-
Lễ Ngày Thánh Đản Thần Tiên Giáng Hạ
https://thantienvietnam.com/than-tie...-giang-ha.html
CÁC NGÀY LỄ THẦN TIÊN
NGÀY THÁNG GIÊNG
01 – Di Lạc thiên tôn
– Thiên nguyên
– Chạp Trời
– Nguyên Thủy Thiên Tôn
02 – Xa công – Đông Ba đế quân
03 – Tôn chân nhân (Tổ Y )
– Tiên Hát chân nhân
04 – Trúc Đồng cô nương
05 – Văn Khúc tinh quân ( Thần tài văn )
06 – Nhiên đăng – Thanh Thủy Tổ Sư
08 – Giang Đông thần
– Ngũ điện vương
– Cống Hiển đại thần thông(8 – 15)
09 Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng hạ ban phúc cho tam giới(ngày đại lễ tụng NgọcHoàng xá tội thiên tôn.Công đức vạn vạn bội)
12 – La Thiên Tuế
13 – Lưu mãnh tướng quân
– Ôn công
– Hứa công
– Quan Thánh đế quân phi thăng
15 – Thượng nguyên Thiên quan đại đế ban phúc rằm tháng giêng
– Môn Thần hộ đối
– Hựu Thánh chân quân chính nhất Tịnh ứng chân quả
– Hỗn nguyên hoàng đế
– Tây Tử đế quân
16 – Đông Sơ Tổ Sư
– Tuy Tỵnh Bá
19 – Trường Xuân Lập chân nhân
– Môn quan Thổ địa
20 – Chiêu Tài đồng tử
26 – Tì Hựu Tài Thần
NGÀY THÁNG HAI
01- Thái Dương thăng Điện chi thần .Chính thức khai Điện làm việc .Xét thiện ác của con người và Địa phủ(là ngày nhận sớ tấu.Nhân gian nên lập đàn tế lễ nghinh sao hóa nạn và làm lễ cầu tài xin mọi viêc đầu năm).Đắc phúc vạn sự như ý.
– Nhất điện tần quảng vương
– Câu Tr ần chân nhân
– Lưu chân nhân
(làm lành, lạy hướng Bắc, tụng kinh Thái Dương)
02- Thổ Địa chính thần(nên làm lễ tạ thổ Địa an trạch đầu năm)
– Mạnh Phu Tử
– Tế công
03 – Văn Xương tử đồng đế quân(nên làm lễ cầu học hành và công danh tiến chức .Tụng kinh văn xương)
04 – Tư Mệnh Táo Quân (lễ tụng Táo vương chân kinh đón tài lộc đầu năm)
06 – Đông Hoa đế quân
08 – Thích ca mâu ni đi tu (tụng kinh Thái Ất Cứu Khổ)
– Tam điện Tống Đế vương
– Trương đại đế
– Xương phúc chân quân
– Mã Thần Gia
13 – Cát chân quân
– Yết chân quân
– Hồng Thánh Vương
15 – Thái Thuợng Lão Quân (tụng Cảm Ứng Thiên). Là ngày Trời đất khai thông thiên địa cầu con, cầu của, cầu danh, xuất ngoại, buôn bán mọi việc đều được linh ứng. Vì ngày thánh đản của Thái Thượng tất cả các Thần Tiên trên Trời đều đến chúc mừng. Nên những người trên nhân gian. Nhất là người đang gặp hoạn nạn cầu xin lập tức được các vị thần tiên phù biến rủi thành may. Sự sự thông.
– Cửu Thiên Huyền Nữ
– Tinh trung nhạc vương
– Tam Sơn Quốc Vương
16 – Khai Chương Thánh Vương
17 – Đông phương đế quân
18 – Tứ điện ngũ quan vương – Khổng Tử
( Chí Thánh Tiên Sư)
19 – Quan Thế Âm Đại Sỹ (tụng kinh Cứu Khổ, Bạch Y Chân Kinh )
20 – Phổ Hiền Chân Nhân
21 – Thủy Long thánh mẫu nương nương
23 – Huyền Thiên thánh phụ minh chân đế
26 – Nam Cung Triệu Chấn Quân
NGÀY THÁNG BA
01 – Nhị điện Sở Giang Vương(cấm dâm dục)
03 – Bắc Cực Chân Võ huyền thiên thượng đế
– Ngô Thiên Tuế
03 – Liễu Hạnh Thánh Mẫu
04 – Trương Vương gia (Thiên Tuế)
06 – Tế Công hoạt
– Nhạn Quang nương nương
– Trương Lão tướng quân
08 – Lục điện Biện Thành Vương
– Triệu Thiên Tuế
10-Hùng Vương Hoàng Đế (tụng Hùng Vương Hoàng Đế chân kinh .công đức vạn bội.Linh ứng tiền tài lục súc hưng vượng,suốt đời no đủ,dư giả)
08 – Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương
12 – Trung Ương ngũ đạo
12 – Tản Viên Sơn Thánh
15 – Nhiên đăng
– Hạo Thiên đại đế – Y Linh
– Bảo sinh Đại Đế
– Nguyễn Đàng Triệu nguyên soái
– Lôi đình khu ma đại tướng quân
– Tổ Thiên Sư
– Tài thần
16 – Chuẩn Đề.Sơn Thần
18 – Trung Nhạc đại đế
– Hậu Thổ Nương Nương
– Tam Mao chân quân đắc đạo
– Ngọc Dương chân nhân
– Nam thiên Liêu Tướng Quân
19 – Thái Dương (tụng kinh Thái Dương )
20 – Chú sinh (Tử tôn) nương nương (Bà chúa thai sinh)
23 – Bà Thiên Hậu nguyên quân (Thiên Thượng Thánh Mẫu) 26 – Qủy Cốc Tiên Sư
27 – Thất điện thái Sơn vương
– Xa đại nguyên soái
28 – Đông nhạc đại đế
– Thương Hiệt chí thánh tiên sư
NGÀY THÁNG TƯ
01 – Bát điện Đô Thị Vương (tụng kinhTiên công)
– Túc công
04 – Văn Thù Qu ảng Phát Thiên Tôn
– Địch Lương công
08 – Văn phật đản sinh (tụng kinh Độ Nhân Chân Kinh)
– Cửu điện Bình Đẳng Vương
13 – Tam thiên doãn chân nhân
– Cát Hiếu Tiên chân nhân
14 – Lữ Thuần Dương Tổ sư
– Phù Hữu Đế Quân
15 – Thích ca thành đạo (tụng kinh Độ Nhân Chân Kinh)
– Hán Chung Ly tổ sư
– Huê Quang đại đế
17 – Thập điện Chuyển Luân Minh Vương
18 – Thần Y Hoa Đà
– Tử Vi Đại Đế
– Thái Sơn đẳng thượng nương nương
– Tống Sinh tư mã
20 – Nhãn quang thánh mẫu nương nương
21 – Lý Thiên Vương (Lý Tỵnh)
23 – Phổ Hiền Chân Nhân
24 – Kim Quang Tổ Sư
25 – Vũ An Tôn Vương
26 – Ngũ Cốc Tiên Đế
– Nam Côn Thân Lý đại vương gia
– Chung Sơn tướng công
27 – Nam Côn Thân Phạm ngũ vương gia
28 – Dược Vương Tiên Y
– Thần Nông Tiên Đế
NGÀY THÁNG NĂM
01 – Nam Cực Trường Sinh đại đế
– Phong Thiên Tuế
05 – Chạp Đất
– Đại Kỳ Ôn nguyên soái
– Lôi đình thiên
– Huỳnh Mai ngũ tổ quân
– Hầu Thiên Tuế
06 – Thanh Thủy Tổ Sư
– Tiết Thiên Tuế
07 – Xảo thánh Tiên Sư
– Châu Thái Úy
– Cảnh Thiên Tuế
08 – Nam phương ngũ đạo
11 – Thiên Hạ Đô Thành Hoàng
12 – Bỉnh Linh Công
– Lư Thiên Tuế
13 – Quan Thánh đế quân
– Quan Bình thái tử (tụng kinh Minh Thánh)
– Hà Hải Thành Hoàng
14 – Tào Động Tứ Tổ
16 – Như lai quang vương
– Tiêu Phủ Vương gia
16 – Thiên địa chủ khí Tạo Hóa vạn vật chi thần
( tối kỵ nghi giới tửu sắc, nghiệp kiếp trùng trùng )
18 – Lão Mẫu nương nương (Tây Vương Kim Mẫu)
– Trương Thiên Sư
20 – Đơn Dương Mã chân nhân
29 – Hứa Oai hiển vương
NGÀY THÁNG SÁU
04 – Nam đản bộ châu chuyển đại pháp luân
06 – Hồ Gia đản thần (ngày sinh)
– Dương tứ tướng quân
07 – Thôi phán quan
– Thái Sơn
08 – Duệ Thành Long Mẫu
– Tứ Nữ Tiên Tổ
10 – Lưu Hải Thiềm đế quân
11 – Điền Đô Nguyên soái
12 – Bành Tổ
13 – Lỗ Ban Tiên Sư
– Tỉnh Tuyền Long Vương
15 – Vô Cực Lão thân Lão nương
18 – Nam Côn Thần Trì Nhị vương gia
19 – Quan Thế Âm Đại Sỹ thành đạo
(tụng kinh cứu khổ chân kinh, Cứu Khổ )
23 – Mã thần
– Hỏa Thần
– Vương Linh Thiên Quan
– Quan Thánh đế quân (tụng Minh Thánh)
24 – Lôi Tổ
– Ngũ Lôi thần
– Tây Tần vương gia
– Hòa hợp nhị tiên
26 – Nhị Lang chân quân
29 – Thiên Khu tả tướng chân quân
NGÀY THÁNG BẢY
07 – Đạo đức lạp chi thần tiên
– Khương công
– Ngưu Lang Chức Nữ thôi tinh (Thất Tinh )
– Đại Thành Khôi Tinh
12 – Trường Xuân chân nhân
13 – Thế Chí bồ Tát
14 – Khai Cơ Ân Chủ
15 – Trung Nguyên Địa Quan
– Linh Tế chân quân
18 – Diêu Trì Kim Mẫu
19 – Thiên nhiên
– Trị niên Thái Tuế (Ân Giao)
20 – Trương Vương Gia
21 – Phổ Am tam tổ sư
– Thượng nguyên đạo hóa chân quân
23 – Tăng phúc Tài thần
– Nam cung Liễu tinh quân
– Thiên khu thượng tướng chân quân Gia Cát Lượng
– Pháp chủ ThánhQuân
24 – Long Thọ Vương
– Thao Thánh
– Trịnh Diên Bình Quận Vương
25 – Vũ Đức Hầu Thẩm Tổ Công
29 – Địa Tạng Vương (tụng kinh Địa Tạng)
NGÀY THÁNG TÁM
01 – Hứa chân quân
– Thần công diệu tế chân quân
– Tả quân Lê Văn Duyệt Kim giáp thần
02 – Tả Vương
03 – Bắc Đẩu hạ giáng
– Lục Tổ Huệ Năng thành đạo
– Cửu Thiên Châu Ân Sư
– Khương Tử Nha – Từ Thiên Tuế
05 – Ngũ Lôi thanh đại đế (Lôi thanh phổ hóa thiên tôn)
08 – Hội Yến Diêu Trì
10 – Bắc Nhạc đại đế
– Lâm thủy phu nhân Lý Cô
12 – Tây phương ngũ đạo
– Hà Thiên Tuế
– Chử Đồng Tử Đế Quân
15 – Thái Âm triều nguyên (tụng kinh Thái Âm )
– Trấn Tỵnh Cô thành đạo
– Nam Côn thần châu tứ vương gia
16 – Tề Thiên Đại Thánh
– Châu nguyên soái
18 – Tửu tiên Lý Thái Bạch
– Khai Đài Trịnh Quốc Tính
20 – Hưng Đạo Đại Vương Hiển Thánh
22 – Nhiên đăng
– Quảng Trạch Tôn Vương
23 – Phục Ma phó tướng Trương Hiển Vương
– Hình Thiên Vương Gia
24 – Đào Dã Tiên
– Nam Côn Thân Vạn Thiện Gia
25 – Thái Dương (tụng kinh Thái Dương )
27 – Đại thành chí thánh tiên sư Văn Tuyên, Khổng Tử
– Bắc Đẩu hạ giáng
NGÀY THÁNG CHÍN
01 – Nam đẩu hạ giáng
02 – Bắc đẩu cửu hoàng giáng thế
03 – Ngũ Ôn (kiêng dâm )
07 – Thần Quang nhị tổ thành đạo
09 – Đẩu Mẫu nguyên quân
– Phong Đô đại đế
– Cửu Hoàng đại đế
– Lập Thiên thượng đế
– Cao Lý,Mai Cát nhị tiên ông
– Cửu Thiên Huyền Nữ
– Trung Đàn Nguyên Soái
– Trùng Dương đế quân (tụng kinh Bửu Cáo trong Ngọc Lịch)
13 – Mạnh Bà tôn thần (bà cho ăn cháo lú )
15 – Triệu đại nguyên soái
– Vô Cực Lão thân Lão nương
– Châu Thánh phu tử
– Nam Côn thân Ngô Tam vương gia
16 – Cơ Thần
17 – Kim long tứ đại vương
– Hồng Ấn chân quân tiên phong
– Chiêu Tài đồng tử
18 – Thương Thánh Tiên Sư (Thương Hiệt)
23 – Tát Tổ chân nhân
– Long chân quân
28 – Ngũ hiển linh quang
– Huê Quang đại đế
– Mã nguyên soái
30 – Dược Vương Tiên Y
NGÀY THÁNG MƯỜI
01 – Chạp năm (Dân thế lạp)
– Đông hoàng đại đế hạ nguyên định chí Châu chân quân
03 – Tam Mao ứng hóa chân quân
– Lâm thủy phu nhân Lâm Cô
05 – Đạt Ma Tổ Sư
06 – Thiên Tào chư ty
– Ngũ Nhạc ngũ đế
10 – Huê Công, Huê bà
– Tây thiên vương
– Thủy Tiên Tôn Vương
12 – Tề Thiên Đại Thánh
15 – Hạ nguyên thủy quan đại đế
– Đậu thần Lưu sứ giả
– Ôn nguyên soái
16 – Vu Sơn Nương Nương
18 – Địa Mẫu nương nương
20 – Hư Tỵnh Thiền Sư
22 – Thanh Sơn Linh An Tôn Vương
23 – Châu thương Tướng quân
25 – Cảm Thiên đại đế Hứa chân nhân
27 – Bắc Cực Tử Vi đại đế
– Ngũ nhạc thần
30 – Châu tướng quân (Châu Thương, tụng kinh Minh Thánh )
NGÀY THÁNG MƯỜI MỘT
04 – Đại Thành chí thánh tiên sư Văn Tuyên, Khổng Tử
– An Nam Tôn Vương
06 – Tây Nhạc đạiđế (vía trời)
11 – Thái Ất Cứu khổ Thiên Tôn
17 – Chử Đồng Tử đắc đạo về trời
19 – Nhật quang thiên tử
– Đại từ chí thánh Cửu Liên.
23 – Nam đẩu hạ giáng
– Tống Tử Trương Tiên đại đế
24 – Đông Sơ Tổ Sư thành đạo
26 – Bắc phương ngũ đạo
NGÀY THÁNG MƯỜI HAI
01 – Thần Tiên (giáng hạ )
– Đàm Thiên Tuế
08 – Vương Hầu lạp
– Trương Anh tế vương
15 – Ôn nguyên soái
16 – Nam Nhạc Đại Đế
20 – Lỗ Ban Tổ Sư
21 – Thiên du Thượng đế
23 – Tư Mệnh Táo Quân
( Đêm thiên hạ, dân phần hương tự tiến )
24 – Táo Quân Ty Mênh Chân Quân về trời tấu thiện ác nhân gian
25 – (Đưa Thánh, Tiên, Thần về cõi trên)
29 – Nam Đẩu & Bắc Đẩu tinh quân hạ giáng
30 – Thánh Tiên hạ giới, thái phỏng thiện ác.
Cứ mỗi tháng ngày mồng 8, 14, 15, 29, 30 Bắc Đẩu hạ giới chi thần.nên thắp hương tụng chân kinh.Thái Thượng, Ngọc Hoàng, Thái Ất.Công đức vạn bội tránh muôn vàn nạn kiếp, tiền tài tự đến.
-
-
LỄ VÍA QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
(24/6 Mậu Tý- 2009)
Quách Tấn Cang
Bang hội Quảng Đông Ninh Hoà, hiện nay đang quản lý 2 ngôi thờ tự, đó là Thiên Hậu miếu (Chùa Bà) toạ lạc tại 338 Trần Quý Cáp, thị trấn Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà và Thánh Đế Miếu (Chùa Ông) toạ lạc tại thôn Văn Định, xã Ninh Phú, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà – Thiên Hậu miếu thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và Nghĩa Tự của toàn Bang Hội; Thánh Đế miếu thờ Ngài Quan Thánh Đế Quân.
