-
...
[PDF]Chuỗi tr - Dharma / Giáo pháp
https://ratnashrivn.org › wp-content › uploads › 2019/02
Translate this page
OM MAMA TSAKRA SWAHA là dạng rất ngắn của câu minh chú của Đức Achi. YARDU là hoạt động yên bình. SARVADU là tăng trưởng hoạt hạnh. RADZA- ...
https://ratnashrivn.org/wp-content/u...inal-de-in.pdf
-
Bát vu
缽盂
A: The bowl for alms.
P: Le bol à l’aumône.
Bát: Tám, thứ tám. Vu: Cái bầu đựng đồ ăn.
Bát vu là cái bình đựng đồ ăn của các tăng ni Phật giáo thuộc phái khất sĩ, dùng để đi khất thực.
Lúc thọ lãnh bát, vị sư nguyện ba lần bài chú sau đây:
“Thiện tai Bát-đa-la, Như Lai ứng lượng khí!
Phụng trì dĩ tư thân, trưởng dưỡng trí mạng.
Án chỉ rị chỉ rị phạt nhựt ra hồng phấn tra.”
https://www.caodai.me/encyclopedia/bat-vu/
-
THẦY TU CÓ VỢ
14/10/2013 9:03 Sáng
Ðúng theo Ðạo Phật thì người xuất gia (mà chúng ta quen gọi là Sư Tăng) không được lập gia đình. Chữ Sư có nghĩa là Thầy, chỉ có Thầy Tăng mới không được quyền có vợ, còn những ông thầy khác như Giáo sư (thầy dạy học), Kỹ sư (thầy kỹ thuật), Kiến trúc sư (thầy vẽ kiểu nhà), võ sư (thầy dạy võ) v.v… những ông thầy này được quyền có vợ chứ! Ngay cả Ðạo sư (thầy dạy Ðạo) cũng có vợ được nếu đạo sư đó không phải là Tăng.
http://www.thegioiphatgiao.vn/wp-con...ds/su-thay.jpg
su-thay
Gần đây có một số Phật tử Việt Nam theo học Ðạo với các Thầy Lạt Ma Tây Tạng. Những Phật tử này thường vẫn còn khái niệm Thầy tu không được có vợ. Vì thế nên có một cô Phật tử ở Canada đến nói với tôi rằng: “Con theo học với vị Lạt Ma này được hai tháng nhưng sau khi biết ông ta có vợ thì thôi, không theo học nữa“.
Giá trị đạo đức của một ông Thầy không nên được đánh giá trên việc ông ta có vợ hay không có vợ. Ở Nhật Bản các vị Tăng đa số đều có vợ. Có nhiều chùa, sau khi vị trụ trì mất thì con của họ lên thay thế làm trụ trì. Có hai vị thiền sư Nhật nổi tiếng là Shunryu Suzuki (1905-1971) tác giả quyển “Thiền tâm, Sơ tâm” (Zen mind, Beginner”s mind) và Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) tác giả bộ “Thiền Luận”. Khi nói về hai vị này, nhiều người gọi họ là Ðại Sư. Tôi tự hỏi không biết những người này có biết là hai Ðại Sư của họ có vợ chăng? Nếu biết thì có còn gọi là Ðại Sư nữa không?
