-
Chùa Kim Huê (Sa Đéc)
Posted by : Phật Giáo Đồng Tháp on : 0 comments
Chùa Kim Huê là tên sau này, đời của Tổ Chánh Quả mới có. Trước đó, chắc chắn phải là tên khác, thậm chí chẳng có tên tuổi gì.
Lúc nào cũng vậy, theo lịch sử xây dựng đạo tràng, cất chùa lập am, quý Tổ sư ngày xưa ban đầu chỉ muốn một chỗ yên thân, ẩn dật tu hành, không bận bịu tới việc xây dựng nguy nga đồ sộ, cũng chẳng cần ai biết đến hành hoạt của mình. Nhưng lần hồi, bá tánh chúng sanh quy ngưỡng, Tăng-Ni thiện tín hồi đầu, vây quanh để tu học, cái am nhỏ xíu làm sao chứa đủ. Đâu phải Duy Ma Cật Bồ Tát, thần thông quảng đại, muốn lớn là lớn, muốn nhỏ là nhỏ, bao nhiêu cũng có thể dung chứa trong căn nhà của Ngài. Còn quý tổ sư, tuỳ duyên, tuỳ cảnh dựng xây, làm cho vui, tạo phương tiện để người đời sau sử dụng.
Kim Huê lúc nguyên thuỷ là khu đất sình lầy, trống trải. Quý sư tổ ở miền ngoài, phát đại bi tâm xuôi ngược phương Nam hoằng pháp, đã dừng trụ nơi này và tạo duyên xây dựng.
Như những ngôi cổ tự khác, mới đầu chỉ vách lá mái tranh, lần hồi đủ đầy phước duyên, trở thành ngôi phạm vũ.
Trước sư Tổ Chánh Quả, đã có nhiều đời trụ trì, tu rục bỏ xác nơi đây. Những ngôi tháp cổ phía sau là lời chứng minh đầy thuyết phục. Sư tổ Từ Lâm, Phổ Tường, Kiểu Học, Đức Nhuận, Chánh Tín, rồi sau này có sư bác Huệ Hoà, Trí Quang nữa. Đây là những bậc long tượng của Phật giáo miền Nam mà thế hệ trẻ ít biết. Công hạnh quý ngài vĩ đại, tâm nguyện quý Ngài tuyệt vời, nhưng khi an nhiên nhi hoá, tất cả đều như cánh nhạn bay qua. Dù không để lại dấu vết, nhưng vẫn lưu danh thiên cổ!
Thời kỳ quý sư tổ, nhờ đức độ giáo hoá của các Ngài, nạp tử bốn phương quy hướng. Do nhu cầu hoằng pháp, đào tạo Tăng tài, lần hồi chùa được Phật tử cúng dường đất ruộng, đất vườn nhiều vô số kể. Một phần trên cầu Kinh Miếu Tổ đi vô, một phần dưới cầu Nàng Hai là Chùa Phước Huệ, hoặc đi qua khỏi cầu Nàng Hai khoảng 10 phút cũng là phần ruộng của chùa. Nếu đi bộ từ chùa lên ruộng, mất khoảng 45 phút cho tới 1 tiếng. Còn đi bộ từ Chùa lên vườn, chỉ độ 20 phút là cùng.
Người trông coi ruộng đất của Chùa khi xưa là Thầy Tri Sự, giờ là Hoà Thượng viện chủ Tổ Đình. Cuộc đời Ngài dính với ruộng đất từ lúc mới xuất gia còn Sư ông, đến những đời trụ trì sau này. Hạnh nguyện của Ngài là thế, lấy công việc đồng áng, ruộng nương làm pháp an tịnh thân tâm. Ai ở Kim Huê đều phải thọ ơn cơm gạo của Hoà thượng. Nếu tu không tới nơi tới chốn, kiếp sau trở lại, hổng chừng Hoà thượng làm đại gia giàu có, còn mình là người ở, kẻ hầu nữa à!
Thời kỳ hưng hiển nhứt là sư Tổ Chánh Quả. Nơi nầy lúc đó có thể nói là Phật học đường, là trường đào tạo Tăng-Ni tài đức. Nhất là những thập niên chấn hưng Phật giáo. Nhiều vị thạc đức Tăng-Ni có duyên thọ học tại đây, rồi được phước đi ra Phật học viện Báo Quốc, miền Trung nữa. Như: Hoà Thượng Huệ Hoà, Huệ Hưng, Huệ Thông, Huệ Phương, Huệ Lực vang bóng một thời. Phía quý ni sư, trên Sài gòn gồm có: Ni Trưởng Từ Quang-Chí Kiên, Ni Trường Phước Hậu-Như Hoa, Ni Trưởng Huê Lâm bên quận 8, và tất cả quý Ni trưởng Phước Huệ, Long An, Từ Thuyền, Từ Quang, Thanh Lương, Hải Huệ dưới Sa-đéc.
Thời kỳ tôi đến đây, bên Tăng còn lại quý đại sư huynh như: Minh Lạc, Minh Phong, Minh Thế, Minh Thừa; Quảng Nghiêm, Quảng Nhuận, Quảng Thiện, Quảng Hiền, Quảng Bình; Trí Đức, Trí Nguyên, Trí Thông, Trí Giác; Thiện Long, Thiện Lâm, Thiện Hương, Thiện Ý, Thiện Nhiên, Thiện Trí…
Chánh điện chùa Kim Huê khá lớn, đại trùng tu vào thập niên 60, Nhờ công đức dựng xây của các bậc trưởng thượng xa gần. Nhờ thâm ân chú nguyện, chứng minh của Hoà thượng Vạn Đức, Cố Hoà Thượng Huệ Quang, sư phụ và Thầy tri sự Thiện An. Nghe nói sau này, đến đời Hoà thượng Thiện An, Ngài đã cho đại trùng tu quy mô hơn, và thay đổi cấu trúc hoàn toàn, khác hẳn năm xưa.
Khuôn viên chánh điện rộng rãi, thoáng mát, hai bên có tổng cộng 6 cửa sổ nhỏ và 3 cửa cái lớn. Sau này, Phật tử khắp nơi và gia đình cô Hai Dị-Chơn Định, má của anh Công phát tâm cúng thêm những bộ cửa sắt, để ngăn ngừa những kẻ bất chính phát khởi tà tâm.
Bên trong chánh điện thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát bằng gỗ xưa và xi măng thỉnh trên Sài gòn. Lúc sau, sư phụ còn mời hoạ sĩ, hoạ hình cuộc đời Đức Phật thật chi tiết trên hai bên vách tường. Chủ ý của ân sư là muốn ai cũng biết, cũng nhớ, cũng học theo hạnh nguyện lợi tha và sự hy sinh cao cả của Đức Từ Phụ, khi vào chánh điện lễ Phật. Tôi cũng góp phần nhỏ bé của mình là cạo những lớp vôi cho sạch và sơn nước lót đầu tiên, giúp chú hoạ sĩ Thiện Tâm hoàn thành từng bức tranh một. Đợt Phật sự đó kéo dài hơn 2 năm. Sau khi hoàn tất, mọi người trong chùa và thập phương bá tánh vô cùng hoan hỷ, cung kính phụng thờ.
Hồi đó, bàn thờ của chùa nhiều lắm. Đốt nhang, đốt đèn mệt xỉu luôn. Mỗi bàn thờ đều phải đốt đèn dầu liên tục, không được tắt. Ai làm hương đăng, mỗi ngày ít nhất phải đi châm dầu, lau ống khói một lần.
Sư phụ nói: “làm hương đăng, lau ống khói, cúng dường nhang đèn cho Phật và Bồ tát mau thông minh, sáng dạ lắm. Học kinh gì cũng thuộc, thậm chí khỏi học cũng thuộc luôn” Mới vô chùa, ai chẳng tin. Thầy nói là Phật nói mà! Nhưng chỉ có điều, những lúc trời tối quá, một mình đi làm cũng ớn da gà lắm. Vì bàn thờ tối om, bàn vong cũng chẳng ít. Đang làm mà cảm thấy có người đứng sau lưng, không ớn sao được!
Khu nhà tổ phía dưới khá rộng rãi, khang trang. Những vị tổ sư của các chùa nổi tiếng ở khu vực Đồng Bằng Sông Cữu Long đều được tôn thờ tại đây. Hai bàn vong lớn, một nam, một nữ được an trí song song với bàn thờ tổ. Bên hông bàn thờ vong, có khoản trống, sư phụ kê thêm hai cái giường sắt cho chúng ngủ.
Có hồi, ông Kim Đồng từ Sài gòn về nương tu, chữ nghĩa không biết, chỉ lãnh phần dọng chuông. Người ông đen thui không thua dân Miên trên Nam vang, hai con mắt tròng trắng nhiều hơn trồng đen. Tối ngày lầm lì ít nói, như người mạnh bạo, gan dạ, ai dè bị mấy cô trên bàn vong xô xuống giường nửa đêm hoài. Riết rồi, ông xin sư phụ cho xuống ở dãy nhà Tăng phía dưới, cho khỏi bị quý cô trên bàn vong hỏi thăm.
Hồi đó, Kim Huê là thành viên của Hiệp Kỵ Tổ Sư Hội, nên hầu như tháng nào cũng có dịp đi ăn đám giỗ. Hết chùa này tới chùa kia, hết đi trong tỉnh tới đi ngoài tỉnh. Quanh năm suốt tháng, đi hoài cũng thấm mệt, nhất là những người lớn tuổi. Vì Thầy đang độ cao niên, cộng với sở nguyện thích chuyên tu ẩn dật, nên chỉ đi cho có mặt. Tới nơi, Thầy khéo léo cho Hoà thượng trụ trì hoặc ban tổ chức biết, rồi sau đó, ra ngoài vườn vắng, kiếm chỗ giăng võng, nằm trì kinh niệm Phật một mình đến khi mãn đám, rồi về chung với quý Hoà thượng cho vui. Ai cũng biết và nể phục lắm! Hoà hợp, tương kính là vậy đó.
Hai bên hông chùa là 2 con mương nhỏ, đủ để đậu một chiếc ghe loại trung bình. Bên kia là nhà của Thầy Giáo Nghị to tướng đẹp đẽ và những ngôi nhà lá lụp xụp. Bên đây là nhà của Thầy giáo Nhung và con đường nhỏ đi quanh qua phía trước, quẹo phải là trường Trung Học Bồ Đề, quẹo trái là đường lên Trường Trung Học Tống Phước Hoà và Cầu đốt.
Những gia đình xung quanh chùa rất có đạo tâm, luôn gìn giữ giá trị đạo đức Việt nam, nhẫn nhục và an phận. Con cháu của họ đều ăn hiền ở lành, là biểu tượng thiêng liêng của dân tộc Việt.
Phía trước trong khuôn viên chùa có 2 cây Bồ đề thật to, gốc lớn hai người ôm chưa giáp. Không biết ai trồng và giống này có phải từ Ấn độ đem qua không, chẳng ai truy tìm căn nguyên làm gì. Chỉ biết là cành lá xum xuê, thân tướng to cao và nhất là, những bộ rễ ăn vô tới chánh điện, làm nứt nẻ, bể hết những miếng gạch bông láng hình hoa sen tuyệt đẹp. Tôi phụ với quý thầy dỡ từng miếng gạch lên, chặt rễ bồ đề, lót gạch lại. Nhưng đâu phải dân chuyên nghiệp, thành thử chỗ cao chỗ thấp, lòi lõm, không đẹp tí nào.
Chính giữa chánh điện từ ngoài nhìn vào, là một cột cờ cao hơn 10 mét, được sơn màu đỏ chói. Chắc là làm trong đợt đại trùng tu thập niên 60. Cột cờ uy nghi, thỉnh thoảng những ngày lễ lớn, tôi mới thấy lá cờ Phật giáo phất phới tung bay, tiếng phành phạch vang cả góc trời. Nhưng sau lễ, không biết ai đem vô cất mất tiêu. Còn ngày thường, chỉ thấy cột cờ trơ vơ, ẩn nhẫn dầm mưa dãi nắng với mấy cây bùm sụm phía dưới. Lâu lâu, trẻ nhỏ trong xóm quây quần dưới cột cờ, để bẻ bùm sụm lót dạ qua ngày.
Sát bờ rạch, còn có những hàng cây dầu, cây sao to tướng, có thể đóng ghe xuồng được. Bóng dáng hàng sao dầu ngã dài trên con rạch, nhất là những đêm sáng trăng, để cho dân làng bên trong vận chuyển nông vật ra chợ trao đổi, buôn bán.
Phía bên phải, từ trong nhìn ra, có một cây gừa to khủng khiếp. Tôi và mấy bạn trong xóm thường tập trung leo trèo, hoặc hái trái ăn. Trái gừa hơi ngọt, tụi nhỏ giành ăn với chim se sẻ. Còn phía bên trái, từ chánh điện nhìn ra, có một cây xoài cao to, hai đứa con nít ôm không giáp. Tôi không nhớ loại xoài gì, chỉ nhớ còn sống thì chua lè chua lét, khi chín thì ngọt đậm đà. Tuy sở hữu của chùa, nhưng để cúng dường cho chư vị Bồ tát sống quanh chùa hưởng phước, hoặc cho ít vị cô hồn sống ngoài cầu dầu độ nhựt.
Bên kia đường nhiều lớp đá xanh lởm chởm, người và xe di chuyển không ít khó khăn. Có lúc nghiêng ngửa nhảy múa tung tăng, như hát xiệc. Còn bên đây, trước mặt chùa, con đường đất thật thấp, lầy lội khi mùa nước nổi trở về. Những cô cậu học sinh áo quần lam lũ, xăn tới bắp đùi, kham nhẫn đến trường học vào những sáng tinh sương. Còn dân giàu có đi xe đạp ọp ẹp, gập ghềnh, hay bị phủ đầy bụi bậm lúc nắng cháy trưa hè. Vậy mà dân xứ này vẫn chịu cực, bám trụ sinh tồn.
Sau lưng chùa là Trường Bồ Đề. Trường này là tài sản của Chùa. Sau này, thời cuộc đổi thay, Thầy tôi và Ban Giám Hiệu đã hiến cho chính phủ, để tiếp tục duy trì giáo dục và đào tạo nhân tài tại địa phương.
Trường nguyên thuỷ chỉ có 3 tầng lầu, sau này do nhu cầu học sinh quá đông, chính phủ cất thêm một tầng nữa, nhưng cũng không đáp ứng nổi với đà dân số gia tăng như vũ bão. Thấy tình cảnh như vậy, ai không mủi lòng, nhưng đành khoanh tay đứng nhìn!
Phật giáo Sa-đéc ít có cơ sở giáo dục mang tính chiến lược, tầm cỡ. Không biết vì sao, người đi trước làm cho lấy có, chứ không phải làm để đời. Nên không có cơ sở giáo dục nào tương thích với bản thân của nó. Vì vậy, những người có đầu óc cấp tiến, có tầm nhìn xa trông rộng, đều âm thầm lên Sài gòn, hay tìm một vùng đất trù phú, nhiều cơ hội tiến thân khác để lập nghiệp, đổi đời.
Thời kỳ cận hiện đại, chưa có một trường lớp hẳn hoi nào, nhưng lớp học Phật pháp thì nhiều vô số. Chùa nào cũng có thể tổ chức một lớp học, tổ chức dưới dạng gia giáo. Nhân tài có đó, nhưng không thể tập trung, không được nâng đỡ đúng mức, để những mầm non có đủ đất phân phát triển.
Hồi đó, khi học ở Sài gòn, nhìn trường lớp trên này, rồi ngó lại quê nhà, thấy xao xuyến, ray rứt cõi lòng. Ước mơ sau này, mở một trường Phật học ngang tầm với những tỉnh-thành khác. Nhưng mấy chục năm rồi, ước mơ là một chuyện, còn thực hiện ước mơ có được không lại là chuyện khác!
Kim Huê ngày xưa đượm chút rong rêu, nửa tân nửa cổ. Có khu tháp lâu đời làm điểm tựa. Mỗi hòn gạch đỏ, mỗi cục đá xanh, mỗi gốc cổ thụ, mỗi viên sỏi, hay hoa lá xanh tươi, đều là công sức của biết bao thế hệ. Từng gốc mít, cây mận, cây vú sữa, cây khế, tàu lá chuối, bụi trúc gốc tre, vườn tiêu, đều nói lên hiện tướng thăng trầm, nhưng dung chứa muôn ngàn kỷ niệm!
Bao lần thay ngôi đổi vị, theo cơn sóng vỗ hưng phế, Kim Huê thuở ban đầu và bây giờ đã thay đổi hoàn toàn, từ cấu trúc đến không gian. Chùa Bông giờ đây có bao người biết đến? Hoạ chăng, chỉ những thành phần trưởng lão, may ra còn nhớ cái tên thân thương này. Nhưng dù nhân gian có thay tên đổi họ, dù con người có dựng xây thật tráng lệ nguy nga hay đơn sơ mộc mạc, Kim Huê mãi mãi vẫn đượm ngát hương thơm, vẫn nằm gọn trong lòng người lữ thứ, vẫn tiếp sức, trợ duyên trên những đoạn đường đi!!!
- Chú thích: Gừa là tên gọi một loài cây ở miền Tây, còn có tên là cây Si.
Nguyên Tấn - sưu tầm
(Trích từ tập “Sa Đéc Trọn Đời Nhớ Thương của Thích Thiện Hữu-Úc Châu)
Avatar
by Phật Giáo Đồng Tháp
Biên tập:
Ban Thông tin - Truyền thông Phật giáo tỉnh Đồng Tháp
459 Hùng Vương, F.1, Tp. Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp
Email: phatgiaodongthap@yahoo.com - Tel: 0277-386-1653
Find on Google+Follow meConnectView profileWebsite
Xem chi tiết
Nét giao thoa văn hóa Việt-Hoa ở ch...
Kiến An Cung ngôi chùa người Hoa ở ...
Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc)
Tổ Đình Hội Phước (Sa Đéc)
Chùa Hương - Phước Hưng (Tp. Sa Đéc...
Chùa Kim Huê (Sa Đéc)
Chùa Phước Linh (Sa Đéc)
Chùa Long Sơn (Huyện Thanh Bình)
Chùa Tổ Bửu Lâm, một di tích của p...
Không có nhận xét nào:
Leave a Reply
Bài Đăng Mới Hơn Bài Đăng Cũ Hơn Trang Chủ
http://www.phatgiaodongthap.vn/2014/...hue-sa-ec.html
-
-
Đầu năm hành hương về đất Phật
By Lan Khanh On 13/02/2018
4
Share
Đầu năm, nếu chuyến “hành hương thập tự” trong nước có ý nghĩa tâm linh đặc biệt thì chuyến du xuân, viếng chùa ở những quốc gia có truyền thống Phật giáo có thể xem như sự gửi gắm lòng thành nơi chốn thiêng liêng, cầu mong một năm mới thật nhiều may mắn và bình an.
Quê hương rực rỡ sắc xuân
Miền Bắc là chiếc nôi của văn hóa cội nguồn dân tộc, nơi truyền thống “ăn tết, chơi tết, trảy hội” hòa quyện với nhau trong không khí xuân rộn rã và cũng là dịp nông nhàn. Dài nhất và thu hút đông người tham dự nhất phải kể đến hội chùa Hương (khai hội từ mùng 6 tháng Giêng, đến cuối tháng 3 Âm lịch mới kết thúc).
“Về đây Hương Tích dấu yêu ngàn năm
Trùng dương có biết nơi đây là bến…” (trích lời ca khúc Hương Xuân)
Trảy hội chùa Hương gắn liền với thắng cảnh Hương Tích – đệ nhất động trời Nam. Ở đó, đời và đạo hòa làm một khi lòng người hành hương đã bén tiếng chuông chùa, đắm mình trong không gian những cánh rừng hùng vĩ, xa xa thấp thoáng hang động ẩn sâu trong lòng núi non tiên cảnh.
Cũng trảy hội suốt ba tháng mùa xuân, từ mùng 10 Tết cho đến hết tháng 3 Âm lịch là hội Yên Tử. Được mệnh danh trung tâm của Phật giáo Việt Nam, ở Yên Tử còn có tháp Huệ Quang, nơi đặt một phần xá lợi của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ngoài ý nghĩa tâm linh Phật giáo, hội Yên Tử còn là chốn phong cảnh hữu tình, núi non trùng điệp khiến bao người ngẩn ngơ, mê đắm. Toàn cảnh núi rừng Yên Tử mở ra trước mắt du khách như vô tận, nào tùng, nào đại, cây nào cũng hàng trăm năm tuổi. Hàng ngàn bậc đá xếp theo lối mòn dưới tán trúc rừng thông, suối Giải Oan có cây cầu đá xanh cổ kính bắc ngang… Đứng từ chùa Đồng vững chãi trên đỉnh Yên Tử cao 1.068m, du khách có thể bao quát cả vùng Đông Bắc rộng lớn, thấy thấp thoáng cả những đảo nhỏ trong lòng vịnh Hạ Long.
Một điểm thiêng ở miền Bắc mà du khách cũng không thể bỏ qua vào mùa hành hương là chùa Bái Đính ở tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh việc thăm viếng ngôi chùa giữ nhiều kỷ lục của Việt Nam lẫn châu Á và lễ Phật, du khách còn có dịp khám phá cảnh đẹp Tràng An, Tam Cốc – Bích Động – “Nam thiên đệ nhị động” và cố đô Hoa Lư, quần thể đã được UNESCO công nhận là di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên của thế giới.
Cung đường hành hương miền Trung vào mùa xuân sẽ dẫn du khách đến cụm danh thắng hồ Truồi – Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, những ngôi cổ tự linh thiêng của xứ Huế. Sau đó du khách có dịp chiêm ngưỡng bức tranh sơn thủy Vũng Chùa và thăm nơi yên nghỉ của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở tỉnh Quảng Bình. Dịp này, du khách vui xuân kết hợp đón Tết Nguyên tiêu đầy màu sắc và thưởng ngoạn đêm rằm phố cổ Hội An.
Xuôi về phương Nam, du khách ghé Cần Thơ viếng thiền viện lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long mang tên Trúc Lâm phương Nam, đến Hà Tiên viếng chùa Thạch Động, Phù Dung, lăng Mạc Cửu hay hòa vào dòng người hành hương viếng miếu Bà Chúa Xứ Châu Đốc để cầu may mắn, đón phúc lộc đầu năm. Dịp này, tuyến Phú Quốc sẽ đưa du khách viếng Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc. Ra Côn Đảo có lịch trình chiêm bái chùa Vân Sơn và thăm nơi yên nghỉ của liệt nữ Võ Thị Sáu… Về Tiền Giang thì có chùa Vĩnh Tràng được xem là ngôi chùa cổ có kiến trúc đẹp nhất tỉnh, chùa cổ Bửu Lâm đã gần 300 năm tuổi, chùa cổ Phước Hưng cổ kính và trang nhã với 180 năm lịch sử. Đó là chưa kể những Kiến An Cung, chùa cổ Tây An, chùa cổ Huỳnh Đạo, miếu Bà Chúa Xứ… mà kiến trúc mỗi nơi mang một nét độc đáo riêng cùng những sự tích thú vị để du khách cảm nhận và lắng mình vào chốn tâm linh sâu thẳm, giúp tâm hồn trở nên nhẹ nhàng, hướng lòng đến những ý tưởng tốt đẹp, tìm kiếm sự an nhiên và cầu nguyện cho một năm mới vạn sự hanh thông. Hành trình càng thêm thú vị với chuyến du ngoạn, thưởng ngoạn toàn cảnh Núi Cấm bằng cáp treo ở độ cao hơn 710m, khám phá văn hóa, thưởng thức và mua sắm đủ loại đặc sản độc đáo của từng vùng đất.
Hành trình chiêm bái “tứ động tâm” (Ấn Độ và Nepal)
Với những du khách Phật tử, sẽ là một thỏa nguyện thiêng liêng khi đầu năm có dịp đặt chân đến chiêm bái “tứ động tâm” – bốn thánh tích thiêng liêng của Phật giáo ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đời đức Phật Thích Ca khi còn tại thế.
Bốn nơi này được phân bố rải rác trên vùng đất rộng lớn thuộc Ấn Độ và Nepal, gồm vườn Lumbini (Lâm Tì Ni) – nơi đức Phật đản sanh, Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng) – nơi đức Phật thành đạo, Sarnath (vườn Lộc Uyển) thuộc thành cổ Varanasi, nơi cách đây hơn 2.500 năm Đức Phật đã tuyên thuyết bài pháp đầu tiên và chùa Mahaparinirvana (Đại Bát Niết Bàn) ở Kushinagar (Câu Thi Na), nơi đức Phật nhập niết bàn…
Tại Nepal, bên cạnh vườn Lumbini (di sản văn hóa thế giới của UNESCO) còn có đền Maya Devi thờ hoàng hậu Maya – thân mẫu của đức Phật và Ashoka Pillar – trụ đá vua A Dục được chính vị vua Phật tử này cho xây dựng từ năm 259 trước Công nguyên. Còn tại Ấn Độ, sau khi chiêm bái Bodhgaya, Sarnath và Kushinagar, du khách tham quan đại tháp Rambhar – nơi các đệ tử của đức Phật làm lễ trà tỳ và thu được 84.000 viên xá lợi Phật – những báu vật thiêng liêng của Phật giáo. Ở đó còn có thành Rajgriha (Vương Xá) – kinh đô cổ xưa nhất Ấn Độ thời đức Phật tại thế, Nalanda – Đại học Phật giáo lâu đời nhất thế giới, tháp Hòa Bình làm bằng đá cẩm thạch mang hình ảnh vàng của đức Phật… Thú vị không kém là trải nghiệm đi thuyền đón bình minh trên sông Hằng thiêng liêng trong văn hóa Ấn Độ giáo.
Sri Lanka – đất Phật, xứ chè
Ở khu vực Nam Á, bên cạnh Ấn Độ và Nepal còn có Sri Lanka – đất nước mà người dân thể hiện lòng tôn kính đức Phật vô biên với những dấu tích Phật giáo được lưu truyền từ Ấn Độ hồi thế kỷ thứ III trước Công nguyên bởi chính thái tử Thánh Tăng Mahinda, con vua A Dục (Ashoka). Du khách sẽ cảm nhận rõ hơi thở Phật giáo đã tồn tại lâu đời trên đảo quốc mang hình giọt nước này khi đặt chân đến Dambulla, nơi hầu như ở đâu cũng có thể nhìn thấy tượng Phật, bàn thờ Phật. Đến cố đô Kandy, tại ngôi chùa Xá Lợi răng Phật, du khách được chứng kiến cảnh hằng ngày các nhà sư đánh trống, thổi kèn và hành trì các nghi lễ Phật giáo, đón khách thập phương đến bái vọng xá lợi răng thiêng liêng của đức Phật.
Tại thủ đô Colombo, du khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng tuyệt tác kiến trúc của chùa Gangaramaya – một trong những ngôi chùa thờ Phật quan trọng nhất của Sri Lanka. Sự hòa trộn hài hòa giữa kiến trúc Sri Lanka, Ấn Độ và Trung Hoa khiến ngôi chùa càng nổi bật, trở thành một trong những địa điểm thu hút đông đảo du khách tứ phương.
Du ngoạn Dambulla, du khách sẽ bị chinh phục bởi những công trình kiến trúc, khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, những chú voi thân thiện và cả đôi mắt sâu long lanh của những thiếu nữ bản xứ. Ngày xuân, khi tiết trời mát mẻ thì có gì tuyệt vời hơn đi xe jeep vào thăm vườn sở thú tự nhiên trong Minneriya – công viên thiên nhiên quốc gia lớn nhất Sri Lanka với trên 100 chú voi sinh sống. Băng qua những khu rừng còn nguyên vẻ đẹp hoang sơ, du khách thu vào tầm mắt cả một không gian rừng rậm nhiệt đới bao la, hít thở bầu không khí trong lành, ngắm màu xanh bạt ngàn trải dài trước mặt.
Cách không xa Minneriya là núi đá Sigiriya (Sư Tử) – một trong tám di tích tại Sri Lanka đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Vào thời hoàng kim ở thế kỷ thứ V, Sigiriya là quần thể cung điện lộng lẫy được bảo vệ bởi hệ thống pháo đài vững chắc. Đến đây, du khách có dịp nhìn thấy di tích một đôi móng sư tử khổng lồ bằng đá nơi lưng chừng núi. Đi lên bậc thang từ chân sư tử lên đỉnh núi, du khách sẽ ngạc nhiên và thích thú khi phát hiện ra những dấu vết của cung điện ngày xưa và cả những bức họa vẽ những mỹ nữ nửa người với những đường nét uyển chuyển cùng bộ ngực trần trên vách đá.
Xứ Chùa Tháp
Đến Thái Lan, đâu đâu cũng sừng sững những bảo tháp và bóng áo vàng nhà sư, vì thế nơi đây còn có tên gọi xứ sở Chùa Tháp. Các ngôi chùa cổ ở đây đều mang trong mình những Phật tích và có phong cách kiến trúc truyền thống độc đáo.