Tại Quan Thánh Đế miếu mỗi năm, Bang Quảng Đông Ninh Hoà chúng ta có tổ chức các ngày lễ vía:
- Vía Đào viên kết nghĩa vào ngày 13/01/ÂL.
- Vía Thái tử Quan Bình vào ngày 13/5/ÂL.
- Vía Quan Thánh Đế Quân vào ngày 24/6/ÂL.
- Vía Tài Bạch vào ngày 22/7/ÂL.
- Vía Châu Thương vào ngày 29/10/ÂL.
Trong các ngày lễ vía nói trên, vía Đào viên kết nghĩa còn vào dịp xuân, mọi người rủ nhau đi hái lộc, xin xăm và cũng vì hâm mộ nghĩa khí, sự linh thiêng của Ngài, nên vào dịp lễ vía này, ngoài Bang Hửu trong Bang, còn có rất nhiều du khách thập phương trảy hội về đây rất đông, có nhiều người từ nước ngoài về thăm quê hương, từ Bình Thuận, Diên Khánh, Cam Ranh, Dục Mỹ, Nha Trang, Vạn Ninh. . . mọi người đều hướng về đây với tấm lòng thành kính và ngưỡng mộ cao độ khí tiêt và sự linh hiển của Ngài (nhiều sự việc đã chứng minh cho sự kiện này)
Quang cảnh chùa Ông Văn Định
Ảnh: Tăng Khương Trường
Ngoài ra, Vía Quan Thánh Đế Quân được tổ chức vào ngày 24/6 ÂL hàng năm cũng là một ngày vía lớn, vào ngày này mọi người quần tụ về đây để tưởng nhớ đến ngày đản sanh của Ngài, ngoài Bang Hửu và khách mời, khách tham quan cũng đảnh lễ rất đông nên Ban trị sự Tuệ Thành Hội Quán phải lo khâu tổ chức từ cả tháng trước, phân công người phụ trách tu bổ, sửa sang, sơn quét lại nơi thờ tự.
Cảnh sinh hoạt của anh em trong Bang trước ngày Vía Quan Thánh
Ảnh: Tăng Khương Trường
Anh em thanh niên trong Bang đang làm vệ sinh trước lễ đường
Ảnh: Tăng Khương Trường
Trước lễ vía chính thức, trong 2 ngày 21 vầ 22 ÂL thanh niên trong Bang được huy động về đây để dọn quét, treo đèn, kết hoa, làm toàn bộ vệ sinh chung quanh và trong khu vực Chùa, chúng tôi nhận thấy có các Anh: Quách Bình, Khâu Quang, Lưu thế Ninh, Đường Viễn Học, Khâu Lương Minh, Khâu Lương Thành, Anh Quốc Cang, Tăng Khương Trường, Chung Gia Phước . . . . . người lo quét dọn, làm vệ sinh trong điện Ông, người phát dọn cây cối, gom rác cả phía trước và phía sau Chùa, nếu nhìn lên mái Chùa, chúng ta cũng bắt gặp một hai anh em đang làm vệ sinh, các mái ngói, các máng nước vì đã lâu không được quét dọn nên lá cây, bụi rác tụ lại đây khiến cho các ống dẫn bị nghẹt, không thoát kịp làm tràn nước vào điện Ông mỗi khi có mưa lớn. . . không ngại công sức, mỗi người một việc lao động hăng say, khí thế bừng bừng, vui vẻ, hoà trong mồ hôi là những tiếng cười sảng khoái, không khí hoà thuận đoàn kết như anh em cùng chung một nhà, cùng nhau lo toan cho ngày giổ Họ. Các anh trong Ban nghi lễ lo việc tắm Ông, đây là một nghi thức không thể thiếu trước khi vào chính lễ, sau khi đã thắp hương xin phép, các anh chuẩn bị một nồi nước đun sôi với các loại lá thơm để nguội, sau đó dùng khăn mới, sạch để lau bụi bặm trần thế bám vào tượng Ngài, dùng lượt chải chuốt lại bộ râu 5 chòm, thay lại xiêm y, mũ mão của Ngài và sau khi công việc hoàn tất chúng ta nhận thấy dung mạo của Ngài thật uy nghiêm, thoát tục.
Sáng ngày 23/6 ÂL Bang hội có tổ chức cúng chay, các anh trong ban nghi lễ phối hợp cùng các ban hộ tự của các Chùa khai kinh Phật, sau đó, người trong Bang Hội luân phiên tụng niệm kinh Quan Thánh; Tranh thủ lúc này, các anh trong ban tổ chức, cắt dán băng rôn, khẩu hiệu và rà soát lại lần cuối các công việc cho ngày mai, đến 11 giờ 30 cúng ngọ và sau đó thiết đãi bửa cơm chay cho các Bang Hửu về dự.
Vào buổi chiều và buổi tối cùng ngày các anh trực lý 值理 (Người tự nguyện phục vụ công quả trong một năm, thường xuyên có mặt để giúp cho ban trị sự lo toan quản lý các công việc của Bang Hội trong các dịp lễ vía) cùng một số anh em chuẩn bị thực phẩm, lễ vật dâng cúng, và chiêu đãi cho ngày mai, công việc này diễn ra suốt đêm, nhớ lại các năm trước kia, vào các dịp này, các bậc tiền bối thường về Chùa để động viên các anh em lo việc nấu nướng, ẩm thực, các vị thường tụ tập từng nhóm, nơi đánh cờ tướng, nơi chơi bạc chược, nơi đánh tổ tôm, bài tiến lên . . . tiếng cười nói, trò chuyện râm rang suốt đêm.
Từ tờ mờ sáng ngày 24/6 các con heo quay được chở từ các lò quây heo tại Nha Trang về (Trước kia, tại Ninh Hoà cũng có các lò quay heo rất ngon, như lò quây heo Ông Phàn ở xóm rượu, nhưng sau giãi phóng các lò quay heo này đã đóng cửa, nên muốn quay heo phải đặt từ Nha Trang mang về), năm nay, ngoài 3 con heo quay của Bang, Bang Hội còn tiếp nhận thêm 2 con của 2 anh 譚國川 Đàm Quốc Xin (USA) và anh 范國強 Phạm Quốc Cường (VN) hiến cúng; Nhìn các con heo quay vàng lờm, các con dê tế sạch bong nằm hàng dài trên bàn tế lễ, chúng ta cảm nhận không khí lễ hội đang đến rất gần.
Quan Thánh Đế Quân
Ảnh: Tăng Khương Trường
Các Bang Hữu từ các địa phương khác đến
Ảnh: Tăng Khương Trường
Chủ tế năm nay do ông Quách Bình, Bang Trưởng Bang Quảng Đông Ninh Hoà phụ trách, Tổ chức cho ngày lễ hội gồm các ông: Lưu Lập Năng, Huỳnh Hớn Trang, Quách Tấn Cang, Lưu Thế Ninh đảm nhiệm, ngoài ra để giúp cho lễ hội diển ra chu toàn, các phần hành như Nghi Lễ, Tiếp Tân, Chiêu Đãi cũng được Ban trị Sự chú trọng đặt trách các nhân tố tích cực để tham gia điều hành.
Đúng 7 giờ 30 toàn thể Bang hửu và các vị hào lão trong thôn Văn Định, Ban quản lý đình làng Bằng Phước, bà con địa phương xã Ninh Phú tề tựu trước lễ đường để làm lễ dâng hương Quan Thánh Đế Quân. Sau 3 hồi chuông trống, buổi lễ chính thức bắt đầu, toàn thể mọi người trang nghiêm hướng tâm mình theo dòng khói bạc, gởi lòng thành theo tiếng chiêng ngân. . . . Với lời xướng lễ bằng tiếng Quảng Đông của anh Huỳnh Diệu Nhi, mọi người đều cảm nhận như có sự linh hiển của Ngài. Từ trên bệ thờ cao trong tư thế ngồi oai nghiêm, lẫm liệt, nhân từ dường như Ngài đang hiển hiện để chứng giám cho buổi lễ.
Sau nghi thức lễ tế, anh Lý Diệu Thành thay mặt cho toàn Bang đọc 祭文 (Văn tế) ca ngợi Thánh đức của Ngài và cầu xin ân điển của Ngài để gia hộ, độ trì cho toàn Bang, già trẻ lớn bé, những người đang ở trong nước, cũng như những người đang định cư ở nước ngoài được an khang thịnh vượng. . . . sau đủ 3 tuần trà rượu, ba hồi chiêng trống buổi lễ mới chấm dứt, thời gian kéo dài khoảng 60 phút, Bang trị sự Tuệ Thành hội Quán Ninh Hòa đã cố gắng bảo tồn các nghi thức hành lễ có từ xa xưa mà hầu như các miếu khác, các Bang bạn đã giản lược đi rất nhiều!
Sau khi buổi lễ hoàn tất, đoàn lân của Bang Hội múa nghinh Ông, mừng lễ hội, mặc dù các thành viên của đội lân năm nay là các em nhỏ, nhưng các em múa cũng khá nhuần nhuyễn khiến cho người xem động viên, cổ vũ tán thưởng rất nhiệt tình.
Các em thiếu niên múa lân nhân ngày Vía
Ảnh: Tăng Khương Trường
Quang cảnh buổi Lễ Vía
Ảnh: Tăng Khương Trường
Năm nay, Bang hội chúng ta có tổ chức đấu giá lộc Ông để gây quỹ nhang dầu cho 2 Chùa. Đây là các phẩm vật sau khi đã dâng cúng Ngài Quan Thánh. Ban tổ chức đã trích ra 7 phần lộc, gồm: 4 đầu heo quay, 1 con gà luộc, 1 con vịt luộc và 1 khổ thịt heo quay, kèm theo 7 câu chúc được mạ chữ vàng đóng khung trang trọng.
Các câu chúc mang ý nghĩa:
安康盛旺 An khang thịnh vượng
財 源恆足 Tài nguyên sung túc
福玉滿堂 Phước ngọc mãn đường
一帆風順 Thuận buồm xuôi gió
福海壽山 Phước hải thọ sơn
大福大祿 Đại phước đại lộc
大富大吉 Đại phú đại cát
Đúng 10 giờ toàn thể khách mời và Bang Hữu tề tựu trước Lễ Đường để tham dự buổi đấu thầu, sau 3 hồi chiêng, ông Bang Trưởng Quách Bình tuyên bố khai mạc.
Buổi đấu thầu càng lúc càng trở nên sôi động, nhất là khi đến các phần lộc đầu heo quay, kèm theo các câu chúc: 福海壽山, 福玉滿堂, 大福大祿, 大富大吉, mọi người đều muốn thỉnh về nhà với ước mong phát lộc, phát tài, gia đình an khang thịnh vượng . . . . tiếng phèn la của ông Địa vang lên, kèm với tiếng vổ tay cổ vủ của mọi người mỗi khi có ai đó trả giá cao hơn khiến cho bầu không khí như nóng thêm lên.
Vì thời gian có hạn nên buổi đấu giá phải chấm dứt lúc 11 giờ 15 phút, Tổng số tiền thu được trong buổi đấu giá này: 8.700.000 VNĐ (so với các chùa Phúc Kiến, Quảng Đông Nha Trang mỗi lần đấu giá họ thu trên 30 - 40 triệu) tuy khiêm tốn, nhưng cũng nói lên được lòng thành của các Bang Hữu nơi huyện nhỏ. Danh sách trúng lộc Ông năm nay gồm: Anh Lý Diệu Thành: 550.000VNĐ – Anh Huỳnh Trung Nguyên: 500.000VNĐ – Anh Tăng Khương Trường: 800.000VNĐ – Anh Lữ Trung Trực: 1.500.000VNĐ - Nhà hàng Tiến Hiệp NT: 1.500.000VNĐ - quán cơm Mạnh Dương: 1.800.000VNĐ - hiệu buôn Quản Ký: 2.050.000VNĐ.
Anh Lý Diêu Thành được trúng giải
Ảnh: Tăng Khương Trường
Anh Lưu Thế Ninh (Hiệu buôn Quản Ký) nhận giải lộc Ông
11 giờ 30 tất cả Bang Hữu, Quan Khách và khách hành hương đều được mời tham dự bữa cơm thân mật, tổng số người tham dự khoản 600 người, dường như lượng khách mời năm nay có ít hơn các năm trước.
Quang cảnh chiêu đải Bang Hửu & Quan khách trong ngày vía Ông
Ảnh: Tăng Khương Trường
12 giờ 30 buổi lễ hoàn mãn - Lễ hội năm nay được diễn ra trong vòng trật tự, tôn nghiêm, nhưng không kém phần thân mật vui vẻ.
Ninh Hòa, ngày 25 tháng 6 năm Mậu Tý
郭進剛
Quách Tấn Cang
http://www.binhhoa-ninhhoa.org/s_qdong/via_24_6.html
-
Tam Quan Đại Đế
November 15, 2013 · Filed under Uncategorized
Tam Quan Đại Đế là danh từ gọi chung của ba vị là: – Thượng nguyên tứ phước Thiên quan Tử Vi Đại Đế , Trung nguyên Xá tội Địa quan Thanh Hư Đại Đế , Hạ nguyên Giải ách Thủy quan Động Âm Đại Đế . Nếu gọi đầy đủ thì là “Tam Nguyên Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế ”. Trong Đạo giáo, địa vị của ba vị nầy gần với Ngọc Hoàng Thượng Đế . Đạo giáo cho rằng ba vị nầy có trách nhiệm về ba yếu tố:- ban phúc, xá tội và giải trừ tai ách cho con người.
Trong dân gian, Tam Quan Đại Đế được gọi là “Tam Giới Công”, tức ba vị Tôn Thần chưởng quản ba cõi thiên, địa và thủy giới . Đó là do nguồn gốc sùng bái các vị thần trong tự nhiên mà có, sau được “thần thánh hóa” thành ra ba vị tôn thần.
Mặc dù trong Đạo giáo cho rằng, địa vị của ba Đại Đế nầy gần với Ngọc Hoàng Thượng Đế , nhưng trong dân gian lại ít thấy thờ cúng. Chỉ có tại các đạo quán của Đạo giáo, có đặt ba cái lò bằng thiếc để cúng tế, nên dân gian gọi là “Tam Giới Công Lô” (ba ông thần lò tam giới ).
dinh thu
Sự sùng kính của dân gian đối với Tam Quan Đại Đế bắt nguồn từ thời cổ đại, con người có sự sợ hãi kính trọng ba giới tự nhiên là : trời, đất và nước. Còn danh xưng “Tam Quan” thì tới đời Đông Hán mới xuất hiện, khi nhân vật Trương Giác (Giốc) sáng lập ra một đạo thường gọi là “Ngũ đẩu mễ giáo” (đạo năm lít gạo). Tương truyền, để giúp cho những người cần giải trừ tai nạn hay tiêu trừ tật bệnh, thì chỉ cần viết tên họ, tuổi tác, tội lỗi cần sám hối hoặc chứng bệnh đang bị.. vào ba tờ giấy. Rồi đem ba tờ giấy ấy thực hành như sau:- một tờ đem chôn trên núi hoặc đốt cho tro than bay lên trời, một chôn dưới đất, còn một cột vào vật nặng thả chìm dưới nước, là có thể giải trừ tất cả xui rũi xấu xa bệnh hoạn …Đó là quan niệm có liên quan đến ba cõi :- trời, đất và nước, xuất hiện sớm nhất ở TQ.
*Như đã nói ở trên, “Tam Quan” bao gồm “Thiên quan”, “Địa quan” và “Thủy quan”, bởi vì người Trung Quốc từ xưa đã có những nghi lễ về tế trời, cúng đất và cúng nước. Thiên “Cẩn lễ” trong sách “Nghi lễ” có viết :- “Tế trời thì đốt củi, tế núi thì lên gò cao, tế nước thì chìm xuống, tế đất thì đem chôn”. Nhưng ngày xưa, việc cúng tế nầy là quyền hạn của nhà vua, còn dân chúng chỉ được cúng bái tổ tiên mà thôi. Đến thời Đông Hán, Trương Đạo Lăng lập ra “Thiên Sư Đạo” mới có cúng tế “tam quan” là trời, đất và nước . Sách “Thượng Tam Quan thủ thư” là sách kinh điển của Đạo giáo chuyên về trị bệnh cho tín đồ có dạy:- “một đem đặt trên núi cao, một chôn dưới đất, một cho chìm xuống nước, gọi là phép “tam quan thủ thư”. Đến đời Nam Bắc triều thì có chức vụ Tam quan thần coi về việc cúng tế của ba lĩnh vực trời, đất và nước,như vậy đến đây đã hợp nhất ba vị thành một vậy.
1.- THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC
Thiên quan tên là “Thượng nguyên nhất phẩm tứ phước thiên quan Tử Vi Đại Đế “, thuộc về Cung Ngọc Thanh. Thiên quan do ba khí xanh, vàng, trắng hợp thành, tổng quản các vua trời. Mỗi năm, vào ngày rằm tháng giêng thì Ngài hạ giáng xuống trần gian, để luận xét về tôi phước của con người, vì vậy nên xưng Ngài là “Thiên quan tứ phước”.
