng đến rồi mời múa dâng lễ là tục lệ không có gì đáng phê phán. Chỉ trừ tiết mục có người lợi dụng danh nghĩa “bà về”, dùng lời huyễn hoặc, mê tín.
http://wiki.youvivu.com/uploads/cont...ng-mieu-01.jpg
http://wiki.youvivu.com/culture/le-cung-mieu.html