Môn Khấu Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: Thần Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà.
Printable View
Môn Khấu Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: Thần Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà.
https://mapio.net/images-p/45954684.jpg
miếu ông bổn
vĩnh long -vũng liêm
https://mapio.net/pic/p-45954684/
https://www.youtube.com/watch?v=rDuOYJRpM80
[NEW]Thi Co Hon o chua Ong Bon P5 Bac Lieu
RẠCH ÔNG BỔN P.5, TX.BẠC LIÊU, BẠC LIÊU
( ẤP BIỂN TÂY B, XÃ VĨNH TRẠCH ĐÔNG, TP.BẠC LIÊU )
Cạnh chùa Ông Bổn, thuộc ấp Biển Tây B, xã Vĩnh Trạch Đông, Thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu có một cây xoài đại thụ hơn 300 năm tuổi
CHÙA ÔNG BỔN BỐ THẢO
Địa chỉ: 198 ẤP CHÂU THÀNH, X.AN NINH, H.MỸ TÚ, SÓC TRĂNG
Tỉnh thành: Sóc Trăng
Điện thoại: (079)3836490
Chùa Ông Bổn
Địa chỉ: 213 ĐH12, Tham Đôn, Mỹ Xuyên, Sóc Trăng
Chùa Ông Bổn Xã Mỹ Hương Huyện Mỹ Tú Sóc Trăng
CHÙA ÔNG BỔN 35 PHAN VĂN TRỊ, P.3, TX.BẠC LIÊU, BẠC LIÊU
https://www.youtube.com/watch?v=a9yjJxZlzeQ
http://upanh2.nghethuatdieukhac.com/...6/Untitled.png
An Thổ Địa Chơn Ngôn Nam mô Tam mãn đa, một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ ta bà ha.
https://www.youtube.com/watch?v=a9yjJxZlzeQ
Cúng Thí Thực Cô Hồn Trên Sông Sài Gòn
CHÙA ÔNG BỔN ẤP 5 THỊ TRẤN LONG PHÚ
Ngày THÁNH ĐẢN của Tam nguyên ngũ Lạp trong năm
Cứ mỗi tháng ngày mồng 8, 14, 15, 29, 30 Bắc Đẩu hạ giới chi thần.nên thắp hương tụng chân kinh.Thái Thượng, Ngọc Hoàng, Thái Ất.Công đức vạn bội tránh muôn vàn nạn kiếp, tiền tài tự đến.
NGÀY THÁNG GIÊNG
01 – Di Lạc thiên tôn
– Thiên nguyên
– Chạp Trời
– Nguyên Thủy Thiên Tôn
02 – Xa công – Đông Ba đế quân
03 – Tôn chân nhân (Tổ Y )
– Tiên Hát chân nhân
04 – Trúc Đồng cô nương
05 – Văn Khúc tinh quân ( Thần tài văn )
06 – Nhiên đăng – Thanh Thủy Tổ Sư
08 – Giang Đông thần
– Ngũ điện vương
– Cống Hiển đại thần thông(8 – 15)
09 Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng hạ ban phúc cho tam giới (ngày đại lễ tụng NgọcHoàng xá tội thiên tôn.Công đức vạn vạn bội)
12 – La Thiên Tuế
13 – Lưu mãnh tướng quân
– Ôn công
– Hứa công
– Quan Thánh đế quân phi thăng
15 – Thượng nguyên Thiên quan đại đế ban phúc rằm tháng giêng
– Môn Thần hộ đối
– Hựu Thánh chân quân chính nhất Tịnh ứng chân quả
– Hỗn nguyên hoàng đế
– Tây Tử đế quân
16 – Đông Sơ Tổ Sư
– Tuy Tỵnh Bá
19 – Trường Xuân Lập chân nhân
– Môn quan Thổ địa
20 – Chiêu Tài đồng tử
26 – Tì Hựu Tài Thần
NGÀY THÁNG HAI
01- Thái Dương thăng Điện chi thần .Chính thức khai Điện làm việc .Xét thiện ác của con người và Địa phủ(là ngày nhận sớ tấu.Nhân gian nên lập đàn tế lễ nghinh sao hóa nạn và làm lễ cầu tài xin mọi viêc đầu năm).Đắc phúc vạn sự như ý.
– Nhất điện tần quảng vương
– Câu Tr ần chân nhân
– Lưu chân nhân
(làm lành, lạy hướng Bắc, tụng kinh Thái Dương)
02- Thổ Địa chính thần(nên làm lễ tạ thổ Địa an trạch đầu năm)
– Mạnh Phu Tử
– Tế công
03 – Văn Xương tử đồng đế quân(nên làm lễ cầu học hành và công danh tiến chức .Tụng kinh văn xương)
04 – Tư Mệnh Táo Quân (lễ tụng Táo vương chân kinh đón tài lộc đầu năm)
06 – Đông Hoa đế quân
08 – Thích ca mâu ni đi tu (tụng kinh Thái Ất Cứu Khổ)
– Tam điện Tống Đế vương
– Trương đại đế
– Xương phúc chân quân
– Mã Thần Gia
13 – Cát chân quân
– Yết chân quân
– Hồng Thánh Vương
15 – Thái Thuợng Lão Quân (tụng Cảm Ứng Thiên). Là ngày Trời đất khai thông thiên địa cầu con, cầu của, cầu danh, xuất ngoại, buôn bán mọi việc đều được linh ứng. Vì ngày thánh đản của Thái Thượng tất cả các Thần Tiên trên Trời đều đến chúc mừng. Nên những người trên nhân gian. Nhất là người đang gặp hoạn nạn cầu xin lập tức được các vị thần tiên phù biến rủi thành may. Sự sự thông.