2.- ĐỊA QUAN XÁ TỘI
Địa quan tên là “Trung nguyên nhị phẩm Xá tội Địa quan Thanh Hư Đại Đế”, thuộc về Cung Thượng Thanh. Địa quan do tinh hoa của hai khí “hỗ độn” và “cực huỳnh” kết hợp thành, tổng quản Ngũ Đế, Ngũ Nhạc và các Địa Thần. Mỗi năm vào ngày rằm tháng bảy, Ngài hạ giáng xuống trần để xét tra tội phước của nhân gian, xá tội cho những ai thành tâm sám hối.
3.- THỦY QUAN GIẢI ÁCH
Thủy quan tên là “Hạ nguyên tam phẩm Giải ách Thủy quan Động Âm Đại Đế”, thuộc về Cung Ngọc Thanh. Thủy quan do khí “phong trạch” (gió và ao đầm) và tinh khí “thần hạo” (biển mênh mông) hợp thành. Mỗi năm vào ngày rằm tháng mười thì Ngài hạ giáng xuống trần để xem xét tội phước của nhân gian, tiêu trừ tai nạn cho loài người.
* Loài người luôn có lòng sùng bái tự nhiên nên dễ dàng thần thánh hóa tự nhiên trở thành những truyền thuyết . Có một thuyết là Tam Quan Đại Đế chính là ba vị ba vị vua cổ đại là :- Nghiêu, Thuấn và Vũ. Ba vị nầy đã có công lớn với thiên hạ nên khi mất được phong làm Thiên, Địa, Thủy, ba vị Đại Đế , chia ra chưởng quản ba cõi để cai trị và bảo hộ cho nhân gian.
* Có một thuyết cho rằng, khởi thủy của Tam quan nguyên là ba khí:- Kim, Thủy và Thổ hóa sanh ra. Đem ba yếu tố kim, thổ, thủy phối với thiên, địa, thủy mà thành ra Tam Quan.
*Lại có một thuyết nói rằng, Tam quan chính là ba người con của Nguyên Thủy Thiên Tôn thần thông quảng đại. Trưởng tử phong làm “Tử Vi Đại Đế”, con kế phong làm “Thanh Hư Đại Đế” và con út phong làm “Động Âm Đại Đế” , giao cho việc chưởng quản ba ty sở về thiên, địa và thủy của nhân gian.
*Có thuyết thì nói rằng, ba người con trai nầy là do Ông Trần Tử Đảo kết duyên với ba người con gái của Long Vương sanh ra, có pháp lực vô biên, nên được Nguyên Thủy Thiên Tôn phong chức cho.
*Dân gian tin rằng địa vị của Tam Giới Công là gần với Ngọc Hoàng Thượng Đế là phản ánh lòng sùng kính trời, đất và nước mà thành. Cho nên cứ đến ba ngày “rằm lớn” thì nhà nhà đều sắm sửa lễ phẩm thịnh soạn để cúng tế, cầu nguyện Tam Quan Đại Đế ban phước, tiêu tội và giải ách và cảm tạ ơn trên đã phù hộ được bình an thuận lợi. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ là, rằm tháng giêng cầu Thiên Quan Đại Đế , rằm tháng bảy cầu Địa Quan Đại Đế , rằm tháng mười cầu Thủy Quan Đại Đế , phân chia nhiệm vụ tiếp nhận lời cầu xin của dân gian về ba lãnh vực:- ban phước, xá tội và tiêu tai giải ách.
*Khi đến “tam nguyên tiết” là ngày cúng tế Tam Quan Đại Đế . Tam nguyên tức là thượng nguyên (rằm tháng giêng), trung nguyên (rằm tháng bảy) và hạ nguyên (rằm tháng mười). Mặc dù đã có sự phân biệt ngày thánh đản của mỗi vị, nhưng dân gian thì bất kể nguyên nào cũng đều đến các đạo quán để cúng tế , đốt giấy tiền vàng bạc cầu xin được phước, xá tội và giải ách…
*Việc bày trí thánh tượng của ba vị tôn thần tại các đạo quán như sau:-
-Thiên quan nhất phẩm Tử Vi Đại Đế đặt tại trung ương.
-Địa quan nhị phẩm Thanh Hư Đại Đế đặt ở bên phải.
-Thủy quan tam phẩm Động Hư Đại Đế đặt ở bên trái.
*Trong dân gian thì thường chỉ tập trung cúng tế lớn vào thượng nguyên , còn trung và hạ nguyên thì ít cúng trở lại.
Ngọc Hoàng Thượng Đế và Tam Quan Đại Đế thì ít được tạo cốt tượng để thờ, thường chỉ biểu trưng bằng “lò đốt hương” gọi là “Tam Giới Công Lô” để cúng tế. Việc cúng nầy thì người ta chỉ cúng chung Tam Quan, chứ ít ai chia ra ba vị như đã dẫn giải ở trên.
https://elysium6561.wordpress.com/20...m-quan-dai-de/
-
-
-
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
Published on Jul 23, 2017
Cuong Khong
https://issuu.com/cuongkhong/docs/daiviet
-
101 kinh nghiem thanh dat trong cuoc song
Published on Sep 1, 2016
https://issuu.com/chinxua/docs/101_k..._dat_trong_cuo
-
Phong tục thờ cúng của người việt ứng dụng trong cuộc sống kinh doanh
Published on Jan 29, 2018
https://issuu.com/tunhan7/docs/phong...oivietungdungt
-
-
-
Lễ vía Quan Công hiển thánh tại chùa Ông ở Cù Lao Phố - Biên Hoà (10/03/2016)
Đại Nam nhất thống chí (cuối thế kỷ XIX) cũng ghi lại: “Đền Quan Công ở phía đông tam nhai thuộc phía nam Châu- Đại Phố, huyện Phước Chính, mặt tiền ngó xuống Phước Giang, nhà đền rộng rãi tráng lệ, có đắp pho tượng cao hơn 1 trượng, ở sau có quán Quan Âm cùng Hội quán Phước Châu ở đầu phía Tây, Hội quán Quảng Đông ở đầu phía đông hợp thành 3 ngôi đền lớn. Sau Tây Sơn đến chiếm, hai đền kia bị hủy bỏ, chỉ còn đền Quan Thánh".
Nguyễn Thị Nguyệt*
I. VÀI NÉT VỀ CHÙA ÔNG - CÙ LAO PHỐ
Thất Phủ Cổ Miếu hay còn gọi là chùa Ông ở cù lao Phố thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa là một trong những cơ sở tín ngưỡng dân gian của người Hoa được xây dựng khá sớm ở Nam bộ. Bảy phủ người Hoa thuộc hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông (tức Việt Đông) gồm: Phúc Châu, Chương Châu, Tuyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu, Quỳnh Châu và Ninh Ba (sau đổi là Huy Châu)1 cùng hợp sức xây dựng miếu vào năm Giáp Tuất -1684 (8 người trong chư hội 7 phủ người Hoa đứng ra xây dựng miếu trong đó có ông nội của Trịnh Hoài Đức). Tên gọi ban đầu của chùa Ông là Quan Đế Miếu.
Miếu được xây dựng ở tả ngạn sông Đồng Nai, cạnh đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh sát với cầu Gành, mặt tiền quay về hướng Tây. Địa điểm của di tích ở ngay trung tâm thương cảng cù lao Phố của người Hoa xưa kia. Trước miếu có gốc cây đa cổ thụ trùm rễ xuống dòng sông Đồng Nai tạo cảnh quan nên thơ thoáng mát và không kém phần cổ kính cho ngôi miếu xưa này.
Kiến trúc của Miếu Quan Đế khá bề thế được miêu tả trong sách “Gia Định Thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức như sau: “Ở phía nam cù -lao Đại- Phố, phía đông đường tam- giai, ngó đến sông Phước Long, miếu điện nguy nga, có đắp tượng cao hơn 1 trượng, phía sau là quán Quan- Âm, ngoài bao tường gạch, có con lân bằng đá ngồi 4 góc, cùng với Hội- quán Phúc- Châu đầu phía tây đường lớn và Hội- quán Quảng -Đông ở dưới phía đông là 3 cái đền lớn. Từ khi có loạn Tây- Sơn nhân dân ly tán, 2 đền kia bị hủy bỏ, duy miếu này là của công cộng bản-phố, riêng được bảo tồn”2.
Còn sách Đại Nam Nhất Thống chí (cuối thế kỷ XIX) cũng ghi lại: “Đền Quan Công ở phía đông tam nhai thuộc phía nam Châu- Đại Phố, huyện Phước Chính, mặt tiền ngó xuống Phước Giang, nhà đền rộng rãi tráng lệ, có đắp pho tượng cao hơn 1 trượng, ở sau có quán Quan Âm cùng Hội quán Phước Châu ở đầu phía Tây, Hội quán Quảng Đông ở đầu phía đông hợp thành 3 ngôi đền lớn. Sau Tây Sơn đến chiếm, hai đền kia bị hủy bỏ, chỉ còn đền Quan Thánh” 3.
Từ khi được xây dựng đến nay, di tích đã trải qua nhiều lần trùng tu lớn nhỏ vào các năm: 1743, 1817, 1868, 1894, 1927, 1944, 1947, 1968-1969. Có thể với những lần trùng tu lớn, kiến trúc của miếu Quan Đế đã có ít nhiều thay đổi so với kiến trúc ban đầu. Năm 1927, Quan Âm Các được trùng tu lại theo lối hiện đại và giữ nguyên vẹn đến năm 2005.
Năm 2005-2006, trùng tu Quan Âm Các trên nền cũ phía sau chánh điện miếu với kiến trúc lầu các truyền thống của Trung Hoa. Quan Âm Các được xây dựng lại bằng vật liệu kiên cố hiện đại gồm hai tầng, góp phần làm cho di tích thêm phần quy mô và đa dạng trong tổng thể các hạng mục kiến trúc. Năm 2008-2009, bằng kinh phí xã hội hóa, Thất Phủ cổ Miếu được các bang người Hoa ở Biên Hòa vận động đóng góp kinh phí để trùng tu lớn tạo cho qui mô của di tích thêm phần khang trang và mang đậm dấu ấn kiến trúc tín ngưỡng Trung Hoa.
Thất Phủ cổ miếu - chùa Ông là một trong hai cơ sở tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở Biên Hòa được xây dựng với nguyên liệu đa số bằng đá xanh Bửu Long (cùng với Thiên Hậu cổ miếu vốn là Miếu Tổ sư nghề đá). Nhìn chung, kiến trúc và trang trí mặt tiền của hai cơ sở tín ngưỡng này khá giống nhau, tuy nhiên qui mô của chùa Ông vẫn to lớn hơn.
Trên nóc mái của chùa Ông trang trí những hạng mục bằng gốm, bố cục thành hai tầng: trên là cõi không với cá vượt vũ môn - cá hóa rồng - phụng hàm thư; còn dưới là cụm tiểu tượng cảnh sinh hoạt của con người. Hai bên đầu đao phía dưới có hai tượng ông Nhật và bà Nguyệt với hai chữ Hán “Nhật” (日) - “Nguyệt” (月) ghép lại thành chữ “Minh” (明), ngụ ý hoài vọng về nhà Minh của nhóm người Hoa với lý tưởng “Bài Mãn phục Minh”. Tất cả những đồ gốm này mang nhiều giá trị nghệ thuật được cho là sản phẩm của gốm Cây Mai - Sài Gòn thế kỷ XIX.
Chùa Ông có diện tích khá lớn. Kiến trúc của di tích hiện tồn có lẽ được trùng tu vào năm 1817 - năm trùng tu lớn sau cùng. Di tích được xây dựng theo lối chữ 国 “quốc” (nội công ngoại quốc). Chánh điện hình chữ Khẩu (口), giữa có sân thiên tĩnh (phương đình). Tiền điện, trung điện, cột đều được xây bằng đá xanh Bửu Long. Bên trong trang trí hoành phi, liễn, đối bằng gỗ rất tinh sảo, mỹ thuật và cổ kính.
Trước cửa chánh điện treo một “lâu thuyền” hay còn gọi là bức “nghi môn” bằng gỗ được chạm khắc lộng tinh xảo. Lâu thuyền được xem là biểu tượng người Hoa ghi nhớ những ngày vượt biển gian khổ di cư đến Việt Nam. Đây là hiện vật đem từ Trung Quốc sang vào năm Quang Tự (Giáp Ngọ - 1894).
Chùa Ông hay Thất Phủ cổ miếu thờ Quan Thánh Đế quân, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Kim Hoa nương nương, Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Tài Bạch tinh quân, Tiền Hiền, Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ. Bên trong Quan Âm Các thờ Phật Bà Quan Âm, phối tự với Bao Công, Triệu Huyền Đàn, Thái Tuế, Tôn Ngộ Không, Hiếu Tử hay Bạch vô thường (Thần Tài âm phủ), Thanh Long trụ, tượng Ông Hổ…
Hàng năm, người dân tổ chức cúng lễ vào các dịp như: Vía Quan Công hiển thánh (13 tháng giêng âm lịch), Tết Nguyên Tiêu hay Thượng nguyên (Rằm Tháng giêng âm lịch), vía bà Thiên Hậu (23 tháng 3 âm lịch), Vía ngày mất Quan Công (13 tháng 5 âm lịch) phối tự vía Quan Bình, vía Quan Công bửu đản (24 tháng sáu âm lịch), tiết Trung Nguyên (từ 10-12 tháng 7 âm lịch), tết Hạ Nguyên (rằm tháng 10 âm lịch) còn gọi là lễ tạ ơn trả lễ cuối năm, vía Châu Xương (30 tháng 10 âm lịch). Ngày 24 tháng 6 âm lịch là ngày lễ lớn nhất trong năm. Vào lễ này, ở chùa Ông tổ chức cúng chay một ngày, thu hút được đông đảo người Hoa và Việt ở trong và ngoài địa phương tham gia. Đặc biệt vào ngày này, các bang người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh cũng về cúng viếng tưởng nhớ công đức của Quan Thánh Đế quân, vị thần phổ biến trong tín ngưỡng dân gian người Hoa.
II. LỄ VÍA QUAN CÔNG BỬU ĐẢN (24/6 ÂM LỊCH).
1. Chuẩn bị
Chuẩn bị vào lễ hội lớn, Ban tổ chức chùa Ông cho trang hoàng từ ngoài cổng cho đến bên trong chánh điện tạo không khí nhộn nhịp và thu hút bá tánh đến chùa. Bắt đầu lối vào chùa, người ta treo băng rôn bằng vải đỏ với dòng chữ được thể hiện bằng hai tiếng Hoa và Việt với nội dung “Chúc mừng ngày vía Đức Ông Quan Thánh Đế quân”.
Trên cổng chính và các cổng phụ đều cắm nhiều cờ lễ hội với nhiều màu sắc rực rỡ tạo nên không khí tưng bừng cho ngày lễ hội. Bước vào trong khuôn viên chùa là cả một thế giới của thần điện Trung Hoa. Ngoài sân trang trí lộng lẫy với những dãy đèn lồng màu đỏ nổi bật trên nên trời xanh biếc; khắp nơi đều được giăng đèn, kết hoa. Nhìn chung vào dịp lễ vía Đức Quan Thánh, chùa Ông được trang trí lộng lẫy cả trong và ngoài cơ sở tín ngưỡng theo tính chất mỹ thuật Trung Hoa.
Bên trong chùa, trên các bàn thờ đều được bày hoa, trái và thắp nhang nghi ngút khói. Lễ vật đặt trên các bàn thờ đa phần là đồ chay như: bánh đào, bánh thọ, bánh bò, táo, lê, chôm chôm, quýt, nhãn… Trước tiền điện là những vòng nhang cầu an cũng được treo bên trên xà ngang cùng với những đèn lồng kiểu trái bí màu đỏ.
Nơi gian tiền điện, chùa chuẩn bị sẵn những nén nhang ở trên bàn để bá tánh tới nhận và thắp nhang trên tất cả bàn thờ trong chùa. Ngoài ra, chùa còn chuẩn bị những phần lộc gởi lại cho bá tánh cúng chùa.
2. Phần lễ
2.1. Lễ vật
Chùa Ông bày lễ vật cúng trên 2 bàn thờ chính ở ngoài sân và bên trong trước chánh điện. Lễ vật ở bàn thờ chính gồm có: 5 chung rượu, 5 chung trà, 3 con heo quay lớn trên lưng cắm sẵn con dao, 1 dĩa mì xào, 1 tô cà ri chay, 1 tô canh súp chay, 1 dĩa đồ xào chay, 1 dĩa mắm chay, 1 dĩa đồ kho chay, vài xấp giấy tiền vàng mã, trái cây, bông hoa, nhang, đèn… Tất cả đều được sắp trên bàn cúng đặt trước chánh điện. 5 chung rượu và 5 chung trà có ý nghĩa rượu và trà được cúng 5 vị gồm: Quan công, Châu Xương, Quan Bình, Vương Linh quan Thiên quân và Trương Tiên Đại đế là năm vị thần linh được tôn kính trong lễ vía Quan Thánh Đế quân tại chùa Ông.