Riêng theo truyền thống Tây Tạng thì có hai loại Lạt Ma. Lạt Ma Tăng không có vợ và Lạt Ma cư sĩ có vợ con. Chữ Lạt Ma (Lama) là dịch từ chữ Phạn Guru có nghĩa là Ðạo Sư, vị Thầy chỉ đạo. Phật Giáo được truyền vào Tây Tạng khoảng thế kỷ thứ 8 do Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), vị này là một Ðạo Sư nổi tiếng về Mật Giáo, xuất thân từ tu-viện Vikramasila, một tu-viện lớn ngang hàng với Nalanda. Padmasambhava có hai người vợ và cũng là hai đệ tử lớn. Chính ông đã sáng lập ra phái Nyingmapa (Cổ Mật), trong phái này đa số các Lạt Ma đều là cư sĩ nên chuyện có hay không có vợ không phải là một vấn đề. Sau đó vào thế kỷ thứ 11, có thêm hai phái nữa ra đời là Kagyupa và Sakyapa. Sơ Tổ Tây Tạng phái Kagyupa là Marpa qua Ấn Ðộ học Ðạo với Naropa rồi trở về xứ dịch kinh truyền Ðạo. Ðạo Sư Marpa có vợ và đệ tử xuất sắc nhất của ông là Milarépa, vị này không phải là Tăng mà là một đạo sĩ Du Già (Yogi, naldjorpa). Ðệ tử kế nghiệp Milarépa là Gampopa, một vị Tăng nên bắt đầu từ Gampopa trở đi đa số đều là Tăng, nhưng vẫn còn một phần ba là cư sĩ. Kế nghiệp Gampopa là Karmapa, bắt đầu từ vị này thì có sự tái sinh trở lại ngôi vị mình cho tới Karmapa thứ 16, vị này mới mất năm 1982. Karmapa là vị lãnh đạo tối cao của phái Kagyupa, tương đương với đức Ðạt Lai Lạt Ma. Vị Karmapa thứ 15 cũng có vợ. Sơ Tổ của phái Sakyapa là Sachen Kunga Nyingpo cũng có vợ và hai vị Tổ kế tiếp chính là hai con trai của ông. Ða số Lạt Ma của phái này là cư sĩ, vị lãnh đạo tối cao hiện nay là Sakya Trizin. Vào thế kỷ 14 có phái Guélugpa ra đời, Sáng Tổ là Tsongkhapa, một vị Tăng. Kế thừa sau này là Gendun Drub, Ðạt Lai Lạt Ma thứ nhất. Sau khi chết, vị này tái sinh trở lại mỗi đời, cho tới nay là Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Tenzin Gyatso).
Trong bốn phái lớn vừa kể, ba phái đầu được gọi là Hồng Mạo phái (phái mũ đỏ), phái chót là Hoàng Mạo phái (phái mũ vàng). Phái này rất tôn trọng giới luật nên đa số Lạt Ma đều là Tăng. Kể sơ các dòng phái của Tây Tạng để bạn đọc và người nào muốn theo học với Phật Giáo Tây Tạng khỏi bị bỡ ngỡ trước vấn đề “Lạt Ma có vợ”. Với dân Tây Tạng, một vị Lạt Ma có vợ hay không, việc đó không thành vấn đề. Hơn thế nữa, trong giáo lý Mật Tông Tây Tạng (Tantrayana) có những pháp môn mà trong đó hành giả cần phải có vợ hay một người nữ cùng tu để tập chuyển hóa những năng lực tính dục (énergie sexuelle) hầu sớm mau đắc đạo. Ðây là một điều mà Phật tử Việt Nam không thể nào hiểu nổi, nhiều khi còn cho đó là bàng môn tả đạo. Và đây cũng là một lý do mà tôi không muốn truyền bá Phật Giáo Tây Tạng sau sáu năm học Ðạo với các Lạt Ma.
Tạm bỏ qua chuyện Sư Nhật hay Lạt Ma Tây Tạng có vợ, bây giờ nói đến chuyện các vị Sư hoàn tục để cưới vợ. Theo truyền thống Phật Giáo ở các nước Nam Tông như Thái Lan, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, các vị Sư tu hành lâu năm hoàn tục vẫn được Phật tử kính nể vì họ quan niệm rằng vị Sư đó dù đã hoàn tục nhưng kiến thức và phẩm chất đạo đức của ông vẫn không mất. Ngược lại trong giới Phật tử Việt Nam thì lại quan niệm việc hoàn tục là một sự thất bại, có nghĩa là vị Sư đó tu hành không đến nơi đến chốn, không có nghị lực để bị sa ngã, v.v… Vì đa số Phật tử quan niệm như thế nên các vị Sư hoàn tục thường có mặc cảm, rồi đoạn tuyệt hẳn với Ðạo Phật, không còn bén mảng tới chùa nữa. Như vậy không những chùa mất đi một vị Tăng mà còn mất luôn một người Phật tử nữa. Ðây là một điều đáng tiếc và quan niệm này hãy còn thiếu nhiều thương yêu hiểu biết.