728X90pix banner Noel
BÀI LIÊN QUAN
Những điểm sáng mới trong làng ẩm thực
13/02/2018
Uống trà giúp cải thiện tính sáng tạo của con người
13/02/2018
Linh thiêng bậc nhất, cũng nổi tiếng nhất Thái Lan là chùa Wat Phra Kaeo (Phật Ngọc) ở ngay thủ đô Bangkok. Một trong ba đại quốc bảo của Thái Lan này tọa lạc tại góc đông bắc của Bangkok Grand Palace, tạo thành một chỉnh thể thống nhất nổi tiếng của thủ đô. Trong chùa tôn trí tượng Phật Ngọc tuy nhỏ nhưng quý giá và thiêng liêng (cũng vì vậy mà chùa mang tên Phật Ngọc). Ngôi chùa này còn có tên khác là chùa Hộ Quốc từ thời vương triều Chakri và là ngôi chùa duy nhất không có quý sư, được xây cất năm 1784 để làm nơi thờ cúng Phật Ngọc và tổ chức các nghi thức tôn giáo của hoàng gia Thái Lan, đã nổi tiếng khắp vùng Đông Nam Á.
Trong chùa, ngoài điện Phật Ngọc, hầu hết chóp đỉnh đều trang trí theo kiểu nhọn, thể hiện nét đặc sắc về mặt kiến trúc tự viện Thái Lan. Mỗi đỉnh nhọn đều được gắn sứ màu, thếp vàng lóng lánh, rất đẹp mắt. Đặc biệt, hành lang chùa được bao bọc bởi tấm bích họa dài khoảng một cây số, gồm 178 bức tranh màu sắc phong phú, họa tiết tinh xảo, lấy sử thi Ramayana trong văn học cổ điển Ấn Độ làm đề tài.
Chùa Wat Traimit (Phật Vàng) tọa lạc tại cuối đường Yaowarat, cạnh nhà ga tàu hỏa Hualampong và nằm trong khu phố người Hoa. Trong chánh điện có tôn trí bức tượng cổ Phật ngồi bằng vàng nguyên khối – điểm nhấn khiến Phật Vàng trở thành ngôi chùa được du khách viếng thăm nhiều nhất tại Bangkok. Với chiều cao 3 mét và nặng 5,5 tấn, đây được xem là bức tượng Phật bằng vàng nguyên khối lớn nhất thế giới. Du khách được tự do vào lễ Phật và tận mắt chiêm ngưỡng bức tượng Phật nổi tiếng này, điều mà không phải ngôi chùa nào ở Bangkok cũng cho phép du khách được thoải mái tiếp cận những bảo vật quý giá như vậy.
Nổi tiếng là thế nhưng bức tượng từng một thời bị lãng quên. Tượng Phật Vàng được cho là đã ra đời vào thời đại Sukhothai (từ khoảng thế kỷ XIII đến XV) – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo của Thái Lan. Lúc đầu, tượng được tôn trí trong một ngôi chùa ở cố đô Ayutthaya, nằm gần Bangkok ngày nay. Trong thời gian quân Miến Điện xâm chiếm Thái Lan, bức tượng được bảo quản trong một lớp bê tông và giữ gìn rất cẩn mật. Sau đó, tượng được chuyển đến Bangkok và đặt tại chính điện của chùa Wat Phrayakrai dưới thời vua Rama III ở thế kỷ thứ XIX. Đến thập niên 1950, trong lần di chuyển đến ngôi chùa mới ở Bangkok, tượng bị rơi và bị quên lãng thêm một thời gian dài. Sau này người ta mới phát hiện ra và phục hồi lại ánh hào quang vốn có của pho tượng quý.
Chùa Wat Arun (Bình Minh) nằm bên bờ Tây sông Chao Phraya là một trong những công trình Phật giáo đẹp lộng lẫy nhất, thu hút nhiều khách du lịch nhất khi họ đến thủ đô Bangkok. Ngôi chùa có kiến trúc tinh xảo, mô phỏng kiến trúc núi vũ trụ Meru của người Ấn Độ. Trong chùa có tháp Phra Prang cao 79m được khảm sành sứ Trung Hoa trên mái và các bệ. Khi bình minh hay hoàng hôn buông xuống, cả ngôi chùa vàng rực, lấp lánh.
Người Thái tin là sau khi rút khỏi Ayutthaya, nơi bị quân Miến Điện chiếm đóng, vua Taksin đến ngôi chùa này vào lúc bình minh. Sau đó ông cho trùng tu và đổi tên thành Wat Chaeng – ngôi chùa của bình minh. Nơi đây từng lưu giữ tượng Phật Ngọc trước khi thủ đô và hoàng cung được dời sang bên kia sông. Hiện nay, du khách có thể thấy tượng Phật Ngọc ở đây.
Ngọn tháp trung tâm được mở rộng vào vương triều Rama III (từ năm 1824 đến 1851), giờ đây trở thành một trong những nơi được du khách viếng thăm nhiều nhất khi đến Thái Lan. Vua Rama III cũng là người đã thêm kiểu trang trí bằng sứ cho tháp nên chúng phản chiếu ánh sáng dưới ánh nắng mặt trời rất đẹp.
Asakusa Kannon – ngôi chùa cổ nhất Tokyo (Nhật Bản)
Theo truyền thuyết, vào năm 628, khi đang đánh cá trên sông Sumida, hai anh em nhà Hinokuma là Hamanari và Takenari đã vớt được một bức tượng Phật Quan Âm (Kannon), có chiều cao chỉ khoảng 5,5cm. Dù đã nhiều lần thả tượng xuống sông nhưng bức tượng luôn quay trở lại với họ. Vị trưởng lão trong làng là Hajino Nakamoto đã nhận thấy sự linh thiêng của bức tượng nên quyết định hiến một phần ngôi nhà của mình để lập ngôi chùa thờ bức tượng, tạo điều kiện cho dân chúng trong làng đến cầu viếng. Bức tượng Phật được đặt trong một cái hộp thiêng liêng bên trong chính điện lớn.
Từ cổng Kaminarimon (Thunder Gate), du khách di chuyển dọc theo một con đường được gọi là Naka-mise để đến cổng Hozomon (Treasure Gate) – cổng thứ 2 của ngôi đền, sau đó tới chùa Asakusa Kannon. Trên con đường dài hơn 200m này có các cửa hàng bán đồ lưu niệm và các quầy thức ăn truyền thống địa phương.
Chính điện lớn của chùa Asakusa Kannon là điện Quan Âm (Kannondo). Chính điện cũ được xây dựng lại vào năm 1649 và được công nhận là di sản quốc gia. Tuy nhiên, nó đã bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ 2 và một bản sao bằng bê tông cốt thép của chính điện đã được tái hiện lại vào năm 1958.
Chính điện quay mặt về phía nam, bên trong được chia ra thành khu vực dành cho tín đồ ở phía trước và khu vực đặt tượng Phật ở phía trong. Chính điện mở cửa vào ngày 13-12 hằng năm. Các tín đồ viếng chùa chỉ được thắp hương và chiêm bái tượng Phật Quan Âm ở phía ngoài, từ đó nhìn vào khu vực đặt tượng Phật quan trọng ở phía trong.
Chùa Asakusa Kannon là nơi diễn ra nhiều lễ hội trong năm mà lớn nhất là Sanja (Sanja Matsuri). Lễ hội được tổ chức vào cuối tuần thứ 3 của tháng 5 để tưởng nhớ ba người đàn ông đã lập nên ngôi chùa này. Những cuộc diễu hành cùng các hoạt động âm nhạc truyền thống và nhảy múa diễn ra trong suốt ba ngày của lễ hội. Kế đó là lễ hội đường phố (Asakusa Samba Carnival) diễn ra trong tháng 8, lễ hội Hagoita-ichi diễn ra trong tháng 11…
Theo ánh sáng vàng ở Yangon (Myanmar)
Shwedagon (chùa Vàng) chính là ngôi chùa linh thiêng nhất Myanmar. Tại đây lưu giữ bốn báu vật thiêng liêng đối với các tín đồ Phật giáo, gồm cây gậy của Phật Câu Lưu Tôn, cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, một mảnh áo của Phật Ca Diếp, và xá lợi tám sợi tóc của Phật Thích Ca.
Bên trong chùa lưu giữ nhiều hiện vật quý giá, nhưng ngay kiến trúc chùa Shwedagon đã được xem là một báu vật. Chùa nằm trên đồi Singuttara ở độ cao có thể quan sát được cả thành phố Yangon. Người Myanmar thường đi vòng quanh tháp chùa theo chiều quay của kim đồng hồ. Trong chùa có bảy bồn nước tương ứng với bảy hành tinh và với bảy ngày trong tuần. Đó cũng là nơi người mộ đạo thường tới tưới nước tắm cho tượng Phật.
Khu quần thể chùa xây dựng cách đây hơn 2.500 năm, gồm 1.000 ngôi chùa nhỏ bao quanh tòa tháp cao 99m, phủ kín bằng 9.300 lá vàng dát mỏng, 5.450 viên kim cương và 2.320 viên đá quý khác. Trên đỉnh tháp có 1.065 chuông vàng và 421 chuông bạc. Dưới ánh mặt trời, ngôi chùa sáng lấp lánh tựa vầng thái dương.
Chùa Pha That Luang (Lào)
Pha That Luang theo tiếng thổ ngữ nghĩa là tháp vĩ đại hay tháp xá lợi linh thiêng. Chùa mang tên này là một trong những di tích nổi tiếng nhất tại thủ đô Viêng Chăn. Chùa được xây dựng năm 1566 dưới triều đại vua Setthathirat, có hình dáng một khối tháp khổng lồ đại diện cho sự giác ngộ Phật giáo. Pha That Luang từng bị phá hủy bởi cuộc xâm lược của người Thái năm 1828, được xây dựng lại vào năm 1931.
Đây là một trong số ít những chùa chiền đạo Phật trên thế giới được lưu giữ xá lợi của Đức Phật Thích Ca Mầu Ni khi người nhập niết bàn. Không chỉ có vậy, các thư tịch cổ của ngôi chùa ghi lại rằng sau khi đạo Phật trở thành quốc đạo và Viêng Chăn trở thành kinh đô mới, cùng với việc xây dựng thành quách, lâu đài, cung điện, chùa chiền, nhà vua Setthathirat đã cho tu bổ lại Pha That Luang. Cách xây dựng là bọc lên ngôi tháp cũ bằng một tháp mới to, đẹp hơn và kiến trúc ấy giữ nguyên cho đến ngày nay.
728×320 Banner Ketnoi FB
đất PhậtHành hươngnhững ngôi chùa nổi tiếngPhật giáoViếng chùa đầu năm
4
Share
PREV POST
1,5 triệu đô cho con du học ở Mỹ sôi sục cộng đồng mạng
NEXT POST
Những bộ phim mang nhiều cảm hứng cho doanh nhân khởi nghiệp
728X90pix banner Noel
Điểm đến
Mải mê với di sản Phật giáo tại Lào
By Doanh Nhan Online On 30/09/2016
0 5
Share
Đến Lào, quốc gia không có biển duy nhất ở Đông Nam Á, du khách có rất nhiều điều để chiêm ngưỡng và thú vị, từ thiên nhiên hoang sơ, người dân hiền lành, thân thiện, vẫn sống kiểu truyền thống, đến những thực đơn “rất Lào và chỉ Lào mới có”. Tuy nhiên, sự cuốn hút thâm trầm mà mạnh mẽ trên tất thảy mọi thứ chính là vô vàn di sản Phật giáo đang có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước này. Và có lẽ, nói “di sản” vẫn chưa đủ, bởi Phật giáo không chỉ là ngày hôm qua, mà còn là hôm nay và mãi mãi mai sau của dân tộc này. Một dòng chảy tâm linh – văn hóa – lối sống truyền đời trong từng con người Lào.
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao
Quốc kỳ Lào và Tháp Phật ở Quảng trường Viên Chăn
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-3
Góc chùa cổ linh thiêng ở Viên Chăn
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-13
Mộ tháp của một vị sư ở Viên Chăn
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-4
Tín đồ viếng Chùa Mẹ, Wat Si Muang nổi tiếng linh thiêng, được xây dựng từ thế kỷ XIV ở Viên Chăn
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-12
Tượng Phật bằng đồng ở trung tâm thủ đô Viên Chăn
Người viết bài này may mắn có những chiều thu lạc bước trong vườn Phật bên bờ sông Mekong, hay đón ánh bình minh tỏa “hào quang” trên các tháp chùa Vientiane, Luangprabang để chợt ngộ cuộc sống đâu có gì “quá khổ” như lâu nay mình vốn tưởng. Nhìn vào ánh mắt của đức Phật, người ta chợt hiểu rằng khổ đau hay vui sướng đều do tự tâm mình sinh ra…
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-2
Nhiều tượng Phật cổ ở Lào hư hỏng theo thời gian và bị kẻ xấu lấy trộm
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-5
Tượng Phật Thích Ca nằm ở Vườn Phật
728X90pix banner Noel
BÀI LIÊN QUAN
Những nẻo đường khó quên ở Zambia
24/02/2018
Quần đảo Mergui: thiên đường du lịch ẩn giấu ở Myanmar
19/02/2018
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-6
Những kiệt tác tượng Phật ở Vườn Phật Viên Chăn
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-7
Một tượng Phật nhiều mặt ở Vườn Phật
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-8
Một góc Vườn Phật nhìn từ trên cao
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-9
Tượng Phật nhiều mặt và các vị thần chầu ở Vườn Phật
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-10
Hanuman, vị thần Khỉ được đắp tượng ở Vườn Phật
DN676_Vanhoa300916_Phat-giao-Lao-11
Những vị Phật tọa thiền ở Vườn Phật ngoại ô thành phố Viên Chăn. Đây là quần thể hàng trăm bức tượng Phật được doanh nhân sùng đạo Bonunlua Suliat xây dựng vào năm 1958 bên bờ sông Mekong
Mà đâu chỉ có khách ta chìm đắm với di sản Phật giáo tại Lào, ngay cả nhiều khách Tây cũng mải mê lạc bước trước sự huyền diệu này. Từ chùa cổ Thạt Luổng nổi tiếng từ 600 năm trước ở thủ đô Triệu Voi, đến chùa Mẹ linh thiêng, chùa Sisakhet với bảo tàng tượng Phật, chùa Ho Prakeo rất đẹp mà chẳng cần sư chủ trì, công viên Phật kể chuyện tôn giáo này bằng hàng trăm bức tượng lớn nhỏ bên bờ sông Mekong… Thật thú vị khi nhìn những cô gái tóc vàng, mắt xanh, cổ đeo Thánh Giá, đứng suy tư trước ánh mắt từ bi của đức Phật. Sự khác biệt văn hóa, tôn giáo, biên giới, chủng tộc như không còn nữa. Sự bình an trong tâm hồn và tình thương bao trùm tất cả!
Xin mời hãy đến Lào, đối diện với ánh mắt từ bi của đức Phật và lặng nghe tiếng chuông chùa…
Bài và ảnh Quốc Khanh (DNSGCT)
728×320 Banner Ketnoi FB
di sản Phật giáoLàoPhật giáo
0 5
Share
Để lại một bình luận
Điểm đến
Hành hương núi Popa
By Doanh Nhan Online On 08/08/2014
1
Share
Cách trung tâm Bagan khoảng 50 cây số về hướng đông nam, Popa là điểm hành hương nổi tiếng của Myanmar. Ngọn núi lửa đã tắt này thờ tất cả thần linh của cả đất nước từ hơn một ngàn năm nay. Do nằm đơn độc giữa trung tâm Myanmar nên người dân tin Popa là biểu tượng của núi Tu Di, trung tâm của vũ trụ và nhân loại. Đền thờ trên đỉnh núi lưu giữ rất nhiều tượng Phật lớn.
DN569_DDDT080814_Popa-3
Tượng Phật trên núi
Một Myanmar huyền bí
Xe đưa chúng tôi ra khỏi Bagan chừng một cây số là đường sá bắt đầu rộng rãi hơn. Đường quê vắng vẻ, không khí thơm mùi cây cỏ, mùi đất ẩm. Dưới những cụm cây thốt nốt cao ngất ngưởng lặng im trong sương sớm bình minh, cánh đồng hướng dương vàng lắt lay thi thoảng điểm xuyết vài căn nhà tre thưa thớt bên đường. Cảnh trí lặng lẽ nhưở một thời nào không thực. Đường đi càng lúc càng uốn lượn lên cao. Núi Popa cao trên 1.500 mét so với mặt nước biển, nhưng do nằm trên cao nguyên cao hơn 500 mét nên lên gần tới nơi, chiều cao ngọn núi đã bớt đi một phần ba. Tuy nhiên không phải nhờ độ cao mà chính các huyền thoại liên quan đến Popa khiến núi trở thành điểm hành hương của rất nhiều người Myanmar. Trước khi Phật giáo phát triển mạnh ở đất nước này vào thế kỷ thứ X và XI, người bản địa thờ các vị thần linh tùy theo địa lý và hoàn cảnh dân cư. Đất có thổ địa, nhà có thần gác cửa, núi có sơn thần, sông có hà bá, cổ thụ có thần cây, rừng, suối hay thác cũng đều có linh thần, làng có thần làng. Người dân gọi các vị thần này là nat. Tín ngưỡng dân gian của người Miến Điện rất mạnh, thể hiện qua nhiều lễ hội linh đình kéo dài nhiều ngày được tổ chức quanh năm để tưởng nhớ các vị nat.
DN569_DDDT080814_Popa-1
Đường đến chân núi Popa
Còn nhớ, hôm tôi sắp rời Mandalay, bác xe ôm tình nguyện chở đi xem một lễ hội đang diễn ra tại làng Taungbyon cách Mandalay khoảng 20 cây số về hướng bắc để tưởng niệm hai vị thần làng, theo truyền thuyết là hai anh em ruột, tên là Shwe Phyin Gyi và Shwe Phyin Nghe. Lễ hội này kéo dài trong tám ngày đêm liên tục, đặc biệt dành cho người đồng tính luyến ái nam. Đây là lễ hội đồng tính nam lớn nhất châu Á, nhiều nhà nghiên cứu Myanmar còn cho rằng đây là lễ hội đồng tính nam đầu tiên của nhân loại. Dân Myanmar khắp cả nước và hội viên các câu lạc bộ đồng tính nam ở Thái Lan đến tham dự lễ hội rất đông. Các cửa hàng ăn uống, các màn nhảy múa diễn ra suốt ngày đêm. Những người đồng tính nam mặc trang phục sặc sỡ, đánh phấn thoa son, họ nhảy nhót và cúng tiền hay thực phẩm cho những người lên đồng mà người ta tin là do hai vị nat nhập xác. Bác xe ôm nói người đồng tính thành tâm cúng dường để xin kiếp sau được làm người nam hoặc nữ chứ không nửa nọ nửa kia. Ở một đất nước mà nhiều người cho là lạc hậu lại có một lễ hội tầm quốc gia dành riêng cho người đồng tính, đủ thấy người Myanmar khoáng đạt và hiểu biết về kiếp người như thế nào.
DN569_DDDT080814_Popa-7
Ngư dân kiếm sông trên một dòng sông gần núi Popa
Ngọn núi thiêng giữa 200 dòng suối
Ngôi đền Taung Kalat trên đỉnh Popa được xem là ngôi đền linh thiêng nhất của Myanmar. Muốn đến đây, du khách phải leo tổng cộng 777 bậc thang. Sau khi vượt qua thử thách đó, du khách sẽ được chiêm ngưỡng toàn bộ khung cảnh thiên nhiên rộng lớn xinh đẹp. Ngày nay, khu vực núi Popa cũng đã được quy hoạch như một công viên quốc gia, phục vụ thêm nhu cầu du lịch sinh thái. Núi Popa là điểm duy nhất ở Miến Điện thờ các linh thần nat, mỗi vị đều có lai lịch gay cấn và đầy màu sắc. Những câu chuyện dân gian xung quanh các vị thần linh khiến Popa có một sức hút mãnh liệt đối với người bản địa. Lúc anh xe ôm dừng xe trong một quán nhỏ dưới chân núi, chúng tôi thấy cảnh người địa phương lên xuống núi tấp nập, hàng quán đông người qua lại, dưới đất nhiều con khỉ già khỉ nhỏ chạy nhảy nghênh ngang chung đụng với người. Cảnh nhộn nhịp khác hẳn con đường vắng vẻ vừa đi qua dù bầu trời vẫn vần vũ mây xám, mưa thu lất phất nhuốm một vẻ buồn rầu.
728X90pix banner Noel
BÀI LIÊN QUAN
Những nẻo đường khó quên ở Zambia
24/02/2018
Quần đảo Mergui: thiên đường du lịch ẩn giấu ở Myanmar
19/02/2018
DN569_DDDT080814_Popa-5
Đường lên đền Taung Kalat thường bị sương mù bao phủ
Du khách chỉ cần leo một mạch mất khoảng nửa giờ là lên tới đỉnh, nơi có đền Taung Kalat khá lớn. Sau này hỏi lại tôi mới biết mình đã leo 777 bậc thềm mà không biết và không mệt vì khi leo không biết có nhiều bậc thềm như thế. Trên bậc cấp và hai bên đường đi có rất nhiều khỉ nhảy nhót qua lại. Những người đi lễ còn rải bắp cho khỉ ăn hoặc nhường lối nên chúng càng ngang nhiên ngồi hay nằm ngay giữa lối đi. Cũng may lên gần tới đỉnh thì lượng khỉ bớt đi, lối đi cũng được quét dọn tươm tất hơn.
Từ chân cho tới đỉnh núi Popa đều có các ngôi đền nhỏ thờ Phật chung với các thần nat. Ba mươi bảy vị thần nat đều có trang phục khác nhau. Họ mặc áo trắng, vàng, đỏ, tím, nâu, đủ cả. Mỗi vị một hình tướng, người trông dữ tợn, kẻ hiền lành hay trầm ngâm. Nhưng ấn tượng chung khi nhìn vô một gian phòng có nhiều tượng nat là lạnh lẽo âm khí dù đèn điện thắp sáng. Giống như nhìn một thế giới âm binh và lơ lửng âm khí, đôi mắt của các bức tượng buồn phiền hoặc bất mãn, họ khiến tôi nhớ những hình nộm bằng tre có dán giấy màu mà người miền Trung đốt đi sau khi cúng.
DN569_DDDT080814_Popa-6
Đền Taung Kalat trên đỉnh Popa
Ra khỏi đền, đứng trên đỉnh ra nhìn chung quanh thật không uổng công người leo núi. Hướng đông là các rặng núi bao quanh tiểu bang Shan, ba hướng kia cũng toàn núi, dưới xa ẩn hiện những chùm mimosa vàng ươm, những bụi cây xương rồng xanh mướt, hoa dại đủ sắc màu, những tháp chùa vàng óng nằm từng cụm hay rải rác, xa nữa là ngôi làng Popa rải rác mái nhà lợp tôn. Xung quanh núi có nhiều suối nhỏ, dòng suối lớn nhất là sông Pin chảy ra sông Voi. Dù tọa lạc tại vùng đất khô cằn nhưng riêng Popa có đến 200 dòng suối bao quanh tạo nên phong cảnh rất đặc sắc.
Những con khỉ không sợ người trên đường lên đền Taung Kalat
Từ chân núi, trước khi đi bộ xuống làng Popa để nhìn ngược lên, chúng tôi mua một hòn đá nhỏ có tên “hai hòn” làm quà lưu niệm. Đó là một viên đá bên ngoài có nham thạch bao lại, cầm lên lắc lắc mới biết bên trong có một viên đá nữa. Từ con đường làng nhìn lên, núi Popa có hình dáng như một cái tháp bị cắt đầu, triền núi dốc và cân đối như hai cạnh một tam giác, xung quanh triền núi đá nhiều hơn rêu và cây. Trên mặt bằng bị cắt ngang ấy là ngôi chùa Taung Kalat. Từ xa, cả ngọn núi như một cái chuông từ trên trời úp xuống đất, dáng cô độc, nhưng là nỗi cô độc hiền lành chứ không hùng vĩ nghênh ngang hay chứa điều gì ẩn mật.
Những cây thốt nốt trên đường đi
Người Myanmar thường ví Popa như núi Tu Di trong Phật giáo. Có lẽ cách so sánh này cũng đúng về mặt tâm linh. Bởi vì Popa là trung tâm của mạch sống tâm linh, là nơi có các linh thần ẩn cư duy nhất của đất nước này.
Từ Khanh
http://doanhnhanplus.vn/nhip-song/du...-dat-phat.html
-
Theo tín ngưỡng dân gian, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhứt là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc.
(ảnh: vị trí Thần Tài ảnh bên thuộc tay Phải là sai, nhưng phần đông bà con mình bày như thế. Khi chúng tôi hỏi họ sao đặt như thế, thì phần đông bà con mình trả lời là không biết, thấy người khác đặt Thần Tài bên Phải nên họ làm theo !)
Người đời rất quí trọng tiền bạc nên rất quí trọng Thần tài. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài rất long trọng, đặc biệt bàn thờ Thần tài không được đặt trên cao mà phải đặt ngay trên mặt gạch nền nhà.
Xem thêm thông tin: http://www.tanhongthai.com/products/...h%E1%BA%A7n-1/
http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:A...jRgDIB65eERHmp
http://www.tanhongthai.com/products/...h%E1%BA%A7n-1/
-
NGÔI LÀNG BÌNH YÊN
Posted on 12/06/2013 by Duy Lực Thiền
Chúng sinh có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Biệt nghiệp là nghiệp riêng của mỗi chúng sinh chỉ liên quan tới một chúng sinh cụ thể. Cộng nghiệp là nghiệp chung của một nhóm người quần cư trên cùng một địa phương, thấy rõ nhất là thôn, làng, xã, ấp. Những chúng sinh sống trong địa phương đó chịu chung một số phận giống nhau. Cộng nghiệp của một nhóm người cũng có thể là biệt nghiệp so với một tập hợp lớn hơn. Ví dụ :
Ngôi làng mất tích ở Canada
Mùa đông năm 1930, khoảng 2.000 người dân trong ngôi làng Anjikuni (Canada) đã đột ngột biến mất một cách khó hiểu. Sau gần một thế kỷ, bí ẩn này vẫn là một thách thức với các nhà nghiên cứu khi chưa ai có thể đưa ra được lời giải thích.
Vào một đêm trăng tròn giá lạnh tháng 11/1930, ông Joe Labelle cố gắng lê từng bước trên tuyết lạnh, tiến về phía ngôi làng Anjikuni để kiếm chỗ nghỉ qua đêm. Là một lái buôn da thú, ông có thể nghỉ ngơi ở bất cứ ngôi làng nào trên hành trình của mình. Anjikuni cũng là một địa chỉ quen thuộc.
Đó là ngôi làng của những người Eskimo, nằm ở hạt Kivalliq, bang Nunavut, Canada. Đây là khu vực xa xôi hẻo lánh và lạnh giá nhất của Bắc Mỹ. Joe Labelle đã từng nhiều lần qua lại mua bán da thú với người dân làng này và rất thân thiết với họ. Vì vậy với ông, đến được ngôi làng cũng giống như về nhà. Ông sẽ được ăn uống và nghỉ ngơi trong ngôi nhà ấm áp với bếp sưởi luôn rực lửa.
Eskimo-people
Người Eskimo ở Canada
Khi gần đến nơi, Joe Labelle đã cảm thấy một điều kỳ lạ: Ngôi làng im ắng một cách lạ thường. Không có tiếng chó sủa, tiếng trẻ con nô đùa và tiếng người lớn cười nói vui vẻ phát ra từ những ngôi nhà đầu tiên ông nhìn thấy. Bước vào bên trong căn nhà đầu tiên, Joe Labelle không gặp một ai. Quay sang nhà kế bên cũng vậy. Hai nhà, ba nhà, rồi năm nhà, không đâu có bóng người. Kinh hãi, ông chạy như điên dại giữa những ngôi nhà, miệng liên tục gào gọi mọi người. Chân ông đạp tung tất cả những cánh cửa, sục vào tìm kiếm không sót một phòng nào, nhà nào. Tất cả đều đã biến mất! Hơn 2.000 người già, trẻ, gái, trai đã từng sống ở đây, mà bây giờ không còn bóng dáng một ai.
Bình tâm hơn một chút, người lái buôn xem xét kỹ hiện trường và chợt nhận ra rằng, không chỉ người mà đến súc vật nơi đây cũng chẳng còn một mống. Chó, dê, cừu, tuần lộc cũng biến mất. Phải chăng những người dân nơi đây đã di tản đi nơi khác, vì một lý do gì đó?
Tại một ngôi nhà, ông thấy củi vẫn đang cháy trong lò sưởi. Nồi súp treo bên cạnh vẫn đang sôi sùng sục, còn trên ghế ngoài phòng khách, hai chiếc áo đang khâu dở, kim chỉ vẫn còn cắm vào áo. Vào nhà kho, ông thấy quần áo và thức ăn khô vẫn nguyên vẹn. Dù vội đến đâu thì đây cũng là hai thứ mà một người không thể không mang theo khi đi ra ngoài trong mùa đông giá lạnh thế này. Không phải họ đã đi di tản.
Dẫu là một lái buôn dày dạn với cuộc sống nay đây mai đó ở những nơi hẻo lánh, nhưng giữa mùa đông, ông Joe Labelle vẫn toát mồ hôi vì sợ. Dưới ánh trăng, nhìn ngôi làng càng toát lên cảnh liêu trai, chết chóc. Joe Labelle bỏ chạy thục mạng về phía một điểm bưu điện cách đó vài kilomet. Khi tới nơi, ông chỉ kịp thều thào nói với nhân viên điện tín vài câu trước khi ngất xỉu, nhưng cũng đủ để người này hiểu ra vấn đề và đánh một bức điện báo tin cho cảnh sát địa phương.