– Cửu Thiên Huyền Nữ
– Tinh trung nhạc vương
– Tam Sơn Quốc Vương
16 – Khai Chương Thánh Vương
17 – Đông phương đế quân
18 – Tứ điện ngũ quan vương – Khổng Tử
( Chí Thánh Tiên Sư)
19 – Quan Thế Âm Đại Sỹ (tụng kinh Cứu Khổ, Bạch Y Chân Kinh )
20 – Phổ Hiền Chân Nhân
21 – Thủy Long thánh mẫu nương nương
23 – Huyền Thiên thánh phụ minh chân đế
26 – Nam Cung Triệu Chấn Quân
NGÀY THÁNG BA
01 – Nhị điện Sở Giang Vương(cấm dâm dục)
03 – Bắc Cực Chân Võ huyền thiên thượng đế
– Ngô Thiên Tuế
03 – Liễu Hạnh Thánh Mẫu
04 – Trương Vương gia (Thiên Tuế)
06 – Tế Công hoạt
– Nhạn Quang nương nương
– Trương Lão tướng quân
08 – Lục điện Biện Thành Vương
– Triệu Thiên Tuế
10-Hùng Vương Hoàng Đế (tụng Hùng Vương Hoàng Đế chân kinh .công đức vạn bội.Linh ứng tiền tài lục súc hưng vượng,suốt đời no đủ,dư giả)
08 – Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương
12 – Trung Ương ngũ đạo
12 – Tản Viên Sơn Thánh
15 – Nhiên đăng
– Hạo Thiên đại đế – Y Linh
– Bảo sinh Đại Đế
– Nguyễn Đàng Triệu nguyên soái
– Lôi đình khu ma đại tướng quân
– Tổ Thiên Sư
– Tài thần
16 – Chuẩn Đề.Sơn Thần
18 – Trung Nhạc đại đế
– Hậu Thổ Nương Nương
– Tam Mao chân quân đắc đạo
– Ngọc Dương chân nhân
– Nam thiên Liêu Tướng Quân
19 – Thái Dương (tụng kinh Thái Dương )
20 – Chú sinh (Tử tôn) nương nương (Bà chúa thai sinh)
23 – Bà Thiên Hậu nguyên quân (Thiên Thượng Thánh Mẫu) 26 – Qủy Cốc Tiên Sư
27 – Thất điện thái Sơn vương
– Xa đại nguyên soái
28 – Đông nhạc đại đế
– Thương Hiệt chí thánh tiên sư
NGÀY THÁNG TƯ
01 – Bát điện Đô Thị Vương (tụng kinhTiên công)
– Túc công
04 – Văn Thù Qu ảng Phát Thiên Tôn
– Địch Lương công
08 – Văn phật đản sinh (tụng kinh Độ Nhân Chân Kinh)
– Cửu điện Bình Đẳng Vương
13 – Tam thiên doãn chân nhân
– Cát Hiếu Tiên chân nhân
14 – Lữ Thuần Dương Tổ sư
– Phù Hữu Đế Quân
15 – Thích ca thành đạo (tụng kinh Độ Nhân Chân Kinh)
– Hán Chung Ly tổ sư
– Huê Quang đại đế
17 – Thập điện Chuyển Luân Minh Vương
18 – Thần Y Hoa Đà
– Tử Vi Đại Đế
– Thái Sơn đẳng thượng nương nương
– Tống Sinh tư mã
20 – Nhãn quang thánh mẫu nương nương
21 – Lý Thiên Vương (Lý Tỵnh)
23 – Phổ Hiền Chân Nhân
24 – Kim Quang Tổ Sư
25 – Vũ An Tôn Vương
26 – Ngũ Cốc Tiên Đế
– Nam Côn Thân Lý đại vương gia
– Chung Sơn tướng công
27 – Nam Côn Thân Phạm ngũ vương gia
28 – Dược Vương Tiên Y
– Thần Nông Tiên Đế
NGÀY THÁNG NĂM
01 – Nam Cực Trường Sinh đại đế
– Phong Thiên Tuế
05 – Chạp Đất
– Đại Kỳ Ôn nguyên soái
– Lôi đình thiên
– Huỳnh Mai ngũ tổ quân
– Hầu Thiên Tuế
06 – Thanh Thủy Tổ Sư
– Tiết Thiên Tuế
07 – Xảo thánh Tiên Sư
– Châu Thái Úy
– Cảnh Thiên Tuế
08 – Nam phương ngũ đạo
11 – Thiên Hạ Đô Thành Hoàng
12 – Bỉnh Linh Công
– Lư Thiên Tuế
13 – Quan Thánh đế quân
– Quan Bình thái tử (tụng kinh Minh Thánh)
– Hà Hải Thành Hoàng
14 – Tào Động Tứ Tổ
16 – Như lai quang vương
– Tiêu Phủ Vương gia
16 – Thiên địa chủ khí Tạo Hóa vạn vật chi thần
( tối kỵ nghi giới tửu sắc, nghiệp kiếp trùng trùng )
18 – Lão Mẫu nương nương (Tây Vương Kim Mẫu)
– Trương Thiên Sư
20 – Đơn Dương Mã chân nhân
29 – Hứa Oai hiển vương
NGÀY THÁNG SÁU
04 – Nam đản bộ châu chuyển đại pháp luân
06 – Hồ Gia đản thần (ngày sinh)
– Dương tứ tướng quân
07 – Thôi phán quan
– Thái Sơn
08 – Duệ Thành Long Mẫu
– Tứ Nữ Tiên Tổ
10 – Lưu Hải Thiềm đế quân
11 – Điền Đô Nguyên soái
12 – Bành Tổ
13 – Lỗ Ban Tiên Sư
– Tỉnh Tuyền Long Vương
15 – Vô Cực Lão thân Lão nương
18 – Nam Côn Thần Trì Nhị vương gia
19 – Quan Thế Âm Đại Sỹ thành đạo
(tụng kinh cứu khổ chân kinh, Cứu Khổ )
23 – Mã thần
– Hỏa Thần
– Vương Linh Thiên Quan
– Quan Thánh đế quân (tụng Minh Thánh)
24 – Lôi Tổ
– Ngũ Lôi thần
– Tây Tần vương gia
– Hòa hợp nhị tiên
26 – Nhị Lang chân quân
29 – Thiên Khu tả tướng chân quân
NGÀY THÁNG BẢY
07 – Đạo đức lạp chi thần tiên
– Khương công
– Ngưu Lang Chức Nữ thôi tinh (Thất Tinh )
– Đại Thành Khôi Tinh
12 – Trường Xuân chân nhân
13 – Thế Chí bồ Tát
14 – Khai Cơ Ân Chủ
15 – Trung Nguyên Địa Quan
– Linh Tế chân quân
18 – Diêu Trì Kim Mẫu
19 – Thiên nhiên
– Trị niên Thái Tuế (Ân Giao)
20 – Trương Vương Gia
21 – Phổ Am tam tổ sư
– Thượng nguyên đạo hóa chân quân
23 – Tăng phúc Tài thần
– Nam cung Liễu tinh quân
– Thiên khu thượng tướng chân quân Gia Cát Lượng
– Pháp chủ ThánhQuân
24 – Long Thọ Vương
– Thao Thánh
– Trịnh Diên Bình Quận Vương
25 – Vũ Đức Hầu Thẩm Tổ Công
29 – Địa Tạng Vương (tụng kinh Địa Tạng)
NGÀY THÁNG TÁM
01 – Hứa chân quân
– Thần công diệu tế chân quân
– Tả quân Lê Văn Duyệt Kim giáp thần
02 – Tả Vương