“Chiếc áo không làm nên Thầy tu” kia mà! Sao chúng ta cứ mãi vô minh cố chấp vào hình thức? Tu là phải như thế này, phải như thế kia!
Từ lúc vào chùa đi tu đến nay, tôi đã chứng kiến nhiều huynh đệ hoàn tục. Ban đầu tôi cũng bất mãn, thầm trách Thầy tôi sao không khuyên răn ngăn cản họ. Nhưng rồi với thời gian, tôi hiểu và thông cảm, thấy rằng họ còn những bài học cần phải học, cần phải hiểu để tiến hóa. Ðạo không nhất thiết phải học ở trong chùa hay trong kinh sách mà Ðạo ở khắp mọi nơi.
Có nhiều Phật tử phê phán: “Tội nghiệp Thầy đó nghiệp nặng, hoặc Sư Cô đó còn nặng nợ trần gian“. Họ làm như mình không còn nặng nợ nữa vậy. Có biết đâu mình cũng nặng nợ như ai nhưng trốn nợ hoặc chưa tới lúc phải trả đó thôi!
Thích Trí Siêu
Theo Phật giáo Đại chúng
http://www.thegioiphatgiao.vn/dactrung/thay-tu-co-vo
-
[PDF]Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên 印光法師 嘉言錄續編
ftp.budaedu.org › ebooks › pdf
Do vậy, đức. Thích Ca Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác đã than rằng: “Lạ thay! .... Hoàng là một khoáng chất có màu vàng, mềm, dễ nghiền thành bột. ...... công nhận Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A Di Đà Phật, Karmapa tự xưng là hóa.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI176-1.pdf
-
Hoạt Phật là từ ngữ do người Trung Hoa dịch chữ Tây Tạng Hpbrulsku (thường
được biết dưới dạng ghi âm phổ biến hơn là Tulku, là một từ ngữ Tây Tạng nhằm
diễn dịch chữ Nirmanakaya (Hóa Thân) của tiếng Phạn). Tiếng Mông Cổ tương ứng
là Khutukhu (hoặc Khutukutu, Hobilghan. Do vậy Chương Gia đại sư thường được
gọi là Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ). Truyền thống này được bắt nguồn từ thời ngài
Tsongkhapa cải cách tôn giáo tại Tây Tạng: Tăng sĩ không được lấy vợ, nên phải
chọn người kế vị các ngôi tu viện trưởng hoặc trưởng dòng tu từ hóa thân. Ngoại trừ
phái Sakya vẫn theo lệ truyền ngôi pháp vương cho con cháu trong dòng họ, các phái
khác dẫu là Hoàng Giáo (Gelugpa), Cổ Mật (Nyingmapa), hoặc Cát Cư (Kargyupa)
đều theo lệ này tuy các lạt-ma thuộc phái Nyingmapa hay Kargyupa vẫn được phép
lấy vợ. Người Tây Tạng tin rằng các vị lạt-ma cao cấp có khả năng tự tại chuyển
sanh, liên tục trở lại thế gian này để hóa độ chúng sanh. Trước khi mất, vị lạt-ma ấy
sẽ để lại những sấm ngữ hoặc huyền ký dự báo mình sẽ tái sanh ở nơi nào. Các đệ tử
đi tìm, thấy đứa bé nào phù hợp với sấm ký, sẽ tiến hành những xét nghiệm cần thiết,
rồi đưa về tu viện, đào tạo và tấn phong để bảo đảm ngôi lãnh đạo của dòng tu được
truyền thừa liên tục. Đồng thời để tạo sự chánh thống cho ngôi vị và thu hút tín đồ,
các vị Hóa Thân nổi tiếng thường tự xưng hóa thân của các vị Phật, Bồ Tát, thánh
tăng, như Đại Lai Lạt Ma thứ năm tự xưng là hóa thân của Quán Thế Âm, ban chỉ dụ
công nhận Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A Di Đà Phật, Karmapa tự xưng là hóa