Ngày hôm sau, cảnh sát đến Anjikuni và bắt đầu tìm kiếm, nhưng vẫn không có bóng người hay gia súc nào được tìm thấy. Kinh hoàng hơn, khi ra khu vực nghĩa trang, mọi người phát hiện tất cả các ngôi mộ đều đã bị bới tung lên. Huyệt mộ trống không, quan tài biến mất. Người Eskimo thường xếp những tảng đá lớn bên trên mộ để ngăn chặn các loài thú ăn thịt xâm phạm mồ mả người thân của mình. Những tảng đá này giờ đây được xếp gọn gàng thành hàng lối bên cạnh huyệt mộ. Không loài động vật nào có thể làm được điều này.
Khắp ngôi làng, không hề có dấu hiệu của sự tấn công từ một thế lực nào đó. Giả thiết người dân nơi đây đã cùng nhau di cư, mang theo cả gia súc cũng không hợp lý. Các phương tiện di chuyển của họ cùng với vũ khí, lương thực, quần áo, đồ dùng vẫn còn nguyên vẹn. Quá trình rà soát các địa phương lân cận sau đó, cũng cho kết quả là không tìm thấy dấu vết của những người dân làng Anjikuni. Cuối cùng, sau rất nhiều nỗ lực, cảnh sát Canada cũng phải khép lại hồ sơ mà không tìm ra được nguyên nhân.
Ngôi làng bị chôn vùi ở Đài Loan
Một ngôi làng tại thành phố Cao Hùng ở tây nam Đài Loan, vào ngày 10-8-2009, đã bị bùn đất san lấp khi bão Morakot tràn qua gây gió mạnh và mưa lớn. It nhất 400 người mất tích mà không có hy vọng sống sót.
China Post đưa tin có khoảng 100 người được kéo lên từ đống bùn lầy và may mắn sống sót. Nhân viên cứu nạn Su Shen-tsun nói: “Không thể tin vào mắt mình, cả ngôi làng biến mất, ngay cả nóc nhà cũng không còn”.
Các quan chức Đài Loan cho biết có từ 600-800 người tại làng Siaolin mất tích sau khi núi bị lở sụp xuống nhà dân. Trước khi xảy ra sạt lở, khoảng 100 người đã được trực thăng kéo lên. Nhưng sau đó chính quyền thành phố đã mất liên lạc với khoảng 600 người dân còn lại.
Morakot-3-DaiLoan
Binh lính và cảnh sát giúp người dân sơ tán khỏi một làng ở miền trung Đài Loan khi bão Morakot đổ bộ vào tháng 8/2009. Ảnh: AP.
Có 1.313 người dân đăng kí cư trú tại ngôi làng này, nhưng truyền thông Đài Loan cho biết những người đang ở trong làng khi bão xảy ra chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em vì những người thuộc tuổi lao động đang làm ở thành phố. Các hoạt động cứu hộ hiện gặp khó khăn vì đường dẫn tới ngôi làng bị cuốn trôi trong khi trực thăng không thể hạ cánh vì đất bùn.
Hai ngôi làng bị xóa sổ ở Nhật Bản
Sau trận động đất kinh hoàng hôm 11-3-2011, hơn 10 nghìn người – nửa dân số của thị trấn ven biển Minamisanriku, tỉnh Miyagi, Nhật Bản mất tích. Cả một ngôi làng ở Minamisanriku và một ở Kesennuma đang bị chôn vùi dưới lớp phù sa, bùn và gạch vỡ mà cơn sóng thần cao 8m sau động đất cuốn từ đất liền đổ vào. Trước khi xảy ra động đất, ngày ngày, người dân địa phương đánh bắt cá nặng trĩu lưới và nô đùa trong làn nước biển hiền hòa. Sâu trong đất liền, những tòa nhà văn phòng hiện đại, các trung tâm mua sắm sầm uất đứng san sát bên cạnh các nhà máy và dãy nhà dành cho người dân.
Ngoilangbienmat
Ngôi làng đổ nát sau trận sóng thần 11-3-2011 tại Nhật Bản
Giờ đây, sóng thần đã phá tan tất cả. Hàng trăm tòa nhà tại hai thị trấn chìm sâu dưới lớp bùn đặc. Chỉ còn nhìn thấy nóc của đôi ba tòa nhà cao tầng. Cô Judith Kawaguchi – phóng viên Đài Truyền hình Nhật Bản NHK – viết: “10 nghìn người mất tích. Thật khủng khiếp. Toàn bộ thị trấn không còn nữa. Đường cao tốc bị bóp vụn thành những đống đổ nát. Tất cả đều chôn vùi dưới bùn đất”.
Ngôi làng sinh đôi ở Ấn Độ
Một ngôi làng ở miền bắc Ấn Độ đã gây sự chú ý đối với các chuyên gia sau khi có thông tin cho biết có hơn 100 cặp sinh đôi chào đời tại đây.
Ngôi làng nghèo nhất Ấn Độ Mohammedpur Umari chỉ có 6.000 dân và không có đường sá, trường học hay bệnh viện. Tuy nhiên, trong 50 năm qua, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy sự bất thường khi tại đây có đến hơn 100 cặp sinh đôi. Mohammed Asif, có anh em sinh đôi Karim sống tại thủ đô New Delhi, cho biết.
Sinhdoi-AnDo
Anh em sinh đôi ở làng Mohammedpur Umari, một người đang sống ở New Delhi
Một ngôi làng khác càng có nhiều cặp sinh đôi hơn nữa. Khi đi dạo quanh ngôi làng Kodinji tại miền bắc Kerala, Ấn Độ, có thể bạn sẽ tưởng mình đang “nhìn một hóa hai”. Nhưng thực tế lại không phải như vậy, vì ngôi làng này là nơi sinh sống của 230 cặp sinh đôi. Con số này sẽ tiếp tục tăng vì trong làng hiện đã có 5 phụ nữ đang mang thai sinh đôi.
Ấp sinh đôi ở Việt Nam
Nằm ngay trên quốc lộ 1A, cách thành phố Hồ Chí Minh hơn 60 km, ấp Hưng Hiệp, xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, Đồng Nai được nhiều người gọi là làng sinh đôi với nhiều câu chuyện lạ lùng mà đến giờ người ta vẫn chưa giải thích được.
Với hàng chục cặp sinh đôi, cặp cao nhất đã ngoài 60, cặp nhỏ nhất mới 2-3 tuổi, ấp Hưng Hiệp này nắm giữ kỷ lục có nhiều cặp sinh đôi nhất cả nước. Chỉ đến cuối năm 2007, khi một phóng viên về đây, nhận ra sự đặc biệt của Hưng Lộc và có một bài viết về vùng quê này, người dân và chính quyền mới biết về nó. Khi đó sự thật về một ngôi làng có đến hơn 40 cặp sinh đôi càng thu hút nhiều người đến tìm hiểu.
Ông Trần Văn Danh nhớ lại vào năm 2007, sau khoảng 1 tháng có bài báo về ấp nơi ông sinh sống, chính quyền mới kiểm tra lại, thống kê số lượng các cặp sinh đôi của xã. Lúc đó, cả xã Hưng Lộc có hơn 60 cặp sinh đôi thì ấp Hưng Hiệp do ông Danh quản lý có tới 40 cặp. Từ đó, người ta gọi ấp Hưng Hiệp với cái tên “làng sinh đôi”. Đến nay, xã có gần 100 cặp song sinh thì Hưng Hiệp đã chiếm 70 cặp.
Sinhdoi-ApHungHiep
Một cặp sinh đôi trong ấp Hưng Hiệp, xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
Ngôi làng Long Tuyền bình yên
Sau khi xem qua một số dữ liệu chứng tỏ có cộng nghiệp tại một số cộng đồng dân cư, thấy rõ ở một số làng, xã, ấp…trên thế giới. Bây giờ tôi xin phép phân tích cộng nghiệp ở một địa phương nơi tôi đã sống 60 năm qua.
Long Tuyền, Bình Thủy là một địa phương trù phú cách trung tâm Cần Thơ khoảng 5km về phía tây. Long Tuyền là tên xã, Bình Thủy là tên ngôi chợ trung tâm của xã (ở đây nói về làng Long Tuyền cũ rộng lớn hơn làng Long Tuyền hiện tại đã bị chia nhỏ). Long Tuyền là một ngôi làng cổ có lịch sử khoảng 200 năm. Nơi đây có danh nhân Bùi Hữu Nghĩa mà mộ chí vẫn còn ở địa phương này. Dưới dốc cầu Bình Thủy có ngôi đình cổ trang nghiêm
Bia công nhận di tích đình Bình Thủy (tên cũ là Long Tuyền cổ miếu) dựng ở sân đình ghi:
Long Tuyền cổ miếu tức đình Bình Thủy ngày nay, đã được vua Tự Đức sắc phong “Thành hoàng Bổn cảnh” ngày 29-11-1852
Ngôi đình hiện tại được xây dựng từ 1909. Đây là một trong những ngôi đình lâu đời của Nam Bộ, còn giữ được khá nguyên vẹn ở tỉnh Cần Thơ.
Đình Bình Thủy là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị của dân tộc Việt Nam, nơi sinh hoạt tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân vào những ngày lễ hội truyền thống.
Ngày 05-09-1989, Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã ra quyết định công nhận đình Bình Thủy là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật (cấp Quốc gia).
Đinh_Binh_Thuy
Đình Bình Thủy
Nhìn bề ngoài thì ngôi làng này chỉ là một địa phương trù phú giống như nhiều địa phương khác, nhưng khi phân tích đối chiếu với nhiều địa phương khác mới thấy rõ sự bình an của ngôi làng này.
Trong suốt hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ kéo dài 30 năm (1945-1975), chiến trận chưa một lần diễn ra tại làng này. Làng này nằm giữa hai phi trường : phi trường 31 Cần Thơ (dân sự) và phi trường Trà Nóc (quân sự).
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, dân làng có một lần đi sơ tán trong trật tự vì lệnh “tiêu thổ kháng chiến” (bỏ vườn không nhà trống) đi vô bưng biền, nhưng sau mấy tháng lại trở về, nhà cửa vườn tược vẫn còn nguyên vì chiến trận đã không xảy ra tại đây.
Chiến trận có diễn ra tại trung tâm thành phố Cần Thơ trong cuộc tổng nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, một số phố xá tan hoang, kể cả một khu đại học ở đường Tự Đức (nay là đường Lý Tự Trọng), một số dân chúng mất nhà cửa phải tạm trú trong trường học. Lúc đó tôi đang học lớp Đệ Ngũ (nay là lớp 8), trung học Phan Thanh Giản, sau Tết Mậu Thân, được nghỉ ở nhà chơi khoảng hai tháng vì trường bị mượn để làm nơi tạm trú cho người dân bị mất nhà cửa vì chiến tranh. Thế nhưng làng Long Tuyền vẫn bình yên, tất cả bóng dáng chiến tranh mà tôi thấy được là vài quả bích kích pháo rơi ngoài đường, một quả rơi trúng nhà dân gây hư hại chút ít, nhưng không có ai bị thương.
Phi trường Trà Nóc có bị tấn công, kho đạn bị nổ, suốt ngày nghe tiếng bom đạn nổ ầm vang, nhưng đó chỉ là tiếng vọng ở xa xa, người dân trong làng cũng không bị thiệt hại gì.
Sống trong thời chiến tranh, nhà nào cũng có xây hầm trú ẩn kiên cố, nhất là ngôi làng này nằm kẹt giữa hai phi trường, rất nhiều khả năng bị pháo kích. Thế nhưng trong suốt 15 năm chiến tranh chống Mỹ (1960-1975), gia đình tôi chỉ một lần duy nhất chui xuống hầm trú ẩn, đó là dịp Tết Mậu Thân 1968. Có một mảnh bom đạn lạc duy nhất rơi trúng nhà tôi, đó là một thỏi kim loại nhôm nặng cỡ 200 gram rơi trên mái nhà, cũng không gây hư hại gì nhiều, chỉ bể một vài tấm ngói, rơi xuống bếp lò làm bể một cái nồi đất, tôi nhặt và giữ lại để dành đập nước đá, rất vừa tay. Không biết thỏi kim loại này từ đâu bay tới.
2013-06-11 11.00.02
Đây là thỏi nhôm rơi trên mái nhà tôi năm 1968, dấu tích của chiến tranh Việt Nam
Trên đây là những ký ức trực tiếp của tôi về cuộc chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến rất khốc liệt kéo dài 15 năm, làm vài triệu người chết, nhưng đối với ngôi làng của tôi thì hầu như chiến tranh không chạm tới.
Về biệt nghiệp, tôi không có nghiệp đi lính, nên lúc tôi học lớp 11, thì tới tuổi quân dịch, nhưng vì đi học nên được hoãn dịch, hoãn dịch dài dài từ 1971 đến 1975, từ lúc học lớp 11 cho tới năm thứ ba đại học thì giải phóng, thay đổi chế độ. Tôi tốt nghiệp cao đẳng kinh tế năm 1977 tại đại học Kinh Tế TP HCM, về quê làm việc tại ủy ban kế hoạch tỉnh Hậu Giang. Đến năm 1979, xảy ra chiến tranh tại Campuchia và tại biên giới phía bắc, nhà nước có lệnh động viên, tôi vẫn còn tuổi nghĩa vụ, cơ quan đưa vào danh sách đi nghĩa vụ, nhưng khi đưa hồ sơ qua tỉnh đội, người ta thấy tôi gốc Hoa nên không tuyển vào quân đội, nhưng vẫn cho làm việc tiếp tục ở cơ quan nhà nước cũ. Nhớ năm ấy tình hình đói kém, thiếu lương thực trầm trọng, cơ quan cử tôi và một vài đồng nghiệp xuống ấp Trầu Hôi, Rạch Gòi, ở mấy tháng trời tại vùng nông thôn sâu này để trực tiếp huy động lương thực, cụ thể là trực tiếp thu thuế đóng bằng lúa của nông dân, mặc dù công việc này chẳng liên quan gì đến chức năng của chúng tôi tại cơ quan ủy ban kế hoạch của tỉnh.
Tóm lại, tôi trưởng thành trong một đất nước chiến tranh rất dữ dội, kéo dài tới mấy chục năm, nghe nói số bom đạn ném xuống hai miền nam bắc Việt Nam còn nhiều hơn số bom sử dụng trong Đệ nhị Thế chiến, nhưng dường như tôi không có nghiệp chiến chinh, nên chiến tranh không chạm tới, tôi không trốn tránh đi nghĩa vụ, kể cả trước và sau 30-04-1975, mà chính việc chinh chiến đã tránh tôi.
Làng Long Tuyền chẳng những bình yên vì chiến tranh không chạm tới, mà thiên tai cũng không chạm tới. Trong suốt 60 năm qua, tôi chưa hề thấy có một thiên tai nào xảy ra ở đây. Tất cả bao nhiêu cơn bão từ biển Đông thổi vào đất liền, đều tránh đi qua vùng đất này. Những cơn gió mạnh nhất mà tôi thấy được chỉ đủ sức làm đổ ngã một vài gốc cây yếu ớt chứ chưa từng thấy gió lốc làm sập nhà bao giờ. Các xã chung quanh thì có, còn xã này thì không. Tại miền nam Việt Nam nhiều nơi phải sống chung với lũ lụt trong mùa nước nổi, nhưng ở đây không có lũ lụt, những con nước lớn nhất trong mấy năm gần đây chỉ làm ngập con đường làng, sâu chừng vài tấc trong khoảng chừng một tiếng đồng hồ lúc thủy triều lên cao, sau đó rút ngay. Không có động đất, không có sóng thần, không có núi lửa, không có giông bão, không có lũ lụt, chiến tranh cũng không chạm tới, dân làng sống rất bình yên.
Đó thật là may mắn cho ngôi làng của tôi. Việt Nam có bờ biển dài, mỗi năm có hàng chục cơn bão từ biển Đông thổi vào đất liền, nhưng thật kỳ lạ, tất cả mọi cơn bão đều tránh đi qua làng tôi, cả trăm năm như thế, kể cả trong năm Thìn bão lụt, năm Giáp Thìn (1904) mà vùng châu thổ sông Cửu Long có bị ảnh hưởng nặng nề. Nơi bị ảnh hưởng nặng nhất là các tỉnh Gò Công, Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay), Tân An (Long An ngày nay), Chợ Lớn, Gia Định (TP.HCM ngày nay).
Trong quyển “Gò Công xưa và nay” của Huỳnh Minh và “Gò Công cảnh cũ người xưa” của Việt Cúc đã viết về trận bão lụt năm Thìn này, như sau: Từ 10 giờ cho đến 3 giờ chiều ngày 16-3 âm lịch, mưa không ngớt hạt. Từ 4 giờ chiều cho đến về đêm, gió càng ngày càng thổi mạnh, trốc gốc cây, trốc nóc nhà, tường xiêu vách đổ. Sóng chụp cao 3,5m, cuốn mất nhà cửa và người ra biển. Rắn rít bò khắp nơi, cắn chết nhiều người. Qua ngày 17-3 âm lịch, nước dần rút, người người đi tìm xác thân nhân. Hôm sau mới thấy mặt đất, quang cảnh thật là hãi hùng. Mãi đến ngày 19-3 âm lịch chính quyền mới tổ chức chôn cất những người chết, hễ gặp đâu thì chôn đó. Bọn trộm cướp thừa cơ đi gỡ bông tai, vòng vàng trên các xác chết. Kết quả thống kê: Mỹ Tho thiệt hại 35%, các vùng phụ cận tỉnh Mỹ Tho từ Thừa Đức lên tới An Hồ 30% nhà cửa sập đổ, vườn dừa bị gãy; Gò Công trên 60%, 5.000 người chết trôi ở các làng ven biển vùng cửa Khâu, làng Kiểng Phước, Tân Bình Điền, Tân Thành, Tăng Hòa…, 60% nhà cửa bị sập, 80% gia súc chết.
Theo Nguyễn Duy Oanh trong “Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam”, trận bão năm Giáp Thìn (1904) đã ảnh hưởng rất lớn đến sông ngòi ở địa phương nầy. Những bãi cát trước đó bao quanh vàm rạch Băng Cung (cù lao Minh) sau trận bão đã làm bít gần như trọn vẹn vàm sông này; nước mặn từ phía biển xâm nhập lên làm cho các làng Giao Thạnh, An Nhơn, An Qui, An Thạnh mất mùa. Phía Bình Đại bị thiệt hại nặng về nhà cửa, mùa màng; đất đai bị nhiễm mặn nhiều và ảnh hưởng tới những năm sau; cơn bão làm cho diện mạo địa hình thay đổi nhiều.
Ai muốn biết nhiều hơn về Năm Thìn Bão Lụt, có thể xem bài viết của nhà văn Bình Nguyên Lộc dưới đây.
Năm Thìn bão lụt 1904 và 1952- Bình Nguyên Lộc
Trong những cơn bão năm Thìn kinh hoàng đó, làng Long Tuyền thuộc tỉnh Cần Thơ chỉ bị ảnh hưởng không đáng kể như ca dao dưới đây. Theo các nhà khoa học, trận bão lụt năm Giáp Thìn (1904) là trận sóng thần, địa bàn ảnh hưởng của nó hầu như khắp Việt Nam và sang tận Campuchia. Trong đó:
“Mỹ Tho, Cửa Tiểu ba đào,
Bến Tre, Cần Giuộc, Vũng Tàu, Đồng Tranh.
Cần Giờ, Bà Rịa chung quanh,
Thảy đều hư hại đành rành chẳng sai.
Vĩnh Long, Sa Đéc một vài,
Cần Thơ cây ngã, lầu đài vô can”
Kết luận : Đối với cộng nghiệp của một quốc gia thì một địa phương có biệt nghiệp. Chẳng hạn trong 30 năm chiến tranh của Việt Nam, đau thương tang tóc không biết bao nhiêu mà kể nhưng làng Long Tuyền có biệt nghiệp, là không bị chiến tranh chạm đến. Dân trong làng có cộng nghiệp phước đức, tuyệt đại đa số bình an, chỉ một số ít dân làng có biệt nghiệp, có thể đi lính chết ở những nơi khác. Bản thân tôi thời trai trẻ sống trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, trước 30-04-1975, đó là chiến tranh chống Mỹ, sau đó là chiến tranh tại Campuchia và chiến tranh biên giới phía bắc, nhưng biệt nghiệp của tôi là vô can với chiến tranh, nên dù không tìm cách tránh né, tôi vẫn không phải đi nghĩa vụ một ngày nào, kể cả giai đoạn trước và sau giải phóng. Các em trai của tôi cũng thế, chẳng ai bị đi nghĩa vụ cả. Việt Nam là xứ sở có rất nhiều bão tố, nhưng dân làng Long Tuyền có biệt nghiệp là không bị bão tố, nên suốt cả trăm năm, dân trong làng không ai biết bão tố là thế nào, cũng không ai có kinh nghiệm trực tiếp gì với thiên tai, nhân họa, vì những tai họa đó không hề xảy ra ở đây trong suốt thời gian rất dài. Làng tôi quả thật là một ngôi làng bình an nhiều hạnh phúc. Những điều Đức Phật nói trong kinh điển về cộng nghiệp và biệt nghiệp quả là không sai. Làng Long Tuyền là một nơi thắng địa, đất lành, đã sản sinh ra một nhà hộ pháp của Phật giáo là thiền sư Duy Lực, đã hoằng truyền pháp môn Tổ Sư Thiền suốt 24 năm cả trong và ngoài nước.
Truyền Bình
https://duylucthien.wordpress.com/20...lang-binh-yen/
-
-
-
41. Chùa Hồng Phước (xã Hương Vinh - Hương Trà - Thừa Thiên Hóa) và nguồn tư liệu Hán Nôm (TBHNH 2010)
Cập nhật lúc 16h16, ngày 19/10/2013
CHÙA HỒNG PHƯỚC (XÃ HƯƠNG VINH - HƯƠNG TRÀ - THỪA THIÊN HUẾ) VÀ NGUỒN TƯ LIỆU HÁN NÔM
TRẦN VĂN QUYẾN
Đại học Dân lập Phú Xuân Huế
Vài nét về làng Thanh Phước và ngôi chùa làng
Làng Thanh Phước là một ngôi làng cổ của xứ Huế, được hình thành từ rất sớm. Căn cứ vào bản Hương phả của làng có thể biết được muộn nhất là thế kỷ XV làng đã được thành lập. Thanh Phước nằm ở ngã ba Sình, nơi hợp lưu của hai con sông lớn của là sông Hương và sông Bồ. Kể từ khi thành lập đến nay, làng Thanh Phước đã có nhiều tên gọi. Buổi đầu thành lập làng có tên gọi là Hồng Phước 洪福, đến khoảng thế kỷ XVI nửa đầu thế kỷ XVII làng có tên gọi là Hoằng Phước 弘福, dưới thời các chúa Nguyễn làng lại trở lại tên gọi là Hồng Phước. Thời Tây Sơn (1786 - 1801) làng đổi tên là Hồng Ân 洪恩. Dưới thời Gia Long, Minh Mạng làng lại trở lại tên Hồng Phước. Từ thời Tự Đức, làng đổi tên là Thanh Phước 清福 cho đến ngày nay. Làng Thanh Phước là một trong số ít nhưng làng xã ở Huế còn giữ được nhiều tư liệu Hán Nôm, đặc biệt là tư liệu thời chúa Nguyễn và thời Tây Sơn với hơn 1000 trang tư liệu. Trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin giới thiệu nguồn tư liệu hiện đang được bảo quản tại chùa làng.
Ngôi chùa làng không rõ được xây dựng từ bao giờ, nhưng hiện nay trong chùa vẫn còn bảo lưu được một bức hoành phi ghi: 洪福寺Hồng Phước tự, lạc khỏan đề: 景興九年戊寅孟春吉日重修Cảnh Hưng cửu niên, Mậu Dần mạnh xuân cát nhật trùng tu (trùng tu vào ngày tốt mùa xuân năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748). Như vậy chùa chắc chắn được xây trước thời Tây Sơn. Từ đó đến nay chùa được trùng tu nhiều lần vào các năm Thiệu Trị thứ 2 (1842); năm Bảo Đại thứ 15... Chùa Hồng Phước là một ngôi chùa làng tiêu biểu của vùng Huế còn bảo lưu được nhiều giá trị tín ngưỡng văn hóa.
Tư liệu Hán Nôm tại chùa Hồng Phước
Hiện nay trong chùa Hồng Phước còn giữ 31 đạo sắc phong cho các vị thần Kỳ Thạch Phu Nhân; Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi; Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân; Xích Lân Long Mã; Thành hoàng; Quan Thánh Đế Quân trải từ triều Minh Mệnh đến đời Khải Định. Trong đó niên hiệu Minh Mạng nguyên niên có 1 đạo sắc; niên hiệu Thiệu Trị có 10 đạo sắc; niên hiệu Đồng Khánh có 3 đạo sắc; niên hiệu Thành Thái 1 đạo sắc; niên hiệu Duy Tân có 2 đạo sắc và niên hiệu Khải Định có 6 đạo sắc(1). Trong chùa còn giữ được một quả chuông được đúc vào ngày tốt mùa xuân, tháng 2 năm Đinh Mão niên hiệu Gia Long thứ 6 (1807) 嘉隆六年丁卯季春吉日重刻.
Ngoài ra còn có một số tư liệu khác như bản sao sự tích về việc thành lập làng và ngài khai canh; một tập các bài văn tế; một quyển sách sao chép các đạo sắc phong cho các vị thần trải qua các triều đại được thờ phụng trong làng; quyển sổ ghi chép về việc trùng tu chùa năm Bảo Đại thứ 15...
Dưới đây xin trích dịch một số tư liệu tiêu biểu.
a. Bản sao Đại tông Phan tộc cấp bằng
代宗潘族給憑故跡事
始祖潘粘原在弘福社人輔黎洪德錦衣 巡檢使洪德參年貳月不記日詔書諸國 同藍山朕親行征伐齊就乂安奇華府海 華縣河西社渚寺村駐營待令同發行步 諸營去伐占城國驅逐走散其弘福社人 粘與子潘堂潘浪等與諸將同扶鸞輦征 伐斬得占賊千餘馘並旌旗器械勝有萬 而献功簿特進輔國上將軍錦衣衛都指 巡檢使粘龍侯特進輔國上將軍錦衣衛 都指揮屬吏使堂龍侯特進輔國上將軍 衣衛都指揮使經略使浪撤侯巡司各府 以順化處金華思榮海陵武昌升華奠盤 康禄麗水明靈布政定為章圖安居立業
其潘粘父子者體得條縣茶池下社群葛 荒閑老土丘墟堆林藪耕作成熟洪德叁 叁月初拾日有東閣大學士阮德懋知府 楊文通看度東西肆至界限立為武昌縣 葛社耕作定為壹貳參等註入簿内納稅 令史司至洪德肆年閏肆月初五日翁粘 與弟貳子經略使潘浪同就在金華縣鳥 處丘墟開墾成熟別立社村包度東西肆 界限占立為金華縣洪福社後蒙贈本土 城隍國舅尊神留長子潘堂第參子潘禮 子潘岩在延葛社合與笵料阮賢胡金麟 師訓阮為黃首陳海阮呂潘伯記胡仕廉 阮滿潘心阮馬等竭力開墾成熟耕稼納 如例立為武昌縣延福社
翁粘龍侯死葬在洪福社乾乾處距地失 本族几延招魂翁潘朗徹侯死在洪福社 葬在乾乾處忌日陸月貳拾貳日有生下 男子潘閑潘閑生下男子潘士郎女子潘 欽在洪福社世世相傳萬代
明命貳拾壹年柒月貳拾玖日
來雲孫潘洪恩奉鈔
Dịch nghĩa:
Tích cũ về việc Đại tông họ Phan được cấp bằng.
Thủy tổ Phan Niêm là người xã Hoằng Phước, phò tá vua Lê Thánh Tông, làm chức Tuần Kiểm sứ thuộc vệ Cẩm Y. Vào một ngày không rõ tháng 2 năm Hồng Đức thứ 3 (1472) nhà vua ban chiếu thư cho chư tướng hội đồng tại Lam Sơn. Chiếu rằng: “Trẫm đã thân hành chinh phạt, chư tướng hãy tập trung tại thôn Chữ Tự, xã Hà Tây, huyện Hải Hoa, phủ Kỳ Hoa, xứ Nghệ An, đóng dinh chờ lệnh, rồi cùng xuất các đội quân thủy bộ đi đánh Chiêm Thành, đuổi tan lũ giặc”.