Bàn thờ ngoài sân thì đơn giản hơn với lễ vật dâng cúng là hoa, trái, bát nhang. Bàn cúng ngoài sân trước chùa là để cúng Thổ thần và tế cáo trời đất.
Lễ vật cúng Quan Đế của người Hoa ở chùa Ông gồm 6 món chay với ý nghĩa coi trọng con số 6 là con số tốt của người Hoa. Số 6 theo tiếng Hoa đọc là “lục” (nghĩa trại là “lộc”). 6 món chay gồm:
+ Cà ri chay: cà rốt, khoai tây, đậu hũ chiên, hành tây + bánh mì.
+ Canh súp: củ năng, đậu trắng, nấm rơm, đậu hà lan + cơm
+ Đồ xào chay: đậu hà lan, nấm rơm, nấm mèo, đậu hũ chiên.
+ Món kho mặn: nấm mèo, đậu hũ, nấm rơm.
+ Mì xào chay: mì vàng ngâm nước, rồi trần nước sôi cho mềm và rưới dầu cho bóng.
+ Mắm chay: đu đủ, củ cải, dưa deo…
Ngoài ra khi đãi ăn, còn có món hầm: khổ qua, nấm, đậu hũ… dùng để đãi thực khách.
Lễ vật và ẩm thực cúng trong lễ vía Quan Thánh Đế quân vừa có cả món mặn vừa có món chay thể hiện sự phong phú trong lễ vật cúng của người Hoa.
2.2. Trang phục
Chùa Ông nguyên là hội quán của bốn bang người Hoa ở Biên Hòa, vì vậy vào những dịp lễ vía lớn, ban tổ chức cũng tề tựu người Hoa của bốn bang về tạo nên sự đoàn kết và long trọng cho ngày lễ hội.
Những năm gần đây, hoạt động của các bang người Hoa ở Biên Hòa tương đối khởi sắc. Vì vậy, vào lễ hội lớn, trang phục của mỗi bang cũng được may sắm theo qui định. Trang phục của nam giới theo truyền thống Trung Hoa là áo cổ đứng, xẻ giữa và nút thắt, hai vạt trước có hai túi lớn. Mỗi bang mặc một màu áo ngắn theo qui định: màu vàng nhạt (bang Triều Châu), màu xanh lam (bang Phúc Kiến), màu xanh dương (bang Quảng Đông) và màu nâu hồng (bang Hẹ).
Nữ giới thì mặc áo dài sườn xám bằng gấm hoa màu đỏ. Những cô gái người Hoa trông xinh xắn, lộng lẫy hơn trong các bộ áo dài sườn xám đỏ tươi phục vụ chào đón khách trong ngày lễ hội.
Các bang hội người Hoa phân chia nhau đón tiếp khách trong lễ hội.
2.3. Nghi thức
Lễ vía Đức Quan Thánh do Ban tổ chức lễ thực hiện với nghi thức lễ khá đơn giản và ngắn gọn. Thời gian từ khoảng 8g00 đến 8g30 ngày 24 tháng 6 âm lịch do Ban trị sự chùa chủ trì.
Ban trị sự đại diện tập trung khoảng 20 người (nam giới) trước bàn thờ chính trước gian chánh điện. Đại diện cho 4 bang người Hoa ở Biên Hòa đứng nơi trung điện có sân thiên tỉnh (giếng trời).
Trước tiên người dẫn lễ đọc nội dung lễ vía Ông Quan Thánh Đế quân bằng tiếng Hoa. Tiếp đó là trình tự một lễ cúng dân gian. Dứt lời, trong chùa nổi nhiều tiếng chuông và trống phụ họa cho lễ cúng.
Ba người lớn tuổi đứng hàng đầu cầm ba cây nhang đại (dài khoảng 1m, đường kính khoảng 5-6cm) chuẩn bị thượng hương. Sau lời giới thiệu của người dẫn lễ, vị Trưởng ban đại diện người Hoa Biên Hòa tiến lên thượng hương vía Đức Ông. Tiếp đến là ba người lớn tuổi cầm ba cây nhang đại thượng hương. (Nổi chuông trống). Phần lễ thêm long trọng với các đại biểu chính quyền lần lượt lên dâng hoa, dâng 6 món chay cho Đức Ông Quan Đế.
Kế tiếp ban tổ chức mời lần lượt một người lên dâng rượu (5 chung) và một người lên dâng trà (5 chung). Sau mỗi lần cúng rượu và trà đều được người ta đổ xuống đất, mục đích để trình cáo với trời đất. Cuối cùng, người dẫn lễ đọc tên tất cả những vị thần linh được cúng trong chùa Ông. Kết thúc mọi người cùng dâng hương vái ba lần rồi kết lễ.
Đoàn múa lân sư rồng tiến vào múa vài vòng biểu diễn cúng viếng thần linh. Chuông trống nổi một hồi dài kết lễ.
2.4. Nội dung văn cúng
Phần hồn của nghi lễ chính là nội dung văn cúng với những ý nguyện cầu xin thần linh che chở phù hộ cho cộng đồng được mọi sự tốt đẹp. Một bài văn cúng được soạn sẵn và được người dẫn lễ xướng lên với nội dung như sau:
Ngày 24-6 năm Tân Mão. Chào mừng ngày vía Đức Ông Quán thánh Đế quân.
Cung thỉnh: Quan Thánh đế quân, Quan Bình Thái tử, Châu đại tướng quân, Trương Tiên Đại đế, Vương Linh Quan thiên tôn, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Kim Hoa nương nương, Quán Thế âm Bồ tát, Chuẩn Đề Bồ tát, Bao Công thừa tướng, Huyền Đàn gia gia, Đương niên Thái Tuế, Tề Thiên Đại Thánh, Thái Sơn thạch cảm đương, Tài Thần gia gia, Địa chủ gia gia, Định Phước Táo quân, Phước Đức chánh thần, Mã Đầu tướng quân, Ngũ Hành Thánh mẫu cập chư Đại Tôn thần, Tam bảo từ tôn, Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Cung duy: Thánh đế - Hạo khí lăng tiêu- Đơn Tâm quán nhật- Phò chánh thống dĩ chương tín nghĩa- oai chấn Cửu châu- Hoàn đại tiết nhi đốc trung trinh- linh chiếu thiên cổ- Phục ma đảng khấu, lũ đại trưng kỳ kỳ huân- Giác thế dũ dân, hoàn vũ bị kỳ minh huấn- Vận hiệp hoàng đồ, đức phục lê thứ.
Chúng thiện tín nhân đẳng ư … niên … nguyệt nhật cung hạ Quan Thánh Đế Quân bảo đản, tiễn lý kỳ ư đốc thật, tâm địa vụ cầu quang minh. Phục ký giám hựu vô nhiệm triêm ân chi chí cẩn cáo.
Long thiên tứ phước:
Ban trị sự Thất phủ cổ miếu xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam.
Chào mừng ngày vía Đức Ông Quan Thánh Đế Quân ngày 24-6 năm Tân Mão.
Chúng thiện nam tín nữ tề tựu trước điện Quan Thánh Đế quân. Một lòng thành tâm dâng hương đăng hoa quả trà rượu, lộc phẩm chi nghi phụng bái. Ngưỡng vọng kỳ cầu Đức Ông Quan Thánh Đế Quân cùng chư đại Tôn thần phù hộ độ trì:
Mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, nhân dân bá tánh, an cư lạc nghiệp, đất đai thăng bình, thương nghiệp hưng long, công nghiệp phát triển, nông nghiệp bội thu, thăng quan tấn lộc, tước vị cao thăng, trai gái nam nữ. Thánh Đế nuôi dưỡng, ăn ngon chóng lớn, thông minh lanh lợi, nam tăng bá phước, nữ nạp thiên trường, phúc tinh phổ chiếu, nhà nhà khang thái, con cháu hiếu thảo, vạn đại thịnh xương, chúng dân khâm ngưỡng, Thánh Đế độ trì, vinh hoa phú quý, phước thọ vô cuơng.
Ban Trị sự Thất phủ cổ miếu Biên Hòa đồng kính bái.
3. Phần hội
Sau nghi lễ cúng hoàn tất là những hoạt động của phần hội như hát Tiều, múa lân sư rồng… đều mang giá trị văn hóa Trung Hoa sâu sắc. Đôi khi phần lễ và hội được tổ chức song song, bên trong là lễ, còn bên ngoài là hội. Phần hội thu hút được đông đảo người hưởng ứng và cổ vũ tích cực nhất.
3.1. Hát Tiều
Hát Tiều là nghệ thuật ca kịch của đồng bào người Hoa gốc Triều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Hát Tiều xuất hiện tại Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX do những đoàn Triều kịch lưu diễn từ các tỉnh Nam Trung Quốc rồi vào Chợ Lớn và đi khắp đồng bằng Nam Bộ. Các đoàn hát Tiều thường biểu diễn ở các chùa trong những ngày lễ hội. Hát Tiều gồm hai loại: Loại bình dân thì biểu diễn ở sân chùa, còn loại sang hơn thì thuê rạp biểu diễn. Đặc điểm của hát Tiều là diễn luôn một mạch từ 7 giờ tối đến 5 giờ sáng hôm sau, diễn liên tục, không có kéo màn hạ màn trong suốt buổi diễn đến nửa đêm.
Ngày nay, các ban nhạc Tiều tập trung chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh. Vào dịp lễ hội, các chùa miếu người Hoa ở Đồng Nai thường mời các đoàn nghệ thuật người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh về phục vụ. Tại lễ vía Đức Quan Đế hiển thánh ở chùa Ông (cù lao Phố), Ban tổ chức mời Ban nhạc cổ truyền Triều Châu từ quận 8, thành phố Hồ Chí Minh về biểu diễn. Nhạc công biểu diễn gồm cả nam và nữ hát bằng tiếng Tiều phục vụ cho lễ hội.
Nhạc cụ phục vụ cho dàn nhạc Triều Châu gọi là đại la cổ (la là thanh la, chập chõa, còn cổ là trống) gồm có: trống lớn, trống nhỏ, thanh la, chập chõa các cỡ khác nhau. Khi biểu diễn, mỗi lần đến cao trào, các thanh la và trống đánh hết cỡ, làm vang động cả một góc trời. Đây là đặc điểm để phân biệt với dàn nhạc Quảng Đông, chủ yếu gồm nhạc cụ thổi, như kèn, sáo, tiêu... nên người nghe âm thanh ò í e rõ hơn tiếng trống.
Ban nhạc cổ truyền Triều Châu được mời về biểu diễn với những bài bản truyền thống của văn hóa Trung Hoa. Những nam nữ nghệ sĩ vừa hát vừa sử dụng một số nhạc cụ để phụ họa tạo nên sự hấp dẫn và sinh động cho lễ hội.
Ban nhạc Tiều Châu phục vụ lễ vía Quan Thánh ở chùa Ông sử dụng một số nhạc cụ như: chiêng bằng lớn (tim bo), 2 chiêng bằng nhỏ, 1 chiêng có núm nhỏ, 1 cặp chập chõa, 2 trống nhỏ (sân lo), 2 mõ (chấm) dài (1 lớn, 1 nhỏ), 1 cặp song loan bằng tre (hình lá tre hai đầu có kẹp nối hai thanh, khi sử dụng cầm phần kẹp để đập vào nhau), 1 đàn tam thập lục (36 dây), 1 đàn nhị hồ (nhị hi) và 1 đàn gáo (pha hi).
Lời ca và tiếng nhạc Tiều réo rắt đầy chất văn hóa Trung Hoa với nhiều xúc cảm đã góp phần tạo thêm không khí tưng bừng và vui vẻ, thu hút nhiều người đến với lễ hội vía Quan Công của người Hoa.
3.2. Múa lân
Tục múa Lân là một nét văn hóa truyền thống có từ lâu đời của dân tộc Trung Hoa. Nó được lưu truyền từ đời này sang đời khác và đã được truyền bá ở nhiều nước trên thế giới. Từ truyền thuyết người Trung Quốc cải biên nhiều lần, cuối cùng đã biến con ác thú trở thành con lân, đệ tử bụng to trở thành ông địa và số đệ tử gióng trống khua chiêng trở thành những người đánh trống, đánh xập xèng trong một đội múa lân.
Trong quá trình biểu diễn múa lân, tiếng trống giữ vai trò chủ đạo. Khi lân múa: nhịp trống nhanh, lân quỳ: nhịp trống chậm lại, lân ngủ: nhịp trống thưa và nhẹ, lân thức dậy: nhịp trống rộn ràng, lân vượt chướng ngại hay ngoạm cờ, ngoạm tiền vào miệng: tiếng trống nhanh, mạnh, liên hồi... Từ múa lân, nhiều nơi còn tạo dựng thành múa sư tử, múa rồng. Cũng có nơi tổ chức múa lân mừng năm mới, với các bài múa mang ý nghĩa cầu chúc an khang thịnh vượng như Kim ngân sư chúc thọ, Lân hái cỏ linh chi, Lân ngậm cá chép vàng...
Những mạnh thường quân đến cúng viếng chùa bằng việc thuê những đội lân sư rồng biểu diễn ở giữa sân chùa thể hiện lòng sùng tín đối với Đức Ông. Múa lân là sinh hoạt văn hóa tiêu biểu thu hút được đông đảo người hiếu kỳ đứng xung quanh xem và cổ vũ, tạo nên không khí tưng bừng, nhộn nhịp và vui tươi trong lễ hội người Hoa.
4. Sinh hoạt tín ngưỡng dân gian
Vào dịp lễ hội, bà con đến chùa thắp nhang vía Đức Ông Quan thánh và các vị thần linh với lòng thành kính hoặc đem theo những mâm lễ vật tới dâng cúng các vị thần linh trong chùa và chỉ lấy một ít đem về như là lộc của thần. Hoặc họ trực tiếp nhận lộc của chùa mong mọi ý nguyện được thực hiện, sự may mắn sẽ đến với hiện thực đời sống.
Ngoài ra, còn nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian như bá tánh có thể tới chùa công đức tiền hoặc mua dầu đèn cúng. Những chiếc đèn sáp cúng được chùa thắp sáng và đem tới đặt trên hai tháp đèn sáp ở hai bên bàn thờ Đức Ông trong chánh điện. Hoặc sau khi thắp nhang, bá tánh có thể bỏ tiền vào thùng công đức và nhận lại lộc (là bao lì xì màu đỏ đựng số tiền tượng trưng 1.000đ) từ chùa trong ngày lễ vía Ông.
Một trong những sinh hoạt tín ngưỡng dân gian tiêu biểu tại chùa Ông là sự biểu hiện lòng thành kính cúng viếng trước Mã Đầu tướng quân, vị quan giữ ngựa và con ngựa của Đức Ông Quan thánh. Không chỉ người Hoa mà cả người Việt đều rất tín sùng tín ngưỡng này. Hầu hết những người đến đây sau khi thắp nhang trước Mã đầu Tướng quân xong thì đều có động tác vuốt đầu, lưng, bờm, hay lắc chuông ở cổ con ngựa. Đặc biệt hơn có những người rất thành tâm chui qua chui lại nhiều lần dưới bụng ngựa. Không chỉ người lớn mà có cả những trẻ nhỏ cũng được cha mẹ hướng dẫn cho sờ, vuốt bụng ngựa và dắt chui qua chui lại dưới bụng ngựa. Có phụ nữ kiên nhẫn chui qua lại bụng ngựa 9 lần theo quan niệm nữ có 9 vía. Những hành động vuốt bờm, lưng, đầu, cổ ngựa rồi lại xoa lên đầu, cổ của họ với ý nghĩa là cầu mong hưởng được ơn từ con ngựa của Quan Thánh Đế quân sang con người. Người lớn thì mong được may mắn, khỏe mạnh, công việc hanh thông; còn trẻ em thì không bị bệnh tật và hay ăn mau lớn, ngoan ngoãn, học hành thông minh…
Trong lễ vía Ông ngày 24 tháng 6 âm lịch không có tục xin xăm mà chỉ có ở lễ vía Quan Công đản sanh dịp đầu năm (13 tháng giêng âm lịch).
Lễ hội thu hút đông đảo người dân tham gia, không chỉ người Hoa mà còn có cả người Việt ở trong và ngoài địa phương cũng đến dự lễ vía Đức Ông. Đặc biệt những người Hoa từ thành phố Hồ Chí Minh cũng về cổ miếu dự lễ vía Đức Ông Quan Thánh Đế Quân như một tục lệ trong tín ngưỡng truyền thống.
Có thể nói, lễ vía Đức Ông Quan Thánh tại chùa Ông Cù lao Phố là một trong những lễ hội lớn của người Hoa ở Biên Hòa - Đồng Nai. Lễ hội là dịp hội tụ của các bang người Hoa ở Biên Hòa tạo nên sự đoàn kết, nhất trí của cộng đồng. Không những thế, đây còn là dịp để khách hành hương từ thành phố Hồ Chí Minh đến đây dự sinh hoạt tín ngưỡng dân gian này do tín sùng nghĩa khí của Đức Quan Thánh Đế Quân. Thông qua lễ hội, người Hoa còn bảo lưu được nhiều giá trị văn hóa phi vật thể như: múa lân sư rồng, nghệ thuật hát Tiều, hát Quảng, tính cộng đồng và các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người Hoa từ bao năm nay.