thân của Quán Thế Âm, trưởng dòng tu Sakyapa tự xưng là hóa thân của Văn Thù
Bồ Tát, Tai Situpa Rinpoche tự xưng là hóa thân của Di Lặc Bồ Tát v.v… Có lẽ vì
thế, người Trung Hoa đã gọi các vị này là Hoạt Phật (Phật Sống). Hiện thời tại Tây
Tạng, Mông Cổ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Khang, Buriat, Kalmyk v.v... tức những
nơi theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng đều có những hóa thân. Hầu như các tu
viện lớn nhỏ đều có hóa thân; nổi tiếng nhất là Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma,
Karmapa, Sakyapa của Tây Tạng, Jetsundampa của Ngoại Mông Cổ, Chương Gia
thuộc Nội Mông (dòng truyền thừa của vị này đã chấm dứt). Thậm chí tài tử Steven
Seagal của Mỹ cũng được Drubwang Pema Norbu Rinpoche (tu viện trưởng tu viện
Palyul Ling, người được coi như là trưởng tông phái Nyingmapa hiện thời) công
nhận là hóa thân của lạt-ma Chungdrag Dorje, một vị Tăng chuyên phát hiện những
Mật điển (Terton) sống vào thế kỷ 17 ở Tây Tạng, gây nên rất nhiều tranh luận ồn ào
trong giới Phật Tử Tây Phương theo Mật Tông Tây Tạng!
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI176-1.pdf
-
Hiện nay các nơi ngoại đạo rất nhiều, bọn họ đều coi “luyện đan, vận khí, cầu thành tiên, sanh lên trời” là chuyện tột bậc. Đã quy y Phật pháp thì chớ nên kiêm tu những pháp ấy nữa! Tà - chánh xen tạp thì chánh cũng thành tà.
http://www.niemphat.net/Luan/aqvstucbien/aqvstb1.htm
-
Cáp Lập Ma (tức Karmapa của Phật Giáo Tây Tạng) thời Vĩnh Lạc nhà Minh
https://phapthihoi.org/blog/tu-dien-...-ung-thong-ky/
-
Ngày 20 tháng 11 năm 2008
Theo chương trình, phái đoàn hành hương đi đến Dhara Chakra Centre để đãnh lễ Đức Karmapa thứ 17 (The 17th Gyalwang Karmapa).
Xe bắt đầu lăn bánh lúc 9:30 sáng. Đường đi quanh co khúc khuỷu, chật hẹp và rất dốc nhưng đoàn cũng đã đến nơi an toàn và đúng giờ. Trên đường đi, chúng tôi thấy dân chúng xếp hàng dài, nhiều người cầm những dải lụa màu để chào mừng Đức Đạt Lại Lạt Ma hôm nay xuống núi để chủ trì một cuộc họp đặc biệt của người Tây Tạng. Trong thời gian chúng tôi ở đây, có một cuộc họp kéo dài một tuần lễ của khoảng 500 người đại diện cho người Tây Tạng lưu vong trên thế giới về đây để thảo luận về phương cách đấu tranh chống sự đàn áp của Trung Cọng tại Tây Tạng trong tình thế mới và khi không ai còn có thể tin vào thiện chí của những người lãnh đạo đảng và nhà nước Trung Quốc trong các cuộc thương thảo với những người đại diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma .
Nơi cư ngụ của Đức Karmapa thứ 17 là một trong những trung tâm đào tạo tăng sĩ lớn nhất của người Tây Tạng (Hình 15). Đây còn là nơi ở và tu học của khoảng 500 nhà sư Tây Tạng. (Hình 16)
Phái đoàn hành hương được văn phòng Đức Karmapa tiếp đón chu đáo. Sau một tuần trà và bánh ngọt, mọi người được hướng dẫn vào chánh điện sắp xếp chỗ ngồi trước khi Đức Karmapa tiếp đoàn.