Khi đó, người làng Hoằng Phước là Phan Niêm và các con là Phan Đường, Phan Lãng cùng chư tướng phò loan giá chinh phạt, chém được hơn nghìn đầu giặc Chiêm và thu được khí giới, cờ xí hơn vạn chiếc. Đến khi dâng sổ công trạng, [ba cha con] được phong là: Phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy Tuần kiểm sứ Niêm Long hầu; Phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy Thuộc lại sứ Đương Long hầu; Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm Y vệ Đô chỉ huy Kinh lược sứ Lãng Triệt hầu, coi sóc các phủ huyện, định bản đồ các huyện Kim Hoa, Tư Vinh, Hải Lăng, Vũ Xương, Thăng Hoa, Điện Bàn, Khang Lộc, Lệ Thủy, Minh Linh, Bố Chính thuộc xứ Thuận Hóa, để nhân dân yên ổn làm ăn. Cha con Phan Niêm chọn được xứ Cồn Cát, xã Trà Trì hạ, huyện [Lợi] Điều gồm đất hoang, gò đống, rừng bụi, cày cấy thành thục. Ngày mồng 10 tháng ba năm Hồng Đức thứ 3 (1472), quan Đông Các đại học sĩ và Tri phủ Dương Văn Thông chứng kiến việc đo đạc giới hạn bốn mặt, lập thành xã Diên Cát, huyện Vũ Xương, cày cấy chia làm ba bậc nhất, nhì, ba, ghi vào sổ, nạp thuế tại ti Lệnh Sử. Đến ngày mồng 5 tháng 4 nhuận năm Hồng Đức thứ 4 (1473), ông Niêm và con thứ hai Kinh lược sứ Phan Lãng cùng đến vùng gò nổi xứ Ô Thủy, huyện Kim Hoa, khai khẩn hành thục, lập riêng xã thôn, đo đạc giới hạn bốn mặt, lập xã Hồng Phước, huyện Kim Hoa. Về sau ông được phong tặng là Bản thổ Thành hoàng quốc cữu tôn thần. Ngài đã để con trai trưởng là Phan Đường con trai thứ ba là Phan Lễ, con trai út là Phan Nham ở lại làng Diên Cát cùng với các ông Phan Liệu, Nguyễn Hiền, Hồ Kim Lân, Hoàng Sư Huấn, Nguyễn Vi, Hoàng Thủ, Nguyễn Hải, Nguyễn Lữ, Phan Bá Kỳ, Hồ Sĩ Liêm, Nguyễn Mãn, Phan Tâm và Nguyễn Mã ra sức khai khẩn thành thục, trồng trọt, nộp thuế theo lệ, lập ra xã Diên Phước huyện Vũ Xương.
Ông Niêm Long hầu chết (mất xác), táng tại gò đất xứ Càn Càn xã Hồng Phúc. Bản họ đã nhiều lần làm lễ chiêu hồn. Ông Lãng Triệt mất tại xã Hồng Phúc, cũng táng tại xứ Càn Càn xã Hồng Phước, ngày kỵ là ngày 22 tháng 6. Ông sinh hạ con trai là Phan Nhàn. Phan Nhàn sinh hạ một con trai là Phan Sĩ Lang, con gái là Phan Thị Khâm ở tại xã Hồng Phúc. Đời đời nối nghiệp vạn đại.
Ngày 29 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)
Cháu xa đời là Phan Hồng Ân kính sao.
b. Một số sắc phong
勅奇石貞淑莊靜柔慈厚德敦仁至明和 恭敏堅節敷澤潔靜毓英清輝默佑純和 慎端良靈爽純粹貞正夫人之神護國庇 民顯有功德原肇豐府富榮縣戊材總洪 社從前奉事肆今甫膺大寶廣賁新恩盍 美號可加封堅介夫人准許洪福社依舊 奉事神其相佑保我黎民
故勅
明命元年七月二十六日
Dịch nghĩa:
Sắc cho Kỳ thạch Trinh thục Trang tĩnh Nhu từ Hậu đức Đôn nhân Chí minh Hòa nhu Cung mẫn Kiên tiết Phu trạch Khiết tĩnh Dục anh Thanh huy Mặc hữu Thuần hòa Thục thận Đoan lương Linh sảng Thuần tuý Trinh chính Phu nhân chi thần(2), bảo vệ đất nước che chở cho dân, hiển rõ công đức, trước đây được xã Hồng Phước tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong phụng thờ.
Nay Trẫm nhận mệnh lớn ra ơn rộng rãi, gia tăng mỹ hiệu, nên phong tặng thêm Kiên giới Phu nhân. Chuẩn cho xã Hồng Phước được phụng thờ như cũ. Thần hãy che chở trợ giúp cho dân đen của ta. Nay ban sắc!
Ngày 26 tháng 7 năm Minh Mệnh nguyên niên (1820)
勅旨承天府香茶縣清福社從前奉事關 帝君保安正直佑善敦凝城隍之神効靈 健孚應澄湛赤鱗龍馬之神慈濟彰靈助 信澄湛南海巨族玉鱗之神節經頒給勅 準其奉事嗣德三十一年正値朕五旬大 節經頒寶詔覃恩禮隆登秩特準許依舊 奉事用誌國慶而伸祀典欽哉
嗣德參拾參年拾壹月貳拾肆日
Dịch nghĩa:
Sắc chỉ cho xã Thanh Phước, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên trước đây phụng thờ các vị thần: Quan Thánh Đế Quân; Bảo an Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng Thành hoàng; Hiệu linh Đối kiến Phù ứng Trừng trạm Xích lân Long mã; Từ tế Chương linh Trợ tín Trừng trạm Nam Hải Cự tộc Ngọc lân. Đã được ban cấp sắc phong, chuẩn cho phụng thờ. Năm Tự Đức thứ 31 (1878) đúng dịp ngũ tuần đại khánh của Trẫm, đã ban chiếu ra ơn rộng rãi, gia tăng cấp bậc, chuẩn cho phụng thờ như cũ để ghi nhớ ngày lễ lớn mà tỏ rõ phép tắc thờ phụng. Kính thay!
Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức thứ 33 (1880)
Hiện nay nguồn tư liệu Hán Nôm này được bảo quản khá tốt. Đây là những nguồn tư liệu quý để nghiên cứu làng Thanh Phước nói riêng và văn hóa lịch sử vùng Huế nói chung, đặc biệt là những dấu ấn của văn hóa Chămpa ảnh hưởng cho đến ngày nay(*).
Chú thích:
(1) Các đạo sắc cụ thể gồm có:
STT
Tên thần được phong
Năm phong sắc
Đạo 1
Xích lân long mã
Khải Định 9
Đạo 2
Quan Thánh đế quân; Thành hoàng; Xích lân long mã; Nam hải cự tộc
Duy Tân thứ 3
Đạo 3
Quan Thánh đế quân
Tự Đức thứ 5
Đạo 4
Quan Thánh đế quân; Thành hoàng; Xích lân long mã; Nam hải cự tộc ngọc lân
Tự Đức thứ 33
Đạo 5
Thành hoàng
Tự Đức thứ 3
Đạo 6
Nam hải cự tộc ngọc lân
Tự Đức thứ 3
Đạo 7
Nam hải cự tộc ngọc lân
Thiệu Trị 5 tháng 12
Đạo 8
Thành hoàng
Thiệu Trị 5 tháng 11
Đạo 9
Xích lân long mã
Thiệu Trị 5 tháng 11
Đạo 10
Xích lân long mã
Thiệu Trị 5 (tháng 12)
Đạo 11
Thành hoàng
Thiệu Trị 5 (tháng 12)
Đạo 12
Nam hải cự tộc ngọc lân
Thiệu Trị 5 (tháng 11)
Đạo 13
Thành hoàng; Xích lân long mã; Nam hải cự tộc ngọc lân
Đồng Khánh thứ 2
Đạo 14
Xích lân long mã
Tự Đức thứ 3
Đạo 15
Quan thánh đế quân
Đồng Khánh thứ 2
Đạo 16
Thành hoàng quốc cữu
Khải Định thứ 9
Đạo 17
Quan thánh đế quân
Khải Định thứ 9
Đạo 18
Nam hải cự tộc ngọc lân
Khải Định thứ 9
Đạo 19
Kỳ thạch phu nhân
Khải Định thứ 9
Đạo 20
Thiên Y A Na
Khải Địnhthứ 9
Đạo 21
Thiên Y A Na
Thiệu Trị 5 (tháng 11)
Đạo 22
Kỳ thạch phu nhân
Thiệu Trị thứ 2
Đạo 23
Thiên Y A Na; Kỳ thạch phu nhân
Tự Đức thứ 33
Đạo 24
Thiên Y A Na
Đồng Khánh thứ 2
Đạo 25
Kỳ thạch phu nhân
Thiệu Trị thứ 2
Đạo 26
Thiên Y A Na
Thiệu Trị 5 (tháng 12)
Đạo 27
Kỳ thạch phu nhân
Tự Đức thứ 3
Đạo 28
Kỳ thạch phu nhân
Minh Mệnh thứ 1
Đạo 29
Kỳ thạch phu nhân
Thành Thái thứ 15
Đạo 30
Thiên Y A Na
Tự Đức thứ 3
Đạo 31
Thiên Y A Na; Kỳ thạch phu nhân
Duy Tân thứ 3
(2) Thần Kỳ thạch phu nhân được thờ tại một ngôi miếu nằm ở Ngã Ba Sình cạnh miếu thờ ngài khai canh của làng. Bên trong miếu thờ một bức phù điêu làm bằng sa thạch, bố cục hình bán nguyệt (vòng cung 2,8m, cao 1,10m, dày 0,17m). Phù điêu miêu tả hình quỷ vương Ravana trong hệ thống thần thoại, tín ngưỡng Ấn Độ xưa, đang thi thố những quyền năng của mình để quấy phá gia đình thần Siva ngự trên ngọn núi thiêng Kailasa. Cũng ở giữa nhưng bên trên hình quỷ vương là hình thần Siva đang ngồi trên ngai, bên trái Siva là nữ thần Parvati, bên phải là bò thần Nandin. Con thú là voi Airavata.
Đền Kỳ thạch phu nhân 奇石夫人祠 trong sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Đền kỳ thạch phu nhân ở địa phận xã Thanh Phước. Tục truyền xưa có ngư phủ thường đánh lưới ở sông này; ngày nọ lưới nặng cất không lên, ông bơi xem bị đá chặn, đã gắng sức đỡ đá mà không nổi, ông bèn bỏ đến chỗ khác bủa lưới. Đến ban đêm mộng thấy 1 mụ già, bảo rằng: “Ta đây là thần, ngươi đem ta lên bờ được thì ta sẽ phò hộ cho”. Sáng ngày ông rủ người đồng bạn lội xuống sông khiêng lên 2 hòn đá vuông lớn bằng chiếc chiếu, sắc xanh hơi trắng, mặt đá chạm hình thân người mặt thú, 20 cái tay, 4 cái chân. Bọn ngư phủ kinh hãi cho là Thần vật 神物 khiêng để chỗ vắng, làm đền tranh phụng tự. Từ đó về sau nghề cá của thầy được nhiều lợi, và càng có linh ứng. Lúc đầu bản triều phong cho tước “Kỳ thạch phu nhân chi thần 奇石夫人之神”. Mỗi khi cầu đảo đều được ứng nghiệm. Vừa có năm gặp đại hạn vua khiến quan đến kỳ đảo, hơn tuần nhật mà chưa mưa, vua lại khiến dời 2 hòn đá ấy đến chỗ bến sông. Đến buổi tối ngày ấy gió mưa rầm rộ, sáng ngày 2 hòn đá ấy mất 1 hòn, bèn khiến đem hòn còn lại ấy trở về đến cúng tạ. Di tích nay vẫn còn” (Đại Nam nhất thống chí, Thừa Thiên Phủ, tập thượng, Nha văn hóa Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài gòn, 1961, tr.80-81)
(*) Bài viết này được thực hiện sau lần điều tra điền dã Hán Nôm tại làng Thanh Phước vào tháng 4 năm 2010 trong trương trình hợp tác giữa Khoa Sử ĐH Khoa học Huế và Viện Nghiên cứu tương tác văn hóa thuộc ĐH Kansai, Nhật Bản. Nhân đây xin chân thành cảm ơn TS. Ueda Shinia - ĐH Osaka và PGS.TS. Nishimura Masanari - ĐH Kansai đã giúp đỡ trong quá trình làm việc./.
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?...2057&Catid=915
-
Tín ngưỡng thờ Quan Công ở Nam bộ (Từ góc nhìn giao lưu văn hóa)
Nói đến tín ngưỡng thờ Quan Công ở Nam bộ thì phải nói qua về sự có mặt của người Hoa ở đây. Vào thế kỷ XVII, những lưu dân người Hoa đầu tiên có mặt theo các tướng cũ của nhà Minh như: Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu,… ,do không thần phục triều đình nhà Mãn Thanh, đến định cư ở vùng Chợ Lớn, Bình Dương, Biên Hoà, Mỹ Tho và Hà Tiên.
Sang thế kỷ XVIII, XI và nửa đầu thế kỷ XX, người Hoa lại tiếp tục sang đây trước những biến động chính trị ở Trung Quốc. Dấu chân của họ có mặt hầu hết ở các địa phương Nam bộ như: Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang,… Đến đây, họ chủ yếu làm nghề kinh doanh buôn bán khá nhiều mặt hàng, nghề thủ công và vận chuyển hàng hoa, trồng rau màu… Tuy nói là một cộng đồng, nhưng người Hoa ở Nam bộ có nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau đến từ bảy phủ ở Trung Quốc: Phúc Châu, Chương Châu, Tuyền Châu ( tỉnh Phúc Kiến), Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông), Ninh Ba (tỉnh Chiết Giang). Việc nhiều miếu Hoa ở Nam bộ có tên gọi Thất phủ võ miếu, Thất phủ miếu hay Thất phủ cổ miếu,… nhằm thể hiện đầy đủ cộng đồng này. Tuy nhiên cũng phải nói: Có nơi ở Nam bộ không đủ cộng đồng Thất phủ, nhưng họ vẫn giữ tên gọi này vì :”Về người Hoa các phủ nêu trên tuy có sự thay đổi chút ít nhưng vẫn giữ nguyên thất phủ (con số 7). Cũng có thể gọi đó là con số mặc định của thần linh” [1]Như vậy, người Hoa, khi đến định cư ở Nam bộ, đãmang nhiều hành trang văn hoá từ quê cha đất tổ đến vùng đất mới lập nghiệp, góp phần cùng các dân tộc anh em khác xây dựng và phát triển nơi đây ngày một trù phú. Một trong những hành trang quí giá ấy chính là tín ngưỡng thờ Quan Công mang nhiều nét nổi bật, tiêu biểu cho văn hoá tinh thần người Hoa cũng như sự giao lưu văn hoá Việt- Hoa.
Quan Công tên thật là Quan Vũ (160- 219), tự Vân Trường, quê ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Ông là một nhân vật lịch sử thời Tam Quốc (211-264) ở Trung Quốc, được xem là người giỏi võ nghệ và được tôn là vị “tướng thần”, người anh em kết nghĩa của Lưu Bị-vua của nước Thục bên cạnh nước Ngô, Ngụy tạo nên thế chân vạc chia ba Trung Quốc thời bấy giờ. Có nhiều tác phẩm sử học, văn học viết về thời kỳ Tam Quốc, trong đó có nhắc đến Quan Công với tư cách là một trong những nhân vật chính. Trần Thọ-một người viết sử thời Tấn đã viết cuốn sử Tam Quốc Chí và Bùi Tùng Chí (thời Nam Bắc Triều)viết cuốn Tam Quốc Chí Chú. Vào thời Nguyên có quyển Tam Quốc Chí Bình Thoại khá nổi tiếng. Mặt khác, trong dân gian Trung Quốc lưu truyền khá nhiều giai thoại về các nhân vật lịch sử thời Tam Quốc, trong đó có Quan Công. Nổi bật nhất là nhà văn La Quán Trung (1330-1400) đã kế thừa toàn bộ thành tựu của những nhà văn trước, kể cả từ dân gian, để viết nên bộ tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa hết sức nổi tiếng, trở thành một trong Bát Đại Kỳ Thư của tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ Minh-Thanh. Nhìn chung, từ những giai thoại dân gian cho đến các tác phẩm văn học, sử học đều ca ngợi Quan Công với các phẩm chất: Trung nghĩa, thẳng thắn, hiên ngang, chính trực, văn võ toàn tài, có tiết tháo của người quân tử,… Những phẩm chất đó phù hợp với truyền thống văn hoá Trung Quốc- vốn dĩ chịu ảnh hưởng Nho giáo khá sâu đậm.
Ngoài ra, theo quan niệm của người Trung Quốc, có 2 vị thánh được tôn kinh là Văn Thánh (Khổng Tử) và Võ Thánh (Quan Công). Hai vị này biểu trưng cho quan niệm văn võ luôn song hành để phục vụ các triều đại phong kiến. Từ thời Tống (962-1279), Quan Công được thần thành hóa và trở thành vị thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, được thờ cúng ở mọi nơi. Sách Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa có ghi rõ: “ Đến thời Tống Chân Tông, Hà Đông có yêu ma hoành hành hút cạn nước Diêm Trì, lại sắp đưa quân Tây Nhung tới quấy nhiễu biên giới, tình thế vô cùng nguy ngập. Chân Tông phái sứ thần đến núi Long Hổ ở Tín Châu cầu cứu Trương Thiên Sư. Trương Thiên Sư phái Quan Vũ đi trừ yêu. Bảy ngày sau bầu trời phủ đầy mây đen, trời tối như mực, sấm chớp liên hồi, năm ngày sau trời quang đãng, yêu ma đã hàng phục. Chân Tông bèn phong cho Quan Vũ là Võ An Vương, sai đến núi Ngọc Tuyền tế lễ”[2]. Từ đó về sau, triều đình nhà Tống, nhà Minh (1368-1644) đã phong ông nhiều tước vị khác nhau như: “Sùng Ninh Chân Vương”, “Chiêu Liệt Võ An Vương”, “ Nghĩa Dũng Võ An Vương”. Đặc biệt, năm 1828, vào đời nhà Thanh, vua Đạo Quang (Thanh Nghị Tông) đã phong Quan Công một tước vị đặc biệt: “Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Quan Thánh Đại Đế”. Việc phong tước vị đại đế nhằm cổ vũ cho tinh thần “ Mãn-Hán một nhà”, tạo tiền đề ổn định xã hội Trung Quốc dưới triều đại này. Các thương gia Trung Quốc bắt đầu thờ Quan Công vào cuối đời nhà Minh, nhà Thanh và thời Dân Quốc (1911-1949). Giai đoạn này với sự phát triển của kinh tế thương mại, cho nên tầng lớp thương nhân thờ Quan Công biểu trưng cho chữ “ Tín” trong buôn bán. Ngoài ra, ông còn được xem là vị tài thần để bảo vệ và mang đến may mắn, tiền bạch cho họ. Ngày nay, ở Trung Quốc, Quan Công được thờ cúng khắp nơi ở nhiều đền, miếu, chùa,…và trong gia đình, ở những cửa hiệu, công ty, khách sạn,…Do vậy, tín ngưỡng Quan Công là một trong những loại tín ngưỡng khá quan trọng, biểu hiện được giá trị văn hóa tinh thần của người Trung Quốc. Tín ngưỡng Quan Công còn có mặt ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, ở Đài Loan, Uc, Mỹ,…Bởi vì ở các nơi đó có nhiều người Hoa sinh sống. Ngoài tên gọi Quan Công, dân gian Trung Quốc còn gọi ông là Quan Đế, Quan Thánh Đế Quân, Quan Lão Gia,…. Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng: “ Quan Công thờ tại gia đình thì là vị thần phù hộ cho gia chủ( nam giới), thờ ở đền miếu là vị thần phù hộ cộng đồng, thờ ở Đạo quán là một trong ba mươi sáu tướng của Huyền Thiên thượng đế chuyên trừ tà ma cứu độ chúng sinh, thờ ở chùa là Già Lam bồ tát hộ trì tam bảo” [3]
Đến Nam bộ, người Hoa lập miếu thờ Quan Công nhằm biểu hiện cho tinh thần trung nghĩa và sau đó chính là sự biểu hiện cho tấm lòng luôn hướng về quê hương cố cựu, không để bị mất truyền thống, mai một văn hoá của mình ở nơi đất khách. Trong gia đình, người Hoa thờ Quan Công bằng tượng hoặc tranh kiếng ở nơi cao ráo, trang trọng và thường thờ chung với Phật Thích Ca, Quan Am, Cửu Thiên, Thiên Hậu,…Trong một số ngôi chùa Hoa, Quan Công được thờ trên chánh điện với tư cách là Già Lam Thánh Chúng hộ trì tam bảo. Tại Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm và Giác Thiền Tự của người Hoa ở Thành phố Cà Mau, Quan Công tay cầm Thanh Long đao được thờ cùng Vi Đà Hộ Pháp, cả hai ông đứng chầu hầu Phật A Di Đà ở gian giữa chánh điện. Đặc biệt, cũng tại gian này có hình 7 vị: Giữa là Phật A Di Đà, hai bên là Quán Thế Am và Địa Tạng, Văn Thù và Phổ Hiền, ngoài cùng là Quan Công và Vi Đà Hộ Pháp. Như vậy, Quan Công không chỉ xuất hiện trong tín ngưỡng dân gian đơn thuần của người Hoa mà còn đi vào Phật giáo Hoa Tông ở Nam bộ với tư cách là vị bồ tát hộ trì tam bảo và để lại dấu quan trọng trong cách bài trí những ngôi chùa này.