03 – Bắc Đẩu hạ giáng
– Lục Tổ Huệ Năng thành đạo
– Cửu Thiên Châu Ân Sư
– Khương Tử Nha – Từ Thiên Tuế
05 – Ngũ Lôi thanh đại đế (Lôi thanh phổ hóa thiên tôn)
08 – Hội Yến Diêu Trì
10 – Bắc Nhạc đại đế
– Lâm thủy phu nhân Lý Cô
12 – Tây phương ngũ đạo
– Hà Thiên Tuế
– Chử Đồng Tử Đế Quân
15 – Thái Âm triều nguyên (tụng kinh Thái Âm )
– Trấn Tỵnh Cô thành đạo
– Nam Côn thần châu tứ vương gia
16 – Tề Thiên Đại Thánh
– Châu nguyên soái
18 – Tửu tiên Lý Thái Bạch
– Khai Đài Trịnh Quốc Tính
20 – Hưng Đạo Đại Vương Hiển Thánh
22 – Nhiên đăng
– Quảng Trạch Tôn Vương
23 – Phục Ma phó tướng Trương Hiển Vương
– Hình Thiên Vương Gia
24 – Đào Dã Tiên
– Nam Côn Thân Vạn Thiện Gia
25 – Thái Dương (tụng kinh Thái Dương )
27 – Đại thành chí thánh tiên sư Văn Tuyên, Khổng Tử
– Bắc Đẩu hạ giáng
NGÀY THÁNG CHÍN
01 – Nam đẩu hạ giáng
02 – Bắc đẩu cửu hoàng giáng thế
03 – Ngũ Ôn (kiêng dâm )
07 – Thần Quang nhị tổ thành đạo
09 – Đẩu Mẫu nguyên quân
– Phong Đô đại đế
– Cửu Hoàng đại đế
– Lập Thiên thượng đế
– Cao Lý,Mai Cát nhị tiên ông
– Cửu Thiên Huyền Nữ
– Trung Đàn Nguyên Soái
– Trùng Dương đế quân (tụng kinh Bửu Cáo trong Ngọc Lịch)
13 – Mạnh Bà tôn thần (bà cho ăn cháo lú )
15 – Triệu đại nguyên soái
– Vô Cực Lão thân Lão nương
– Châu Thánh phu tử
– Nam Côn thân Ngô Tam vương gia
16 – Cơ Thần
17 – Kim long tứ đại vương
– Hồng Ấn chân quân tiên phong
– Chiêu Tài đồng tử
18 – Thương Thánh Tiên Sư (Thương Hiệt)
23 – Tát Tổ chân nhân
– Long chân quân
28 – Ngũ hiển linh quang
– Huê Quang đại đế
– Mã nguyên soái
30 – Dược Vương Tiên Y
NGÀY THÁNG MƯỜI
01 – Chạp năm (Dân thế lạp)
– Đông hoàng đại đế hạ nguyên định chí Châu chân quân
03 – Tam Mao ứng hóa chân quân
– Lâm thủy phu nhân Lâm Cô
05 – Đạt Ma Tổ Sư
06 – Thiên Tào chư ty
– Ngũ Nhạc ngũ đế
10 – Huê Công, Huê bà
– Tây thiên vương
– Thủy Tiên Tôn Vương
12 – Tề Thiên Đại Thánh
15 – Hạ nguyên thủy quan đại đế
– Đậu thần Lưu sứ giả
– Ôn nguyên soái
16 – Vu Sơn Nương Nương
18 – Địa Mẫu nương nương
20 – Hư Tỵnh Thiền Sư
22 – Thanh Sơn Linh An Tôn Vương
23 – Châu thương Tướng quân
25 – Cảm Thiên đại đế Hứa chân nhân
27 – Bắc Cực Tử Vi đại đế
– Ngũ nhạc thần
30 – Châu tướng quân (Châu Thương, tụng kinh Minh Thánh )
NGÀY THÁNG MƯỜI MỘT
04 – Đại Thành chí thánh tiên sư Văn Tuyên, Khổng Tử
– An Nam Tôn Vương
06 – Tây Nhạc đạiđế (vía trời)
11 – Thái Ất Cứu khổ Thiên Tôn
17 – Chử Đồng Tử đắc đạo về trời
19 – Nhật quang thiên tử
– Đại từ chí thánh Cửu Liên.
23 – Nam đẩu hạ giáng
– Tống Tử Trương Tiên đại đế
24 – Đông Sơ Tổ Sư thành đạo
26 – Bắc phương ngũ đạo
NGÀY THÁNG MƯỜI HAI
01 – Thần Tiên (giáng hạ )
– Đàm Thiên Tuế
08 – Vương Hầu lạp
– Trương Anh tế vương
15 – Ôn nguyên soái
16 – Nam Nhạc Đại Đế
20 – Lỗ Ban Tổ Sư
21 – Thiên du Thượng đế
23 – Tư Mệnh Táo Quân
( Đêm thiên hạ, dân phần hương tự tiến )
24 – Táo Quân Ty Mênh Chân Quân về trời tấu thiện ác nhân gian
25 – (Đưa Thánh, Tiên, Thần về cõi trên)
29 – Nam Đẩu & Bắc Đẩu tinh quân hạ giáng
30 – Thánh Tiên hạ giới, thái phỏng thiện ác.
http://fengshuiexpress.net/bai-viet/...328102700.html
安土地真言咒 南無三滿哆。母馱南。嗡。度嚕度嚕 尾。梭哈。 Namo sam-man-do, moo-toh-nam, om, doo-loo doo-loo dei-wei, so-ha.
唸召請咒: 嗡。啊。吽。梭哈。 Om ah hum, so ha
http://upanh2.nghethuatdieukhac.com/...G/Untitled.png
http://vvna2002.pixnet.net/blog/post...84%80%E8%BB%8C
https://www.tbsworld.org/tbnsky/inde...09-03-02-33-51
THỔ THẦN VÀ TẬP TỤC CÚNG MÙNG 2, 16 CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC
EDITOR February 13, 2019 0
https://i0.wp.com/nghiencuutongiao.i...size=750%2C375
Thổ thần hay Thổ địa, là một trong ba vị thần phổ biến và gần gũi nhất của dân Tàu[1].
Trong tín ngưỡng dân gian, Thổ địa là phúc thần, chuyên trách bảo hộ địa phương. Thuở ban sơ, khi mới thiết chế lễ nghi, đã có tục thiên tử tế trời, sĩ đại phu tế đất, để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Thời hiện đại thì Thổ địa đã được biên chế chính quy, ngoài nhiệm vụ khuyến nông, thần còn ban phước, trợ tài, phù hộ bình an.
NGUỒN GỐC
Trước tiên là tự dạng: do chữ Thổ 土 có hình dạng như thập tự cắm trên mặt đất, nên có kẻ bàn đây là totem bộ lạc Hữu Hùng của Hiên Viên (Huỳnh đế). Đó là bàn láo, cốt giành hình tượng thánh giá chứ chẳng chứng cớ gì. Bởi thực ra, hai nét ngang của Thổ, nét trên tượng trưng mặt đất, nét dưới là lòng đất, nét sổ là thân cây bám rễ vươn cao.
“Thuyết văn giải tự” do đó giải nghĩa: Thổ dưỡng nuôi vạn vật. Lời này cho thấy chữ Thổ chỉ xuất hiện khi loài người đã biết trồng trọt, canh tác.