Đúng 11:00 sáng, Đức Karmapa quang lâm chánh điện. Thầy trưởng đoàn tác bạch nhân duyên đoàn đến đãnh lễ Ngài. Đức Karmapa bày tỏ Ngài rất hoan hỷ tiếp đoàn Phật tử Việt Nam từ các nước Úc, Mỹ, Canada, Việt Nam đến Dharamsala. Ngài cho biết Ngài rất quan tâm đến truyền thống Phật giáo, triết học và văn học Việt Nam và hy vọng sẽ phát triển sự quan hệ giữa Phật giáo Tây Tạng và Việt Nam trong thời gian tới. Đức Karmapa tặng cho mỗi người trong đoàn một bì thư, trong đó có ba bì thư nhỏ đựng những viên thuốc điều chế theo y học Tây Tạng và Ngài đã chú nguyện.
Sau đó đoàn được chụp hình lưu niệm với Ngài. Buổi tiếp kiến của Karmapa chấm dứt, mọi người hoan hỷ ra về.
Một ngày qua trọn vẹn.
Vài dòng về Đức Karmapa thứ 17:
Đức Karmapa thứ 17, tên thật là Apo Gaga, sinh năm 1985 trong một gia đình du cư ở Lhatok, phía Đông Tây Tạng. Năm 1992, các đệ tử của Đức Karmapa thứ 16 theo chỉ dẩn mật trong Lá Thư Tiên Tri đã tìm ra Apo Gaga là Đức Karmapa thứ 17, hiệu Ogyen Drodul Trinley Dorje. Cùng năm đó, Đức Karmapa thứ 17 trở về Tu Viện Tolung Tsurphu ở Miền Trung Tây Tạng. Ngài là Lạt Ma cao cấp duy nhất được cả Đức Đạt Lai Lạt Ma và chính quyền Trung Quốc công nhận là hóa thân của Đức Karmapa thứ 16, người lãnh đạo của phái Hắc Mạo (Karma Kagyu) Phật Giáo Tây Tạng.
Sau nhiều tháng chuẩn bị kỹ lưỡng, vào ngày 28 tháng 12 năm 1999, Vị Karmapa 14 tuổi nại cớ nhập thất, đã bí mật rời tu viện Tsurphu cùng vài người cận sự. Ngài bắt đầu một cuộc hành trình táo bạo bằng xe hơi, ngựa, trực thăng, tàu lửa và taxi. Ngày mồng 5 tháng Giêng năm 2000, Ngài đến Dharamsala, nơi đây Ngài đã gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài nhận được quy chế tỵ nạn của chính phủ Ấn Độ vào năm 2001.[i]
============
[i] His Holiness the 17th Gyalwang Karmapa: http://www.kagyuoffice.org/karmapa.html
http://www.art2all.net/anh/vovancan/...haramsala.html
-
[PDF]Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên 印光法師 嘉言錄續編
ftp.budaedu.org › ebooks › pdf
Do vậy, đức. Thích Ca Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác đã than rằng: “Lạ thay! .... Hoàng là một khoáng chất có màu vàng, mềm, dễ nghiền thành bột. ...... công nhận Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A Di Đà Phật, Karmapa tự xưng là hóa.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI176-1.pdf
-
[PDF]Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên 印光法師 嘉言錄續編
ftp.budaedu.org › ebooks › pdf
Do vậy, đức. Thích Ca Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác đã than rằng: “Lạ thay! .... Hoàng là một khoáng chất có màu vàng, mềm, dễ nghiền thành bột. ...... công nhận Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của A Di Đà Phật, Karmapa tự xưng là hóa.