* ThS. Bảo tàng Đồng Nai.
1 Tỉnh Phúc Kiến có các phủ: Phúc Châu, Chương Châu và Tuyền Châu. Tỉnh Quảng Đông (tức Việt Châu) có các phủ: Quảng Châu, Triều Châu, Quỳnh Châu và Ninh Ba (sau đổi là Huy Châu).
2 Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn tạo dịch), Gia Định Thành thông chí (tập Hạ), Nha Văn hóa Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1972, trang 110.
3 Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Đại Nam Nhất thống chí (tập Thượng), Nha văn hóa Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, 1973, trang 43.
(Theo: Thông báo văn hóa 2011 – 2012, Nhiều tác giả, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2013).
BẢN QUYỀN VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Giấy phép số 197/GP-BC do Bộ VHTT cấp ngày 27/10/2005
Địa chỉ: Số 1 - Liễu Giai - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: 04.62730768
Email: banbientapj@vass.gov.vn
In bài viết
Đóng lại
http://vncvanhoa.vass.gov.vn/UserCon...5-1ebadc8612da
-
Miếu bà Thiên Hậu - di sản văn hóa tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của người Hoa ở Long An
Miếu bà Thiên Hậu ở thị trấn Thủ Thừa được xem là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu của tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu của văn hóa Hoa ở Long An.
Miếu đề tên bằng chữ Hán Thiên Hậu Miếu nhưng người Việt vẫn quen gọi là chùa Bà
Tại huyện Thủ Thừa có một ngôi Miếu Thiên Hậu khá cổ kính mà dân gian gọi là Chùa Bà, tọa lạc tại số 25, đường Trương Công Định, thị trấn Thủ Thừa, mặt tiền miếu quay ra hướng kênh Thủ Thừa.
Người Hoa đến vùng Nam bộ nói chung và Long An nói riêng với hành trang văn hóa phát triển phong phú, đa dạng và đặc sắc, trong đó, có yếu tố văn hóa tâm linh - tín ngưỡng. Họ xây dựng các công trình tín ngưỡng như miếu thờ Thiên Hậu, miếu thờ Quan Công, Ông Bổn,… làm cho đời sống tâm linh thêm phong phú, viên mãn, vừa thiêng liêng, huyền ảo, vừa gắn với đời sống nhân sinh của con người.
Các giá trị văn hóa ấy thể hiện những đặc điểm riêng của người Hoa, hòa nhập với các cộng đồng khác, góp phần làm nên diện mạo văn hóa đặc thù của vùng đất Nam bộ cộng cư và dung hợp đa văn hóa.
Nhìn trên bình đồ, miếu gồm 3 dãy nhà kiểu tứ trụ nối tiếp nhau hình chữ Tam ㈢, từ trong ra ngoài gồm: Hậu điện, chính điện và tiền điện. Hai bên kiến trúc chính là 2 dãy Đông Lang và Tây Lang dùng để làm cơ sở dạy học tiếng Hoa, nơi tiếp khách và các hoạt động sinh hoạt khác. Tổng diện tích phần kiến trúc khoảng 500m2.
Thông tin từ các dòng lạc khoản ghi trên câu đối cho biết kiến trúc hiện trạng và hệ thống tượng thờ, bài vị, câu đối, hoành phi, bình phong, các chi tiết trang trí ở nóc mái, mặt tiền miếu, trống, chuông, thuyền gỗ,… có niên đại Quang Tư, năm Kỷ Hợi (1899). Các chi tiết trang trí mặt tiền miếu và mặt sau miếu đặc trưng văn hóa Hoa: Tượng gốm ông Nhật bà Nguyệt, Lưỡng Long Tranh Châu,… Năm 1996, miếu được trùng tu, nâng cấp phần nâng nền, lát gạch nền và thay ngói.
Cấu trúc bài trí thờ tự từ trong hậu điện nhìn ra ngoài: Hậu điện: Giữa là khám thờ Bà Thiên Hậu (tượng đá); Bài vị: “Sắc phong hộ quốc bĩ dân Thiên Thái Hậu nguyên quân”; Tượng hộ pháp (tượng đá, 2 tượng), tượng ngựa (tượng đá, 2 tượng), thuyền gỗ. Bên trái: Khám thờ Huệ Phúc Phu Nhân (tượng đá), bài vị: “Sắc tứ Kim Hoa phổ chủ Huệ Phúc Phu Nhân”.
Bên phải là khám thờ Long Mẫu Nương Nương (tượng đá), bài vị: “Sắc phong hộ quốc thông thiên huệ tế hiển đức Long Mẫu Nương Nương”. Vách phải là Thần Tài (viết bằng chữ Hán). Vách trái là Long Thần (viết bằng chữ Hán). Chánh điện còn đặt chiêng, trống và bàn lễ vật. Hai bên vách trang trí (đắp nổi) nói về sự tích Bà Thiên Hậu.
Ở chính điện có bình phong (gỗ) chữ Phúc; Hoành phi “Phúc Âm Sinh Dân”; 2 cặp đối liễng; 2 vách là bình phong (đắp nổi) Long Lân Qui Phụng. Tiền điện: Hoành phi “Mẫu Đức Cao Thâm” phía trên. Vách phải là khám thờ Phúc Đức Long Thần (tượng đá). Vách trái là khám thờ Môn Quan Gia Gia (tượng đá). Vách giữa là bình phong (đắp nổi) sự tích Thiên Hậu.
Trang trí tiểu tượng ở mặt tiền và nóc mái Miếu bằng gốm tráng men xanh được sản xuất ở lò gốm Cây Mai (Chợ Lớn) đặc trưng văn hóa Hoa
Về sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa, lễ hội vía Bà diễn ra vào ngày 22, 23 tháng 3 (âm lịch) hàng năm, thu hút đông đảo lượng khách tham quan, hành hương từ TP.HCM và ở địa phương. Từ ngày 19 đến 21 tháng 3, sư thầy chùa Long Vĩnh (thị trấn Thủ Thừa) đến tụng kinh cầu an. Đêm 22, sư cô tụng kinh bằng tiếng Hoa. Mỗi vị thần đều có riêng một bộ đồ mã bằng giấy. 6 giờ sáng ngày 23 thực hiện nghi thức đốt đồ mã là lễ tất, kết thúc lễ hội. Hằng năm, trong lễ hội có rước Đoàn ca múa nhạc Hoa Sen (của người Hoa, quận 5, TP.HCM) về phục vụ.
Về tổ chức tự quản, Ban quản trị gồm 11 người, do ông Hán Cao Sơn làm Trưởng ban. Thiết chế khác có liên quan là Nghĩa trang Minh Trí (dành cho người Hoa) và cơ sở dạy tiếng Hoa (Minh Trí) đặt tại miếu.
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu có vai trò quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Hoa ở Nam bộ, vì vậy, miếu Thiên Hậu được coi là “ngôi nhà chung” nên thường được xây dựng quy mô, trang trí công phu. Ở đó, quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan, về đạo đức, lối sống con người của người Hoa được thể hiện sâu sắc, đồng thời cũng cho thấy cách thức người Hoa bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình cộng cư, giao lưu, tiếp biến văn hóa với các tộc người khác tại quê hương thứ hai.
Truyền thuyết về Thiên Hậu trong văn hóa dân gian người Hoa có nhiều điểm dị biệt nhưng tựu trung bà sinh năm 960, đời Tống trong một gia đình họ Lâm ở huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, năm 27 tuổi giã từ cõi đời và hiển linh, đời Nguyên được phong Thiên Phi, đời Khang Hy nhà Thanh phong là Thiên Hậu tồn tại đến nay.
Từ truyền thuyết chuyển hóa thành tín ngưỡng dân gian, cộng đồng người Hoa đề cao, ngưỡng mộ và tôn thờ Nữ thần Thiên Hậu nhằm thông qua tam gương đức hạnh, hiếu thảo và xả thân cứu người của bà để giáo dục cộng đồng.
Mặt khác, bà được xem như vị thần biển nên trên con đường vượt trùng dương đầy gian truân và hiểm nguy đi về phía Nam đến vùng đất Nam bộ do những biến cố lịch sử ở Trung Hoa thời cuối Minh đầu Thanh, họ luôn cầu nguyện bà giúp đỡ, phù hộ. Khi đến định cư, ổn định đời sống trên vùng đất Nam bộ, họ lập miếu để thờ, tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử cộng cư với người Việt, tín ngưỡng thờ bà Thiên Hậu không những giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa - tâm linh của người Hoa trên quê hương thứ 2 của họ mà miếu Thiên Hậu và lễ hội ở đây còn là điểm đến của người Việt với lòng thành kính, chân thành bởi tính tương đồng, gần gũi về văn hóa; từ đó, hình thành nên sự giao thoa, tiếp biến văn hóa, làm nên tính cộng đồng Hoa Việt trong lịch sử khai mở đất phương Nam.
Là cơ sở tín ngưỡng dân gian đẹp nhất của văn hóa Hoa còn lại ở Long An, miếu bà Thiên Hậu Thủ Thừa thể hiện tất cả những ý nghĩa trên, biểu hiện ở dấu ấn về niên đại, kiến trúc vật thể, sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa đặc thù, hệ thống hiện vật, vật thờ, các mô típ trang trí trên kiến trúc, các thiết chế có liên quan… đặc trưng văn hóa Hoa, phản ánh lịch sử định cư và cộng cư của cộng đồng người Hoa trên đất Long An trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Nam bộ, xứng đáng được nghiên cứu, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa./.
Nguyễn Tấn Quốc
Chia sẻ bài viết
http://baolongan.vn/mieu-ba-thien-ha...an-a12510.html
http://image.baolongan.vn/news/2016/...Untitled-1.jpg
-
https://efly.vn/xieu-long-voi-chuyen...E2%80%9D-.html
“Xiêu lòng” với chuyến du lịch Bạc Liêu – “xứ sở tình yêu” - EFLY.vn
https://efly.vn/xieu-long-voi-chuyen...xu-so-tinh-y...
Translate this page
Hành trình của bạn có thể là từ Long An, Bến Tre, và vùng cây trái Tiền Giang thậm chí xuống tận Kiên Giang, Cà Mau,… ... Kinh nghiệm khi đi du lịch tại Bạc Liêu siêu tiết kiệm .... Chính vì thế, Phước Đức cổ miếu Bạc Liêu đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Hiện tại ..
-
Vua Lê Thánh Tông với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài
100% ông đồ không hiểu nghĩa chữ Hán: Khách du Xuân có nên mua chữ?
Bí ẩn về một dòng họ khoa bảng tại Việt Nam
LTS: Ở Việt Nam, kể từ Văn Miếu đầu tiên được xây dựng ở Hà Nội năm 1070 (tháng 8 năm Canh Tuất), các triều đại phong kiến tiếp theo đã cho dựng xây Văn Miếu ở nhiều vùng miền trải dài từ Bắc vào Nam đất nước.
Trong bài viết này, Đại tá Đặng Việt Thủy liệt kê danh sách các Văn Miếu ở Việt Nam giới thiệu cùng bạn đọc. Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả.
Văn Miếu là Miếu thờ Khổng Tử. Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người ấp Tu (Tâu) nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc).
Ông là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Quốc thời Xuân Thu, là người sáng lập ra Nho học, được tôn làm “Văn thánh” và được xếp vào danh sách mười nhà tư tưởng lớn trên thế giới.
Tư tưởng của Khổng Tử ngay từ thời cổ đại đã được truyền bá đến các nước láng giềng của Trung Quốc như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam... Đến thời cận đại, tư tưởng Khổng Tử còn được truyền bá sang các nước châu Âu. Ngày nay, trên thế giới đã hình thành “hành lang văn hóa Khổng Tử”.
Ông trở thành danh nhân văn hóa thế giới. Ở Việt Nam, Văn Miếu được xây dựng ở nhiều nơi trên cả nước.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội)
Tại Kinh thành Thăng Long, Văn Miếu được xây dựng vào năm Canh Tuất (1070) dưới triều vua Lý Thánh Tông, để thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử) cùng 72 người học trò giỏi của Khổng Tử.
Năm Bính Thìn (1076), niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắng thứ nhất, vua Lý Nhân Tông cho xây Quốc Tử Giám sau Văn Miếu. Lúc đầu đây là nơi học của các hoàng tử, về sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi ở trong nước.
Năm Đại Định thứ 17 (1156) đời vua Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử. Cuối thời Trần, các danh Nho của Việt Nam là Chu Văn An và Trương Hán Siêu được thờ ở Văn Miếu.
Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), đời Lê Thánh Tông dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu từ khoa thi 1442 trở đi.
Năm 1762, Cảnh Hưng thứ 23 đời Lê Hiển Tông, sửa lại Quốc Tử Giám; 1785 đổi thành nhà Thái Học.
Năm 1802, Gia Long thứ nhất, ấn định đây là Văn Miếu Hà Nội, cho xây Khuê Văn Các, đổi nhà Thái học là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử.
Phía trước Văn Miếu có hồ lớn gọi Văn Hồ, xưa gọi Thái Hồ, dần bị lấp hẹp lại. Giữa hồ có gò Kim Châu, có lầu ngắm cảnh. Phía ngoài cổng chính của Văn Miếu có 4 cột cổng. Xung quanh xây tường cao bằng gạch mộc. Cổng Văn Miếu xây theo kiểu Tam quan. Trên cổng có 3 chữ Hán “Văn Miếu Môn”.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chia làm 5 khu vực, mỗi khu vực có tường ngăn, có cổng đi lại.
Khu đầu tiên: từ Văn Miếu Môn đến Đại Trung Môn. Bên phải Đại Trung Môn là Thành Đức Môn, bên trái là Đại Tài Môn.
Khu thứ hai: Đại Trung Môn đến Khuê Văn Các. Khuê Văn Các là một gác nhỏ có 8 mái, bốn phía cửa tròn, xung quanh có câu đối. Bên phải tường là Bia Văn Môn, bên trái Súc Văn Môn, dẫn vào 2 khu nhà bia tiến sĩ.
Khu thứ ba: gồm có giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh) là hồ nước lớn, hình vuông, hai bên là nhà bia Tiến sĩ. Hiện số bia chỉ còn lại 82 tấm. Nhiều bia đã bị thất lạc.
Vua Lê Thánh Tông với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài
(GDVN) - Những kẻ bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, điêu toa... thì có học giỏi đến đâu cũng không được dự thi.
Khu thứ tư - Khu chính của Văn Miếu, gồm hai tòa đền: Phía trong thờ Khổng Tử, Tứ Phối... có tượng Khổng Tử, Tứ Phối và bàn thờ bài vị. Tòa ngoài là Bái Đường.
Gian giữa Bái Đường có bức hoành phi với 4 chữ “Vạn Thế Sư Biểu" (tiêu biểu đạo làm thầy muôn đời) do vua Khang Hy (1662-1722) nhà Mãn Thanh tự tay viết tặng sứ thần Việt Nam để cúng tiến vào Văn Miếu.
Trước Bái Đường có sân rộng, phía ngoài là Đại Thành Môn, hai bên tả, hữu là Ngọc Châu Môn và Kim Thành Môn. Hai bên sân Bái Đường là Tả Vu, Hữu Vu. Mỗi dãy 9 gian. Xưa để thờ thất thập nhị hiền (72 học trò của Khổng Tử) và các danh nho Việt Nam: Chu Văn An, Trương Hán Siêu...…
Khu thứ năm là khu đền Khải Thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nay chỉ còn vết tích nền điện. Khu vực này chính là Quốc Tử Giám, hoặc Quốc Tử Viện hay Thái học đường ngày trước, nơi đào tạo các nhân tài của đất nước trước đây trong đó có những nhà kiệt xuất như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm…
Văn Miếu Bắc Ninh
Văn Miếu Bắc Ninh nằm trên đỉnh núi Nài, xã Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, thờ Khổng Thánh và các vị hiền triết của quê hương. Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng từ năm nào hiện nay chưa rõ.
Qua tấm bia “Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký” cho thấy trước bia Văn Miếu nằm ở khu vực Thị Cầu, vì lâu ngày mà hư hỏng.
Năm Thành Thái thứ 5 (1893), quan đầu tỉnh cho di chuyển về núi Phúc Sơn. Khi ấy Đỗ tiên sinh người Đại Mão tên là Trọng Vĩ mưu tính với thân hào trong tỉnh lập bia khắc họ tên, chức tước các vị tiên hiền của đất Kinh Bắc.
Khi chuyển về Phúc Sơn, Văn Miếu có quy mô lớn và sắp xếp mọi vấn đề tế lễ có quy củ, chặt chẽ. Ngoài mấy tòa nhà hiện còn, xưa kia bên trái hậu đường còn có nhà tạo soạn, bên phải là Bi đình, trước Bi đình là nhà Hội đồng trị sự.