Đất bao dung cung cấp vật thực cho người, nên Thổ địa được tôn Phúc Đức chánh thần, Phúc Đức lão gia, Phúc Đức bá công…
Các cổ tịch Trung Hoa như Hiếu kinh, Tả truyện, Xuân thu Công Dương giải hỗ… đều có ghi chép về tục sùng bái Thổ thần. Theo đó thì xưa gọi thần đất là Xã[2], thần lúa là Tắc. Hai chữ Xã Tắc 社稷 vì vậy hàm nghĩa đất nước ông bà.
Lễ ký còn ghi rõ: Vào tháng Trọng xuân, lấy ngày đầu tháng làm lễ tế thần Xã trong dân[3].
Theo Tả truyện, cháu đời thứ 11 của Viêm đế (Thần Nông) tên Câu Long 句龍, có công bình định chín châu, được phong tước Công, quan làm Hậu Thổ 后土; sau khi mất, ông được thờ làm thần Xã. Lễ tế thần Xã chia Xuân thu nhị kỳ, là Xuân Xã và Thu Xã.
DÂN TỤC
Xã là thần đất, tất phải có cương vực phân minh; mỗi vùng đất lại có đặc thù riêng, khiến ông Xã được cách tân, thành thần Thổ địa để đáp ứng thổ nhưỡng tùy nơi, nên trong dân gian, mỗi vùng đất đều có truyền thuyết riêng về Thổ địa. Đây chỉ lược kê vài thuyết phổ biến:
1. Đời Chu có Trương Phúc Đức, sinh vào mùng 2 tháng Hai năm Châu Võ vương thứ 2 (1.134 tr.Cn). Đức từ nhỏ đã thông minh hiếu thuận, đến năm 36 tuổi đảm nhận quan Tổng thuế, một đời cần chính thanh liêm, thọ đến 102 tuổi. Dân chúng nhớ ơn, chất đá làm miếu thờ. Đồn rằng Đức sống thanh liêm nên chết đi còn hiển hách, vẫn phù hộ dân chúng làm ăn thịnh vượng; triều đình phong làm Phúc Đức chánh thần 福德正神.
2. Thuyết khác kể rằng: đời Chu có vị Thượng đại phu, do nhậm chức phương xa, để vợ con cùng nghĩa bộc Trương Minh Đức ở lại quê. Xảy có gia biến, phu nhân phải thác, nghĩa bộc đã không quản gian nguy, địu con chủ lên lưng, xông pha ngàn dặm giúp nó tìm cha. Dọc đường bị trận bão tuyết, Trương Minh Đức cởi áo bọc kín giữ ấm cho tiểu chủ. Khi Thượng đại phu hay tin tìm tới nơi thì con gái hãy còn thoi thóp, nhưng Đức đã chết cóng. Lúc ấy bỗng sấm nổ vang, mây hồng tụ lại thành hàng chữ: “Nam thiên môn đại tiên Phúc Đức chánh thần”. Châu Võ vương cảm động khen rằng: “Người trung nghĩa dường ấy xứng làm bậc đại phu”.
3. Thuyết khác lại kể: xưa có ông lão nhặt được quả trứng trong lùm, đem về cho gà ấp. Chừng nở ra thấy là con rắn, ông vẫn tận tâm nuôi nấng. Con rắn sau thành tinh quậy phá cả vùng. Ông lão cho là do mình gây nên tội nghiệt, nên thề quyết tự tay tru diệt yêu tà, rốt cuộc cả rắn lẫn người đều chết. Cảm ân đức ấy, dân làng lập đền thờ. Nhà vua biết chuyện, ban tước Công cho ông lão, sắc phong làm Thổ địa công.
CHỨC NĂNG
Thổ địa tuy là phúc thần, nhưng chức năng chỉ tương đương viên quan địa phương, bảo hộ dân chúng trong làng xóm. Chỉ khi được triều đình sắc phong, Thổ địa làng sẽ đội mão Tể tướng (do lời tán thán của Châu Võ vương), chính thức làm Phúc Đức chánh thần, tương đương Thành hoàng trong huyện thị.
Tập tục thời xưa, mỗi làng mạc đều có miếu Thổ địa. Trẻ mới sinh đầy tháng là được ẵm tới miếu làm lễ ra mắt Thổ địa, tương tự thời nay làm chứng nhận khai sinh hộ tịch. Người già mất đi, gia quyến cũng tới miếu thắp nhang, khấn rõ tuổi tên người chết, nhờ Thổ địa dẫn lối siêu sinh, ấy là làm chứng tử.
Người Mân Nam (tức Phúc Kiến, Hakka) tin rằng ngoài chức năng bảo hộ nông nghiệp, Thổ địa còn giúp phù trì công việc mua bán thuận lợi; nên ở Đài Loan, dân chúng đồng nhất Thổ địa với Thần tài, là thủ hộ cho công ty, hãng xưởng.
Ở Quảng Đông, Hong Kong, Macao, Triều Châu, Đài Loan, bên cạnh ông Thổ địa (Thổ địa công 土地公), còn đặt thêm tượng phối ngẫu của ông, tức bà Thổ địa (Thổ địa bà 土地婆) phụ trách đỡ đần bình an cho phụ nữ.
Người Phúc Kiến gọi Thổ địa là Bá công 伯公, kiêm thêm việc canh giữ mộ địa được yên lành, nên nghĩa trang Phúc Kiến luôn có miếu Bá công. Vào 16 tháng Chạp hàng năm, người ta ra thắp nhang dâng lễ, tạ ơn vất vả của Bá công, xong mới tảo mộ người thân.
HÌNH TƯỢNG
Về chất liệu, tượng Thổ địa được nắn đất, chạm gỗ, khắc đá, đúc đồng tùy nơi. Còn hình dạng chung thì Thổ địa thường là vị trưởng giả hiền từ, nhưng tướng mạo mỗi nơi có khác nhau: nơi thị tứ thì Thổ thần ra dáng phú ông, tay cầm thẻ ngọc Như ý hoặc đồng tiền, thoi vàng; chốn thôn quê thì Thổ thần chống gậy tiên phong đạo cốt; ở chỗ sơn lâm, Thổ thần cưỡi cả cọp, rồng, kỳ lân; đất văn học thì Thổ thần được tạo hình quan văn nho nhã.
Dân Đài Loan có truyền thuyết Thổ thần cai quản cả chúa sơn lâm[4], nên đặt thêm tượng cọp phủ phục dưới bệ thần, kêu bằng “Hổ tướng quân”, giúp đuổi tà ma dịch bệnh.
MIẾU THỜ
Miếu Thổ thần còn gọi miếu Phúc Đức (người Phúc Kiến gọi Bá công miếu 伯公廟), hầu hết đều do dân chúng tự dựng nên, xuất hiện khắp hương thôn tới thị thành.
Miếu đa phần đơn sơ, vách đất che rơm cũng linh thiêng, thậm chí có khi chỉ cần ba hòn đá chất vệ đường cũng thành miếu Thổ địa[5].