Người Hoa thường tổ chức ngày vía Quan Công vào các ngày 13 tháng 1 (vía hiển thánh – Quan Công qui y tam bảo ), 13 tháng 5 (vía sanh) và ngày 23 tháng 6 (vía tử) âm lịch hàng năm. Tuy nhiên, có nơi người ta tổ chức lễ cúng lớn của miếu thờ Quan Công không theo các ngày này mà vào dịp rằm tháng 7 âm lịch kết hợp với lễ xá tội vong nhân. Trường hợp Thất Phủ Võ miếu ở huyện Ba Tri- một ngôi miếu cổ (thế kỷ XIX) của người Hoa ở Bến Tre là tiêu biểu. Đây thật sự là những ngày hội lớn đối với cộng đồng người Hoa lẫn người Việt ở đây. Họ đến thắp hương nhằm tưởng nhớ và cầu mong Quan Công phù hộ đô trì cho tai qua nạn khỏi, làm ăn phát tài phát lộc, trao đổi thông tin ở nguyên quán, quan hệ giữa các hội quán với nhau ….Lễ hội đã thu hút nhiều khách thập phương đến cúng bái với nhiều lễ vật phong phú như: Heo quay, vịt, xôi bánh, trái cây,…. Nổi bật là các loại bánh đặc trưng của người Hoa như: Bánh quả đào, bánh tổ, bánh đậu xanh, bông lan,…trông đầy màu sắc, rực rỡ. Riêng ngày Quan Công qui y (13/1 âm lịch) phải cúng chay, còn các ngày khác thì cúng mặn. Đặc biệt, về lễ vật cúng Quan Công, người ta thường kiêng cúng gà bởi vì “ gà là ân nhân của Quan Công: nhờ tiếng gà gáy sớm mà Quan Công thức dậy – “quá ngũ quan trảm lục tướng” về với Lưu Bị” [4]. Ở những nơi có nhiều người Hoa sinh sống, trong các ngày lễ thường diễn ra múa lân, sư, rồng, tổ chức văn nghệ ( hát Tiều, hát Quảng), đấu thầu lồng đèn,… hết sức hoành tráng và linh đình nhằm phục vụ nhu cầu giải trí của cộng đồng. Trước đây, ở một số nơi còn diễn ra hình thức đám rước kiệu Quan Công đi diễu hành xung quanh đường phố thật rộn rã với ban nhạc, các đội múa lân, sư, rồng,…trước sực chứng kiến của nhiều người xem và ngày nay tục này đã dần phai nhạt. Nổi bật hơn cả là hoạt động từ thiện của người Hoa như: Phát gạo, quyên góp cứu trợ,…được thường xuyên diễn ra vào những ngày lễ cúng hàng năm, mang những nét nhân bản sâu sắc. Trong những ngày lễ vía này, ở một số ngôi miếu Hoa ở Nam bộ có sự pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian và Phật giáo. Qua khảo sát tại Thất phủ võ miếu (thị trấn Ba Tri- huyện BaTri- tỉnh Bến Tre), vào ngày lễ cúng, có sự xuất hiện của các nhà sư ứng phú sư) tụng kinh, đọc chú và điều hành nghi thức cúng cho ban tế tự. Trong thức cúng ở ngôi miếu này có cúng chay (ngày rằm tháng 7) và cả cúng mặn (ngày 16/7 âm lịch). Ngòai ra, ở trong trung điện của ngôi miếu, vào dịp cng ny, có lập đàn với tranh thờ Địa Tạng Vương Bồ tát, hai bên là tranh Thập điện Minh vương. Bên ngòai miếu là đàn chẩn tế cô hồn với tượng Tiêu diện đại sĩ -một hĩa thn của Qun Thế m Bồ tát để cai quản cô hồn ngạ quỉ quậy ph. Hai bên là tượng Phán Quan và Chúa On (tất cả đều làm bằng giấy và đốt sau khi cúng xong). Tượng Chúa On trong lễ cúng gợi về vùng đất Bến Tre xưa còn lắm hoang vu, bệnh tật, ôn dịch hoành hành, cho nên việc cúng tế và cầu mong bình yên mang ý nghĩa quan trọng đối với không chỉ người Hoa mà còn người Việt. Đặc biệt, người Hoa có nghi thức cúng “Lược phát” với củi, gạo, muối, nước nhằm tưởng nhớ những người Minh Hương đầu tiên đến vùng đất này. Điều này mang đậm tính nhân văn của cộng đồng người Hoa này luôn hướng về tổ tiên của mình với tấm lòng thành, tri ân sâu sắc (5). Ở Thất phủ miếu (chùa Thất phủ) thuộc thị trấn Trảng Bàng (Tây Ninh), cộng đồng người Hoa vào ngày 13 và 15 tháng giêng có tổ chức lệ cúng kết hợp với ngày vía Quan Công quy y với ngày rằm tháng giêng, trong đó có rước các nhà sư đến tụng kinh cầu nguyện cho cộng đồng. Việc kết hợp giữa tín ngưỡng và tôn giáo (Phật giáo) là minh chứng về một vùng đất Nam bộ xưa với khá nhiều thiên tai, bệnh tật, thú dữ hoành hành,…Do vậy, đây là một biện pháp để ổn định tâm lý của con người đi khẩn hoang, không chỉ ở người Việt mà còn ở người Hoa. Mặt khác, sự kết hợp này chính là biểu hiện của tính dung hợp-một đặc trưng của văn hóa Việt Nam, cho dù đó là cộng đồng nào sinh sống trên mọi miền đất nước. Trong những ngày lễ đầu năm, thường các miếu Hoa thờ Quan Công có tổ chức lễ “Khai ấn” và người Hoa thỉnh những tờ giấy đỏ được đóng dấu ấn về treo trong nhà để cầu bình an, phát đạt. Ở Thành phố Cà Mau, người Hoa còn đến miếu Quan Công để thỉnh lá bùa có màu vàng ghi chữ : “Lệnh Hiệp Thiên Đại Đế an trấn bình an” về treo trong nhà bên cạnh lá bùa được thỉnh ở Thiên Hậu cung và Minh Nguyệt Cư sĩ Lâm. Họ gọi chung đây là “Bùa Tam Thánh”. Không chỉ trong những ngày lễ quan trọng mà vào ngày thường, người Hoa cũng đến miếu thắp nhang, cúng bái để cầu tự, xin xăm, cầu bình an, sức khỏe cho gia đình,…
Nói đến tín ngưỡng thờ Quan Công ở Nam bộ mà không nói đến ngôi miếu thờ vị thần này là một sự thiếu sót lớn. Những nơi thờ Quan Công thường được gọi với nhiều cách khác nhau: Miếu, cung, điện,…Ngoài ra, người Hoa và người Việt thường gọi miếu thờ Quan Công là chùa Ông bên cạnh chùa Bà- miếu thờ Thiên Hậu, thể hiện rõ nét triết lý âm dương vốn ăn sâu vào tâm thức của họ. Ngôi miếu thờ Quan Công có lẽ xưa nhất ở Nam bộ là Miếu Quan Đế ở Biên Hòa. Sách Gia Định Thành Thông Chí cho biết niên đại của ngôi miếu này: “ Tuế thứ Giáp Tý Chính Hòa ngũ niên tứ nguyệt cát nhật”. Tức là: Ngày tốt tháng tư năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hòa thứ năm (1684)[5]. Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh, được xem là viết vào giai đoạn cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX, đã ghi nhận một ngôi miếu thờ Quan Công vùng Chợ Lớn:
“Chói chói bấy chùa Ong Quan Đế
Nền trung ngãi cao danh ngàn thuở
Thăm thẳm thay miễu Đức Thánh Nhơn
Mối tư văn dựng để muôn đời”[6]
Cũng trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã khắc họa lại quang cảnh khu phố Hoa ở vùng Chợ Lớn thật sầm uất và náo nhiệt, trong đó có miêu tả về những ngôi miếu Hoa và sinh hoạt tín ngưỡng ở đây, càng không thể thiếu ngôi miếu Quan Đế: “Đầu phía Bắc đường phố lớn có ngôi miếu Quan Thánh và ba hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông và Triều Châu, chia đứng hai bên tả hữu, phía Tây đường phố lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía Tây có hội quán On Lăng, đầu phía Nam đường phố lớn về phía Tây có Chương Châu hội quán. Gặp ngày tết, đêm trăng, tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn đặt án tranh đua kỹ xảo trống như là cây lửa, cầu sao, thành gấm vóc, như hội Quỳnh Dao, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, ấy là một phố thị lớn và đô hội náo nhiệt”[7]. Như vậy, ngôi miếu thờ Quan Công này của người Hoa ở vùng Chợ Lớn và những sinh hoạt tín ngưỡng của họ góp phần tạo nên diện mạo của đất Sài Gòn đô hội xưa, cách đây chừng 200 năm. Ở vùng Chợ Lớn, có ngôi miếu thờ Quan Công với tên gọi Thất Phủ Quan Võ Miếu, được lập năm 1775, ở một vị trí quan trọng, trung tâm của Chợ Lớn (nay là đường Triệu Quang Phục). Ngôi miếu này do người Hoa xây dựng để thờ chung cho cộng đồng mình từ 7 phủ thuộc 3 tỉnh Trung Quốc sang đây,sau năm 1975 thì không còn nữa. Đây được xem là ngôi miếu Hoa cổ nhất của vùng Chợ Lớn xưa. Hiện vẫn chưa biết một cách cụ thể, chi tiết về kiến trúc và bài trí của miếu Hoa thời ấy, trong đó có các ngôi miếu thờ Quan Công. Nhưng dù sao, những ngôi miếu Hoa ngày nay vẫn còn giữ được khá nhiều nét kiến trúc truyền thống qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Nhìn chung, thường kiến trúc và cách bài trí miếu Quan Công giống như các ngôi miếu khác của người Hoa đều có cấu trúc chữ “Khẩu” hay chữ “Quốc”, gồm có: cổng, sân, cửa, tien điện, sân thiên tỉnh, đông sương, tây sương, trung điện và chính điện. Riêng ngôi miếu Quan Đế của người Hoa ở Thành phố Cà Mau, được xây dựng khoảng những năm 1950, có kiến trúc khác với lối truyền thống. Ngôi miếu được xây dựng theo kiểu một một lầu, khá hiện đại và phù hợp với điều kiện của không gian đô thị. Phía dưới là nơi sinh hoạt của Hội Tương tế người Hoa Cà Mau và Ngũ nghĩa đường có trách nhiệm phụ trách tang ma trong cộng đồng. Tầng trên là phần chánh điện của ngôi miếu. Trong các miếu Quan Công có nhiểu bức hoành phi, câu đối, bao lam được chạm khắc tinh xảo, công phu. Các loại tranh treo hay vẽ trong miếu theo nhiều đề tài từ các điển tích văn chương cổ như: Tranh Nhị thập tứ hiếu, tranh Bát tiên, tranh Kết nghĩa vườn đào,… Ở Phước Minh Cung (thị xã Trà Vinh) có nhiều trang trí đắp nổi bằng xi măng khá lớn theo đề tài: Cửu long tranh châu, Ngư long hý thủy tạo cho ngôi miếu thêm phần rực rỡ, trang trọng. Ngoài ra, trong các ngôi miếu còn có các đồ vật như: Bảo cổ thạch, đỉnh đồng, chuông đồng, tượng hổ hay sư tử chầu hầu bằng đá sa thạch, bát bửu, lư gốm, các bộ tam sự, ngũ sự,….Ở những ngôi miếu Hoa co, các vật dụng trang trí này phần lớn được mang từ Trung Quốc sang. Tất cả được chạm trỗ khá tinh vi với đường nét sắc xảo, mang đậm dấu ấn kiến trúc truyền thống Trung Quốc. Màu nổi bật trong miếu Hoa thường là màu đỏ với các hàng cột, kèo, lỗ bộ, lộng, bát bửu, trống được sơn phết tạo một không khí trang nghiêm. Màu đỏ cũng là màu của sự thông đạt, may mắn. Đặc biệt phải kể đến những bức hoành phi chạm đại tự, câu đối trên các bao lam treo trong miếu nhằm ca ngợi tài năng, công đức của Quan Công như : “Đơn Tâm Quán Nhật “, “Vạn cổ nhất nhân”, “An Kim Hiệp Lực”, “Hào khí Duy Tân”, …hay các câu đối:
“ Minh đức duy hình
Hữu ngã đồng nhơn”
“ Vạn cổ tinh chung chiếu nhật nguyệt
Thiên thu nghĩa dũng tráng sơn hà”
Trong các ngôi miếu Hoa ở Nam bộ thường có chiếc thuyền với những hình nhân nhỏ mà ở nguyên quán của họ không có. Đây chính là sự tưởng nhớ về quá trình gian khổ vượt muôn trùng biển khơi của cha ông họ đến vùng đất mới. Trên mái những ngôi miếu thường là ngói thanh lưu ly, hòang lưu ly với nhiều biểu tượng trang trí khác nhau như : Lưỡng long tranh châu, luỡng long chầu nguyệt, bát tiên,…. Mái của miếu Hoa thường là kết cấu đầu đao dầy, tạo vòm uốn lượn xuôi xuống 2 mái phía trước và sau miếu như hình chữ U úp ngược. Đối với hình tượng con rồng được trang trí trên các ngôi miếu Hoa thì có sự độc đáo: “Con rồng trang trí trên các chi tiết kiến trúc ở các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo của người Hoa Nam bộ không dữ tợn so với con rồng trong chùa, miếu của người Hoa ở Trung Quốc, mà nó mềm mại, uyển chuyển hơn, tạo cảm giác thân thiện và gần gũi với con rồng thời Nguyễn được trang trí trong đình, chùa người Việt”[8]. Võ Văn Hoàng đã nhận xét về nghệ thuật trang trí trong các ngôi miếu Hoa ở Nam bộ, trong đó có các ngôi miếu thờ Quan Công: “Trên các bức tranh, bức bình phong tại một số đền miếu, hình ảnh làng quê Nam bộ cũng được các nghệ nhân để tâm trau chuốt, khắc họa rất tỉ mĩ, cẩn thận đến từng chi tiết nhỏ, như gửi gắm vào đó tất cả tâm tư, tình cảm và nỗi niềm của mình về một miền quê thanh bình, êm ả, với bụi tre, khóm trúc, với con đường mòn uốn lượn quanh co , với kênh rạch chằng chịt, với chiếc cầu tre lắt lẻo bắt ngang sông, với chiếc xuồng ba lá, với cánh đồng bạt ngàn, với những giàn bầu sai quả, với chim, chuột, với ao sen rực rỡ, và có cả bầy vịt trời đang bay lượn”[9]. Như vậy, trong kiến trúc của những ngôi miếu Hoa có sự tiếp nhận các yếu tố của nghệ thuật trang trí giống như ở những ngôi đình, ngôi chùa người Việt và cả những mô típ mang đậm tính dân gian Nan bộ. Đây là một biểu hiện sinh động nhất về sự tiếp nhận văn hóa lẫn nhau của 2 cộng đồng Việt-Hoa trên một vùng đất mà bắt buộc họ phải gắn bó, đoàn kết, chia xẻ lẫn nhau trong quá trình cộng cư lâu dài. Một điều đặc biệt nữa: Có sự khác biệt trong kiến trúc của các nhóm ngôn ngữ khácnhau, cụ thể như miếu của nhóm Quảng Đông có đầu đao đuôi bằng, sắc cạnh thì trái lại miếu của nhóm Hoa Phúc Kiến (vùng biển) dễ dàng nhận ra ngay từ xa với mái miếu có hình thuyền, hai đầu đao vút cong. Ngòai ra, cửa sổ và cửa cái của ngôi miếu thường là hình tròn như hai mắt của con hổ (con vật biểu trưng của cộng đồng Hoa). Trong những cái cửa đấy có 5 chắn song cửa làm bằng tre, trúc tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) hay ngũ phúc (phúc, lộc, thọ, khương, ninh)[10]. Ở cửa chính của miếu thường có hình 2 vị môn thần được khắc hay sơn vẽ. Theo quan niệm của người Hoa, hai vị môn thần này là Uất Trì Cung và Tần Thúc Bảo. Xưa vua Đường Thái Tông khi còn chinh chiến, vì có chân mệnh thiên tư, nên tà ma thường quấy phá. Uất Trì Cung và Tần Thúc Bảo là 2 vị tướng tài đứng canh cho vua Đường ngủ và làm cho tà ma không dám đến gần. Cho nên, người Hoa thường khắc, vẽ hình 2 vị tướng này ở cửa chính của ngôi miếu để ngăn tà ma, trừ yêu quái muốn đến quấy phá. Trong miếu, ở gian giữa chính điện, bên cạnh tượng Quan Công, người ta còn thờ hai vị tỳ tướng của ông là Châu Xương và Quan Bình. Bộ tượng Quan Công với những qui ước đặc trưng: Mặt đỏ sậm, râu 5 chòm dài đến ngực, đầu đội mão Kim hoa, mình mặc áo giáp trụ có thuê hình rồng, bên ngoài khoác áo màu xanh lá cây. Hai chiếc áo này một biểu trưng cho quan văn, một biểu trưng cho quan võ, ý nói Quan Công là con người văn võ toàn tài. Bên phải đứng hầu là Quan Bình tay cầm Hiệp Thiên ấn, bên trái là Châu Xương tay cầm Thanh Long đao. Không gian phần chánh điện ở các miếu Hoa hơi tối kết hợp với bộ tượng Quan Công từ trên cao nhìn xuống tạo nên một không gian trang trọng, thâm nghiêm. Có nơi như ở vùng Tân Uyên người ta thờ Quan Công, Châu Xương, Quan Bình, Văn Xương, Linh Quan, gọi là Ngũ công vương phật[11]. Ngoài thờ Quan Công, trong các miếu còn có thờ thêm: Thiên Hậu, Phước Đức Chính thần, Quan Am, Thanh Long, Bạch Hổ, Tề Thiên, Bao Công, Ngũ Hành Nương Nương, Hỏa Đức Nương Nương,… và càng không thể thiếu Mã Đầu tướng quân cùng ngựa Xích Thố. Trong một số ngôi miếu Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long, có sự tiếp thu một số vị thần của người Việt, người Khmer nhằm thể hiện sự tôn kính, cầu mong che chở từ những vị thần của các dân tộc anh em khác như: Neak Tà, Thành Hoàng Bổn Cảnh, Bà Chúa Xứ,… Có thể kể đến một số ngôi miếu thờ Quan Công ở Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu thường có Thành Hoàng Bổn Cảnh cùng phối tự. Ở miếu Quan Đế (thị xã Sóc Trăng) trong khuôn viên miếu có một ngôi miếu nhỏ thờ Neak Tà- một vị thần phổ biến của người Khmer. Trên bàn thờ, hình tượng Neak Tà là một khối đá cuội màu nâu sẫm bọc vải hồng. Tất cả đã thể hiện: người Hoa đã có sự tiếp thu các yếu tố văn hóa của các dân tộc anh em khác ở Nam bộ như : Việt, Khmer và trong sự tiếp thu đó có tín ngưỡng là một bộ phận khá quan trọng của văn hóa tinh thần con người, góp phần tạo cho tín ngưỡng ở Nam bộ phong phú và đa dạng với nhiều loại hình khác nhau. Đó chính là sự khoan dung văn hóa được hình thành trong một điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của quá trình khẩn hoang, của sự đoàn kết các dân tộc cùng đấu tranh chống kẻ thù xâm lược trong tiến trình lịch sử và có cả tính cách của con người Nam bộ, trong đó có cộng đồng người Hoa.
Ngay từ đầu đến Nam Bộ, người Hoa thường sử dụng ngôi miếu của mình làm nơi liên lạc, họp hội đồng hương( hội quán) và quyên góp làm từ thiện, cúng tế,… Một thí dụ là trường hợp mieu Quan Đế (quận 5- Tp.HCM) là cơ sở của Nghĩa An hội quán (người Hoa Triều Châu và người Hẹ), trước 1975 miếu có 6 trường học lớn dành cho con em người Hoa, bệnh viện An Bình, nghĩa trang thuộc tỉnh Bình Dương,…[12]. Đây là một nét độc đáo trong văn hoá Hoa, phản ánh rõ nét tính cố kết cộng đồng cao, tinh thần tương thân tương ái… Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa miếu và hội quán là vấn đề quan trọng, bởi vì nó xác định được quá trình định cư của người Hoa ở Nam bộ. Trần Hồng Liên đã nhận xét: “Tùy vào tình hình và thực lực cụ thể của từng nhóm ngôn ngữ và khu vực họ đến định cư mà miếu và hội quán thành lập trước. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, chức năng tiên khởi của của hội quán với tư cách là nơi ăn ở tạm thời cho những người đồng hương, đồng tỉnh …là hình thức phổ biến ở Đông Nam Á” [13]. Một số ngôi miếu thờ Quan Công nổi tiếng, có giá trị văn hoá lớn và được hàng ngàn khách thập phương đến cúng bái như: Thanh An cung (thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương), Miếu Quan Đế (đường Nguyễn Trãi, quận 5, Tp.HCM ), Chùa Ong Gia Ninh Phước Kiến Nhị Phủ (thị xã Tây Ninh), miếu Quan Đế (thành phố Rạch Giá, Kiên Giang), chùa Ong- Quảng Triệu hội quán (bến Ninh Kiều- thành phố Cần Thơ),…
Tín ngưỡng thờ Quan Công vốn là tín ngưỡng ngoại nhập chứ không phải tín ngưỡng bản địa của người Việt ở Nam bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Tín ngưỡng này của người Hoa được người Việt tiếp nhận và trở thành một trong những vị thần gắn liền với đời sống văn hoá tinh thần của họ trên mảnh đất Nam bộ. Đặc biệt, không chỉ có người Hoa mà người Việt còn thỉnh Quan Công vào thơ ở trong nhà trên một “trang” thờ ở nơi cao trong nhà cùng với các thần, phật khác như: Cửu Thiên Huyền Nữ, Bà Chúa Ngọc, Quan Am, Thích Ca,… Quan Công trở thành vị thần độ mạng cho nam giới trong gia đình người Việt. Hình Quan Công được vẽ theo dạng tranh kiếng giống như bộ tượng Quan Công trong miếu hoặc Quan Công tay cầm Thanh Long đao đứng riêng, Quan Công xem án thư với nhiều kích cỡ khác nhau. Tùy vào độ tuổi của vị gia chủ mà bộ tượng Quan Công khắc trên tranh kiếng được thay đổi: Thanh Long đao hướng ra ngoài hay vào trong, vị trí tả hữu của Châu Xương, Quan Bình. Sau khi vị gia chủ mất hay vì một lý do khác, bức tranh thờ Quan Công được mang gửi lại trong chùa, miếu gần nhà, thậm chí là những ngôi miễu nhỏ trong xóm, ấp ven đường để hương khói tiếp tục. Quan Công không chỉ là vị thần thuộc phạm vi gia đình mà còn là vị thần mang tính chất tính ngưỡng cộng đồng của người Việt. Trong một số ngôi đình của người Việt , người ta còn thỉnh ông vào thờ cùng phối hưởng với thần Thành hoàng và các thần thánh khác của người Việt với bài vị khắc là “ Quan Thánh Đế Quân” hay tượng cốt, thậm chí có thể là một ngôi miếu nhỏ trong khuôn viên đình. Ở đình Bình Hòa- một ngôi đình cổ của Bến Tre có ngôi miếu thờ Quan Công khá lớn trong khuôn viên. Hàng năm, Ban Quí tế đình tổ chức cúng vía Quan Công ở miếu vào ngày 13/5 âm lịch. Một số ngôi chùa cổ ở Nam bộ cũng thờ Quan Công trong chánh điện với tư cách là Già Lam Bồ Tát độ trì tam bảo. Chẳng hạn ở Sắc Tứ Quan Am cổ tự- ngôi chùa cổ ở Thành phố Cà Mau trong chánh điện có tượng thờ Quan Công ngồi trên ngai một mình với một kiểu hơi khác với qui ước truyền thống: Râu 3 chòm, mặt áo giáp trụ xanh dương, khuôn mặt hiền từ, phúc hậu. Càng đặc biệt hơn, ở chùa An Phước (huyện Châu Thành- tỉnh Bến Tre) có ngôi miếu thờ Quan Công, bộ tượng Quan Công ở đây được thể hiện như sau: Quan Công ngồi trên ngai đầu đội mão đỏ, râu một chòm ngắn, mặc áo giáp trụ màu xanh lá cây, khuôn mặt hiền từ, nhân hậu, bên phải là tượng Quan Bình mặc áo thụng đỏ có đốm vàng(kiểu áo người Việt), khuôn mặt trắng và tròn, tay cầm ấn Hiệp Thiên, bên trái là tượng Châu Xương tay cầm Thanh Long đao. Qua điều này đã chứng minh được: Người Việt ở đây đã tiếp thu tín ngưỡng thờ Quan Công của người Hoa vào trong những thiết chế làng xã của mình là đình và chùa. Họ thờ cúng một cách trang trọng, thể hiện sự khâm phục, ngưỡng mộ một nhân cách lớn lao của Quan Công và tin tưởng sự phù hộ độ trì của ông đối với người Việt ở vùng đất mới. Bộ tượng Quan Công ở chùa An Phước có sự thể hiện mang tính “ cách điệu” và “ Việt hóa” cho phù hợp với thẩm mỹ, nhân sinh quan, đặc trưng của con người Nam bộ: Nhân hậu, hiền lành, mộc mạc, gần gũi,….Cũng có thể vì lý do Phật giáo ở Nam bộ phần lớn thuộc dòng thiền Lâm Tế từ Trung Quốc truyền sang, cho nên có Già Lam Bồ Tát được thờ trong các ngôi chùa cổ này. Điều này hoàn toàn khác hẳn với cách bài trí tượng thờ trong ngôi chùa miền Bắc và tạo nên đặc điểm của chùa Việt ở Nam bộ. Riêng đối với cộng đồng ngư dân xã Bình Thắng (huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre) có ngôi miếu thờ Quan Công khá lớn. Dân gian gọi là chùa Thanh Minh. Ngôi miếu này trước kia được người Hoa thành lập, khoảng đầu thế kỷ XX. Sau này, ngôi miếu được ngư dân người Việt tiếp thu và thờ cúng. Miếu có cấu trúc giống hệt như một ngôi đình người Việt gồm: Võ ca, võ qui, chánh điện. Hằng năm, ngư dân địa phương tổ chức lệ cúng vào 11 và 12/5 âm lịch với các nghi thức: Cúng Tiền vãng, cúng Chánh tế, Xây chầu đại bội,…và có cả hát bội biểu diễn. Đối với cộng đồng ngư dân Phước Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu), trong Dinh Ông Nam Hải có bàn thờ Quan Thánh với tượng: Quan Công, Châu Xương, Quan Bình và Mã Đầu Tướng quân cùng ngựa Xích Thố. Theo Đinh Văn Hạnh và Phan An cho biết thêm: “Ở Phước Hải, ngoài lễ nghinh ông, ngày 21 tháng 6 hằng năm, ngư dân tổ chức lễ cầu ngư và cúng vía Quan Thánh là lễ lớn thứ hai”[14]. Ơ lễ hội cúng biển của cộng đồng ngư dân Mỹ Long (huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh), được tổ chức vào các ngày 10, 11 và 12 âm lịch hàng năm, có nghi thức “ Nghinh ngũ phương” : Một số thanh niên có đạo đức tốt, dáng dấp cao ráo, khôi ngô, biết vũ công sẽ hóa trang vào vai Quan Công, Quan Bình, Châu Xương dẫn đầu đám rước thỉnh Ong Nam Hải từ miễu Bà Chúa Xứ đi khắp nơi trong thôn xóm để trù tà ma, tai nạn, tống đi mọi xui xẻo trong tiếng hò reo của ngư dân nơi đây. Đây là biểu hiện của sự “chồng xếp” và giao thoa văn hóa mạnh mẽ giữa lớp văn hóa Việt và văn hóa Hoa trong quá trình cộng cư, trong đó văn hóa Việt là chủ thể chính, ở cộng đồng ngư dân Bình Thắng, Phước Hải và Mỹ Long. Mặt khác, sự có mặt của tín ngưỡng thờ Quan Công bên cạnh các loại hình tín ngưỡng khác như: Ong Nam Hải, Bà Chúa Xứ, Thổ Địa, Bà Thủy Long, Bà Ngũ Hành,…tạo nên tính đa dạng trong đời sống tinh thần của các cộng đồng ngư dân này.
Ở một số ngôi từ đường của một số dòng họ lớn ở Bến Tre, người ta thường thờ tranh kiếng có hình Quan Công ở ngay giữa gian chính ngôi từ đường với ý nghĩa nhắc nhở tấm lòng trung hiếu, ngay thẳng, thủy chung đối với lớp con cháu mai sau. Ngôi từ đường của dòng họ Thái Hữu- một họ có truyền thống lâu đời, có công khai khẩn vùng đất Ba Tri- Bến Tre[15] có tranh thờ Quan Công hàng trăm năm nay ở gian chính của từ đường. Ở ngôi nhà cổ của họ Huỳnh ở xã Đại Điền (huyện Thạnh Phú- Bến Tre) khá nổi tiếng ở Đồng bằng sông Cửu Long (còn gọi là Huỳnh Phủ), ở gian giữa nha, phía tay phải có bàn thờ Quan Công với bản khắc gỗ màu đỏ ghi chữ nổi : “ Quan Thánh Đế Quân”. Trong những ngày sóc, ngày vọng, ngày vía Quan Công, ở một số nơi người Việt không chỉ bày lễ vật ơ trong nhà, thượng lên bàn thờ mà còn hoà cùng người Hoa đến cúng bái, làm công quả trong miếu, tham gia sinh hoạt văn hóa,….
Hơn thế nữa, theo Trần Hồng Liên cho biết : Trong phong trào đấu tranh của đạo Tứ An Hiếu Nghĩa do đức bổn sư Ngô Lợi tập hợp khá nhiều nông dân ở Nam bộ tham gia chống Pháp dưới ngọn cờ tôn giáo, các tín đồ của đạo này mặc dù tu theo pháp môn vô vi, chủ trương không tượng cốt, không hình thức nhưng trong các ngôi chùa của họ lại thờ duy nhất pho tương Quan Thánh Đế Quân với lòng cương trực dũng cảm, hi sinh vì chính nghĩa đã trở thành ngọn cờ đầu, giương cao nhằm tập hợp lực lượng chống ngoại xâm hiệu quả[16] . Đạo Cao Đài, một tôn giáo nội sinh trên vùng đất Nam bộ đầu thế kỷ XX, đã đưa Quan Công vào điện thờ của mình. Quan Công theo quan niệm của tôn giáo này là vị thứ ba trong Tam Trấn Oai Nghiêm bên cạnh Thái Bạch Kim Tinh và Quán Thế Am Bồ tát. Cả ba vị này thay mặt Tam Giáo Đạo Tổ (Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử) hộ trì để giữ vũng cơ đạo trong thời kỳ phổ độ lần thứ ba. Điều này phản ánh rõ nét tính dung hợp văn hóa của đạo Cao Đài, không chỉ dung hợp các yếu tố của nhiều tôn giáo khác mà còn có cả tín ngưỡng dân gian vào điện thờ của mình.
Tín ngưỡng thờ Quan Công không chỉ riêng có ở Nam bộ mà còn hiện diện theo dọc chiều dài của đất nước, tùy vào mỗi nơi có sự đậm nhạt khác nhau. Tuy nhiên, ở Nam bộ, tín ngưỡng thờ Quan Công mang tính phổ biến hơn cả các vùng khác. Quan Công là vị thần được người Việt tiếp nhận và mang tính phổ biến hơn các vị thần khác của người Hoa để trở thành vị thần độ mạng và phù hộ không thiếu được trong đời sống tinh thần của họ từ hơn 300 năm qua ở đây. Lý giải điều này, chúng tôi xin được đưa ra 3 nguyên nhân sau:
_ Thứ nhất, cộng đồng người Việt trước khi đến Nam bộ đã có sự giao lưu với văn hoá Trung Hoa và chịu ảnh hưởng sâu sắc trên nhiều phương diện qua một thời gian khá lâu từ quê hương bản quán. Cho đến khi họ đặt chân đến đây, giao lưu văn hoá Việt- Hoa diễn ra thật nhanh chóng và sâu sắc, lan toả trên nhiều phương diện, trong đó có tín ngưỡng thờ Quan Công.
_ Thứ hai, người Hoa đặt chân đến Việt Nam không riêng gì ở mảnh đất Nam bộ mà còn định cư ở khá nhiều nơi như : Quảng Ninh, Hội An, … Do vậy, những nơi đây đều có mặt tín ngưỡng thờ Quan Công. Theo Nguyễn Vinh Phúc và Nguyễn Duy Hinh, trong sách Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân, cho biết: Ở Hà Nội có 4 ngôi đình thờ Quan Công làm thần Thành Hoàng gồm: Đình Hồi Mỹ (9, Bùi Thị Xuân), đình Châu Long (4, ngõ Châu Long), đình Tây Luông (phố Nguyễn Trung Trực), đình Yên Viên (6, Cửa Bắc)[17]. Nhưng phải nói rằng, chỉ ở Nam bộ mới có người Hoa định cư nhiều nhất, trong đó đứng đầu là Thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn phân nữa số lượng người Hoa trong cả nước. Theo Tổng cục Thống Kê năm 1999, cả nước có 862.371 người, riêng Thành phố Hồ Chí Minh có đến 428.768 người (chiếm 54,5%). Trong sách Định cư của người Hoa ở Nam bộ từ thế kỷ XVII đến 1945, các nhà nghiên cứu đã nhận xét: “ Dù sao, so với miền Bắc, miền đất hấp dẫn đối với di dân người Hoa vẫn là miền Nam. Họ đến miền Nam vì nhận ra điềm lành và sự yên ổn, phát đạt của các tập đoàn di dân người Hoa trước đó” [18]. Chính điều này đã làm cho quá trình giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Hoa bền chặt hơn bất kỳ nơi nào, trong đó có sự tiếp thu tín ngưỡng thờ Quan Công khá đậm nét và nhiều hơn những nơi khác.
_ Thứ ba, người Việt đến Nam bộ vốn là những lưu dân đi khai hoang luôn luôn coi trọng nghĩa khí với tinh thần trọng nghĩa khinh tài, tứ hải giai huynh đệ, cư xử với nhau hào hiệp, rộng rãi, vì nghĩa xả thân mà không tiếc nuối. Phải chăng họ đã bắt gặp một tính cách và phẩm chất của một vị thần có những phẩm chất giống như mình là Quan Công? Và từ đó, ông nhanh chóng trở thành vị thần độ mạng, gắn liền cùng đời sống tâm linh của người Việt.
Noi tóm lại, tín ngưỡng thờ Quan Công ở Nam Bộ là vấn đề có ý nghĩa và hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu văn hóa người Hoa ở Nam bộ. Không chỉ vậy, nó sẽ gợi mở nhiều vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu vấn đề giao thoa tiếp biến văn hóa Việt, Hoa ở vùng đất Nam bộ. Quan Công không chỉ trở thành vị thần phù hộ cho cộng đồng người Hoa mà còn cả người Việt, ngay trong từng mỗi gia đình. Mặt khác, vị thần này đã hóa thân thành Già Lam Thánh Chúng trong các ngôi chùa Việt ở Nam bộ và có ảnh hưởng khá sâu sắc trong các tôn giáo nội sinh ở đây: Tứ An Hiếu Nghĩa và Cao Đài. Đó không chỉ dừng lại đơn thuần về mặt tín ngưỡng mà còn có ý nghĩa rộng hơn về phương diện văn hóa, là những giá trị độc đáo của con người Nam bộ. Quan Công chính là hiện thân của những phẩm chất, lý tưởng và đạo đức mà họ hướng đến, không riêng gì người Hoa mà còn ở cả người Việt. Đây chính là sự đồng cảm về mặt văn hóa tinh thần, sự cộng cảm tâm linh và quá trình giao lưu văn hóa của các dân tộc anh em trong tiến trình khai khẩn, xây dựng và phát triển trên vùng đất phương Nam của tổ quốc từ hàng trăm năm qua.
(Nguồn: Nhiều Tác giả: Nam bộ đất và người (tập VI), Tp.HCM, Nxb.Tổng hợp Tp.HCM, 2008)
[1] Trần Hồng Liên: Văn hóa người Hoa ở Nam bộ tín ngưỡng và tôn giáo, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2005, trang 65.
[2] Doãn Hiệp Lý (chủ biên): Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa, Hà Nội, Nxb, Văn hóa Thông tin, 1994, trang 2218.
[3] Nhiều Tác giả: Sổ tay hành hương đất phương Nam, Tp.HCM, Nxb. Tp.HCM, 2003, trang 215.
[4] Nhiều Tác giả: Sổ tay hành hương đất phương Nam, Tp.HCM, Nxb. Tp.HCM, 2003, trang 216.
[5] Dẩn theo: Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên): Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ từ thế kỷ XVII đến 1945, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2000, trang 52-53.
[6] Trương Vĩnh Ký (ghi chép)- Nguyễn Đình Đàu (giới thiệu): Gia Định phong cảnh vịnh, Nxb, Trẻ, Tp.HCM, 1997, trang 22.
[7] Dẩn theo: Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên): Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ từ thế kỷ XVII đến 1945, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2000, trang 57.
[8] Phan An, Phan Thị Yến Tuyết, Phan Ngọc Nghĩa, Trần Hồng Liên: Chùa Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tp.HCM, Tp.HCM, trang 140.
[9] Nhiều Tác giả: Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Nam bộ,Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006, trang 316.
[10] Trần Hồng Liên: Văn hóa người Hoa ở Nam bộ tín ngưỡng và tôn giáo, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2005, trang 83.
[11] Nhiều Tác giả: Sổ tay hành hương đất phương Nam, Tp.HCM, Nxb. Tp.HCM, 2003, trang 216.
[12] Trần Hồng Liên: Văn hóa người Hoa ở Nam bộ tín ngưỡng và tôn giáo, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2005, trang 16.
