Thuyền vượt sóng to thuyền là mộng
Sóng bám mạng thuyền cũng mộng thôi
Cột buồm trước gió tung theo gió
Uốn khúc lắt lư mặc sóng to.....
---------
ha ha ha...chỉ có ta mới nồng nàn vậy...:laughing:
Printable View
Thuyền vượt sóng to thuyền là mộng
Sóng bám mạng thuyền cũng mộng thôi
Cột buồm trước gió tung theo gió
Uốn khúc lắt lư mặc sóng to.....
---------
ha ha ha...chỉ có ta mới nồng nàn vậy...:laughing:
hihi... đại huynh đúng là ...vothuong....hihi
Chiếu thân
Tiêu đầu lan ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng giả siêu quần kiêm bạt tụy,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
Trúc Thiên
chúc mừng MINHDAI trở lại diển đàn,minhdai và DIEU DIEM bắt chước nam triều triều tiên với hàn quốc hả,hai vị mà xử lí nguyên tử hạt nhân thì ai mà chịu cho nổi,,,,,,tìm đường trốn thôi,người ta càng tu càng lên cao không biết sao mà huynh càng tu càng chẳng biết gì hết lúc nầy huynh thấy huynh giống con nít vậy đó ,mà hình như củng gần như không biết mình còn tu không nửa ,thôi kệ nó ai mà biết ,,,,,ha ha ha vui quá,,,,,,,
huynh hay đùa cho vui chứ lâu nay huynh đang lần mò trong con người để làm sao hoàn chỉnh một con người ,nó từ đâu ra và sau nầy nó sẻ đi về đâu chừng đó không mà huynh làm mải mà chưa xong chứ huynh có tu đâu mà tới đích,,,,
cái đích đó để muội tới đi,khi muội tới rồi thì nhớ a.c.e.dien đàn nhé,không có quà cho họ là họ niếu chân muội đó
hi..hi...muội biết rồi làm gì có đích đến
Từ trước đến nay ta chưa rời khỏi nhà
Chưa hề bước đi đâu
Chưa tiến cũng chẳng lùi
Nơi ta đứng là nơi đắc đạo
Chẳng có đắc hay vô đắc
Chẳng có chứng hay không chứng
Nơi ta dừng cũng là nơi đích đến
Điểm khởi cũng là điểm dừng
NGỰA TRẮNG
TRIẾT THUYẾT BẠCH MÃ LUẬN CỦA CÔNG TÔN LONG
CÔNG TÔN LONG LÀ MỘT TRONG NHỮNG NHÀ BIỆN LUẬN NỔI TIẾNG Ở THỜI NHÀ TRIỆU. Ông sinh vào năm 320 trước Công nguyên và mất vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên. Ông là bậc hậu sinh so với Huệ Thi, nhưng tầm hiểu biết của ông so với bậc tiền bối này không thua kém gì.
Vì vậy mà khi người đời bàn về phái triết học Danh gia hay các biện giả, không thể không nhắc nhở và ca tụng đến Công Tôn Long với các mệnh đề "Ly Kiên Bạch" hoặc "Bạch Mã Phi Mã"... Qua các mệnh đề triết học này người đời thường nhắc đến các hành động và lý luận của ông như câu chuyện muốn qua bên kia biên giới lại bị lính canh ngăn chặn. Công Tôn Long hỏi:
- Tại sao ngăn chặn ta?
- Lối này cấm ngựa qua
- Vậy thì ta qua được.
- Tại sao lại qua được ? - Lính canh hỏi.
- "Ngựa ta trắng... "
- Trắng hay đen nó cũng là ngựa.
Công Tôn Long quắt mắt:
- Anh này có mắt không ngươi... "ngựa trắng đâu phải là ngựa".
Nói xong Công Tôn Long ung dung dắt ngựa qua...
Công Tôn Long có cái nhìn khác hẳn, với Huệ Thi thì nhấn mạnh cái tính chất tương đối của vạn vật trong cái hiện thực, ngựa trắng, ngựa ô, ngựa kim hay ngựa vằn cũng đều là ngựa, nhưng với Công Tôn Long thì không phải vậy. Công Tôn Long bảo:
- Chính cái "danh" gọi vốn là cái kết quả của sự phản ảnh về khái quát của những đặc tính chung nhất của muôn vật. Cái cụ thể đang tồn tại đó mới là cái tuyệt đối, chẳng những tuyệt đối không thôi mà là tuyệt đối vĩnh viễn. Rồi ông nhấn mạnh: “Nó đâu có phụ thuộc vào các vật thể hay các hiện tượng mà nó phản ảnh đó?" Cũng từ đó Công Tôn Long phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của vạn vật trong trời đất cùng các hiện tượng của thế giới khách quan.