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI176-1.pdf
-
0M AH HUNG GURU DEWA DAKINI SAPARIWARA
RATNA MANDALA PUJA MEGHA AH HUNG
唵阿吽 咕如 喋瓦 达克尼 萨帕利瓦惹
http://www.guanyin123.com/cfzd.htm
-
-
Lạt ma có 2 dạng là lạt ma tăng và lạt ma cư sĩ. Ông này trước là lạt ma tăng cấm cưới vợ nên ông ta hoàn tục không còn là lạt ma tăng nửa mà thành lạt ma cư sĩ. lạt ma cư sĩ được cưới vợ bình thường, ông vẫn được giảng dạy làm các công tác lạt ma nhưng sẽ không còn đãm nhiệm 1 số chức vụ lãnh đạo lạt ma mà chỉ có lạt ma tăng đươc làm
ổng hoàn tục làm lạt ma cư sĩ. để trở thành lạt ma tu luyện cực khó mất rất nhiều thời gian. Giờ ông này vẫn làm lạt ma thôi nhưng không làm các công tác quan trọng nửa
https://forums.voz.vn/showthread.php?t=5957717&page=5 / https://forums.voz.vn/showthread.php?t=5957717&page=10
-
Om Ah Hung 嗡 啊 吽 (3 times 念诵三次)
Om Bendza Bhu-Mi Ah-Hung
Om Vajraground Ah Hung
嗡 金刚地基 啊 吽
Wang-Chen Ser-Gyi Sa-Zhi
Here Is The Mighty And Powerful Base Of Gold
奇妙黄金宝地
Om Benza Re-Ke Ah-Hung
Om Vajraline Ah Hung
嗡 金刚围篱 啊 吽
https://www.thek.us/syr/pdf/Lama_Chopa.pdf
-
【附錄四】三十七支供養
0M BENZAR BHUAI AH HUNG
大自在金剛地基(寬廣有力的純凈金 地基)
OM BENZAR REKHE AH HUNG
71「圓滿戒律咒」念誦如下:唵、阿牟 嘎悉拉、桑巴熱、桑巴熱、巴熱、巴 、瑪哈序達、薩朶、貝瑪、比布希迭 布雜、達惹、達惹、薩曼塔、阿瓦婁 克德、吽、呸、梭哈。(OM AMOGASHILA SAMBHARA SAMBHARA BHARA BHARA MAHASHUDHA SATO PEMA BIBHUKSHITE BHUDZA DHARA DHARA SAMANTHA AVALOKITE HUNG PHET SOHA)
https://www.getit01.com/p201806042644211/
-
ཨ་ཱ་་བ་་་ ་སིི་ཱ嗡阿吽班雜咕 貝瑪斯地吽OM AH HUNG BANZRA GURU PEMA SIDDHI HUNG每唸一百遍間隔,又如前一樣誦" 尊上师蓮師寶"如是唸誦到一半時, 〔如修一百萬遍蓮師心咒,誦道五十 時〕再祈求悉地時,每唸一百遍蓮師 咒中間誦“我無其餘希求處”等一遍 。For every 100 guru mantra recitations, repeat again from " JE TSUN GU RU RIN POCH’E"until you have completed 500,000 recitations, then move forward to the following verses of beseeching siddhi(from "DAG LA RE SA..." to " DRIB NYEE JONGSHIG..."), come back to 100 guru mantra recitationsfollowed by the verses of beseeching siddhi. Repeat this cycle until all 1,000,000 guru mantra recitations are completed.
https://edoc.pub/longnying-ngondro-short-pdf-free.html
-
-
-
Bài Quy y của Đại sư Garchen Rinpoche
Con xin quy y nơi chúng sinh – giống như là mặt đất.
Con xin quy y mọi truyền thống tâm linh – giống như là thực vật, hoa và cây cối.
Con xin quy y các đệ tử dòng Gelug – đứng [vững chãi] như một thân cây.
Con xin quy y các đệ tử dòng Sakya – giống như là các nhánh.
Con xin quy y các đệ tử dòng Nyingma – giống như là những bông hoa.
Con xin quy y các đệ tử dòng Kagyu - giống như là trái [chín].
Con xin quy y nơi Hóa thân – giống như cơn mưa phùn [đổ xuống].
Con xin quy y nơi Báo thân – giống như những đám mây.