TỤC CÚNG MÙNG 2, 16
Lễ cúng miếu Thổ địa thuở xưa chia làm Xuân Xã 春社, nhằm mùng 2 tháng Hai âm lịch; và Thu Xã 秋社, trùng với tiết Trung thu. Dư dả thì dâng phẩm vật đủ tam sinh[6], lỡ eo hẹp thì miếng thịt hoặc ít trứng gà, trái cây cũng đủ tỏ tâm thành.
Thổ thần ngày thêm thân thiết, nên dần được người Tàu rước về thờ cúng tại gia, mỗi ngày thắp nhang đảnh lễ. Riêng các nhà làm nghề buôn bán, do đồng nhất Thổ thần với Tài thần, nên mỗi tháng vào mùng 2 và 16, đều làm lễ cúng Thổ thần để cầu mua may bán đắt. Lệ cúng này gọi Tác nha 作牙, hoặc Nha tế 牙祭.
Nha 牙 ở đây là ngà voi. Số là vào cổ đại, trong mỗi quân doanh đều có lá đại kỳ, do chỗ cán của đại kỳ này, ở tay cầm thường làm bằng ngà voi, nên đại kỳ còn gọi Nha kỳ 牙旗, là tượng trưng chiến thần phù trợ đại quân. Mỗi tháng, trong quân đều long trọng tế Nha kỳ vào ngày mùng 2 và 16, vừa là cầu nguyện thần linh, cũng là dịp tiệc tùng thắt chặt tình đồng đội vào sinh ra tử. Vào 2 ngày này, các cửa hàng trong thành cũng được hưởng sái, từ thịt cá heo gà cho tới nhang đèn mắm muối, đều tấp nập người mua. Lệ Tác nha do đó dần thành tục cúng Thổ thần cả của giới doanh thương.
Vía Thổ thần mùng 2 tháng Hai được lấy làm ngày đầu tiên cúng Tác nha trong năm, nên gọi Đầu nha 頭牙; ngày 16 tháng Chạp theo đó là ngày cuối cúng Thổ thần trong năm, gọi Vĩ nha 尾牙. Vào hai ngày này, các chủ doanh nghiệp đều làm tiệc lớn, vừa là lễ tạ thần linh, vừa để khao thưởng nhân viên sau năm dài vất vả; nhất là Vĩ nha rất được trọng, là bữa lễ tất niên của mọi doanh nghiệp Tàu.
BÀN THỜ
Bàn thờ Thổ địa thường đặt dưới đất, dựa vô tường và quay ra cửa chính. Lệ đặt bàn thờ lối này có từ đời Minh, được cắt nghĩa bằng giai thoại về Chu Nguyên Chương.
Chương là kẻ thất phu lỗ mãng, nhưng từ khi lên ngôi thì chuyên tâm học hành, văn tài trở nên xuất chúng, có thể tự thảo chiếu thư, trước tác sách vở. Một hôm vi phục xuất tuần, Chương gặp Giám sinh nọ, đôi bên trò chuyện tương đắc, kéo nhau đi nhậu. Trong quán lúc đó đầy khách, Chương bèn rinh tượng Thổ thần trên bệ xuống đặt dựa vách, rồi phủi đít lên bàn thờ, ngồi đối ẩm với Giám sinh. Hỏi quê đâu thì Giám sinh nói ở Trùng Khánh. Chương nhân đó ra vế đối:
千里為重, 重水重山重慶府 Thiên lý vi trùng, trùng thủy trùng sơn Trùng Khánh phủ;
(Ngàn dặm gặp nhau, trùng nước trùng non là phủ Trùng Khánh – Câu này ý tứ bình thường, ngặt chỗ chơi chữ: Trùng 重 trên là chữ Thiên 千, dưới chữ Lý 里).
Giám sinh đối lại:
一人成大, 大邦大國大明君 Nhất nhân thành đại, đại bang đại quốc đại minh quân
(Một người nên lớn, vừa lớn đất lớn nước, vừa lớn vị vua hiền – chữ Đại 大 gồm Nhất 一 và Nhân 人 ghép thành).
Được nịnh “minh quân” đối với Chương đã thành nhàm, ông chỉ lấy làm lạ: sao tên Giám sinh kia biết mình là vua. Vừa tính gặng hỏi thì Giám sinh đã phẩy tay áo, hóa gió bay mất.
Chương đi rồi, chủ quán bê Thổ thần đặt lên chỗ cũ. Đêm đó, chủ quán chiêm bao bị Thổ thần quở trách: “Hoàng đế đã định vị ta ngồi dưới đất, sao ngươi dám cãi đem để lên trên?”[7] Từ đó, bàn thờ Thổ địa được đặt dưới đất.
Tuy địa vị có phần thấp kém, không thể so với Ngọc hoàng Đại đế, Quan âm Bồ tát, Quan thánh Đế quân… Nhưng Thổ địa gần gũi thân thiết với dân hơn hết, nên được thờ cúng rộng rãi khắp mọi nhà.
Bài vị Thổ thần phía trên thường là 4 chữ lớn “Phúc đức chánh thần”, hai bên là đôi liễn:
福而有德千家敬 Phúc nhi hữu đức thiên gia kính;
正則為神萬世尊 Chánh tắc vi thần vạn thế tôn.
(Đã phúc lại đức, ngàn nhà kính ngưỡng; Ngay thẳng nên thần, muôn đời tôn sùng).
Hoặc có khi hàm súc, đanh gọn như lời nguyền:
安仁自安宅 An nhân tự an trạch;
有土必有神 Hữu thổ tất hữu thần.
(Giữ lòng nhân thì nhà cửa tự yên ổn; Có đất ấy tất phải có thần ấy).
THỔ ĐỊA CỦA TỘC VIỆT
“Đất có Thổ công, sông có Hà bá”. Dễ nhận ra: cả Thổ công lẫn Hà bá của Việt tộc đều mang đậm ảnh hưởng của Tàu, và đặc biệt những chỗ biến cải lại thành ra tùy tiện, vô căn cớ.
Cổ tích Bắc Việt gom chung nguyên bộ Thổ địa, Thần tài với Táo quân thành mối tình tay ba, với người chồng trước làm “Thổ địa” trông coi nhà cửa, chồng sau làm “Thổ công” coi sóc bếp núc, và người vợ là “Thổ kỳ” quản việc chợ búa[8]. Nhưng trong thờ tự lúng túng lý giải không ra: tại sao lại có Thần tài đực rựa ngồi chung ban thờ với Thổ thần?
Ngộ nữa ở chỗ tạo hình: trong bàn thờ, Thổ địa là ông râu dài gầy gò nhưng quắc thước, còn Thần tài chính là ông ăn vận kiểu nông dân nhưng lại có bụng phệ. Tới chừng Tết múa lân thì ông Địa lại đổi dạng, ngó bộ y chang Thần tài. Vậy là sao?