Nhà tiền tế dùng làm nơi tế lễ những ngày sóc vọng. Các vị đỗ đại khoa được khắc danh trên bia đá “Kim bảng lương phương” và dựng ở Bi đình.
Các sĩ tử đỗ dưới học vị tiến sĩ (phó bảng, cử nhân, hương cống...) cũng được thống kê tên tuổi nhưng đặt ở Hữu Vu, còn Tả Vu đành ghi danh những người đỗ đạt trong các kỳ thi võ nghệ.
Di vật Văn Miếu Bắc Ninh hiện bị mất mát hoàn toàn, nhân dân chỉ tìm lại được 14 tấm bia lớn nhỏ dựng lại nơi nhà tiền tế. Trong số này có một tấm ghi công đức, 2 tấm bia trùng tu ghi lại quá trình xây dựng và 11 tấm bia ghi danh các vị đỗ đại khoa.
Văn Miếu Bắc Ninh là niềm tự hào về truyền thống hiếu học, trọng đạo lý của người dân Kinh Bắc. Dù bị mất mát không còn nguyên như xưa nhưng tên tuổi và sự nghiệp của các nhà khoa bảng Kinh Bắc sẽ ngát hương, tỏa sáng muôn đời.
Văn Miếu Sơn Tây (Hà Nội)
Văn Miếu Sơn Tây ở làng Mông Phụ, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Thủ đô Hà Nội.
Văn Miếu Sơn Tây xây năm 1892 (năm Thành Thái thứ 4).
Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương)
Mao Điền xưa là trung tâm văn hóa, ngoại giao, chính trị, quân sự và kinh tế của tỉnh Hải Dương.
Từ giữa thế kỷ XV, với chủ trương mở mang việc học hành và đào tạo nho sĩ, quan lại nhà Lê đã cho xây dựng một loạt trường học, trong đó có xây dựng Văn Miếu Mao Điền thuộc tổng Mao Điền, phủ Bình Giang, trấn Hải Dương (nay thuộc thôn Mao Điền, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương).
Năm 1807, tại đây xây Khải Thánh Từ thờ bố mẹ Khổng Tử, Khuê Văn Các, hai nhà giải vũ và hai lầu chuông, khánh đối nhau. Năm Minh Mạng thứ tư (1823), Văn Miếu đã được đại tu và trở thành một công trình văn hóa lớn đồ sộ trên gò đất cao rộng ở xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng.
Văn Miếu Hưng Yên
Văn Miếu Hưng Yên còn gọi là Văn Miếu Xích Đằng, tọa lạc trên khu đất cao, rộng gần 4000 mét vuông thuộc làng Xích Đằng, nay thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Văn Miếu Hưng Yên được khởi dựng từ thế kỷ XVII trên nền chùa làng Xích Đằng, xã Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động xưa (nay thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên).
Văn Miếu được trùng tu tôn tạo nhiều nhất vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mệnh thứ 20 (năm 1839). Văn Miếu Xích Đằng là nơi tôn vinh nền học vấn của người dân Phố Hiến và vẫn giữ nguyên nét cổ kính sau gần 400 năm.
Hiện vật quý giá nhất của Văn Miếu là 9 tấm bia đá có ghi danh các nhà khoa bảng (của hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình) thuộc các triều đại Trần, Mạc, Lê, Nguyễn.
Ngày nay, vào mỗi dịp đầu xuân tại Văn Miếu Xích Đằng diễn ra các sinh hoạt văn hóa như lễ dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù...
Văn Miếu Quảng Yên (Quảng Ninh)
Văn Miếu Quảng Yên ở phía Đông thành Quảng Yên, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Văn Miếu Quảng Yên được xây dựng năm 1805.
Văn Miếu Thái Nguyên
Văn Miếu Thái Nguyên ở phía Bắc thành Thái Nguyên, thuộc đất xã Đồng Lẫm, huyện Phổ Yên cũ, nay là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Văn Miếu Thái Nguyên được xây dựng năm 1843.
Văn Thánh Miếu (Huế)
Văn Thánh Miếu thờ Khổng Tử của triều Nguyễn ở xã Yên Ninh, phía Tây ngoài thành cố đô Huế. Thời chúa Nguyễn Phúc Thuần, miếu đặt ở xã Long Hồ; năm 1808 dời đến xã Yên Ninh, cách chùa Thiên Mụ khoảng nửa cây số.
Tiền đường và chính điện đều 5 gian, chính giữa thờ thần vị Khổng Tử, hai bên là thần vị Tứ Phối. Phía Đông và phía Tây là bàn thờ Thập Nhị Triết. Trước sân là Tả Vu và Hữu Vu, đền 7 gian, thờ 72 tiên hiền và tiên nho.
Thủ khoa Hà Nội mong muốn gì?
(GDVN) - Tối 23/8 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, thành phố Hà Nội tổ chức tuyên dương 98 thủ khoa tốt nghiệp xuất sắc các đại học, học viện trên địa bàn.
Tường phía trước mở 3 cửa: giữa là cửa Đại Thành, bên tả là cửa Kim Thanh, bên hữu là cửa Ngọc Chấn. Thềm trước cửa Đại Thành có 15 bậc; bên tả có Hữu Văn Đường, bên hữu là Dị Lễ Đường.
Phía Nam cửa Văn Thánh Miếu là khu vực dựng bia tiến sĩ triều Nguyễn, gồm 32 tấm ghi tên 293 vị tiến sĩ thi đậu trong các khoa thi từ thời Minh Mạng đến Khải Định.
Trong số những vị tiến sĩ lưu danh ở đây, có những tên tuổi như Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Đinh Văn Chất, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng.
Văn Miếu Trấn Biên (Đồng Nai)
Văn Miếu Trấn Biên ở địa phận thôn Bình Thành và thôn Tân Lại, huyện Phước Chánh (nay là Biên Hòa, Đồng Nai), cách phía tây trấn 2 dặm rưỡi.
Trấn thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Phạm Long, đời vua Lê Hiển Tông năm thứ 25 (1716) đã lựa chỗ đất dựng lên Văn Miếu, phía Nam hướng đến sông Phước, phía Bắc dựa theo thế núi sông thanh tú.
Năm Giáp Dần, đời Trung Hưng (1794), lễ bộ Nguyễn Hồng Đô cho trùng tu, giữa làm Đại Thành Điện và Đại Thành Môn, phía Đông làm Thần Miếu, phía Tây làm Dục Thành Từ, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kinh Thanh, phía hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn Các và treo trống chuông. Phía tả còn có Sùng Văn đường, phía hữu có Duy Lễ Đường.
Năm Tự Đức thứ 5 (1852), Văn Miếu Trấn Biên được tu bổ, chính đường và tiền đường đều 5 gian và dựng thêm Tả Vu, Hữu Vu, mỗi dãy 5 gian.
Đền Khải Thánh chính đường và tiền đường đều 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian, một tòa kho đồ thờ 3 gian, một tòa Khuê Văn Các hai tầng ba gian hai chái, phía trước đặt tấm biển “Đại Thành Điện” đổi thành “Văn Miếu Điện”, Khải Thành Điện đổi thành “Khải Thành Từ”.
Năm 1861, khi chiếm được Biên Hòa, quân Pháp đã đốt phá Văn Miếu Trấn Biên.
Nhân kỷ niệm 300 năm Biên Hòa - Đồng Nai, Ủy ban nhân dân Đồng Nai đã giao cho Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa gấp rút tái tạo lại Văn Miếu Trấn Biên, nhằm phục hồi một truyền thống coi trọng đạo lý văn chương mà tiền nhân đã để lại.
Văn Thánh Miếu (Đồng Tháp)
Văn Thánh Miếu là công trình văn hóa thờ Khổng Tử, được xây dựng năm 1857 tại thôn Mỹ Trà, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay thuộc phường 3, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) do ông Hồ Trọng Đính, quan tri phủ huyện Kiến Tường đứng ra xây cất.
Chính điện đặt bàn thờ, bài vị Đức Khổng Tử (Vạn Thế Sư Biểu); tả hữu là bài vị của Tứ Thánh (Tăng Tử, Nhan Tử, Tư Tử và Mạnh Tử), còn bên Tả Vu, Hữu Vu thờ Tiền hiền và Hậu hiền.
Năm 1878, Văn Thánh Miếu được dời đến vị trí hiện nay (đường Lý Thường Kiệt, phường 1, thành phố Cao Lãnh). Văn Thánh Miếu được trùng tu vào năm 1935 đến 1940, việc thờ phụng được sắp xếp lại.
Trong chính điện tả vu được làm thư viện, hữu vu làm nơi hội họp, luận bàn đạo lý phương Đông.
Ngày nay di tích lịch sử Văn Thánh Miếu được chọn làm thư viện tỉnh.
Văn Thánh Miếu (Vĩnh Long)
Trước kia tại miền Nam, việc thành lập các tỉnh chưa hoàn tất dưới triều Nguyễn, quân Pháp lại kéo sang, do đó dân ta chưa kịp xây dựng Khổng Miếu ở các nơi.
Dưới thời Tự Đức, toàn miền chỉ có một Văn Thánh Miếu tại Bình Dương. Năm 1863, khi giặc Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, Phan Thanh Giản mới xây dựng một Văn Thánh Miếu khác tại địa phận xã Long Hồ thuộc Vĩnh Long.
Văn Thánh Miếu gồm chánh điện thờ Khổng Tử, hai bên có Tả Ban và Hữu Ban thờ Tứ Phối và Thập Triết. Hai miếu nhỏ hai bên là Tả Vu và Hữu Vu thờ Thất Thập Nhị Hiền. Đằng trước Văn Thánh Miếu mé bên trái có Văn Xương Các. Đây là một ngôi đền có lầu, trên thờ đức Văn Xương Đế Quân, phía dưới thờ Phan Thanh Giản.
Văn Miếu được xây dựng ở các nơi trên đất nước Việt Nam là những di tích văn hóa, lịch sử, giáo dục vô cùng quý giá, nó thể hiện truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, coi trọng hiền tài, một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc ta.
Tài liệu tham khảo:
- "Việt Nam - đất cũ, người xưa", NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2011, trang 236-243.
- "Di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở Việt Nam", NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội - 2013, trang 9-13, trang 337-338...
- "Từ điển Di tích văn hóa Việt Nam", NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội - 2007.
Đại tá Đặng Việt Thủy
http://giaoduc.net.vn/Van-hoa/Kham-p...-post167281.gd
=====================
Văn miếu Khánh Hòa
This entry was posted on Tháng Ba 1, 2017, in Lịch sử Việt Nam and tagged khánh hòa, Nguyễn Văn Nghệ, Văn miếu. Bookmark the permalink. Bạn nghĩ gì về bài viết này?
hinh2-vm
Văn miếu Diên Khánh
Nguyễn Văn Nghệ
Đi tìm dấu tích Văn miếu dinh Bình Khang
Có người đặt câu hỏi: Dưới thời các chúa Nguyễn,vùng đất dinh Bình Khang( sau đổi thành dinh Bình Hòa, trấn Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa đã có xây dựng Văn miếu để thờ tự Đức Khổng tử và các bậc tiên hiền,tiên nho chưa? Trả lời câu hỏi trên,các bậc cố lão cũng chỉ căn cứ vào sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn và bảo là chưa có. Ngoài ra các bậc cố lão còn cho biết thêm là dưới thời các chúa Nguyễn, ở Đàng Trong chỉ có Phú Xuân(Huế), Trấn Biên( Biên Hòa) và Quảng Nam có Văn miếu mà thôi. (1)
Nhưng khi đọc sách Đại Nam thực lục tôi lại thấy ghi vào tháng 10 năm Quý Sửu(1793) Nguyễn vương (Phúc Ánh) “đặt 25 miếu phu cho Văn miếu Bình Khang” (2)
Qua chi tiết trên cho ta biết là dưới thời các chúa Nguyễn vùng đất dinh Bình Khang(nay là tỉnh Khánh Hòa) đã có Văn miếu rồi chứ không phải đợi đến thời vua Gia Long mới xây dựng.
Vấn đề được đặt ra là Văn miếu Bình Khang được xây dựng tại địa điểm nào và vào năm nào?
Nghi vấn được đặt ra trước tiên là Văn miếu Bình Khang phải được xây dựng gần lỵ sở của dinh Bình Khang. Lỵ sở của dinh Bình Khang trước năm 1802 đóng tại xã Phước Đa, huyện Quảng Phước (nay thuộc Trung tâm Thị xã Ninh Hòa, bên bờ bắc sông Dinh) (3).Ngoài sách Đại Nam nhất thống chí, tôi tìm đọc Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định soạn. Đây là cuốn địa chí có thể xem là xưa nhất dưới triều Nguyễn. Sách được soạn xong và dâng lên vua vào tháng 11 năm Bính Dần(1806) (4). Gần đây sách được xuất bản nhưng chỉ có phần dịch nghĩa và nguyên văn chữ Hán, không có phiên âm. Trong phần Trạm Hòa Mỹ xin phiên âm: “ nhị thập tầm chí Toàn Thạnh cựu dịch (5), lưỡng bàng khô thổ, hữu cư dân trù mật, tây biên bát thập tầm, tiền triều ký lục dinh tại thử, nhất bách cửu thập tầm chí cựu Văn Thánh miếu, kim miếu di kiến tại Diên Khánh thành phụng sự” (hai mươi tầm đến trạm Toàn Thạnh cũ, hai bên đất khô, dân cư rất trù mật, qua hướng tây 80 tầm là nơi lỵ sở dinh ký lục của tiền triều, đi 191 tầm đến miếu Văn Thánh cũ, nay miếu này được di chuyển đến thờ tại thành Diên Khánh) (6).
Về phía tây của lỵ sở dinh Bình Khang xưa là xã Phước An (sau đổi thành Phước Lý, nay thuộc xã Ninh Bình) có Văn chỉ huyện Tân Định (sau đổi thành Văn chỉ Ninh Hòa) được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 4 (1844).Lần theo dấu vết tôi tìm đến thăm Văn chỉ Ninh Hòa và được Ban Quản lý Văn chỉ Ninh Hòa tặng cho tập sách Tìm hiểu Khổng miếu Ninh Hòa ,trong đó có bài viết Văn miếu ở Ninh Hòa có phiên âm và dịch thoát tờ giấy đất của Văn chỉ Ninh Hòa: “…Sự duyên bổn xã địa phận gò Miếu xứ nhất khoảnh nội hữu hoang nhàn nhất sở, đông cận…,tây cận…Cựu hữu Văn miếu thiết lập tại thử thượng. Thượng niên phụng dị, miếu vũ hồi tỉnh sùng tự; kỳ gò Miếu xứ lưu vi hoang nhàn. Tư, bổn huyện, cử nhân ,tú tài, thừa tỉnh chương trùng tu miếu vũ tại gò Miếu cựu chỉ… Tư cung tờ.
“ Thiệu Trị tứ niên, bát nguyệt ,sơ ngũ nhật” (Lý trưởng Mai Văn Bửu ký, áp triện).
Xin dịch thoát:
“…Nguyên vùng gò Miếu thuộc địa phận làng chúng tôi, trong đó có một khoảnh đất bỏ hoang, đông giáp…,tây giáp…Trước đã có Văn miếu thiết lập trên đất ấy. Đầu năm nay, thể theo sự ngưỡng vọng, coi xét lại miếu vũ để thờ cúng cho trang nghiêm, mà gò Miếu vẫn bỏ hoang.Nay các vị cử nhân, tú tài của huyện ta, vâng theo công văn tỉnh trùng tu lại ngôi miếu trên nền cũ tại gò Miếu… Nay làm giấy để cung cấp” (7).Giấy đất này làm vào ngày mùng 5, tháng 8 ,năm Thiệu Trị thứ 4 (1844).
Điểm đáng lưu ý trong tờ giấy đất ấy là : “ Cựu hữu Văn miếu thiết lập tại thử thượng” (Trước đã có Văn miếu thiết lập trên đất ấy). Vậy có thể là Văn miếu dinh Bình Khang chăng? Để chắc chắn tôi xin được xem nguyên bản bằng chữ Hán tờ giấy đất ấy và Ban Quản lý Văn chỉ Ninh Hòa đã vui vẻ cho xem, ngoài ra còn tặng tôi một bản photocopy để nghiên cứu. Sau khi nghiên cứu tờ giấy đất bằng chữ Hán ấy, tôi nhận thấy trong khi phiên âm từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ, người phiên âm và dịch nghĩa đã ngắt câu sai, dẫn đến là khi dịch nghĩa sai theo. Tác giả bài viết đã ngắt câu như sau: “Cựu hữu Văn miếu thiết lập tại thử thượng/ Thượng niên phụng dị, miếu vũ hồi tỉnh sùng tự” (Trước đã có Văn miếu thiết lập trên đất ấy. Đầu năm nay, thể theo sự ngưỡng vọng, coi xét lại miếu vũ để thờ cúng cho trang nghiêm). Ngắt câu đúng sẽ như sau: “Cựu hữu Văn miếu thiết lập tại thử/ Thượng thượng niên phụng di miếu vũ hồi tỉnh sùng tự” (Xưa có Văn miếu thiết lập tại đây. Năm xưa di dời Văn miếu về tỉnh thờ tự). Cụm từ “thượng thượng niên” dùng để chỉ về quá khứ, về năm xa xưa. Với chi tiết : “Cựu hữu Văn miếu thiết lập tại thử. Thượng thượng niên phụng di miếu vũ hồi tỉnh sùng tự” rất là khớp với Hoàng Việt nhất thống dư địa chí: “Cựu Văn Thánh miếu, kim miếu di kiến tại Diên Khánh thành phụng sự”. Như vậy chúng ta xác định được địa điểm xây dựng Văn miếu dinh Bình Khang.