[13] Trần Hồng Liên: Văn hóa người Hoa ở Nam bộ tín ngưỡng và tôn giáo, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2005, trang 15.
[14] Đinh Văn Hạnh, Phan An: Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu, Nxb.Trẻ, Tp.HCM, 2004, trang 122-123.
[15] Ông tổ của dòng họ này tên là Thái Hữu Kiểm , người có công tụ dân để khẩn hoang và lập “BaTri cá trại”- nay là thị trấn Ba Tri. Người dân vùng này còn kể lại giai thoại ông già BaTri và họ cho đó là Thái Hữu Kiểm.
[16] Trần Hồng Liên: Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004, trang 398.
[17] Nguyễn Vinh Phúc và Nguyễn Duy Hinh: Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân, Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2004, trang 29.
[18] Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên): Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ từ thế kỷ XVII đến 1945, Hà Nội, Nxb.Khoa học Xã hội, 2000, trang 12.
(Theo khoavanhoc-ngonngu.edu.vn)
Cám ơn Quý khách đã dành thời gian ghé thăm website QUATANGPHONGTHUY.COM.VN và đọc bài viết này
Một số Tôn tượng Quan Công mạ vàng hiện có tại QUATANGPHONGTHUY.COM.VN
Tượng Quan Công Mạ Vàng
Đặt hàng
Tượng Quan Công Mạ Vàng
Đặt hàng
Tượng Quan Công Ngồi Đọc Sách
Đặt hàng
Tượng Quan Công Ngồi Cầm Kiếm
Đặt hàng
Tag: quan công, quan thánh, tượng quan công, thờ quan công, phong thủy
http://quatangphongthuy.com.vn/bai-v...u-van-hoa.html
-
-
-
Lễ hội Nguyên tiêu ở Phước Thắng Cung
LỄ HỘI NGUYÊN TIÊU Ở PHƯỚC THẮNG CUNG
Theo thông lệ năm nào cũng vậy cứ vào ngày rằm tháng giêng thì đồng bào khắp nơi nô nức đổ về Phước Thắng Cung dự khán nguyên tiêu.
Lễ hội Nguyên tiêu Phước Thắng Cung
Phước Thắng Cung tọa lạc cách thành phố Trà Vinh khoảng 44 km về hướng đông nam thuộc ấp Mé Rạch B, xã Đại An, huyện Trà Cú. Ngôi chùa được cộng đồng người Hoa ở đây xây dựng vào năm 1861. Qua thời gian Phước Thắng Cung dần dần được mở rộng và dung nạp thêm nhiều vị thần thánh. Về kiến trúc hiện tại Phước Thắng Cung gồm các công trình như: chính điện, đông lang, tây lang, cung Chúa Xứ, miếu Ông Tà, miếu Sơn Thần, miếu Tây Sơn Thần Vị, khu hồ bán nguyệt và tượng Quan Âm. Đặc biệt, chính điện Phước Thắng Cung có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Mặt bằng tổng thể gồm hai tòa nhà nằm ngang song song tạo thành tiền điện và chính điện. Dọc hai bên là hai dãy đông lang, tây lang hướng vào hai tòa nhà ngang tạo thành một công trình khép kín. Từ ngoài cổng đi vào qua khoảng sân khá rộng là đến tiền điện. Tiền điện là mặt tiền của chùa nơi đón khách thập phương đến chiêm bái cho nên rất được chú trọng về mặt mỹ thuật nhất là phần sảnh. Ngay trên cửa chính tiền điện có ghi ba chữ Phước Thắng Cung bằng Hán tự. Trên vách thì có phù điêu thanh long, bạch cùng các bức hội họa với nhiều đề tài khác nhau.
Tiếp nối tiền điện là chính điện gồm ba gian thờ. Gian giữa với bàn thờ và khánh thờ thờ ba vị thần Bảo Sanh Đại Đế, Quảng Trạch Tôn Vương, Phước Đức Chính Thần. Gian trái, gian phải thờ Ngũ Vị Chi Thần và Tam Bình Tổ Sư.
Bảo Sanh Đại Đế là vị thần chính thờ tự trong chùa, vì vậy mà Phước Thắng Cung còn được gọi là chùa Ông Bảo. Ông Bảo tức Ngô Chân Nhân hoặc Chân Nhân Tiên Sư hay Ngô Công Chân Tiên, Hoa Kiệu Công, Anh Huệ Hầu. Ở Việt Nam người Hoa thường gọi là ông “Lão Ýa”, “Lão Yề”. Ông họ Ngô tên Bản tự Hoa Cơ biệt hiệu Vân Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm Thái Bình Hưng Quốc thứ tư (979) đời Tống. Sinh thời ông là một vị thần y hết lòng vì người bệnh, cao thượng trong sạch nên khi mất được dân lập miếu tôn thờ, nhất là giới thuật sĩ và các thầy thuốc tôn làm thần phù hộ. Năm Càn Đạo thứ 7 (1169) được phong Đại Đạo Chân Nhân.
Tại Phước Thắng Cung hàng năm diễn ra nhiều lễ hội theo phong tục cổ truyền của đồng bào Hoa như: tết Nguyên đán, Thanh minh, Đoan ngọ, Vu lan, Trung thu, Trùng cửu... nhưng lớn nhất và thu hút đông đảo khách thập phương nhất là lễ hội nguyên tiêu diễn ra trong hai ngày rằm và mười sáu tháng giêng.
Sáng sớm ngày rằm bà con trong bổn hội ai có lòng thành thì vào chính điện dâng phẩm vật cúng bái. Đến trưa thì lễ hội chính thức bắt đầu. Vị chánh bái là người am hiểu nghi thức cúng tế đóng vai trò chủ tế dâng phẩm vật khấn vái kính báo đức ông nguyên tiêu đã đến, cung thỉnh đức ông về ngự chứng giám lòng thành mà phò hộ độ trì cho mọi người. Sau đó những người trong bổn hội còn tiến hành lễ thức tế Tiền chức tại bàn thờ Tiền hiền Hậu hiền, bàn thờ Bổn cung cố viên chức vị nhằm bày tỏ lòng tri ân đối với những bậc có công lao trong việc sinh cơ lập nghiệp. Ngoài ra, tại miếu Chúa Xứ, miếu Sơn Thần, miếu Neak Tà bổn hội cũng dâng phẩm vật tế lễ để các vị thần này cùng phối hưởng mà phù hộ, chở che cho mọi người mạnh khỏe, ấm no, hạnh phúc.
Càng về chiều thì không khí ở đây càng náo nhiệt hơn, hàng chục thanh thiếu nhi trong vùng tập trung về đây tiến hành hóa trang để diễu hành. Các em tranh thủ chặt cây lá quấn quanh thân thể, dùng lọ nghẹ, phẩm màu trang trí mặt, tóc hóa trang thành những “âm binh thần tướng”. Tùy sở thích của mỗi người hóa trang làm sao cho lạ mắt, thích thú là được. Đúng 6 giờ chiều khi trăng rằm vừa ló dạng, vị chủ tế cùng những người của ban hội tiến hành nghi thức xin keo để chọn giờ lành thỉnh kim thân ông lên kiệu du ngoạn thăm và ban phước cho bà con bổn phố.
Khi các kim thân yên vị xong, đoàn nghinh sắp xếp theo thứ tự ổn định thì 3 hồi tù và nổi lên báo hiệu cuộc du ngoạn bắt đầu. Dẫn đầu đoàn nghinh là các thanh thiếu nhi tay cầm đuốc múa mái hò reo, chạy đi chạy lại không nghỉ dọn và dẫn đường làm cho cuộc du ngoạn thêm kỳ ảo, náo động. Tiếp theo là đội lân, với tiếng trống sôi động rộn ràng làm vang động khắp vùng. Trên đường đi đoàn lân thỉnh thoảng còn ghé vào các nhà nghinh tiếp biểu diễn phục vụ và nhận những phần quà của các chủ gia treo trên cửa. Tiếp theo đội lân là hai người cầm hợp lồng đèn bảng hiệu Phước Thắng Cung, kế đến là vật cầm tinh. Năm nay năm Tân Mão (2011), vì vậy vật cầm tinh là một chú mèo ngộ nghĩnh có khung sườn bằng tre dán giấy bồi do các nghệ nhân địa phương chế tác. Kế đến là đội phèn la đi giữa đội cờ hiệu hai hàng đi hai bên, rồi đội lồng đèn và đuốc, đội cờ ông gồm cờ Bảo Sanh Đại Đế (màu xanh), Quảng Trạch Tôn Vương (màu đỏ), Phước Đức Chính Thần (màu vàng). Sau cờ ông còn có cờ Tam Bình Tổ Sư, Thiên Hậu Thánh Mẫu và nhiều loại khác với đủ sắc đỏ, xanh, vàng, tím... Tiếp theo đội cờ là kiệu binh đi kèm theo là người đánh trống cơm, người thổi tù và. Tiếp sau kiệu binh là kiệu ông đi giữa cùng hai hàng binh khí hai bên. Kế đến là nhóm Đường Tăng (Tam Tạng, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng) rồi Ông Văn, Ông Võ, nhóm tam đa (Phước, Lộc, Thọ), dàn nhạc lầu cấu và sau cùng là những người trong bổn hội cùng dân chúng thập phương. Kiệu ông, kiệu binh được trang hoàng lộng lẫy với cờ, hoa, đèn... Trước đây do một nhóm thanh niên khỏe mạnh thay nhau khiêng, nhưng ngày nay thì dùng xe kéo để giảm bớt sức người.
Đoàn khởi hành từ Phước Thắng Cung theo con đường phía trước đi về phía chợ Đại An. Đến cầu Trà Kha đoàn hội nhập với các đoàn của Đình Minh Hương, Phước Long Cung, Phước Lộc Hòa đi về Bảo An Miếu. Đến Bảo An Miếu dừng lại cung thỉnh Thiên Hậu Thánh Mẫu tượng trưng bằng chiếc lư hương cùng ngự kiệu ông rồi vòng quanh bổn phố. Sau đó đoàn đi đến Thánh thất Cao Đài vào chính điện thực hiện nghi lễ và quay về cổng chùa Pnô Đôn. Trên đường đi tiếng trống, tiếng nhạc không ngớt, thỉnh thoảng ba hồi tù và nổi lên, nghi thức vẫy muối gạo được thực hiện với ý nguyện sẽ xua tan những điều xấu, đón nhận những điều tốt đẹp. Ở những nơi đoàn qua, nhà nhà đồng bào người Việt, người Hoa, người Khmer đều lập bàn hương án trước sân với hương hoa trà quả chờ sẵn nghênh tiếp. Khi kiệu ông đến người ta thắp nhang khấn váy và nhận lấy một ít muối gạo xem đây là lộc với nhiều may mắn.
Quá nửa đêm thì đoàn du ngoạn cũng về đến chùa. Trước cổng có người của bổn hội tay bưng khai hợp cùng lễ vật chờ sẵn để làm lễ thỉnh đức ông Bảo Sanh Đại Đế, Quảng Trạch Tôn Vương, Phước Đức Chính Thần cùng binh gia vào an vị trên các bàn thờ. Trước đó trên đường về đến Bảo An Miếu thì nghi thức an vị Thiên Hậu Thánh Mẫu cũng được thực hiện.
Nguyên tiêu thắng hội chính thức khép lại, Phước Thắng Cung trở về với không khí yên tĩnh thường nhật chờ đón lễ hội năm sau.
Nguyên tiêu thắng hội ở Phước Thắng Cung là lễ hội đặc sắc giàu tính nhân văn, sáng tạo đã trở thành một sinh hoạt văn hóa mang đậm tính dân gian và là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tâm linh của cư dân trong vùng. Lễ hội góp phần tạo ra đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, củng cố bền vững khối đoàn kết cộng đồng dân tộc Kinh, Khmer, Hoa và các tín ngưỡng tôn giáo tại địa phương.
Dân gian có câu: “Tết quanh năm, không bằng rằm tháng giêng”. Đối với cộng đồng các dân tộc ở Đại An – Trà Trú câu nói ấy ắt không sai chút nào.
VĂN TƯỞNG
http://www.travinh.gov.vn/wps/portal...phuocthangcung
-
-
Có một loại “chữ lạ” tại chùa Phước Điền, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
20
TH8
2014
Bạn nghĩ gì về bài viết này?
by phongtauhu in Hán Nôm, Uncategorized
IMG_0419
Ths. Nguyễn Thanh Phong
Bộ môn Ngữ văn, Khoa Sư phạm, Đại học An Giang
Chùa Phước Điền, còn gọi là Trại Ruộng, nằm trên địa bàn xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Đây được xem là một trong những căn cứ đầu tiên được ông Đoàn Minh Huyên hướng dẫn các đại đệ tử lập nên trong công cuộc khai hoang lập làng ở vùng Thất Sơn. Ngôi chùa được Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang công nhận là Di tích lịch sử cách mạng vào năm 1999. Chùa thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, qua nhiều lần trùng tu, đến nay dung hợp cả cách thờ cúng của Phật giáo và Đạo giáo, được đông đảo tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Hòa Hảo ở các vùng lân cận đến chiêm bái.
Trong một lần đến tham quan tại chùa Phước Điền, chúng tôi vô tình phát hiện tại đây có một hệ thống hoành phi, câu đối bằng chữ Hán và bằng một loại “chữ lạ”. Phần hệ thống tư liệu chữ Hán cũng có nhiều điểm đặc biệt về nội dung chuyển tải và cách bày trí so với các cơ sở thờ tự khác. Nhưng điểm đáng chú ý hơn là phần hệ thống tư liệu được viết bằng một loại “chữ lạ”, chưa từng thấy xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, chứa đựng nhiều điều lý thú, đáng để chúng ta quan tâm tìm hiểu. Bài viết này bước đầu giới thiệu hệ thống tư liệu chữ Hán tại chùa Phước Điền, bên cạnh đó, chúng tôi tập trung phân tích để làm rõ tính chất đặc biệt của loại “chữ lạ” này, từ đó đưa ra những phán đoán, nhận định bước đầu về nguồn gốc hình thành và ý nghĩa của nó.
Chùa Phước Điền có kết cấu 2 gian, gian trước thờ Tam Bảo, chư Phật, Bồ tát và Thánh chúng, gian sau thờ Thầy Tổ và Cửu huyền thất tổ trăm họ. Cách bày trí này vừa tiếp thu ảnh hưởng của chùa Phật giáo truyền thống, vừa chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian được hình thành tại vùng đất mới khai khẩn. Ngoài ra, chùa còn có phần hậu liêu khá rộng để đón tiếp khách thập phương đến chiêm bái và nghỉ ngơi. Phần chính điện của chùa có diện tích không lớn, có lẽ được trùng tu trên nền đất cũ vốn dành cho số lượng hữu hạn tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương tu tập ở thời kỳ đầu. Điều đó cũng phần nào phù hợp với tinh thần “dụng tâm bất dụng tướng” của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và nhiều giáo phái dân gian khác.
Hệ thống hoành phi và câu đối chữ Hán ở chùa Phước Điền không nhiều. Hoành phi quanh đi quẩn lại vẫn là tên thôn Hưng Thới (興泰村) và bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương (寶山奇香, mùi hương lạ trong núi báu), tức giáo phái do Đức Phật Thầy Tây An sáng lập năm 1849. Ngoài ra còn có hai bài kệ mang màu sắc sấm vĩ nhằm tiên tri những sự việc sắp xảy ra trong tương lai theo niềm tin tâm linh của giáo phái này. Thứ nhất là bài:
H1. 寶玉君明天越阮
山中師命地南前
奇年狀再進復國
香出呈生造業焉
Bửu ngọc quân minh thiên việt nguyễn
Sơn trung sư mệnh địa nam tiền
Kỳ niên trạng tái tấn phục quốc
Hương xuất trình sinh tạo nghiệp yên
Bài sấm kệ này được khắc trên mặt ngoài ngôi miếu thờ Trăm quan trước cửa chùa, đọc theo chiều ngang hoặc dọc đều có nghĩa, được lưu truyền rộng rãi trong tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Hòa Hảo như một sự tiên đoán cho thế cuộc trong tương lai. Thế nhưng về mặt văn bản, bài sấm kệ này có hai chỗ khác biệt so với văn bản được lưu truyền rộng rãi hiện nay: nguyễn阮 ª nguyên元 và yên (焉trợ từ) ª yên (安an, bình yên). Trên thực tế bài kệ này có nhiều dị bản, do đó xác định đâu là bản gốc, bản chính là việc giới nghiên cứu cần tiếp tục làm. Còn thứ hai là bài:
H2. 金龍出鳳廊三期
隆田字出合玄遺
歸結臺方存日月
壇園燭校母人隨
寶法寺歸天山日
月穩香奇合五靈
Kim long xuất phụng lang tam kỳ
Long điền tự xuất hiệp huyền di
Quy kết đài phương tồn nhật nguyệt
Đàn viên chúc hiệu mẫu nhân tùy
Bảo pháp tự quy thiên sơn nhật
Nguyệt chiếu hương kỳ hiệp ngũ linh.
Bài kệ thất ngôn dài sáu câu được khắc vào bia đá để thờ, bên trong có nhiều chữ sai do đặc trưng phát âm của người Nam bộ, chẳng hạn: huyền vi (玄為) lại viết là huyền di (遺di có nghĩa là còn sót lại, còn vương đọng lại), tự (寺chùa) lại viết là tự (字chữ), chữ ổn (穩vững chắc, ổn định) lại phiên âm Hán Việt là “chiếu”… Nội dung bài sấm kệ ca ngợi tạo hóa huyền cơ, sự trường tồn của tự nhiên đất trời, tiên tri đại hội Long Hoa kỳ ba… Thế nhưng, cách hành văn, tạo câu không rõ ràng sáng sủa, cố tình tách ghép chữ (Bửu Sơn Kỳ Hương) cho mang màu sắc huyền bí của sấm vĩ, nội dung toàn bài không thống nhất, chặt chẽ, giá trị nghệ thuật không cao.
Đáng giới thiệu nhất trong hệ thống tư liệu chữ Hán là một loạt câu đối chữ Hán được tô vẽ ở cổng chùa, trang trí hai bên gian thờ trong chùa, trên các cây cột của nhà mát che giếng cổ trong sân chùa. Chúng tôi nhận thấy hệ thống chữ Hán này chủ yếu là sản phẩm tự tạo, nghĩa là do người trong chùa tự đặt ra chứ không phải dùng lại những câu chữ hay mĩ từ có sẵn. Điều này thấy rõ trên các chữ “Phước”, “Điền”, “Minh”, “Huyên” hay “Bửu Sơn”, “Kỳ Hương”, “Thới Sơn” nằm ở đầu hoặc giữa mỗi cặp câu đối. Chẳng hạn như những cặp câu đối sau:
H3. 福寶山林三教仰瞻回正道
田奇香至四恩完悉脫迷途
Phước bửu sơn lâm tam giáo ngưỡng chiêm hồi chánh đạo
Điền kỳ hương chí tứ ân hoàn tất thoát mê đồ (sai chữ “tất” 悉ª畢).
H4. 福冠東西鐘鼓挽回名利客
田光南北偈經覺醒暝暗人
Phước quán đông tây chung cổ vãn hồi danh lợi khách (sai chữ “quán” 冠ª貫)
Điền quang nam bắc kệ kinh giác tỉnh minh ám nhân.
H5. 福集地靈男女醒心虔六字
田生人傑旄倪覺性篤三原
Phước tập địa linh nam nữ tỉnh tâm kiền lục tự
Điền sinh nhân kiệt mạo nghê giác tính đốc tam nguyên (sai chữ “nguyên”原ª元).
H6. 明日本來佛演開宗傳正教
暄提是岸祖宏攝化救迷情
Minh nhật bổn lai phật diễn khai tông truyền chánh giáo
Huyên đề thị ngạn tổ hoằng nhiếp hóa cứu mê tình.
H7. 福德泰山仁民英雄和天地
田人泰順風饒財寶種有情
Phước đức thới sơn nhân dân anh hùng hòa thiên địa (sai chữ “nhân” 仁ª人)
Điền nhân thới thuận phong nhiêu tài bảo chủng hữu tình.
Đọc qua nội dung các câu đối, có thể thấy người sáng tạo ra chúng là người có trình độ Hán ngữ cao, am hiểu niêm luật và từ loại khi thiết lập vế đối; có lòng tự hào đối với quê hương, xứ sở khi chiết tự tên đất, tên người, tên chùa để đặt nên vế đối. Trong khuôn viên chùa còn có một cái giếng cổ, có lẽ được đào để lấy nước sinh hoạt trong mùa khô hạn, vì vậy mà người đời sau trùng tu lại giếng này để tưởng niệm công ơn của tiền nhân theo tinh thần “Tỉnh đường kiến lập kỉ niệm sư” (井堂建立記念師, lập nhà giếng này để kỉ niệm thầy tổ). Thế nên, giếng này không còn là giếng bình thường nữa mà là giếng của tổ thầy, giếng thần, giếng hộ an trăm họ. Quanh giếng là những dòng chữ ca ngợi:
H8. 鄉用留存客四方 Hương dụng lưu tồn khách tứ phương (Xóm làng dùng vẫn còn dành phần cho khách bốn phương)
H9. 深井潔精水綿長 Thâm tỉnh khiết tinh thủy miên trường (Giếng sâu tinh khiết, nước chảy ra mãi)
H10. 客來歡喜麗歸堂 Khách lai hoan hỷ lệ quy đường (Khách đến đây vui mừng ra thăm nhà giếng)
H11. 井心白水萬秋來客樂良腔 Tỉnh tâm bạch thủy vạn thu lai khách lạc lương xoang (Lòng giếng nước trong lành khách đến ngàn năm thấy vui trong dạ)
H12. 神居在位護境平安終貴處 Thần cư tại vị hộ cảnh bình an chung quý xứ (Thần ở tại đây phò hộ đất này bình an giàu có)
H13. 井清靖事安 Tỉnh thanh tịnh sự an (Nước trong mọi việc cũng lắng đọng bình an)
H14. 神顯基盛樂 Thần hiển cơ thạnh lạc (Thần hiển lộ ra điềm thịnh vượng an vui)
Trên đây là một số nội dung tiêu biểu của hệ thống tư liệu chữ Hán tại chùa Phước Điền. Dụng ý của chúng tôi khi giới thiệu nội dung này là để góp phần làm sáng tỏ hệ thống “chữ lạ” đang hiện diện tại đây. Hai hệ thống tư liệu này có mối quan hệ như thế nào, có do cùng một người sáng tạo hay không, nội dung phản ánh có gì tương đồng hay khác biệt không… là những vấn đề chúng tôi muốn qua đây làm rõ.
Đầu tiên, cần phải khẳng định rằng, loại “chữ lạ” này được sáng tạo trên cơ sở của chữ Hán, người sáng tạo nên chúng phải là người rất am tường về chữ Hán. Quan sát toàn bộ ngôi chùa, chúng tôi nhận thấy có 18 câu được viết bằng loại chữ này dưới hình thức liễn đối, tổng cộng là 142 chữ (xem phần phụ lục). Trong số đó, có 114 chữ đã được nhận dạng và phiên thiết bằng chữ quốc ngữ bên dưới, 28 chữ chưa được nhận dạng và phiên thiết bằng chữ quốc ngữ. Số lượng chữ này đủ nhiều để chúng ta tiến hành một cuộc khảo sát về mặt tự dạng, ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của chúng.
Về mặt tự dạng, chúng cơ bản được kết hợp bởi các bộ thủ chữ Hán với nhau, hoặc giữa bộ thủ với chữ hoàn chỉnh. Chữ được kết hợp bởi ít bộ thủ (bộ phận) nhất là những chữ có 2 bộ thủ (bộ phận) như chữ “ta” (kim金 và do由), “an” (do由 và nguyệt月), “đồ” (thất七 và phất弗). Chữ được kết hợp bởi nhiều bộ thủ (bộ phận) nhất là những chữ có 7 bộ thủ (bộ phận) như chữ “truyền” (kim金, công公, nhân人, trung中, cửu九, nguyệt月, bổn本); chữ “nguyện” (nguyệt月, trung中, thập十, cửu九, nhân人, nguyệt月, sinh生). Hầu hết các chữ còn lại có số bộ thủ (bộ phận) dao động từ 3 – 6, nhiều nhất là những chữ được kết hợp bởi 4 bộ thủ (bộ phận). Điều này khiến cho loại “chữ lạ” này phức tạp hơn rất nhiều so với chữ Hán, số nét viết nhiều hơn, cấu hình chữ cũng lớn hơn. Đặc biệt là cách tạo chữ không theo bất cứ nguyên tắc cấu tạo chữ Hán (và cả chữ Nôm) nào hiện nay.[1] Ở đây, chúng tôi thấy nhiều chữ có kết cấu theo kiểu chữ hội ý, thế nhưng phân tích ý nghĩa các bộ thủ (bộ phận) chữ Hán thì ta lại thấy chúng hầu như không có liên hệ với nhau về ý nghĩa. Vì vậy, chúng cũng không phải là loại chữ hội ý.
Về mặt ngữ âm, các câu đối “chữ lạ” này được đọc bằng cả âm Hán Việt lẫn âm gốc Việt, đặc điểm này khá giống với các câu đối bằng chữ Nôm. Một số câu đối hoàn toàn được đọc bằng âm Hán Việt, đặc trưng ngữ âm không khác mấy so với các câu đối chữ Hán. Chẳng hạn:
L1. Tâm thọ bồ đề thành chánh giác
Như lai phật nguyện độ ta bà. (Phụ lục 4)
L2. Thổ vượng nhơn tùng nhơn thổ vượng
Thần an trạch dẫn tự an thần. (Phụ lục 5)
L3. Vạn cổ đào huê chiêu thánh mẫu
Thiên thu xuân sắc hội thần tiên. (Phụ lục 8)
L4. Thiên an đồ bảo thuận lập địa
Quốc nam hộ trì nghiêu điều tâm. (Phụ lục 7)
Một số câu đối khác đọc bằng âm Hán Việt xen lẫn âm gốc Việt khá nhuần nhuyễn, mang đậm đặc trưng ngữ âm của tiếng Việt. Chẳng hạn:
L5. Ngày mười tám tháng bảy hoàng cầu tỏ rạng (“hoàn” viết sai thành “hoàng”)
Chính lòng bà tổ mẫu hóa sanh. (Phụ lục 1)
L6. Ân nhuần thắm gội vạn lòng kim
Thạnh thới lưu danh thiên vạn cổ. (Phụ lục 2)
L7. Ông bà chín kiếp giống rồng tiên
Vạn cổ lưu danh thất tổ truyền. (Phụ lục 3)
L8. Vạn quốc chư bang đến phò trì
Đức Phật vĩ đại vạn quốc huy. (Phụ lục 6)
Như vậy, có thể thấy, loại chữ lạ này vừa được đọc bằng âm Hán Việt (mô phỏng âm đọc chữ Hán đời Đường), vừa được đọc cả bằng âm gốc Việt. Điều này khá giống với cách đọc chữ trong các văn bản Nôm. Thế nhưng, điểm khác biệt so với chữ Nôm là, những chữ đọc bằng âm Hán Việt ở đây có tự dạng không giống chữ Hán, mà được tạo mới gần giống như các chữ đọc theo âm gốc Việt. Đây là điều rất lý thú của “chữ lạ” nơi đây.
Về mặt từ vựng, chúng bao gồm các từ vựng gốc Hán và cả từ vựng gốc Việt. Từ vựng gốc Hán xuất hiện nhiều nhất là các thuật ngữ Phật giáo và Đạo giáo như: tâm, bồ đề, chánh giác, như lai, ta bà, phật, thánh mẫu, thần tiên, hộ trì, hóa sanh…; ngoài ra còn có những từ vựng quen thuộc trong sách vở xưa như: vạn cổ, đào hoa, thiên thu, xuân sắc, lưu danh, thiên cổ, hoàn cầu, vạn quốc, chư bang, vĩ đại… Phần lớn chúng là những mĩ từ có ý nghĩa tốt đẹp, dùng trong trường hợp tán dương, ca ngợi hay khuyến dụ người khác tu hành. Còn phần từ vựng gốc Việt được huy động để chỉ ngày tháng (ngày mười tám tháng bảy); con số (chín kiếp); bày tỏ tình cảm thái độ (lòng, thắm); những tính từ, động từ, danh từ vốn quen thuộc trong lời nói hằng ngày (tỏ, rạng, nhuần, gội, giống, rồng, đến)… Nhìn chung, số lượng từ vựng gốc Hán chiếm phần áp đảo so với từ vựng gốc Việt.
Có một điểm quan trọng không thể không nói tới là hiện tượng lặp lại từ vựng trong cùng một câu hoặc trong các câu khác nhau. Hiện tượng lặp từ vựng trong câu như trường hợp “Thổ vượng nhơn tùng nhơn thổ vượng, Thần an trạch dẫn tự an thần”, còn lặp ở các câu khác nhau có các từ vựng: vạn cổ, vạn quốc, Phật, bà, tổ… Điều thú vị là phần lớn các từ vựng được lặp lại có tự dạng giống nhau, chữ sau không khác so với chữ trước; có vài trường hợp chữ sau khác so với chữ trước (vạn, quốc). Hơn nữa, một số chữ đồng âm khác nghĩa có cách viết gần giống nhau, chẳng hạn chữ “bà” trong “ta bà” và trong “ông bà”, hoặc những chữ có âm đọc gần giống nhau thì cách viết cũng gần giống nhau, như trường hợp “tổ” và “thổ”. Điều này chứng minh rằng, loại chữ viết này được sử dụng một cách có chủ ý, được tạo lập dựa trên những nguyên tắc nhất định, chứ không phải là sáng tạo và sử dụng tùy tiện, bừa bãi.