Đó là những nghi vấn chẳng nhà văn hóa-phong tục nào, cả ta lẫn Tàu, có thể lý giải thỏa đáng, thôi cứ xí xái bỏ qua. Điều tệ hại nhất của Việt tộc không phải những tiểu tiết đó, mà ở tục cúng Mùng 2, 16.
Người Việt chỉ mới thờ cúng Thổ địa dạo gần đây. Đừng nói ngoài Bắc trước kia, dân chúng buộc phải tỏ ra vô thần cho hợp với “triết lý duy vật” của cộng sản; còn trong Nam, tuy có sống chung đụng với người Tàu, nhưng cũng chẳng người Việt nào thờ Thổ thần trong nhà, hoặc có chăng chỉ là hình thức “bàn Thông thiên” đặt ngoài sân. Việc cúng lạy vào Mùng 2, 16 Âm lịch lại càng không thể có.
Vậy mà khoảng hai, ba mươi năm trở lại đây, thì các nhà kinh doanh-dịch vụ, công ty đã đành mà công sở cũng vậy, từ khắp trong Nam ngoài Bắc đều có kiểu cúng cô hồn vào tối mùng 2, 16 hàng tháng. Việc này được giải thích là “phong tục cúng cô hồn”, là phát xuất tự cái tâm từ bi bác ái, thương tuốt âm binh cô hồn các đẳng. Nói thì hay nhưng thực tế thế nào? – Có nghe người Việt khấn vái mới hay: té ra người ta van nài âm binh đừng quấy rối!
Khác với người Tàu cúng thần minh bằng tâm thế hướng thiện tích cực, người Việt lạy cô hồn với tâm thế xua tà tiêu cực. Nên cúng xong, người Tàu ung dung dọn mâm cúng xuống, gia đình vui vẻ quây quần thưởng thức miếng ngon; còn người Việt cúng xong phải đổ bỏ lễ vật, chớ dám động tới.
Tục ngữ có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Cúng thần linh thì tinh thần cũng nhờ đó thêm sáng láng; còn cứ cúng ma quỷ vong hồn thì chỉ tổ ngày càng u tối, riết sẽ thành âm binh cả lũ.
_________
[1] Gồm Thổ thần, Tài thần và Táo quân.
[2] Theo Tả truyện, Xã nguyên nghĩa là đơn vị hành chánh cơ bản, gồm 25 nóc gia: Nhị thập ngũ gia vi nhất xã 二十五家為一社.
[3] Nguyên văn: Trọng xuân chi nguyệt, trạch nguyên nhật mệnh dân Xã 仲春之月,擇元日命民社 (Trọng xuân là tháng Hai âm lịch].
[4] Thổ địa thần hạt sơn trung hổ 土地神轄山中虎.
[5] Miếu loại này gọi “miếu hình chữ Lỗi”, do chữ Lỗi 磊 gồm ba chữ Thạch 石 chồng lên nhau. Lối thờ tự bình dân này rất giống tục thờ ông Tà của người Kh’mer Nam bộ. “Ông Tà” tức Neak Ta, vị thần cai quản phum sóc. Có khi người Kh’mer chỉ cần đặt hòn đá trơn láng bên vệ đường, dưới gốc cây, là thành nơi thờ cúng ông Tà.
[6] Tam sinh 三牲: thời xưa gồm bò, dê và heo; thời nay đổi làm heo, gà và cá.
[7] Giai thoại Lý Công Uẩn đánh Hộ pháp Già lam, đày ra ba ngàn dặm, hình như là biến thể của tích này.
[8] Sự tích Ông đầu rau.
Vinhhuy Le
Facebookgoogle_plusChia sẻ
EDITOR
Editor
TAGSTHỔ THẦNVĂN HÓA Á ĐÔNG
SHARE:
Previous Article
LỊCH SỬ THIỀN QUÁN VIPASSANA
Next Article
MÙA LỄ HỘI
Editor
RELATED POSTS
THỊ TRƯỜNG TÂM LINH
MÙA LỄ HỘI
BY EDITOR February 13, 2019 0
HÀNH TRÌNH TINH THẦN
THƠ THIỀN LÝ-TRẦN (1): THƠ ĐỊNH TÂM
BY NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO May 28, 2018 0
LEAVE A REPLY
Your email address will not be published. Required fields are marked *
Write your comment here
Name*...
Email*...
Website...
SEND
Notify me of follow-up comments by email.
Notify me of new posts by email.
http://nghiencuutongiao.info/2019/02...oi-trung-quoc/
Thổ Công:
(土公): tên gọi khác của Phước Đức Chánh Thần (福德正神), Thổ Chánh (土正), Xã Thần (社神), Xã Công (社公), Thổ Địa (土地), Thổ Bá (土伯), Thổ Địa Công (土地公). Vị này nguyên lai là Địa Thần, cũng là một loại thần tự nhiên. Từ thời cổ đại, người Trung Quốc đã có thờ Thần Đất rồi. Con người thường cho rằng đất đai có tài nguyên phong phú, sinh trưởng ngũ cốc, ngũ cốc lại có khả năng nuôi sống nhân loại, cho nên thường tâm niệm cám ơn đất đai, từ đó tôn sùng đất đai như là vị Thần. Trung Quốc cũng như Việt Nam đều phát triển nhờ nền văn minh lúa nước, làm nông; vì vậy ai ai cũng đều tôn trọng Thần Thổ Địa. Trong Lễ Ký (禮記), phần Giao Đặc Tánh (郊特性), có đoạn rằng: “Gia chủ Trung Lựu nhi quốc chủ xã (家主中霤而國主社, Chủ nhà Trung Lựu là thần chủ của nước)”; sớ giải thích: “Trung Lựu vi Thổ Thần (中霤爲土神).” Kế đến, Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), phần Mạnh Đông Ký (孟冬記) ghi rằng: “Thị nguyệt dã … đại hại, từ ư công xã cập môn lư, hưởng tiên tổ ngũ tự (是月也...大割、祠於公社及門閭、饗 祖五祀, Tháng này … hại lớn, thờ nơi công xã và cổng làng, nhà, dâng cúng năm nơi thờ tự của tiên tổ).” Cao Dụ (高誘) chú thích rằng: “Ngũ tự, Mộc chánh Cú Mang kỳ tự Hộ, Hỏa chánh Chúc Dung kỳ tự Táo, Thổ chánh Hậu Thổ Kì tự Trung Lựu, Hậu Thổ vi xã, Kim chánh Nhục Thâu kỳ tự Môn, Thủy chánh Huyền Minh kỳ tự Tỉnh (五祀、木正句芒其祀戶、火正祝融其 竈、土正后土其祀中霤、后土爲社、 金正蓐收其祀門、水正玄冥其祀井, Năm nơi thờ tự gồm Mộc là Cú Mang thờ Thần Nhà, Hỏa là Chúc Dung thờ Thần Bếp, Thổ là Hậu Thổ thờ Trung Lựu, Hậu Thổ là thần, Kim là Nhục Thâu thờ Thần Cửa, Thủy là Huyền Minh thờ Thần Giếng).” Sách Bạch Hổ Thông (白虎通) cho rằng: “Xã, Thổ Địa chi thần dã (社、土地之神也, Xã là thần Thổ Địa).” và giải thích thêm: “Nhân phi thổ bất lập, phi cốc bất thực, cố phong thổ vi xã, thị hữu Thổ Địa dã (人非土不立、非穀不食、故封土立社 示有土地也, Con người không có đất thì không thể đứng được, không có lúa