Con xin quy y nơi Pháp thân – giống như không gian [vô cùng tận].
Quán tưởng: Trong thể tánh Pháp Thân giác ngộ như không gian không có trung tâm và biên địa, cuồn cuộn những đám mây Báo Thân – hiện thân của sự hóa hiện tự nhiên không ngừng dứt của lòng bi mẫn vô hạn. Từ đó, một cơn mưa phùn của vô lượng hiện thân của Hóa Thân rơi xuống êm dịu. Những dòng [cam lồ] gia trì đổ xuống, chạm vào tâm của mọi chúng sinh sống trên mặt đất. Sau khi các tảng băng gông cùm tâm của tất cả các chúng sinh không sót một ai bị tan chảy, tâm như nước của họ hòa với đại dương, chuyển hóa thành hơi nước và những đám mây, và sau đó trở thành một với Pháp Thân như không gian của đạo sư. Suy ngẫm về điều này, tụng bài quy y này với lòng sùng mộ sâu sắc.
Bài quy y này do đại sư Garchen Rinpoche trước tác vào năm 2013 tại Garchen Buhhist Institute, Hoa Kỳ.
KOD dịch Anh-Việt (tháng 2 năm 2019)
https://www.facebook.com/Garchen-Vie...6573770943222/
-
Bài Quy y của Đại sư Garchen Rinpoche
Con xin quy y nơi chúng sinh – giống như là mặt đất.
Con xin quy y mọi truyền thống tâm linh – giống như là thực vật, hoa và cây cối.
Con xin quy y các đệ tử dòng Gelug – đứng [vững chãi] như một thân cây.
Con xin quy y các đệ tử dòng Sakya – giống như là các nhánh.
Con xin quy y các đệ tử dòng Nyingma – giống như là những bông hoa.
Con xin quy y các đệ tử dòng Kagyu - giống như là trái [chín].
Con xin quy y nơi Hóa thân – giống như cơn mưa phùn [đổ xuống].
Con xin quy y nơi Báo thân – giống như những đám mây.
Con xin quy y nơi Pháp thân – giống như không gian [vô cùng tận].
Quán tưởng: Trong thể tánh Pháp Thân giác ngộ như không gian không có trung tâm và biên địa, cuồn cuộn những đám mây Báo Thân – hiện thân của sự hóa hiện tự nhiên không ngừng dứt của lòng bi mẫn vô hạn. Từ đó, một cơn mưa phùn của vô lượng hiện thân của Hóa Thân rơi xuống êm dịu. Những dòng [cam lồ] gia trì đổ xuống, chạm vào tâm của mọi chúng sinh sống trên mặt đất. Sau khi các tảng băng gông cùm tâm của tất cả các chúng sinh không sót một ai bị tan chảy, tâm như nước của họ hòa với đại dương, chuyển hóa thành hơi nước và những đám mây, và sau đó trở thành một với Pháp Thân như không gian của đạo sư. Suy ngẫm về điều này, tụng bài quy y này với lòng sùng mộ sâu sắc.
Bài quy y này do đại sư Garchen Rinpoche trước tác vào năm 2013 tại Garchen Buhhist Institute, Hoa Kỳ.
KOD dịch Anh-Việt (tháng 2 năm 2019)
Quý đạo hữu đang cần:
Sa-zhi ta-bu sem-chen nam la kyab-su chi-o
Tsi-shing ta-bu cho-luk nam la kyab-su chi-o
Dong-po ta-bu ge-lug-pa la kyab-su chi-o
Yal-ga ta-bu sa-kya-pa la kyab-su chi-o
Me-tok ta-bu nying-ma-pa la kyab-su chi-o
Dre-bu ta-bu ka-gyu-pa la kyab-su chi-o
Char-pa ta-bu trul-pe ku la kyab-su chi-o
Trin-pa ta-bu long-cho dzok-kur kyab-su chi-o
Nam-kha ta-bu cho-kyi ku la kyab-su chi-o
https://www.facebook.com/Garchen-Vie...6573770943222/