Về mặt ngữ pháp, một số câu đối được tạo dựng theo nguyên tắc ngữ pháp của văn ngôn cổ, tức kiểu tạo câu trong văn bản Hán văn thời phong kiến, chẳng hạn những câu đọc bằng âm Hán Việt L1, L2, L3, L4 phía trên; còn một số câu khác được tạo dựng theo nguyên tắc ngữ pháp tiếng Việt, như các câu L5, L6, L7, L8 phía trên. Điều này chứng tỏ người sáng tạo “chữ lạ” này không đơn thuần chỉ ghi lại câu chữ có sẵn trong sách vở cổ mà còn phản ánh lời ăn tiếng nói hằng ngày vốn rất quen thuộc của người dân nơi đây.
So sánh hệ thống tư liệu chữ Hán và loại “chữ lạ” này, chúng tôi thấy chúng có sự gần gũi với nhau về mặt ý nghĩa và nội dung phản ánh; thế nhưng giữa chúng cũng có nhiều điểm khác biệt. “Chữ lạ” tập trung tán dương giáo lý nhà Phật, công ơn thầy tổ, ca ngợi tổ tiên giống nòi, các đấng thần linh, kêu gọi mọi người học Phật tu nhơn, ít nhiều có màu sắc tiên tri sấm vĩ. Còn tư liệu chữ Hán phần nhiều ca ngợi công đức tiền nhân khai cơ mở đạo, ca ngợi giáo phái, thầy tổ, ca ngợi thần linh và kêu gọi tín đồ tu hành, trong đó cũng ít nhiều có nội dung tiên tri thế cuộc. Chúng tôi đoán rằng, phần “chữ lạ” chỉ do một người sáng tạo ra, còn phần chữ Hán do nhiều người viết, một bộ phận có thể được viết cùng thời với “chữ lạ” và do cùng một người viết ra, bộ phận chữ Hán còn lại có thể do người đời sau lúc trùng tu chùa viết thêm vào.
Tóm lại, từ những phân tích các phương diện ngôn ngữ phía trên, chúng tôi cho rằng đây là một loại chữ viết lạ, không phải chữ Nôm tiếng Việt hoặc chữ Nôm của các dân tộc thiểu số sống phía nam Trung Quốc. Có lần, chúng tôi đem loại “chữ lạ” này hỏi một giáo sư người Đài Loan thì cô này cũng thừa nhận đây là loại chữ lạ cô chưa hề thấy qua. Hỏi người quản tự về nguồn gốc xuất hiện của loại chữ này, chú nói trước đây ông thân sinh chú còn sống làm quản tự chùa này thì đã thấy có loại chữ này rồi, đến đời của chú thì khi trùng tu chùa đã giữ lại nguyên trạng chữ viết hoặc phục chế trên đá hoa cương theo nguyên bản cũ. Điều này chứng tỏ, loại chữ viết này đã có từ lâu, tồn tại nhiều đời ở ngôi chùa này chứ không thấy ở các chùa miếu khác. Phải chăng chúng ra đời cùng thời với quá trình di dân “trảm thảo khai sơn” của tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương? Phải chăng có việc người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương hoặc các cao đồ sáng tạo ra một loại chữ viết riêng để truyền bá giáo lý của mình, nhưng do quá phức tạp khó hiểu nên không thể lưu truyền rộng rãi? Nếu đó là sự thật thì việc sáng tạo chữ viết này có ý nghĩa rất lớn về mặt tư tưởng và nhận thức. Chúng tôi hy vọng các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh tiếp tục đào sâu nghiên cứu để làm rõ những vấn đề này.
Ths. Nguyễn Thanh Phong
Email: ntphongagu1985@gmail.com
Phụ lục: ảnh chụp các câu đối có chứa “chữ lạ” trong chùa
1. Ngày mười tám tháng bảy hoàng cầu tỏ rạng
Chính lòng bà tổ mẫu hóa sanh.
2. Ân nhuần thắm gội vạn lòng kim
Thạnh thới lưu danh thiên vạn cổ.
anh 1
3. Ông bà chín kiếp giống rồng tiên
Vạn cổ lưu danh thất tổ truyền.
4. Tâm thọ bồ đề thành chánh giác
Như lai phật nguyện độ ta bà
5. Thổ vượng nhơn tùng nhơn thổ vượng
Thần an trạch dẫn tự an thần
anh 3
6. Vạn quốc chư bang đến phò trì
Đức Phật vĩ đại vạn quốc huy.
7. Thiên an đồ bảo thuận lập địa
Quốc nam hộ trì Nghiêu điều tâm
anh 4
8. Vạn cổ đào huê chiêu thánh mẫu
Thiên thu xuân sắc hội thần tiên
9. Chưa đọc được đây là những chữ gì.
[1] Có 6 nguyên tắc cấu tạo chữ Hán: tượng hình, hội ý, chỉ sự, hình thanh, giả tá, chuyển chú.
https://phongtauhu.wordpress.com/201...tinh-an-giang/
-
-
Di Tích Văn Hóa:
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
BANG QUẢNG ĐÔNG NINH HÒA
Từ xa xưa, cư dân của một số tỉnh thuộc đất nước Trung Hoa, vì công việc làm ăn, họ phải thường xuyên dùng thuyền buồm, chở hàng hóa từ chính quốc sang các nước lân cận để giao thương, buôn bán, việc đi lại ngày càng thường xuyên, đông đúc hơn, trong số họ, có một số người xuôi dòng xuống phương nam, cập các bến cảng tại Việt Nam trao đổi hàng hóa, mua bán nông lâm khoáng sản.
Sau đó vì sự loạn lạc tại chính quốc, cũng như vì kế sinh nhai nên một số người đã chọn nơi đây là quê hương thứ 2 để lập nghiệp, định cư lâu dài, ổn định; Họ thường tập trung tại các thị tứ, phố xá để thuận tiện trong việc làm ăn buôn bán. Vì phải tha hương cầu thực, họ thường lập ra các Hội đồng hương, các Hội Quán để giúp đỡ nhau trong công việc làm ăn, cũng như để bảo tồn, phát huy nét văn hóa của dân tộc mình. Sau bao thăng trầm của thời cuộc, đại bộ phận bà con Hoa Kiều cũng dần dần ổn định cuộc sống, Hòa nhập với cộng đồng.
Trải qua nhiều thế hệ, để lưu truyền, bảo tồn văn hóa của mình, cộng đồng người Hoa có nhiều phương thức như: bằng chữ viết, tiếng nói, qua các câu chuyện truyền khẩu, hoặc lưu giữ bằng trí nhớ, Y phục truyền thống, qua các tập tục ma chay, cưới hỏi, các nghi thức lễ hội, trong việc lưu giử và phát triển nền Y - Dược học cổ truyền, cũng như bằng nhiều hình thức dân gian khác.....
Vào những năm 1800 đồng bào Hoa Kiều sống trên đất nước Việt Nam nói chung và tại Ninh Hòa nói riêng đã phát triển mạnh về mặt số lượng cũng như chất lượng cuộc sống, ngày càng được nâng cao và sau khi cuộc sống đã ổn định lâu dài, nhu cầu giao lưu trao đổi về mặt tinh thần, tín ngưỡng cũng được đặt ra.
Người Hoa sinh sống tại Ninh Hòa nói chung gồm 3 nhóm chính: Bang Quảng Đông, Bang Hải Nam và Bang Triều Châu, ban đầu tùy theo vốn liếng, họ buôn gánh bán bưng, làm ăn nhỏ và dần hồi phát tài, trở thành các chủ hiệu buôn lớn, ăn nên làm ra. Nhờ vào uy tín, đức độ cũng như những tình cảm đặc biệt, nhiều tên tuổi Hoa kiều đã đi vào tâm khảm của người dân xứ Ninh này như các ông bà Đông Thành, Liên Thành, Phương Viên, Vạn Thành, Đồng Thái, Khâu Thiên Bồi, Hàng Tựu Thành, Phù Thoại Thành, Phổ Tế Đường, Văn Hóa, Kinh Ký, Nam Thuận Lợi, Đồng Khánh, Nam Thái, Hoa Phát, Lợi Phát, Vạn Tường, La Lợi, Bata, Quảng Thái, Cần Lợi, Vạn Lợi, Vạn Nguyên, Đổ Trân Ký, Lợi Hanh, Kim Thành, Vui Vẻ, Tự Nhiên, Chấn Phát, Cẩm Sanh, Cẩm Hưng, Thuận Lợi, Nguyên Phát, Lợi Phát, Việt Lợi, Hòa Xương, Quảng Ký, Dân Dân, Trung Thành, Minh Thành, Liên Ích Hòa, Nam Hòa, Hương Giang, Trung Hưng Long, Trung Mỹ Long, Mỹ Hòa, Hưng Ký, Phó Trí Sanh, Đồng Ích, Tân Sanh, Vĩnh Tân, Ánh Hưng, Vạn Tín, Tiến Thành, Phước Lợi, Văn Tân, Tân Sanh Hoạt, Xuân Lợi, Tân Phát, Đức Thái, Phước Thành, Châu Chí Hòa, Liên Hoa, An Lợi, Lý Du Hòa, Tân Hòa, Đại Quang Minh, Mỹ Thành, Nghĩa Sanh, Nghĩa Hiệp, Thoại Hưng, Mỹ Lạc, Nhơn Hòa, Lương Vĩnh Đức, Mỹ Quang, Quảng Sanh Hòa, Ninh Hòa Đường . . . . . . . .
Tại Ninh Hòa ba đại Bang đều có Hội quán, nơi thờ tự riêng biệt, đây vừa là trụ sở sinh hoạt chung và cũng vừa là tổ đình thờ phụng và cúng tế các bậc tiền hiền, các Bang hữu đã khuất.
Riêng Bang Quảng Đông Ninh Hòa đang quản lý 2 ngôi cổ miếu đó là: Võ Đế Miếu (thường gọi là Chùa Ông) toạ lạc tại thôn Văn Định, Xã Ninh Phú, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa và Thiên Hậu miếu (thường gọi là Chùa Bà) tọa lạc tại 338 Trần Quý Cáp, TT Ninh Hòa, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nơi đây cũng là trụ sở chính thức của Ban Trị Sự Tuệ Thành Hội Quán Quảng Đông, Ninh Hòa.
Võ Đế Miếu
Thiên Hậu Thánh Miếu
Để hiểu rõ hơn về sự hình thành của 2 ngôi cổ miếu này, chúng ta cần phải ngược dòng thời gian.
Vào năm 1814 được sự hiệp lực, đồng tâm hưởng ứng của cộng đồng người Hoa gốc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, ông Đàm Thành An được tín nhiệm giao quyền thành lập Bang hội. Với tinh thần trách nhiệm cao, các ông Đàm Thành An, ông Bành An Thuận, ông Đàm Mãi Nhủ được xem là những vị Bang Trưởng đầu tiên của Bang Quảng Đông Ninh Hòa, các vị đã đứng ra vận động toàn Bang Hội và các Hoa Kiều đồng hương lạc quyên xây dựng Võ Đế Miếu thờ Ngài Quan Thánh Đế Quân ngày nay (Căn cứ theo văn bia lạc quyên năm 1814 còn lưu giữ tại Võ Đế Miếu).
Hiện nay, Miếu không thờ Phật (Nhưng nhiều người quen gọi là Chùa), ngoại trừ Quan Thế Âm dưới dạng như một Thánh Mẫu. Miếu cũng không có sư trụ trì mà chỉ có một ông Từ lo việc nhang khói hàng ngày. Miếu kiến trúc theo hình chữ Kim, phía trước có xây cổng tam quan, mái cong có đắp hình lưỡng long tranh châu. Bên trong, có một sân rộng chạy dài từ cổng vào, dùng để tổ chức những cuộc múa lân trong các ngày vía lớn, hai bên sân Miếu là khoảng không gian rộng lớn có trồng các cây cổ thụ để che mát đồng thời để tạo cảnh quan cho Miếu, chung quanh có xây tường bao bọc. Trước khi vào bên trong Lễ đường mọi người phải qua một cửa lớn bằng gỗ sơn màu đỏ sẫm (Cửa chỉ mở trong các ngày lễ vía), mọi người phải bước qua một ngạch cửa mà dân gian thường gọi là lục địa để rủ bỏ những phiền toái, thế tục bên ngoài, Phía hông, sát vách bên trái thờ Tiên linh và Thổ Địa, phía giữa là một khoảng sân thiên tĩnh để lấy ánh sáng, tạo sự thóang đảng bên trong, hai bên là hai nhà ngang nối với lễ đường và phía trước lễ đường là một hàng cửa nối với chính điện (chỉ mở trong các ngày lễ vía, các ngày thường chỉ được dùng cửa bên hông). Bên trong chính điện, phía trước là bàn Hội Đồng nơi đặt lễ vật cho các ngày vía lớn, tiến sâu vào bên trong là bàn thờ sắc Ông, ấn Ông, cờ lệnh và phía sau cùng là đại điện thờ Quan Thánh Đế Quân. Tượng Quan Thánh làm bằng đất Thiểm Tây, được vận chuyễn từ Trung Quốc sang, tượng cao 1m6, chiều ngang 1m4 trong thế tỉnh tọa, mặt đỏ sậm, bộ râu 5 chòm đen nhánh chạy dài đến bụng, hai tay gát trên hai thành ghế có chạm hình đầu rùa, trên khắc chữ 王 vương. Ngài đội mũ Kim Hoa, bên trong mang giáp trụ, có thêu hình rồng bốn móng; phía ngoài khóac lục bào. Theo sử liệu, bình sinh Ngài rất thích mặc chiếc lục bào, vì đây là kỷ vật của Lưu Bị tặng cho từ buổi sơ ngộ. Áo dài và giáp trụ còn là biểu tượng cho bậc tài trí văn võ song toàn. Đứng hầu hai bên Ngài, phía trước bên tả là Châu Thương, mặt rằn, râu xoắn, tay cầm Thanh Long Đao, bên hữu là tượng Quan Bình, nét mặt thanh tú, đội mũ tú tài, chiều cao mỗi tượng: 1m4 ngang: 0,6 m.
Phía sau vách hậu bên phải Điện Ông thờ Tài Bạch, phía bên trái thờ Quan Thế Âm và Bài vị của thiền sư có pháp danh: Thượng Tráng Hạ Hải, người trụ trì thảo am trên mảnh đất này trước khi nhượng lại cho Bang Quảng Đông.
Theo quan niệm cổ truyền của người dân Trung Hoa, người sống có mái nhà, người chết có nấm mồ. Nên ngoài việc phải lo cho người đang sống, còn phải nghĩ đến người đã khuất ; Năm 1867 ông Tạ Hỏa Hiệp, Bang Trưởng đời thứ 6 thay mặt cho bà con Bang Hữu ký mua đất để xây dựng Nghĩa Trang Quảng Đông tại núi Hòn Sầm, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa (Các văn bản cựu khế vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn tại Bang Hội).
Dựa theo các cổ vật còn lưu truyền và chiếu theo lịch nhiệm của các đời Bang trưởng, ta có thể suy đoán ra: Trước năm 1877 lúc bấy giờ dưới đời Bang trưởng Lương Trắc Năng (Lương Công Vinh) đã chủ sự đứng ra vận động xây dựng nên Miếu Thiên Hậu, Đến năm 1886 ông Huỳnh Nhật Tân, Bang Trưởng đời thứ 8 ký cựu khế mua đất xây dựng nên Miếu Thiên Hậu và Hội Quán Quảng Đông Ninh Hòa (căn cứ theo cựu khế ngày 04/02 năm Trùng Khánh thứ 2 còn lưu tồn) các vật liệu được chuyên chở từ Trung Quốc sang như Tượng Bà, cột trụ, bệ thờ. Lúc đầu Miếu chỉ xây dựng đơn sơ, đồ vật trang trí chưa nhiều, đến năm 1890, Miếu tiếp nhận thêm bộ lư đá, chung đồng, bàn thờ chạm trổ tinh vi, các câu đối, liễn thờ được khắc chạm công phu, tinh xảo, Sau đó đến năm 1897, Miếu tiếp nhận thêm các bộ phù điêu bằng sứ từ chính quốc, mô tả lại các điển tích, vua chúa, quần thần, các bộ lưỡng long tranh châu, cá hóa long….để trang trí trên các bức vách, mái nhà, góp phần tô điểm cho Miếu được huy Hòang, sáng lạng hơn và cũng kể từ đây Bang Quảng Đông Ninh Hòa có được 2 ngôi cổ miếu làm nơi thờ tự, có nghĩa trang làm nơi an nghỉ cho người đã khuất trong Bang, có Hội quán để hội họp, giao lưu, trao đổi thông tin liên lạc với toàn cộng đồng.
Năm 1903 nhận thấy Bổn Bang dày công xây dựng chăm sóc, một nơi thờ tự trang nghiêm tại địa phương nên các vị hào lão hương thân cùng nhân dân sở tại cũng hiến cúng cho Miếu một số ruộng: 1 mẫu 3 sào, lấy hoa lợi làm kinh phí cho việc nhang khói (Căn cứ vào bảng chí lưu tại chùa Ông Văn Định).
Đến năm 1936, bà Tăng Thị Bồi, phu nhân của cố Bang Trưởng đời thứ 13 là ông Lưu Vĩnh Đường (Quảng Ký) đã hiến cúng 1 thửa ruộng tư cho Bang Hội, với diện tích: 01 mẫu tám sào để lấy nguồn lợi thu hoạch được làm hương hỏa cúng cho 2 ngôi cổ miếu (hiện nay vãn còn bảng đồng lưu niệm) cho đến hôm nay, hàng năm Bang Hội vẫn còn hưởng phần hoa lợi này
Đến năm 1940 đời Bang trưởng thứ 20 là ông Khâu Ngọc, nhận thức được việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy và truyền bá các giá trị văn hóa dân tộc là một việc làm hết sức cần thiết, nên ông đã đứng ra vận động thành lập trường tiểu học Trung Hoa Quảng Đông nhằm bảo lưu tiếng nói của dân tộc, cụ Hàng Diệu Lợi giữ chức Đồng Sự Trưởng, thầy Lưu Thiên Bình ở Hội An vào dạy tiếng Quảng Đông, thầy Trần Xương Sum dạy tiếng Bắc Kinh, từ đó văn hóa dân tộc được phổ cập rộng rải.
Đến năm 1949 đương nhiệm Bang Trưởng lúc bây giờ là cụ lương Tuấn (Lương Vĩnh Đức) đã động viên, quyên góp kinh phí để trùng tu Miếu Thiên Hậu lần thứ 2, với kinh phí: 26.938 $ Đông dương.
Đến năm 1958, vì vật liệu xây dựng Miếu Quan Thánh chủ yếu là vôi vữa, đá san hô ngâm nước mặn đã không tránh khỏi xủi mòn, nên ông Trưởng Bang đương nhiệm lúc bấy giờ là ông Khâu Lưu ( Khâu Thiên Bồi) hợp sức cùng toàn Bang sửa chửa lại nhà kho, nhà từ khang trang, ngăn nắp với kinh phí lên đến 138.250 $ Đông dương.
Đến năm 1967, chánh phó hội trưởng đương nhiệm là ông Khâu Lưu và ông Âu Ba, phát động quyên góp, trùng tu lại Miếu Thiên Hậu, tu bổ lại khám thờ, lễ đường, công sở, nghĩa tự, nhà từ, nhà kho, lợp lại toàn bộ mái ngói đã bị hư nát, lát lại gạch bông trong chánh điện, tổng kinh phí: 1.334.800 VNĐ
Đến năm 1986, cũng vì phải tu bổ từng phần, nên phía trên mái cổ lầu và Chính điện, gạch ngói mục nát, nên Ban Trị Sự phải vận động bà con trong Bang đóng góp kinh phí để trùng tu Miếu Quan Thánh đợt 3; Trực tiếp theo dõi thi công có các ông Đường Văn, Huỳnh Kim Long, Quách Tấn Kỷ, tổng chi phí cho công trình này: 257.650 đ Ngân hàng Nhà Nước đương thời.
Theo thời đại, cũng như để tạo nét phong quang cho cảnh Miếu.
Năm 1988, Ban Trị Sự xuất công quỹ đắp hai trụ rồng trước sân và lót gạch bông trong điện Ông để tăng thêm phần mỹ lệ sạch sẽ.
Đến năm 1993, gặp điều kiện thuận lợi, được sự hỗ trợ của kiều bào tại hải ngoại, được sự cho phép mở mang đường xá của địa phương (Trước đây đường đi vào Miếu phải đi dọc theo mé sông, đường đi nhỏ hẹp, lầy lội rất bất tiện) Bổn Bang họp bàn thiết kế, xây dựng cổng tam quan làm tiền diện của Miếu, đổ đất xây dựng một sân rộng nối liền cổng đến tận cửa Miếu, xây tường bao bọc chung quanh, đồng thời mở rộng đường nối liền Quốc Lộ 1 vào đến Miếu với chiều rộng 5m chiều dài trên 460m thuận tiện đi lại cho bà con địa phương cũng như khách hành hương. Trực tiếp theo dõi thi công gồm các ông: Đường Văn, Quách Tấn Cang, Lữ Tấn Mẫn, Lưu Thế Ninh, Khâu Lương Minh. Tổng kinh phí cho toàn bộ công trình: 24.371.000 VNĐ. Riêng phần đổ đất, đắp đường, kinh phí tốn khoảng gần 20 triệu, thời gian mất trên 40 ngày khẩn trương cho kịp lễ cúng tạ và tất niên năm Quý Dậu 1993, mọi người dốc toàn lực, mặc dù cuối năm bà con phải vướng bận cho việc gia đình trong việc mở rộng đường trên phố chợ, đồng thời phải lo chuẩn bị đón tết Giáp Tuất. Điều đáng nêu lên đây là việc khởi công sau những ngày lụt lội, nhiều nơi nước chưa rút hết, Bang phải vận động toàn bộ nhân lực thanh niên trong Bang để vận chuyển nguyên vật liệu từ trên quốc lộ 1 xuống Miếu để kịp thi công, đồng thời ban đất lấp ruộng để làm đường; Chân ngập sâu trong sình lầy, lưng ướt đẫm mồ hôi, nhưng đâu đó vẫn vang lên những tràng cười vui vẻ, những câu tiếu lâm hóm hỉnh.....mọi người hăng say lao động, chạy đua với thời gian, nhìn cảnh tượng này chúng ta mới thấy hết sức mạnh của sự hợp quần, khuất phục mọi gian nan để hoàn thành, bảo vệ, chăm bón ngày càng tươi đẹp thêm những thành quả mà tiền nhân đã dày công xây dựng.
Năm 2004, vì chủ trương của Nhà nước, mở rộng, nâng cấp đường Nguyễn Trường Tộ (Đường xuống xóm Rượu), trục đường này nằm dọc bên hông Miếu Thiên Hậu, việc này xâm phạm rất nhiều vào đất đai, tài sản của Bang và trong khi tiến hành tháo dở Nhà Tây và Nghĩa Tự để trả mặt bằng cho đơn vị thi công, vì vật liệu xây dựng đã quá cũ lại bằng đá vôi, hồ vửa nên làm ảnh hưởng đến các công trình còn lại, có nguy cơ sụp đổ, để giữ an toàn, buộc lòng phải tháo dở toàn bộ để xây dựng mới.
Sau nhiều lần bàn bạc, đương nhiệm Bang Trưởng lúc bấy giờ là ông Đường Văn mới phát động sự quyên góp của toàn cộng đồng người Hoa cả trong và ngoài nước, với sự nhiệt tâm của cộng đồng tại hải ngoại và nhất là công lao của các ông Khâu Lưu, Lữ Hiệp, Lữ An, Lưu Thế Bình..... Riêng ông Khâu Lưu (Cựu Bang trưởng Bang Quảng Đông Ninh Hòa, cựu Lý sự hội người Hoa Ninh Hòa đang sống ở Mỹ) đã không ngại tuổi già sức yếu, bôn ba trên khắp đất nước Hoa Kỳ rộng lớn, từ tiểu Bang này, sang tiểu bang khác để vận động cho cuộc lạc quyên xây dựng lại Miếu Thiên Hậu, tấm lòng của ông thật đáng được hậu sanh trân trọng !!
Công trình Miếu Thiên Hậu Thánh Mẫu được khởi công vào đầu tháng 02 năm 2004 đến ngày 03 tháng 11 năm 2004 tức ngày 21 tháng 9 năm Giáp Thân là hoàn tất, làm lễ Khánh tạ, tổng kinh phí cho công trình này:1.136.750.000 VNĐ (Có bản đá chí lưu)
Hiện nay, Miếu Thiên Hậu là một công trình kiến trúc được xây dựng hai tầng, tầng dưới là Hội trường, là nơi chiêu đãi trong các ngày vía lớn, cũng là nơi hội nghị của toàn Bang, bên cạnh hội trường là văn phòng Ban Trị sự Tuệ Thành Hội Quán, dùng làm nơi hội họp, tiếp khách. Hai bên hội trường có hai cầu thang rộng dẫn lên tầng trên, bên trái là Nghĩa Tự, nơi đây đang tờ tự, nhang khói hàng ngày cho gần sáu trăm bài vị của các bậc tiền hiền và các Bang Hữu quá vãng. Gian giữa là lễ đường, sát hai bên góc tường có đặt hai bệ thờ, bên phải thờ Táo Quân, bên Trái thờ Thổ Thẩn, Thổ địa, Thần Tài. Gian giữa là chánh điện, bên trong chính điện là bàn hội đồng, phía trong là bàn thờ sắc, ấn Bà, Lệnh Bài, bên trái là nơi thờ Đức Khổng phu Tử, bên phải thờ Quan Thánh, phía trong cùng là điện Bà, Thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu
Tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu được tạc bằng gỗ cao 0,8m ngang 0,45m được đặt ngồi trên một chiếc ghế gỗ, chung quanh là các tượng gỗ nhỏ là các tùy tùng hộ giá Bà, Thiên Hậu Thánh Mẫu đầu đội mão Kim Hoa, thế ngồi đỉnh đạt, trông thật uy nghiêm.
Đến năm 2006, vì thời cuộc đã đổi thay, tín ngưỡng được coi trọng hơn trước, nên các Đình Chùa Miếu được khách thập phương, thường lui tới rất đông, trong các ngày Vía lớn như Vía Đào Viên Kết Nghĩa 13/1 ÂL hàng năm Miếu Quan Thánh tiếp đón Bang Hữu, khách hành hương về dự lễ rất đông, khói nhang nghi ngút, trong Điện không có chỗ chen chân, phía trước sân mọi người đứng ngồi la liệt, nhận thấy sự phức tạp này, đương nhiệm Bang Trưởng là ông Quách Bình vận động trong Bang Hữu xây dựng được 2 nhà ngang bên tả và bên hữu chính điện, trước để cân đối cảnh quang, sau để có nơi tiếp đãi Bang Hữu, khách mời và các Bang bạn về dự lễ.
Đến nay, đã trải qua 28 đời các vị Bang Trưởng và nhờ vào sự chung lòng chung sức của toàn Bang, toàn cộng đồng người Hoa cả trong nước và kiều bào tại hải ngoại, nên các di sản giá trị mà tổ tiên để lại được mọi người ra công tu bổ, sửa sang, vun đắp, ngày càng huy Hoàng, tốt đẹp hơn.
Nhân Mùa Vu lan 10/7 năm Mậu Tý
Sưu tầm - Biên tập
Lưu Thế Ninh
http://www.ninh-hoa.com/chuaqdlichsu.htm
-
ĐẦU NĂM, RỘN RỊP CÚNG ĐÌNH, CÚNG MIẾU
Phạm Nga
Đáo lệ hằng năm, cứ sau cái “tháng Giêng là tháng ăn chơi” ròn rã với nào là Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, nào là vía Bà Thiên Hậu…, qua tháng Hai âm lịch thì thiên hạ lại nô nức đi dự hai lễ hội dân gian lớn nhất ở toàn vùng Nam bộ, là vía Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc và vía Cô ở Dinh Cô vùng Long Hải (Bà Rịa – Vũng Tàu). Ở cấp vùng, miền là thế, còn ở cấp phường, xã nhỏ bé hơn thì rõ ràng là với các kỳ cúng đình, cúng miếu, không khí lễ hội, cúng kiếng cũng không hề kém phần rộn rịp.