Rõ ràng Công Tôn Long có cùng một cái nhìn và cái suy nghĩ của Platon đối với ý niệm về thế giới của Platon - trong triết học cổ đại của Hy Lạp - La Mã.
Các thiên "Bạch Mã Luận" và "Kiên Bạch Luận" nói rõ về tư tưởng của nhà triết học Công Tôn Long. Như “Thiên Bạch Mã Luận" cho ta thấy ông muốn nhấn mạnh cái chủ yếu của nó là "Ngựa Trắng Không Phải Là Ngựa Trắng". (Bạch mã Phi Mã). Công Tôn Long bảo rằng đã dùng luận lý học mà tách rời màu sắc thoát ra khỏi con ngựa. Như vậy, đối với ông "Ngựa" và "Ngựa Trắng" là những thực thể riêng rẽ, hoàn toàn độc lập, chứ không thể xem như là một được. Thế có nghĩa nó vừa có thuộc tính, bản chất của con ngựa mà nó cũng vừa có cái đặc tính của một con ngựa cụ thể cá biệt thuần túy của nó.
Có người hỏi:
- Tại sao mà tách rời giữa cái trắng và con ngựa ra được? Ngựa nào cũng là ngựa, nó mang màu sắc gì thì gọi tên nó là vậy. Ví như Bạch Mã thì gọi là ngựa trắng, ngựa đen thì gọi ngựa ô, ngựa vàng thì gọi là ngựa kim v.v... Gọi như vậy há chẳng phải đúng hay sao?
- Đâu có vậy được. Người trước sai, người sau cũng sai nốt. "Ngựa là nói về về hình của nó. Có nghĩa là hình con ngựa. Chứ ai bảo nó là hình con vịt đâu? Còn trắng thì nói về cái màu sắc của nó. Nghĩ lại mà xem màu sắc đâu phải là hình? Vậy cho nên "Ngựa Trắng Không Phải Là Ngựa".
Với lý luận trên đây của Công Tôn Long rõ ràng cho ta thấy ông muốn tuyệt đối hóa sự không giống nhau cùng ở một vật thể mà tách rời nhau ra thành hai cái không có sự quan hệ hữu cơ giữa cái chung và cái riêng rẽ của nó. NHưng khi nhìn nó người ta có thể liên kết cái hình và cái màu sắc của nó mà gọi làm một. Con ngựa đó là ngựa trắng.
Theo lý luận của Công Tôn Long thì khi ta đòi có một con ngựa, ghì bên đối tác có thể đưa đến bất cứ con ngựa màu sắc nào, ví như ngựa ô, ngựa kim... Tuy nhiên khi ta đòi hỏi mang cho tôi một con ngựa trắng thì đối tác đó không thể mang ra các chú có màu sắc khác được...
Có người hỏi:
- Ngựa trắng cũng là ngựa, tại sao bảo là không ?
- "Ngựa nào cũng có màu sắc cả. Vì vậy mới có cái tên "ngựa trắng". Ví thử có thứ ngựa không màu, không sắc đi, thì chỉ gọi là ngựa không thôi, bởi nó chẳng có màu để gọi. Còn ngựa trắng không phải là ngựa... Có nghĩa ngựa trắng là ngựa cộng với trắng, như vậy nó chẳng phải là ngựa mà là "Ngựa Trắng".
Trong mệnh đề này, Công Tôn Long đã chỉ ra sự liên hệ và sự khác biệt, chỉ cái chung và cái riêng, cái toàn bọ và cái từng bộ phận, nhưng vì quy định bởi cái tính tuyệt đối của nó nên ông đi đến việc tách rời ra để chỉ "cái chung" và "cái riêng" hay nói một cách khác cái "toàn bộ" và cái "bộ phận" của nó một cách siêu hình. Lý luận này trở thành ngụy biện cho rằng "cẩu" đâu phải là "khuyển". Công Tôn Long lý luận kẻ "giết ăn trộm đâu phải là giết người?" Bởi "con người" là khác còn "người ăn trộm" là khác nhau. Thế thì lý luận của ông "ngựa trắng không phải là ngựa" cũng không ngoài cái ý đó. Cũng như con chó còn nhỏ thì gọi là chó con bởi gọi như vậy là gọi hình thức của nó, vậy thì "chó con” đâu phải là chó"!