Hiện nay du khách đi trên Quốc lộ 26 (trước gọi là Quốc lộ 21) từ Ninh Hòa đi Buôn Ma Thuột, sau khi băng qua khỏi đường xe lửa khoảng vài trăm mét nhìn về vùng ruộng phía Nam sẽ thấy mặt sau của Văn chỉ Ninh Hòa. Văn chỉ Ninh Hòa hiện nay được xây dựng trên nền cũ của Văn miếu dinh Bình Khang.
Vấn đề còn lại là xác định mốc thời gian xây dựng Văn miếu dinh Bình Khang. Đây là một vấn đề nan giải, vì trong sách Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn không thấy ghi chi tiết này!
Cũng theo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí trong phần ghi chép về Trạm Hòa Mỹ, xin phiên âm: “Tam thập nhị tầm chí cựu Trù Thành tự, tiền triều Cai bạ Cẩm Long hầu sở lập, tiền diện hữu thạch hôi tường nhất bức, chí Bính Thìn niên triệt thử tường, thủ chuyên doanh trúc Văn Thánh miếu, kim tự hủ tệ” (Ba mươi hai tầm đến chùa Trù Thành cũ, chùa do Cai bạ Cẩm Long hầu lập nên từ thời tiền triều, mặt trước có bức tường đá vôi, đến năm Bính Thìn (1796) lệnh phá bức tường này lấy đá xây Văn miếu, nay chùa ấy đã hư hỏng” (8)
Trong bản dịch, dịch giả lại chua năm Bính Thìn là năm 1796. Ấy là do dịch giả suy luận một cách võ đoán mà thôi. Vì vào năm 1793 Nguyễn vương(Phúc Ánh) đã “đặt 25 miếu phu cho Văn miếu Bình Khang” rồi! Vậy, Văn miếu dinh Bình Khang phải được xây dựng vào những năm Bính Thìn trước đó.
Người Việt đến định cư tại vùng đất hiện nay gọi là Khánh Hòa vào năm Quý Tỵ(1653). Từ năm Quý Tỵ(1653) đến năm Bính Thìn(1796) có hai năm Bính Thìn là năm Bính Thìn (1676) và Bính Thìn (1736).
Theo phương pháp loại suy, ta có thể loại bỏ năm Bính Thìn (1676), vì năm này chỉ cách thời điểm người Việt bắt đầu đến định cư ở vùng đất mới chỉ có 23 năm mà thôi, cho nên chưa thể xây dựng Văn miếu được. Vả lại đá để xây dựng Văn miếu được lấy từ một bức tường của chùa Trù Thành được Cai bạ Cẩm Long hầu cho xây dựng trước đó. Vậy chỉ còn lại năm Bính Thìn (1736) mà thôi. Năm Bính Thìn (1736) chính là năm xây dựng Văn miếu dinh Bình Khang.
Văn miếu dinh Bình Khang được di kiến từ xã Phước An, huyện Tân Định vào xã Phú Lộc, huyện Hoa Châu
Năm 1802, sau khi thống nhất đất nước , vua Gia Long cho dời lỵ sở dinh Bình Khang từ xã Phước Đa, huyện Quảng Phước vào đóng tại thành Diên Khánh.
Tháng giêng nhuận năm Quý Hợi (1803) vua Gia Long “sai các dinh trấn đều lập nhà Văn miếu, mỗi miếu đặt 2 người điển hiệu, lễ sinh và miếu phu đều 30 người” (9)
Tháng 3 năm Quý Hợi (1803) vua Gia Long đổi dinh Bình Khang thành dinh Bình Hòa (10). Văn miếu dinh Bình Khang được đổi thành Văn miếu dinh Bình Hòa.
Đại Nam nhất thống chí soạn dưới thời vua Duy Tân đã viết về Văn miếu Khánh Hòa: “ Ở xã Phú Lộc, phía tây bắc tỉnh thành, dựng năm Gia Long thứ 2 (1803), trùng tu năm Tự Đức thứ 2 (1849)” (11).
Vua Gia Long cho “di kiến” Văn miếu dinh Bình Khang từ xã Phước An, huyện Tân Định vào địa điểm mới là xã Phú Lộc, huyện Hoa Châu (sau năm 1832, huyện Hoa Châu được sáp nhập vào chung với huyện Phước Điền)
Tháng 7 năm Mậu Thìn (1808) đổi dinh Bình Hòa thành trấn Bình Hòa (12), Văn miếu cũng được đổi thành Văn miếu trấn Bình Hòa. Năm 1832 trấn Bình Hòa được đổi thành tỉnh Khánh Hòa (13) và Văn miếu cũng được đổi thành Văn miếu tỉnh Khánh Hòa.
Trong tác phẩm Xứ Trầm Hương, cụ Quách Tấn đã viết về Văn miếu Khánh Hòa: “ Xây cất năm Gia Long thứ hai (1803). Trước kia ở phía trên nổng gò tục gọi Hòn Tháp. Sau bị lụt sông Cái lở vào tận chân miếu, nên phải dời miếu xuống hướng Đông. Đó là vào năm Tự Đức thứ hai (1849)” (14)
Bài viết Văn miếu Diên Khánh của nhà nghiên cứu Nguyễn Man Nhiên đăng trên trang ninhhoatoday.net ở mục “Sưu tầm biên khảo” có đề cập đến Văn miếu trấn Bình Hòa: “Theo ký ức các vị bô lão ở địa phương, văn miếu trấn Bình Hòa xưa xây dựng tại chân núi Hòn Tháp, ở đầu làng Phú Lộc về phía tây nam, gần bờ sông Cái. Lúc mới lập có miếu chính và miếu Khải Thánh, lợp cỏ tranh.
“ Do nơi đây gần bờ sông, mùa mưa nước lũ xâm thực, đất bị sạt lở vào tận chân miếu, nên đến năm Tự Đức thứ 2 (1849) địa phương di dời Văn miếu đến chỗ mới cách địa điểm cũ khoảng 1.000 mét về hướng đông. Lần này miếu được tu bổ và dựng thêm Tả vu, Hữu vu”
Theo Nhà nghiên cứu Ngô Văn Ban viết về việc di dời Văn miếu Bình Khang về Diên Khánh: “ …xây dựng ở Phú Lộc( nay thuộc thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh) vào năm Gia Long thứ 2(1803), đó là Văn miếu Bình Hòa. Ban đầu Văn miếu tỉnh được xây dựng ở khu vực Hòn Tháp, nhưng do nước sông Cái Nha Trang thường làm xói lở nên đến năm 1849 (đời vua Tự Đức năm thứ 2), dời xuống phía đông, ngay nơi Văn miếu Diên Khánh hiện nay” (15)
Riêng nhà nghiên cứu Nguyễn Man Nhiên thì dựa vào “ký ức các vị bô lão địa phương”, còn nhà nghiên cứu Quách Tấn và Ngô Văn Ban không biết dựa vào tài liệu nào mà lại khẳng định Văn miếu dời vào vùng đất Diên Khánh được xây dựng đầu tiên lại Hòn Tháp và đến năm 1849 dời xuống địa điểm mà hiện nay là Văn miếu Diên Khánh?
Trước tiên ta xét Hòn Tháp là đất thuộc xã Đại An (sau đổi thành xã Đại Điền, và sau đó phân thành tứ thôn và Hòn Tháp thuộc thôn Đại Điền Tây), chứ không phải thuộc xã Phú Lộc. Hòn Tháp thuộc phía tây của xã Phú Lộc và thành Diên Khánh. Đại Nam nhất thống chí soạn thời vua Tự Đức ghi chép về Văn miếu Khánh Hòa: “Ở phía tây bắc ngoài tỉnh thành, thuộc địa phận xã Phú Lộc” (16)
Sau khi di kiến từ xã Phước An, huyện Tân Định thì dựng ngay tại đất xã Phú Lộc, chứ không hề xây dựng ở khu vực Hòn Tháp nào cả! Theo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định soạn xong năm 1806 viết về Văn miếu tại xã Phú Lộc: “ Chí đại giang, giang bắc thuộc Hoa Châu huyện, phụ lũy Phú Lộc xã địa phận, tự bắc nhi thượng, cửu bách lục thập ngũ tầm, hữu tân kiến Văn Thánh miếu tam tòa, hôi tường, mao cái, lễ sanh tam thập tam nhân, phụ lũy dân tam thập nhân, tự thừa nhất nhân” (Đến sông lớn[sông Phú Lộc, nơi có cầu Hoa Bông, nay là cầu Thành- TG],phía bắc sông là xã Phụ lũy Phú Lộc thuộc huyện Hoa Châu. Từ phía bắc đi lên 965 tầm có 3 tòa miếu Văn Thánh mới lập, tường vôi mái tranh, lệ cắt cử lễ sanh 33 người và dân phụ lũy 30 người, từ phu 1 người) (17)
Từ cầu Hoa Bông (nay là cầu Thành) lên đến Văn Thánh miếu là 965 tầm (mỗi tầm tương đương 2,12m) . Như vậy chiều dài quy ra mét là 2.045m. Đó là đường đi quanh co thời ấy, hiện nay từ cầu Thành lên đến địa điểm có Văn miếu Khánh Hòa trước đây khoảng 1500m .
Theo Địa bạ Gia Long năm 1811 khu vực đất có Văn Thánh miếu trên địa phận xã phụ lũy Phú Lộc là 3 mẫu, 4 sào( 1 khoảnh) (18).
Như vậy thông tin cho rằng Văn miếu Khánh Hòa dựng lúc đầu vào năm 1803 tại địa điểm Hòn Tháp và đến năm 1849 cho di dời về phía đông là hoàn toàn sai lạc không có căn cứ.
Chúng ta cũng cần phân biệt là miếu được di dời từ địa điểm A sang địa điểm B gọi là “di kiến”, còn ở tại vị trí cũ được sửa sang lại gọi là “trùng tu” hoặc “tu bổ”.
Đầu năm 1948 theo lệnh “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh, Văn miếu Khánh Hòa bị đốt cháy hoàn toàn, nhưng may thay chiếc đại hồng chung không để trong Văn miếu nên thoát khỏi biển lửa và hiện nay Văn miếu Diên Khánh đang kế thừa đại hồng chung ấy (trên thân đại hồng chung không có khắc chữ nào cả nên không thể biết niên đại của nó).
Từ năm 1948 đến năm 1959, diện tích 3 mẫu 4 sào đất của Văn miếu Khánh Hòa trở thành công thổ của làng Phú Lộc, nền Văn miếu Khánh Hòa trở nên hoang vu, một số hộ dân Công giáo xung quanh đã đến đống gạch đổ nát ấy để thu nhặt những viên gạch vồ còn nguyên vẹn đem về sử dụng.
Ngoài ra trong tác phẩm Xứ Trầm hương cho độc giả biết về Văn miếu Khánh Hòa: “Hiện nay miếu chỉ còn là một ngôi nhà ngói ba gian hai chái, trung trung, và cũ kỹ” (19). Xin khẳng định là sau năm 1948 Văn miếu Khánh Hòa tại làng Phú Lộc chỉ là một đống hoang tàn. Những điều mà cụ Quách Tấn mô tả ở trên, đó là những cơ sở của Văn miếu Diên Khánh được di dời từ địa điểm ở Gò Sòng thuộc làng Phước Tuy (xã Diên Phước) về cất trên nền bỏ hoang của Văn miếu Khánh Hòa tại làng Phú Lộc (xã Diên Thủy)vào năm 1959.
Văn miếu Khánh Hòa thời hiện đại
Năm 1958 Tỉnh Hội Khổng Học Khánh Hòa được thành lập và do Văn miếu tỉnh Khánh Hòa bị thiêu hủy vào năm 1948 nên chưa có nơi để Tỉnh hội tổ chức tế tự, hàng năm việc cử hành lễ Thánh đản(ngày 27/08 âm lịch là ngày sinh Đức Khổng tử), Tỉnh hội phải nhờ địa điểm Văn chỉ Vĩnh Xương (thôn Phương Sài, xã Nha Trang Tây, nay là 123 đường Phương Sài, phường Phương Sơn, Nha Trang).
Ngày 23.10.1963 Thiếu tá Tỉnh trưởng Khánh Hòa là Lê Tập cấp giấy phép cho Tỉnh hội Khổng học Khánh Hòa làm sở hữu chủ một khu đất với diện tích 1980 mét vuông tại thôn Phước Hải (nay ở số 30 đường Lê Hồng Phong).
Ngày 19.08.1964 Thiếu tá Tỉnh trưởng Khánh Hòa là Nguyễn Thọ Lộc cấp giấy phép xây dựng Văn miếu tỉnh Khánh Hòa. Ngày 31.08.1964 lễ mở móng khởi công xây dựng Văn miếu tỉnh Khánh Hòa và đến tháng 07.1965 công việc xây cất được hoàn tất (20). Từ đây Văn miếu tỉnh Khánh Hòa trở thành nơi cúng tế và sinh hoạt của Tỉnh hội Khổng học Khánh Hòa. Việc cúng tế và sinh hoạt của Văn miếu Khánh Hòa kéo dài đến ngày 02.04.1975 thì chấm dứt. Văn miếu tỉnh Khánh Hòa được chính quyền cộng sản dùng làm Trụ sở Ủy ban Phường Phước Hải. Hiện nay đi ngang qua Ủy ban Phường Phước Hải số 30 đường Lê Hồng Phong ta sẽ thấy những họa tiết trang trí trên nóc mái Văn miếu tỉnh Khánh Hòa vẫn còn lưu giữ tới hôm nay.
Những đồ từ khí ở Văn miếu tỉnh Khánh Hòa đi về đâu?
Sau ngày 02.04.1975 chế độ cộng sản tự động tịch thu Văn miếu tỉnh Khánh Hòa ở đường Lữ Gia (nay là Lê Hồng Phong), tất cả đồ từ khí trong Văn miếu tỉnh Khánh Hòa vẫn giữ y nguyên. Sau khi biến Văn miếu tỉnh Khánh Hòa thành Trụ sở Ủy ban phường Phước Hải thì không biết những đồ từ khí ấy lưu lạc về đâu?
Trung tuần tháng 10.2014 tôi đi tham quan đình Phước Hải, kế cận bên tay phải của đình Phước Hải là miếu Bà Thiên Y. Trong miếu Bà Thiên Y có một cái đại hồng chung, tôi đến bên để quan sát và thấy trên 4 ô hình chữ nhật trên cùng của thân đại hồng chung có khắc sâu vào 4 đại tự bằng chữ Hán: KHỔNG HỌC TỈNH HỘI và một ô chính giữa thân đại hồng chung có khắc 4 chữ Hán nhỏ hơn cũng cùng nét chữ như bốn chữ “ Khổng học Tỉnh hội” : ĐINH VỊ (MÙI) THU TẠO . (Tạo vào mùa thu năm Đinh Mùi). Như vậy chúng ta có thể khẳng định, đại hồng chung này được Văn miếu Khánh Hòa làm sở hữu chủ vào năm 1967 sau khi Văn miếu xây cất xong. Đại hồng chung này không phải của Văn miếu đặt đúc mà mua lại của cơ sở đúc chuông, bởi vì trên vòng thân đại hồng chung có đúc nổi các chữ : Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyển.
Tôi hỏi ông từ giữ đình : Đại hồng chung của Văn miếu Khánh Hòa ở đường Lữ Gia sao lại ở miếu Bà Thiên Y vậy? Ông từ đình cũng là dân sinh sống lâu đời ở phường Phước Hải vui vẻ trả lời: Cách nay khoảng 10 năm, ông Nguyên lúc ấy làm Chủ tịch phường Phước Hải đem cái đại hồng chung này tặng cho miếu Bà Thiên Y làng Phước Hải. Hiện nay ông Nguyên làm Bí thư phường Phước Hải.
Đại hồng chung của Văn miếu tỉnh Khánh Hòa đang lưu lạc tại miếu Bà Thiên Y làng Phước Hải, còn những đồ từ khí khác thì hiện đang lưu lạc về phương trời nào? Ngẫm mà đau xót!
Văn miếu tỉnh Khánh Hòa giống như con chim đầu đàn, mà con chim đầu đàn đã mất thì mọi sinh hoạt về Nho học trong tỉnh bị tàn lụi như Văn chỉ Vĩnh Xương, hoặc hoạt động một cách tự phát như Văn miếu Diên Khánh, Văn chỉ Ninh Hòa mà không được sự chỉ đạo của chính quyền tỉnh.