thóc thì không thể ăn được được; cho nên phong đất làm thần, từ đó có Thổ Địa).” Từ ngàn xưa, người Trung Quốc đã có nghi thức cùng tế Thổ Địa, như trong Lễ Ký có trích dẫn cho biết rằng: “Thiên tử xã tắc đều có chuồng nuôi lớn, chư hầu xã tắc thì có chuồng nuôi nhỏ; Xã là Thổ Thần, Tắc là Cốc Thần; Thiên tử tế Địa Thần thì lấy ba vật cúng trâu, dê, lợn làm chuồng lớn, còn chư hầu tế Địa Thần thì lấy hai vật cúng dê, lợn làm chuồng nhỏ.” Như vậy từ vị thần tự nhiên, Thổ Công đã được tôn vinh thành thần nhân cách, thậm chí được phong chức quan. Ông có thể cai quản một địa phương nhỏ, một khu, một dặm, hay một làng; nên được gọi là Tiểu Thần (thần nhỏ). Thế nhưng, cũng không nên khinh thường ông, như dân gian có tục ngữ rằng: “Đắc tội Thổ Địa Công, tự vô kê (得罪土地公、飼無雞, đắc tội với Ông Thổ Địa thì không nuôi gà được).” Bên cạnh vai trò làm cho người dân được ấm no, Thổ Thần còn giúp cho họ thêm giàu có; nên ông được xem như là Thần Tài (財神). Bằng chứng là những người làm nghề nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp đều tôn thờ vị thần này. Ngoài ra, vị này còn được xem như là thần giữ mộ, nên có tên là Hậu Thổ (后土). Tương truyền rằng những người làm việc tốt, quân tử, sau khi chết sẽ được ông Thành Hoàng cử đi làm Thổ Địa tại các địa phương. Trong Đạo Giáo, Thái Xã Thần (太社神), Thái Tắc Thần (太稷神), Thổ Ông Thần (土翁神), Thổ Mẫu Thần (土母神) đều là những vị thần có trách nhiệm quản lý đất đai. Tuy nhiên, trong thánh điển Phật Giáo không đề cập tên mấy vị này. Về việc Thổ Thần được tôn xưng là Phước Đức Chánh Thần, có câu chuyện như sau. Dưới thời nhà Chu, có Trương Phước Đức (張福德), là gia bộc của Thượng Đại Phu (上大夫) trong gia đình một nọ. Khi chủ nhân đi nhậm quan phương xa, trong nhà chỉ còn lại người con gái nhỏ, thường thương nhớ cha, muốn đi tìm thăm. Thấy vậy, Trương Phước Đức bèn dẫn cô bé đi ngàn dặm tìm cha, giữa đường gặp gió tuyết bão bùng, bé gái bị lạnh cóng sắp chết; khi ấy, Trương Phước Đức cởi áo mình ra để che lấy thân em bé, tự nhiên tánh mạng em nhỏ được cứu sống; nhưng ông thì bị chết cóng. Khi lâm chung, trên không trung hiện ra 7 chữ “Nam Thiên Môn Đại Tiên Phước Đức Thần (南天門大仙福德神)”, như để phong cho tấm lòng trung nghĩa của người nô bộc như ông. Cảm niệm sự trung thành ấy, Thượng Đại Phu cho lập miếu để thờ Trương Phước Đức. Chu Võ Vương (周武王) tặng cho hiệu là Hậu Thổ (后土); từ đó Thổ Thần cũng có tên gọi là Thần Phước Đức. Lại có truyền thuyết Ông Thổ Địa hạ phàm nhậm chức, hy vọng mọi người trên thế gian đều có tiền của, ai ai cũng đều sống an vui. Hay câu chuyện Minh Thái Tổ Chu Hồng Võ (明太祖洪武) cũng khá lý thú. Nhà vua thường giả dạng thường dân ra ngoài dân dã tuần du. Có hôm nọ, vua chợt gặp một gã thư sinh, cả hai cùng vào quán rượu bên đường đối ẩm; nhưng lúc ấy quán đầy ắp người, cả hai đành phải đứng chờ. Chợt nhìn phía sau, thấy có bàn thờ Phước Đức Chánh Thần, nhà vua bèn bưng bỏ xuống dưới đất sát vách tường và bảo rằng: “Ta tạm mượn chỗ ngồi của nhà ngươi chút nhé !” Rồi hai người ngồi xuống bàn uống rượu, một lúc sau nhà vua hỏi: “Ngươi quê ở làng nào ?” Thư sinh đáp: “Trùng Khánh (重慶)”. Nhân đó, nhà vua cử ngay một câu đối rằng: “Thiên lí vi trùng, trùng thủy trùng sơn Trùng Khánh Phủ (千里爲重、重水重山重慶府, Ngàn dặm muôn trùng, trùng nước trùng non Trùng Khánh Phủ).” Chàng thư sinh kia đáp ngay: “Nhất nhân thành đại, đại bang đại quốc đại minh quân (一人成大、大邦大國大明君, Một người thành lớn, lớn bang lớn nước lớn minh quân).” Cả hai hứng chí nhìn nhau cười thỏa thích, tận hứng mới trở về và quên không đặt bàn thờ Thổ Địa lại vị trí cũ. Đêm hôm đó,nhà vua mộng thấy Ông Thổ Địa về thưa rằng: “Hoàng Đế đã ra lệnh cho thần ngồi dưới đất, ngài không cần phải dời thần lên bàn nữa.” Qua câu chuyện này, chúng ta thấy rằng Ông Thổ Địa có cá tánh nhu hòa, bất kể giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, già trẻ, nơi nào có cầu thì nơi đó ông ứng thân ngay. Có lẽ cũng vì lý do này, hiện tại chúng ta thấy bàn thờ Thổ Địa thường được đặt dưới đất. Có thuyết cho rằng nơi miếu thờ Thổ Địa có Ông Cọp, là con vật do Ông Thổ Địa cỡi lên. Vị này cũng có công dụng trấn hộ miếu đường và xua đuổi các dịch bệnh. Nếu trẻ nhỏ bị sốt nóng, viêm nhiệt, có thể dùng giấy tiền xoa vào dưới cổ Ông Cọp, rồi đem dán lên chỗ bị đau thì sẽ hết bệnh. Dân gian Việt Nam có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”; cho nên mỗi khi đào đất xây nhà, đào giếng, đào huyệt, v.v., đụng đến đất đai, người dân Việt Nam thường phải khấn vái vị thần này. Đặc biệt, vào dịp lễ Trung Thu hằng năm, trong các đoàn múa lân, chúng ta vẫn thấy có người đóng vai trò Ông Địa đi theo đoàn lân, cầm cây quạt phe phẩy với cái bụng bự như Thần Tài. Mặc dầu được gọi là Ông Đại, nhưng có thể theo thuyết của người Trung Hoa cho ông là Thần Tài, hơn nữa, tục lệ người Việt cho rằng lân vào nhà là đem tài lộc đến, nên ông cũng là hiện thân của Thần Tài trong dịp Trung Thu.