------------TRIẾT LÝ SỐNG TÂM LINH
--------------------------------------------------------
-------NHÌN LÊN LỆCH HƯỚNG
-------NHÌN XUỐNG SAI ĐƯỜNG
-------NHÌN NGAY CHÍNH SỐNG
-------TRUNG NHÂN TỎA NGỜI
------------------------------------
-------THẤY LÀ ĐỰNG
-------NGHE LÀ CHỨA
-------NGHỈ LÀ TỒN ĐỌNG
-------HÍT THỞ LÀ PHÁT HUY
-------NÓI LÀ CÓ TRỞ VỀ KHÔNG,,,,,,,,,,,,,,
ANH CHỊ EM thân mến mình có vài lời tâm sự,trong kiếp nầy chúng ta may mắn gặp được phật pháp,đọc được kinh,luật luận của phật nghe được pháp gặp được tăng chúng thầy tổ được đến chùa lạy phật,học phật và được tu học,đó là chủng tử chúng ta củng đả gieo nhiều phước ,nên mới được nhân duyên nầy,nhưng có một điều mà chúng ta cần quan tâm,nếu ai trong chúng ta học phật cả đời, học đâu nhớ đó có nhửng kiến giải tuyệt vời,nhưng nếu không tu thì chẳng lợi ích gì,đối với quả bồ đề niết bàn còn xa lắm,nếu chúng ta không chịu cực chịu khó trải qua khó nhọc tu trì,thì cho dù chúng ta nhớ hết nghỉa lý nhiệm màu trong 12 bộ kinh và nhiều kinh sách hơn nửa thì củng chỉ giúp cho ta nói hay nói giỏi mà thôi,chứ không lợi ích gì cho chúng ta cả,dù ta có thuyết giỏi ,pháp nhân duyên- hay pháp tự nhiên lưu lót thì củng chỉ để cho người đời ban tặng ta một câu là bực học rộng uyên bác mà thôi,mà chúng ta tu đâu phải để cho người đời khen chê phải không?nếu một phút một giây chúng ta không chuyển pháp, không hành pháp,một ngày không hành luyện pháp ,không xa lìa thương ghét ,thì trí huệ ta sẻ lu mờ dần, không có trí lực để nhận biết thật hư,không có đạo lực để chiến thắng nhửng cám dổ của dục vọng của thế gian,vì thế chúng ta cần hành pháp hơn là nói,một khi mà đả thấy biết rồi thì đạo đâu còn có chổ nói,vì nói là không biết mà biết là không nói,chỉ có bật chứng ngộ thì mới tùy chổ mà dụng pháp,ở trong chánh định mà nói thì pháp đó mới chân thiện mỷ,nếu tâm vọng tưởng không hành trì pháp ,mà nói pháp,thì pháp dù đó là chánh pháp thì pháp đó vẩn là vọng pháp,còn có người tinh tấn tu trì không chấp pháp,không còn vọng tưởng trong tâm,thường nơi chánh định,mà dụng pháp,thì dù người nầy đối lúc đôi nơi không cần nói, đôi lúc nói đùa nói chơi không đâu vào đâu,nhưng ý nghỉa thâm sâu thực pháp,cho nên mới có câu người chánh nói pháp tà pháp tà ấy vẩn cứ chánh,a di đà phật,vì vậy tôi củng cần nhắc nhở chúng ta là muốn nói gì thì nói, không ngoài việc thực hành,hảy bớt nói làm nhiều bằng nhiệt huyết của mình,hảy quyết định cho chính mình trong cuộc sống,đừng dựa vào ai cả,,,,,cảm ơn các bạn đả đọc,,
Sư huynh N S có khỏe không ?số đ t của sư huynh ,muội để thất lạc rùi ,lúc này muội thường thiền ,và tu tin tấn nên ít vô đàm đạo với sư huynh ,có gì huynh cho lại số đ t hen.
đây là đường linh fecebook của muội
http://www.facebook.com/vodinhduyen
đả đi thì chắc phải đến đích,mổi một con người chúng ta phải tự quyết định cuộc đời của chính mình không dựa vào bất cứ ai,thiền củng chỉ là kỷ thuật không nên cột trói vào thường thiền mà nên thường định,trong một tâm pháp sanh ra hai thể ,chân như và sanh diệt,chân như là thể,sanh diệt là vọng,chân như chỉ cho phật tánh hay như lai tạng tâm,sanh diệt là vọng thức biến hiện sanh vô minh phiền nảo,từ sanh diệt hiện ra tam tế lục thô,khi vọng động,vô minh từ chân thanh tịnh hiện ra tâm,ý,ý thức hay a lại da thức,mạt na thức và 6 thức trước,chỉ cần rỏ vọng,thì lập tức trở về tánh chơn,trong a lại da thức củng hàm chứa sẳn như lai tạng tâm thanh tịnh,nhưng củng hàm chứa chủng tử ô nhiểm,trong quá trình tu hành là chuyển từ ô nhiểm thành thanh tịnh,chuyển thức thành trí thì tự nó tinh tấn chứ đâu phải tu tinh tấn,,,,,[không phải nói cho muội đâu nhé]wellcome1