Chú thích:
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, tập 1 , trang 25; tập 2, trang 384; tập 5, trang 74.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 1, Nxb Giáo dục,trang 300.
Đại Nam nhất thống chí tập 3, Sđd, trang 93.
Đại Nam thực lục tập 1, Sđd, trang 684.
Trạm cũ Toàn Thạnh tọa lạc tại xã Toàn Thạnh( sau đổi thành xa Mỹ Hiệp. Gần khu vực ga xe lửa Ninh Hòa hiện nay.
Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (Phan Đăng dịch và chú giải), Nxb Thuận Hóa. Phần chữ Hán trang 1681(9b); Phần dịch nghĩa trang 48.
Ban Quản lý Văn chỉ Ninh Hòa, Tìm hiểu Khổng miếu Ninh Hòa, Tập san lưu hành nội bộ số 1, 2003, trang 54.
Lê Quang Định, Sđd. Phần chữ Hán trang 1681(9b); Phần dịch nghĩa trang 48.
Đại Nam thực lục tập 1, Sđd,trang 546.
Đại Nam thực lục tập 1, Sđd , trang 552.
Đại Nam nhất thống chí Quyển 10&11 Tỉnh Phú Yên&Khánh Hòa. Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, 1964,trang 95.
Đại Nam thực lục tập 1,Sđd, trang 733.
Đại Nam thực lục tập 3, Sđd trang
Quách Tấn, Xứ Trầm Hương, Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa, trang 229.
Ngô Văn Ban,Lịch sử- Văn hóa Khánh Hòa những ghi chép,Nxb Đà Nẵng, trang 212.
Đại Nam nhất thống chí tập 3, Sđd, trang 117.
Lê Quang Định ,Sđd, Phần chữ Hán trang 1673(13b); Phần dịch nghĩa trang 51-52.
Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn- Khánh Hòa, Nxb TP.HCM, 1997, trang 210.
Quách Tấn, Sđd, trang 229
Xem tập sách Kỷ niệm khánh thành Văn miếu Khánh Hòa mùa hè 1967
https://nghiencuulichsu.com/2017/03/...ieu-khanh-hoa/
-
Tục thờ thần bản gia
12-02-2011
TÍN NGƯỠNG TRONG GIA ĐÌNH
Tục thờ thần bản gia
Người dân Vĩnh Long có tục thờ các vị gia thần. Đó là nhữn vị thần phù hộ chung cho tất cả các thành viên trong gia đình. Những tập tục xuất phát từ Nho giáo hoặc Đạo giáo.
+ Theo lễ Ký (Nho giáo), mỗi nhà có 5 vị thần phải thờ, gọi là thần Ngũ tự :
- Táo thần : thần Bếp
- Hộ thần : thần Nhà
- Môn thần : thần Cửa
- Tĩnh thần : thần Giếng
- Trung lưu thần : thần gian nhà giữa
Thần Bếp (Táo thần hay Táo quân) là “nhất gia chi chủ”, đứng đầu thần Ngũ tự nên thờ thần Bếp là thờ tất cả tập thể các vị thần còn lại. Hơn nữa, Vĩnh Long là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nên các vị thần tiêu biểu cho Nước nơi khắc nghiệt như Thủy long Thần nữ, Thủy mẫu Nương nương (hai dạng thần Giếng) không được tôn thờ. Người Hoa ở Vĩnh Long cũng thờ Táo quân như người Việt nhưng bên cạnh, họ còn thờ Môn thần.
Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân trở về trời tấu trình
Do kết quả của giao lưu văn hóa, ở Vĩnh Long có hai quan niệm Táo quân. Một dạng thần Bếp gọi là Phật Táo hay thần Táo, là vị thần thay mặt Thượng đế coi việc lành dữ của thế gian. Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp thì trở về trời tấu trình. Theo tranh thờ của dân gian tưởng tượng thì Phật Táo là một vị quan cấp thấp, mình mặc áo bào, mặt đen, đầu đội mão cánh chuồn. Hai bên Táo quân có Dã Xoa và Thư Lại đứng hầu. Dân gian địa phương còn xem Táo quân là vị thần phù hộ trẻ con, đe dọa ma quỷ. Người Hoa xem Táo quân là vị thần nhưng sinh tiền là người thọc mách đáng ghét. Do đó, có người không thiện cảm việc ông ta về trời tấu trình báo cáo. Trong khi người Việt xem Táo quân là vị thần “vô tư” như câu đối thờ ông :
Hữu đức năng ty hỏa
Vô tư khả đat thiên.
(Hữu đức nên coi lửa
Vô tư khá về trời).
Táo quân là vị thần đại diện Thượng đế nên được thờ trên trang cao, ở nhà trước. Các nhà cổ ở Vĩnh Long có ba gian : bàn thờ tổ tiên đặt hai gian bên, còn gian giữa có trang cao thờ Quan thánh Đế quân (Quan Công), Phước Đức Chánh thần (ông Địa) và Định Phước Táo quân (ông Táo).
Song song với quan niệm trên còn có quan niệm Táo quân là thần Bếp, thần Lửa, có một bà hai ông. Theo Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí, một bà ngồi giữa hai ông, tức là một vạch âm nằm giữa hai vạch dương, hay quẻ Ly, biểu tượng của lửa, bếp núc. Theo quan niệm này thì Táo quân suốt năm ở với thế gian lo việc củi lửa, ăn uống, không về trời. Ông Táo này được thờ ngay trên cửa lò. Có khi chỉ cần cắm nhang vào mỗi chiều tối, không cần bài vị thờ tự trang trọng.
Hăm ba Táo Phật về trời
Táo Bếp ở lại đội nồi cả năm.
(Câu hát trẻ con)
Nhiều gia đình ở Vĩnh Long thờ đủ hai dạng Táo quân, ở hai nơi. Cũng có gia đình thờ Táo quân ở nhà trên, cũng có gia đình thờ Táo quân ở lò nhà bếp nhưng vẫn theo tục đưa rước ông Táo.
+ Bên cạnh tục thờ bếp, người Vĩnh Long còn thờ 5 vị thần Đất, tức Ngũ thổ Long thần, hoặc 5 vị thần Long mạch theo quan niệm phong thủy của Đạo giáo. Ngũ thổ Long thần thường được thờ chung với thần Tài, gọi là Tụ bửu đường.
Bài vị viết :
Ngũ phương Ngũ thổ Long thần
Tiền hậu địa chủ Tài thần.
Hai bên có câu đối :
Kim chi sơ phát diệp
Ngân thọ chánh khai hoa.
(Cành vàng vừa gẫy lá
Cây bạc đã đơm hoa).
Năm vị thần Đất là :
1/ Thổ công
Thần Đất khu vực nền nhà, vị thần đứng đầu 5 vị Long thần. Ở Vĩnh Long chỉ thấy thờ Thổ công ở đình. Còn tại tư gia, vì 5 vị Long thần thờ chung với thần Tài nên người ta cứ tưởng đó là thần Tài. Không ai biết mình đã thờ Thổ công. Cũng chẳng ai quan niệm Thổ công là Táo quân như miền Bắc.
2/ Thổ địa
Thần Đất khu vực cửa cái, làm chức năng tiếp dẫn viên cho chủ nhà. Người Hoa thường thờ Thổ địa tại cửa cái. Bài vị viết : “Môn khẩu Thổ địa tiếp dẫn Tài thần”. Riêng đối với người Việt, Thổ địa thường được tưởng tượng là một anh nông dân mập mạp, vui vẻ, tính tình dễ dãi, lúc nào cũng ngậm một điếu thuốc vấn và phe phẩy chiếc quạt mo.
Trước kia, Thổ địa được xem là gia thần của các nữ thần như Thất thánh Nương nương, Ngũ hành Nương nương… nên gọi là Linh quan Thổ địa. Ở tư gia không mấy người thờ vị thần này. Nhưng từ khi kinh tế thị trường phát triển, người dân Vĩnh Long thờ Thổ địa chung với thần Tài với ý niệm đất đai sinh sản vật tài lộc. Còn hình tượng thần Tài chính là hình tượng Phước Đức Chánh thần, tức Thổ địa của người Hoa. Tượng Thổ địa và thần Tài được thờ chung với bài vị cổ truyền như đã biết.
Tục thờ Thổ địa và thần Tài phổ biến từ thị xã đến nông thôn. Bà con người Hoa vẫn thờ Thổ địa theo tục lệ của họ nhưng cũng bắt chước tục thờ phượng của ta. Đặc biệt có một vài gia đình Thiên chúa làm nghề mua bán cũng thờ Thổ địavàthần Tài như bên lương.
3/ Thổ thần
Thổ thần hay Thổ chủ là thần Đất khu gia cư, vườn tược. Từ xưa, tục thờ Thổ thần đã phát triển ở Vĩnh Long. Bất cứ góc vườn, góc phố nào cũng có những ngôi miếu con thờ Thổ thần mà người địa phương gọi là Thủ chủ (gọi trại từ Thổ chủ).
4/ Thổ kỳ
Thổ kỳ hay Địa kỳ là thần toàn cõi trái đất. Trược sân nhà, người dân Vĩnh Long thường có bàn thờ “thông thiên”. Đây là cây trụ, giống như đàn Nam giao, có hai tầng : tầng trên thờ Thiên hoàng, tầng dưới thờ Địa kỳ (hay Thổ kỳ).
Người Hoa cũng có tục thờ Trời Đất như người Việt. Họ gọi là Hoàng thiên – Hậu phổ hay Thiên phụ – Địa mẫu.
5/ Thổ phủ
Thổ phủ là thần Đất khu vực chợ búa. Ở vùng thị tứ, thấy danh hiệu Thổ phủ được phối hưởng trong lễ Kỳ yên, hoặc được phối hưởng trong lễ Khai thị, lễ Chạp chợ.
5 vị thần vừa kể thuộc thần Đất đai nên được thờ trên mặt đất. Trường hợp Thổ thần được thờ trong miếu làm theo kiểu nhà sàn nhưng bàn thờ cũng đặt trên nền sàn. Theo tục lệ, thần Tài được thờ chung với Ngũ long Thổ thần nên cũng bị ảnh hưởng theo tục lệ. Từ đó trong dân gian có huyền thoại thần Tài bị một vị ma-sơ Ý bắt đày xuống đất nên không bao giờ lên bàn cao được.
Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường - Sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long
Các bài viết cùng chuyên mục
http://thvl.vn/?p=66483
-
Dấu xưa Đồng Tháp Mười: Bí ẩn miếu Hoàng Cô
06:31 - 21/03/2016 2 THANH NIÊN
Ðồng Tháp Mười là vùng đất trải rộng trên 3 tỉnh Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp. Các nhà khảo cổ học khẳng định cư dân Phù Nam từng sinh sống ở đây.
Di tích Ao thần sau khi khai quật - Ảnh: Hoàng Phương
Di tích Ao thần sau khi khai quật - Ảnh: Hoàng Phương
Vùng đất này còn là vựa lúa của đồng bằng Nam bộ, gắn liền với quá trình khai hoang mở cõi và chứa đựng nhiều điều bí ẩn.
Nằm trong quần thể khu di tích Gò Tháp, miếu Hoàng Cô tọa lạc giữa Gò Tháp Mười và Tháp Linh cổ tự, ngày xưa chỉ là một ngôi miếu nhỏ, làm bằng gỗ.
Nghi vấn ngôi mộ cổ
Trong miếu, giữa gian chính có đặt một bức tượng tương tự như tượng Bà Chúa Xứ. Anh Võ Tấn Nghĩa (Ban Quản lý khu di tích Tháp Mười) cho biết ngôi miếu hiện tại được người dân góp tiền xây dựng năm 1998 để có chỗ rộng rãi cho khách đến viếng.
Vì nằm trong khu vực bảo vệ đặc biệt của khu di tích Gò Tháp nên miếu không được phép xây dựng kiên cố mà chỉ làm bằng gỗ, nền xây kè. Riêng ngôi miếu nhỏ có từ trước năm 1975 đã dẹp bỏ, chỉ giữ lại ngôi mộ. Hằng năm, vào ngày rằm tháng 3 âm lịch, khi tổ chức cúng vía Bà Chúa Xứ thì cúng luôn bà Hoàng Cô.
Người dân vun gạch vụn, đá cuội lên nấm mộ được cho là của bà Hoàng Cô. Gần ngôi mộ có một cây bún “đặc trưng, duy nhất của vùng Đồng Tháp Mười”, còn gọi là cây cần sen. Theo anh Văn Công Khánh, nhân viên của Ban Quản lý khu di tích Gò Tháp, thì cây bún có tuổi đời chừng 70 năm. Mỗi khi trổ bông, cây bún tỏa ra mùi hương rất thơm.
Gần cạnh ngôi mộ còn có một giếng nước xưa. Trước đây, khi chưa có nước máy, người dân vẫn lấy nước sinh hoạt từ giếng cổ này. Anh Khánh nói cho đến bây giờ, các nhà khảo cổ và cả những “nhà ngoại cảm” đã đến khảo sát nhiều lần nhưng chưa ai dám xác định rằng bên dưới ngôi mộ có hài cốt hay không?
Cuối năm 2014, Trường ĐH KHXH-NV TP.HCM cho đào thám sát và phát hiện phía sau nền của ngôi chùa cũ, gần khu mộ, có di tích nền kiến trúc cổ của thời Vương quốc Phù Nam. Qua khai quật đã xác định đây chính là đền thờ của nữ thần Parvati, tức là vợ của thần Shiva.
Sắc phong của vua Khải Định ?
Xưa nay trong dân gian có truyền thuyết rằng một bà Hoàng Cô, em gái vua Gia Long, trong khi chạy trốn sự truy đuổi của quân Tây Sơn đã về đây trú ngụ ít lâu rồi đi nơi khác. Một thời gian sau nghe tin bà qua đời, người dân nhớ thương nên lập miếu và lập mộ thờ vọng. Lại có câu chuyện bà Hoàng Cô hiện về nhập xác, báo mộng… cho dân lập mộ. Để câu chuyện thêm phần thuyết phục, dân địa phương tin rằng địa danh “Đường thét” ở vùng này chính là con đường do đàn voi của Tây Sơn đi qua lúc truy đuổi chúa Nguyễn Phúc Ánh.
Căn cứ vào tờ sắc được thờ trong miếu thì bà Hoàng Cô tên là Nguyễn Phúc Hồng Nga. Nhưng theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, người đã dịch tờ sắc phong này, thì đạo sắc ghi ngày 25.7 năm Khải Định thứ 9 (1924). Nội dung nêu rằng từ trước thôn Tháp Mười, xã Mỹ Thọ, tổng Phong Nẫm, tỉnh Sa Đéc, đã thờ bà Nguyễn Phúc Hồng Nga, được phong “Thuần nhất - Hồng nhân - Báo nghĩa - Phương khiết - Đức tâm - Đoan trinh - Diễm lệ Thiện Khánh Trưởng công chúa” và được vua Khải Định gia phong “Minh Nghi Thái Trưởng công chúa”, đặc chuẩn cho thờ.
Tuy nhiên, ông Tường cho rằng nội dung lá sắc có nhiều điểm nghi vấn. Thứ nhất, không có sử liệu nào ghi chép chúa Nguyễn Phúc Ánh từng đến Tháp Mười. Thứ hai không có bà Hoàng Cô nào tên là Nguyễn Phúc Hồng Nga lại được phong thần bởi lẽ các mỹ tự trong đạo sắc: “Minh Nghi Thái Trưởng công chúa” được nhà Lê sử dụng trước đó. “Không lẽ vua Khải Định lại không biết điển lệ của tổ tiên hay sao mà tiếp tục phong tặng “Minh Nghi Thái Trưởng công chúa” cho một vị Hoàng Cô ”, ông Tường phân tích.
Khu di tích khảo cổ miếu Hoàng Cô được tiến hành khai quật vào năm 2010. Lúc bấy giờ các nhà khảo cổ đào tường thành phía tây Gò Tháp Mười thì lộ ra kiến trúc Ao thần. Ao có chiều dài 122 m, chiều rộng 113 m, nằm khuất trong đầm nước mọc đầy cỏ và cây dại. Tại đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy một bộ linga-yoni nhỏ. Phăng theo hướng định vị, vào năm 2013 các nhà khảo cổ phát hiện tiếp kiến trúc rời khác, là một đền thờ. Khi giở lớp đá mặt, họ gặp mảnh vàng có hình mặt trời và khẳng định đây là kiến trúc đền thờ thần mặt trời Surya.
Ngoài ra, trong hố khai quật này các nhà khảo cổ còn tìm được bức tượng thần Shiva, một số hiện vật đá, nồi gốm rất quý. Anh Nghĩa cho biết khu vực này đất rất cứng, khi khai quật phải đổ nước cho mềm đất, dùng cuốc chim xới đất, may mắn là các hiện vật không bể. Hiện Ao thần đã khai quật được một hố. Do diện tích quá lớn không thể bảo tồn hết ao nên hiện thời chỉ xây dựng mái che để vừa bảo vệ hố đã khai quật vừa phục vụ khách tham quan.
https://thanhnien.vn/van-hoa/dau-xua...co-683169.html
-
-
-