https://www.rongmotamhon.net/tu-dien...o-tam-hon.html
Chùa Ông Bổn
Địa chỉ: Hai Bà Trưng, Mỹ Long, Thành phố Long Xuyên, An Giang
https://www.google.com/maps/uv?hl=vi...txmsL6IM6eVjJC
Chùa Ông Bổn
Địa chỉ: Hùng Vương, TT. Tri Tôn, Tri Tôn, An Giang
https://www.google.com/maps/uv?hl=vi...IvzHuv8L34saj6
Món chè ỉ: nấu bằng bột nếp,vò viên tròn xoe,bên trong có viên đường tán bé xíu hình vuông (tượng trưng cho trời và đất) – chỉ sự viên mãn, tốt đẹp.
https://dotchuoinon.com/2015/04/13/d...vn-dan-ca-hoa/
===
Viên nho nhỏ bằng đầu ngón tay, trắng ngần, luộc đi, vớt ra, chờ rao ráo chút, rồi thả vào nồi nước đường trong vắt đang liu riu bên cạnh. Nấu lại chút nữa, chín rồi, nghĩa là ỷ y đã mặn nồng tình nghĩa với đường rồi, múc ra chén, viên nọ vắt vẻo ỷ lên viên kia, trên cùng là viên màu đỏ.
Có khi trên mỗi viên trắng, các cụ điểm cho nó cái nốt ruồi màu cánh sen, duyên dáng kể gì. Người Tàu ưa mấy màu này, cho quanh năm suốt tháng hồng hào. Mà nào có gì quý hóa cho cam, chỉ là bột nếp thôi, vậy mà nó thơm ngon, thanh tao lắm. Chắc tại một phần thời đó toàn là “nếp thiệt” được mùi hoa cỏ ruộng đồng quyện vào từng hạt.
https://doanhnhansaigon.vn/am-thuc/m...n-1053445.html
==============
CHÈ Ỷ CHO NGÀY TẾT
Chè Ỷ là món ăn truyền thống của người Hoaở Sóc Trăng. Ỷ là viên bột tròn, nhỏ, màu trắng trong, được làm từ bộtnếp hoặc bột khoai. Món chè được dùng nhiều vào dịp rằm, ngày tết Trung thu, tết Đông Chí và tết Nguyên đán. Người Hoa nấu chè Ỷdâng cúng ông bà, tổ tiên rồi cùng nhau ăn với ý nghĩa đoàn viên, may mắn trong gia đình.Ngoài ra, trong đám cưới Ỷ còn được dùng cho cô dâu,chú rể ăn như lời cầu chúc vẹn tròn hạnh phúc.
Về cách chế biến món chè Ỷ cũng khá công phu. Các nguyên liệu cần chuẩn bị đủ, gồm: bột nếp, bột năng hoặc dùng bột khoai lang trắng, nước cốt dừa, đường cát hoặc đường thốt nốt, đậu phộng rang, gừng, lá dứa, màu thực phẩm đỏ, vàng.
Tùy vào khẩu vị của mỗi người, người nấu sẽ chọn bột nếp, bột năng hoặc dùng bột khoai lang trắng, sẽ có 02 cách thực hiện khác sau:
Cách thứ nhất dùng bột khoai lang trắng. Trước tiên chọn củ khoai to thì làm Ỷsẽ ngon hơn vì bột khoai ngọt và nhiều bột hơn. Lấy lượng khoai vừa đủ đem xay thành bột, ngâm nước vài ngày cho tinh bột lắng xuống. Đổphần nước trong bên trên bỏ, lấy tinh bột lắng dưới đáy thau phơi dưới trời nắng khoảng một ngày. Sau đó, lấy một ít bột bỏ vào thau rồi bắt đầu dùng tay quây bột trong thau theo một chiều nhất địnhđể vò viên, nếu bột khô thì đổ thêm ít nước ấm. Taynghề lâu năm của người làm Ỷsẽ quyết định bột có thành viên hay không là ở công đoạn này. Người taquây liên tục cho đến khi bột trong thau kết thành những viên Ỷ, mỗi lần quây mất khoảng 01giờ đồng hồ sẽ được một mẻ. Trong quá trình quây, Ỷcó kích thước lớn nhỏ khác nhau. Sau đó, người ta sẽ phân loại các viên Ỷ lớn, nhỏ.
Cách thứ hai là dùng bột nếp và ít bột năng. Cách này thì đơn giản hơn cách thứ nhất. Trước tiên, đổ bột nếp ra thau cho thêm ít nước nhồi cho bột quyết thành cục bột. Sau đó nắn ra mỗi cục bằng ngón tay cái, bỏ vào lòng bàn tay dùng ít bột năng rồi vò thành viên.
Để làm Ỷ có màu sắc như ý. Trong quá trình vò viên,người ta sẽ pha màu thực phẩm vào bột.
Kế tiếp là giai đoạn luộc viên bột. Để viên Ỷ dai và có màu trắng trong, trước tiên người ta nấu nước thật sôi, để 01 viên bột vào nồi thử độ sôi của nước trước. Khi thấy được nước đã sôi thì lần lượt đổ từ từ bột vào nồi và khuấy liên tục để bột không quết vào nhau. Khi bột chín vớt ra đổ vào thau nước lạnh, xả bỏ 01 – 02 nước rồi vớt lên để cho ráo nước. Công đoạn kế tiếp là nấu nước đường sôi, để lá dứa (tạo mùi thơm), gừng xắt lát hoặc đâm nhuyễn. Sau đó đổ bột đã vo viên vào nấu đến khi bột nổi lên là được. Múc ra chén, chan nước cốt dừa rồi rắc đậu phộng đâm nhuyễn, dùng nóng. Khi ăn chè Ỷ vừa mềm mềm dai dai, vừa thơm mùi lá dứa, có vị cay cay nhẹ của gừng, vị béo của nước cốt dừa, mùi thơm của đậu phộng sẽ tạo cho chúng ta có cảm giác ngon miệng.
Ăn chè Ỷ trong những dịp tết, đám cưới, mừng thọ thường bỏ thêm những viên ỷ có màu đỏ vừa để trang trí đẹp mắt vừa thể hiện ước nguyện, cầu mong được phú quý, may mắn theo quan niệm lâu đời của người Hoa./.
Lý Phương
https://www.dulichsoctrang.org/bai-v...o-ngay-tet.kvn