Trong tiếng Việt, chúng ta đã quá quen với tỉnh từ “nổi đình nổi đám”, thường được dùng để miêu tả tính chất náo nhiệt, mức độ tưng bừng của một sự kiện, một cảnh tượng có đông người tham dự… Cũng dễ hiểu khi trong hình dung từ rất giàu hình ảnh này có chữ đình – với chữ đám bổ trợ – vì xưa nay, theo kinh nghiệm thông thường của mọi người, từ già đến trẻ, những đám cúng đình mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng tham dự ở ngay tại làng xóm, quê nhà của mình hay ở địa phương mình đến sinh sống, làm ăn…, bao giờ cũng huyên náo, rộn rịp, tấp nập bà con lối xóm và khách thập phương cùng đến dự.
via cô Longhải
(Vía Cô ở Dinh Cô (Long Hải – Bà Rịa)
VÍA KỲ YÊN, VÍA ÔNG, VÍA BÀ
Xưa nay, theo tập tục cổ truyền Việt Nam, chùa là nơi thờ Phật và đình, miếu (hay miễu) dành để thờ thần. Rồi theo kiểu thờ “quần tiên, chư thần”, ở ngôi đình, cỗ miếu nào cũng có nhiều bệ thờ, trang thờ để thờ cho đầy đủ từ Thành hoàng, Phật mẫu, Quan Thánh đế, Ngũ Hành nương nương, Linh Sơn thánh mẫu cho đến Thổ Địa, Tài Thần, Táo công, Tiền hiền, Hậu hiền.v.v… Từ tín ngưỡng phồn tạp này, các thế hệ dân VN tiếp nối nhau tạo thành một nền “vǎn hoá đình” có tính đa dạng, “siêu thần” , có mặt gần như đủ hết các mẫu hình thờ phượng của cả 3 tôn giáo Khổng-Lão-Phật cùng tín ngưỡng dân gian. Do đó, hằng năm ở mỗi ngôi đình, cỗ miếu luôn có nhiều kỳ vía, hết vía Ông (các nam thần) lại vía Bà (các nữ tiên) và lễ vía “siêu thần”, quan trọng nhất đối với tất cả mọi nơi chính là lễ kỳ yên (hay kỳ an, tức cầu cho quốc thái dân an).
Ở những ngôi đình lớn, nổi tiếng ở đất Sài Gòn xưa nay, như đình Minh Hương (ở quận 5), đình Phong Phú (quận 9), đình Phú Nhuận, đình An Phú (quận 12).v.v…, lễ kỳ yên được tổ chức rất trọng thể, tưng bừng. Còn với những ngôi đình, miếu nhỏ bé, do khách dự lễ thường chỉ bó hẹp là bổn đạo và dân địa phương nên qui mô tổ chức cúng kiếng – dù là cúng kỳ yên và hay cúng vía các thần – đều có phần khiêm tốn hơn, mức độ tưng bừng so sánh giữa các kỳ cúng với nhau thì không hơn kém nhau nhiều lắm. Như ở đình An Hội (quận Gò Vấp), nội tháng Giêng ÂL như hiện nay, những rạp che, giàn giáo đã được dọn cất sau kỳ cúng Ông (Quan Thánh) vào ngày 13 và cúng Bà (Chúa Ngọc nương nương) ngày 15, bao giờ cũng ở tình trạng sẵn sàng được đem ra dựng lại để sử dụng cho lễ vía kỳ yên vào đầu tháng Hai ÂL tới.
LỄ, TẾ THEO TẬP TỤC CỔ TRUYỀN
cúng dinh An hội
Vía Bà ở đình An Hội (Gò Vấp)
Có dịp đến dự các lễ hội như cúng Ông, cúng Bà vừa qua ở đình An Hội, khách dự lễ có thể nhận ra là tuy không nguy nga, đồ sộ, nhưng ngôi đình này vẫn hội đủ những nét đặc trưng của kiểu đình làng VN xưa, điển hình là kiểu mái lợp ngói âm dương thật cổ kính.
Vừa thô mộc vừa tỉ mỉ, những người thợ thủ công, chạm khắc vô danh – xuất thân từ đám nông dân đất Gia Định xưa – đã trang trí khắp trong, ngoài đình vừa bằng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thôn dã (như hoa lá, cây kiểng, chim thú), vừa với hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) tức những con vật huyền thoại. Bước vào chánh điện trong đình, khách thấy ngay một cái khám thờ nhỏ có lọng che, dùng để thờ sắc thần vua ban, hai bên là hai giá ngũ bộ (năm loại binh khí). Ở bái đường (nơi trải chiếu làm lễ), bên phải có giá treo trống, bên trái có giá treo chiêng, ở giữa có tấm bảng lớn đề danh hiệu của đình.
Ở phía sau bái đường lại có một cái khám thờ khác đề một chữ “Thần” to lớn, chính là nơi dâng lễ vật tế tự. Theo tục xưa thì lễ vật chính để tế thần là cỗ tam sinh (trâu, bò, dê hoặc lợn) vốn là những sản phẩm nông nghiệp, nhưng ngày nay được châm chế, chỉ còn là một chú heo hơi được cạo lông sạch sẽ nằm cạnh những mâm heo quay tiến cúng, kèm theo khay rượu, các mâm xôi, bánh, ngũ quả (5 loại trái cây).
Đứng vào các vị trí riêng, ban tế – mặc áo thụng xanh hoặc đỏ – gồm các vị: chánh niệm hương, chánh tế, bồi tế, chủ xướng, đông hiến, tây hiến, và các chấp sự lo việc tiếp nhang đèn, gõ trống, đánh chiêng. v.v…
“Khởi chinh cổ!”, vị chủ xướng – giữ vai trò như MC trong các buổi lễ hay sự kiện văn hóa, xã hội hiện nay – hô lớn vào micro, cho trống, chiêng đánh lên ba hồi mở đầu buổi tế…
Nhìn chung, do tục xưa để lại, diễn tiến của một buổi tế ở ngôi đình nào cũng khá giống nhau. Cũng chủ xướng hô lên cúc cung (vòng tay đưa thẳng trước ngực), bái (xá, vái), phủ phục (quì xuống, cúi đầu, tay chạm đất, lạy), bình thân (hai tay chống gối, đứng lên), cho ban tế bái lạy, dâng rượu, dâng trà, đọc văn tế.v.v…Cũng ban nhạc sanh thổi kèn lá, kéo đàn cò, nhưng ngày nay thường có thêm các nhạc công chơi ghi-ta điện tử.
Trong mọi buổi tế, nghi thức sống động, đẹp mắt nhất là học trò lễ (ngoài Trung gọi là đi điện), Đó là hai nhóm tả, hữu (từ 2 – 4 người) mặc áo xanh (hoặc vàng) đội mão mang hia, dẫn đầu mỗi nhóm là một tế quan mặc đồ võ tướng. Mỗi lượt đi điện từ trước chánh điện đến bái đường, hai nhóm tế bưng chân đèn cầy, khay rượu hay hộp trầm hương. Trong tiếng trống nhạc inh ỏi, họ co chân bước tới theo từng nhịp đỉnh đạc, khoan thai, Đến bái đường, tế quan trao phẩm vật cho vị chủ tế đặt lên bàn thờ rồi cùng bái lạy.
Học trò lễ thường là do các nhóm tế chuyên nghiệp được thuê biểu diễn trong chính lễ. Riêng tại các đình, miếu mà dân chúng gọi tắt là miếu Bà, chùa Bà – chẳng hạn như miếu Bà Bửu Thọ ở gần Ngã năm Gia Định – học trò lễ bao giờ cũng có nữ tài, y trang giống hệt các tiểu thư, tiên nữ trong tuồng cổ. Các nữ tài chỉ bước bình thường, không co chân, đá giáp như các ông tế quan.
ĐÔNG NHƯ… COI HÁT ĐÌNH
Bao giờ cũng dài thậm thượt là cái bài văn (văn tế) do vị chánh tế đọc ê a, ngắt ngứ. Được viết bằng tiếng Hán Việt (có chen vài tiếng nôm, như: giai quì, khởi chiêng), bài tế chào mừng, khấn cầu cả một danh sách dài những thần linh các nơi, từ bậc cao như Ngọc hoàng, Phật mẫu, Quan thánh, Phước đức chánh thần, đến bậc thấp như Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền khai cơ, Bạch mã thái giám, Đông trù táo phủ, các thần Ngũ phương – Ngũ thổ – Ngũ cốc, kể cả các anh hùng liệt sĩ, đồng bào tử nạn và thập loại cô hồn.
Không chờ bài tế kết thúc để vị chủ xướng sung sướng hô to “lễ tất!”, quan khách đã ngồi đầy các bàn ngoài sân đình. Ngoài trà nước, các món chiêu đãi cũng đơn sơ, như: xôi, bún cà ri, rau sống, đồ xào, thịt nướng.v.v…
Và, đúng là do bản sắc nông thôn Nam bộ được lưu truyền bền bĩ trong tục cúng đình, trong các món tiếp khách của đình An Hội có cả một món rất đơn sơ, dân dã là món mắm sặc (để nguyên con) ăn với thịt luộc. Còn đối với rất nhiều ngôi đình, cỗ miếu ở thành phố Sài Gòn, rượu đế hiện vẫn luôn luôn là món uống chủ đạo trong mọi dịp lễ cúng kiếng.
Trở lại với đình An Hội thì trong lúc ban trị sự, các hội viên và quan khách khề khà, trò chuyện mưa nắng thì bà con trong phường – đông nhất là đám con nít chộn rộn – cũng đã nhanh chóng chiếm hết ghế trước cái sân khấu dã chiến để coi hát bội. Năm nay cũng là nhóm nghệ sĩ Kim Dung với vở tuồng ruột là “Chung Vô Diệm”.
Hể cúng đình là thường có hát bội cho bà con xem miễn phí. Như hôm 12 tháng Hai ÂL năm kia, đình Phước Đức, còn gọi là miếu Ông Địa (phường 3, quận Gò Vấp) tổ chức cúng kỳ yên hai ngày liền, có tới bốn xuất diễn của nhóm hát chầu Bạch Hoa Phượng. “Chơi sang” như vậy là nhờ trong ban trị sự đình có một số hội viên vốn là các chủ tiệm vàng, thợ kim hoàn làm ăn ở khu vực Bà Chiểu – Gò Vấp -Thị Nghè. Ngoài việc đóng góp hậu hĩ, số hội viên giàu có này còn hùn nhau dựng trong sân miếu một nhà thờ vị tổ của ngành kim hoàn thật khang trang. Hiện nay, dù trong hai năm gần đây khuôn viên miếu Ông Địa đã hẹp đi rất nhiều do bị giải tỏa bởi công trình đại lộ Phạm Văn Đồng nên không còn chỗ dựng sân khấu, nhưng hể cúng kỳ yên hay giỗ tổ kim hoàn là bao giờ cũng đầy đủ heo quay, heo hơi, tế nhạc sanh, học trò lễ..v.v…
Mieu ONG DIA
Vía Ông ở miếu Ông Địa ( Gò Vấp)
PHẠM NGA
https://tuongtri.com/2014/02/15/dau-...h-cung-mieu-2/
-
Tây Ninh với những miếu thờ Bà
Cập nhật ngày: 10/09/2016 - 05:21
Tây Ninh với những miếu thờ Bà
Miếu Bàu Rong, Gia Lộc.
Như chúng ta đã biết, vị trí miếu Bà ở Nam bộ thường được chọn vị trí ở các bến sông, vàm rạch hoặc một góc rừng còn sót lại với những cây cổ thụ. Điều này cũng được người dân Tây Ninh tuân thủ. Điều đó có thể thấy ở các miếu Bà Chúa xứ có trên đất Tây Ninh. Tại Trảng Bàng, các ngôi miếu cổ thường nằm giữa một cụm cây rừng cổ thụ. Điển hình là miếu Bàu Rong thuộc ấp Gia Tân, xã Gia Lộc. Không gian miếu cổ um tùm cây cối, các loài cây sao, dầu và đặc biệt là một gốc đa có tuổi vài trăm năm, ruột cây đã rỗng ra thành bộng. Trên cây còn là các loại dây leo, tầm gửi vấn vít tạo nên một môi trường lý tưởng cho các loài chim chóc, kể cả loài chim quý hiếm. Mặc dù ấp Gia Tân nay đã thành ruộng rẫy với xóm ấp có cửa nhà san sát, nhưng vào lại khu cổ miếu Bàu Rong, người ta vẫn có cảm giác trở lại với rừng xưa trong không khí ẩm mát, ríu rít tiếng chim kêu. Cùng loại với Bàu Rong, ở xã An Tịnh có miếu bà An Phú, mà hồi xa xưa có tên gọi là Hóc Ớt. Đấy là cách gọi một vùng rừng hẻm hóc, có mọc nhiều cây ớt. Do chiến tranh và sau này là sức ép đô thị hoá nên miếu bà An Phú đã không còn cây cối rậm rạp hoặc cây cổ thụ. Bên ấp An Khương cũng có một ngôi thờ Bà, nằm dưới gốc một cây sao chằng chịt dây rừng.
Ở về phía đông bờ sông Vàm Cỏ Đông, các xã An Hoà, Gia Bình cũng có nhiều miếu Bà Chúa xứ. Vùng tam giác nơi giáp ranh ba ấp: An Lợi, An Thới- xã An Hoà và ấp Chánh- xã Gia Bình là nơi có mật độ dày các miếu thờ Bà. Kể từ ngã tư Gia Bình đi vào có một ngôi ở ấp Chánh, một ngôi ở An Lợi. Ngay tại cửa rạch Trảng Bàng đổ ra sông Vàm Cỏ Đông, gọi là Vàm Trảng cũng có ba ngôi, nhưng đáng kể về cả quy mô và lịch sử lâu đời nhất có lẽ là ngôi ở ngay cạnh Trạm Liên hợp Kiểm soát đường sông Vàm Trảng. Tại đây, ngay bến sông là cây đa to, có vóc dáng kỳ lạ đổ nghiêng ra mặt nước. Ngôi miếu nằm lùi về phía trong bờ, ngoảnh mặt ra sông.
Tại Gò Dầu, xã Phước Thạnh cũng có ngôi miếu Bà Chúa xứ nằm dưới vòm cây đa cổ thụ, thân cây lớn cỡ 3- 4 vòng tay người lớn. Ngoài ra còn là những bụi cây duối có tuổi trên trăm năm. Do vậy mặc dù miếu nhỏ, nhưng đi trên đường trục chính của xã ai cũng thấy ngôi miếu từ xa.
Ở khu vực huyện Châu Thành cũng có miếu thờ Bà Chúa xứ Thanh Điền. Miếu Thanh Điền nằm ở ấp Thanh Phước, trên một gò đất cao mà người địa phương hay gọi là gò tháp Rừng Dầu. Nguyên do là trên gò ngày xưa có cả một rừng cây dầu cổ thụ. Bên dưới gò có những móng nền tháp cổ; từng được người Pháp chú ý tìm kiếm những di vật cổ trong nửa đầu thế kỷ XX. Ngày nay, bà con có lòng tín ngưỡng đã không chỉ tôn tạo trùng tu ngôi miếu cũ, mà còn trồng lại cả một vườn cây dầu để trở lại với hình ảnh thuở xưa. Dầu đã mọc lại trên gò, mơn mởn măng tơ cao hàng chục mét và đã khép tán rủ đầy bóng mát.
Về miếu Ngũ hành, mà người dân Tây Ninh quan niệm là thờ 5 vị Ngũ hành nương nương- các vị nữ thần biểu tượng cho 5 loại vật chất tạo thành vũ trụ. Vũ trụ có năng lực sinh thành, tái tạo ra muôn vật nên cũng được coi như là các bà mẹ. Đó là các vị thần nữ: Thổ Đức thánh phi, Hoả Đức thánh phi, Kim Đức thánh phi, Thuỷ Đức thánh phi và Mộc Đức thánh phi (Thổ, Hoả, Kim, Thuỷ, Mộc). Thực ra, 5 loại vật chất này có mặt ở khắp nơi nơi, thế nhưng với lối tư duy trực tiếp và hình tượng, mà người dân suy luận rằng ngũ hành sẽ liên hệ nhiều hơn với bộ phận dân cư làm các nghề liên quan trực tiếp đến đất đai, lửa khói, kim loại, nước nôi và cây gỗ. Do vậy, ta thấy các miếu Ngũ hành thường có mặt ở những vùng gần chợ búa, nơi có nhiều người làm các nghề liên quan như mộc, rèn, tráng bánh hay xây dựng…
Tây Ninh với những miếu thờ Bà
Miếu Ngũ hành xóm Hố.
Ở An Tịnh, ngôi miếu Ngũ hành ở ấp An Thành cũng nằm trên con đường nối thị trấn Trảng Bàng qua xã Thái Mỹ (huyện Củ Chi – TP.HCM), sang tỉnh Long An và khá gần với chợ Trảng Bàng. Ở Thị xã cũ (nay là thành phố Tây Ninh), có miếu Ngũ hành xóm Hố, nay thuộc KP5, phường 1 và một miếu khác ở bên đường Tua Hai, cũng thuộc về phường 1. Cả hai miếu hiện đều nằm trong nội thị thành phố Tây Ninh. Ngôi thứ hai, ở rất gần chợ Tây Ninh. Trong các ngôi miếu Ngũ hành ở khu vực Châu Thành, Thành phố, có lẽ chỉ có miếu Bà Thốt Nốt thuộc ấp Thanh Bình, xã An Bình là hầu như vẫn ở giữa một vùng quê thuần nông, cấy lúa. Nhưng, tại đây có một lý do riêng để tồn tại miếu Ngũ hành. Theo lời truyền tụng lại thì khi lưu dân mới đến định cư lập nghiệp tại đây thì đất An Bình còn đầy sơn lam, chướng khí, thường có những vệt lửa lân tinh bốc lên cao đến ngọn cây rừng. Lại thêm trâu, bò, gà vịt thường chết vì dịch bệnh. Vì thế mà dân xóm ấp lập miếu thờ Bà để cầu xin thần Lửa tống quái, tống ôn. Sau, chắc cũng học theo Thị xã mà miếu bà Hoả trở thành miếu Ngũ hành.
Ngôi miếu vừa có cảnh quan đẹp đẽ, vừa có gốc gác lâu đời nhất ở Thành phố hiện nay chính là miếu Ngũ hành xóm Hố. Miếu nằm sát một bến sông có cảnh trí tuyệt vời được gọi là bến Miễu. Khuôn đất miếu nằm kế rạch Tây Ninh ở về phía hạ lưu cầu Thái Hoà khoảng 1 km. Quanh miếu là cả một cụm rừng xưa sót lại với nhiều cây sao, trâm, bồ đề và xoài cổ thụ. Có nhiều khả năng khu đất miếu chính là di tích phủ cũ thời Nặc Ông Chân - vua Chân Lạp. Ngay dưới gốc hai cây bồ đề xoắn bện vào nhau còn là một móng tháp gạch, cùng loại với gạch ở khu di tích quốc gia gò Cổ Lâm, xã Thanh Điền. Chung quanh đất miếu cũng phát hiện ra những nền móng tháp tương tự. Một thời chưa xa xôi lắm, bến miễu còn tấp nập trên bến dưới thuyền, do hoạt động buôn bán bằng ghe thuyền trên rạch Tây Ninh, nối ra sông Vàm Cỏ Đông về các tỉnh miền Tây còn thịnh hành. Thương lái đi và về thường ghé bến, để lên miếu thắp nhang, bày biện hoa trái cúng, cầu được bình an và mua may bán đắt. Ngày nay, giao thông bộ phát triển, nên dĩ nhiên thờ cúng miếu cũng đã thuyên giảm nhiều so với ngày xưa.
Về kiến trúc, các ngôi miếu thờ Bà Chúa xứ và Ngũ hành ở Tây Ninh không lớn, ngôi đáng kể nhất chính là miếu Ngũ hành ở khu phố 5, phường 1 có kích thước mặt bằng vuông, 4 mét mỗi chiều. Miếu Bà Chúa xứ Vàm Trảng cũng vuông, mỗi bề 3,6 mét. Cả hai ngôi vừa kể đều có thêm 1 hành lang ở mặt trước. Tuy miếu chỉ có 1 gian nhưng hành lang thường được xây thêm 2 trụ gạch (ngoài 2 cột chính) để tạo thành một hình ảnh mặt tiền có 3 nhịp gian. Hai nhịp bên có khi còn được tạo vòm cong, có lan can con tiện. Nhịp giữa xây tam cấp để bước lên. Ngôi có thể có kích thước lớn hơn cả là miếu Ngũ hành ở ấp An Thành, An Tịnh với kích thích mặt bằng: 3,6 x 5,1m. Còn lại, đa số có kích thước mặt bằng nhỏ hơn, chỉ từ 02 đến 2,4m mỗi bề. Có ngôi chỉ xây 3 mặt tường, còn phía trước để trống cho dễ bề bày biện phẩm vật cúng và dâng hương cúng tế. Đa số các ngôi miếu được xây với tường cột gạch, lợp ngói móc theo kiểu đơn giản với hai mái dốc. Bên trong cũng bài trí giản dị với thông thường là một bàn thờ chính ở giữa gian, hai bàn thờ phụ nhỏ hơn ở hai bên.
Với miếu Bà Chúa xứ thì bàn thờ chính thường có một pho tượng bà được khoác áo choàng bằng gấm hay lụa đen hoặc đỏ có thêu ren kim tuyến. Với miếu Ngũ hành thì bàn thờ chính thường có 5 pho tượng bà, mỗi người khoác áo màu khác nhau; hoặc tượng nhỏ thì sơn vẽ màu trực tiếp trên tượng. Các bàn thờ nhỏ hai bên có khi là tượng Cô và Cậu hoặc hai cậu có tên: Cậu Tài, Cậu Quý. Theo những người cao tuổi, đa số các ngôi miếu trước kia không có tượng thờ, mà chỉ có ở trên bức tường giáp bàn thờ những chữ Hán được vẽ lên như là những bài vị để thờ cúng mà thôi. Tượng Bà mới chỉ có trong các miếu vài chục năm gần đây, do vậy đa số đều được đắp bằng vữa xi măng cốt thép.
Tây Ninh với những miếu thờ Bà
Miếu Ngũ hành phường 1.
Còn có một kiến trúc khác luôn gắn bó với ngôi miếu, và nhiều khi còn được xây cất cầu kỳ công phu hơn cả ngôi miếu. Đó là ngôi võ ca. Thường võ ca có diện tích lớn hơn ngôi miếu, và đây chính là nơi diễn ra các nghi lễ chính của việc thờ cúng các vị nữ thần; cũng là nơi các tốp hát múa bông, múa mâm vàng biểu diễn. Khi ấy bà con xóm ấp thường đứng vòng trong, vòng ngoài chung quanh để xem; và sau đó dọn cỗ bàn cùng ăn khi đã xong các lễ nghi cúng miếu. Võ ca của miếu bà An Phú có kích thước mặt bằng là: 6 x7,2m; trong khi miếu chỉ có 2,4 x 2,4m.
Ở miếu Ngũ hành xóm Hố, võ ca là 5,4 x 5,7m, trong khi miếu chỉ có mặt bằng hình vuông mỗi cạnh 4m. Đặc biệt là ở hai ngôi này, võ ca còn có kiến trúc đặc biệt và tiêu biểu, làm theo lối đình chùa truyền thống Nam bộ; nghĩa là có bộ khung cột cấu trúc kiểu “tứ trụ” cùng với hệ vì kèo, xiên trính bằng gỗ quý kích thước lớn và mái ngói hình bánh ít. Võ ca thường chỉ có cột mà không có tường bao, trống thoáng ba bề, bên trong có thể được bố trí vài bàn xây cố định để đến ngày cúng miếu mới bày biện nhang đèn, bông trái làm thành các bàn thờ địa hoàng, thành hoàng, binh gia, Quan tướng… Ngoài ra, chung quanh sân miếu, ở một số nơi có đất đai rộng rãi còn có thêm các ngôi miếu nhỏ, cỡ chỉ trên dưới 1m2, thờ binh gia, ông Tà, ông Cọp và chiến sĩ trận vong.
Các ngôi miếu Bà dường như không có tuổi, bởi có hỏi thì cũng được trả lời rằng miếu có từ thuở ông sơ, bà cố vài trăm năm trước. Nhưng cứ theo những truyền miệng qua các thế hệ cũng có thể chắc chắn rằng các miếu Bà chính là các ngôi thờ tự đầu tiên ở thôn, làng. Vậy nó cũng có lịch sử trùng với việc khai hoang mở đất lập làng. Nhân kỷ niệm 180 năm - Tây Ninh hình thành và phát triển, cũng xin điểm lại những ngôi thờ Bà đáng nhớ, còn được nhiều người lưu trong ký ức.
TRẦN VŨ
http://baotayninh.vn/tay-ninh-voi-nh...ba-a72080.html
-
Thất Phủ miếu (Chùa Ông)
5:11 AM Thắng cảnh tâm linh
Ngôi miếu nằm trên đường Nguyễn Chí Thanh, phường 5, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, có tên gọi khác là Vĩnh An Cung - 永安宮, người Việt quen gọi là chùa Ông.
Thất phủ là bảy phủ: Ninh Ba, Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) của các tỉnh như: Trực Lệ, Phước Kiến và Quảng Đông. Vào đời Thanh, có rất nhiều người Hoa ở Phúc Kiến sang nước ta lập nghiệp nên nhà Nguyễn cho phép họ lập hội Thất Phủ.
Miếu Thất Phủ tại Vĩnh Long có từ thời Nguyễn. Thời đó, chợ Vĩnh Long phố xá tấp nập, vàm sông Long Hồ trước mặt miếu Thất Phủ là bến thuyền nên người Hoa chọn nơi này đặt Hội quán giao tiếp.
Theo Đại Nam nhất thống chí, hai mặt chợ Vĩnh Long đều giáp sông, phố xá liên tiếp, trăm mốI hàng hoá tấp nập đủ cả, chạy dài năm dặm, ghe thuyền đậu đầy bến sông. Có đình miếu thờ thần rực rỡ, đờn ca náo nhiệt, là chỗ phố phường lớn.
Đến thời Pháp thuộc, số người Hoa đến Vĩnh Long làm ăn ngày một đông. Do yêu cầu lúc đó, những người Quảng Đông, Triều Châu tách ra lập bang hội riêng nên những người Phúc Kiến còn lại vào năm 1872 đã tái thiết miếu Thất Phủ, đổi lại là “Vĩnh An Cung”, để làm Hội quán của bang mình.
Miếu Thất Phủ có bố cục tổng thể theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Phía sau là chính điện, phía trước là tiền đường, hai bên là Đông sương và Tây sương. Diện tích xây dựng khoảng 800 m2, xung quanh được bao kín bởi những vách gạch kiên cố.
Mái của miếu được lợp ngói âm dương, phong tô kỹ lưỡng. Chân mái được viền một loại ngói đặc biệt có tráng men màu xanh. Các rìa mái uốn cong, tầng mái gian giữa cao hơn tầng mái của hai gian hai bên.
Miếu có 5 cửa chính. Hai bên có hai cửa sổ, trên các vách cửa cái đều có vẽ hình các vị thần giữ cửa. Bộ giàn trò Thất Phủ miếu bằng gỗ quý rất mỹ thuật và kiên cố. Tất cả các bộ phận trong chịu lực trong ngôi miếu như: vì, xiên, trính, các con kê hoặc con đội đều chạm hình tinh vi, vừa mang tính hiện thực vừa cách điệu nghệ thuật. Nội thất trang trí tuyệt đẹp với hàng chục bộ bao lam, hoành phi chạm lộng tinh tế, sơn son thếp vàng chói lọi. Một bức hoành khắc bốn chữ “Quan Thánh Phu Tử - 関聖夫子” được đem đi triển lãm ở hội chợ các nước thuộc địa tại Marseille (Pháp) năm 1922 đạt huy chương đồng.
Trong miếu có ba bàn thờ chính, bàn thờ giữa là khánh thờ Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình Thái Tử, Châu Xương Tướng quân. Khánh thờ bên tả thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu.
Khánh thờ bên hữu thờ Phước Đức Chánh Thần. Phước Đức Thánh Thần có hai vị Chiêu Tài Đệ Tử, Thiên Hậu Thánh Mẫu có hai thần vị Thiên Lý Nhãn (thấy ngàn dặm) và Thuận Phong Nhĩ (nghe ngàn dặm) hầu cận. Hai bên chánh điện đặt tượng ngựa xích thố và Mã đầu Tướng quân của Quan Công. Ngoài ra còn có bàn thờ Phật Quan Âm, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Di Lặc, Hộ pháp Long Thần,...
Các tượng thờ đa số đều được làm bằng gỗ, có một số bằng đồng, gốm sứ. Tất cả đều được sơn màu hoặc thếp vàng một cách sinh động.
Hàng năm, tại miếu Thất Phủ có các ngày vía như ngày vía bà, vía Phước Đức Chánh Thần, tam Nguyên, Tứ Quý; đặt biệt nhất là ngày vía Ông (13 tháng giêng và 13 tháng năm), ngày Tất Niên (15 tháng 12). Vào những ngày lễ lớn, hàng ngàn người đến chiêm bái, không chỉ bao gồm cộng đồng người Hoa ở Vĩnh Long mà còn có cả người Việt đến từ các vùng lân cận.
Người ta đến chiêm bái Quan Thánh Đế Quân - một nhân vật tuyệt nghĩa trong lịch sử Trung Quốc. Bên cạnh đó, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phước Đức Chánh Thần là những vị thần phù hộ họ đi ra nước ngoài, những vị thần phù hộ họ làm ăn sinh sống. Quan Âm Bồ Tát với tấm lòng từ bi thường hiện ra cứu giúp người lương thiện tai qua nạn khỏi, phù hộ phụ nữ và trẻ con. Đặt biệt người Phúc Kiến thường thờ Quan Âm Bồ Tát vì truyền thuyết ngài đã xuất hiện tại Phổ Đà sơn, một ngọn núi ở hải đảo, ngoài khơi tỉnh này.
Thất Phủ miếu đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày 25-01-1994 và năm 2010 trở thành Di tích Lịch sử - Văn hóa.
http://dulichbui247.blogspot.com/201...-chua-ong.html
-